Hồi 40
Mộ Dung Phi đã đoán hai người này chức vị tất ở dưới mình nên lại càng tăng thêm can đảm, bèn lên mặt hống hách hỏi:
- Các ngươi đã là môn hạ Nam Cung thế gia, sao trông thấy bản tọa lại không xưng danh báo chức?
Hai người áo đen đưa mắt nhìn nhau rồi chợt cùng đưa tay lên, kéo mảnh khăn đen che mặt xuống. Mộ Dung Phi chú ý nhìn thấy người bên trái tuổi còn rất trẻ, mày rậm mắt to thủng thỉnh nói:
- Trương Phong, thuộc hạ Địa Cương.
Người bên phải hơi lớn tuổi hơn, cười nói:
- Vương Vĩnh Hào, môn hạ Địa Linh.
Mộ Dung Phi cười ha hả đứng phắt dậy, mới đầu hắn tưởng hai tên này là người trong “Thất thập nhị địa sát” đã biết rõ hành vi bất trung của hắn, nên theo dõi đến đây mới sợ hoảng hốt đến thế, lúc này biết mình đoán lầm trong bụng đã vững, bèn cười nói:
- Hai ngươi đến đây để đón bản tọa phải không?
Vương Vĩnh Hào cười hì hì nói:
- Chính là đến đón các hạ và luôn tiện đưa các hạ quy thiên.
Mộ Dung Phi tái mặt nói:
- Gì? Ngươi nói cái gì?
Vương Vĩnh Hào nói:
- Thượng cấp đã dặn rằng:bất cứ gặp các hạ ở đâu đều phải tiễn các hạ sang Tây Thiên tức khắc.
Mộ Dung Phi trừng mắt quát:
- Hỗn láo! Bổn tọa một lòng tận trung với nhà Nam Cung thế gia cho tới giây phút này, lẽ nào thượng cấp lại dặn các ngươi như thế? Chắc các ngươi nghe lầm rồi!
Vương Vĩnh Hào toét miệng cười nói:
- Việc các hạ thượng cấp biết cả rồi, nếu không có các hạ dẫn đường thì hai người kia làm sao lại trốn tới đây được?
Mộ Dung Phi chợt cười ha hả nói:
- Dù cho thế nữa thì hai người dám đấu thử với mỗ chăng?
Hắn cố làm vẻ cứng cỏi hách dịch, tỏ ra là mình vẫn uy phong như trước không ngờ gã họ Vương Vĩnh Hào lại cười sằng sặc nói:
- Uy danh của ta so với Nam Hải Mộ Dung Phi cố nhiên cao thấp khác xa nhau lắm, nhưng trời cho đôi mắt ta không đến nỗi mù, nên ta coi tướng ngươi lúc này thật không đáng là địch thủ của ta!
Hắn nói xong, hai thân hình vạm vỡ đã bước xấn tới hai bên Mộ Dung Phi. Mộ Dung Phi hốt hoảng vội đứng lên, nhưng lại ngã phịch ngay xuống. Hai gã áo đen đồng thời rút dao ra chém tới, Mộ Dung Phi chỉ kịp rú lên một tiếng thê thảm, máu tươi tức thì bắn tóe lên như mưa.
Hai gã áo đen cầm dao lau vào đế giày cho sạch máu, chợt nghe trong miếu có tiếng ú ớ nói mê và tiếng rên rỉ lúc đứt lúc nối đưa ra. Hai người cùng chú ý nhìn vào, chỉ thấy một gã thiếu niên ăn mặc lối thư đồng nằm cong queo dưới đất, hai mắt nhắm nghiền, hai bàn tay trắng nõn cứ ôm lấy bụng mà xoa, miệng luôn luôn rên rỉ, cuộc chém giết vừa rồi hình như gã không biết gì hết.
Tuy gã mặc quần áo đàn ông nhưng lúc này vì lăn lộn mãi dưới đất, vạt áo quấn chặt vào người, nên ai để ý nhìn cũng nhận ra đó là một người con gái. Vương Vĩnh Hào đôi mắt trợn tròn, miệng há hốc. Trương Phong cũng cảm thấy bứt rứt cả người, Vương Vĩnh Hào lắp bắp nói:
- Chỉ…chỉ sợ đây…đây chính là Ngũ phu nhân nhà ta?
Trương Phong chỉ ậm ừ không đáp. Vương Vĩnh Hào vội kéo tay hắn nói nhỏ:
- Không được đâu, lỡ cấp trên biết thì chết!
Trương Phong chợt giằng tay ra gắt:
- Mặc kệ…
Rồi hắn xăm xăm bước lại gần nàng. Vĩnh Hào quát to một tiếng, phi thân đá vào thân hắn một cái bằng trời giáng, Trương Phong đang lúc thần hồn như si như dại thốt nhiên bị một cái đá bất ngờ, thân hình bắn cao lên mấy thước. Hắn gầm lên một tiếng, lại toan xông vào. Vương Vĩnh Hào nói:
- Ngươi đã muốn chết thì ta cùng chết một thể cũng được, nhưng ngươi định chiếm cả một mình thì không xong?
Trương Phong giận lắm quát:
- Đồ khốn! Ngươi phải nhường cho lão tử hưởng trước mới được!
Vương Vĩnh Hào cười khảy:
- Vì cớ gì ta phải nhường ngươi trước?
Trương Phong đáp:
- Vì cái này!
Nói xong giơ tay thoi một quyền vào giữa ngực gã họ Vương. Gã họ Vương ngồi thụp xuống tránh được một quyền, rồi lại dùng thế “Thu phong tảo lạc diệp” chân phải xoay tròn đi một vòng, quét ngang hai chân Trương Phong. Trương Phong không tránh, chỉ giơ quyền lên dùng thế “Thiết ngưu canh địa” đánh xuống, ”bịch” một tiếng quyền đã đánh trúng đầu vai của Vương Vĩnh Hào, đồng thời hai chân hắn cũng bị Vương Vĩnh Hào quét trúng, lập tức cả hai cùng ngã nhào xuống đất.
Hai gã áo đen toàn là chân nông phu chỉ quen đánh nhau bằng đòn cán, dao quắm. Lúc này chúng đã liều mạng một mất một còn đâu còn kể gì đến chiêu này thức nọ, nên đứng ngoài chỉ nghe thấy những tiếng đấm đá huỳnh huỵch, được cái da thịt họ đều dày dặn nên không ai đến nỗi bị thương.
Choảng nhau một lúc, cả hai đều thở hồng hộc như trâu, Vương Vĩnh Hào chợt quát to:
- Dừng lại!
Trương Phong vừa thở vừa nói:
- Dừng cái gì? Cứ đánh nữa đi, ai sợ?
Miệng tuy nói cứng, kỳ thực hắn cũng muốn dừng lại để thở một chút. Gã họ Vương nói:
- Chúng mình có đánh nhau mãi dù có chết cũng chẳng được ích gì, bất nhược chúng ta đánh cuộc bằng cách sai quyền, xem ai trước ai sau có hơn không?
Trương Phong nghe cũng có lý bèn nói:
- Hừ, sai quyền thì sai, tay này đâu có sợ!
Vương Vĩnh Hào gật đầu nói:
- Nghe ta đếm: Một, hai, ba thì cả hai cùng bắt đầu.
Trương Phong nói:
- Để ta nói: Một, hai, ba…
Tayhắn vừa đưa ra, Vương Vĩnh Hào thốt nhiên giơ chân móc một cái làm cho hắn ngã ngửa người ra. Trương Phong giận lắm, chửi:
- Đ… m…
Tiếng chửi chưa thốt ra hết cửa miệng, Vương Vĩnh Hào đã cưỡi lên lưng y xiết tay vòng vào cổ, cười nói:
- Đừng oán lão tử độc ác, chỉ nên oán ngươi dám đòi hưởng trước lão tử! Hà hà!
Hai tay hắn dần dần xiết chặt, Trương Phong trước còn cố chống cự vùng vẫy sau mãi cũng đuối sức, tuy nhiên hai tay hắn vẫn quờ quạng dưới đất như muốn bấu víu lấy vật gì. Gã họ Vương Vĩnh Hào mồ hôi cũng đầm đìa đầy trán, nhưng trên môi vẫn nở một nụ cười đanh ác. Lúc này bên ngoài song cửa đã lờ mờ có tia sáng chiếu vào, làm cho bộ mặt tái xanh của gã càng tăng thêm phần hung dữ.
Trương Phong đang quờ quạng dưới đất chợt ngón tay chạm phải một vật gì lạnh lạnh, thì ra gã đã với được thanh kiếm. Gã mừng lắm nhưng hai tay gã lúc này đã cứng đờ, không nắm vững chuôi kiếm mà hai mắt cũng hoa lên, không trông rõ gì nữa. Gã họ Vương đưa tay lên vuốt mồ hôi trán, thở ra một hơi dài, mắt hắn hết nhìn cái thây ma nằm dưới đất lại nhìn Tú Linh, miệng nhăn nhở cười một cách cực kỳ khả ố.
Hắn vừa đứng lên bước lại chỗ Tú Linh, chợt nghe bên tai nổi lên một tiếng quát sẽ, tức thì cả cái thân hình lực lưỡng của hắn đã bị văng vào một góc tường miếu. Bức tường trát đất lâu ngày đã vữa hết vôi, lúc này lại bị thân thể hắn đập vào làm cho bụi đất rơi lả tả, hắn chỉ kịp rú lên một tiếng thảm thiết, máu tươi phun ra như suối nằm chết ngay đơ dưới đất.
Trong ánh sáng ban mai, chỉ thấy Nhâm Vô Tâm vẻ mặt hầm hầm đứng bên cạnh Điền Tú Linh, lồng ngực vẫn còn phập phồng thở dốc. Chàng không hiểu sao sự thể lại diễn biến nhanh đến thế? Chàng chỉ nhớ rằng chàng vừa ngủ một giấc dài, lúc tỉnh dậy thì thấy không những thời gian địa điểm đều biến đổi khác hẳn, mà sức khỏe của chàng cũng hồi phục một cách rất nhanh chóng. Chàng nhìn Tú Linh nằm lăn lóc dưới đất với mấy cái xác chết, trong bụng cũng hơi lờ mờ đoán được một vài phần.
Giữa lúc đó Tú Linh cũng vừa chợt tỉnh dậy, nhưng thần trí của nàng hình như vẫn còn lơ mơ, chưa nhận thức được hoàn cảnh rõ rệt. Vừa trông thấy Nhâm Vô Tâm nàng chợt đứng vùng lên, rồi bất thình lình nhảy vụt ngay vào lòng chàng. Vô Tâm giật mình kinh sợ, vội giơ hai tay đón lấy tay nàng. Lúc đó chàng mới nhận ra toàn thân nàng nóng bỏng như lửa, lại thấy hai gò má nàng đỏ ửng, miệng vẫn rên rỉ nói mê.
Chỉ trong thoáng chốc, Vô Tâm đã hoảng nhiên tỉnh ngộ, chàng kinh sợ nghĩ thầm: “Sao nàng lại uống phải thứ thuốc bậy này?”
Chàng vừa nghĩ vừa lấy tay điểm vào ba huyệt đạo của Tú Linh, rồi bế nàng đặt lên thần án chỗ chàng nằm ban nãy. Tú Linh tuy đã bị điểm huyệt nhưng đôi mắt của nàng vẫn đăm đăm nhìn chàng, nửa như ai oán nửa như van lơn, tựa hồ đang cố đè nén những nỗi thống khổ.
Vô Tâm chợt nghĩ: “Thứ thuốc này tất là của một trong ba cái xác nằm kia đã đánh lừa nàng uống. Vậy thì trong mình chúng tất có giải dược?” Chàng nghĩ vậy liền đi lại gần ba cái xác, thò tay vào mình chúng khám xét. Quả nhiên chỉ một lát sau, chàng đã tìm thấy một chiếc lọ bằng ngọc bích lục ở trong mình Mộ Dung Phi. Sau khi đưa lên mũi ngửi, chàng biết ngay đó chính là giải dược.
Mãi tới khi chàng đã mặc sống áo và thắt lưng lại cho Tú Linh tử tế, nàng mới từ trong giấc mộng si mê tỉnh dậy, đưa mắt nhìn quanh tưởng như mình vẫn còn ở trong mơ.
oOo
Núi Bàn Chủng vị trí ở phía Tây địa hạt Cam Túc đó là một nơi núi hiểm đá xấu, địa thế cheo leo, từ xưa đến nay rất ít người qua lại. Vào buổi chiều tà, trên con đường hẻm trong núi chợt có hai bóng người đi tới. Lúc này tuy đã vào tiết mộ xuân mà hai cái bóng vẫn mặc áo lông cừu, đội mũ lông điêu che gần hết nửa mặt.
Hai người đi một cách vội vàng hấp tấp, chẳng nói chẳng rằng đó là Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh, thì ra ngọn núi Bàn Chủng này chính là khu vực Tử Cốc. Vô Tâm đã được nghe Tú Linh kể hết những chuyện xảy ra mấy hôm trước, chàng vừa kinh sợ lại vừa lấy làm may mắn; nếu Mộ Dung Phi không đuổi kịp thì hai người đã không đến nỗi lâm vào vòng nguy hiểm, nhưng nếu không có hắn dẫn đường thì hai người lại khó lòng tới được Tử Cốc.
Càng đáng ngờ hơn nữa là lai lịch của người đàn ông cụt tay, người này không những hành tung quỷ bí, võ nghệ cao cường, mà hình như lại còn thông hiểu cả những thế võ của nhà Nam Cung thế gia nữa. Và ông ta với mình không quen thuộc sao lại chịu tổn hao chân khí, khẳng khái cứu mình như vậy?
Chàng đoán chắc thân thế con người bí mật đó tất phải có liên quan mật thiết với Tú Linh, nhưng việc này đầu dây mối nhợ còn nhiều phức tạp, trong một thời gian ngắn chưa thể phanh ra được. Điền Tú Linh thì chỉ băn khoăn không hiểu tại sao tiết trời đang ấm áp thế này mà Vô Tâm lại bắt mặc áo lông cừu đội mũ lông điêu? Tuy trong lòng nghi hoặc nhưng vì cuộc tai biến vừa qua, nàng vẫn chưa hết sượng sùng bẽn lẽn, nên trong lúc đi đường nàng chỉ lẳng lặng, không hề lên tiếng.
