Hồi 49
Xe ngựa đi chừng nửa giờ, bàn tay Bách Duy luôn luôn đưa đi đưa lại trên mình “Huyền Chân”, mắt vẫn liếc nhìn cử chỉ của Vô Tâm. Nhưng mặc dù hắn làm đủ mọi cách, vẫn không sao giải nổi huyệt đạo cho “Huyền Chân”.
Bách Duy thở dài lẩm bẩm: “Không ngờ Vô Tâm lại có thủ pháp điểm huyệt độc môn thế này! Không biết làm thế nào giải được bây giờ?” Giữa lúc ấy chợt nghe “Huyền Chân” cũng thở dài một tiếng. Bách Duy hỏi:
- Ngươi có biết cách giải huyệt không? Có biết thì nói mau lên!
Hắn nói tới đấy mới chợt nhớ ra “Huyền Chân” đã bị điểm huyệt, còn nói thế nào được? Hắn lại tuyệt vọng thở dài, ruột gan nóng như lửa đốt, kỳ thật thì trong bụng “Huyền Chân” lúc ấy có lẽ còn bồn chồn hơn cả Bách Duy.
Ngày đi đêm nghỉ, không biết trải qua bao nhiêu lâu, Bách Duy đã thử nhiều lần, vẫn không sao giải được huyệt cho “Huyền Chân” mà vết thương của hắn tuy đã gần khỏi, nhưng còn một cánh tay vẫn không vận chuyển được như ý.
Anh em Diệu Pháp thì vì tuổi trẻ, sinh lực đang bồng bột, nên chưa biết lo, họ cho là họ có thể làm được hết mọi sự và ở trên đời không có việc gì là khó cả!
Vô Tâm được nghỉ ngơi mấy ngày, sắc diện đã bớt tiều tuỵ, nhưng thần trí vẫn còn lúc mê lúc tỉnh, có khi chàng ngồi ngây ra tới bốn năm giờ, đôi mắt đăm đăm nhìn qua cửa sổ, chẳng nói chẳng rằng.
Hôm ấy đã đi tới địa phận Dự Châu, Diệu Quả chợt trỏ tay về phía trước, cười nói:
- Lạ chưa kìa, ban ngày ban mặt, mà sao lại có người đi đường phải thắp đèn?
Diệu Không cười nói:
- Mỗi nơi có một phong tục lạ, mình không biết lại còn cười người ta!
Diệu Quả nói:
- Chiếc đèn ngũ sắc đẹp quá, trông như đồ chơi của trẻ con.
Bách Duy thấy nói là đèn ngũ sắc, bất giác giật bắn người lên, hắn vừa chợt nhớ tới trên chiếc cẩm nang thứ hai có đề rằng: “Lúc nào trông thấy chiếc đèn lồng bằng giấy ngũ sắc thì mở ra xem. Nhưng nếu dưới chiếc đèn không có xác người, thì phải đốt ngay cẩm nang đi.”
Bách Duy tuy đã thuộc lòng mấy câu ấy, nhưng vẫn yên trí rằng gặp đèn lồng tất phải vào lúc đêm tối, nên khi nghe thấy Diệu Quả nói có người xách đèn lồng, hắn cũng không để ý. Lúc này hắn mới hốt hoảng, thò đầu ra cửa sổ hỏi:
- Đâu? Chiếc đèn lồng ngũ sắc đâu?
Diệu Quả ngoảnh lại cười nói:
- Vừa rồi có hai người xách đèn lồng, nhưng họ đã rẽ vào con đường nhỏ từ nãy rồi.
Bách Duy kinh sợ buột miệng hỏi:
- Dưới chiếc đèn lồng có cái xác chết nào không?
Diệu Quả ngơ ngác hỏi:
- Xác chết? Dưới đèn lồng thì phải có xác chết à?
Bách Duy tự biết lỡ lời, vội cười gượng lấp:
- Ta hỏi đùa đó thôi. Nhưng người xách đèn lồng hình dạng thế nào? Trạc độ bao nhiêu tuổi?
Bọn Diệu Pháp thấy hắn hỏi tỉ mỉ như vậy, đều lấy làm kinh ngạc. Diệu Quả sẽ đáp:
- Họ đứng xa quá nên trông không rõ, nhưng hình như tuổi cũng còn trẻ, quần áo đều màu đen, mặt mũi trông không rõ lắm.
Bách Duy cau mày nghĩ thầm: “Có lẽ đúng là người phía ta rồi!”
Diệu Vũ chợt hỏi:
- Tiền bối hỏi kỹ thế, hẳn đã nhận thấy sự gì lạ chăng?
Bách Duy chột dạ, gượng cười nói:
- Có gì lạ đâu? Ta cũng giống tính Diệu Quả hiền khế, hay tò mò, nên hỏi cho biết thế thôi!
Nói xong lại rụt đầu vào trong xe, nghĩ thầm: “Dưới ngọn đèn lồng không có xác người, theo lời dặn ta phải huỷ chiếc cẩm nang này đi. Nhưng hãy để thong thả đã, đừng hấp tấp mà lỡ việc.”
Giữa lúc ấy, chợt nghe có tiếng vó ngựa rầm rập từ phía sau đưa lại, chốc lát đã vượt qua cỗ xe. Bách Duy trông theo chỉ kịp nhân thấy ba con ngựa, người ngồi trên ngựa đều mặc võ phục đen, và mỗi đầu ngựa đều treo một chiếc đèn lồng bằng giấy ngũ sắc.
Bách Duy còn đang ngẩn người suy nghĩ, đã nghe tiếng Diệu Quả kêu lên:
- Kìa kìa, lại thêm ba chiếc đèn lồng ngũ sắc nữa kìa!
Bọn Diệu Pháp lúc này đều đã linh cảm thấy những chiếc đèn lồng kia tất phải có ẩn ý gì, nhưng không hiểu những ẩn ý ấy có liên quan gì tới bọn mình không?
Diệu Vũ trầm ngâm một lát rồi nói:
- Ba người này với hai người ban nãy nhất định là đồng bọn. Không hiểu họ đi đâu mà cùng tỏ ra vội vã hấp tấp thế không biết?
Diệu Quả nói:
- Sư huynh có đoán ra bọn này là ai không?
Diệu Vũ đáp:
- Năm người này có nhiều chỗ giống nhau, xem thế đủ hiểu chắc họ đều là người của một môn phái bí mật nào, và môn phái ấy tất đang hội họp ở đâu, nên mới truyền lệnh cho đệ tử dùng đèn lồng làm biểu ký cầm tới dự hội.
Diệu Pháp nói:
- Nhưng từ khi xuất sơn đến giờ, ta chưa từng thấy nói trong giang hồ có môn phái nào dùng đèn lồng ngũ sắc làm biểu ký. Không khéo lại là đảng phái Nam Cung thế gia cũng nên?
Diệu Vũ lắc đầu:
- Không phải, theo sự nhận xét của tiểu đệ thì phái này chắc là mới thành lập, nhưng thế lực cũng lớn lắm. Vì thế mà bọn đệ tử đi đường không cần phải tránh tai mắt mọi người.
Diệu Không nói:
- Môn phái ấy đã không quan hệ gì tới mình, thì mặc người ta, hơi đâu mà xét đoán cho mệt?
Mọi người cười cười nói nói một hồi, không câu nào lọt ra khỏi ta Bách Duy. Hắn nghĩ thầm:
- Bọn đó nhất định là môn hạ của Nam Cung thế gia, không biết họ hội họp ở phía trước có việc gì? Hoặc giả cũng là vì việc Nhâm Vô Tâm chăng? Nếu không thì sao Ngũ phu nhân lại phải trao cẩm nang cho mình?
Cỗ xe vẫn tiếp tục đi lên, ước chừng thổi chín nồi cơm. Vô Tâm chợt gọi to:
- Quay về bên trái!
Diệu Pháp sẽ gò dây cương, chú ý nhìn về phía trước, chỉ thấy trên đường cái vết xe ngựa chi chít ngổn ngang, người đi đường cũng đông vui tấp nập, rõ ràng là đã sắp tới một thị trấn.
Bên trái có con đường nhỏ, cỏ tốt ngập đầu, che kín cả lối đi. Nếu không chú ý, tất không mấy ai biết. Diệu Pháp tuy đánh xe rẽ vào đó, nhưng bụng vẫn nghi hoặc, buột miệng hỏi:
- Phải con đường này không?
Vô Tâm gật đầu:
- Đúng rồi, ngươi sợ ta thần trí mê man, trỏ lầm đường chăng?
Diệu Pháp đỏ mặt nói:
- Không dám giấu tướng công, tại hạ sợ con đường vắng vẻ thế này, rất có thể chỉ là đường cụt?
Vô Tâm cười nói:
- Đường này ta nhớ rõ lắm, không thể sai được, đừng sợ!
Chợt chàng hạ thấp giọng, nói nhỏ:
- Ngươi có biết con đường này ăn thông tới đâu không?
Diệu Pháp lắc đầu:
- Xin tướng công chỉ rõ cho!
Vô Tâm nói:
- Hồi nọ tại hạ vì muốn đối phó với Nam Cung thế gia nên mới đón một số cao nhân về đây tương tụ. Bọn họ tuy phần đông không phải là người có võ nghệ, nhưng mỗi người đều có một sở trường riêng. Vì muốn tránh tai mắt Nam Cung thế gia, nên tại hạ mới phải chọn chỗ bí mật này cho họ trú ngụ. Con đường này chỉ là một trong những lối đi vào đó.
Diệu Pháp nghe chàng nói năng có đầu đuôi rành mạch, trong bụng cũng mừng thầm, liền nói:
- Tướng công lo xa nghĩ sâu, bọn vãn bối thật không sao theo kịp.
Xe ngựa càng vào sâu bên trong, đường đi càng khúc khuỷu gập ghềnh, bánh xe thỉnh thoảng lại bị cỏ dài quấn vào. Diệu Vũ, Diệu Quả đành phải xuống xe đi theo phía sau để gỡ cỏ.
Đang đi chợt nghe đánh “sầm” một tiếng, hình như xe đụng phải cái gì. Vô Tâm vội hỏi:
- Xem có phải bên đường có nửa cái bia đá không?
Diệu Pháp dừng xe lại. Diệu Vũ rảo bước đi lên, chợt giẫm chân nói:
- Bia đá đây rồi!
Vô Tâm lại hỏi:
- Mé bên trái có cái gò phải không?
Diệu Pháp đảo mắt nhìn quanh, rồi đáp:
- Có cái gò thật!
Vô Tâm mở cửa xe nhảy xuống, rồi nói với Bách Duy:
- Đại sư đi lại bất tiện, chi bằng hãy nằm trên xe mà nghỉ!
Bách Duy vội nói:
- Không sao! Bần tăng thương thế đã bớt, có thể đi theo tướng công được mà!
Nói xong cũng nhảy xuống xe. Diệu Không tình nguyện ở lại coi xe, còn tất cả mọi người đều theo Nhâm Vô Tâm đi về phía gò bên trái.
Đứng xa trông cái gò chỉ nhỏ bằng tí, nhưng lúc tới gần mới thấy sừng sững một toà, không kém gì trái núi nhỏ, trên gò chỉ toàn những thứ cây lăng nhăng đủ các loại, không có đường lên. Vô Tâm nói:
- Chúng ta đi vòng qua hết cái đồi này, tức là tới cửa bí mật vào động.
Diệu Quả nói:
- Đệ tử xin đi mở đường.
Nói xong xăm xăm đi lên trước, nhưng vừa qua chỗ đường vòng, thốt nhiên kêu lên một tiếng khủng khiếp, rồi bước lùi lại mấy bước. Bọn Vô Tâm đều sợ tái mặt, vội quát hỏi:
- Cái gì thế?
Diệu Quả mặt nhợt như tờ giấy, giơ tay chỉ về phía trước không nói được nên lời. Mọi người đều rảo bước tiến lên, bất giác cũng đều rú lên một tiếng, đứng dừng cả lại.
Thì ra họ vừa trông thấy trong bóng tối có hai câu sào dài, trên đầu sào treo hai chiếc đèn ngũ sắc, và bên cạnh hai chiếc đèn còn buộc lủng lẳng bốn năm chiếc đầu lâu, máu tươi hãy còn nhỏ giọt.
Dưới bãi cỏ, thẳng chỗ treo đầu người xuống, còn có bốn năm cái xác không đầu, nằm thành một dãy. Đủ hiểu là những người này chết chưa được bao lâu, có thể chỉ trước khi bọn này tới đó một lát.
Diệu Vũ chỉ tay lên một chiếc đầu lâu treo trên sào, run run nói:
- Cái... cái đầu kia chính là người ban nãy cưỡi ngựa vượt qua xe chúng mình.
- Diệu Vũ đạo huynh thử khám mấy cái xác xem họ chết về bị thương ở đâu? Và có thấy vật gì khả nghi không? Diệu Quả đạo huynh thì đi xét quanh đây xem quân địch đã đi xa chưa?
Chỉ trong phút chốc, có lẽ vì bị kích thích quá độ, nên tâm trí Vô Tâm đã trở lại bình tĩnh như thường. Chàng điều khiển công việc thật đâu ra đấy. Diệu Vũ tinh mắt nên sai đi khám thây. Diệu Quả nhanh chân nên phái đi dò địch. Hai người vâng lệnh đi rồi, chàng bảo Diệu Pháp:
- Còn đạo huynh nên ở lại đây, sách ứng cho các mặt. Nếu thấy gì lạ thì hú lên báo hiệu, tại hạ sẽ chạy đến ngay.
Diệu Pháp hỏi:
- Tướng công định đi đâu?
Vô Tâm buồn rầu đáp:
- Trong bí huyệt lúc này, quang cảnh không biết đã biến chuyển đến thế nào, tại hạ thử đi điều tra xem sao.
Diệu Pháp nói:
- Tướng công không nên mạo hiểm, xin cho đệ tử cùng theo để tiện tiếp ứng.
Vô Tâm chợt quay lại nhìn Bách Duy. Bách Duy hiểu ý nói:
- Tướng công cứ yên tâm đi đi. Bần tăng tuy tàn phế nhưng còn đủ sức đương nổi trọng trách.
Vô Tâm nói:
- Nếu thế tại hạ đành phải bái phiền đại sư vậy.
Nói xong lập tức cùng Diệu Pháp quay đi. Bách Duy thấy Diệu Quả đi đã lâu rồi, còn Diệu Vũ đường đang lúi húi khám xét tử thi, không để ý gì đến mình, bèn vội lẩn vào chỗ khuất mở cẩm nang ra xem. Chỉ thấy trong cẩm nang có một mảnh giấy biên đặc chi chít những chữ. Thì ra đó là một tờ mật thư.
Trong thư đại ý nói rằng: “Nơi đây chính là một trong những sào huyệt của Vô Tâm, còn mấy tên xách đèn lồng làm ám hiệu lúc nãy bị giết ở dưới cây đèn kia toàn là phe đảng của Nhâm Vô Tâm bị người nhà Nam Cung thế gia mua chuộc làm nội ứng, và dẫn bọn môn hạ Nam Cung thế gia về bí huyệt giết đồng bọn.
Nhưng sau khi đã quét sạch sào huyệt của Nhâm Vô Tâm rồi, bọn môn hạ Nam Cung thế gia lại giết luôn cả mấy tên nội ứng nữa, vì sợ để chúng có ngày mang hoạ. Trong thư còn dặn Bách Duy kiếm cớ hạ cây đèn xuống, trong đèn có một cái ống ngang, ruột ống có mảnh giấy dặn dò kế hoạch, bảo Bách Duy chiếu theo kế đó mà làm. Còn Huyền Chân thì phải đi về phía đông cách đó ba dặm, tức khắc có người chờ liên lạc.”
Bách Duy xem xong cẩm nang, thở phào một tiếng như vừa trút được gánh nặng. Thế là bao nhiêu sự nghi hoặc đã tháo gỡ được tất cả. Nhưng yên tâm một lúc, hắn lại lo không biết “Huyền Chân” bị điểm huyệt thế kia thì làm sao mà đi tới chỗ hẹn được? Hay để mình đi thay vậy?
Kế đó hắn thủng thỉnh bước tới bên Diệu Vũ, hỏi:
- Đạo huynh đã tìm thấy gì chưa?
Diệu Vũ chỉ vào mấy đồ vật để ngổn ngang dưới đất nói:
- Mấy vật này đều tìm được ở trong tử thi, toàn là vật dụng thường, không có gì lạ. Tiền bối coi thử xem.
Bách Duy cúi xuống xem chỉ thấy mấy mũi chuỷ, một ít tiền lẻ, mấy cái chìa khoá, mấy chiếc khăn tay nhỏ, ngoài ra không còn vật gì đáng để ý thật.
Hắn lại hỏi Diệu Vũ:
- Những vết thương chí mạng của họ ở đâu? Đạo huynh có tìm thấy không?
Diệu Vũ nói:
- Những cái xác này mới trông thì tưởng bọn họ bị một đao chém bay đầu, nhưng nếu để ý nhìn kỹ mới thấy là họ đều chết trước khi bị cắt đầu. Cứ xem chỗ vết thương kia máu chảy ít như vậy thì đủ rõ.
Bách Duy gật đầu khen phải. Diệu Vũ trầm ngâm một lát rồi lại nói:
- Việc này lạ lắm, đệ tử nói ra, chỉ sợ tiền bối lại buồn.
Bách Duy tái mặt, trống ngực đập thình thịch vội hỏi:
- Sao? Sao? Việc này có liên quan đến bần tăng à?
Diệu Vũ cúi xuống vạch vạt áo của một tử thi lên, nói:
- Tiền bối xem đây sẽ biết.
Bách Duy chú ý nhìn kỹ, chỉ thấy phía ngực bên trái, chỗ gần quả tim nạn nhân có dấu bàn tay tím đen, năm ngón tay in rõ rành rành, hình như đây là một công phu ngoại gia rất lợi hại.
Diệu Vũ đăm đăm nhìn Bách Duy, hỏi:
- Chưởng lực này là công phu của phái nào? Tiền bối có nhận ra không?
Bách Duy ngẩn người ra một lát rồi lẩm bẩm:
- Thiếu Lâm...
Diệu Vũ cau mày:
- Nếu tiền bối đã nhận ra, tất không phải đệ tử trông lầm. Đệ tử không ngờ chưởng lực “Phục ma kim cương” lại có cái uy lực khủng khiếp đến thế!
Bách Duy lẳng lặng một lúc rồi nói:
- Kim cương chưởng lực tuy lợi hại, nhưng không phải ai cũng luyện được tới trình độ này. Cứ xem những cái vết tím đen trên ngực nạn nhân đây đủ biết là hoả hầu của người này còn ở trên bần tăng.
Diệu Vũ kinh sợ hỏi:
- Ở trên đại sư? Hay là... hay là...
Bách Duy thở dài:
- Ngươi hà tất phải rụt rè... Trên đời này người luyện Phục ma kim cương chưởng tinh thuần hơn bần tăng chỉ có vài ba người. Bần tăng không nói ra, người khác cũng biết.
Diệu Vũ cúi đầu nói:
- Đệ tử không tin rằng Bách Nhẫn hoặc Bách Đại đại sư lại có thể bị nhà Nam Cung thế gia mua chuộc.
Bách Duy tỏ vẻ buồn bã nói:
- Bần tăng tuy không muốn tin, nhưng cũng không thể không tin được.
Diệu Vũ lẳng lặng giây lâu rồi nói:
- Nhưng chỗ kỳ quái, không những chỉ có thế. Đây đại sư trông!
Vừa nói vừa cúi xuống lật vạt áo của một nạn nhân khác ra, chỉ cho Bách Duy coi. Thì ra chỗ gần quả tim trên ngực người này cũng có một vết đen lớn bằng ngón tay, nhìn kỹ mới biết vết đen ấy chỉ là một lỗ thủng nhỏ, thịt bên trong đã thối nát, nhưng không thấy có máu.
Bách Duy tuy lịch duyệt giang hồ đã lâu, các môn võ công được trông đã nhiều mà lúc này thấy vết thương đó, cũng không khỏi sửng sốt bàng hoàng.
Giữa lúc ấy chợt nghe phía sau có một tiếng gọi nhỏ. Bách Duy quay lại, đã thấy Vô Tâm đi tới. Diệu Vũ hỏi:
- Tướng công có biết lai lịch môn võ công này không?
Vô Tâm cúi xuống nhìn kỹ một lúc rồi lắc đầu. Bách Duy nói:
- Vết thương này mới thoạt trông thì giống vết ám khí tẩm độc, nhưng bần tăng không dám quyết đoán là ám khí loại nào.
Diệu Vũ thở dài nói:
- Nếu là vết thương do ám khí gây nên, thì cũng chẳng lấy gì làm lạ.
Bách Duy vội hỏi:
- Có lẽ đạo huynh đã nhân ra không phải là ám khí ư?
