Ðề tài: Các Loại YoGa
Xem bài viết đơn
  #6  
Old 05-04-2008, 02:39 PM
ngoctulaa's Avatar
ngoctulaa ngoctulaa is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: Mar 2008
Đến từ: Nơi có Tình Yêu em dành cho anh
Bài gởi: 617
Thời gian online: 56
Xu: 0
Thanks: 0
Thanked 27 Times in 16 Posts
CHƯƠNG THỨ NHÌ

CÓ BAO NHIÊU THỨ YOGA ?
- Có bao nhiêu thứ Yoga ?
- Yoga là một danh từ tổng quát, phải thêm một danh từ khác nữa trước chữ Yoga mới biết Yoga đó thuộc về loại nào.
Tỉ như : Karma Yoga, Hatha Yoga.
Không biết thật đúng có bao nhiêu thứ Yoga. Hiện thời người ta biết mười một thứ Yoga như :
1- Hatha Yoga.
2- Karma Yoga.
3- Jnana Yoga.
4- Bhakti Yoga.
5- Laya Yoga.
6- Mantra Yoga.
7- Kriya Yoga.
8- Shiva Yoga.
9- Yantra Yoga.
10- Mudra Yoga.
11- Raja Yoga.
Nhưng ông P. Brunton có nói, trong lúc ông đi du lịch đặng tìm Ðạo, ông gặp nhiều phái Yoga khác, hành giả luyện tập một cách kín đáo nên ít ai biết .
- Mười một thứ Yoga nầy khác nhau thế nào ?
Tôi xin nói vắn tắt vài lời về mỗi thứ mà thôi. Nếu huynh muốn rõ những chi tiết xin đọc những quyển riêng giải về khoa đó.
1- HATHA YOGA.
Hatha Yoga là một khoa luyện Âm Dương hiệp nhất. Nó giống khoa luyện Khí công của người Tàu.
Vần HA tiêu biểu cho Mặt Trời là Dương.
Vần THA tiêu biểu cho Mặt Trăng là Âm.
Khoa nầy dùng cách hô hấp và phương pháp thể dục để thâu thập sinh lực vô mình. Có thể gọi nó là Khoa Luyện Trường Sanh.
Còn ba khoa Karma Yoga, Jnana Yoga, Bhakti Yoga mà khoa Triết Học Aán gọi là ba Margas hay là ba Con Ðường (trois sentiers).
2- KARMA YOGA.
Là con đường Hành động (Sentier de l’action).
3- JNANA YOGA.
Là con đường Minh Triết (Sentier de la Sagesse).
4- BHAKTI YOGA.
Là con đường Sùng Tín (Sùng Ðạo) hay là con đường của Tình Thương (Sentier de l’amour).
5- LAYA YOGA.
Cũng gọi là Kundalini Yoga vì Yoga nầy chuyên lo mở luồng Hỏa Hầu Cung đa li ni, nó ảnh hưởng tới các Luân Xa (les Chakras).
6- MANTRA YOGA.
Dùng Thần Chú đặng làm cho cái Trí trở nên yên tịnh và còn nhiều sự hữu ích khác.
7- KRIYA YOGA.
Tu theo cách khổ hạnh nhưng cũng học hỏi, cũng thờ phượng, cũng hiến dâng vậy.
Kriya Yoga có vài chỗ giống như Hatha Yoga. Nó cũng dùng phương pháp luyện tập thể dục làm căn bản, nó nhắm vào sự làm chủ giác quan, nhờ thế mới điều khiển sự hô hấp dễ dàng. Người ta biết rằng nhịp thở tùy thuộc những trạng thái của Tâm Thức. Lúc giận hờn, sợ sệt, vui mừng, nhứt là lúc dục tình sôi nổi thì thân mình run rẩy, hơi thở hổn hển mau lẹ. Nếu lúc đó định trí thì hơi thở chậm đi, thân mình trở lại yên tịnh như trước.
Trong quyển Autobiographie d’un Yogi của tu sĩ Paramhansa Yogananda, Cử nhân Văn khoa, huynh Nguyễn hữu Kiệt dịch ra để tên là Xứ Phật Huyền Bí nơi trương 174 - 175 có một đoạn nói về Pháp môn Kriya Yoga như sau :
“Người Yogi dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung Hoàng Ðạo, tượng trưng vũ trụ trong con người (Tiểu Thiên Ðịa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn Kirya Yoga giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa thông thường.
Một lần phép công phu Kriya Yoga thực hiện trong vòng một ngày đem đến cho người Yogi một sự tiến hóa tâm linh tương đương với một ngàn năm tiến hóa tự nhiên và công phu của một năm tu luyện sẽ đưa đến kết quả bằng 365.000 năm. Như thế, pháp môn Kriya Yoga giúp cho hành giả thực hiện trong ba năm tu luyện công phu, một sự tiến bộ vượt bực mà theo đà tiến hóa tự nhiên, nó phải cần đến 10.000 thế kỷ. Tuy nhiên muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriya Yoga, chỉ có những người Yogi đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị Chơn Sư, nhờ đó họ chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh, khả dĩ tiếp nhận cái quyền năng phát triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên”.
Kriya Yoga tăng tuổi thọ và mở rộng tâm thức, nó kiểm soát trực tiếp tinh thần nhờ sanh lực. So sánh với con đường chậm chạp và không chắc chắn của Thần học (Théologie) thì Kriya Yoga giống như chiếc máy bay với cổ xe ngựa đời xưa.
Ðọc đoạn trên đây, chắc chắn tất cả bạn Ðạo đều muốn theo pháp môn Kriya Yoga. Nhưng quí bạn hãy đọc đoạn chót và suy nghĩ kỹ lưỡng mấy câu sau đây :
“Chỉ có những người Yogi thuần thục đã được huấn luyện dưới sự chỉ dẫn của các vị Chơn Sư”.
Vậy thì trước khi thực hành pháp môn Kriya Yoga chúng ta phải tự hỏi chúng ta đã thành những vị Yogi chính tông chưa ? Ðược Chơn Sư huấn luyện chưa ? Nếu chưa thì đừng tập. Phương pháp nầy sẽ làm cho luồng Hỏa Hầu đi như tôi đã nói trước đây : Luồng Hỏa vô trong và đi xuống thì cũng bị tai hại, mà nó đi lên cũng bị tai hại nếu lòng còn mơ tưởng nguyệt hoa.
Ðiều hay hơn hết là phải lo :
- Lánh dữ,
- Làm lành,
- Rửa lòng trong sạch đặng phụng sự như lời Phật dạy, khỏi sợ những sự nguy hiểm nào cả.
Một lẽ nữa, Paramhansa Yogananda tu theo pháp môn Kriya Yoga đã lâu rồi mà chưa đắc đạo thành chánh quả làm một vị Siêu Phàm A Sơ Ca (Aseka). Bao nhiêu đây cũng đủ để thấy dầu ly gia cắt ái như huynh Yogananda cũng không phải dễ mà thực hiện cho đúng pháp môn Kriya Yoga đâu.
Vì vậy chớ ham luyện tập theo Huyền Bí Học trong khi mình chưa hội đủ điều kiện đặng làm một vị Yogi.
Tôi xin nói Kriya Yoga nầy khác hẳn Kriya Yoga trong quyển Những cách ngôn về Yoga của Patanjali (Les Aphorismes du Yoga de Patanjali).