Hai người men theo đường núi đi ước chừng được hai dặm, tiết trời mỗi lúc một lạnh, hai bên vách núi đã thấy ngấm sương và hoa tuyết, đường đi cũng mỗi lúc một gập ghềnh, đang đi chợt thấy một vách đá sừng sững chắn ngang trước mặt, đỉnh núi cao chót vót sát tới tầng mây, trông không biết đến đâu là hết.
Vô Tâm chợt dừng lại nói nhỏ:
- Cửa Tử Cốc ở trên vách núi, cách mặt đất tới năm sáu trượng, cô nương sửa soạn sẵn nhé!
Tú Linh gật đầu. Vô Tâm hít một hơi dài lùi lại ba bước lấy đà, rồi nhảy vọt một cái, thân hình đã như con vượn bám vào vách đá leo lên. Chỉ trong chốc lát, trên núi đã thấy thả xuống một sợi dây thật dài, kế lại nghe tiếng Vô Tâm từ trên cao vọng xuống:
- Lên đi!
Tú Linh cũng bắt chước phương pháp của chàng nhảy lên níu lấy sợi dây. Tiếng rằng nhờ có dây đỡ sức mà lúc leo lên tới đỉnh núi, nàng còn phải thở dốc một hồi.
Cảnh vật nơi đây thật âm u kì dị, tước bích đến đây thì ăn lõm vào sườn núi phẳng, rộng ước hơn một trượng, cửa vào cốc cũng vuông chừng một trượng, bên ngoài có những tảng băng rắn như đá che lấp cả cửa hang. Có lẽ vì băng tích tụ đã lâu ngày nên đã ngả thành màu lam sẫm, càng tới gần càng lạnh buốt, nếu không thông thuộc đường lối quyết không ai có thể tìm ra được cái cửa đó.
Vô Tâm cuộn sợi dây cất đi rồi xăm xăm bước lên trước, tay giơ hỏa tập soi đường, trong màn sương u ám ánh lửa lại biến thành màu biếc xám. Tú Linh theo vào, chỉ thấy bên trong là một cái hang sâu, ngoài rộng trong hẹp thăm thẳm không biết đâu là đáy, hai bên vách núi cứng như sắt và có lẽ vì quanh năm sương gió thấm dầm, thành ra trên mặt đá có nhiều vết lở tróc, sần sùi như vảy cá, lúc này bị những lớp tuyết ngoài cửa hang phản ánh và bóng lửa chập chờn chiếu vào, cảnh tượng trông càng huyền ảo.
Ngẩng trông lên, chỉ thấy bốn bề vách đá bao bọc cao sát tới tầng mây, bên trên còn lờ mờ phủ một màn sương mỏng khiến cho người đứng bên trong, có cái cảm giác như đang đi xuống Hàn băng quỷ ngục ở dưới Cửu u. Tiếng gió rít lên va vào bốn vách đá dội lại nghe như tiếng ma gào. Tú Linh nghĩ thầm: “Nơi này gọi là Tử Cốc, thật là xứng đáng.”
Đi sâu vào cốc chừng hơn mười trượng tiếng gió đã dịu bớt, nhưng khí lạnh lại càng tăng. Trong cốc địa thế tuy bằng phẳng nhưng chỗ nào cũng phủ đầy sương nên rất khó đi, mà bởi sương tuyết phủ lâu ngày biến thành khí lạnh xuyên thấu qua gót chân, đâm xuyên lên tới tim óc.
Đang đi chợt thấy một bóng người cầm thanh trường kiếm sừng sững hiện ra trước mặt, thân hình hơi cúi xuống thanh kiếm hơi đưa lên, hình như đang sắp sửa xông tới. Tú Linh giật mình vội đứng dừng lại, nhưng Vô Tâm vẫn thản nhiên làm như không trông thấy, cứ việc giơ cao hỏa tập rảo bước lướt qua. Tú Linh lấy làm lạ bèn cũng bước theo, khi đến gần mới nhận thấy cái bóng đó là một chàng thiếu niên, mình mặc toàn đồ gấm vóc thêu hoa rất nổi, thanh kiếm trong tay cũng sáng loáng như nước.
Nhưng khi nhìn kỹ mới biết rằng chàng thanh niên áo quần tuy còn mới nhưng người đã chết cứng tự bao giờ, mặt mũi đã co rúm lại băng dính đầy cả hai bên mép, bị ánh lửa chiếu vào trông lại càng dễ sợ. Tú Linh hoảng hốt rú lên một tiếng.
Vô Tâm vội nói:
- Người này chết đã lâu năm, nhưng vì ở đây thời tiết lạnh quá nên thây không bị rữa nát.
Tú Linh hỏi:
- Nếu chết đã lâu, sao không đem chôn đi?
Nhâm Vô Tâm than rằng:
- Hai vị tiền bối trong Tử Cốc hành động kì dị, mình không thể đoán được đâu! Các ngài để cái xác này ở đây có lẽ chỉ cốt làm cho cửa hang Tử Cốc tăng thêm phần khủng bố!
Tú Linh sợ hãi nói:
- Nếu vậy chắc bên trong còn nhiều xác nữa?
Vô Tâm gật đầu rồi giơ cao cây hỏa tập rảo bước đi lên. Địa thế mỗi lúc một dốc, Vô Tâm phải từ từ đi chậm lại, đi được một quãng lại gặp mấy cái xác nữa. Những cái xác này đều giữ đúng tình trạng lúc chết, thân thể vẫn đứng thẳng, quần áo vẫn đẹp đẽ nhưng râu tóc đã rũ kín xuống tận cằm, khiến người trông thấy phải hết vía.
Tú Linh rùng mình, chợt cảm thấy trên trán lạnh buốt như dao cắt, nàng đưa tay lên xoa, bất ngờ những giọt mồ hôi của nàng đã đọng lại thành những cục băng nhỏ như hạt tấm. Ngẩng trông lên, cây hỏa tập trong tay Vô Tâm đã lụi dần hình như sắp tắt, nàng vội kêu:
- Kìa, cây hỏa tập…
Nàng nói ra mới biết giọng mình đã lạc hẳn đi, hai bên đứng cách xa ba thước dù có hét lên chắc cũng không nghe tiếng. Thì ra tiếng nói vừa buột ra khỏi miệng liền bị ngay khí lạnh kết lại, da thịt cũng tê cứng, dẫu có muốn trổ thuật khinh công cũng không đủ sức, hơn nữa nếu chân không bước cẩn thận, lỡ bị ngã xuống chắc cũng khó lòng bò dậy được.
Lại đi một lúc nữa, mới nghe tiếng Nhâm Vô Tâm vọng lại:
- Đến đây là hết trường cốc, phía dưới là “Phong huyệt” tức là lớp cửa thứ hai của Tử Cốc. Huyệt này sâu hơn năm trượng, lúc này chắc cô nương không còn đủ sức nhảy vào nữa. Vậy cứ nhắm mắt lại rồi men theo vách băng mà tuột xuống, hoặc giả cứ nắm tay tôi mà bước lần đi, nhưng cũng phải cẩn thận lắm mới được vì lỡ trượt chân một cái thì khốn!
Tiếng chàng nói lúc đứt lúc nối, rõ ràng là chàng đã phải gắng hết sức mới nói nổi được bấy nhiêu câu. Tú Linh thấy chàng tỏ vẻ tha thiết săn sóc tới mình, trái tim dường như cũng cảm thấy ấm áp đôi chút. Lúc này cây hỏa tập thốt nhiên đã tắt ngấm, trong bóng tối lạnh lùng Vô Tâm đã nắm chặt lấy tay nàng, lại nghe tiếng chàng nói:
- Cô nương phải ngẩng mặt lên vận khí, đứng cho vững dựa lưng vào vách, thế được rồi, nào đi thôi!
Tú Linh thấy bàn tay bị nắm chặt, thân hình không tự chủ được cứ thế trôi tuồn tuột xuống. Vô Tâm nói huyệt này chỉ sâu chừng hơn năm trượng chỉ cốt làm cho Tú Linh được yên tâm. Kỳ thực thì huyệt sâu tới hai chục trượng và từ trên xuống dưới đường đi dốc ngược, băng đóng rất dày và trơn không còn chỗ nào để chân được nữa.
Tú Linh cố giữ thân hình cho vững nhưng lại không sao dằn nổi tính tò mò, sẽ hé mắt ra trông, lúc này hai người đã đi được quá nửa đường, đám sương mù trước mặt đã dần dần loãng bớt cảnh vật bốn bề cũng đã dần dần trông tỏ. Xuống tới nơi này còn lảo đảo bước lạng đi mấy bước, Vô Tâm phải kéo lại mới đứng yên được.
Nơi đây là một cái huyệt sâu chu vi rộng chừng hơn mười trượng, trước mặt là một sườn núi cao chót vót hình thế cheo leo hơi ngả về phía trước, che mất quá nửa nóc huyệt trên sườn núi lởm chởm những hòn quái thạch, hình giống như những loài ác thú thời tiền cổ nhe nanh giơ vuốt như chực cắn người, lại hình như sắp rơi cả xuống huyệt địa thế cực kỳ hiểm trở.
Hai bên vách băng cũng cao chót vót lên mấy trăm trượng mới dựa vào sườn núi, chỉ còn để chừa một khoảng rất hẹp ở chính giữa. Đứng dưới nhìn lên chỉ thấy một luồng ánh sáng len qua khe hở chiếu vào trong huyệt. Tú Linh tới đây mới cảm thấy những cảnh thần kỳ của tạo hóa, thân mình chỉ nhỏ bằng con sâu cái kiến.
Trên mặt đất hạt sương đọng lại như hoa tuyết, địa thế bằng phẳng vòng quanh khu đó còn có một hàng lan can bằng đá, cao chừng bảy tấc gồm mười tám cây cột đá, trên cột khắc những cảnh khổ não trong mười tám tầng địa ngục, lúc này dưới ánh sáng ảm đạm tuy trông không được rõ lắm, nhưng nhờ bóng tối bút pháp lờ mờ bút pháp lại trở nên linh hoạt như thực.
Chính giữa hàng lan can có một cây cột đồng thân to bằng chiếc chén uống rượu, cao hơn đầu người cắm sâu vào tảng đá, sắc đồng óng ánh màu biếc sẫm, nhác trông cũng biết vật này ít nhất cũng được trên một trăm năm. Tú Linh đưa mắt nhìn qua cảnh vật một lượt, trong bụng không khỏi run sợ sẽ hỏi Vô Tâm:
- Đây có phải là Tử Cốc không? Sao không thấy hai vị tiền bối?
Vô Tâm nghiêm nghị đáp:
- Hai vị tiền bối kỳ nhân tuy cùng ở trong Tử huyệt, nhưng chỗ tĩnh tu của các ngài lại không ở một chỗ, chỉ có ngày Sóc ngày Vọng mới gặp nhau mà thôi.
Ngừng một lát, chàng lại tiếp:
- Hai vị lão nhân gia một vị ở phía trên sườn núi trong một cái động cao nhất, còn một vị lại ở sâu thẳm dưới lòng đất. Mỗi lần tôi muốn cầu kiến, lại gõ vào cái cột đồng kia báo hiệu.
Tú Linh hỏi:
- Gõ vào cột đồng người ở trên sườn núi có thể nghe thấy đã đành, còn người dưới đất làm sao nghe thấy được?
Vô Tâm đáp:
- Cây cột này dài tới mấy trượng, một phần lớn chôn sâu dưới đất đến tận chỗ giường nằm của lão nhân gia, ta chỉ cần gõ vào đầu gậy bên này là người ở đầu gậy bên kia sẽ biết ngay tức khắc.
Chàng ngưng một lát rồi lại tiếp:
- Nhưng chúng ta đến đây hôm nay thật không may lại gặp phải kỳ hai vị kỳ nhân đang tọa quan. Không biết đến bao giờ mới được tiếp kiến?
Tú Linh giật mình nghĩ thầm: “Nếu phải ở đây chờ mấy ngày thì không khéo chết cóng mất!” Nàng đang nghĩ vẩn vơ đã thấy Vô Tâm nhảy qua hàng lan can, dùng hai ngón tay sẽ gõ lên cột đồng mấy tiếng. Tức thì cột đồng ngân lên những tiếng như tiếng chuông, hồi âm vang vang khắp động, mãi mãi không dứt.
Một lát sau tiếng chuông dần dần yên lắng mà Tú Linh vẫn còn nghe thấy những tiếng “coong coong” ở trong tai. Nhưng trên sườn núi và dưới đất vẫn yên tĩnh như tờ, tuyệt không có tiếng ai đáp lại.
Tú Linh cau mày buột miệng than:
- Chúng ta không may thật!
Vô Tâm mỉm cười, chỉ một tảng đá tròn ở trước mặt nói:
- Hòn đá này chất nó giống như một loại “Ôn ngọc” ở núi lửa, vậy nên trời lạnh thế này mà băng sương không thể đọng được. Ta tạm dùng nó làm giường nằm cũng có thể đỡ rét.
Tú Linh cúi xuống nhìn quả thấy chất đá đẹp như ngọc, sờ tay vào tuy không thấy ấm nhưng cũng đến nỗi lạnh như những tảng đá khác. Hai người cùng ngồi trên tảng đá xếp bằng tròn dưỡng thần. Một lúc lâu Tú Linh sẽ mở hé mắt ra, cảnh vật lúc này trông đã rõ hơn ban nãy. Nhãn quang của nàng chợt chạm phải cây cột đá trước mắt, trên cột vẽ cảnh rút lưỡi trong tầng địa ngục thứ bảy.
Chỉ thấy mấy tên quỉ đầu trâu mặt người cười một cách độc ác, mặt mũi vênh váo nom rất dễ sợ, ngục này chuyên trừng trị những kẻ lừa đảo thuyết khách, đàn ông bạc tình đàn bà lắm điều, những người này đều quì la liệt dưới đất. Người thì đang hả miệng kêu, kẻ thì đang dập đầu xin tha mạng thần tình y hệt như thực.
Tú Linh tuy không muốn nhìn nhưng con mắt vẫn không sao dời ra chỗ khác được. Mà càng trông nàng càng cảm thấy rợn tóc gáy, bên tai tưởng như nghe thấy cả tiếng quỉ gào. Nàng rùng mình bất giác ngồi nhích lại gần Vô Tâm. Giữa lúc ấy Vô Tâm cũng vừa mở mắt ra nhìn nàng, mỉm cười hỏi:
- Cô nương thấy dễ chịu chưa?