Diệu Vũ lại mở vạt áo nạn nhân ra, nói:
- Xin các vị trông đây. Mảnh áo này tuy đầy những máu nhưng không có lỗ thủng. Nếu là ám khí, tất phải xuyên qua áo chứ?
Bách Duy gật đầu khen:
- Đạo huynh nhận xét tinh tế lắm, đây chắc là chỉ lực mà chỉ lực của người này tất đã luyện tới trình độ cách sơn đả ngưu, trích diệp thương nhân rồi. Người ấy ngoài Nam Cung phu nhân ra thì còn ai nữa?
Vô Tâm lắc đầu nói:
- Nam Cung phu nhân không khi nào lại thân hành tới chỗ này. Theo ý tại hạ thì rất có thể đám này do Tố Thủ Lan Cô cầm đầu!
Mọi người bất giác đều rùng mình yên lặng, không khí khủng khiếp như đang bao trùm lên đầu họ. Một lúc lâu, Bách Duy mới hỏi Vô Tâm:
- Tình cảnh trong bí huyệt ra sao, tướng công có tìm thấy dấu vết quân địch không?
Vô Tâm cau mày nói:
- Tình trạng trong động, tại hạ thật không muốn nhắc lại, nếu đại sư muốn biết, thì xin cứ vào hẳn trong đó mà xem. Diệu Pháp đạo huynh hiện còn đang liệu lý hậu sự, tại hạ không sao đứng nán lại được một phút nào nữa.
Diệu Vũ thấy chàng sắc mặt đã tái xanh, ngơ ngác như người mất vía, thì sợ quá, vội nắm lấy tay chàng, cười gượng nói:
- Đệ tử với tướng công thử dạo quanh khu này xem có thấy gì lạ không, đi!
Nói xong không cần đợi chàng trả lời, cứ cầm tay lôi đi xềnh xệch. Vô Tâm lúc này hình như không còn biết gì nữa, cứ để mặc cho Diệu Vũ muốn lôi đi đâu thì lôi.
Bách Duy chờ hai người đi khỏi, mới đưa mắt nhìn quanh bốn phía, sau khi đã yên trí là không có ai nhìn trộm, bèn đẩy đổ cây sào xuống, xé chiếc đèn lồng ra, quả nhiên thấy bên trong có cái ống nứa nằm ngang, hắn tháo cái ống, vừa định chẻ ra xem bên trong có chỉ thị gì, thì chợt nghe tiếng quần áo bay phần phật từ xa đi tới.
Bách Duy hốt hoảng, vội giấu cái ống vào tay áo, rồi quay lại nhìn, thì ra là Diệu Quả. Hắn cố lấy giọng bình tĩnh hỏi:
- Đạo huynh có tìm thấy gì lạ không?
Diệu Quả mồ hôi đầm đìa trên trán, vừa thở vừa nói:
- Chẳng thấy gì cả, thật là phí công!
Bách Duy nói:
- Sao đạo huynh không chịu khó tìm kỹ xem, biết đâu chúng không nấp vào một chỗ kín đáo nào đó, đạo huynh chỉ đi lướt qua, làm sao mà thấy được?
Hắn biết tính Diệu Quả nóng nảy hấp tấp, nên mới nói như vậy. Quả nhiên Diệu Quả đứng ngẩn người ra, cười gượng:
- Tiền bối nói đúng, đệ tử quả chỉ xem qua thật.
Bách Duy nói:
- Vậy thì đạo huynh ở đây coi, để bần tăng đi tra lại một lượt xem sao.
Diệu Quả nói:
- Ai lại thế. Thôi để đệ tử đi xem lại vậy.
Miệng nói chưa dứt, thân hình đã bay xa tới mấy trượng. Bách Duy nhìn theo thấy hắn đi về phía đông, chợt nhớ lời dặn trong cẩm nang, bất giác sợ cuống lên, vội gọi:
- Đạo huynh đừng đi về phía đó, không có quân địch nấp ở đó đâu!
Diệu Quả dừng chân, ngạc nhiên hỏi:
- Sao tiền bối biết?
Bách Duy ngẩn người, ấp úng:
- Ừ, ta biết... biết chứ!
Hắn lúng túng không biết tìm câu gì nói cho xuôi, lại thấy Diệu Quả đôi mắt cứ nhìn vào mặt hắn chòng chọc, lại càng sợ toát mồ hôi, mãi một lúc mới lắp bắp:
- Chỉ vì... chỉ vì lão tăng thấy ba mặt kia đều có... có tiếng chim ráo rác, duy có mặt ấy thì không... nên đoán thế!
Diệu Quả chớp chớp mắt mấy cái, rồi nói:
- Thôi được! Để đệ tử đi sang lối khác vậy.
Nói xong quả nhiên thay đổi phương hướng, lập tức đi ngay.
Bách Duy trông thấy sắc diện của hắn, biết hắn đối với những lời giải thích của mình, hình như vẫn có vẻ bất mãn, thì sợ nửa chừng hắn lại hối mà quay về.
Lúc này bốn bề đã vắng vẻ không người. Bách Duy lại lấy chiếc ống nứa đập vỡ ra, bên trong quả có một mảnh giấy xanh cuộn tròn lại, bèn mở ra đọc.
Trong thư đại ý dặn Bách Duy và “Huyền Chân” phải liên thủ với nhau, luôn luôn theo sát bên cạnh Vô Tâm. Nếu có sự gì cần phải báo cáo, thì mỗi lần gặp miếu Thổ địa, sẽ viết thư gói vào một mảnh giấy trắng nhét xuống đáy bát hương. Nếu thấy trong bát hãy còn nén hương cháy dở thì dưới đĩa đèn tất có chỉ thị để sẵn ở trong cái ống đèn xanh, dặn hai người nhớ lấy ra mà xem v.v...
Bách Duy đọc một hơi hết bức thư, nghĩ thầm: “Hiện giờ “Huyền Chân” đã bị điểm huyệt nằm một chỗ, ta phải liên lạc với ai bây giờ?”
Điều làm cho hắn lo ngại hơn hết là Ngũ phu nhân đã giao mật giản cho hắn, sao lại còn bảo “Huyền Chân” đi một mình tới gặp người kia? Hay là Ngũ phu nhân còn có điều gì muốn giấu hắn, hoặc giả phu nhân lại sai “Huyền Chân” ngầm hại hắn chăng?
Nghĩ tới đây, hắn lại lạnh toát cả xương sống. Nói của đáng tội, hắn tuy là người của Nam Cung thế gia mà đối với những thủ đoạn tàn khốc của Nam Cung thế gia hắn vẫn phải luôn luôn đề cao cảnh giác, không dám lơ là.
Lúc này hắn không còn thì giờ suy nghĩ lâu nữa, bèn lập tức đề khí tung mình chạy như bay.
Ra khỏi đấy chừng ba bốn trượng, chỉ thấy bốn bề toàn là giống cỏ dại, cao tới ngang thắt lưng, hắn liền nằm rạp xuống bò dần đi.
Bò trong ruộng cỏ một lúc khá lâu, chợt nghe đâu đây có tiếng sột soạt như rắn bò lướt trên mặt cỏ. Bách Duy mừng lắm, liền dừng lại lắng tai nghe, thấy cái tiếng ấy mỗi lúc một gần. Hắn liền dồn tụ chân lực vào cánh tay phải, đề phòng.
Nhưng cũng ngay lúc ấy lại nghe tiếng quần áo bay phần phật từ xa đưa tới. Bách Duy nghĩ thầm: “Người này khinh công khá lắm, chắc Diệu Quả. Hắn đi do thám mà cứ lộ liễu như vậy, thì còn dò xét được gì nữa?”
Kế lại nghe đánh “vụt” một tiếng, một bóng người đã lướt qua đầu hắn mà đi, mỗi lúc một xa dần, còn cái tiếng rắn bò sột soạt vừa rồi, cũng dừng lại cách đó vài trượng.
Cách một lúc lâu, cái tiếng áo bay phần phật lúc nãy lại vùn vụt trở lại, và lướt qua đầu hắn một lần nữa, nhưng vẫn không biết là hắn ở trong đồng cỏ. Môn khinh công “thảo thượng phi” của người này thật đã cao hơn người một bực, mà cái tính vô ý vô tứ của y trên đời chắc cũng chỉ có một không hai.
Bách Duy lắc đầu than thầm: “Chẳng trách hắn tìm đi tìm lại mãi vẫn chẳng thấy gì, thì ra hắn tìm bằng cái lối đó.”
Lúc này cái tiếng sột soạt lại nổi lên, thanh âm mỗi lúc một nhẹ, một chậm hơn, mà hình như không phải chỉ có một người.
Bách Duy nhìn quanh, thấy về mé tay trái có một vũng nước nhỏ bằng cái chậu tắm, hắn bèn mon men bò tới, lăn xuống vũng nấp. Cũng may cái vũng ấy tuy nhỏ nhưng cũng sâu tới gần hai thước, nên cũng đủ cho hắn dung thân.
Hắn vừa dìm mình xuống nước xong, thì cái tiếng sột soạt ban nãy đã tiến lại gần, Bách Duy sẽ liếc mắt trông quả thấy hai cái bóng mặc võ phục đen đang bò dần tới, mặt mũi bị cỏ che khuất nên trông không được rõ.
Lúc này Bách Duy đã nhận ra hai người đó chính là môn hạ Nam Cung thế gia, đáng lý hắn không cần phải ẩn náu, nhưng vì hắn vẫn có một chút tư tâm, nên không muốn cho ai trông thấy.
Hai người bò tới cách vũng nước còn ba bốn thước thì dừng lại, đưa mắt nhìn quanh bốn phía ra ý tìm tòi, khi đã chắc chắn không có ai rồi, người đi trước mới giơ tay ra hiệu cho người đi sau. Người đi sau bèn lập tức bò lại gần, rồi cả hai cùng sóng vai nằm phục xuống bãi cỏ. Một người thì thầm nói:
- Thằng bé ấy ở trong động làm gì mà lâu thế? Báo hại chúng mình cứ phải nằm đây canh mãi.
Người kia nói:
- Chúng mình không những chỉ ở đây canh chừng bọn chúng, mà còn phải chờ một người...
Người nọ lại thì thào đáp lại:
- Tôi chỉ sợ là Bách Duy tiết lộ ra, nếu tên kia biết mình ở đây thì nguy lắm.
Người kia cười nói:
- Theo ý tiểu đệ thì Bách Duy mật lớn tày trời cũng không dám liều đến thế.
Người nọ cười nhạt:
- Nếu hắn không lớn mật sao dám lẻn vào Thiếu Lâm nằm vùng?
Người kia gật đầu:
- Huynh đài nói cũng có lý, nhưng Bách Duy từ trước vẫn một dạ trung thành với Nam Cung thế gia, nay sao bỗng dưng lại giở quẻ?
Gã nọ cười nhạt:
- Tin gì cái thằng lão tặc đó!
Gã kia lại nói:
- Nếu vậy thì sao Ngũ phu nhân còn tín nhiệm hắn?
Gã nọ lạnh lùng nói:
- Sao huynh đài biết là Ngũ phu nhân vẫn tin hắn? Hôm nay phu nhân sai chúng ta đến đây liên lạc với “Huyền Chân” là vì cớ gì? Chẳng lẽ huynh đài lại không biết hay sao?
Người kia lắc đầu, gã lại nói:
- Để tiểu đệ nói cho huynh đài nghe. Ngũ phu nhân bảo ta dặn “Huyền Chân” phải lưu ý tới hành động của Bách Duy. Khi nào xét thấy cần thiết thì phải dùng ngay “Mê tâm tán” của bản môn đổ cho hắn uống.
Bách Duy nghe tới đấy, tưởng chừng như bị một thùng nước lạnh dội suốt từ đỉnh đầu xuống, khắp người như nổi da gà. Hắn thật không ngờ mấy chục năm trời cúc cung tận tuỵ phục vụ cho Nam Cung thế gia để đổi lấy cái kết quả cay đắng như ngày nay.
Hắn tự vấn lương tâm thật chư làm điều gì đắc tội với nhà Nam Cung thế gia, không hiểu tại sao họ lại đối xử với mình như vậy?
Hắn còn băn khoăn chưa tìm được giải đáp, thì may sao gã áo đen cao lớn đã lên tiếng hỏi hộ hắn:
- Bách Duy tính tình dẫu xảo quyệt nhưng mấy năm nay hắn đối với Nam Cung thế gia nhà ta, thật đã hết lòng hết sức, tại sao Ngũ phu nhân vẫn còn ngờ?
Gã thấp bé lạnh lùng đáp:
- Hắn cùng bọn Nhâm Vô Tâm từ Điền gia thôn tới đây, dọc đường chỉ chúi vào một xó, không dám thò mặt ra ngoài. Vô Tâm thì đã đành rồi, nhưng còn Bách Duy thì vì cớ gì mà cũng dám ra mặt liên lạc với bọn ta? Trong đó tất phải có nguyên cớ!
Gã kia gật đầu, hắn lại tiếp:
- Bách Duy không ra mặt, cũng chẳng nói làm gì, nhưng còn “Huyền Chân” đã giả điên giả dại, sao cũng cả ngày núp ở trong xe? Có thể hắn đã bị Vô Tâm điểm huyệt, nhưng tại sao Bách Duy không giải huyệt cho hắn, và tìm cách cho hắn hoạt động? Xem đó đủ thấy việc này có nhiều bí ẩn đáng ngờ.
Gã cao lớn lẳng lặng một lúc rồi lại nói:
- Biết đâu không phải là do anh chàng đóng vai “Huyền Chân”...
Gã thấp bé vội ngắt lời:
- Không phải đâu, người ấy là kẻ thân tín của Thái phu nhân, đến Ngũ phu nhân còn phải kiêng nể, ta không nên phê bình. Riêng về phần Bách Duy còn hai điểm đáng ngờ nữa, ấy là ba gã Bách Hộ, Bách Phù, Bách Vệ từ hôm ở Điền gia thôn đến giờ bỗng dưng biết mất, vậy thì họ đi đâu?
Gã kia nói:
- Ừ nhỉ! Điều ấy tiểu đệ cũng đã nghĩ tới, mà không sao đoán ra được!
Gã nọ cười nhạt:
- Ba người ấy đều là tâm phúc của Bách Duy, tất nhiên họ được Bách Duy phái đi đâu vì việc cơ mật gì đó. Bách Duy đã không dám đem việc ấy trình với Ngũ phu nhân, thì đủ hiểu là hắn có gian ý.
Gã kia hình như lúc ấy mới tỉnh ngộ, bèn nói:
- À ra thế! Vậy thì Ngũ phu nhân định đối xử với hắn làm sao?
Gã nọ đáp:
- Cho tới hôm nay, phu nhân vẫn lờ như không biết gì hết, chỉ vì hắn tuy bội phản nhưng chưa có chứng cớ xác thực. Vả lại lúc này vẫn còn có nhiều việc cần phải lợi dụng hắn.
Bách Duy nghe tới đấy mới hiểu hết đầu đuôi, trong bụng vừa sợ vừa giận, nghĩ thầm: “Hừ, đã thế ta cần gì phải tận trung với họ, bất nhược ta giúp Nhâm Vô Tâm phản lại Nam Cung thế gia cho mà coi!”
Chợt lại nghe gã áo đen nói:
- Tuy nhiên ta cũng chẳng sợ gì hắn, vì hắn tuy gian hoạt, nhưng cũng không đến nỗi mù quáng. Cuộc chiến đấu lần này Nhâm Vô Tâm tất đã nắm chắc phần thua, hắn dù bội phản ta theo phe kia, cũng chẳng qua chỉ được một thời gian, rồi cũng chết. Hay nói một cách khác, dù Nhâm Vô Tâm có thắng đi nữa,nhưng hắn đã hãm hại Bách Nhẫn, bội phản sư môn, đó là một tội rất lớn. Chùa Thiếu Lâm môn quy xưa nay vốn đã rất nghiêm, dù hắn có công to đến đâu cũng không thể chuộc được hết tội. Lúc ấy Vô Tâm dẫu có thế lực tày trời cũng không cứu nổi hắn.
Bách Duy nghe hắn nói tới đấy, mồ hôi lại toát ra như tắm. Gã áo đen nói thực không sai, lúc này tình thế của hắn đã như cưỡi trên lưng hổ, tiếng cũng dở mà thoái cũng không xong.
Giữa lúc ấy chợt lại nghe tiếng quần áo bay phần phật từ xa đưa lại. Bách Duy chợt nảy ác ý, nắm lấy một nắm bùn, viên thành từng viên nhỏ.
Hắn ngẩng mặt trông lên đã thấy một cái bóng xám bay tới bên mình. Hắn cong ngón giữa và ngón tay cái thành vòng tròn, nhè nhẹ búng một cái... chỉ nghe “vút” một tiếng, viên bùn xé luồng không khí bay ra. Hắn vì không muốn lộ hình tích, lưng bàn tay để áp xuống mặt đất, nên viên bùn ném không trúng đích, nhưng cũng đủ làm cho người ta phải để ý.
Hai cái bóng đen giật mình vội nhỏm người lên trông ra bốn phía để dò xét, đồng thời cái bóng xám đang bay cũng dừng lại, rơi xuống ruộng cỏ. Người ấy chính là Diệu Quả.
Hai gã áo đen đã trông rõ bóng địch, vội nhảy lùi ra hơn một trượng, đứng thành thế ỷ giốc. Diệu Quả cũng vội rút thanh trường kiếm ra, cầm sẵn ở trong tay.
Ba người đứng trong ruộng cỏ gườm gườm nhìn nhau, chẳng khác gì ba con thú dữ rình mồi.
Một lúc không lâu, Diệu Quả đã sốt ruột, không sao dằn nổi, đã nắm chặt lấy đốc kiếm, tiến lên. Bách Duy thở dài than thầm: “Diệu Quả dại dột khinh địch như thế chỉ tự mua lấy cái chết.”
Hắn lại quay mặt nhìn về phía kia, thấy người áo đen phía sau đã đứng cách vũng nước hắn nấp chỉ còn xa độ bốn thước, hai tay duỗi thẳng về phía trước, lưng cúi lom khom, năm ngón tay cong lên như móng ưng, nhỡn quang lóng lánh, thần tính cực kỳ hung ác. Người phía trước cũng đã đứng lên, lấy tấn để đợi nghênh địch.
Diệu Quả tay cầm trường kiếm, đôi mắt luôn luôn đưa đi đưa lại, hai chân hình như nặng tới ngàn cân, nên cứ bước dần từng bước một cách rất chậm chạp. Có lẽ hắn cũng còn e dè vì chưa biết rõ lực lượng của địch thủ.
Hai gã áo đen cũng bắt đầu di động thân hình, nhưng lúc nào cũng giữ một mực độ cách nhau như trước, đó chính là một bộ pháp đặc biệt, làm cho đối phương xuất thủ khó lòng trúng đích.
Diệu Quả chợt hú lên một tiếng, tức thì một luồng ánh sáng xanh lè phóng ra như một chiếc cầu vồng vắt ngang nền trời, nhằm thẳng người cao lớn đánh tới.
Thanh trường kiếm xé luồng không khí rít lên thành tiếng, kiếm phong tinh nhuệ, tấn tốc dị thường.
Gã áo đen không ngờ đối phương tuổi còn nhỏ mà kiếm pháp đã ghê gớm như vậy, trước hắn đã định dùng chiêu thức tay không bắt binh khí, nhưng lúc này lại không dám chỉ vội vàng lùi lại mấy bước, tránh thoát thế kiếm.
Diệu Quả đã định hạ đối phương ngay tức khắc, nên thanh kiếm trên tay luôn luôn rung động, luồng kiếm quang xanh biếc loang loáng tuôn ra, liên tiếp điểm vào mấy huyệt lớn ở hai bên cạnh sườn và sau lưng gã nọ.
Chỉ trong nháy mắt đó gã áo đen bé nhỏ đã lẻn đến phía sau lưng Diệu Quả. Hắn thấy đồng bạn bị nguy, nhưng vẫn chưa ra tay vội, hai cánh tay nửa co nửa duỗi, mười ngón tay xoè ra vây chặt lấy phía sau Diệu Quả.
Lúc này Bách Duy cũng đã len lén bò ra khỏi vũng nước giơ cánh tay lên tác thế, chuẩn bị xông vào.
Hắn thấy Diệu Quả sắp nguy đến nơi, nhưng lại không chịu ra tay ngay, hình như cố ý chờ cho Diệu Quả bị thương đã, rồi mới tiếp cứu thì phải?
Diệu Quả chỉ mải giết cho kỳ được người áo đen trước mặt, bao nhiêu tinh thần chuyên chú vào mũi kiếm, nên không đề phòng có kẻ rình đánh lén sau lưng.
Mà gã áo đen thấp bé cũng tuyệt đối không ngờ là trong bụi cỏ còn có một người nữa, cũng đang lăm lăm định đánh trộm mình.
