Nó sinh cùng ngày với tôi. Nó vừa lọt lòng thì mẹ nó chết. Thương con đỏ hỏn khát sữa, bà tôi bồng nó về cho má tôi nuôi. Đến ngày nó lẫm chẫm biết đi, cha nó ở làng cá ra xin đưa nó xuống nhà bè. Hồi đó tôi còn nhỏ chẳng biết gì. Chỉ đến khi nghe chuyện thì đã thấy người trong vùng gọi tôi và nó là hai trẻ sinh đôi. Tôi tên Hương. Cha nó chẳng hiểu sao trong lúc quẫn trí lại gọi nó là con Bần. Bà tôi cúng quẩy đổi Bần thành Bân - một cái tên lành hiền, dìu dịu. Bấy nhiêu năm, nó gắn bó với tôi bởi mối tình thân kỳ lạ - không là bạn bè cũng chẳng phải là chị em.
Cha con nhà Bân sống ở cái làng trên nước. Mùa khô, những căn nhà bằng gỗ, cá ở với người trôi dạt ra giữa lòng hồ, đợi mùa nước về lại thả neo gần bến. Thỉnh thoảng cha nó lọc cọc đèo nó trên cái xe đạp cổ lỗ vào thị xã thăm bà tôi, không quên cài vào tay lái một cái bị cói nước nhỏ tong tỏng, bên trong lèn chặt vài con cá béo ụ bị ướp đá. Mặc dù ăn không biết chán món canh cá nấu chua thế nhưng lần nào Bân vô, tôi cũng ôm cứng cây cột nhà, khăng khăng không ra chơi với nó. Chỉ đến lúc cha nó dắt xe về, tôi mới từ sau lưng má mình lấm lét ngó theo vệt áo vải nhuộm nâu bé bỏng ngất ngưởng trên xe, biết rằng lát nữa bà với má sẽ giận tôi, rất lâu.
Học hết lớp một tôi bắt đầu biết đọc sách. Suốt ngày, tôi như con chó luẩn quẩn theo chân người nhà, bắt tất cả phải lắng nghe những câu chuyện ngớ ngẩn in bằng chữ to tướng. Ngán ngẩm và nắm thóp cái tính cấc láo của tôi, má đưa tôi ra làng trên nước. Ở đấy tôi đã bầy chữ cho con em sinh đôi của mình.
Sống trong nhà bè bằng gỗ cô quạnh ở cuối làng nổi, Bân là một đứa hiếm lời, cả buổi lầm lụi trong bếp lo thức ăn cho lũ cá dưới bè. Những ngày mưa gió dầm dề, học bài xong, nó lại co ro nơi góc nhà. Gầy còm và đen thủi, nó trông giống của tam thất mà bà tôi quý báu cất kỹ trong rương. Đến bữa nó đâm một chén muối ớt đỏ bầm, đặt trước mặt cha nó. Cha nó chiêu từng chung rược nhỏ, bập vài hơi thuốc, đôi mắt trầm ngâm nhìn vào ngọn lửa. Nó đẩy về phía tôi chén canh cá. Gió từ đâu về đong đưa căn nhà gỗ, làm sóng sánh chén canh đang bóc khói mờ. Sau mưa, trời nước thẫm đen. Nó thắp một ngọn đèn dầu ở ngoài bè, đợi cho tôi đọc những mẩu chuyện về gà và cáo, cây tre và sọ dừa... Trong ánh sáng yếu ớt run lên bần bật, mắt nó đôi khi loé lên rồi lại âm ỉ như hai cục than trong hốc mắt. Phía làng trên, dăm ba căn nhà đốt đèn măng sông, ánh sáng vàng nhợt hắt xuống mặt hồ. Nhiều năm sau, dù nó đã học thông được sách, nhưng những ngày tôi được về nhà nó, hai đứa lại thắp đèn. Bằng giọng lào thào khàn đục vì lạnh, tôi kéo nó vật vờ lang bạt trên khắp thế gian. Trời đầy sao để nước cũng đầy sao. Hai đứa sinh đôi nằm ở ngoài hè, nghe dưới kia cá đang quẫy nước. Trong nhà, cha nó ngồi với điếu thuốc vấn bẹp một đầu, thỉnh thoảng lại chấm vào khuya những chấm đỏ lập lòe. Sáng dậy múc nước rửa mặt tôi bỗng quay quắt nhớ câu ca dao hồi nào tôi học với Bân: “Mẹ ơi chum nước nhà ta. Đêm qua có bóng Hằng Nga soi mình”. Gần mé nước, Bân vừa băm xong mớ tép tôm làm thức ăn cho cá. Nó chỉ tay về phía xa tắp hừng đông, có lẽ hôm nay trời sẽ xanh đến chóng mặt đây.