Tú Linh đỏ mặt, gượng cười đáp:
- Cũng hơi dễ chịu!
Vô Tâm lại nhắm mắt nhập định. Tú Linh cũng nghiêng mình vừa định nằm xuống một lát, bất đồ chính giữa lúc ấy chợt nghe có tiếng sắt khua loảng xoảng và tiếng xích sắt kéo lê từ ở dưới lòng đất đưa lên, và trong đó hình như xen lẫn cả tiếng thở dài, nghe thật thê lương ảo não.
Thoạt đầu Tú Linh còn tưởng là mình xem những bức hình kia mà phát sinh ảo tưởng, nhưng khi nàng áp tai xuống đất nghe lại càng rõ hơn. Hình như dưới đó có không biết bao nhiêu oan hồn đang đi đi lại lại than thở, cố nghiến răng chịu đựng để khỏi thốt ra những tiếng kêu gào.
Chỉ trong chớp mắt nàng cảm thấy một luồng hơi lạnh đang từ gan bàn chân xông lên tới xương sống, bất giác làn nhỡn quang của nàng lại dính vào cây cột đá. Nàng sợ run lên cầm cập, buột miệng rú lên một tiếng rồi nhảy về phía Nhâm Vô Tâm.
Vô Tâm giật mình mở choàng mắt ra hỏi;
- Cô nương làm sao thế?
Tú Linh ngồi dựa vào lòng Vô Tâm, tay trỏ xuống đất nói bằng một giọng run run:
- Tướng công nghe… nghe xem tiếng gì ở dưới này?
Vô Tâm lắng tai nghe ngóng một lúc rồi lắc đầu:
- Có tiếng gì đâu?
Tú Linh ngẩn người ra lại áp tai xuống đất, quả nhiên không nghe thấy tiếng gì nữa. Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói:
- Nếu cô nương có lạnh thì hãy khoác thêm cái áo của tại hạ cho ấm!
Tú Linh từ trong lòng chàng nhảy ra lạnh lùng nói:
- Cảm ơn công tử tôi không rét!
Nàng vừa thẹn vừa giận, tự nghĩ: “Có lẽ hắn cho là ta cố ý bịa đặt ra chuyện ấy để lấy cớ ngồi gần hắn chăng?” Nàng giận dỗi ngồi ra phía sau, định bụng hễ còn nghe thấy cái tiếng ấy nữa sẽ lôi chàng dậy cho chàng nghe.
Lại qua một lúc lâu, cái tiếng kỳ quái vừa rồi không còn nghe thấy nữa, mà chỗ khe trống trên đỉnh sườn núi cũng đã thấy ánh sáng mặt trời hắt vào trong huyệt, cái bóng đen của cây đồng trụ cũng đã dịch sang cái cột đá chỗ Nhâm Vô Tâm ngồi. Cây cột đá này chính là chỗ Tú Linh vừa ngồi ban nãy, trên khắc cái thảm cảnh rút lưỡi trong địa ngục. Nhưng lúc này bóng tối đã mất, hơi lạnh đã giảm bớt, những nỗi sợ hãi của Tú Linh cũng không còn nữa.
Đang lúc nàng ngẫm nghĩ tức cười vì những sự hãi hùng đêm trước, thì chợt nghe dưới đất nổi lên một tiếng “cạch” nho nhỏ, chiếc cột đá bị bóng tối bao trùm thốt nhiên chuyển động. Tú Linh vừa toan đánh thức Vô Tâm, nào ngờ chàng đã đứng bật dậy sẽ nói:
- Hai vị lão nhân gia đã hết thời kỳ bế quan. Cô nương sắp được gặp người rồi đó.
Chàng nói chưa dứt cây cột đá đã ngả sang một bên, trên đầu cột chợt hiện ra một cửa động tối om om. Cây cột này nguyên đã lớn bằng người ôm nên miệng động cũng vừa đủ một người chui lọt. Chợt lại nghe phía dưới chân cột một giọng già nua, xa xôi văng vẳng đưa lên:
- Phải Vô Tâm tới đó không?
Vô Tâm cung kính đáp:
- Dạ phải!
Cái giọng già nua lại đưa lên:
- Xuống đi!
Vô Tâm sẽ kéo áo Tú Linh chưa kịp lên tiếng, chợt lại nghe một giọng già nua khác từ trên sườn núi văng vẳng đưa xuống:
- Đứa con gái cùng đi với ngươi là ai thế?
Giọng nói tuy nhỏ như sợi tơ bay nhưng cũng nghe rõ cái ý giận dữ. Vô Tâm hơi rùng mình, gượng cười đáp:
- Vị cô nương đây tuy là đệ ngũ đại phu nhân trong Nam Cung thế gia, nhưng… nhưng…
Chàng ấp úng mãi không tìm được câu đáp, phía trên đã nghe tiếng cười nhạt hỏi:
- Nhưng thế nào?
Vô Tâm ngập ngừng đáp:
- Nhưng nàng đã mấy lần cứu mạng cho tiểu bối, lại bị Nam Cung phu nhân bức bách không chỗ dung thân, vì thế tiểu bối đưa nàng lại đây cầu kiến hai vị lão nhân gia, sau đó sẽ liệu khu xử.
Trên sườn núi chỉ nghe “hừ” một tiếng rồi không thấy nói gì nữa. Vô Tâm vì cớ tôn kính “Tử Cốc nhị kỳ” nên khi mới tới chân núi, chàng và Tú Linh đã tìm cách trừ bỏ những nét dịch dung trên mặt. Lúc này Tú Linh thấy sắc mặt chàng đầy vẻ băn khoăn áy náy, mới biết chàng đem mình tới đây quả là một việc cực kỳ mạo hiểm, liều lĩnh.
Trong phút chốc, nàng chợt cảm kích chàng vô hạn liền nói to lên rằng:
- Vãn bối đến đây chỉ cầu được bái kiến hai vị lão tiền bối một lần, quyết không dám làm rộn chỗ thanh tu của hai vị và thề không bao giờ dám tiết lộ những sự có liên quan nơi đây. Nếu hai vị lão tiền bối vì cớ đó mà trách Nhâm tướng công thì vãn bối xin tình nguyện rút lui ngay, không dám ân hận gì cả.
Chợt nghe vị lão nhân dưới đất thở dài nói:
- Ngươi đã đem nàng đến đây thì thôi cũng được.
Nhưng trên sườn núi lại nổi lên một tiếng cười nhạt nói:
- Đã vậy, ngươi hãy lên đây một mình để ta hỏi.
Vô Tâm nhìn Tú Linh nói sẽ:
- Chờ đây một tí, mà đừng có làm gì nhé!
Tú Linh vừa gật đầu, Vô Tâm đã nhảy vọt lên sườn núi bên trái. Nàng đưa mắt nhìn theo, thấy trên sườn núi có rất nhiều cột băng, có thể đứng vào đó mà leo dần lên được. Nhâm Vô Tâm trèo lên những cột băng đó, người mỗi lúc một nhỏ dần. Lên tới hơn mười trượng thân hình chàng chợt biến mất. Lúc này cảnh vật xung quanh lại yên lặng như tờ.
Thốt nhiên cái giọng ông già ở dưới đất lại văng vẳng đưa lên:
- Nghe Nhâm Vô Tâm nói thì chắc ngươi là vợ góa của Nam Cung Thọ phải không?
Tú Linh giật mình, kính cẩn thưa:
- Thưa vâng ạ!
Tiếng nói dưới đất lại đưa lên:
- Ngươi đã nhờ Nhâm Vô Tâm đưa tới đây, chắc trong bụng có sở cầu điều gì? Nhưng lão phu nói trước cho mà biết, vô luận ngươi muốn cầu điều gì tất cũng phải có điều kiện trao đổi.
Tú Linh ngần ngừ một lát rồi nói:
- Dù vãn bối không cầu xin việc gì nhưng lão tiền bối có việc muốn sai khiến, vãn bối cũng xin tuân lệnh.
Người dưới đất cười nói:
- Không ngờ ngươi lại lanh lợi như vậy? Có lẽ những tính ấy đều do Tổ bà của ngươi truyền cho ngươi chăng?
Giọng cười lạnh như băng thép khiến người nghe cũng phải rợn tóc gáy, Tú Linh không biết đáp lại làm sao. Chờ một lúc không thấy tiếng nói đưa lên nữa, nàng mới ngồi xếp bằng tròn, ngẩng lên trông trời.
Chờ mãi tới trưa mới thấy Nhâm Vô Tâm xuất hiện ở trên sườn núi, thân hình chàng nhẹ nhàng như một cánh chim tà tà bay xuống chỗ có những cây cột băng, lúc ấy mới dừng lại hít hơi một lần nữa đoạn phơi phới nhảy xuống, thân pháp cực kỳ đẹp mắt. Tú Linh thấy thế biết là công lực của chàng đã hồi phục như cũ, trong bụng cũng được an ủi lại thấy sắc mặt của chàng có vẻ tươi tỉnh nhẹ nhõm, bất giác mỉm cười vừa toan cất tiếng hỏi, chàng đã xua tay nói:
- Tôi còn phải xuống dưới này một lúc đã.
Nói dứt lời chàng đã chui vào địa huyệt, Tú Linh đành chỉ đưa mắt nhìn theo, nhẫn nại ngồi chờ. Nhưng lần này Vô Tâm chỉ vào huyệt một lát lại ra ngay, nói với Tú Linh:
- Con đường này vừa hẹp vừa tối, cô nương đi cẩn thận nhé!
Chàng vừa nói vừa cầm tay nàng kéo đi, trong huyệt quả nhiên tối mò mò, không trông thấy gì cả. Tú Linh chỉ nghĩ tới lát nữa nàng sẽ được nghe những điều bí mật có liên quan đến đời nàng, do chính miệng vị kỳ nhân trong động nói ra mà đã thấy lòng mừng khấp khởi, nên không còn để ý đến quang cảnh bên ngoài nữa.
Thoáng chốc đã ra khỏi con đường địa đạo tới một gian thạch thất, vuông vắn chừng hơn một trượng. Trong nhà chỉ có một chiếc giường, một chiếc bàn và một cái hỏa lò bằng đá nho nhỏ. Cách trần thiết cực kỳ giản đơn, bên cạnh giường còn có một cánh cửa hẹp. Tú Linh trông khắp bốn phía không thấy ai cả, chắc là vị lão nhân ở bên trong cánh cửa đó.
Nhâm Vô Tâm kính cẩn lên tiếng cầu kiến, bên trong cửa có tiếng đưa ra:
- Cứ vào!
Tú Linh hồi hộp theo Vô Tâm bước vào trong cửa, đầu cúi gầm xuống không dám nhìn lên. Chợt nghe tiếng ông già hỏi:
- Đây là Điền cô nương ư?
Giọng nói rất ôn hòa, không có vẻ gì là hung ác. Tú Linh “dạ” một tiếng rồi ngẩng đầu lên, thấy gian thạch thất này hình bát giác bề rộng cũng như gian ngoài, cách trần thiết cũng không kém phần giản đơn. Trên chiếc giường đá trước mặt, có một vị lão nhân tóc bạc phơ phơ ngồi xếp bằng tròn, mình mặc chiếc áo rộng chế bằng các loại da thú ghép lại, mắt đang đăm đăm nhìn nàng.
Hồi 41
Tú Linh liếc mắt trông trộm, thấy diện mạo ông già cũng chẳng khác gì những ông già tầm thường mấy tý, lòng kính sợ cũng giảm bớt vài phần. Nàng hơi thất vọng, nhưng cũng quỳ xuống thi lễ, thưa rằng:
- Vãn bối Điền Tú Linh tham kiến tiền bối.
Ông già gật đầu nói:
- Ngươi đến đây vì việc gì ta đã biết rồi, nhưng lúc này ta vẫn chưa tiện nói rõ. Ngươi ráng chờ hai hôm nữa hãy hay.
Nàng vừa đứng lên, ông già lại nói:
- Ngươi đã gặp lão phu, vậy hãy ra ngoài chờ đợi lúc nào Vô Tâm xong việc, sẽ đưa ngươi về.
Tú Linh không biết nói sao, đành hướng vào lão nhân và vái một cái rồi tức khắc quay ra.
Ra tới căn phòng ngoài, nàng đua mắt nhìn quanh, thấy bốn bề tối tăm lạnh lẽo, lại cảm thấy thân mình tứ cố vô thân, đi đến đâu cũng bị ngươi hắt hủi, bất giác hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, rồi ngả mình nằm xuống chiếc giường đá.
Thốt nhiên nàng lại nghe cái giọng ồ ồ của ông già cất lên sau cánh cửa hẹp:
- Ít lâu nay, hành động của ngươi ở bên ngoài, ta tuy không biết tường tận, nhưng nhất định là thiếu sự cẩn thận, dù hôm nay ngươi đem người con gái đến đây thì đủ hiểu. Có lẽ ngươi không nghĩ rằng người ấy rất có thể là gian tế của nhà Nam Cung thế gia, cốt theo ngươi tới đây để xem xét những sự bí mật của ta chăng?
Tiếp theo đó là tiếng đáp của Nhâm Vô Tâm. Nhưng chàng nói nhỏ quá, cố lắng tai nghe cũng không rõ. Có thể đó chỉ là những lời biện hộ cho nàng.
Lại nghe tiếng ông già hừ một tiếng rồi nói:
- Thôi đừng nói nữa! Chả lẽ với sự hiểu biết của ta lại không bằng ngươi sao?
Tú Linh nghe đến đây trong bụng lại càng uất ức, khó chịu. Kế đó lại thấy hai người bàn sang chuyện khác.
Tú Linh nghe Vô Tâm báo cáo với ông già những mưu mô sắp đặt của mình, bất giác cũng giật mình kinh sợ. Nàng cũng biết Vô Tâm là một bậc kỳ tài nhưng không ngờ sách lược của chàng lại tinh tế chu mật đến thế. Bà tổ nàng lại độc ác khôn ngoan, cũng chưa chắc phen này đã thắng nổi chàng. Kế lại nghe chàng hỏi:
- Vũ công của Nam Cung phu nhân hiện nay đã vào bậc kinh thế hãi tục, phen này bà ta lại bế quan tu luyện, thì bọn tiểu tử làm sao mà đối địch nổi? Vả lại đến bây giờ trong giới giang hồ cũng chưa ai biết môn vũ công bà ta luyện là môn gì?