Tình thế lúc này giống hệt như cái cảnh bọ ngựa bắt ve sầu, mà không dè rằng phía sau còn có con hoàng tước đang chờ sẵn.
Gã cao lớn gắng gượng chống đỡ được năm chiêu, vừa toan cất tiếng gọi đồng bạn tiếp cứu, thốt nhiên một luồng sáng xanh loé lên, rồi máu đỏ phun ra như mưa, gã chỉ kịp rú lên một tiếng, cả cái thân hình đồ sộ đã ngã ngửa xuống ruộng cỏ, tắt thở lập tức.
Nhưng cũng ngay lúc ấy, gã áo đen nấp sau lưng Diệu Quả vội giơ chưởng lên, mười đầu ngón tay của gã đã cắm vào hậu hối và bên sườn Diệu Quả, lực lượng ma chảo kinh hồn đó so với mười thanh đoản kiếm có lẽ còn bá đạo hơn.
Và đồng thời cánh tay của Bách Duy cũng ráng sức vung lên đập vào thiên linh cái của gã.
Gã áo đen chưa kịp rút tay về, vừa ngửa cổ lên cười được một tiếng, đã nghe phía sau có luồng kình phong ập tới. Trong lúc hốt hoảng, không kịp tránh né, chỉ gắng gượng quay lại, nhưng một chưởng của Bách Duy đã đập lên vai hắn đồng thời còn co một chân lên, đá hắn bắn xa ra mấy thước, luôn cả Diệu Quả cũng bị cuốn theo.
Bách Duy tuy bị thương mới khỏi, nhưng nội lực tu dưỡng mấy chục năm đâu phải tầm thường? Huống hồ hắn lại xúc thế từ lâu, nên một cái đá với một chưởng ấy sức mạnh đến thế nào đủ hiểu, gã áo đen có mình đồng da sắt cũng cũng không chịu nổi. Gã chỉ kịp kêu một tiếng, rồi thân hình cũng theo đà chân của Bách Duy bay tung lên, rồi rơi xuống đất, chết thẳng.
Từ lúc Diệu Quả rút kiếm ra cho tới lúc đó, thời gian bất quá chỉ trong khoảnh khắc, mà ba tay cao thủ võ lâm đã lần lượt gục ngã.
Bách Duy trống ngực đập thình thình đủ hiểu tâm hồn hắn đang kích thích tới cực điểm. Hắn biết hắn vừa làm một việc quá ư mạo hiểm, nếu chẳng may gã áo đen không chết, thì chuyến này không hiểu nhà Nam Cung thế gia sẽ hành tội hắn đến thế nào?
Hắn thở phào một tiếng đưa mắt nhìn khắp xung quanh, khi đã chắc chắn không ai, mới lấy ra một chiếc khăn tay, buộc chặt bàn tay lại, rồi kéo ba cái xác đặt ra ba góc, hình như tam giác.
Hắn nắm bàn tay cầm kiếm của Diệu Quả đâm vào gã thấp bé mấy nhát, che giấu vết thương bị chưởng lực của hắn đánh trúng, dàn thành một cảnh ác chiến giữa ba người và cùng đâm chết lẫn nhau.
Mọi việc vừa xong, hắn lại thò tay vào túi hai người áo đen khám kỹ một lượt, thấy trong mình người cao lớn có vài món đồ dùng lặt vặt và một hạt đào nhỏ bằng vàng đúc rất khéo, y như món đồ chơi của những nhà phú quý.
Bách Duy cũng không xem kỹ chỉ bỏ luôn vào túi, rồi lại khám tới người bé nhỏ. Trong mình người này ngoại trừ mấy món đồ vặt, còn có cái ngân bài mặt chính khắc một chữa “lệnh” bốn bên khắc ba mươi sáu ngôi sao, mặt trái cũng có hai chữ “Địa Sát” theo lối cổ triện. Xung quanh cũng khắc toàn ngôi sao, nhưng còn thêm một mảnh trăng lưỡi liềm nữa. Bách Duy nghĩ thầm: “À, thì ra tên này là người trong bảy mươi hai chức địa sát, thảo nào mà hắn hống hách như vậy. Nhưng không biết tên hắn là gì?”
Hắn lại cúi xuống xem kỹ lần nữa, thấy trong mình gã bé nhỏ còn có một chiếc bình ngọc, có lẽ là bình thuốc mê mà gã dự định sai “Huyền Chân” lén cho Bách Duy uống.
Cái làm cho Bách Duy chú ý nhứt là một phong thư rất dầy dán kín, trên không đề tên ai, chỉ đóng một cái dấu có chữ “lệnh” giống hệt cái dấu trên ngân bài.
Bách Duy ngần ngừ một lát rồi ghé răng cắn dấu phong bì định lôi phong thư ra xem. Chợt nghe phía xa có tiếng người gọi:
- Tứ sư đệ! Bách Duy đại sư!
Bách Duy giật mình, biết là Diệu Vũ đang đi tìm mình và Diệu Quả, bèn vội giấu phong thư vào trong bít tất. Tiếng gọi mỗi lúc một gần, đó chính là chỗ tinh tế của Diệu Vũ, nếu hắn cứ ngậm miệng mà đi thì dù có quân địch nấp trong bụi cỏ, cũng không sao dò ra được. Và nếu trong ruộng cỏ quả có quân địch thì chắc chắn Bách Duy và Diệu Quả đã bị hại rồi, dù hắn có im hơi lặng tiếng cũng khó lòng tránh khỏi con mắt đối phương và như thế thì chỉ làm cho đối phương có thì giờ chuẩn bị, nấp trong bóng tối đánh kẻ ngoài sáng thật dễ như trở bàn tay.
Đằng này hắn cứ vừa đi vừa gọi réo lên như thế, tuy rằng đả thảo kinh xà, nhưng cũng đủ làm cho đối phương kinh sợ, và nếu hai người kia chưa bị hại, thì nghe tiếng gọi tất phải thưa lên, thế là đỡ mất công tìm kiếm.
Nhưng Diệu Vũ có ngờ đâu sự khôn ngoan của mình lại dùng không đúng chỗ. Vừa rồi Bách Duy đã lấy phong mật thư ra đọc, nếu hắn cứ len lén đi tới, thì thế nào cũng bắt đúng quả tang, Bách Duy hết đường chối cãi, đằng này chẳng những hắn đã đủ thì giờ giấu bức thư đi, lại còn kịp bố trí để che đậy tội lỗi. Hắn lại lăn mình xuống nước, nhưng có ý tỳ cánh tay cụt xuống trước cho vết thương vỡ ra, rồi nhắm mắt lại vờ ngất đi.
Tiếng gọi vừa dứt, lại nghe tiếng rẽ cỏ lào xào, rồi tiếp theo là một tiếng rú khủng khiếp của Diệu Vũ, thì ra hắn đã trông thấy xác sư đệ.
Hắn đứng lặng người như chôn xuống đất, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Mãi một lúc sau, hắn mới cố gắng định thần, bước tới bên gã áo đen cao lớn, vạch mấy vết thương của gã ra xem một cách rất tỉ mỉ.
Hắn cầm thanh kiếm trong tay Diệu Quả lên, lấy vạt áo chùi một chút máu dính trên mũi kiếm, đem so với máu gã áo đen, rồi gật gù nói một mình:
- Tên này quả bị lão Tứ giết thật, kể cũng không đến nỗi lỗ vốn!
Hắn lại cúi xuống xem kỹ thi thể của Diệu Quả, thấy trên xương sống của nạn nhân bị người dùng công phu “Ma chảo lực” đánh bầm tím nhiều chỗ, hắn cầm bàn tay người bé nhỏ lên coi, chỉ thấy bàn tay khô quắt, đen thui thủi trông giống bàn tay ma, mười đầu ngón tay dính đầy những máu, rõ ràng là Diệu Quả đã chết bởi những cái móng tay ấy.
Diệu Vũ oán hận đầy lòng, cặp mắt quắc lên như nảy lửa. Hắn chợt thét to một tiếng, co một chân lên đá phốc cái xác của gã thấp bé bắn xa mấy thước. Bách Duy từ nãy vẫn hé mắt trông trộm, thấy Diệu Vũ khám mấy cái thi thể kỹ quá, trong bụng đã hơi run, chỉ lo khi hắn thử tới máu gã thấp bé, thấy không có ở trên thanh kiếm của Diệu Quả, thì gian mưu của hắn bị bại lộ mất.
Nhưng may làm sao, Diệu Vũ chẳng những đã không xét xác gã cẩn thận như mấy cái xác kia,lại còn đá hắt đi chỗ khác, hắn mới thở phào một hơi, như vừa trút được gánh nặng. Đoạn lại rụt đầu chui vào vũng nước, chẳng quản mắt mũi, mồm miệng đều dính đầy bùn.
Hồi 50
Đứng sững một lúc lâu, Diệu Vũ lại thò tay vào mình từng người, tìm xem có thấy gì lạ không. Bách Duy thấy thế trống ngực lại đánh liên hồi.
Tìm mãi không thấy gì, Diệu Vũ lộ vẻ kinh ngạc, bèn từ từ đứng lên bới trong bụi cỏ xung quanh như muốn kiếm vật gì. Thốt nhiên hắn trông thấy vũng nước bèn vội nhảy bổ tới.
Bách Duy vẫn nằm yên không dám thở, chỉ nghe Diệu Vũ kêu lên một tiếng, dường như lấy làm kinh ngạc lắm.
Kế đó hắn lại thấy bị người xốc nách nhấc bổng lên bờ, đặt nằm trên bãi đất phẳng.
Diệu Vũ lấy tay sẽ lay vai hắn, vừa lay vừa gọi:
- Đại sư, tỉnh dậy, đại sư...
Bách Duy vẫn giả vờ thiêm thiếp, thốt nhiên hắn thấy Diệu Vũ thò tay vào mình hắn, như muốn tìm cái gì, hắn sợ quá vội kêu lên một tiếng, rồi cố gắng vùng dậy ngồi lên... Diệu Vũ ấn hắn nằm xuống, nói:
- Đại sư tỉnh hẳn chưa? Hãy nằm yên đừng cựa vội!
Bách Duy vẫn nhắm nghiền hai mắt, làm như vẫn còn mê sảng, kêu rầm lên:
- Buông ra... Diệu Quả đạo huynh mau tránh ra... lão tăng liều mạng với chúng... mau!
Lão dàn cảnh thật khéo, làm cho Diệu Vũ cũng tin là thật, ngậm ngùi nói:
- Đại sư, đệ tử đây mà! Diệu Quả bị ác tặc giết chết rồi...
Hắn nói đi nói lại mấy lần, Bách Duy hình như mới dần dần hồi tỉnh, bèn mở choàng mắt ra, ngơ ngác nhìn Diệu Vũ, lẩm bẩm nói:
- Ngươi là ai?
Vừa nói vừa lấy tay dụi mắt, dường như quên cả Diệu Vũ. Diệu Vũ buồn bã đáp:
- Đệ tử là Diệu Vũ... Diệu Vũ... Đại sư quên rồi ư?
Bách Duy đăm đăm nhìn hắn một lúc, rồi hình như đã hơi nhớ ra, gật gù lẩm bẩm:
- Diệu Vũ... ờ... phải rồi, ngươi đã đến đấy à? Tốt!
Diệu Vũ xé một mảnh vạt áo lau sạch những vết bùn trên mặt Bách Duy, rồi hỏi:
- Đại sư thấy trong mình thế nào?
Bách Duy chỉ lắc đầu, mặt mày nhăn nhó, như đang cố nhớ lại những việc đã qua. Một lúc khá lâu, hắn mới chợt hoảng hốt kêu lên:
- Diệu Quả đạo huynh đâu rồi? Có bị thương không? Đạo huynh đi tìm hắn đi, tôi không sao đâu! Đừng lo! Đi đi!
Diệu Vũ thấy hắn sốt sắng lo cho Diệu Quả như vậy thì cảm động lắm, nghẹn ngào không nói nên lời. Một lúc sau mới ứa nước mắt nói:
- Diệu Quả sư đệ tôi đã... đã...
Bách Duy trợn tròn đôi mắt, hỏi bằng một giọng run run:
- Sao? Sao? Diệu Quả đạo huynh làm sao? Hay... hay hắn bị quân thù sát hại rồi?
Diệu Vũ nước mắt ròng ròng, chỉ gật đầu không nói. Bách Duy dậm chân, nghiến răng rít lên:
- Quân khốn nạn, quân gian tặc! Mi trốn lên mây xanh bần tăng cũng quyết đuổi theo, băm vằm mi ra nghìn mảnh mới hả!
Diệu Vũ gượng cười nói:
- Hắn đã bị chết về tay sư đệ đệ tử rồi. Điều ấy đại sư khỏi lo. Bây giờ đại sư hãy ngồi nghỉ một lát cho lại sức, rồi sẽ cùng đệ tử về xe.
Bách Duy ngồi ngây ra một lát, chợt vò đầu bứt tai lầm bầm oán trách:
- Ngươi làm cái gì ở trong ấy mà tới bây giờ mới ra? Nếu ngươi ra sớm một chút thì đâu đến nỗi...
Diệu Vũ thở dài nói:
- Nhâm tướng công bảo anh em tôi nhặt hết những tử thi chôn vào một ngôi mộ, khỏi để thi thể của các vị võ lâm hiệp nghĩa phơi thây cho dòi bọ đục khoét, mãi tới bây giờ mới xong.
Bách Duy nghe nói cũng hơi động lòng, nghĩ thầm:
“Nhâm Vô Tâm đối với người chết mà còn giữ thuỷ chung chu đáo như vậy mà nhà Nam Cung thế gia thì dù đối với người sống cũng tàn khốc vô tình, coi như giẻ rách, thực cũng đáng buồn!”
Diệu Vũ lại nói:
- Trong khi đệ tử đi nhặt từng cái xác chết ghép lại cho đủ bộ, chợt lại phát hiện được một việc kinh hồn.
Bách Duy giật mình hỏi:
- Việc gì?
Diệu Vũ đáp:
- Nhân số trong bí động cả thảy có bảy mươi tám người mà chỉ tìm thấy có bảy mươi bảy cái xác. Còn một người nữa không biết đi đâu?
Bách Duy đôi mắt sáng lên, nói:
- Nhâm tướng công đã cùng với bảy mươi tám người ấy ở với nhau lâu ngày, bây giờ thiếu mặt ai tất phải biết chứ?
Diệu Vũ thở dài:
- Đệ tử cũng hỏi thế, nhưng Nhâm tướng công không chịu nói, có lẽ Nhâm tướng công không muốn tiết lộ tên tuổi người ấy ra sợ bị Nam Cung thế gia phái người đi theo ám toán chăng?
Bách Duy lẳng lặng giây lâu rồi lại hỏi:
- Vừa rồi ngươi bảo mới phát hiện được một việc kinh hồn chỉ là việc ấy thôi sao?
Diệu Vũ do dự một lát rồi nói:
- Đệ tử đã xét nghiệm, nhặt mấy chục thi hài, thấy người nào cũng bị chém đầu mà chết, trông bề ngoài thì tưởng là họ chết trong một tình trạng y hệt như nhau, nhưng nếu xem kỹ thì lại khác hẳn.
Bách Duy vội hỏi:
- Khác ở chỗ nào?
Diệu Vũ đáp:
- Trong số những thi hài đó, phần nhiều máu đã đọng lại, tỏ ra họ chết ít nhất cũng được nửa giờ, ngoài ra còn có sáu cái thi thể, mãi tới lúc chúng tôi tìm thấy, máu hãy còn chảy ròng ròng. Mấy cái đầu lâu treo ở trên sào đèn cũng có máu chảy nhỏ giọt, chắc đại sư còn nhớ?
Bách Duy gật đầu:
- Đúng! Nhưng thế thì có gì là bí mật?
Diệu Vũ nói:
- Vì đại sư không lưu ý, nên mới cho là thường, để đệ tử nêu lên vài điểm này, chắc đại sư sẽ nhận ra ngay. Điểm thứ nhất – điều đáng ngờ của nó là ở chỗ mấy chục cái xác phần nhiều đều chết vào khoảng hơn nửa giờ trước đây, tuy có kẻ chết trước, người chết sau, nhưng thời gian không chênh lệch nhau lắm. Điều đó rất có thể là Nam Cung thế gia trong lúc bất ngờ, xuất lĩnh đại đội tấn công, làm cho mọi người trong bí động trở tay không kịp, lại vì có võ công hơi kém, nên đồng thời đều bị giết một lượt. Điểm thứ hai – sáu cái xác còn chảy máu kia, ít nhất cũng chết sau bọn người kia nửa giờ. Nếu sáu người đó toàn là tay cao thủ, có thể cầm cự được lâu hơn thì đã đành, đằng này nghe Nhâm tướng công nói thì sáu người đó võ công có thể kém nhất trong động, vậy thì tại sao họ lại chết sau bọn kia tới nửa giờ?
Bách Duy gật gù:
- Ờ! Điều ấy kể cũng hơi lạ.
Diệu Vũ nói:
- Điểm cốt yếu của việc này chính là ở chỗ nửa giờ cách biệt đó. Không có lý nào bọn Nam Cung thế gia giết xong mấy chục người kia, rồi lại thốt nhiên nghỉ tay nửa giờ, hoặc là bỏ đi đâu nửa giờ? Vậy trong nửa giờ ấy, họ làm gì?
Diệu Vũ càng nói càng say sưa hăng hái, tựa như đang tranh luận một vấn đề gì. Bách Duy ngẫm nghĩ một lát, dường như đã hơi đoán rõ chân tướng, nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ ngơ ngác, lẩm bẩm một mình:
- Ừ nhỉ! Lạ quá! Lạ quá!
Diệu Vũ lại nói:
- Lại nữa, mấy chục người chết trước, thi thể đều ở trong bí động, mà sáu người chết sau lại ở ngoài động, nếu bảo là mấy người ấy trốn ra khỏi động rồi mới bị giết thì cũng vô lý, vì trước tình thế ấy, người trốn ra được tất phải có võ nghệ cao cường, đằng này lại trái ngược hẳn. Cứ xét ba điểm khả nghi đó, đủ thấy việc này còn nhiều bí ẩn rắc rối. Đại sư kinh nghiệm phong phú, kiến thức hơn người, chắc đã đoán ra rồi chứ?
Bách Duy lắc đầu cười gượng:
- Bần tăng già nua ngu tối, làm sao mà phán đoán được? Đạo huynh thông minh tinh tế, hà tất phải nhún mình!
Diệu Vũ do dự một lát, rồi nói:
- Đệ tử đoán mãi, cũng chỉ giải thích được một cách gượng ép, không dám quyết là đúng hay sai. Đệ tử cho là sáu người kia tất đã cấu kết với Nam Cung thế gia từ lâu, nên khi tiết lộ căn động bí mật này cho bọn kia biết, và tình nguyện làm nội ứng cho họ.
Bách Duy giật mình, buột miệng hỏi:
- Đạo huynh có tìm được chứng cứ gì không?
Diệu Vũ lắc đầu:
- Nếu có chứng cứ thì việc gì còn phải xét đoán nữa?
Bách Duy đằng hắng một tiếng rồi nói:
- Nếu họ đã làm nội ứng cho nhà Nam Cung thế gia thì sao lại còn bị giết?
Diệu Vũ nói:
- Vì nếu nhà Nam Cung thế gia để sáu người ấy lại, thì thế nào cũng có ngày bị họ mưu phản, cũng như họ đã mưu phản Nhâm Vô Tâm hôm nay, nên họ giết đi để trừ hậu hoạn. Và dó cũng chính là thủ đoạn của Nam Cung thế gia xưa nay.
Bách Duy nghe xong lạnh toát cả người, nghĩ bụng nếu hắn không huỷ phong mật thư vừa rồi, thì nhất định lúc này hắn đã ngờ cho Diệu Vũ nhặt được ở đâu mà xem trộm.
Diệu Vũ lẳng lặng giây lâu, lại nói:
- Đại sư há không nghe câu: “Thỏ chết chó bị phanh thây, chim kia đã hết cung này để chi?” hay sao? Giống cái thủ đoạn của nhà Nam Cung thế gia cũng tàn khốc như thế đấy! Hôm nay làm một kẻ tay chân đắc lực của Nam Cung thế gia, ngày mai rất có thể chết dưới mũi kiếm của họ!
Bách Duy chỉ cảm thấy chân tay lạnh toát, mấy câu cảm khái của Diệu Vũ khác nào như cốt để cảnh cáo hắn.
Hai người cùng im lặng một lúc. Diệu Vũ chợt hỏi:
- Bây giờ xin đại sư nói cho đệ tử biết tại sao Diệu Quả lại bị bọn thuộc hạ Nam Cung thế gia giết?