Tôi đi học trên thành phố, nhớ nhà thì ít, nhớ những con thuyền gấp bằng giấy gói bánh rán loáng mỡ trôi lềnh bềnh trên nước thì nhiều. Hè về làng nổi, sau đợt bán cá, Bân dắt tôi đi chợ. Hai đứa khuân về vài bó chăn màn, ít dầu ít gạo, không quên cái chai đựng rượu cho ba nó. Tôi trách Bân vì mấy bộ áo nâu xẩm già trước tuổi, nó cười rồi cho tôi xem những ngón tay nhăn nheo, bợt bạt vì ngâm nước làm cá. Cha nó mua cái thuyền gỗ nhỏ. Chiều chiều, hai đứa trèo thuyền lên mạn hồ trên câu cá. Nhiều hôm vui tay để thuyền trôi xa, tôi bần thần cả buổi chiều chỉ vì mấy bụi hoa vàng chung chiêng giữa các khe đá mốc rêu. Biết ý tôi, nó cũng buông tay chèo, đăm đắm nhìn lòng hồ sâu. Có hôm đi xa bất thần sóng lớn, hai đứa cập vào bờ đá ngồi đợi mấy tiếng đồng hồ. Vốn mê tín, tôi thả hết chỗ các câu được. Thấy vậy Bân chỉ cười. Càng lớn, nó càng khô khan ít nói. Tối khuya hai đứa bắc nồi cháo xì xụp cùng nhau.
Cha Bân mỗi dạo tôi về thấy thêm gầy yếu. Ông nhìn tôi thương yêu, nụ cười heo héo: “Con lại về hả Hương?”. Lần ấy nó bảo riêng tôi: “Cha tao yếu lắm rồi. Bao nhiêu việc dở dang chưa làm được. Giờ cha tao cũng như con rùa lật ngửa mà thôi”. Tôi không dám nhìn vào đôi mắt nửa còn cháy bỏng nửa như tắt ngấm của nó. Sự thật để yên thì vẫn vậy, nói lên thành lời sao tôi thấy có gì bất nhẫn. Nước vào mùa cạn, nhà được kéo ra gần giữa hồ, vốn đã xa làng nay lại xa thêm.
Tôi nghỉ hè về nhà được mấy ngày. Bà tôi lầm rầm kể lại cho tôi nghe về cái đám ma buồn thảm của cha Bân cách đây mấy tháng. Biết tôi về, nó đạp xe vào thị xã đón tôi ra nhà bè như những năm tháng cũ. Nghe tiếng xe lóc cóc trên đường, tôi thót tim ngỡ như mình đang rất bé. Nó nhảy xuống dắt xe vào ngõ. Đi qua tuổi thiếu nữ mà dáng nó vẫn nhỏ thó, gầy còm.
Mấy ngày liền tôi với nó dọn nhà. Tần ngần mãi rồi hai đứa cũng phải gỡ những mẩu thuốc lá ngày nào cha nó hút xong dán đầy trên vách. Bân nhẩm tính ngày gọi người vào bán cá. Giữa trời nước mênh mông, viễn ảnh nó mồ côi một mình trong căn nhà gỗ ám đen thật ghê rợn. Tôi bảo nó về với bà tôi trong thị xã cho đỡ quạnh hiu. Nó nhìn tôi mà như không nghe thấy. Khuya, nó thắp ngọn nhang nơi đầu bè. Nằm ngủ, tôi nghe nó khóc, khóc rất thầm.
Hết hè, tôi về trường. Bân chở tôi ra bến xe. Nó hẹn :
- Khi nào mày về tao lại đón mày ra nhà tao chơi, nghen!
- Mày không ở với bà tao sao? - Tôi cuống quít.
- Không. Nhà tao trên nước lâu rồi. Sống một mình cực nhưng cũng phải quen. Với lại cha tao nếu có về thăm chắc cũng chỉ ra đó... - Nó quay đi, buông lơi câu nói dở dang.
Tôi lên chuyến xe đò cuối cùng của ngày trở về thành phố.
Trân châu và mắt cá giống nhau - giống nhau như hai chị em sinh đôi vậy. Thế nhưng trân châu khiến người đời nâng niu bởi cái ánh sáng trong bền bỉ của riêng mình. Hình như ai cũng biết điều đó.