Lão nhân cười nhạt nói:
- Thế gian vạn vật có tương sinh tương khắc, công phu nào có người luyện được, thì tất cũng có người phá được, ngươi đừng lo.
Tú Linh còn đang lắng tai nghe, chợt thấy lão nhân quát:
- À, to gan thật, dám nghe trộm à?
Tiếp theo đó, chỉ nghe sầm một tiếng, hai cánh cửa đã đóng sập lại. Tức thì trong gian thạch thất lại tối đen như mực.
Tú Linh vừa sợ vừa giận, định đứng lên tìm lối ra ngoài nhưng khi sờ tới chỗ cánh cửa, chỉ thấy là một phiến phẳng lỳ, không còn dấu vết gì nữa, cả cánh cửa vào phòng lão nhân cũng vậy.
Tú Linh run sợ nghĩ thầm: “Lão thấy ta nghe hết việc bí mật nên định giết ta để diệt khẩu. Nhưng chả lẽ Nhâm Vô Tâm lại yên lòng để ta chết đói chết rét ở đây ư?”
Nghĩ một lúc, nàng lại tự nhủ: "Nhưng Nhâm Vô Tâm đối với ta có tình ý gì đâu? Hắn chỉ lo tìm mưu tính kế để trừ nhà Nam Cung thế gia, còn ngoài ra không hề để ý việc gì nữa... Hắn sở dĩ đem ta đến đây, chẳng qua chỉ là để lợi dụng ta... Vả hắn sợ lão già kia như cọp, khi nào còn dám mở miệng xin cho ta nữa?"
Nàng vừa tự trách mình, vừa oán hận Vô Tâm, lúc đau đớn, lúc thì giận dữ, tâm trạng rối bời.
Thời gian không biết trải qua bao lâu, Tú Linh nhẩm tính có lẽ đã đến ba bốn ngày, trong ba bốn ngày ấy, nàng vừa đói vừa khát, vừa lạnh vừa rét. Nếu trong lòng nàng không mong manh một tia hy vọng là thế nào Nhâm Vô Tâm cũng đến cứu mình thì nàng có lẽ đã cắn lưỡi chết từ lâu.
Nhưng càng mong mỏi mắt, tia hy vọng mỗi lúc một tan dần, nếu quả Nhâm Vô Tâm có ý cứu nàng thì sao để lâu đến thế? Vả dù chàng không cứu được thì ít nhất cũng phải tìm cách gì thông tin cho nàng yên tâm chứ.
Nàng càng nghĩ càng đau đớn, nước mắt chảy dòng dòng, bất giác ngửa mặt lên trời lẩm nhẩm nói:
- Nhâm Vô Tâm ơi! Phen này ta chết về tay ngươi, ta chỉ tự oán hận mình, nhưng sau khi ta hóa thành lệ quỉ thế nào ta cũng báo thù.
Nàng vì yêu mà thành thù, vì đau thương mà thành oán hận, nên giọng nói đầy vẻ đau đớn xót xa.
Nàng nức nở một lúc rồi lại nói:
- Bà Tổ ơi, cháu thật có lỗi với Bà Tổ, nhưng cháu chết đi thế nào cũng hóa thành lệ quỉ giúp lão nhân gia một tay làm cho những kẻ tự xưng là nhân nghĩa đạo đức đều chết trong tay bà tổ mới hả.
Nàng nói đến đây thốt nhiên tung mình nhảy lên, đầu va ngay vào hòn đá trên trần nhà. Trong bóng tối không biết có máu phun ra hay không nhưng thân hình nàng đã mềm nhũn, rồi ngã nằm sóng sượt dưới đất.
Ước chừng một lúc không lâu, trên vách đá chợt nứt ra một khe nhỏ, rồi một bóng ngươi lách mình đi vào. Chỗ khe đá nứt không phải là hai cánh cửa lớn vừa rồi, nên bóng tối vẫn mờ mờ, không trông rõ bóng người mới tới, chỉ biết hắn có vẻ thông thuộc đường lối, nên không phải sờ soạng lần mò, đi được vài bước, hắn dừng lại lấy cây hỏa tập trong mình châm, nhưng ánh lửa chỉ lóe lên rồi tắt ngay.
Nhưng trong giây phút đó cũng đủ cho ta nhận rõ, đó là một ông già thân thể cao lớn, râu tóc bạc phơ, trong khi cử động xem võ công có vẻ bình thường, nhưng tuyệt không phải là ông già mà Tú Linh gặp hôm vào động.
Ông ta nhờ ánh lửa lóe lên đã trông rõ chỗ Tú Linh nằm, bèn vội cúi xuống ôm xốc nàng lên, rồi hấp tấp lùi ra khỏi thạch thất.
Vách đá hở lại khép lại như cũ, bên ngoài cũng tối đen như mực, chợt nghe một giọng lạnh lùng cất lên hỏi:
- Không ngờ con gái mà tính khí cũng cương liệt như vậy, hãy xem nàng còn sống hay chết? Nếu còn sống thì chữa chạy ngay đi, sau này còn có việc dùng tới.
Người đàn ông này sờ tay bắt mạch cho Tú Linh rồi nói:
- Không những chưa chết mà vết thương cũng không lấy gì làm nặng lắm. Có lẽ vì nàng đã đuối sức lâu rồi.
Cái giọng lạnh lùng lại cất lên:
- Thôi được, thế cứ đặt nàng xuống đây là được rồi.
Người đàn ông có vẻ kinh ngạc hỏi:
- Để nàng ở đây, thế lỡ nàng phát giác sự bí mật thì sao?
Người trong bóng tối cười ha hả nói:
- Ngươi thì biết cái gì, chính ta muốn để cho nàng biết những bí mật đó. Thôi, ngươi đi làm cơm đi, nhớ nấu cho... tướng công một bát thạch giải vì hắn thích món ấy lắm.
Người đàn ông vâng lời, đặt Tú Linh xuống đất rồi khúm núm đi ra, thoáng chốc đã hòa mình vào trong bóng tối.
Qua một lúc lâu, Điền Tú Linh chợt cựa mình rên rỉ, thì ra nàng đã từ trong hôn mê dần dần hồi tỉnh.
Nàng cố gượng xoay ngươi lại chợt cảm thấy trên đầu đau như búa bổ, trong tai chỉ nghe tiếng gió ù ù, mà lúc trước nằm trong thạch thất không hề nghe thấy, nàng lấy tay sờ xuống đất, cũng không thấy nền đá nữa, quả thật nơi nàng nằm đây không phải là thạch thất.
Nàng chợt rùng mình, nghĩ thầm: "Hay là ta chết rồi nên oan hồn bay đến đây chăng?"
Giữa lúc ấy, nàng lại nghe có tiếng khóa xích sắt kéo lê sền sệt trên mặt đất. Những tiếng đó nghe rất mơ hồ, lúc đứt, lúc nối nhưng cũng đủ để cho ngươi nghe rợn tóc gáy.
Tú Linh cau mày thầm nhủ: "Có lẽ đây là địa ngục cũng nên? Mình đã liều chết, còn sợ gì nữa? Ta thử đứng lên đi xem những tiếng ấy ở đâu mà ra?" Nàng liền lập tức đứng lên sờ soạng đi lần về phía trước. Địa thế nơi này tuy gập ghềnh khó đi, được cái ít lâu nay nàng đã tập quen với những con đường hẻm núi, nên cũng không lấy gì làm khó khăn lắm.
Cái tiếng khóa sắt càng lúc càng rõ, dần dần nàng còn nghe thấy cả tiếng rên rỉ, Tú Linh lại chợt nhớ đến hôm đầu tiên đến tử cốc, nàng áp tai xuống đất, cũng nghe thấy những tiếng giống hệt như thế. Thì ra nơi đây vẫn còn ở trong tử cốc.
Tú Linh chợt nảy tính tò mò, rảo bước tiến mau hơn. Chợt trông thấy trước mặt có ánh sáng lờ mờ rọi lại. Ánh sáng tuy cực kỳ yếu ớt, nhưng cũng đủ cho nàng nhận thấy đây là một căn động vừa hẹp, vừa dài, bốn mặt quái thạch chìa ra như răng ma.
Lúc này nàng đã nghe rõ trong những tiếng khóa sắt lệt sệt, và những tiếng rên rỉ đó còn có lẫn cả tiếng chân bước nặng chình chịch.
Nàng đi được chừng ba bốn trượng thì đến cuối động, trên vách đá có gắn một chiếc đèn bằng đồng, ánh sáng ảm đạm, bầu đèn lâu ngày đã hoen rỉ.
Dưới ngọn đèn có một cánh cửa sắt, những tiếng xích sắt va chạm, và tiếng rên rỉ đều ở bên trong cửa vang ra. Trên cánh cửa có buộc một sợi xích sắt rất lớn, khóa bằng đồng, chìa khóa treo ngay ở trên sợi dây xích. Ngoài ra bên trên cửa, còn khắc bốn chữ "Vong nhập giả tử" lớn tướng.
Tất cả bấy nhiêu thứ hợp lại, rõ ràng là một cửa địa ngục không sai, Tú Linh lúc này đã quyết liều một phen, nên không biết sợ là gì, cầm ngay chiếc chìa khóa, mở cửa ra.
Nàng phải tốn nhiều hơi sức mới mở được cánh cửa sắt khổng lồ nhích ra một chút.
Tiếng mở cửa vừa ken két nổi lên, tức thì những tiếng dây sắt kéo lê, tiếng bước chân huỳnh huỵch và cái tiếng rên rỉ bên trong cũng đồng thời im bặt.
Tú Linh lách mình bước vào, thốt nhiên giật mình lùi lại mấy bước, đăm đăm nhìn về phía trước.
Ánh đèn trong phòng còn tối hơn ánh đèn ngoài cửa, không khí cực kỳ lạnh lẽo âm thầm. Nhưng trong phòng trống rỗng không có ai cả.
Nàng cố lấy can đảm, đằng hắng một tiếng rồi hỏi:
- Có ai trong này không? Ra cho tôi hỏi một tý.
Nàng hỏi luôn ba bốn câu, không có tiếng ai đáp lại, Nàng đánh liều giơ hai tay lên chặn ngực, rồi từ từ tiến vào.
Vào tới giữa phòng, trông khắp bốn phía cũng không thấy gì lạ, thốt nhiên nghe phía sau nổi lên một tiếng “cách” nhỏ, nàng giật mình vội quay đầu lại, chỉ thấy một ngươi đầu tóc rũ rượi, che gần kín khuôn mặt, trông như một cái thây ma, khắp mình đều trói bằng dây sắt, đang định xông lại phía nàng, nhưng hắn vừa cựa mình, chiếc xích sắt đã va xuống đất cành cạch, nên mới bị Tú Linh nghe thấy.
Nàng trông hình dạng ngươi ấy, bất giác kinh sợ dựng đứng người ra, hai chân mềm nhũn, cơ hồ lê đi không nổi.
Người lạ nhìn trừng trừng vào mặt nàng giây lâu không chớp, thân hình cũng đứng sững như pho tượng gỗ. Tú Linh định thần một lúc, rồi hỏi bằng một giọng run run:
- Ngươi... ngươi là người hay ma? Và đây là đâu?
Người kia hình như cũng ngạc nhiên vì câu hỏi của nàng, một lúc mới thủng thỉnh nói:
- Ngươi trông ta giống người hay ma? Ngươi nhận thấy nơi đây có phải là nhân gian không?
Tú Linh sửng sốt, nàng nghe giọng nói của hắn vừa khô khan vừa the thé như tiếng quỷ khóc. Tú Linh không sao tự chủ được, bất giác lùi lại mấy bước. Người đàn ông cười khanh khách nói:
- Đây chính là quỷ vực mà ta đã lâu lắm không được ăn gan người sống, hôm nay bỗng dưng ngươi lại dẫn xác đến để ta chén một bữa cho khoái khẩu.
Hắn vừa cười nói vừa kéo lê xích sắt tiến dần về phía Tú Linh. Tú Linh sợ quá, khắp mình nổi gai ốc lên, chân cứ lùi dần về phía cửa.
Gã đàn ông tuy đeo xích sắt đầy mình, nhưng còn nhanh nhẹn hơn nàng, hắn nhảy một bước chắn ngang lối đi, hai tay giơ ra, miệng nhăn nhở cười nói:
- Ngươi đã vào đây lại còn muốn chạy à?
Tú Linh vừa sợ vừa tức, giơ tay phóng một chưởng vào giữa ngực gã đàn ông, nhưng sức lực của nàng lúc này đã yếu quá, nên chiêu thức không đủ để làm hại người.
Gã đàn ông thấy vậy vội cầm xích sắt giơ ngang lên đón lấy chưởng phong.
Tú Linh lùi lại một bước, phóng luôn ra ba chiêu, gã đàn ông vẫn cười khanh khách, nhẹ nhàng đón lấy, mà hình như hắn còn đoán trước được cả cách biến hóa chiêu thức của nàng nữa.
Tú Linh nóng lòng sốt ruột, chỉ muốn đánh cướp lấy một đường mà chạy, bèn cố gắng chút hơi tàn, tay phải một chưởng, tay trái một quyền liên tiếp phóng hơn bảy chiêu.
Bảy chiêu đó chính là bí kỹ của Nam Cung thế gia, chiêu thức kỳ quỉ, biến hóa vô cùng. Tú Linh lúc này chân lực tuy đã gần kiệt, nhưng vì nàng liều mạng mà đánh, nên uy lực vẫn còn lợi hại lắm.
Không ngờ gã đàn ông vẫn cười một cách đanh ác nói:
- Vũ công thế gian đánh thế nào được ma?
Hắn chỉ sẽ giơ tay lên, tiếng xích sắt kêu lẻng xẻng, hóa giải luôn bảy chiêu của nàng một cách dũng dị, có một điều lạ là mỗi chiêu Tú Linh sắp sửa phóng ra, hắn đã biết trước mà chặn ngay từ đầu.
Tú Linh sợ hãi, vượt qua người hắn mà chạy, không ngờ hắn đã nhanh nhẹn xoay mình, giang tay chắn ngang lối đi của nàng.
Tú Linh thét lên một tiếng, nằm xuống đất lăn đi mấy vòng, rồi lại lổm ngổm bò dậy, ngẩng đầu nhìn lên. Gã đàn ông vẫn kéo lê sợi xích sắt, lắc lư tiến về phía nàng, miệng vẫn luôn cười, tiếng cười nghe giống hệt tiếng gầm gừ của loài thú dữ.