Bách Duy thở dài nói:
- Nhâm tướng công và các vị vừa đi khỏi một lát, bần tăng chợt thấy đau bụng, bèn tìm một chỗ vắng vẻ để đi cầu. Không ngờ giữa lúc đó chợt nghe từ phía xa xa có tiếng binh khí va chạm nhau. Bần tăng xong việc, vội vã chạy tới. Khi tới chỗ cỏ rậm liền nằm phục xuống mà bò. Bò được một lúc, chợt nghe phía trước mặt có tiếng người nói. Bần tăng vội nằm sát xuống đất lắng tai nghe, nhưng tiếng nói nhỏ quá, nên chẳng nghe thấy gì hết, chỉ biết là hình như họ đang bàn luận việc gì thì phải.
Bần tăng đang áp tai xuống đất, cố nghe cho rõ, không dè một cái bóng từ đâu đã lướt qua đỉnh đầu, kèm theo tiếng quần áo bay phần phật.
Bần tăng đoán chắc người ấy là lệnh sư đệ, chưa kịp tìm cách báo động, thì hắn đã bay xa tới hơn một trượng, và đi thẳng tới phía có người mai phục.
Hắn ngừng một lát như cố nén xúc động, rồi lại tiếp:
- Bần tăng còn đang luống cuống, không biết làm cách gì cản kịp, thì mấy mũi ám khí đã từ trong bụi cỏ bay ra, nhưng lệnh sư đệ cũng không phải tầm thường, mấy mũi ám khí đó cũng chẳng làm gì nổi hắn. Nhưng chân khí của hắn đã bị tán ra, thân hình liền rơi ngay xuống bãi cỏ.
Trong bãi cỏ có hai tên mặc áo đen, thấy lệnh sư đệ rơi xuống, bèn lập tức chia ra hai phía, trong hai tên có một tên võ nghệ hơi cao, nếu lệnh sư đệ tấn công ngay tên ấy thì không đến nỗi. Bất đồ hắn lại nhắm vào tên kém, dốc toàn lực ra mà đánh, tên võ công đứng ngoài được rảnh tay bèn thừa thế tập kích vào sau lưng hắn.
Diệu Vũ sẽ rùng mình. Bách Duy lại kể tiếp:
- Bần tăng thấy thế, sợ quá, không còn kịp nghĩ tới sự an nguy của mình nữa, vội xông ngay ra tiếp cứu. Nhưng trong lúc hốt hoảng quên phứt đi mất là cánh tay trái của mình đã không làm gì được, cả nửa mình bên phải hoàn toàn bỏ trống, rất dễ bị quân địch tấn công. Quả nhiên vừa giơ tay lên đã bị gã nọ xoay mình phóng ra một chưởng, thế là từ đấy không còn biết gì nữa.
Diệu Vũ nghe xong, trầm ngâm giây lát, rồi thở dài:
- Đại sư đã tận lực giúp tiện sư đệ, dẫu không cứu được nhưng cũng đủ tỏ ra đại sư là một bực hiệp nghĩa nhân tâm, đệ tử thực muôn vàn cảm kích.
Bách Duy nói:
- Đã là bạn đồng chí tất phải có bổn phận cứu giúp lẫn nhau. Đạo huynh nói chi đến hai chữ “cảm kích”?
Diệu Vũ nói:
- Nhâm tướng công chắc đang chờ ta, bây giờ để đệ tử đưa đại sư về trước.
Bách Duy nói:
- Vết thương của bần tăng còn đau lắm, thế nào cũng phải nhờ đạo huynh vực về, nhưng còn thi hài của lệnh sư đệ...
Diệu Vũ nói:
- Đệ tử hãy đưa đại sư về trước, rồi sẽ đem thi hài tiểu sư đệ về sau.
Bách Duy nói:
- Theo ý bần tăng, thi hài để ở đây, không người canh giữ, lỡ bị dã thú tha đi thì phiền. Bất nhược đạo huynh hãy đem thi hài lệnh sư đệ về trước, rồi hãy ra đón bần tăng cũng được.
Diệu Vũ nói mãi, hắn cũng nhất định không nghe, đành phải vâng lời, bế pháp thể Diệu Quả về trước.
Bách Duy chờ Diệu Vũ đi khỏi, lạilấy phong thư ban nãy ra xem. Trong thư đại ý tóm tắt như sau:
“... Sau khi gặp “Huyền Chân” lại phải ngầm theo dõi xe Nhâm Vô Tâm. Lần này rất có thể hắn sẽ tới Hồi Thanh Cốc ngoài thôn Tam Tính. Trong thôn có ngôi miếu Thổ địa và trong bát hương có để sẵn mật lệnh. Cứ theo đó mà thi hành, không cần phải liên lạc với cấp trên vội. Các việc cứ tự ý mà làm.”
Bách Duy đọc xong, vo tròn mảnh giấy vứt xuống vũng nước.
Giữa lúc ấy chợt nghe trong bụi cỏ lại có tiếng sột soạt. Bách Duy sợ quá vội quay lại nhìn, thì vừa gặp một con mắt cũng đang nhìn mình chòng chọc.
Bách Duy chỉ thấy xương sống lạnh toát, bất giác rùng mình một cái. Thốt nhiên nghe tiếng nói một ông già từ trong bụi rậm đưa ra:
- Người ngồi đó có phải là môn hạ Thiếu Lâm núi Tung Sơn tên gọi Bách Duy không?
Bách Duy run run hỏi:
- Ngươi là ai? Sao lại biết tên bần tăng?
Trong bụi lại nghe có tiếng cười khanh khách, rồi một ông già bộ mặt đầy sẹo, tóc tai bù xù, chột mắt, cụt một bên chân và một bên tay, mình mặc áo rách, tay chống gậy trúc cũng theo tiếng cười nhảy vụt ra.
Bách Duy giật mình kinh sợ, vội bước lùi lại hai bước. Ông già cụt tay toét miệng ra cười, hai hàm răng nhọn hoắt trắng nhỡn nhe ra như muốn cắn ai.
Hai người trừng mắt nhìn nhau một lúc, chợt người cụt tay rảo bước tiến lên, giơ bàn tay đầy lông lá đập vào vai Bách Duy.
Bách Duy hoảng hốt toan kêu lên, nhưng cổ họng như tắt lại không sao thốt lên thành tiếng. Không ngờ người cụt tay chỉ sẽ vỗ nhẹ lên vai hắn, thở dài nói:
- Đáng tiếc, đáng tiếc, cánh tay này hỏng mất rồi, không sao cứu được nữa.
Bách Duy thấy người cụt tay nói năng hoà nhã, đôi mắt cũng dịu lại, không lạnh lùng như ban nãy, mới hơi yên tâm, liền hỏi:
- Tiền... tiền bối muốn chỉ giáo điều gì?
Người cụt tay chợt lại sầm mặt, nói như gắt:
- Ngươi muốn tra hỏi lai lịch lão phu à?
Bách Duy vội nói:
- Đệ... đệ tử đâu dám...
Người cụt tay nói:
- Ngươi hà tấtphải hỏi lai lịch lão phu. Lão phu là bạn chứ không phải là thù, ngươi cứ yên trí.
Bách Duy ấp úng:
- Dạ, dạ...
Người cụt tay thủng thỉnh nói:
- Vết thương ở cánh tay ngươi tuy không thể cứu được nữa, nhưng ngươi đã vì các bạn võ lâm đồng đạo mà bị thương, lão phu sẽ có cách bồi thường, rồi đây, nếu có dịp lão phu sẽ truyền cho ngươi “chưởng pháp độc tý”.
Bách Duy vừa sợ vừa mừng, luôn miệng cảm ơn. Lão cụt tay chợt nghiêm giọng hỏi:
- Nhâm Vô Tâm độ này có được mạnh không?
Bách Duy thở phào một tiếng như vừa trút được một gánh nặng, nghĩ thầm: “À, thì ra lão quen Nhâm Vô Tâm.” Rồi cung kính thưa rằng:
- Nhâm tướng công gần đây công việc bận lắm, nhưng thân thể vẫn được khang kiện.
Người cụt tay cặp mắt long lanh nói:
- Ngươi chớ nói với hắn là có gặp ta nghe không? Ta không muốn giáp mặt hắn lúc này.
Bách Duy lúng túng:
- Đệ tử xin nhớ!
Lão cụt tay lại nói:
- Ngươi về bảo Vô Tâm phải giải huyệt cho Huyền Chân ngay, hiểu chưa?
Bách Duy ngạc nhiên, nhìn lão một lúc, rồi hỏi:
- Huyền Chân đã bị loạn trí, tiền bối muốn giải huyệt cho hắn làm gì?
Người cụt tay nổi giận nói:
- Lão phu bảo ngươi như thế, tất phải có lý do, ngươi có biết tuân lệnh, còn hỏi lôi thôi làm gì?
Bách Duy ngập ngừng:
- Nhưng... nhưng tiền bối đã không cho đệ tử nói là có gặp tiền bối, thì nếu Nhâm tướng công hỏi vì cớ gì phải giải huyệt ngay cho Huyền Chân, đệ tử biết trả lời thế nào?
Người cụt taycau mày nói:
- Ngươi ngần ấy tuổi đầu, mà không biết tìm cách gì bảo Nhâm Vô Tâm giải huyệt cho Huyền Chân, còn phải đợi lão phu dạy nữa hay sao?
Bách Duy cười một cách khổ sở:
- Nhưng... nhưng bần tăng...
Người cụt tay lại quát:
- Thôi im đi! Ngươi cứ bảo Nhâm Vô Tâm giải huyệt xong, tự khắc Huyền Chân sẽ nói rõ cho hắn nghe.
Bách Duy rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu tại sao ông già kỳ dị này cứ nhất định bắt Vô Tâm giải huyệt cho Huyền Chân để làm gì? Dụng ý của ông ta ở chỗ nào? Còn đang băn khoăn nghĩ ngợi, chợt lại nghe ông già nói:
- Ngươi không bảo được Nhâm Vô Tâm thì tự mình giải lấy không được hay sao?
Bách Duy lắc đầu:
- Vô Tâm điểm huyệt bằng một thủ pháp riêng, đệ tử làm sao mà giải nổi?
Người cụt tay nói:
- Khó gì? Để ta truyền cho ngươi cách giải.
Bách Duy khấp khởi mừng thầm, vội quỳ xuống xin thụ giáo. Người cụt tay hình như đã chuẩn bị từ trước, bèn lấy trong mình ra một mảnh giấy gấp thành ba góc, nói:
- Đây là thủ pháp điểm huyệt riêng của Vô Tâm, một người có căn cơ võ công như ngươi, chỉ luyện chừng ba giờ là thuộc.
Bách Duy vội khom lưng tiếp lấy nói:
- Đa tạ tiền bối!
Ông già chợt lắng tai nghe ngóng rồi nói:
- Có người tới! Thôi ta đi... nhớ đừng cho ai biết cuộc gặp gỡ hôm nay nhé!
Nói vừa dứt lời, người đã đi khỏi một quãng xa. Bách Duy mừng như vớ được của báu vội cất mảnh giấy vào bọc, rồi nghiêm trang ngồi đợi.
Chỉ trong thoáng chốc Diệu Vũ quả đã trở lại, nói với Bách Duy:
- Nhâm tướng công chờ đã lâu, chúng ta nên về đi thôi!
Bách Duy gật đầu, Diệu Vũ nghiêng mình xin lỗi, rồi cắp ngang lưng lão chạy đi như bay.
Cỗ xe ngựa lúc này cũng đã vào tới trong động. Mọi người thấy Bách Duy về, đều xúm lại hỏi thăm. Diệu Pháp chợt quỳ xuống đất, rập đầu ba lượt, nói:
- Tệ sư đệ nhờ ơn đại sư thành toàn, Diệu Pháp này xin đa tạ.
Vừa nói vừa ứa nước mắt. Bách Duy vội vái đáp lại, mọi người cùng than thở bùi ngùi.
Vô Tâm đưa mắt nhìn thi hài Diệu Quả, thở dài nói:
- Cái chết của Diệu Quả đạo huynh đã làm cho Nhâm Vô Tâm đau đớn. Lại còn việc Huyền Chân đạo trưởng... Ôi! Vô Tâm này còn mặt mũi nào đối với vong hồn các vị tiền bối Vũ Đương?
Diệu Pháp nói:
- Môn hộ Vũ Đương tuy gặp nhiều bất hạnh, nhưng đệ tử Vũ Đương nếu có thể vì giang hồ nêu cao chính nghĩa mà chết, thì lại là một đại hạnh trong cái bất hạnh của phái Vũ Đương.
Giọng nói sang sảng, như tiếng dùi ngọc gõ chuông vàng, làm cho Bách Duy cũng phải sinh lòng kính sợ.
Nhâm Vô Tâm lắc đầu thở dài:
- Nhưng mà...
Diệu Pháp ngẩng đầu, cất cao giọng nói:
- Nhưng nếu tướng công chỉ biết tự trách tự thẹn, tự diệt chí khí, không chịu phấn khởi cố gắng, khiến cho nhà Nam Cung thế gia không cần phải đánh cũng thắng, thì bọn đệ tử Vũ Đương chúng tôi dẫu chết cũng không nhắm được mắt!
Còn nếu tướng công không lấythế làm nản chí, phấn lực tự cường, hăng hái cùng quân thù quyết một còn một mất thì anh em chúng tôi dẫu phải chết tới mấy mươi kiếp cũng được ngậm cười chín suối!
Mấy câu chính nghĩa từ nghiêm của Diệu Pháp đã làm cho Vô Tâm toát mồ hôi trán, chàng run sợ cúi đầu nói:
- Đạo huynh lấy đại nghĩa trách mắng, Vô Tâm này đâu dám không tuân.
Diệu Pháp lúc ấy mới tươi cười, đứng lên nói:
- Vậy thì tốt hơn hết là chúng ta phải dời khỏi đây tức khắc. Lúc này đâu phải là lúc chỉ ngồi trông nhau mà thở ngắn than dài.
Diệu Vũ hỏi:
- Chúng ta nên đi đâu bây giờ? Xin Nhâm tướng công ra lệnh.
Nói xong nhảy lên xe cầm lấy dây cương trong tay Diệu Không rồi quay lại nói to:
- Xin mời các vị lên xe, để Diệu Vũ đánh xe đưa các vị đi.
Mọi người lần lượt lên xe. Diệu Pháp buộc pháp thể Diệu Quả vào gầm xe, rồi nhảylên sau cùng. Vô Tâm chỉ về phía đông nói:
- Đi lối này! Tôi không tin rằng nhà Nam Cung thế gia có thủ đoạn thần thông phá huỷ được hết những bí huyệt của chúng ta.
Vừa ngồi yên đâu đấy, Bách Duy chợt hỏi Diệu Pháp:
- Đạo huynh sao không tìm một ngôi đất tạm an táng pháp thể Diệu Quả đạo huynh, còn định đưa đi đâu nữa?
Diệu Pháp nói:
- Tự vì Nam Cung thế gia một ngày chưa diệt thì thi thể sư đệ tôi cũng một ngày chưa chôn! Nếu Nam Cung thế gia có thể giết hết bốn anh em tôi, chúng tôi cũng tình nguyện phơi thây hoang dã, hoá làm du hồn lệ quỷ, chống đối họ đến cùng!
Bách Duy cảm thấy lạnh người, cúi mặt không dám trông lên. Diệu Pháp đôi mắt đỏ ngầu, ngửa mặt lên trời nói tiếp:
- Nếu trời xanh có mắt, sau này tụi giặc Nam Cung thế gia bị chu diệt, tôi sẽ đem thi hài Diệu Quả sư đệ chôn ngay ở trước mặt quần hào, cử hành một tang lễ cực kỳ trọng thể quang vinh, để cho các bọn vô sỉ trí thức nông cạn cam tâm làm tôi tớ cho nhà Nam Cung thế gia mở to mắt ra mà coi, cho chúng biết rằng nhưng người vì chính nghĩa mà chiến đấu, vì chính nghĩa mà chết, sự hy sinh sẽ còn giá trị tới bực nào!
Bách Duy chột dạ, trong bụng càng bứt rứt không yên, không biết Diệu Pháp nói câu ấy là cốt nói với mình hay nói với ai.
Ánh sáng yếu ớt chiếu vào trong xe, “Huyền Chân” vẫn nằm yên không động đậy, chẳng khác nào một người chết rồi. Bách Duy quả không nói cho Vô Tâm nghe câu chuyện gặp người cụt tay, chỉ thỉnh thoảng lại lén mở tờ giấy dạy cách giải huyệt ra nghiên cứu.
Hai hôm sau Bách Duy đã thuộc lòng cách giải huyệt độc môn của Vô Tâm. Nhưng lúc này hắn lại không muốn giải nữa.
Lý do vì hắn rất băn khoăn không hiểu người cụt tay muốn giải huyệt cho Huyền Chân hay là có dụng ý gì? Chẳng lẽ ông già ấy lại không biết rằng “Huyền Chân” đã điên cuồng rồ dại, nếu giải huyệt ra, thì chỉ có hại cho Vô Tâm chớ không được ích gì hay sao?
Bao nhiêu lần hắn giơ tay định giải huyệt cho “Huyền Chân” rồi lại vội bỏ tay ngay xuống, trong bụng ngổn ngang trăm ngàn mối mâu thuẫn, mà không biết nói với ai.
Sang đến ngày thứ tư, Vô Tâm càng ngày càng lộ vẻ bồn chồn lo lắng, nhiều lúc ai muốn nói gì, chàng cũng chẳng buồn nghe.
Buổi chiều hôm ấy, Diệu Pháp chợt chỉ tay về phía trước nói:
- Phía trước mặt kia là trấn Sa Kỳ, ra khỏi đấy là đồng bằng Trung Châu, chúng ta nên đi phía nào?
Vô Tâm giật mình, coi bộ như người đang mê chợt tỉnh, ngập ngừng hỏi:
- Trước mặt là trấn Sa Kỳ ư?
Diệu Pháp gật đầu, Vô Tâm lại lặng im không nói gì nữa. Sau đó một lát, Diệu Pháp lại phải hỏi:
- Bây giờ xe cứ đi thẳng ư?
Vô Tâm ngơ ngác một lúc, rồi cười gượng:
- Đừng đi thẳng, quay lại...
Diệu Pháp cau mày hỏi:
- Đi quá rồi hay sao mà phải quay lại?
Vô Tâm vẫn điềm nhiên đáp:
- Quay sang phía Nam Thiệu, tới núi Phục Ngưu.
Bách Duy và Diệu Pháp chỉ đưa mắt nhìn nhau, lắc đầu. Kế đó cỗ xe lại quay lại, đi về phía núi Phục Ngưu. Sáng sớm hôm sau, xe đã lên tới sườn núi.
Đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy bốn bề núi non trùng điệp, ngọn nọ tiếp ngọn kia, liên miên bất tuyệt. Vào tới trong núi, dân cư đã thấy thưa dần, quá chút nữa, chỉ còn lác đác một vài nóc nhà của những người kiếm củi, nằm dựa ven sườn núi, mấyđám khói trắng từ trong những căn nhà ấy bốc lên tới lưng chừng rồi tản ra bốn phía, ngoài đường không thấy ai qua lại.
Xe ngựa càng đi càng thấy gập ghềnh, bốn bề càng thấy vắng vẻ, mãi tới một chỗ xung quanh toàn những núi cao vòi vọi, không có lối đi.
Diệu Pháp thò đầu vào xe hỏi:
- Đây đã hết đường đi rồi, làm thế nào?
Trên môi Nhâm Vô Tâm mới thoáng nở một nụ cười héo hắt, thủng thỉnh đáp:
- “Sơn cùng thuỷ tận ngờ không lối, liễu ám hoa minh lại một làng.” Ấy chính là cái chỗ thần bí của căn động này là ở hai chữ “không lối” ấy.
Diệu Pháp lúc này mới tươi tỉnh, nghĩ thầm: “Chỗ này quả kín đáo thật. Nhà Nam Cung thế gia cù có tài tiên tri, cũng quyết không thể tìm ra được.”
Nghĩ đến đấy tinh thần lại trở nên phấn chấn, bèn nhảy xuống xe dắt ngựa đi lên. Đi ước nửa giờ nữa thì tới trong cùng hang núi. Vô Tâm chợt mở cửa xe, thò đầu ra nói:
- Đỗ lại!
Diệu Pháp quát to một tiếng, rồi ghìm ngựa lại. Vô Tâm đưa mắt nhìn khắp xung quanh một lượt, rồi thốt nhiên ngửa cổ lên trời, hú một tiếng thật dài.
Tiếng hú cao vút lên tới mây xanh, tiếng thứ nhất vừa dứt, lập tức có những tiếng hồi âm ở các vách núi vọng lại, vang vang tưởng như có hàng trăm ngàn người núp ở sau bốn dãy núi đồng thanh hoạ lại tiếng hú của Vô Tâm.
Bách Duy buột miệng hỏi:
- Hồi Thanh Cốc?
Vô Tâm mỉm cười gật đầu:
- Chính là Hồi Thanh Cốc!
Hồi thanh qua lại mãi không ngừng, ước chừng nguội chén nước trà, đâu đây mới khôi phục được yên tĩnh.