8- SHIVA YOGA.
Shiva Yoga dùng nguyên tắc Siêu hình học.
9- YANTRA YOGA.
Tham thiền về ý nghĩa thần bí của vài thứ hình của Kỷ Hà Học .
10- MUDRA YOGA.
Dùng ấn và chú.
11- RAJA YOGA.
Raja Yoga : Yoga Vương Giả, là Chúa Tể các thứ Yoga. Nó cao hơn hết. Nó chia làm tám giai đoạn hay là tám thời kỳ tập sự.
Thời kỳ thứ nhứt : Yama (Da ma).
Thời kỳ thứ nhì : Niyama (Ni da ma).
Thời kỳ thứ ba : Asana (A sa na) : Tư thế.
Thời kỳ thứ tư : Pranayama (điều tức ) : Kiểm soát sanh lực Prana.
Thời kỳ thứ năm : Pratyahara : Kiểm soát giác quan
Thời kỳ thứ sáu : Dharana (Ða ra na) : Ðịnh trí.
Thời kỳ thứ bảy : Dhyana : Tham thiền.
Thời kỳ thứ tám : Samadhi (Sa ma đi) : Ðại định, Xuất thần.
Ba thời kỳ chót : thứ sáu, thứ bảy và thứ tám là SAMYAMA.