Tú Linh lùi mãi, lùi mãi, bất đồ lưng chạm ngay phải vách đá, không còn lối nào thoát được nữa. Gã đàn ông vẫn cười nhăn nhở, cong mười đầu ngón tay lên xông tới.
Tú Linh rú lên một tiếng, hai đầu gối mềm nhũn, sụp quỳ xuống đất, mười đầu ngón tay lạnh buốt của gã từ từ chạm vào cổ nàng, Tú Linh nhắm nghiền hai mắt chờ chết.
Không ngờ lúc ấy gã đàn ông rụt tay lại, cất tiếng cười sằng sặc, tỏ vẻ đắc ý vô cùng, Tú Linh lấy làm lạ, lại hé mắt ra nhìn.
Chợt nghe gã vừa cười vừa nói:
- Điền Tú Linh, sao ngươi không mở mắt ra?
Tú Linh kinh ngạc quá đỗi, vội mở to mắt kêu lên:
- Sao... sao ngươi lại biết tên ta?
Quái nhân cười khanh khách nói:
- Ngươi không nhận ra ta ư? Thử nghĩ kỹ lại xem, ta là một oan hồn đã bị chết ở trong tuyệt nham ngày trước!
Tú Linh bất giác sợ hãi run lên, chăm chú nhìn vào mặt hắn, dưới ánh đèn lờ mờ, chỉ trông một bộ mặt đã bị mái tóc che kín quá nửa, hàm răng trắng nhỡn, nhọn hoắc, có vài chiếc đã bị gãy, duy có đôi mắt, nhìn kỹ thì hình như đã trông thấy ở đâu.
Gã đàn ông lại cười gằn nói:
- Thử nghĩ lại xem... nghĩ lại xem... ta là người mà hồi nhỏ ngươi ghét nhất!
- Vậy ....vậy ra ngươi làNam Cung.....
Gã đàn ông ngửa cổ lên trời cười nói:
- Đúng rồi... ta là hắn ... ha ha... không ngờ hôm nay ngươi lại phải quỳ ở trước mặt ta, oán khí bao nhiêu năm nay ta mới gọi là được thở ra một chút.
Tú Linh đăm đăm nhìn con người trước mắt, trong bụng rộn lên những ý tưởng mâu thuẫn, không biết sợ hay mừng? Phải chăng đây chính là người mà mấy tháng nay nàng đã chịu đủ trăm cay nghìn đắng, trèo non lặn suối đi tìm? Nhưng lúc này đứng trước mặt hắn, nàng lại thấy sợ sệt, kinh hoảng, chỉ lăm le muốn chạy trốn.
Nàng chú ý nhìn kỹ thấy hình dạng người này rõ ràng là một phần người, chín phần quỷ, đâu còn cái vẻ ung dung tiêu sái củaNam Cung công tử năm xưa? Chắc hẳn từ dạo đó đến giờ, chàng đã chịu đựng không biết bao nhiêu nỗi cực nhục thống khổ.
Nghĩ đến đấy, nàng chợt cảm thấy thương hại, bèn ứa nước mắt nói:
- Tại sao chàng lại bị giam ở đây?
Người quái chợt im tiếng cười, cặp mắt tràn đầy oán hận nói:
- Ta khổ tâm bố trí bao nhiêu lâu nay, chỉ vì ta đã biết ....
Chàng vừa nói tới đấy, chợt thấy ngoài cửa có một bóng người phơi phới bay vào, giơ ống tay áo phất một cái, tức thì một luồng hương thoang thoảng từ trong ống tay áo bay ra.
Tú Linh vừa trông thấy bóng người, mũi đã hít ngay phải luồng hương thơm, tức thì đầu óc mê man, không còn biết gì nữa.
Mãi tới khi tỉnh dậy, Tú Linh mở mắt ra nhìn, chỉ thấy da trời xanh ngắt, mây trắng phất phơ, chim chóc trên cành véo von ca hát, bốn bề cây cối xanh um, cỏ non trải kín mặt đất như tấm thảm, thì ra đây là một khu rừng.
Tú Linh giật mình kinh sợ, gắng gượng ngồi lên, thấy mình vẫn mặc áo lông cừu, mũ lông điêu, nhưng sờ vào mình chỉ thấy mồ hôi ướt đầm. Nàng ngạc nhiên nghĩ thầm: “Quái lạ, ta đang nằm mơ hay sao thế này?”
Hồi tưởng lại những việc vừa xảy ra, đầu óc vẫn còn bàng hoàng kinh sợ, không hiểu vừa rồi là mộng hay bây giờ là mộng? Nhưng khung cảnh trước mắt đây đã chứng tỏ cho nàng biết rằng hiện thời nàng không mơ ngủ.
Giữa lúc đầu óc nàng chưa phân biệt được rõ ràng, chợt nghe có tiếng xe ngựa lọc sọc đang đi từ phía xa đưa lại.
Tú Linh đang muốn tìm người hỏi thăm xem đây thuộc về địa phương nào, nên không tìm chỗ nấp, thoáng chốc đã thấy chiếc xe ngựa tiến lại gần rồi đỗ lại.
Tú Linh đã nhìn rõ thấy cỗ xe sơn son thiếp vàng bóng lộn, cả mấy con ngựa kéo trông cũng khỏe mạnh lực lưỡng, rõ ràng nòi ngựa quý.
Màn xe vừa vén lên, bên trong đã thấy bốn thiếu nữ mặc áo trắng từ trong xe nhảy ra, người nào cũng mặc xiêm dài quét đất, tóc rủ ngang vai, cười nói ríu rít như những con chim vành khuyên, nhảy nhót tiến vào rừng.
Tú Linh mừng lắm, định chạy ra hỏi thăm, chợt ngắm lại bộ quần áo lấm láp xộc xệch của mình, bất giác hơi ngượng, vội đưa tay lên vén gọn mái tóc, sửa lại nếp áo, thủng thỉnh đi ra, nhưng đầu vẫn cúi gằm xuống, không dám nhìn lên.
Tới trước mặt bốn thiếu nữ, nàng dừng lại khép tà áo, thỏ thẻ nói:
- Xin hỏi bốn vị cô nương.....
Nàng chưa nói dứt lời chợt nghe tiếng cười khúc khích, nàng vội ngẩng đầu lên đã thấy bọn thiếu nữ quỳ rạp cả xuống đất. Rồi một ngươi cao nhất bọn cười nói:
- Mới một tháng không gặp mà phu nhân đã không nhận ra bọn nữ tỳ ư?
Tú Linh giật mình sửng sốt, hỏi:
- Các người là ....là ai?
Người con gái lại ngẩng đầu lên nói:
- Oanh Oanh xin bái kiến phu nhân!
Thì ra bọn này chính là tỳ nữ nội trạch nhà Nam Cung. Ba người kia cũng vừa ngẩng đầu lên, Tú Linh lặng người đi một lát, mới thốt được nên lời:
- Oanh Oanh, Yến Nhi, sao các người lại đến nơi này?
Oanh Oanh cúi đầu cười nói:
- Bọn tiểu tỳ đến đây cốt chỉ để đón phu nhân!
Tú Linh còn chưa biết là mình ở đây là đâu, vậy mà bọn tỳ nữ nhà Nam Cung thế gia đã biết mà đến đón, thật là một sự lạ lùng. Nàng bất giác buột miệng hỏi:
- Sao các ngươi biết ta ở đây?
Oanh Oanh cười nói:
- Phu nhân quên rằng chính phu nhân đã thông tin cho Thái phu nhân, nên Thái phu nhân mới sai bọn tỳ nữ đi đón.
Tú Linh đứng ngẩn ra như người bàng hoàng trong mộng, tự nghĩ: "Vô lý, sao ta lại thông tin cho họ? Hay là trong lúc hôn mê, ta quả có làm việc ấy, mà rồi lại quên đi chăng? Chả có lẽ..."
Oanh Oanh, Yến Nhi thấy nàng cứ đứng ngây người, chẳng nói chẳng rằng, bèn đưa mắt cho nhau, rồi cùng bước lên, mỗi người một bên nắm lấy tay áo nàng, Yến Nhi nói:
- Xin mời phu nhân lên xe kẻo Thái phu nhân đợi!
Tú Linh chau mày nói:
- Bà Tổ ta....
Nàng nói chưa dứt lời, Oanh Oanh vội cười nói:
- Từ hôm phu nhân đi, Thái phu nhân nhớ lắm, lúc nào cũng khen phu nhân là ngươi tốt, chỉ phải tính nhẹ dạ nghe lời những kẻ không ra gì xúi bẩy. Nay nếu phu nhân trở về thì không những Thái phu nhân vui vẻ mà bọn tỳ nữ cũng rất mừng.
Tú Linh chợt ứa nước mắt, nghẹn ngào nói một mình:
- Ta đoán không sai, trên đời này quả không có ai tốt với ta bằng Bà Tổ, chỉ có Bà Tổ, chỉ có Bà Tổ...
Nói chưa dứt lời, nước mắt nàng đã tràn xuống hai gò má. Hai tên thị nữ thấy thế mừng thầm, lại dùng những lời đường mật ôn tồn dụ dỗ, hết sức nói tốt cho Thái phu nhân. Xem chừng Tú Linh đã xiêu lòng, bốn tên thị nữ liền xúm xít đỡ nàng lên xe.
Tú Linh cũng quyết định trở về bên Bà Tổ, chỉ có ở đấy nàng mới được êm ấm và tôn nghiêm, chỉ có ở đấy nàng mới không bị người ra khinh rẻ và hắt hủi.
Lúc này nàng lại thấy hối hận, tại sao nàng lại phản bội Bà Tổ là người đã yêu thương che chở cho nàng từ bé, mà tự đem mình hy sinh cho những kẻ xa lạ rẻ rúng nàng, khinh miệt nàng, chẳng quá ngu dại quá ư?
Nàng đưa tay áo lên gạt nước mắt, rồi để mặc bọn thị nữ dìu lên xe.
Cũng trong lúc ấy trên sườn núi phía xa, dưới bóng cây rậm có một bóng người lom khom, đang chú ý theo dõi bọn Tú Linh. Tuy mặt hắn đã bị cành lá che khuất, không nhìn được rõ, nhưng đôi mắt hắn sáng chói như hai luồng điện, đứng đằng xa vẫn trông thấy rõ.
Mãi tới khi cỗ xe đã đi khá xa, cái bóng mới lủi vào đám cây rậm, biến mất.
Vô Tâm ở trong thạch thất, thấy vị lão nhân nhắm mắt ngồi yên, hình như đã nhập định. Chàng cũng đành ngồi bên cạnh điều tức chờ đợi.
Trong thạch thất không phân rõ ngày đêm, chàng ngồi như thể không biết trải qua bao lâu, lão nhân mới mở mắt ra hỏi:
- Ban nãy ngươi vào thăm lão quái vật trước, lão có nói gì không?
Ông ta gọi lão quái vật tức chỉ vị lão nhân ở trên sườn núi, người này hành tung còn thần bí hơn ông ta nhiều.
Vô Tâm nghe hỏi, mỉm cười nói:
- Lão nhân gia chỉ hỏi đệ tử về những việc vừa qua, rồi xua tay bảo đệ tử đi ra.
Lão nhân mỉm cười:
- Lão quái vật gần đây tính nết lại càng cổ quái, ngươi đã lâu không đến, nên không biết có bữa lão muốn nếm thứ dấm cá ở Tây Hồ. Ngươi thử nghĩ xem ở đây đến cá gỗ cũng không có chứ đừng nói cá dấm, thế là lão làm ầm lên, la hét om sòm. Lại một hôm lão đánh cờ với ta, cờ chưa tàn cuộc, lão nhất định đòi ra cốc, nói là ở đây chịu tội thế là đủ rồi, một hai đòi lão Tạ phải đưa đi ngay, lão Tạ tuy không dám trái lệnh, nhưng cũng không làm nổi, tình trạng thật lúng búng tức cười.
Lão nhân miệng cứ thao thao bất tuyệt, nói toàn chuyện vu vơ, nhưng tuyệt không nhắc gì đến Tú Linh, Vô Tâm tuy thắc mắc nhưng không dám hỏi, chỉ đành lẳng lặng ngồi nghe.
Một lúc khá lâu, chợt nghe có tiếng gõ nhẹ trên bức vách, thì ra trên bức vách còn có một cánh cửa ngầm.
Vô Tâm đứng lên mở cửa, bên ngoài có một người đầu tóc bạc phơ, khom lưng bước vào, tay bưng một chiếc khay, lão trông thấy Vô Tâm chợt hớn hở reo lên:
- Nhâm tướng công về từ bao giờ thế? Nếu biết tướng công về thì lão nô đã nấu thêm một bát canh thạch giải rồi.
Vô Tâm trông thấy ông lão ấy cũng vui vẻ lắm, nhưng còn vờ làm mặt giận nói:
- Lâu lắm không gặp, sao ngươi vẫn gọi ta là Nhâm tướng công? Nếu ngươi còn gọi như vậy, ta sẽ gọi ngươi là Tạ lão tiền bối cho mà coi!
Lão nhân cũng sầm mặt nói:
- Trưởng ấu có thứ tự, lớn nhỏ có phân biệt, trên dưới xưng hô không thể loạn được, lão nô theo hầu lão gia mấy chục năm trời, chả lẽ điều ấy cũng không biết?
Ông già ngồi trên giường cười nói:
- Lão ấy cố chấp lắm, thôi cứ để tùy lão muốn gọi thế nào thì gọi.
Lão Tạ đặt chiếc khay xuống bàn, rồi quay lại cười nói với Vô Tâm:
- Độ này thạch giải sẵn lắm, để lão nô nấu một bát canh thật ngon mang lên tướng công xơi.
Nói xong lão lại khom mình lui ra. Lão nhân bảo Vô Tâm:
- Ngươi lại đây ăn một chút cơm cho đỡ đói.
Vô Tâm nghe lời cầm bát cơm lên ăn, bất giác nhìn ra gian phòng ngoài lẩm bẩm: "Còn... nàng... nàng..."
Lão nhân sầm mặt nói:
- Nàng... nàng cái gì? Ta không để nàng chết đói đâu mà sợ. Ngươi ở trong này dụng công học tập, đừng suy nghĩ vớ vẩn. Để ta truyền cho ngươi mấy môn vũ công tuyệt thế, mới có thể đối phó được với môn ma công của nhà Nam Cung thế gia.