Vô Tâm nhảy lên nóc xe, đặt tay lên miệng gọi to:
- Nghĩa kỳ... phấp phới... Nghĩa kỳ... phấp phới...
Tức thì lại có cả trăm ngàn tiếng từ bốn phương dội lại:
- Nghĩa kỳ... phấp phới... Nghĩa kỳ... phấp phới...
Chờ một lúc lâu, âm thanh mới lắng dịu. Vô Tâm vẫn đứng trên mui xe, lắng tai nghe ngóng.
Lúc này tiếng vang đã dứt hẳn, nhưng bốn phía chỉ nghe tiếng gió thổi rì rào, tiếng lá bay xào xạc, ngoài ra không còn nghe thấy gì khác nữa.
Vô Tâm sắc mặt càng lúc càng trở nên trầm trọng, lông mày càng cau díu lại. Chàng sốt ruột, lại bắc loa tay lên miệng gọi lại:
- Nghĩa kỳ... phấp phới... Nghĩa kỳ... phấp phới...
Nhưng âm vang đã dứt, mà bốn bề vẫn yên lặng như tờ, không hề có phản ứng, mồ hôi trên trán Vô Tâm đã bắt đầu đọng lại thành giọt, từ từ chảy xuống gò má.
Bọn Diệu Pháp và Bách Duy đều đoán bốn chữ “Nghĩa kỳ phấp phới” tất là tín hiệu Vô Tâm vẫn dùng để liên lạc với những người trong bí động. Nhưng nếu trong động vẫn bình yên vô sự thì từ nãy đến giờ nghe tiếng Vô Tâm gọi, tất thế nào cũng phải chạy ra chứ?
Cứ xem qua tình hình đó, đủ thấy rằng nơi đây hẳn đã có biến cố gì vừa mới xảy ra.
Mọi người đang hồi hộp ngóng chờ, chợt thấy Vô Tâm nhảy xuống đất, thân hình nhẹ như con én vùn vụt lao về hẻm núi phía tây.
Diệu Pháp kinh sợ kêu lên:
- Nhâm tướng công, thong thả chờ chúng tôi với!
Nói chưa dứt lời, đã cùng Diệu Vũ, Diệu Không băng mình nhảy theo.
Lúc này Vô Tâm đã nhảy lên một tảng quái thạch trên đỉnh núi, mặc cho bọn Diệu Pháp kêu gọi hết hơi, chàng cũng lờ như không nghe tiếng.
Bọn Diệu Pháp đuổi tới chân núi, nhìn lên đỉnh núi đã không thấy Vô Tâm đâu nữa. Diệu Vũ nói:
- Ở đấy chắc có bí đạo, chúng ta lên mau!
Nói dứt lời, cả ba người cùng thoăn thoắt leo lên, thoáng chốc cũng mất hút vào phía sau mỏm núi.
Còn lại một mình Bách Duy bồi hồi bên xe, đưa mắt nhìn quanh bốn phía, rồi lẩm bẩm: “Nếu đây là thôn Tam Tính, thì miếu Thành Hoàng ở đâu?”
oOo
Lúc này bọn Diệu Pháp đã vào tới con đường bí đạo, ngửng mắt trông lên chỉ thấy hai bên vách núi cao sừng sững, bên trên có một kẽ hở đủ trông thấy trời xanh, hình thế thực là hiểm ác.
Ba người nối đuôi nhau rón rén đi lên. Diệu Không quay lại nói với hai người đi sau:
- Nhâm tướng...
Hai tiếng đó vừa thốt ra khỏi miệng, cả ba người bất giác chợt giật mình kinh sợ. Thì ra tiếng nói của Diệu Không tuy nhỏ, nhưng hồi âm lại ầm ầm như sấm dậy, phóng tiếng nói lên cao gấp mười lần.
Diệu Không im bặt không dám nói nữa. Một lúc sau Diệu Vũ mới hạ thật thấp giọng như người nói thầm:
- Chỗ này hiểm trở quá, nếu Nam Cung thế gia cho người mai phục trên đỉnh núi kia mà lăn gỗ đá xuống thì chúng ta dù có bản lĩnh tày trời cũng không hòng thoát chết.
Đi được một lát, Diệu Không chợt dừng chân lại hỏi:
- Sư huynh có ngửi thấy gì không?
Diệu Pháp cau mày chum mũi hít một hơi dài, bất giác cũng tái mặt run run nói:
- Quái lạ! Hay là Nhâm tướng công làm sao rồi?
Diệu Vũ lúc này cũng vừa ngửi thấy mùi máu tanh tanh, theo chiều gió thoang thoảng đưa lại.
Ba người đưa mắt nhìn nhau, rồi chẳng nói chẳng rằng, cùng cắm đầu chạy miết. Chạy được một quãng, Diệu Không đã trông thấy bóng Nhâm Vô Tâm đứng sừng sững phía trước mặt, không động không cựa, tuy trông bộ dạng như người mất hồn, nhưng không hề bị thương, lúc ấy mới thở ra một hơi dài nhẹ nhõm.
Mãi lúc tới gần mới nhận ra trước mặt Vô Tâm có đến hơn mười cái xác nằm chồng chất lên nhau, máu me đầm đìa, cực kỳ thê thảm.
Bọn Diệu Pháp trông thấy đống tử thi, bất giác đều rùng mình kinh sợ, hai mắt hoa lên, mặt mày xây xẩm, chỉ chực buồn nôn.
Ba người vội quay mặt đi, cố trấn tĩnh tinh thần, rồi vừa đằng hắng, vừa bước lại phía Vô Tâm.
Vô Tâm ngẩng đầu nhìn ba người bằng một cặp mắt ngơ ngác mất hồn, tựa hồ như không nhận ra là ai. Diệu Pháp sợ hãi, rụt rè gọi:
- Nhâm tướng công... Nhâm tướng công....
Nhâm Vô Tâm trên môi chợt thoáng hiện nụ cười, hỏi:
- Các vị cũng tới đấy à? Tốt.
Rồi lại ngây mặt ra nhìn đống tử thi.
Diệu Pháp nhìn theo hướng mắt chàng, thì ra chàng đang đăm đăm nhìn vào một chiếc hộp bằng gỗ tử đàn, để trên đống hài cốt.
Chiếc hộp đặt chính giữa đống xác chết, rõ ràng là cố ý để cho Nhâm Vô Tâm xem, mà Vô Tâm thì cứ đứng ngây ra nhìn, không dám mở.
Diệu Vũ xé mảnh vạt áo buộc vào bàn tay, định cầm chiếc hộp lên xem, không ngờ vừa đưa tay ra, đã bị Vô Tâm kéo lại. Diệu Vũ cười gượng nói:
- Đằng nào ta cũng phải mở ra xem bên trong đựng cái gì, sao tướng công lại giữ lại?
Vô Tâm cười một cách buồn bã:
- Tôi cũng có tay, hà tất phải phiền đạo huynh?
Diệu Vũ không dám nói gì nữa, chỉ lẳng lặng lui ra. Diệu Pháp liền cầm mảnh vạt áo ở tay Diệu Vũ đưa cho Vô Tâm. Vô Tâm cầm lấy buộc vào bàn tay mình.
Chương 51
Nhâm Vô Tâm cúi xuống cầm chiếc hộp gỗ đàn lên, ngần ngừ một lúc, rồi từ từ mở ra.
Diệu Pháp, Diệu Không, Diệu Vũ đều nín thở, hồi hộp, sáu luồng nhỡn tuyến đều đổ dồn vào chiếc hộp, chỉ sợ bên trong là ám khí, hoặc thuốc độc gì chăng?
Không ngờ khi nắp hộp mở ra, chỉ thấy bên trong vẻn vẹn có một cuốn sách nhỏ, bằng giấy xuyến chỉ màu vàng.
Dưới ánh sáng lờ mờ, thấy trên bìa sách có một dòng chữ đề rằng: “Nam Cung thế gia nhiếp tâm mê hồn thuật chi bí”. Bên cạnh mười một chữ đó, còn có một hàng chữ nhỏ, viết rằng: “Hà sóc Thốn Tâm Tẩu đem bảy đệ tử ‘Thốn tâm môn’ cùng bọn Chu Khả Pháp, Lâm Chính, Ngộ Mộng Tử gồm mười một đồng đạo khổ công nghiên cứu suốt năm, may có sở đắc, kính xin chép lại đây.”
Bọn Diệu Pháp tuy không mấy khi ra chỗ giang hồ, nhưng cũng biết Hà sóc Thốn Tâm Tẩu là một ông già đã chín mươi bảy tuổi. Bắt đầu từ năm mười bảy tuổi, ông ta tiếp chưởng môn hộ “Thốn tâm môn” đến nay, chỉ chuyên tâm nhất chí nghiên cứu bí quyết “Nhiếp Tâm Thuật”, ngày đêm không nghỉ. Bí quyết cương thi quyền của “Ngôn gia môn” đất Thần Châu cũng bị ông ta phá được.
Diệu Pháp đọc xong dòng chữ nhỏ, liền sẽ hỏi:
- Đệ tử nghe người ta nói là Thốn Tâm Tẩu và bảy đệ tử trước đây hai năm, thốt nhiên mất tích có lẽ là họ được tướng công đón về đây chăng?
Vô Tâm gật đầu, sắc mặt đầy vẻ đau khổ. Bọn Diệu Pháp đăm đăm nhìn đống tử thi, run run hỏi:
- Vậy thì đây là... đây là...
Vô Tâm thủng thỉnh đáp:
- Đây chính là thi hài Thốn Tâm Tẩu và bảy môn hạ ông ta.
Ba người nghe xong, bất giác cùng cảm thấy lạnh toát cả người, không sao ngăn nổi hai hàng nước mắt. Vô Tâm thò mấy ngón tay run run vào hộp, định nhấc cuốn sách ra. Diệu Vũ vội kêu:
- Nhâm tướng công, đừng... không được..
Vô Tâm dừng tay, ngoảnh lại nhìn, ra ý hỏi. Diệu Vũ nói:
- Cuốn sách này đã khám phá ra những sự bí mật của Nam Cung thế gia, thì sao họ không huỷ ngay đi, mà lại để cho ta tìm thấy? Có phải rõ ràng là vô lý không? Mà trên đời đại phàm những sự vô lý, bên trong tất phải có âm mưu...
Diệu Pháp gật đầu nói tiếp:
- Tam đệ nói rất phải. Cuốn sách này chính là cái mồi để nhử người ta. Nhâm tướng công cũng nên cẩn thận.
Vô Tâm cười một cách đau khổ:
- Tại hạ không phải là không biết thế, nhưng mắt đã được trông thấy cái chìa khoá mở chiếc cửa bí mật mà bao nhiêu năm nay, không một giờ khắc nào không lao tâm khổ trí tìm tòi, suy xét, có lẽ nào lại bỏ qua không cầm?
Diệu Vũ nói:
- Theo ý đệ tử thì cuốn sách này chỉ có cái bìa là thật, tướng công hà tất phải xem.
Vô Tâm nói:
- Ngộ lỡ bên trong toàn là bí quyết thật, mà ta bỏ qua không xem, có phải là ôm hận nghìn đời không?
Diệu Vũ cười nói:
- Vậy thì lại càng khó lắm, trừ phi người trong Nam Cung thế gia đều hoá điên cả thì không kể.
Vô Tâm nói:
- Biết đâu trong Nam Cung thế gia có người chợt thấy lương tâm phát hiện, không nỡ để công đạo võ lâm do thế mà chìm đắm, nên mới lấy trộm bí cấp để giữa chỗ mà hắn biết chắc chắn bọn ta sẽ đi qua?
Diệu Vũ sửng sốt, lẩm bẩm nói một mình:
- Mong rằng như thế.
Vô Tâm lại tiếp:
- Lại nữa, biết đâu không có một bực võ lâm dị nhân nào vì muốn ngầm giúp mình, mới đánh cắp cuốn sách này ở trong Nam Cung thế gia, đem bỏ ra đây, cho ta trông thấy?
Ba người nghe chàng nói cũng có vẻ hợp lý, bèn đưa mắt nhìn nhau. Diệu Pháp gật đầu nói:
- Cũng có thể.
Vô Tâm bèn không do dự gì nữa, lập tức cầm cuốn sách và mở ra, bọn Diệu Pháp cũng xúm lại xem.
Lúc ấy chính là lúc mà Bách Duy đứng ngoài sơn cốc đứng bồn chồn nóng nảy như con kiến bò trên miệng chén nước nóng.
Thốt nhiên hắn ngửi thấy một mùi gì khen khét như mùi lửa cháy theo chiều gió đưa lại, rõ ràng là có ai đốt cái gì ở đâu đây. Bách Duy giật mình vội quay đầu nhìn về phía có mùi đó, chỉ thấy từ trong núi đá có một luồng khói bốc lên, không đoán cũng biết trong núi tất có đường vào.
Bách Duy lập tức cài chặt cửa xe lại, rồi tung mình chạy về phía đó.
Ngọn núi này hình thể rất cheo leo hiểm trở, Bách Duy khinh công cũng khá cao, nên chỉ vài lần nhô lên hụp xuống thì đã xông tới đầu ngọn khói.
Luồng khói tuy đặc nhưng Bách Duy nhờ có nội công thâm hậu, nên mục lực vẫn tinh tường, còn trông rõ chỗ luồng khói bốc lên là sau một khóm mây, dây mây quấn chằng chịt, nếu không có đám khói đặc thì không ai có thể trông thấy bên trong còn có một khe núi.
Bách Duy dồn chân lực vào tay trái, rồi vơ lấy nắm dây mây leo sang. Vạch bụi mây ra đã thấy một khe núi vừa đủ để một người chui lọt.
Càng vào trong, khói lại càng dày đặc, làm cho Bách Duy không sao mở mắt ra được, đành cứ bước lần đi, tay vịn vào vách đá.
Đi khoảng chừng nguội hai chén nước trà, chỉ thấy vách đá càng đi lên càng nóng, dần dần không thể vịn tay được nữa. Bách Duy biết rằng đây đã gần đến chỗ đám cháy.
Hắn đang lo lắng không biết nên vịn vào đâu mà ra khỏi khe núi, thốt nhiên thấy hơi thở đã dễ dàng, thì ra luồng khói lúc này đã loãng, đám cháy có lẽ đã tắt, nhưng hơi nóng vẫn còn lưu trên vách đá!
Lại quá một lúc nữa, Bách Duy mới từ từ mở được mắt ra, nhưng trong khe núi không có ánh mặt trời, bóng sáng cực kỳ ảm đạm, không sao nhìn ra xa được.
Bách Duy rảo bước tiến lên, chợt thấy một luồng ánh sáng từ trong đám khói chiếu thẳng vào mắt, thì ra đã tới cửa hang.
Hắn lao mình nhảy vụt ra ngoài, đảo mắt nhìn quanh, chỉ thấy địa thế nơi mình đứng rất cao, bốn mặt đều có ngọn núi bao bọc, mà đám cháy vừa rồi là một căn nhà gỗ.
Lúc này ngọn lửa tuy đã tắt, nhưng trong những cây cột gỗ vẫn còn những tia lửa bắn ra lách tách. Bách Duy cúi đầu nhìn xuống phía dưới, mới biết đó chính là một xóm nhỏ.
Trong xóm chỉ rải rác mấy căn nhà, nhưng cách kiến trúc rất tinh nhã, tường gạch cột đỏ, dựng tản mác khắp bốn phía, chính giữa xóm có một dòng nước từ rặng trúc ngoằn ngoèo bò vào, không biết chảy tới tận đâu.
Trước cửa mỗi nhà đều có một chiếc cầu nhỏ, lan can sơn đen, sàn cầu sơn xanh, nổi bật giữa đám lá cây xanh biếc. Thật là một nơi phong cảnh hữu tình.
Bách Duy đứng ngắm một lúc, bất giác than thầm:
“Nơi đây rõ ràng là Đào Nguyên thế ngoại, cách tuyệt trần hoàn. Chắc là chỗ ở của vị cao nhân nào ngày trước. Không hiểu tại sao Vô Tâm lại chọn làm nơi bí mật để tụ tập anh tài?”
Lúc này trong xóm đều yên lặng như tờ, cả bọn Nhâm Vô Tâm cũng không thấy bóng dáng. Bách Duy đắc ý nghĩ thầm: “Có lẽ chính Nhâm Vô Tâm cũng không ngờ xóm này lại còn một con đường bí mật đi thông sang nữa.”
Chợt hắn lại nhận ra một con đường nhỏ, quanh co lượn tới chỗ nhà cháy. Hắn chột dạ nghĩ bụng: “Hay căn nhà cháy kia là miếu Thành Hoàng cũng nên?” Nghĩ tới đấy, hắn vội rảo bước đi vào đám lửa tàn, mặc cho khói lửa vẫn còn xông lên một mùi khét lẹt.
Hắn trông thấy kèo cột trong nhà đã cháy đen thui, nhưng trong gian chính vẫn còn ngôi tượng bằng đất sét, tuy những nét son tô điểm bên ngoài đã bị lửa đốt đen sì, nhưng còn nhận rõ đai cân tề chỉnh, chính là pho tượng Thành Hoàng. Bách Duy giậm chân kêu:
- Khổ quá!
Miếu Thành Hoàng đã cháy, thì tờ mật lệnh của Nam Cung thế gia còn tìm sao được nữa? Không biết trong tờ mật lệnh có lệnh mật gì? Có liên can gì đến mình không?
Hắn băn khoăn một lát, rồi lại chợt hốt hoảng nghĩ thầm: “Ngôi miếu này nhất định bị người nhà Nam Cung thế gia đốt. Nhưng sao họ đã để mật lệnh ở đây mà lại còn đốt đi? Hay là... hay là họ đã biết được người được phái tới đây lấy mật lệnh bị ta giết chết rồi chăng?”
Hắn nghĩ tới đấy, mồ hôi lại toát ra như tắm, chân tay run lẩy bẩy, cơ hồ đứng không vững.
Hắn run sợ một lúc, lại cố định thần kiểm điểm lại mọi việc mình làm, thấy rằng không còn chỗ nào sơ hở, có thể lộ tẩy được. Thế thì vì cớ gì mật lệnh bị huỷ?
Hắn suy đi nghĩ lại mãi vẫn không sao tìm được giải đáp, đành đứng lên tìm một chỗ kín đáo nấp, chờ bọn Nhâm Vô Tâm xuất hiện.
oOo
Đây nói về Nhâm Vô Tâm, sau khi đắn đo một lúc, mới quả quyết mở cuốn sách giấy vàng ra xem.
Sáu luồng nhỡn tuyến của ba anh em Diệu Pháp cũng đều chiếu thẳng vào những dòng chữ ngay ngắn mềm mại trên trang sách nhỏ, quả nhiên đều nói về bí thuật nhiếp tâm. Chỉ đáng tiếc một điều là câu nào quan trọng cũng đều bị máu bôi bẩn cả.
Trên mỗi trang giấy ít nhất cũng có tới mười mấy chỗ bị bôi bẩn, trông giống như cái bộ mặt cười một cách đanh ác của Nam Cung phu nhân.
Nhâm Vô Tâm uất ức, ném cuốn sách xuống đất, nghiến răng nói:
- Mấy năm tâm huyết, phút chốc thành không. Từ nay trở đi chắc không còn hy vọng khám phá ra những sự bí ẩn của Nam Cung thế gia nữa!
Bọn Diệu Pháp trong bụng cũng đau đớn bàng hoàng, nhưng vì thấy Vô Tâm buồn quá, nên phải cố nén. Diệu Vũ gượng cười nói:
- Trên đời đã có người tìm được sự bí mật trong thuật “Nhiếp Tâm” của Nam Cung thế gia, thì tất cũng có người thứ hai tìm được. Tướng công đừng vội nản!
Vô Tâm ngửa mặt lên trời, thở dài:
- Ai là người thứ hai? Và hiện giờ người ấy ở đâu?
Diệu Pháp vội nói lảng:
- Thôi, đứng đây mãi cũng vô ích. Ta thử vào trong này xem có thấy gì lạ không?
Nhâm Vô Tâm gật đầu, rồi vượt qua đám tử thi đi lên. Bọn Diệu Pháp cũng vội chạy theo.
Đi một quãng nữa, hai bên vách núi đã mở rộng dần, rồi tới một con đường ngoằn ngoèo ăn thông xuống chân núi.
Dưới chân núi toàn những rào tre nhà lá, dòng nước quanh co, trông rõ ra cảnh tượng thái bình yên ổn, không ai dám ngờ nơi đây vừa xảy ra một cuộc chém giết kinh hồn, máu tuôn thành vũng.
Diệu Pháp thở dài nói:
- Tôi vẫn tưởng đến đây đã là sơn cùng thuỷ tận, không ngờ lại còn một nơi tiên cảnh Đào nguyên thế này! Không hiểu trước kia Nhâm tướng công làm thế nào mà tìm được?