1-YAMA : Giới.
Yama gồm năm giới :
1- Không làm hại người và vật, không hung bạo từ trong tư tưởng, ý muốn, cho tới lời nói, việc làm.
2- Chơn thật, không nói dối bất câu dưới hình thức nào.
3- Ngay thật, không trộm cắp.
4- Trinh khiết, tuyệt dục từ trong tư tưởng.
5- Nghèo, thanh bần, không vì tư lợi.

2- NIYAMA : Qui Luật.
Niyama gồm năm điều :
1- Sancha : Trong sạch trong tất cả, từ trong thâm tâm cho tới bên ngoài, y phục, xác thân.
2- Santasha : An phận.
3- Tapas : Khổ hạnh, tự nghiêm khắc với mình.
4- Svadhyaya : Phát triển bản ngã, kỷ luật tư tưởng, làm chủ cái trí.
5- Ishvara Pranidhana : Tư tưởng luôn luôn hướng về Thượng Ðế, có thể nói là chiêm ngưỡng Ðức Thượng Ðế (Cung hiến).
3- ASANA : Tư thế.
4- PRANAYAMA : Ðiều tức.
Về phương diện thực tập là sự kiểm soát sanh lực Prana, sự điều khiển cách thở.
5- PRATYAHARA.
Là quyền năng ngăn ngừa cái Trí khỏi bị ảnh hưởng những cảm giác của xác thịt.
6- DHARANA : Ðịnh Trí.
7- DHYANA : Tham Thiền.
8- SAMADHI : Ðại Ðịnh , Xuất thần.
Trong Ðạo Ðức phải nhiều năm Tham Thiền rồi mới đi tới Ðại Ðịnh. Lúc nầy hành giả bỏ xác thân lên mấy cõi cao, xác thân mê man không còn biết cảm giác chi nữa. Nhưng mà chừng trở về nhập xác, hành giả nhớ hết những điều đã kinh nghiệm.
Ở ngoài đời, các nhà khoa học, các nhà bác học cũng phải Ðại Ðịnh vậy. Nhưng họ chuyên lo các vấn đề vật chất thuộc về bên ngoài.
Tuy nhiên người học Ðạo có thể Ðại Ðịnh trong một mức độ nhỏ bé là :
Ngày đêm cứ thấy mình quì dưới chơn Sư Phụ hoặc dưới chơn Ðức Bồ Tát hay là Ðức Phật

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HATHA YOGA (LUYỆN KHÍ CÔNG)
và RAJA YOGA (YOGA VƯƠNG GIẢ)
- Có sự khác biệt giữa Hatha Yoga và Raja Yoga không ?
- Có, nhưng muốn thật hiểu thì trước hết ta nên nhớ kỹ những điều sau đây: (xin nhắc lại).
Thật Ta là Chơn Nhơn, Chơn Ngã hay là Linh Hồn. Ta có thể xác bao bọc, nhờ những thể xác nầy Ta mới hành động được ở mấy cõi Trời.
Luôn luôn có sự liên quan mật thiết giữa Ta và những thể của Ta. Mỗi sự rung động của Vật chất cấu tạo những thể đều biến đổi Tâm Thức, mà mỗi sự biến đổi của Tâm Thức cũng sanh ra một sự rung động trong Vật chất cấu tạo mấy thể.
Hatha Yoga và Raja Yoga đều lợi dụng sự tương quan nầy.