Vô Tâm lại thấy tinh thần khấn khởi.
Lúc này chàng mới chợt nhớ đến cánh tay trắng của Lan cô, bèn đem chuyện mình suýt chết về cánh tay ấy thế nào, nhất nhất kể hết cho lão nhân nghe.
Trong khi nghe chàng nói, sắc mặt lão nhân có vẻ xúc động. Ông dựa lưng vào vách đá, đôi mắt lim dim, hình như đang cố đem trí tuệ và kinh nghiệm trường đời mấy chục năm để thử giải thích một việc thần bí mà có lẽ loài người không sao giải thích nổi.
Vô Tâm nín thở ngồi chờ, không dám kinh động. Một lúc lâu, lão nhân chợt mở mắt, thở dài nói:
- Theo chỗ ta biết thì trong vũ lâm năm xưa có một vị kỳ nhân, tên gọi "Tồi tâm sứ giả". Người này chết đã một trăm năm. Khi sinh thời cũng ít người biết rõ hành tung, và vũ công của ông ta thâm hiểm thế nào, nhưng trong giới võ lâm, ai nghe tên ông ta cũng phải kinh hồn táng đởm.
Vô Tâm buột miệng hỏi:
- Đã không ai biết vũ công của ông ta thế nào thì sao lại sợ?
Lão nhân nói:
- Nhân vì hồi ấy trong giang hồ đồn rằng "Tồi tâm sứ giả" có một môn ma công rất thần kỳ, có thể buộc người nào nhìn ông ta một cái, là phải nghe theo mệnh lệnh của ông ta. Cái thuật ma công huyền bí ấy ngày xưa cũng có tương truyền, vũ lâm gọi là "Nhiếp tâm thuật" ai bị thuật ấy mê hoặc tức thì thần trí bị hôn mê, rồi hoàn toàn bị người thi hành thuật hiếp chế. Có người còn làm cả những việc mà sức mình không thể làm nổi, thế mới lạ chứ!
Ông lão thở dài một tiếng rồi tiếp:
- Những sự ấy rất khó giải thích, chỉ có thể lấy vài việc ra làm ví dụ, đại khái như có người không biết một chút gì về vũ công nào, nhưng một khi đã bị cái thuật nhiếp tâm làm mê thì người thi thuật muốn bắt hắn nhảy lên cao ba trượng, hắn cũng nhảy được một cách dễ dàng, hay hoặc bắt hắn phải so tài với tay vũ lâm cao thủ khác, hắn sẽ không ngần ngại gì mà nhận lời ngay. Chẳng những thế, trong khi động thủ, hắn còn có thể thi triển được những chiêu thuật mà hắn chưa từng biết bao giờ.
Vô Tâm chăm chú ngồi nghe, sắc mặt luôn luôn thay đổi.
Lão nhân lại tiếp:
- Những việc ấy đều hoàn toàn vượt ra ngoài lý lẽ mà người ta có thể giải thích được, nhưng đó là sự thật hẳn hoi, không phải là chuyện bịa. Ta chỉ có thể tạm giải thích đó là lực lượng của một loại tinh thần, chưa thể quyết đoán được.
Ai cũng tưởng "Tồi tâm sứ giả"đã có cái thuật "Nhiếp hồn" như vậy, tất có thể thu xách quần hào, muốn sao được vậy, trong giang hồ còn ai dám trái lệnh. May được cái ông ta tuy có dị tài, nhưng tâm địa cũng tốt, bình sinh không làm điều gì ác, nên không đến nỗi gây sóng gió trong giang hồ. Nhưng còn Nam Cung phu nhân...
Ông ta trầm ngâm một lát rồi nói tiếp:
- Hiện này tuy mụ dùng phần nhiều là các vị thuốc để chế ngự quần hào, nhưng theo lời ngươi nói về "Tố thủ Lan cô" thì quyết không chỉ mụ ta hiếp chế cô ta bằng dược lực thôi không, ta cho rằng tinh thần ngươi con gái này đều hoàn toàn bị mụ khống chế, nên đã quên hết cả thân thế, cũng như thời gian và vạn vật.
Vô Tâm chợt nghĩ ra, vội nói:
- Phải rồi, hèn gì mà mấy chục năm nay, dung nhan của Lan cô vẫn không thay đổi, thì ra nhờ nàng quên hết cả ngày tháng, nên mới bảo tồn được dung nhan mãi mãi không già.
Chàng nói đến đấy, lão nhân thốt nhiên biến đổi, nhưng chỉ một thoáng lại trở lại bình thường. Vô Tâm không để ý đến điều đó, vẫn thản nhiên nói tiếp:
- Nam Cung phu nhân vũ công tuy cao, cũng không có gì đáng sợ. Tứ phu nhân Trần Phượng Trinh đã ngầm đưa tin cho đệ tử, nói là ma lực mà Nam Cung phu nhân luyện, toàn là ở "Tố thủ Lan cô" cả. Mấy lần "Tố thủ" xuất hiện, tuy đều chưa đạt tới mức tột cùng, nhưng với ma lực kinh nhân ấy, cũng đủ làm cho người ta không sao kháng cự nổi, đệ tử động thủ với nàng cũng không sao tránh thoát được một chưởng, nếu để nàng luyện thành công hẳn rồi, tất Nam Cung phu nhân sẽ phát động toàn diện, lúc ấy làm sao mà ngăn chặn được.
Lão nhân mỉm cười nói:
- Ta đã nói: Muôn vật trên đời, đều có sinh có khắc, đã có "Tố thủ Lan cô" thì lại có khắc tinh của Lan cô xuất hiện.
Vô Tâm vội hỏi:
- Khắc tinh ấy là gì? Và bao giờ xuất hiện?
Lão nhân lại cười nói:
- Khắc tinh ấy biết đâu không phải là ngươi? Lại biết đâu không phải mấy hôm nữa xuất hiện?
Vô Tâm mừng rỡ nói:
- Có lẽ lão nhân gia đã tìm được cách khắc phá vũ công của nàng rồi chăng?
Lão nhân gật đầu:
- Phàm người bị thuốc độc làm mê, tất phải có thuốc giải, điều đó việc gì phải nghĩ!
Yên lặng một lát, Vô Tâm chợt hỏi:
- Có điều đệ tử rất lấy làm lạ, không hiểu Lan cô với nhà Nam Cung có quan hệ gì? Và cũng không hiểu tại sao Nam Cung phu nhân lại khống chế được nàng?
Lão nhân trầm ngâm một lát rồi nói:
- Việc này ta cũng không rõ lắm, chỉ biết rằng Lan cô với Nam Cung Minh, chủ nhân đời thứ nhất nhà Nam Cung thế gia và Nam Cung phu nhân cùng một vị ma đầu vũ lâm nữa, trong chỗ bốn người đó đều có đầu dây mối nhợ quan hệ rất phức tạp. Nam Cung Minh không những đã vì nàng mà bất hòa với Nam Cung phu nhân, vả lại cái chết của ông ta, hình như cũng có ít nhiều liên quan đến nàng. Nhưng nội tình ra sao, thật không ai biết.
Hồi 42
Vô Tâm lại hỏi:
- Còn vị ma đầu võ lâm kia là ai?
Lão nhân nói:
- Vị ma đầu ấy tính tình lại rất cổ quái, tuy có vũ công tuyệt thế, mà bình sinh không muốn cho ai biết tiếng, tên họ của hắn trong vũ lâm, họa chăng có độ ba bốn người biết. Chính ta cũng chỉ biết hắn là một người rất đẹp trai trong thời ấy, mà Nam Cung Minh cũng là một vị phong lưu công tử, còn Nam Cung phu nhân và Lan Cô cũng đều là bậc thiên hương quốc sắc, nguyệt thẹn hoa nhường.
Ông thở dài một tiếng rồi lại tiếp:
- Kể bốn người ấy mà thành hai đôi vợ chồng, thì trên đời tưởng không còn cặp giai ngẫu nào hơn, nhưng khuôn thiên cắc cớ, lại xui khiến cho bốn người ở với nhau tại một chỗ, đến nỗi... ôi!
Nói đến đấy, ông thốt nhiên im bặt. Vô Tâm sốt ruột giục:
- Đến nỗi làm sao?
Lão nhân thủng thẳng đáp:
- Nói tóm lại thì tình cừu ràng buộc quả nhiên kỳ diệu vô cùng. Sau đó ra sao, ngươi cứ đoán cũng biết.
Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Cứ tình lý mà suy, thì lão ma đầu nguyên đã cùng Lan cô sớm thành giai ngẫu, nhưng lão lại say mê Nam Cung phu nhân, còn Nam Cung Minh thì lại bị Lan cô mê hoặc, vì thế mà giai ngẫu trở thành oán ngẫu, phải không?
Lão nhân gật đầu, chàng lại tiếp:
- Thế là giữa Nam Cung phu nhân và Lan cô trở thành hai tình địch. Sau đó hai người đàn ông kia chết đi, Lan cô mới lọt vào tay Nam Cung phu nhân. Nam Cung phu nhân bèn dùng dược lực và thuật nhiếp tâm làm cho Lan cô bị mê lú mất bản tính. Nhưng vũ công của Nam Cung thế gia vốn là nội gia chính tông, vậy mà Nam Cung phu nhân lại biết rất nhiều công phu bàng môn tả đạo, cái thuật nhiếp tâm là một thuật cực thiên tà, giang hồ không ai biết, Nam Cung phu nhân sở dĩ biết thuật ấy có lẽ là lão ma đầu kia bí mật truyền lại cho mụ. Vậy thì lão ma đầu đó tất có quan hệ với vị "Tồi tâm sứ giả" nhất định không thể không được.
Lão nhân đăm đăm nhìn chàng hồi lâu, rồi nói:
- Ngươi quả là một đứa trẻ thông minh hiếm có, chính ta cũng đoán như vậy, nhưng chưa dám xác định. Ngươi hãy tạm lưu lại đây bảy ngày, chờ ta nghiên cứu phương pháp phá môn vũ công của Lan cô. Ngươi thử cố nhớ lại những chiêu thức của cô ta sử dụng thế nào, nói lại cho ta rõ.
Vô Tâm ở lại trong thạch thất bảy ngày, tinh thần và vũ công đều tiến tới trông thấy. Trong thời gian đó, chàng chỉ thắc mắc về Điền Tú Linh, không biết tâm trạng của nàng thế nào, nhưng mỗi lần nhắc tới lão nhân lại gạt đi, nên chàng cũng không dám gặng hỏi.
Thời gian bảy ngày đã qua, chàng liền từ biệt lão nhân.
Ông ta cũng không giữ, chỉ ân cần dặn chàng hành sự phải kín đáo. Rồi đưa chàng ra cửa. Ra đến gian ngoài, không trông thấy Tú Linh, chàng tái mặt vội hỏi:
- Lão nhân gia, Tú Linh ...
Ông già thủng thẳng đáp:
- Đi rồi!
Vô Tâm đăm đăm nhìn ông, ấp úng hỏi:
- Nhưng... nhưng lão nhân gia đã đem... đem nàng...
Lão nhân sầm mặt gắt:
- Ta làm gì nàng?
Vô Tâm cúi đầu nói:
- Đệ tử không có ý gì khác, chỉ vì Điền cô nương đã cứu mạng cho đệ tử, đệ tử lại đưa nàng tới đây, thế tất phải có bổn phận...
Ông già cau mày ngắt lời:
- Ta biết rồi, nhưng ở đây cần phải giữ bí mật, không phải ai cũng có thể bước chân vào được. Ta đã sai người đưa nàng xuống núi, tính mạng vẫn an toàn, ngươi đừng lo.
Vô Tâm biết ông già quyết không nói dối, nên cũng hơi yên tâm. Chàng toan lên núi bái biệt vị lão nhân kia, chợt thấy lão Tạ chạy ra nói:
- Nhị lão gia dặn tôi thưa với Nhâm tướng công là người đã bế quan, tướng công khỏi phải lên chào nữa.
Lão lại cười nói tiếp:
- Lần này tướng công trở về sơm sớm, lão nô sẽ để phần tướng công thật nhiều thạch giải thật ngon.
Vô Tâm mỉm cười bái biệt lão nhân, và từ giã lão Tạ, rồi thoăn thoắt bước lên Hắc cốc.
Khi ra tới chỗ mấy bộ hài cốt, chàng bỗng giật mình dừng lại, mắt trợn tròn xoe. Thì ra chàng vừa trông thấy phía sau hai cỗ thi hài cũ, lại mới thêm hai cái xác nữa. Hai người này đều mặc võ phục đen, trạng thái lúc chết trông thật đáng sợ.
Vô Tâm định thần nhìn kỹ, thấy hai xác chết tuy đã lạnh cứng, nhưng rõ ràng là khi cùng Tú Linh vào cốc, chàng đã để ý nhận xét, tuyệt không thấy hai cái xác đó, vậy thì trong thời gian chàng ở trong động, hai người đó mới lẻn vào, và ai đã giết họ?
Chàng cúi xuống xem xét tỷ mỉ, xem hai người này chết vì cớ gì, nhưng không tìm thấy vết thương, cũng không thấy có vết máu. Chỉ thấy bốn con mắt lồi cả ra ngoài, hình như họ bị tay cao thủ nào đó dùng nội công đánh chết.
Trong vũ lâm hiện thời, những người có nội công tuyệt đỉnh như vậy rất hiếm. Vô Tâm nghĩ mãi vẫn không đoán ra là ai, tại sao lại đến đây đánh chết hai người này, rồi biến đi mất tích.
Chàng còn đang suy nghĩ, chợt nghe từ phía xa xa, có tiếng quát tháo văng vẳng đũa lại. Vì con đường trong cốc khí lạnh buốt như kim châm, nên tiếng nói vừa ra khỏi miệng lại lập tức bị đông kết lại, không thể đưa đi xa được. Vậy mà tiếng quát tháo đó có thể truyền tới tai chàng, đủ hiểu người ấy tất phải có nội lực kinh nhân, trung khí sung mãn.
Vô Tâm giật mình, vội tung mình chạy đi như bay, chỉ vài ba lần nhô lên hụp xuống trong đám sương mù phía trước, quả đã trông thấy bóng người phấp phới, đao kiếm lấp loáng.
Chàng dừng bước lại , nấp sau một mỏm đá, rồi len lén đi dần ra. Khi còn cách hơn một trượng, chàng mới lờ mờ nhận thấy mấy bóng người trước mặt.