Vô Tâm nói:
- Thôn Tam Tính nguyên là đất tránh loạn của ba họ Tần, Bạch, Điền. Trưởng bối của ba họ nhà ấy ngày xưa cũng đều là danh nhân trong võ lâm, đến lúc về già mới khám phá thế tình về đây sửa sang mảnh đất này làm nơi cư ngụ. Sau ba vị chết đi, con cháu họ đang thời trai tráng không cam tịch mịch, nên chỉ ba năm sau đều bỏ đi hết, chỉ còn để một người lão bộc ở lại trông coi. Giòng dõi ba họ đó sau này có kẻ bị quân thù giết, có kẻ quên cả dĩ vãng, chỉ còn một vị công tử tên gọi Tần Vũ, hãy còn lưu lạc trong giang hồ.
Chàng ngừng một lát rồi lại nói:
- Tần Vũ hồi nhỏ bị cha quản thúc rất nghiêm. Nên khi lạc bước hồng trần, thấy cảnh thế giới phồn hoa, không khỏi mê hồn choáng mắt. Tuy đã tự kiềm chế, mà rút cuộc vẫn xa ngã và vòng tửu sắc, đến nỗi nghèo xác nghèo xơ, một lỗ cắm dùi không có.
Diệu Pháp than rằng:
- Nhưng hạng thiếu niên như thế trên đời này thiếu gì?
Lúc này ba người đã xuống tới chân núi, Vô Tâm tiếp tục kể:
- Sau hồi hắn bèn nghĩ cách đem bán khu đất này đi. Các vị thử nghĩ một nơi tuyệt cốc thế này, chỉ trừ bọn mấy ông già chán đời, còn ai hoá dại tìm vào đây mà ở? Huống hồ đất đã không có văn tự, chứng khoán, mua bán toàn nói miệng không, vả ai là người chịu tin một kẻ ăn mày lại có cái sản nghiệp lớn đến thế này? Nên mặc dù hắn muốn nói khôn nói khéo thế nào cũng không ai chịu bỏ tiền ra mua.
Diệu Vũ hỏi:
- Thế chắc tướng công mua, phải không?
Vô Tâm gật đầu. Diệu Vũ lại cau mày nói:
- Đệ tử liều lĩnh dám đánh bạo hỏi tướng công một câu.
Vô Tâm nói:
- Đạo huynh cứ hỏi:
Diệu Vũ nói:
- Đất này dùng làm nơi ẩn dật cho các vị cao nhân thì thật là kín đáo hợp cảnh, nhưng nếu dùng làm một căn cứ bí mật để chống đối với nhà Nam Cung thế gia, đệ tử e rằng chưa đủ.
Vô Tâm thoáng hiện một nụ cười buồn bã nói:
- Tại hạ mua xong, liền dùng danh nghĩa một vị thượng nhân đất này, kiếm lấy ba nhà nghèo, cũng là họ Điền, họ Tần, và họ Bạch. Bọn họ nghèo quá, không còn cách gì sinh sống nữa, tại hạ mới mua cho họ đủ các thứ dụng cụ làm ăn, và lương thực để họ ở đây lại bắt họ đào một cái hầm bí mật ở bên dưới những căn nhà kia.
Diệu Vũ cười nói:
- Tướng công lo liệu thật chu đáo, không ai ngờ bên trong tuyệt cốc lại còn có bí huyệt, và càng không ngờ là tướng công lại dùng ba nhà thường dân làm bức bình phong che chở.
Vô Tâm nói:
- Ba nhà ấy toàn là những người thật thà có thể tin được. Không biết bây giờ họ ra sao? Ôi!
Nét mặt chàng chợt lộ vẻ đau đớn, thở dài:
- Hồi mới tới đây, họ sống cũng vất vả lắm. Nhưng hồi này đã ung dung rồi. Tại hạ rất ăn năn vì đã lôi cuốn họ vào những chuyện cừu thù chém giết trong võ lâm. Phen này nếu họ bị chết bởi độc thủ của Nam Cung thế gia thì thật là tại hạ đã hại họ!
Trong khi nói, bốn người đã đi tới dãy nhà bên trong hàng tre trúc, bốn bề vẫn im lìm, không hề nghe có tiếng động. Diệu Vũ vội đổi sang chuyện khác, nói nhỏ:
- Đệ tử và tướng công vào trước, xem động tĩnh như thế nào đã.
Bách Duy nấp trong đám gạch ngói cháy, chờ một lúc quả thấy bọn Vô Tâm đi đến. Hắn ngần ngừ không biết có nên ra mặt, hay nên lẻn về xe. Giữa lúc ấy hắn chợt trông thấy trong đống ngói có một vật gì hơi óng ánh vàng.
Bách Duy vội cúi xuống, lom khom bò gần lại, lấy một đoạn gỗ cháy dở, khều ra xem, thì ra là một cái lư hương bằng đồng, miệng lư úp chụp xuống đất, thân lư tuy đã bị lửa hun đen sì, nhưng vì chất đồng tốt, nên không những không bị chảy ra, mà còn một vài chỗ sắc đồng chưa biến nên bị ánh mặt trời chiếu vào, còn trông thấy óng ánh.
Bách Duy chợt lại động lòng, bèn cầm que củi bới hết tro ra, rồi sờ tay vào xem, thấy chiếc lư tuy vẫn còn hơi nóng, nhưng không đến nỗi bỏng tay. Hắn cầm tay lư nhấc lên, tàn hương bay tản ra bốn phía, trong lòng lư quả nhiên có một cái ống bằng đồng.
Loại ống đồng này hắn đã được trông thấy nhiều lần, nên không cần đoán cũng biết ngay là vật của Nam Cung thế gia thường dùng để bí mật liên lạc với các thuộc hạ.
Bách Duy vừa sợ vừa mừng, trống ngực đập thình thịch. Hắn phải ngồi yên một lúc cho định thần, rồi mới từ từ mở nắp ống ra, quả nhiên trong ống có một mảnh giấy, vẫn là loại giấy dùng để truyền mật lệnh mọi ngày.
Hắn hồi hộp mở giấy ra đọc, trong giấy đại ý nói rằng:“Bọn Nhâm Vô Tâm chắc lúc này đã tới, hoặc sắp tới, phải cẩn thận kẻo lộ tung tích, và cần chú ý theo dõi hành động của từng người trong bọn, nhất là Bách Duy...”
Bách Duy tái mặt, cười nhạt một tiếng, rồi lại tiếp tục đọc:“Ba sư đệ của Bách Duy có đi theo bọn đó không? Hình trạng “Huyền Chân” có gì khác không? Đó là hai điểm cần phải chú ý đặc biệt. Khi xong việc nhớ viết ngay báo cáo cho vào chiếc ống đồng này, đặt trả về chỗ cũ. Nhớ lấy!”
Từ đây trở xuống đều viết bằng bút son, có lẽ là cốt để người đọc đặc biệt chú ý:
“... Đêm rằm tháng này, đi lên phía trước khoảng chừng trăm dặm, có một cái quán gọi là Quán Truyền Thanh. Sang canh ba, ngươi đến dưới gốc hoè ngoài cửa quán sẽ có một người mặc áo xanh quần đỏ cầm đèn lồng vuông, đi qua đi lại ba lượt, chờ khi nào hắn đi thẳng ngươi sẽ đi theo, nhưng không nên hỏi han gì cả.
Đi chừng một hai dặm (không nhất định). Bao giờ thấy gã cầm đèn đốt đèn đi, thì tức là đã tới địa điểm đích xác. Ngươi phải lập tức hạ thủ giết ngay tên ấy đi, không được chần chừ.”
Đọc đến đây, Bách Duy chợt cảm thấy lạnh toát xương sống, trán râm rấp mồ hôi, lão cố nén xúc động, hồi hộp đọc tiếp:
“Xong rồi ngươi dẫm lên đống tàn tro, sẽ đọc mấy câu này: “Người đời khó tìm thuốc bất tử, Thần tiên trong Cốc có phúc lịnh.” Đọc đi dọc lại tới lần thứ bảy, trong bóng tối sẽ có người lên tiếng hỏi ngươi là ai, ngươi nhớ trả lời “Người bất tử”. Người ấy sẽ chỉ bảo cho ngươi các việc cơ mật. Có chỗ nào không hiểu, ngươi phải hỏi lại cho kỹ, rồi ghi tất cả vào một mảnh giấy, không được bỏ sót một chữ, và cần nhất là không được tò mò rình xem mặt người ấy...”
“Sau đó chờ tới canh năm, sẽ có người mặc áo xanh quần đỏ từ phía đông đi lại, tay xách chiếc lồng chim, trong lồng có một con bồ câu. Ngươi hãy giết ngay người ấy đi, rồi đem mảnh giấy ghi lời người bí mật buộc vào chân chim, thả cho nó bay đi. Việc này rất quan trọng, không nên coi thường. Đây là lệnh!”
Bách Duy đọc một hơi hết tờ mật lệnh, mới ngửa cổ lên trời thở ra một hơi dài. Trong bụng bồi hồi, ngổn ngang trăm mối.
Điều làm cho hắn thắc mắc nhất là tại sao chiếc lư hương lại nằm úp chụp dưới đất? Trong khi miếu bị thất hoả, bàn thờ khám thờ đều cháy thành than, chiếc lư đồng tại sao không bị chảy ra mà lại chỉ bị xém đen một vài chỗ? Xem thế đủ hiểu là trước khi miếu thất hoả, chiếc lư đã bị lật xuống đất rồi, lửa chỉ cháy ở trên cao, nên lư vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng có lý gì trước khi đốt miếu, thủ phạm lại còn cẩn thận đặt chiếc lư xuống đất rồi mới phóng hoả? Vậy thì ai để chiếc lư xuống đấy?
Việc này chỉ có thể suy luận được rằng: Trước khi thất hoả, trong miếu tất đã xảy ra một cuộc ẩu đả dữ dội, bàn thờ khám thờ, đều bị đạp đổ nên chiếc lư mới bị lật úp xuống đất.
Cách suy luận như vậy, nghe chừng có vẻ hợp lý, nhưng trước khi miếu cháy, ai đã đánh nhau ở đây?
Hắn nghĩ mãi vẫn không sao tìm ra manh mối, lại cầm que củi bới đi bới lại trong đám gạch ngói vụn. Hắn lật từng viên gạch bới từng đống tro, không một chỗ nào bỏ sót.
Tới khi hắn nhấc cây xà ngang lớn cháy đen ở góc miếu lên, rồi bới đống ngói vụn bên dưới ra, bất giác giật mình. Thì ra hắn đã trông thấy một cái tử thi bị cháy xém, mình mẩy đen thui nằm vùi ở dưới đống ngói.
Tử thi đã bị cháy hết quần áo, mặt mũi không còn rõ hình thù, nhưng cứ trông cách hắn nằm ngay ngắn, chân tay duỗi thẳng, cũng đủ hiểu là hắn bị chết trước khi miếu thất hoả. Bách Duy lại cúi xuống tìm quanh quẩn một hồi, tình cờ bới ngay được một chiếc thẻ đồng, nằm lẫn trong đám tro tàn.
Chiếc thẻ tuy đã dúm dó không còn nguyên hình, nhưng còn có thể nhận ra là vật của “Ba mươi sáu Địa sát” môn hạ của Nam Cung thế gia. Thì ra gã này là một nhân vật trong bọn Địa Sát, nhưng sao gã lại bị giết? Và ai đã giết gã?
Hắn ngồi thừ ra suy nghĩ lại đem chắp nối những mẩu chuyện xảy ra mấy hôm gần đây, rồi luận rằng:
- Rất có thể Nam Cung thế gia chưa biết người được phái đến đây lấy mật lệnh đã bị giết, nhưng vì cớ cẩn thận, nên lại phái thêm tên này tới đây để giám sát. Còn người giết tên giám sát này chắc chỉ là ông già cụt tay.
Vì theo hắn chỉ có ông già cụt tay mới có bản lĩnh hạ nổi tên Địa sát của Nam Cung thế gia rồi lại bỏ đi một cách bí mật như vậy. Cho tới giờ phút này hắn vẫn yên trí ông già cụt tay là người bảo hộ bí mật của Nhâm Vô Tâm.
Trận đấu diễn ra tất phải mười phần kịch liệt, nên bát hương bàn thờ mới đổ lỏng chỏng như vậy.
Người cụt tay đã biết căn miếu đó là chỗ lui tới hoạt động của bọn môn hạ Nam Cung thế gia, lại cũng nhân muốn thiêu huỷ thi thể gã kia bèn phóng hỏa đốt miếu cho tuyệt tích.
Hắn càng nghĩ càng thấy lập luận của mình là vững chắc, và tính mệnh của hắn cũng nhờ thế mà được an toàn, nếu hắn đến sớm một chút, mà gặp tên Địa sát của nhà Nam Cung thế gia thì giờ này chắc chắn đã đầu lìa khỏi xác.
Nghĩ đến đấy hắn lại rùng mình hú vía, càng đáng mừng hơn nữa là tình cờ hắn lại biết được bao nhiêu chuyện bí mật trong tờ mật lệnh, mà không còn phải lo lộ chuyện.
Bọn Vô Tâm, Diệu Pháp đã vào tới xóm, thấy nhà cửa đều còn nguyên vẹn, đồ đạc bàn ghế nhà nào cũng vẫn tề chỉnh, ngay ngắn không một dấu vết gì tỏ ra là có sự xáo trộn di chuyển.
Chỉ lạ một điều là bốn bề đều yên lặng như tờ không có một tiếng gà kêu chó cắn, không khí chết chóc khủng bố như đang bao trùm khắp cả mọi nơi.
Bọn Vô Tâm lần lượt đi vào từng nhà, có nhà vừa bưng mâm cơm lên mà chưa kịp so đũa, có nhà trên bàn còn để manh giấy nghiên mực hình như chủ nhân đang viết dở câu đối, lại có nhà còn bày bàn cờ đánh dở, cuộc cờ đã gần tàn, đang thành cái thế dùng pháo đánh xe. Rõ ràng là cuộc biến cố xảy ra bất thình lình, làm cho mọi người trở tay không kịp.
Lúc này cơm canh đã nguội, bút mực đã khô, bàn cờ cũng đã bị phủ bằng một lớp bụi mỏng, mà người ăn cơm, đánh cờ, viết câu đối không biết đã đi đâu?
Vô Tâm đứng sững như pho tượng gỗ, đôi mắt còn long lanh ngấn lệ, bọn Diệu Pháp cũng lặng lẽ cúi đầu.
Một lúc lâu Vô Tâm mới thở dài, uể oải bước vào lớp sân trong, bọn Diệu Vũ cũng đi theo.
Địa thế trong sân tuy nhỏ, nhưng đình đài lầu các cũng có quy mô. Vô Tâm bước thẳng tới phía bờ ao, nước ao xanh biếc mà trong leo lẻo. Chàng cau mày cúi xuống cầm tảng đá nhỏ bên phải bờ ao, lật đi lật lại, tức thì nước ao từ từ chảy ra ngoài.
Diệu Vũ kinh sợ kêu lên:
- À, ra động bí mật lại ở dưới ao à? Nếu vậy thì kín đáo thật! Đệ tử thật không sao ngờ tới!
Vô Tâm cười buồn bã:
- Thế mà nhà Nam Cung thế gia lại biết mới thần tình chứ?
Lúc này nước ao đã cạn hết, Vô Tâm cúi xuống thò tay vào lòng ao nhấc tảng đá vuông lên, tức thì bên trong lộ ra một con đường bí mật.
Đường đi vừa tối vừa lạnh, ẩm thấp vô cùng. Diệu Vũ nói:
- Nếu Nam Cung thế gia đặt mai phục ở đây thì sao?
Vô Tâm cười gượng nói:
- Nếu họ định giết tôi thì chắc họ không phải đợi tới bây giờ.
Diệu Vũ ngạc nhiên, quay lại nhìn hai vị sư huynh, thì cũng vừa hay gặp hai người đang đưa mắt nhìn mình. Ba người hình như cùng chung một ý nghĩ: “Câu ấy cũng có lý, nếu Nam Cung thế gia muốn giết Nhâm tướng công thì thiếu gì dịp, hà tất phải đợi tới hôm nay. Nhưng thế là vì cớ gì?”
Trong lòng họ đều nảy ra một mối nghi ngờ, nhưng không dám nghĩ xa hơn nữa, mà cũng không dám nói ra. Sau khoảnh khắc nhìn nhau, rồi lại cùng cúi gầm đầu xuống.
Lúc này Vô Tâm đã đi vào địa đạo, ba người đều lần lượt nhảy theo.
Bên trong quả nhiên không có mai phục, mà cũng không thấy động tĩnh. Đi được một quãng, đã trông thấy ánh đèn le lói đưa ra.
Thì ra trong địa thất có rất nhiều những ngọn đèn đồng gắn trên vách đá, lúc này dầu chưa cạn hết, nhưng ánh sáng cũng rất yếu.
Dưới ánh sáng lờ mờ, đã trông rõ bàn ghế đồ đạc trần thiết trong nhà vẫn đều y nguyên bất động. Không thấy thi hài, mà cũng không thấy vết máu. Nhưng trên bức tường trước mặt lại có một hàng chữ lớn viết bằng máu tươi:
“Nhâm Vô Tâm, ngươi còn mặt nào đối với ai nữa!”
Nét chữ đã nguệch ngoạc, nhất là mấy chữ cuối cùng lại càng ngoằn ngoèo khó đọc, đủ hiểu là nét chữ của người sắp chết. Tuy chỉ có vài chữ sơ sài, mà trong đó bao hàm bao nhiêu niềm oán độc đau khổ.
Vô Tâm đứng trước mấy chữ đó, thân thể cứng đờ như pho tượng gỗ. Nước mắt chàng đầm đìa hai bên gò má, tưởng như trên đời không còn hoạ sĩ nào có thể miêu tả được hết những nỗi thống khổ của chàng lúc bấy giờ.
Bọn Diệu Pháp thấy trạng thái của chàng, trong bụng cũng bồi hồi thương cảm, tia lửa nghi ngờ vừa nhen nhúm lên đã tắt ngấm.
Ba người đứng lặng hồi lâu, Diệu Pháp chợt đằng hắng một tiếng, sẽ nói:
- Lẽ ra người ấy phải hiểu rằng việc này không phải lỗi của Nhâm tướng công, sao lại đi viết những dòng chữ ấy làm gì cho thêm tội!
Vô Tâm nghẹn ngào nói:
- Điều ấy cũng không nên trách hắn. Nếu tôi là hắn, tôi cũng viết thế.
Diệu Vũ chợt cau mày hỏi:
- Việc này có thực Nhâm tướng công không đáng trách không?
Từ hồi quen biết đến giờ, bất cứ ngôn ngữ hoặc cử chỉ Diệu Vũ đối với Vô Tâm lúc nào cũng tỏ ra hết sức cung kính, lễ phép. Nay thốt nhiên nói mấy câu vừa rồi, rõ ra giọng căn vặn nghi ngờ, nhưng Vô Tâm hình như không để ý, chỉ thủng thỉnh đáp:
- Chuyện bí động trước bị tai nạn, tuy ra ngoài ý liệu của mọi người, nhưng nghĩ cho cùng thì còn có thể giải thích được.
Diệu Vũ hỏi:
- Giải thích thế nào?
Vô Tâm thở dài nói:
- Vì những phần tử trong bí huyệt, có kẻ tốt người xấu, không đều. Trong đó còn có tụi tiểu nhân, lúc đầu tuy vui lòng quy thuận, nhưng sau thấy bên ta yếu thế, lại sinh dị tâm,được điều ấy khó lòng tránh khỏi. Còn ở đây chỉ toàn là những bực cao sĩ có khí tiết thanh cao, quyết không khi nào lại thay lòng đổi dạ, đầu hàng Nam Cung thế gia. Và căn động bí mật này làm ở dưới đáy nước, dẫu có người biến tâm cũng khó lòng che được mắt người ngoài mà ngầm thông tin tức cho Nam Cung thế gia được. Điều ấy thật là khó hiểu!
Diệu Vũ nhấn mạnh:
- Phải, thật là khó hiểu!
Giọng nói mỗi lúc một thêm gay gắt. Vô Tâm vẫn không để ý, chỉ lẩm bẩm:
- Sự việc như thế, nên người ta ngờ tôi cũng không có gì đáng trách. Ôi! Ngay đến chúng ta còn không thể đoán ra là vì cớ gì Nam Cung thế gia lại biết những việc trong căn động bí mật này, huống hồ các vị bằng hữu quanh năm ở dưới đáy hồ làm sao có thể tưởng tượng nổi việc bí mật vì đâu tiết lộ ra ngoài? Vì người biết chỗ bí mật này chỉ có một mình tôi!
Diệu Vũ sắc mặt càng trầm trọng, dằn mạnh từng tiếng:
- Thật chỉ có một mình tướng công biết thôi à?