H A T H A Y O G A.
Hatha Yoga chế ngự xác thịt, làm phát triển một số cơ quan điều khiển những lực ở trong mình. Nhờ vậy mà hành giả có vài quyền năng mà người đời cho là phi thường.
Xưa kia, cơ quan của bộ tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp, bài tiết như tì, vị, tim, phổi, thận, bàng quang, tiểu trường, đại trường đều thuộc về quyền kiểm soát của Tâm Thức. Người luyện Hatha Yoga dùng ý chí kiểm soát lại những cơ quan nầy. Khi thành công rồi họ có thể làm cho trái tim ngừng đập mà không chết.
Có vị cho chôn sống từ ba tháng tới hai, ba năm tùy theo công phu luyện tập. Ðào lên thì họ sống lại, xác họ không rã như xác thường.
Có vị nuốt đinh sắt, miểng chai, uống ắc xít mà vẫn trơ trơ.
Hatha Yoga làm cho cái Vía hoạt động, nhưng sự khuyết điểm lớn lao của nó là khởi đầu ở tại cảnh thấp hơn hết. Nó kích thích những cơ quan của xác thịt và của cái Vía mà không ảnh hưởng chi tới phần đối chiếu trong hai thể nầy trong hai thể cao là Thượng Trí và Bồ Ðề. Sự hành động của nó bị hạn chế.
Mà cái nguy hiểm đáng sợ hơn hết là Hatha Yoga kiếm thế kiểm soát những sự rung động của Vật chất đặng tạo ra sự biến đổi trong Tâm Thức.
Nhưng mà Vật chất vẫn cứng rắn, khó ép buộc nó phải theo chiều hướng của ta muốn. Hãy đề phòng : Sự cố gắng có thể làm cho tê liệt hay làm cho teo lại một vài cơ quan mà sự hoạt động rất cần thiết cho sự biến đổi Tâm Thức như : não tủy thần kinh, hạch mũi [6] , hạch óc. Vì vậy mà các nhà Huyền Bí Học chỉ luyện tập Raja Yoga chớ không luyện Hatha Yoga.

MỘT SỰ BIỂU DIỄN PHI THƯỜNG.
Trong tạp chí Người Thông Thiên Học (The Theosophist), tháng năm, năm 1922 có đăng một bài tường thuật của Ðức Bà A. Besant về quyền năng của ông Swami Sitaramji tóm tắt như sau đây :
�Cách đây vài tuần, ông Swami Sitaramji có ghé viếng Adyar, ông là một trong những người Aán có những quyền năng truyền tử lưu tôn, khẩu khẩu tương truyền từ đời nầy qua đời kia. Ông Swami Sitaramji nói rằng : Ông vào rừng tu luyện phép Sarvabhakshatvam là quyền năng ăn được tất cả mà không hề chi.
Dưới đây là chứng thư của bác sĩ T.S. Tirumurti cấp cho ông :
Ngày 12 tháng 9 năm 1921.
Ông Swami Sitaramji có biểu diễn những quyền năng của ông tại rạp hát của Dưỡng đường Trung Ương, trước mặt những vị y sĩ giải phẫu, những y sĩ và sinh viên y khoa, ông thực hành những điều sau đây :
1- Aên miểng chai.
2- Aên những đinh sắt.
3- Aên những sọ dừa.
4- Aên những miếng cây.
5- Aên một con bọ cạp.
6- Uống ắc xít A zô tít (Acide azotique).
7- Aên những đá sỏi.
8- Aên Acenít (phụ tử)
9- Uống thủy ngân.
10- Nhai nuốt những cục than cháy đỏ.
11- Uống chì nấu chảy ra nước.
Xong rồi người ta đem rọi kiếng ông, chụp hình và giao cho ông tấm hình đã rửa.
T.S. Tirumurti.
3e Médecin Hôpital Général A. Lakshmipathy
B.A.M.B. et C.M.
Ngày 14 tháng 9 năm 1921, người ta rọi kiếng thấy những vật ông nuốt biến thành những hạt nhỏ và những mảnh. Ông nói : “chúng lần lần tiêu mất hết.”