Chỉ thấy ba người đàn ông mặc võ phục đen, tay cầm đơn đao bản hẹp đang vây xung quanh một người tầm vóc cao lớn, vượt hẳn thường nhân.
Loại binh khí của ba người này tuy vẫn thường thấy ở trong giang hồ nhưng cách họ thi triển thật là quỉ quái, quái dị vô cùng. Người cao nhất tay phải múa con dao lên như cơn gió lốc, liên tiếp đánh ra theo phép liên hoàn, dao nọ nối dao kia, liên miên bất tuyệt, không để cho đối phương kịp thở.
Một người cầm dao tay trái, đao pháp tuy cũng giống người kia, nhưng lại toàn đi ngược đường, làm cho người ta không biết đâu mà phòng được. Và đường đao của hai người, một đi thuận, một đi nghịch, phối hợp lại thành không còn một khe hở nào.
Còn người bé nhỏ nhất lại thi triển môn đao pháp Địa thăng là một môn hiếm thấy ở trên giang hồ. Con đường này đã hẹp lại tối, dưới đất thì lởm chởm những huyền băng mà hắn thi triển môn đao pháp đó, quả khiến cho người ta phải kinh sợ.
Trong ba người này, dù phải đối phó với một người cũng khó khăn thay, huống hồ đằng này lại ba người tiếp tay nhau, trên dưới tung hoành, kẻ hô người ứng, dù không sơ hở chút nào, dù cho các vị chưởng môn Thiếu Lâm hay Vũ Đương, cũng khó lòng chiến thắng được bọn họ.
Nhưng người cao lớn đứng trong đám đao quang lấp lánh đó, chỉ dùng tay không đón đỡ ba ngọn đao dài, mà vẫn tỏ ra ung dung nhàn hạ, không những không bị lạc hạ phong mà còn công nhiều hơn thủ.
Chỉ thấy mỗi lần ông ta vung chưởng lên đều kèm theo một luồng chưởng phong cực kỳ mãnh liệt, vũ công cao cường và nội lực thâm hậu ấy,Vô Tâm từ khi hành tẩu giang hồ đến nay, quả chưa từng thấy bao giờ. Có lúc đối phương chém qua một đao, rõ ràng không còn chỗ nào né tránh nữa, vậy mà ông ta chỉ khẽ ngả người qua một chút là đã nhẹ nhàng tránh thoát.
Mục lực như Nhâm Vô Tâm mà cũng chịu phép, không hiểu thân pháp của ông ta biến hóa thế nào.
Chàng lẳng lặng nhẩm tính mấy cao thủ võ lâm đương thời, những người đó mình không biết mặt, nhưng tuyệt không thấy có ai có công lực thâm hậu và thân pháp kỳ quái như người này.
Chỉ trong phút chốc, mấy người áo đen, hình như cũng tự biết không thể cầm cự lâu được nữa, thế tất phải đánh một canh bạc cuối cùng, ba lưỡi dao dài đành kết thành một màng lưới, dần thu hẹp lại, mắt trông thấy ba mũi dao nhọn sáng loáng phóng ra, hình như đều chĩa cả vào người cao lớn, nhưng trong không đầy một nháy mắt đó, ông ta đã lọt ra khỏi lưới đao, nếu người áo đen biến chiêu không nhanh, ba lưỡi dao dài tất phải đâm trúng lẫn nhau.
Vô Tâm càng xem, càng kinh hoàng, chàng biết cái lối đánh giáp la cà như vậy, tình trạng lại càng nguy hiểm, sự sống chết thắng bại chỉ trong khoảnh khắc. Nhưng vì cả hai bên đối với chàng cũng không quen biết, chưa rõ ai là bạn, ai là thù, có khi cả hai bên cùng là kẻ thù cũng chưa biết chừng, vì thế nên chàng không định ra tay giúp ai cả.
Đứng xem một lúc, chàng chợt nhận thấy bóng người cao lớn đứng giữa lưới đao, chưởng tuy lanh lẹ, nhưng trong chiêu thức hình như luôn luôn có chỗ sơ hở, mấy người áo đen đánh sát lại gần, chính là nhắm vào những chỗ sơ hở đó, họ hy vọng trong trường hợp cần phải đánh nhanh tay, đối phương không thể dùng chưởng phong hùng hậu để bù đắp vào những chỗ sơ hở được. Chỗ dụng tâm độc ác của họ như vậy, chính Nhâm Vô Tâm cũng không ngờ tới.
Một cao thủ nội gia tuyệt đỉnh, mà chiêu thức còn những chỗ sơ hở, điều ấy càng làm cho Vô Tâm phải kinh ngạc.
Chàng leo lên, bước lần thêm mấy thước nữa, khi giáp đến tận nơi, mới nhận ra người cao lớn đó chỉ là một người tàn phế, vừa rồi vì sương mù nhiều quá, nên mãi lúc này chàng mới nhận rõ.
Người đã bị tàn phế, võ công dù cao đến mấy, chiêu thức cũng không sao tránh khỏi sơ hở. Nếu là một chọi một, thì những chỗ sơ hở đó cũng không lấy gì làm ngại lắm, nhưng lúc này ông ta phải chống đối với ba cao thủ, ba thanh dao dài, từ bốn phía đổ dồn tới, trên dưới giáp công, dẫu có ba đầu sáu tay, cũng chưa chắc đã phòng ngự xiết, huống hồ đằng này ông ta chỉ còn một cánh tay và một cẳng chân.
Vô Tâm còn đang ngậm ngùi tiếc rẻ, óc chàng thốt nhiên chợt nhớ tới người dị nhân đã liều mạng cứu mình dạo nọ, chàng tuy chưa biết mặt ông ta, nhưng cứ nghe lời Tú Linh miêu tả hình dáng, diện mạo vị ân nhân đó, đem so với con người khôi vỹ kia, thật không sai tý nào. Chàng gật gù nghĩ thầm: "Đúng rồi, đúng là vị ân nhân của mình rồi! Chắc chắn không sai! Ta phải cứu mới được".
Lúc này người cụt tay đã bị đối phương khám phá nhược điểm, tình thế mười phần nguy ngập, Vô Tâm sẽ len lén bước ra thân hình nhích đi như con cá bơi, lừ lừ tiến về phía sau người áo đen, bốn người đang mải đánh nhau, không ai để ý.
Chàng liền xếch ngược lông mày, thét lên một tiếng, tay trái dùng quyền, tay phải dùng chưởng, một chiêu hai thức phóng ra thật nhanh.
Người áo đen nghe tiếng thét, giật mình kinh sợ, chưa kịp xoay trở thì hai luồng chưởng phong như vũ bão, đã từ phía sau phóng tới.
Hắn đã từng gặp đại địch nhiều lần, nên không cần quay lại, cũng biết người đánh phía sau võ công cao tuyệt, dẫu có tránh được chiêu đầu, thì những chiêu sau liên miên tiếp tới, chắc cũng khó lòng đỡ nổi, bèn xoay người ghé chân rút đao về dùng chiêu Bát phương phong vũ múa thành một luồng đao quanh như bóng mây, che kín thân thể, đó chính là một thế thủ tuyệt diệu.
Vô Tâm chẳng những không lui lại tiến thêm một bước thi triển chiêu vô thượng tuyệt học Phân quang tróc ảnh hai tay không sấn vào trong luồng đạo quang, miệng quát:
- Còn chưa buông à?
Người áo đen thấy con dao trong tay bỗng dưng chặt cứng, thì ra sống dao đã bị Vô Tâm nắm chặt, hắn hoảng hốt vội ráng sức rút dao về, nhưng chẳng khác bọ ngựa lay cột đá, bọ ngựa tuy ráng hết hơi tàn, mà cột đá vẫn trơ trơ không chuyển. Hắn vừa toan vứt dao bỏ chạy, nào ngờ một luồng chân lực đã từ mũi dao tuôn xuống, hắn chỉ cảm thấy hổ khẩu như muốn bật tung ra. Vô Tâm lại quát:
- Nằm xuống!
Thanh trường đao lập tức bị đu về phía trước, chiêu đao đã điểm vào ba đại huyệt Tương đài, Nhũ toàn, Huyền cơ của hắn. Gã áo đen chỉ kịp “hự” một tiếng, rồi ngã lăn xuống đất.
Còn hai gã kia, lúc này vẫn dùng hai thanh dao dài vây kín người cụt tay, nhưng đã không chiếm được ưu thế như lúc ban đầu.
Hai người trong bụng đã hơi hoang mang, lại thấy đồng bọn đã bị Vô Tâm hạ, lại càng hoảng hốt, bèn huýt sáo ra hiệu cho nhau, cùng chém dứ một dao, rồi toan bỏ chạy.
Người cụt tay vội quát:
- Chạy đi đâu?
Ông ta dùng chiêu Vân long thám trảo năm ngón tay chìa ra như năm lưỡi câu, tóm lấy cổ tay gã áo đen, xiết mạnh, gã đau quá vừa buông rơi con dao xuống đất, lại bị đối phương bồi luôn cho một chưởng, thế là ngã gục.
Bên kia, Vô Tâm cũng dùng thế liên hoàn điểm ba huyệt đạo của một người áo đen khác. Ta nên biết ba người áo đen này đều có võ công tuyệt thế, nếu không gặp lúc họ thất đảm kinh hồn, thì Vô Tâm làm sao có thể đắc thủ nhanh chóng như vậy được.
Người cụt tay thấy ba địch thủ đã bị đánh ngã, bèn vươn cổ hú lên một hơi dài, làm cho cả tòa trường cốc dài mấy trăm trượng đều vang lên những tiếng "oang oang" như tiếng chuông lớn đổ hồi, mãi mãi không ngớt, đủ tỏ là trong bụng ông ta hào hứng vô cùng.
Đợi cho hết tiếng vang vang, người cụt tay mới vuốt chòm râu rối dưới cằm, cười nói:
- Hẩy tay một cái mà cường địch đã bị bắt, vũ công của bằng hữu giỏi quá!
Vô Tâm cũng cười nói:
- Không dám!
Người cụt tay đang cười chợt ngừng lại nói:
- Nhưng ta với bằng hữu không quen biết nhau bao giờ, sao bằng hữu lại ra tay giúp ta? Ngươi đã ở trong cốc ra, tất phải biết người bị ngươi đánh ngã vừa rồi là ai chứ?
Vô Tâm cười thầm tự nghĩ: “Người này thật cuồng ngạo, ta cứu hắn thoát nạn, mà hắn còn hạch sách sằng, không trách Tú Linh bảo hắn là một quái nhân, trên đời hiếm có cũng đúng.” Chàng nghĩ vậy liền đằng hắng một tiếng dài, rồi nói:
- Tiền bối không nhận ra tại hạ ư?
Người cụt tay hai mắt sáng như điện, nhìn trừng trừng vào mặt Vô Tâm một lát, miệng lẩm bẩm nói:
- Trông mặt hơi quen quen thật...
Trong cốc lúc này quả thật hơi tối, Vô Tâm bước lên hai bước, mỉm cười nói:
- Tiền bối!
Người cụt tay thốt nhiên reo to một tiếng:
- À thì ra ngươi!
Rồi ông ta ngửa cổ lên trời cười sằng sặc, Vô Tâm thấy thế biết là mình đoán không sai. Người cụt tay cười xong nắm lấy tay chàng lắc mạnh rồi nói:
- Thiên đạo tuần hoàn, không ngờ người cứu ta hôm nay, lại chính là người ta cứu bữa trước. Thật là trời có mắt.
Nghe giọng nói của ông ta vừa có vẻ vui mừng, vừa cảm khái, Vô Tâm cũng lấy làm sung sướng, khom mình thi lễ mà rằng:
- Tại hạ may mắn, lần này tình cờ lại được báo đáp tiền bối chút đỉnh, đã thấm vào đâu với cái ơn cao dầy của tiền bối.
Người cụt tay chợt nghiêm sắc mặt nói:
- Đúng thế, người chẳng qua trong khi vô ý cứu ta, còn ta thì lại cố ý cứu ngươi. Từ nay trở đi giữa ta với ngươi không ai thiếu nợ ai nữa. Lần sau nếu thấy ngươi bị nạn, ta cũng không cần phải cứu, hoặc ngươi thấy ta bị nạn cũng vậy.
Vô Tâm bật cười nghĩ thầm: "Thật là quái nhân". Chàng chưa kịp nói gì, ông già cụt tay đã cúi xuống nhặt con dao dài, chống thay làm gậy, quay mình toan đi. Vô Tâm vội gọi:
- Tiền bối hãy thong thả, tại hạ...
Người cụt tay quay lại trừng mắt hỏi:
- Ai là tiền bối của ngươi? Ngươi thấy ta già thật sao?
Vô Tâm sửng sốt giây lâu, rồi cười lấy lòng:
- Cái ấy...
Người cụt tay chợt cười ha hả:
- Chúng ta tuy không thiếu nợ nhau, nhưng cuộc gặp gỡ hôm nay cũng kể như có duyên với nhau, ta định đi mua rượu để cùng ngươi thống ẩm mấy chén cho vui.
Nói xong lập tức phơi phới bay đi. Ông ta tuy chỉ còn một chân, nhưng hành động rất mau lẹ, bước đi không hề nghe thấy tiếng, Vô Tâm cũng đi theo.
Hai người tới một eo núi nhỏ, ông già cụt tay mới dừng lại, thò tay vào khe vách đá, lấy ra một chiếc bầu lớn, rồi cười khanh khách nói:
- Cả cơ nghiệp của ta chỉ có cái bầu này, nó mới thật là tính mạng của ta, thân ta dù bị người đả thương cũng không sao, chớ cái hồ này thì tuyệt đối không thể để cho ai đập vỡ được, vậy nên mỗi khi giao thủ với ai, ta phải giấu nó ở một chỗ thật kín đã... hì... hì, rượu này tuy không ngon, nhưng cũng đủ để khử hàn, tráng đởm. Ngươi thử nếm chơi vài hớp.
Trong khi nói, ông ta đã đổ lấy uống một ngụm, chỉ thấy một mùi vị cay cay đưa từ cổ họng xuống đến dạ dày, bất giác buột miệng khen:
- Ngon... khà khà, rượu ngon!
Người cụt tay chợt cười ha hả, lại đỡ lấy bầu. Hai người cứ luân lưu thống ẩm, cùng cảm thấy thư sướng dễ chịu. Giao tình của họ dường như cũng gần thêm một chút.