Vô Tâm thở dài:
- Trừ tại hạ và những người ở trong bí huyệt này.
Diệu Vũ ánh mắt long lanh nói:
- Những người ở trong mấy ngôi nhà tranh trên kia, tất nhiên cũng phải biết nơi đây có bí huyệt, biết đâu họ không tiết lộ ra ngoài?
Vô Tâm cười gượng:
- Ba nhà ấy, già trẻ lớn bé bất quá cũng chỉ có bảy người, mà bảy người ấy có ba điều có thể làm chứng là không đời nào họ đi theo Nam Cung thế gia!
Diệu Vũ đăm đăm nhìn chàng ra ý hỏi. Vô Tâm lại tiếp:
- Trước khi vào cốc, họ đã bị Nam Cung thế gia tàn hại đủ điều, vậy nên họ thù oán Nam Cung thế gia cũng không kém gì chúng ta. Và bảy người tính nết đều hiền lành thật thà, không bao giờ hỏi đến những việc võ lâm, mà cũng không biết võ nghệ. Họ không biết ta là phe chống đối với nhà Nam Cung thế gia, vậy nên dù họ có muốn báo cáo, họ cũng chẳng biết báo cáo thế nào1
Diệu Vũ lại hỏi:
- Còn lý do thứ ba?
Vô Tâm lẳng lặng giây lâu rồi lại tiếp:
- Trước khi vào cốc, bọn họ đều đã biến thành kẻ tàn tật, hàng ngày đi lại còn khó khăn thay, huống hồ còn làm thế nào mà bò ra khỏi cốc được?
Diệu Vũ rùng mình, cúi gầm đầu xuống, sắc mặt lộ vẻ đau đớn ngượng ngùng. Vì hắn rất hối hận là hắn đã có bắt buộc Vô Tâm phải nói ra một việc mà có lẽ chàng đã chôn xuống tận đáy lòng, không muốn nghĩ tới, mà lại càng không muốn nói ra.
Nhân đó, hắn đem ba điểm do Vô Tâm tường thuật liên tiếp trước sau mà tìm thấy một điểm bí mật.
Vô Tâm ngẩng lên, đăm đăm nhìn hắn, hỏi:
- Ngươi đã hiểu chưa?
Diệu Vũ cúi đầu đáp:
- Tôi hiểu rồi!
Vô Tâm mắt vẫn không dời mặt hắn, hỏi:
- Như thế có phải bảy người ấy tuyệt không ai có khả năng báo cáo việc bí mật phải không?
Diệu Vũ đáp:
- Phải!
Diệu Pháp, Diệu Không đưa mắt nhìn nhau, chẳng hiểu hai người nói với nhau mấy câu ấy là có ngụ ý gì.
Nhưng sau khi nghĩ ngợi một lúc, họ chợt hiểu ra, tự nghĩ: “Nghe giọng lưỡi Nhâm Vô Tâm có lẽ hắn sai người mạo xưng Nam Cung thế gia, tàn hại bọn ba nhà kia, trước khi họ vào cốc, để cho bọn kia thù hận Nam Cung thế gia vĩnh viễn không bao giờ quên được chăng?”
Họ thật không ngờ một người trung hậu thành thật như Nhâm Vô Tâm, mà lại có thể có những thủ đoạn tàn khốc vô tình như thế được?
Nhưng suy đi nghĩ lại, họ lại thấy rằng từ xưa đến nay, những người muốn lập đại công đại nghiệp, nếu muốn đạt mục đích, nhiều khi bất đắc dĩ phải dùng tới những thủ đoạn tàn nhẫn, không thể tránh được. Vả lại Vô Tâm tuy làm cho bọn dân nghèo kia trở nên tàn tật, nhưng chàng đã phải đền bù bằng cách đảm bảo cho họ một cuộc đời no ấm yên vui, như vậy tưởng cũng đủ chuộc được một phần tội lội.
Diệu Vũ trầm ngâm một lát, rồi lại hỏi:
- Tướng công có chắc những sự bí mật ở đây trừ tướng công và mấy người trong này ra, thì không còn ai biết nữa chăng?
Nhâm Vô Tâm do dự một lát, rồi ngập ngừng nói:
- Trong Tử Cốc còn có hai người nữa, biết rõ việc này.
Diệu Vũ vội hỏi:
- Hai người ấy là ai?
Vô Tâm lạnh lùng đáp:
- Đó là hai vị ân sư của tại hạ.
Diệu Vũ ngẩn người, chưa kịp nói, Vô Tâm lại tiếp:
- Người bắt tại hạ phải quyết tâm tranh đấu với Nam Cung thế gia đến kỳ cùng, chính là hai vị lão nhân gia đó, giúp tại hạ tiền bạc, chiêu tập trợ thủ, khiến tại hạ có đủ lực lượng tranh đấu với Nam Cung thế gia cũng là hai vị lão nhân đó. Vậy thì không khi nào hai vị đó lại giúp Nam Cung thế gia chống lại chúng ta.
Chàng thở dài một tiếng rồi lại tiếp:
- Tôi nghĩ nát óc, cũng không sao biết được ai là người đã đem việc bí mật ở đây tiết lộ ra ngoài? Bây giờ thực quả tôi cũng không tin được tôi thì làm sao còn dám trách người khác không tin mình nữa?
Mấy câu sau cùng, chàng nói bằng một giọng cực kỳ đau đớn, thật là anh hùng mạt lộ, ngày hết đường cùng dẫu có tài năng cũng đành thúc thủ.
Đây nói về Bách Duy giấu tờ mật lệnh vào áo xong xuôi, lại xé một mảnh áo lót mình, lấy cái que cháy dở, viết lên mảnh áo mấy dòng như sau:
“... Nhâm Vô Tâm đã vào Hồi Thanh Cốc, đi theo có bốn đệ tử phái Vũ Đương, Huyền Chân, Bách Duy, ngoài ra lại còn có hai người mặc áo vải thường, hình như đều đã bị thương, trông xa giống như Bách Hộ, Bách Vệ trong La Hán Đường chùa Thiếu Lâm, nhưng không dám chắc lắm...”
Viết đến đấy, hắn rung đùi mỉm cười, cắn bút nghĩ ngợi một lúc, rồi lại viết tiếp:
“... Bách Duy vết thương hình như nặng lắm, không những cánh tay đã thành tàn tật, đi đứng cực kỳ vất vả, người ấy dẫu có ý muốn phản ta, cũng không đáng ngại.”
“Huyền Chân thì hình như đã bị Vô Tâm điểm huyệt, nhưng lại hình như cố làm ra thế, lúc nào cũng thấy hắn nằm bẹp ở trong xe không thò mặt ra ngoài, còn Vô Tâm lúc thì tỏ ra phấn khởi, lúc lại tỏ ra ủ rũ, chẳng ai hiểu hắn thực tình hay giả cách, duy có mấy vị đạo nhân trẻ thì người nào cũng hoạt bát lanh lẹ, sức lực dồi dào, trông có vẻ toàn là những tay lợi hại cả.”
Hắn viết xong lại đọc đi đọc lại mấy lượt xem còn sơ sót điều gì chăng? Rồi mới lấy chiếc bài đồng ra bôi than lên rồi đặt vào góc mảnh áo, ráng sức ấn thật mạnh, làm thành cái dấu, rồi cuộn tròn nhét vào ống đồng, nhồi trả vào lư hương để nguyên như cũ.
Khi hắn quay ra thì thấy bọn Vô Tâm đã ra khỏi hàng rào tre, hắn hốt hoảng vội bò rạp xuống lẻn thật nhanh về xe, hơi thở hồng hộc.
Một lúc lâu hắn vừa định thần thì bọn Vô Tâm cũng vừa ra tới. Mọi người lại lên xe đi. Bách Duy thấy sắc mặt Vô Tâm và bọn Diệu Pháp đều tỏ vẻ trầm trọng ưu tư, nên cũng không dám hỏi.
Đi được một quãng, Diệu Không đang đánh xe ngựa chợt quay lại hỏi:
- Tướng công định đi đâu bây giờ?
Vô Tâm mỉm cười buồn bã:
- Ở đây chỉ có một con đường, chúng ta đã không thể lùi lại phía sau, thì tất chỉ còn cách tiến lên phía trước, đằng nào cũng không thể lựa chọn được nữa, hà tất phải hỏi.
Diệu Không đưa mắt cho Diệu Vũ, Diệu Pháp lắc đầu thở dài, rồi ra roi cho ngựa chạy thẳng.
Đi mãi tới lúc trời tối, mọi người liền tìm vào quán trọ nghỉ ngơi. Vô Tâm thốt nhiên cười nói:
- Các vị làm gì mà mặt người nào cũng như đi đưa đám cả thế này?
Diệu Pháp cũng gượng cười nói:
- Có sao đâu! Đi cả ngày bôn ba nhọc mệt, nên không ai muốn nói chuyện đó thôi!
Vô Tâm lắc đầu:
- Theo ý tôi quyết không phải là vì cớ ấy.
Diệu Pháp cúi đầu nói:
- Việc đã thế này, đệ tử cũng không dám dối mình dối người. Thực ra đệ tử chỉ nghĩ rằng: Hiện thời chúng ta đã hết chỗ nương thân, và cũng không ai chịu giúp chúng ta nữa, chi bằng ta liều mạng xấn vào Nam Cung thế gia quyết chiến một trận, dù có chết, cũng được lưu danh thiên cổ. Và cái chết của chúng ta biết đâu lại không lôi cuốn được hùng tâm của các bạn giang hồ đồng đạo?
Nói tới đấy, lại thở dài một tiếng, cúi đầu không nói tiếp nữa. Diệu Không, Diệu Vũ tuy không nói ra, nhưng xem thái độ thì hình như cũng tán thành ý kiến của Diệu Pháp.
Vô Tâm lẳng lặng giây lâu rồi thủng thỉnh nói:
- Đạo huynh nói dẫu phải, nhưng ta đã nằm gai nếm mật cho tới bây giờ, sao bỗng dưng lại nhắm mắt làm liều, để mất bao nhiêu công lao khó nhọc từ trước?
Diệu Pháp nói:
- Nhưng...
Vô Tâm tinh thần chợt trở nên phấn chấn, ngắt lời nói:
- Vả Nam Cung thế gia dù có phá huỷ hai sào huyệt bí mật của ta, nhưng vẫn còn một chỗ, họ không thể nào phá hết.
Bọn Diệu Pháp cùng buột miệng hỏi lên một lúc:
- Ở đâu cơ?
Vô Tâm mỉm cười đáp:
- Ở trong khu vực tỉnh Hà Nam.
Diệu Vũ trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Khu vực Hà Nam là căn bản sở tại của Nam Cung thế gia. Lũ môn hạ tay sai của họ rải rác khắp nơi, chúng ta đến đó, có khác gì chui đầu vào hang hổ? Hai nơi kia hắn còn phá được, huống hồ là một nơi ở ngay sát vách họ, họ sợ gì mà không dám phá?
Vô Tâm lại mỉm cười nói:
- Địa phương này không những ở địa hạt Hà Nam, mà còn ở ngay bên cạnh Nam Dương là khu vực của Nam Cung thế gia nữa kia.
Thấy mọi người đều ngơ ngác tỏ vẻ không hiểu, Vô Tâm lại nói:
- Các người có biết trong võ lâm có hai vị thần y, một là Cù Thức Biểu và một là Thi Thuý Phong không?
Diệu Pháp cau mày nói:
- Bọn đệ tử cũng có nghe tiếng đã lâu, nhưng võ công của hai vị ấy làm sao đương nổi Nam Cung thế gia?
Vô Tâm cười nói:
- Các đạo huynh hà tất phải lo, tôi đã nói hai vị tiền bối ấy tuy ở trong hang hổ, mà thế còn vững hơn núi Thái Sơn.
Nói xong chàng liền đem câu chuyện bọn Cù Thức Biểu luyện thuốc trong bí động, bị nhà Nam Cung thế gia phái người đến phá, rồi mình phải dàn nghi trận để đánh lừa bọn đó ra sao. Sau hết chàng còn đem cả chuyện Điền Tú Linh cải trang theo mình lên Tử Cốc thuật lại từ đầu chí cuối cho mọi người nghe.
Mấy người nghe xong đều tỏ vẻ kính phục. Diệu Pháp nói:
- Điền cô nương thật là bực nữ trung nhân kiệt, tiếc rằng bọn đệ tử không được gặp mặt.
Nhắc đến Tú Linh, Vô Tâm lại cảm thấy một mối bâng khuâng buồn bã, bất giác chàng cúi mặt, lẳng lặng ngồi yên.
Diệu Vũ nói:
- Không biết Điền cô nương hiện nay ở đâu? Nếu tìm thấy nàng, ta lại được thêm một tay giúp việc đắc lực.
Vô Tâm cười một cách buồn bã:
- Tôi cũng không rõ, chỉ cầu trời cho nàng được khoẻ mạnh bình yên, nếu không thì tôi cũng không tránh được sự trách phạt của lương tâm.
Bọn Diệu Pháp đưa mắt nhìn nhau, họ cùng đoán ngầm là giữa Vô Tâm với Tú Linh tất đã có một đoạn lịch sử chua cay, nhưng không ai dám hỏi.
Trong bọn chỉ có Bách Duy là hiểu rõ hiện nay Điền Tú Linh ở đâu, nhưng hắn không nói. Vả trong bụng hắn lại càng băn khoăn ngờ vực, không hiểu tại sao Vô Tâm đối với Tú Linh như vậy, mà nàng lại tỏ ra thù oán chàng đến thâm nhập cốt tuỷ, là vì cớ gì?
Lúc này mọi người đều mải theo đuổi một ý nghĩ riêng, nên không ai buồn nói chuyện. Một lúc lâu, Diệu Pháp chợt lên tiếng:
- Không ngờ Thi lão tiền bối lại có thuật dịch dung tài tình như vậy? Trong giang hồ hiện thời không thiếu gì người biết dịch dung, nhưng chắc không ai bằng ông ta?
Vô Tâm nói:
- Nghe đồn trong nhà Nam Cung thế gia cũng có mấy tay chuyên môn dịch dung tài lắm...
Vừa nói tới đấy, chàng chợt giật mình tái mặt, hình như vừa nghĩ tới một chuyện gì ghê gớm. Diệu Vũ vội hỏi:
- Tướng công nghĩ gì thế?
Vô Tâm đưa mắt nhìn “Huyền Chân”, cau mày đáp:
- Huyền Chân đạo trưởng đã dịch dung thành một văn sĩ, mặt mũi xanh bủng như người ốm, tại sao bây giờ lại ăn mặc thế kia? Hay là... hay là...
Diệu Vũ cũng chột dạ, vội hỏi:
- Hay là vị “Huyền Chân đạo trưởng” này chính là người của Nam Cung thế gia dịch dung, cho đi theo mình làm gian tế chăng?
Diệu Pháp, Diệu Không đều giật mình kinh sợ. Diệu Vũ lại nói:
- Hèn nào mà hắn giả vờ điên cuồng, cốt làm cho không ai dám đến gần, thì ra hắn sợ người ta nghe giọng nói mà biết là hắn giả mạo chăng?
Vô Tâm ngửa mặt lên trời cười một cách đau khổ.
- Chết cười ơi là chết cười! Một việc dễ hiểu đến thế mà mãi bây giờ mình mới biết...
Chàng đứng phắt dậy, bước rảo tới bên giường “Huyền Chân”. Bách Duy lúc này đã sợ đến cực điểm, vội quay mặt đi, không dám nhìn nữa.
Nhâm Vô Tâm đã từng dịch dung, nên đã hơi biết cách phá. Lúc này chàng đã tụ chân lực vào lòng bàn tay, khiến cho bàn tay nóng như hòn than rồi áp vào má “Huyền Chân”. Làm như vậy nếu mặt người gắn bằng sáp, thì sẽ bị chảy ra ngay lập tức.
Nhưng bàn tay chàng đã xoa đi xoa lại trên mặt “Huyền Chân” mấy lần, mà trông làn da của hắn vẫn không có gì đổi khác.
Bách Duy không sao dằn nổi tò mò, cũng liếc mắt trông trộm, thấy tình hình như vậy, không khỏi sửng sốt bàng hoàng. Diệu Pháp vội hỏi:
- Tướng công, sao lại thế? Hay chính là “Huyền Chân” đạo trưởng thật?
Vô Tâm cũng ngẩn người ra, rụt tay lại thủng thỉnh nói:
- Đúng rồi, không phải Huyền Chân giả!
Bách Duy vừa sợ vừa mừng, xúc động quá đến nỗi ngã ngồi xuống ghế. Hắn tuy mừng thoát nạn, nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên vì sự tình biến đổi quá đột ngột. Hắn tự nhủ: “Đúng rồi! Huyền Chân này là Huyền Chân thật... nhưng sao lại thực? Rõ ràng hắn đã giả điên, rõ ràng hắn là gian tế của Nam Cung thế gia, nhưng sao bây giờ hắn lại là Huyền Chân thực? Thế là cái gì?”
Bọn Vô Tâm thì chỉ cho là mình đoán lầm, nên cũng không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Phút chốc phòng trọ lại yên lặng như tờ, không một ai lên tiếng. Một lát chợt nghe tiếng Diệu Pháp nói:
- Tướng công có thể giải huyệt đạo cho chưởng môn đệ tử một lát được không?
Bách Duy nghe tới đấy, chợt lại giật bắn người như bị sét đánh, vội lắng tai nghe. Chỉ thấy Vô Tâm đáp:
- Huyền Chân đạo trưởng thần trí đang bị hôn mê, giải huyệt lúc này chỉ e sinh biến.
Diệu Pháp nói:
- Tướng công đừng ngại, chưởng môn đệ tử tỉnh dậy, nếu có điều gì đệ tử xin chịu trách nhiệm. Bọn đệ tử thực không nỡ trông thấy người cứ suốt ngày nằm trên giường, sống chẳng ra sống, chết chẳng ra chết, nói không được, cựa không xong thế kia!
Vô Tâm thở dài nói:
- Thủ pháp điểm huyệt của tại hạ tuyệt không hại gì cho người bị điểm, nhưng đạo huynh đã nói thế, tại hạ cũng xin chiều lòng.
Diệu Pháp cả mừng nói:
- Đa tạ tướng công!
Bách Duy sợ quá run bắn người lên đến nỗi chén nước trà cầm ở trên tay rơi xuống đất vỡ tan ra mà cũng không biết.
Vô Tâm cau mày hỏi:
- Đại sư làm sao thế?
Bách Duy ấp úng:
- Không... không sao cả.
Vô Tâm đã nâng Huyền Chân dậy, từ từ giơ tay lên. Bách Duy vội tiến lên một bước, chỉ đợi Vô Tâm hạ tay xuống là hắn sẽ dốc toàn lực đánh một chưởng giết chết Huyền Chân để diệt khẩu.
Vì hắn nghĩ nếu để Huyền Chân tỉnh dậy nói rõ gian mưu của hắn ra thì hắn cũng chết, thà rằng trừ ngay đi, hoạ chăng còn có hy vọng thoát được, cũng chưa biết chừng.
Không ngờ giữa lúc ấy, Vô Tâm chợt quay lại nói:
- Phiền đại sư trông hộ ngoài cửa một chút, vì lỡ Huyền Chân đạo trưởng tỉnh dậy, nổi cơn điên chạy ra cửa làm phiền người khác, thì đã có đại sư ngăn hộ.
Bách Duy ngần ngừ một lát, lại chợt nghĩ: “Ta định giết Huyền Chân chưa chắc đã giết được, chi bằng nhân dịp canh cửa, chờ Huyền Chân tỉnh dậy rồi sẽ chuồn đi, chừng ấy Vô Tâm dẫu có muốn đuổi theo cũng khó!” Nghĩ vậy liền vội đáp:
- Được. Được để tôi ra!
Ra tới cửa, hắn chỉ đứng chân trong chân ngoài, thỉnh thoảng lại ngó lại, chờ xem động tĩnh.
Vô Tâm lập tức giơ tay đập thật nhanh vào mấy huyệt “Trung cực đại huyệt” bên dưới đan điền, “Thiên tăng đại huyệt” bên dưới yết hầu, và “Thiên tĩnh đại huyệt” ở hai bên đầu vai.
Vừa giải huyệt xong, Huyền Chân lập tức vươn vai, thở ra một hơi dài, nhưng cặp mắt vẫn ngây ngô như người mất hồn.
Vô Tâm và bọn Diệu Pháp cùng xúm lại bên giường, đề phòng Huyền Chân nổi cơn điên bất thình lình, thì sẽ kịp thời đối phó.
Huyền Chân ngơ ngác một hồi, rồi thốt nhiên cất tiếng cười sằng sặc.