R A J A Y O G A.
Ta biết rằng bảy thể của con người liên quan mật thiết với năm cõi Trời.
1-2 : Xác thịt và cái Phách, liên quan mật thiết với cõi Trần hay là Hạ Giới.
3 : Cái Vía, liên quan mật thiết với cõi Dục Giới hay là cõi Trung Giới.
4 : Cái Trí, liên quan mật thiết với cõi Hạ Thiên, tức là bốn cảnh thấp của cõi Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ.
5 : Thượng Trí, liên quan mật thiết với cõi Thượng Thiên tức là ba cảnh cao của cõi Thượng Giới hay là cõi Trí Tuệ.
6 : Kim Thân hay Thể Bồ Ðề, liên quan mật thiết với cõi Bồ Ðề cũng gọi là cõi Trực Giác.
7 : Tiên Thể hay là Thể Thiêng Liêng, liên quan mật thiết với cõi Niết Bàn hay là cõi Thiêng Liêng.
Nhờ sự liên quan mật thiết nầy mà ta:
a- Mới dùng Xác thân và cái Phách để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Trần được (Hạ Giới).
b- Dùng cái Vía để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Dục Giới (Trung Giới).
c- Dùng Hạ Trí để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Hạ Thiên.
d- Dùng Thượng Trí để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Thượng Thiên.
e- Dùng Kim Thân để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Bồ Ðề.
f- Dùng Tiên Thể để học hỏi và kinh nghiệm ở cõi Niết Bàn.
Muốn cho sự học hỏi và kinh nghiệm có kết quả tốt đẹp thì trước hết bốn thể thấp : Thân, Phách, Vía, Hạ Trí phải được tinh khiết bởi vì chúng là những cửa sổ mở ra để cho ta quan sát cảnh vật ở bên ngoài. Chúng phải trống trải mới được. Nếu chúng bị những bức màn giăng ngang thì ta không thấy rõ. Vạn vật đối với ta đều biến đổi màu sắc và hình thù. Ðiều nầy không khác nào ta mang kiếng màu mà xem một bức tranh.
Trái với Hatha Yoga, tập luyện theo phương pháp Raja Yoga thì sinh viên dùng ý chí kiểm soát những sự biến đổi của Tâm Thức và chế ngự được ba thể : Thân, Vía, Trí. Chúng nó ở dưới quyền sai khiến của sinh viên và trở nên lành mạnh tốt đẹp, linh mẫn.
Trước kia chúng cám dỗ và quyến rủ con người vào đường tội lỗi, bây giờ đây chúng trở nên những đứa tớ thành thật, trung tín lo phục vụ con người và không còn ương ngạnh như xưa. Nhờ thế Tâm Thức cao siêu mới mở mang mau lẹ và thay thế Tâm Thức tầm thường của con người. Sinh viên sống một đời sống tinh thần cao thượng và bước tới cửa Ðạo dễ dàng.
Nói tóm lại, Raja Yoga đem lại những lợi ích cho con người chớ không có những mối nguy hại như Hatha Yoga.
HAI THÍ DỤ VỀ VIỆC NÍN THỞ.
Các Thầy Bùa đều dặn lúc vẽ bùa phải nín thở mới có hiệu nghiệm. Họ không biết khi nín hơi thở thì cái Trí yên lặng, tức là Ðịnh Trí. Phải Ðịnh Trí thì tư tưởng sanh ra mới mạnh mẽ.
Phương pháp nín thở thuộc về khoa Luyện Khí Công Hatha Yoga.
Theo Raja Yoga phải chú ý vào công việc đang làm thì cái Trí không xao lãng. Ðịnh Trí cách nầy rất dễ, không nín thở. Nín thở thì mệt lắm, có khi mạch máu nhỏ trong phổi yếu thì nó bị đứt, hành giả khạc ra máu rất nguy hiểm. Ai biết chắc các mạch máu nhỏ trong phổi của mình mạnh hay yếu và lúc nào nó mạnh, lúc nào nó yếu mà đề phòng. Thế nên phải thận trọng (xin đọc chuyện huynh Brahma thuật lại cho ông P. Bruton nghe).
Khi tham thiền đúng phép thì hơi thở nhẹ lần rồi tới một lúc kia nó dứt hẳn mà hành giả không chết, chừng giựt mình mới thở lại. Ai kinh nghiệm rồi thì biết
Tài sản của ngoctulaa

Chữ ký của ngoctulaa
[SIZE="6"][COLOR="Blue"] nhớ nhà[/COLOR][/SIZE]
Trả Lời Với Trích Dẫn