Vô Tâm nghĩ thầm: “Ông già này cũng là người có tính tình, nhưng lại cố tình ra vẻ cổ quái, lãnh khốc, bên trong tất phải có ẩn ý gì, hoặc giả ông ta còn có một tâm sự đau thương, không thể nói ra được chăng? Ta phải dò xét dần mới được.” Nghĩ vậy, chàng liền lên tiếng:
- Tiền... ờ quên... huynh đài
Chàng nói chưa dứt lời, ông già lại trừng mắt:
- Ta không phải tiền bối của ngươi mà cũng chẳng phải huynh đài của ngươi.
Vô Tâm mỉm cười nói:
- Vậy thì tại sao các hạ lại đến đây? Và tại sao lại đánh nhau với mấy tên áo đen?
Người cụt tay vỗ mạnh vào chiếc bầu rượu nói:
- Có một việc ngươi không hỏi, ta cũng muốn hỏi ngươi.
Vô Tâm nói:
- Các hạ cứ hỏi!
Người cụt tay nói:
- Ngươi có biết một gã đệ tử phái Nam Hải kiếm, kiếm pháp cũng đã luyện tới sáu bảy thành hỏa hầu, gã cũng chỉ có một cánh tay.
Vô Tâm không đợi ông già hỏi dứt lời đáp:
- Mộ Dung Phi, người ấy nhất định là Mộ Dung Phi. Sao các hạ lại biết hắn?
Người cụt tay cười hì hì nói:
- Hôm ấy ở trong ngôi miếu hoang núi Chung Nam, hắn chỉ lăm le muốn giết ngươi.
Vô Tâm đỏ mặt cười gượng:
- Thế thì đúng gã rồi, nhưng hiện thời gã không còn sống nữa.
Ông già gật gù:
- Gã chết thật rồi, nhưng không phải ở trong ngôi miếu đó. Sau khi từ biệt các ngươi, ta đi thẳng tới địa phận Tam túc, đêm ấy định tìm một ngôi miếu hoang ngủ đỡ, không ngờ lại trông thấy thi thể của Mộ Dung Phi ở cửa miếu. Vậy mà ta cứ yên trí hắn chết ở sau núi Chung Nam rồi, lúc này trông thấy xác hắn ở đấy, không khỏi kinh ngạc...
Vô Tâm thở dài liền đem những lời Tú Linh thuật lại, kể sơ qua cho người cụt tay nghe. Người cụt tay lắc đầu:
- À bên trong lại còn có một đoạn quanh quéo như vậy mà ta đâu có biết. Vì thế hôm ấy trông thấy xác Mộ Dung Phi, trong bụng không khỏi ngờ vực.
Vô Tâm nói:
- Hôm ấy chúng tôi sơ ý quá, quên không đem chôn hắn đi. Nhưng không biết các hạ tới đấy, cách đây đã bao lâu rồi?
Người cụt tay đáp:
- Ta tới ngôi miếu hoang vào đêm trăng tròn. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc như ban ngày, ta đang cúi xuống xem kỹ xác hắn, chợt nghe phía xa có tiếng quần áo, bay phần phật, nghe tiếng gió cũng biết người sắp đi tới vũ công cũng khá cao, và không chỉ có một người.
Ông đưa bầu rượu lên nhấp một hơi, rồi tiếp:
- Ta không muốn sinh chuyện lôi thôi, bèn vội nấp vào một chỗ kín. Dưới bóng trăng trông rõ ba người mặc võ phục đen, sóng vai đi tới. Có lẽ họ cũng định vào miếu trú chân.
Vô Tâm buột miệng hỏi:
- Ba người ấy có lẽ là ba người đánh nhau với các hạ khi nãy chăng?
Người cụt tay chau mày nói:
- Chính đấy, nhưng trong khi ta nói chuyện, ngươi không được hỏi xen. Nếu ngươi cứ dúng mồm vào, ta sẽ không nói nữa.
Vô Tâm mỉm cười ngồi im, ông ta lại nói tiếp:
- Ba người trông thấy xác Mộ Dung Phi cùng kêu lên một tiếng, rõ ràng là họ có quen biết gã kia. Sau đó họ xúm lại mai táng cho gã. Ta chợt nảy tính tò mò, muốn biết ba người kia là ai, và cũng muốn điều tra xem tại sao Mộ Dung Phi lại đến đây mà chết, lại cũng muốn tìm hiểu các người với bọn họ có thù oán gì, liền lập tức theo dõi họ. Hà hà, ba người kia vũ công đều vào hạng khá, vậy mà suốt dọc đường, không hề khám phá ra một kẻ tàn phế đang theo dõi.
Ba người ngày đi đêm nghỉ, hành tung cực kỳ bí mật, hình như không muốn gặp mặt ai. Nhưng mặc dầu họ đi đến chỗ hẻo lánh nào, cũng có người chờ đón liên lạc. Những người này hành động đều hết sức cẩn thận, tuy trong lúc vắng vẻ cũng ghé tai nhau thì thầm, ta cố lắng tai nghe, cũng chỉ loáng thoáng câu được câu chăng, không rõ ra là chuyện gì, thỉnh thoảng họ lại nhắc đến thằng bé họ Nhâm, hình như lần này họ sang phía tây, là cốt để đối phó với thằng bé ấy.
Vô Tâm kinh sợ nghĩ thầm: “Ba người này nhất định là người trong Nam Cung thế gia, không còn hồ nghi gì nữa. Có lẽ họ đã biết hết hành tung của mình, nên đi gấp tới đây để ngăn cản, không cho mình về nữa chăng.”
Người cụt tay vẫn tiếp tục kể:
- Ta tuy không biết thằng bé họ Nhâm là ai, nhưng nghe giọng lưỡi bọn này thì hình như chúng đối với gã họ Nhâm vừa giận vừa sợ. Ta bèn quyết định theo đến cùng, xem chúng thuộc về đảng phái nào. Nhưng lúc đó ta bất quá chỉ định đi xem cho biết, chớ tuyệt không có ý muốn gây chuyện với chúng. Bọn kia hình như cũng không có mục đích, chỉ đi quanh quẩn trong vòng năm ba dặm, tựa hồ muốn tìm kiếm vật gì, hay chờ đợi ai. Lúc nào cũng đề phòng cẩn thận như sắp sửa đánh nhau to, thậm chí lúc đi ngủ, chúng cũng cử người thay phiên nhau canh gác, không dám biếng nhác. Luôn trong mấy ngày như vậy, ta đã thấy sốt ruột, không ngờ giữa lúc ấy, người mà chúng chờ đợi đã đến thực.
Vô Tâm suýt buột miệng hỏi, nhưng chợt nhớ ra, lại vội vàng im miệng. Người cụt tay vẫn thủng thỉnh nói:
- Sáng sớm hôm ấy, ba người đã mua sẵn rượu ngon, gà béo, chờ đến gần chiều, mới đem đến một cái nhà gần bãi tha ma. Ta thấy thế biết chúng đã hẹn với người nào đến đó hội họp. Nhưng mãi tới hết giờ tý, vẫn chẳng thấy ma nào đến, ba người hình như đói quá, bụng réo ầm ầm, nhưng vẫn không dám đem rượu thịt ra ăn. Thấy tình huống đó, ta đoán người chúng đợi, tất phải là một nhân vật quan trọng, nên cũng cố nhịn đói khát, nằm phục trong xó tối, không dám cựa. Chờ một lúc khá lâu, quả nhiên có một bóng người phơi phới đi lại, người này mặc áo dài màu xám, trong khi đi vai không động, chân không co, tựa như cưỡi gió mà đến.
Lúc này gió đêm lạnh lẽo, trong bãi tha ma quạ kêu cú rúc, cái bóng người xuất hiện lúc ấy chẳng khác gì một bóng ma, người yếu vía trông thấy không khỏi rùng mình.
Người cụt tay ngừng lại lát, rồi lại tiếp:
- Lúc ấy ta chỉ muốn xem cho rõ cái mặt mũi cái bóng đó, vì trong giang hồ những người luyện khinh công tới bậc ấy chẳng được bao nhiêu. Nháy mắt đã thấy cái bóng đó tiến lại gần, ta chú ý nhìn thấy mặt hắn như chàm đổ, râu quai nón lởm chởm, trông còn dữ hơn mặt ác quỷ.
Nhưng khi nhìn kỹ, mới biết bộ mặt dữ đó chỉ là mặt người. Tuy nhiên trong cái tình thế nghiêm trọng như thế này mà hắn đeo mặt nạ đến, thật là một sự ra ngoài ý liệu của ta, cho đến bây giờ ta vẫn chưa hiểu rõ dụng ý của hắn làm thế để làm gì? Nếu là chơi đùa, thì không phải lúc, mà nếu chỉ cốt che dấu bộ mặt thực, thì sao hắn không lấy một mảnh vải đen che đi, việc gì phải làm trò như thế?
Ông ta nói đến đấy, lại nâng bầu tu một hớp rượu rồi tiếp:
- Ba tên áo đen trông thấy người đeo mặt nạ đi vào, đều đứng bên khúm núm vái chào, cười nói:
- Lão tiên sinh đến sớm quá, vãn bối đã sửa soạn rượu thịt, mời lão tiên sinh thưởng thức vài chén cho ấm bụng.
Ta nghe chúng gọi người kia là "lão tiên sinh" mới biết họ không phải là người đồng phái. Cũng may lúc ấy đêm đã quá khuya, chúng không sợ ai nghe trộm, nên không cần nói nhỏ vì thế ta mới nghe được rõ lắm.
Người đeo mặt nạ hình như không thèm để ý đến thái độ cũng kính lễ phép của bọn kia, vừa bước vào chiếu rượu, đã ngồi ngay xuống,tay đũa tay bát ăn uống nhồm nhoàm, không khác gì một con ma đói, đã bảy ngày không được hột gì vào bụng báo hại những con sâu đói trong bụng ta đều nhao nhao lên phản đối, mà ba tên áo đen đứng cạnh lão cũng nuốt nước bọt ừng ực.
Vô Tâm thấy ông ta tả cảnh như thực, bất giác cũng mỉm cười, nhưng không dám chen lời. Người cụt tay vẫn thản nhiên nói tiếp:
- Lão ta ăn uống chán chê rồi, mới thò tay vào mình lấy ra một chiếc phong bì dán kín, đưa cho ba người rồi nói:
- Trong vòng ba ngày phải đem đi ngay, đừng để lỡ việc biết không ?
Tiếng lão khàn khàn như tiếng vịt đực. Ba người kia kính cẩn đỡ lấy phong bì, sắc mặt đều lộ vẻ hớn hở. Chỉ tiếc gì mắt ta không trông thấy suốt được phong bì, nên không rõ bên trong họ viết gì.
Vô Tâm thất vọng thở dài một tiếng, chàng đoán phong thư ấy tất phải là then chốt quan hệ rất lớn đến vận mệnh của vũ lâm. Người cụt tay lại nói:
Người áo xám đưa phong thư cho bọn kia xong, lại nói: “Về nói với chủ nhân các ngươi rằng đây là một kế sách chỉ thị lần cuối cùng của lão gia, từ lần sau trở đi toàn do chủ nhân các ngươi tùy cơ hành sự, cuộc chiến đấu dù thắng dù bại, lúc này còn chưa xác định, nhưng vô luận thế nào, lão gia cũng không gặp mặt các ngươi nữa đâu. Các ngươi không cần phải tới đây nữa.”
Vô Tâm nghe tới đây, bất giác kinh sợ nghĩ thầm: “Nếu thế thì việc này Nam Cung phu nhân không phải là nhân vật chủ não, sau lưng mụ lại còn có một người ra chỉ thị cho mụ làm. Không biết người này với nhà Nam Cung thế gia có quan hệ thế nào? Và việc cơ mật đó là việc gì?”
Người cụt tay hình như không biết câu chuyện mình đang tự thuật có quan hệ trọng đại tới sự sống chết của vũ lâm thế nào, nên vẫn bình tĩnh kể:
Ba người nghe xong đều biến sắc mặt. Một người nói: "Chủ nhân chúng tôi đang hết lòng mong mỏi ở tiên sinh, sao bỗng dưng tiên sinh lại thoái lui nửa chừng?” Lão già cười nói: "Lão chủ nhân sở dĩ không nói ra được là vì việc này đã gần tới thời kỳ tỏ rõ, dẫu phía địch nhân còn có vài bí mật, chủ nhân ngươi chưa biết, nhưng hiện thời đã có người khác nói hết cho chủ nhân các ngươi nghe, không cần lão nhân gia phải phí tâm nữa.”
Vô Tâm nghe đến đây sợ toát mồ hôi, tự nghĩ: “Người khác là ai? Sao người ấy lại biết việc bí mật của ta?” Chàng còn đang suy nghĩ, người cụt tay lại nói tiếp:
Lão áo xám trầm ngâm một lát rồi lại nói: “Nhưng nếu sau này các ngươi có chuyện gì khẩn cấp muốn cầu báo ta, thì cứ lại địa chỉ này tìm lão.” Nói xong lão lại thò tay vào mình lấy ra một mảnh giấy nhỏ, trong đó biên mấy chữ ý chừng là địa chỉ của lão. Ta đã định đi theo, nhưng khốn nỗi lão đi nhanh quá, biết có đuổi cũng không kịp, ta đành phải dùng tới hạ sách là tìm cách lấy lại phong mật thư ở trong mình bọn kia.
Dè đâu lúc ấy lai có hai bóng đen khác vùn vụt bay tới, thân pháp đều cực kỳ nhanh nhẹn, mà chức phận hình như cũng cao hơn ba người đến trước. Vừa đi đến nơi, họ liền bắt ba người kia trao họ những thư tín vừa rồi, lại ghé tai ba người kia thì thào dặn dò một lúc, mới cầm thư quay đi. Ta nghĩ nếu muốn đi theo hai người đó, chắc họ đã đi xa rồi.
Ông ta thở dài nói tiếp:
- Thế là ta chỉ đành giương mắt trừng trừng nhìn theo bọn họ đem theo hai lá thư bí mật đi, còn ba người kia cũng ngồi xuống ăn uống nốt chỗ cơm rượu còn thừa.
Vô Tâm cũng vò đầu bứt tai còn ý tiếc rẻ, biết rằng dịp tốt đã mất, sau này dù có muốn tìm ông già áo xám kia, chắc là còn khó hơn mò kim dưới đáy bể.
|