Ông ta cười mãi, cười mãi, cười đến chảy cả nước mắt nước mũi, cười đến ôm bụng lăn lộn ra giường, hình như có chuyện gì tức cười quá đáng, không sao chịu nổi. Bọn Vô Tâm đều đã đoán trước nên không ai lấy làm lạ, chỉ có Bách Duy là kinh hoảng hết sức, vì hắn đã biết rõ Huyền Chân không điên, vậy thì tại sao hắn lại có cái trạng thái kỳ lạ như vậy? Hay là hắn giả vờ? Mà giả vờ như thế để làm gì? Vô Tâm nắm lấy cổ tay Huyền Chân bắt mạch, chợt cau mày lẩm bẩm: “Ơ hay! Sao lại lạ thế này?”
Bách Duy buột miệng hỏi:
- Lạ gì? Cái gì mà lạ?
Vô Tâm quay lại nói:
- Đại sư lại đây mà xem.
Bách Duy do dự một lát, rồi cũng thủng thỉnh bước tới bên giường.Vô Tâm nói:
- Đại sư thử coi xem Huyền Chân đạo trưởng bây giờ với Huyền Chân hôm nọ có chỗ nào khác nhau không?
Bách Duy chột dạ, cúi xuống làm bộ xem xét một lúc, rồi gượng cười nói:
- Bần tăng không thấy gì khác cả.
Vô Tâm nói:
- Trông bề ngoài thì không có gì khác thật, chẳng trách đại sư không nhận ra cũng phải. Có điều là bệnh điên cũng giảm đi chút ít.
Bách Duy không hiểu Vô Tâm nói thế là có ý gì, chỉ đành gật đầu đáp cho xuôi:
- Có thể!
Diệu Vũ chợt hỏi:
- Tướng công nhận thấy khác nhau ở chỗ nào?
Vô Tâm do dự một lúc rồi nói:
- Hồi đó tôi coi bệnh Huyền Chân đạo trưởng, thấy bát mạch rối loạn, mạch tượng rất kỳ dị, bình sinh chưa thấy mạch ai lạ thế bao giờ. Tôi tuy đã kiệt tâm tận lực, mà rút cuộc cũng đành chịu, không tìm ra căn bệnh. Nhưng hôm nay mạch của đạo trưởng tự nhiên lại trở nên đình trệ không thông, y như người có điều gì uất ức lâu ngày tích lại thành điên, so với mạch tháng trước, tuyệt không giống nhau tí nào, không hiểu tại sao lại biến đổi nhanh đến thế?
Bách Duy nghe nói trong bụng mừng thầm, vội nói:
- Thế thì càng hay chớ sao? Huyền Chân đạo huynh mạch lý đã điều hoà, chỉ cần tĩnh dưỡng ít lâu, sức khoẻ và tinh thần sẽ dần dần khôi phục, thiết tưởng cũng là một điều đáng mừng.
Vô Tâm lắc đầu nói:
- Mạch lý tuy đều, nhưng trong bụng tích uất đến nỗi hoá điên, thì căn bệnh cũng khó chữa lắm. Chỉ trừ mấy vị thần y trong bí động vẫn còn được an toàn, cùng gia công cứu chữa thì hoạ may.
Nghe giọng nói của chàng, đủ hiểu là chàng đối với sự an nguy của bọn danh y Cù Thức Biểu cũng không dám tin tưởng cho lắm. Bọn Diệu Vũ đều cúi đầu im lặng, thậm chí có người còn đưa tay áo lên gạt nước mắt.
Riêng có Bách Duy trong bụng lại khấp khởi mừng thầm. Hắn biết chỗ ở của bọn Cù Thức Biểu đã do Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh thiết kế bảo toàn. Nay Tú Linh đã ra mặt chống đối với Vô Tâm, thì chỗ bí mật ấy còn che mắt nàng sao nổi?
Mà bọn Cù Thức Biểu đã bị hại, thì Huyền Chân đạo trưởng sẽ bị điên rồ vĩnh viễn, những sự bí mật của hắn từ nay cũng không còn lo bị ai phát giác ra nữa, há chẳng phải là một điều đáng mừng hay sao?
Bách Duy tuy đắc ý, nhưng ngoài mặt vẫn cố làm bộ thở ngắn than dài, ra điều đau khổ.
Sáng hôm sau, Bách Duy ngủ dậy, chợt cảm thấy tinh thần phấn chấn, bèn thừa lúc mọi người đang bận rộng thu xếp hành lý, lão thủng thỉnh bước ra sân chơi.
Thốt nhiên hắn trông thấy ba gã đại hán mặc võ phục đen, lưng đeo trường kiếm, hấp tấp từ trong mái tây đi ra, dáng điệu cực kỳ nhanh nhẹn. Bách Duy không thích giáp mặt các nhân vật võ lâm bèn nấp vào sau một cây cột lớn.
Trong bọn có một gã da hơi vàng, lông mày dài gần tới tóc mai, đôi mắt sáng quắc, chân chưa bước xuống thềm miệng đã bô bô:
- Chủ quán đâu? Sắp ngựa cho ta, mau lên!
Một tên tửu bảo vội vàng chạy ra, khom lưng hỏi:
- Ba vị đại gia đi ngay bây giờ à?
Gã đại hán quắc mắt quát to:
- Ta bảo ngươi sắp ngựa từ bao giờ, sao bây giờ còn phải hỏi?
Tửu bảo luôn miệng “dạ dạ”, vừa toan quay đi, gã kia chợt gọi giật lại: “Lại đây!”
Tửu bảo run sợ quay lại hỏi:
- Đại... đại gia truyền gì ạ?
Gã mặt vàng hạ giọng hỏi:
- Ngươi có biết Truyền Thanh Quán ở đâu không?
Tửu bảo vội cười nịnh đáp:
- Cứ theo đường cái lớn đi thẳng, tức là Trạm Truyền Thanh. Từ đây tới đấy còn phải đi mất khoảng chừng nửa ngày đường nữa.
Gã mặt vàng lại vẫy tay nói:
- Thôi đi mau lên!
Tửu bảo vội vã quay đi. Bách Duy nghe ba chữ “Trạm Truyền Thanh” chợt động lòng nghĩ thầm: “Trạm Truyền Thanh” nào? Hay là địa điểm nhà Nam Cung thế gia phái người tiếp mật lệnh tới đó? Nhưng các nhân vật võ lâm kép nhau tới Trạm làm gì?”
Ba gã đại hán xách hành lý bước xống sân, một gã mày rậm mắt tròn vừa đi vừa cười nói:
- Đại kha bữa nay coi có vẻ nóng ruột dữ. Có lẽ muốn lấy người con gái ấy làm vợ thật chăng?
Gã đại hán mặt vàng thản nhiên đáp:
- Cố nhiên!
Một người vừa cao vừa gầy lắc đầu nói:
- Có bé họ Liên dù đẹp như tiên, cũng chẳng qua chỉ là một con nha hoàn của nhà Nam Cung thế gia, địa vị xứng với đại kha sao được?
Bách Duy đã quay về phòng, nghe thấy câu ấy lại vội đứng lại, lắng tai nghe. Lại thấy gã áo vàng cười nhạt nói:
- Có phải ta thấy con bé ấy đẹp mà muốn lấy làm vợ đâu?
Gã mắt tròn cười nói:
- Đại kha còn có dụng ý gì nữa, sao không nói toạc ngay ra cho anh em cùng nghe, việc gì phải úp mở?
Gã mặt vàng đưa mắt nhìn quanh, không thấy ai, liền sẽ nói:
- Ta chỉ định tìm lối tiến thân, kết mối thân tình với nhà Nam Cung thế gia mà thôi, còn chuyện vợ con không quan hệ.
Gã cao gầy cau mày nói:
- Ba anh em mình đang ở ngoài vòng cương toả, tự do tự tại bao nhiêu. Sao bỗng dưng đại kha lại muốn kết thân với nhà Nam Cung thế gia, để mua lấy sự phiền não?
Gã mặt vàng nói:
- Nhị đệ nghĩ thế là lầm, nhà Nam Cung thế gia ngày nay danh tiếng hiển hách, có kém gì một vị đế vương trong võ lâm. Anh em mình muốn làm nên nghiệp lớn, mà không đầu thân vào nhà Nam Cung thế gia thì còn đầu vào đâu? Vả Nam Cung thế gia bề ngoài tuy nói là kén rể cho cô ả họ Liên, bên trong biết đâu không nhân cơ hội mà chiêu mộ anh hùng thiên hạ, kén một nhân vật xuất sắc để cùng họ sát cánh tranh bá đồ vương!
Nói tới đó, ba người đã ra tới cửa ngoài. Bách Duy kinh ngạc nghĩ thầm: “Thế là nghĩa gì? Nhà Nam Cung thế gia lại sắp giở trò gì đây?” Hắn nảy tính tò mò muốn theo ra cửa xem nhưng đã nghe tiếng chân ngựa lộp cộp đi xa rồi.
Bách Duy vừa toan quay về phòng, đã thấy tửu bảo bước tới bên, cười hỏi:
- Đại gia cũng sắp đi bây giờ sao?
Lúc này Bách Duy đã cải trang làm người thường, nên tên tửu bảo không biết là sư. Bách Duy gật đầu nói:
- Chúng ta cũng đi bây giờ, nhưng không vội lắm. Ta muốn hỏi thăm ngươi một việc.
Tửu bảo nói:
- Lão gia cứ hỏi.
Bách Duy nói:
- Những vị giang hồ hảo hán vừa rồi đi đâu mà có vẻ hấp tấp thế?
Tửu bảo cười nói:
- Lão gia chắc hẳn đã biết trong võ lâm có một nhà danh giá vào bực nhất, gọi là Nam Cung thế gia chứ?
Bách Duy gật đầu:
- Có, ta có biết! Thế sao cơ?
Tửu bảo gãi tai nói:
- Nhà Nam Cung thế gia tuy năm đời đều là quả phụ, nhưng người nào cũng rất giỏi võ nghệ. Nghe đâu vị lão thái thái nhà ấy chính là một nhân vật thần tiên, có thể giơ tay tung ra một đạo kiếm quang, lấy đầu người như bỡn.
Bách Duy ngẫm nghĩ cười thầm, nói:
- Ừ, ta cũng nghe người ta đồn như vậy.
Tửu bảo nói:
- Có đúng thế không? Người ta còn nói không những mấy vị quả phụ võ nghệ cao cường, đến bọn nha hoàn cũng đều đẹp như Hằng Nga tiên tử, tài mạo song toàn cả.
Bách Duy sốt ruột hỏi gắt:
- Ta hỏi ngươi cần gì sao ngươi không trả lời, mà cứ nói dài dòng mãi?
Tửu bảo nhăn nhở cười:
- Chuyện gì cũng phải có đầu có đuôi mới được chứ? Số là...
Gã ho “họ..oc... họ... ọc” rồi tiếp:
- Mấy bữa nay Thái phu nhân nhà Nam Cung thế gia tự nhiên lại động lòng từ bi, muốn kén chồng cho mấy chị nha hoàn...
Bách Duy cau mày hỏi:
- Kén chồng cho nha hoàn, thì việc gì mà kinh động đến cả các vị hảo hán giang hồ như vậy.
Tửu bảo cười hì hì:
- Nguyên do thế này: Thái phu nhân cho người truyền tin đi các nơi là bất cứ quan, quân, dân đẳng ai cũng có thể ứng tuyển được hết. Người nào tốt số được ả nha đầu của bà ta vừa mắt, thì không những đã được vợ đẹp, lại còn được một số hồi môn kếch xù nữa. Lão gia thử tưởng tượng một món bở như vậy, ai mà không ham?
Bách Duy gật gù:
- À, ra vì thế mà bọn hảo hán giang hồ mới tấp nập đổ xô cả về Trạm Truyền Thanh để ứng tuyển phải không?
Tửu bảo lắc đầu:
- Nào phải chỉ có một Trạm Truyền Thanh? Số nha đầu của Nam Cung thế gia gả chồng lần này có tới gần mười cô nên họ chia ra làm mười địa điểm kén rể. Nhưng nghe đâu có nha hoàn họ Liên ở Trạm Truyền Thanh này, võ công đã cao, người cũng tuyệt đẹp, nhất là đôi con mắt to, mỗi khi cô ta liếc thì “Ôi chao chao... núi cũng phải đổ, thành cũng phải nghiêng”. Vì thế mà hai hôm này các bằng hữu võ lâm kéo về Trạm Truyền Thanh còn đông hơn nước chảy!
Bách Duy trầm ngâm một lát rồi nói:
- Từ đây tới Trạm Truyền Thanh phải đi lối nào?
Tửu bảo nói:
- Cứ thẳng đường cái mà đi, sẽ tới trạm, trước cửa trạm có cây hoè vừa to vừa cao, dễ nhận lắm!
Bách Duy lại chợt nhớ tới lời dặn trong tờ mật lệnh, bèn gật đầu lẩm bẩm:
- Đúng rồi, chính là cây hoè ấy!
Tửu bảo đưa mắt nhìn Bách Duy một lượt, rồi cười nói:
- Có lẽ lão gia cũng cao hứng muốn thử thời vận chăng? Kể thì cũng hay! Nhưng nghe đâu điều kiện kén rể của họ cũng hắc búa lắm thì phải, tuy họ không hạn chết tuổi tác, giàu nghèo, nhưng lại cần người văn võ kiêm toàn, và ít nhất cũng có đôi chút tiếng tăm trong giang hồ mới hợp cách!
Bách Duy cười nói:
- Ta ngần này tuổi đầu rồi, còn mơ tưởng gì những chuyện ấy? Ta muốn đến Trạm Truyền Thanh chẳng qua cũng chỉ cốt xem cho biết, ngoài ra chẳng có ý gì cả.
Thốt nhiên nghe phía sau có một giọng lạnh lùng cất lên:
- Cuộc vui ấy thiết tưởng chúng ta không nên xem thì hơn!
Bách Duy giật mình quay lại, thì ra Vô Tâm đã đứng phía sau mình từ lúc nào.
Tửu bảo thấy vẻ mặt và giọng nói của Vô Tâm, biết chàng có ý khó chịu, bèn vội len lén chuồn thẳng.
Bách Duy cười ngượng nghịu:
- Tướng công đã nghe rõ chuyện rồi chứ? Không biết Nam Cung thế gia định giở cái trò “thi võ kén rể” này, là có dụng ý gì vậy?
Vô Tâm cau mày đáp:
- Việc này tuy chỉ là việc tầm thường, nhưng đã do nhà Nam Cung thế gia nêu lên, thì tất phải có thêm ý.
Bách Duy nói:
- Vì thế bần tăng mới muốn tới Trạm Truyền Thanh để xem xét xem sao.
Vô Tâm lắc đầu một cách quả quyết:
- Không, chúng ta tuyệt đối không nên đến đó!
Bách Duy ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao?
Vô Tâm nói:
- Bỗng dưng họ bày ra câu chuyện kén chồng cho tỳ nữ, làm náo động giang hồ, ý nghĩa tất nhiên không phải chỉ giản dị có thế? Trong khi ta chưa khám phá ra được âm mưu của chúng ở chỗ nào, tuyệt đối không nên mạo hiểm. Vả lại chúng ta có đến xem, chẳng qua cũng chỉ trông thấy những gì họ trưng bày bề ngoài chớ làm sao có thể dò xét được những cái ẩn bí bên trong của họ?
Bách Duy muốn đến Trạm Truyền Thanh mục đích cốt làm theo lời dặn trong tờ mật lệnh, tìm hiểu những chuyện bí mật của Nam Cung thế gia, chớ hắn có thiết gì xem thí võ. Nay thấy Vô Tâm cứ nhất quyết gạt đi, hắn lấy làm bực mình lắm, nhưng vẫn cố nài:
- Trạm Truyền Thanh mấy hôm nay hào kiệt bốn phương tụ họp đông như kiến cỏ, mình đi lẩn vào đám đó, làm sao họ biết được? Vả lại dù chưa dò được những bí ẩn bên trong, thì ít nhất cũng được xem những cái phô bày bên ngoài, may ra có thể nhận đó mà xét đoán được thâm ý của họ.
Vô Tâm lắc đầu nói:
- Không được! Người thi rất đông, nhưng chẳng ai qua mắt được bọn Nam Cung thế gia. Không những vậy họ còn ghi tên tuổi từng người vào danh sách của họ. Mình muốn dò xét, đâu phải chuyện dễ!
Bách Duy ấp úng hỏi:
- Nhưng nếu... nếu tướng công với bần đạo không... không...
Nhâm Vô Tâm nghiêm trọng nét mặt mà rằng:
- Ý tại hạ đã quyết! Sau khi nghĩ kỹ, chắc đại sư cũng cho lời ta nói là phải...
Dứt lời chàng quay mình đi luôn. Ngó theo bóng chàng đi vào trong cửa rồi, Bách Duy vừa tức vừa sốt ruột. Việc bí mật thông tin tức với người của Nam Cung thế gia ở Trạm Truyền Thanh rất là hệ trọng. Nếu như đêm tối mai tức là kỳ trăng tròn mà không tới kịp Trạm Truyền Thanh thì cơ hội tốt qua mất, không đời nào lại có được nữa. Bách Duy đứng ngây người ra nghĩ ngợi một hồi lâu. Chợt phía trước mặt, một cánh cửa sổ hé mở, Diệu Pháp thò đầu ra. Đôi mắt hắn ngầu đỏ nhìn thấy Bách Duy, hắn cười gượng mà rằng:
- Đại sư đã dậy! Khoẻ mạnh chứ!
Bách Duy cười, hất cằm chào lại:
- Khoẻ mạnh!
Chợt nhớ ra một việc, một lão loáng lên, vội bước lại phía cửa sổ. Diệu Pháp thấy bộ dạng lão hơi khác, buột miệng hỏi:
- Đại sư có việc gì chỉ giáo chăng?
Bách Duy trầm giọng nói:
- Có! Đạo huynh có thể mở cửa để bần tăng qua nói chuyện không?
Vừa dứt câu thì cánh cửa mở rộng ra. Diệu Không đã đứng giữa cửa, mỉm cười nói:
- Xin mời đại sư qua đây.
Bách Duy đưa mắt nhìn, thấy trong phòng chỉ có Diệu Pháp và Diệu Không, còn Diệu Vũ không có đấy. Lão yên dạ, nghĩ thầm:
- Diệu Vũ vắng mặt thì ta càng dễ thi hành kế hoạch.
Nghĩ tới đây, lão đưa tay đóng ập cánh cửa lớn và nói:
- Còn cửa sổ nữa. Yêu cầu đạo huynh gài lại cho.
Thấy vẻ mặt lão thần bí, với cử chỉ như vậy, sư phụ còn đương e dè thì Bách Duy đã bước tới tự động đóng gài cửa sổ lại. Diệu Không cau mày chưa kịp hỏi thì Bách Duy đã nói:
- Câu chuyện hết sức can hệ, bí mật, hãy nghe bần tăng lần lượt trình bày.
Ba người cùng ngồi xuống. Bách Duy luôn luôn đưa mắt nhìn hai người rồi mới đem câu chuyện vừa rồi ra thuật lại.
Diệu Pháp, Diệu Không đều biến nét mặt. Một lúc sau Diệu Pháp nói:
- Nam Cung thế gia thay đổi phương châm. Bên trong hẳn có mưu kế gì thần kỳ... thực khó đoán ra được.
Nói tới đây, Diệu Pháp vùng đứng lên, đi đi lại lại trong phòng mấy lượt, đột nhiên dừng lại, ngửa mặt lên trời thở dài mà rằng:
- Theo đệ tử nghĩ thì đại sư cùng đệ tử nên tới Trạm Truyền Thanh bí mật dò xét, hoặc giả có thể tìm ra được điều gì chăng?
Bách Duy mừng thầm, nhưng còn vờ hỏi Diệu Không:
- Chẳng hay đạo huynh nghĩ sao?
Diệu Không trầm ngâm một phút rồi nói:
- Tuy rằng nguy hiểm, nhưng cũng không còn cách nào khác hơn. Huống chi lúc này anh hùng các nơi đều tụ tập cả ở Trạm Truyền Thanh. Chúng ta lẫn lộn vào số đông chắc không bị lộ tẩy.
Bách Duy đã đánh trúng tâm lý và lòng nhiệt huyết thanh niên. Quả nhiên Diệu Không đã nghĩ ngợi như thế và đồng ý ngay. Đột nhiên Bách Duy “a” lên một tiếng, thở dài mà rằng:
- Đáng tiếc! Chỉ đáng tiếc...
Cố nhiên là Diệu Pháp cùng Diệu Không cùng ngạc nhiên hỏi tại sao? Bách Duy lại thở dài, cúi đầu như nói một mình:
- Đáng tiếc! Nhâm tướng công quyết là không đồng ý...
Diệu Pháp, Diệu Không cùng yên lặng. Một lúc sau, Diệu Không cười gượng mà rằng:
- Nhâm tướng công cẩn thận, tinh tế. Quyết không để chúng ta làm liều lĩnh như thế. Chúng ta kể ra cũng khá nông nổi.
Bách Duy cười nhạt nói:
- Cẩn thận, tinh tế cái gì. Tình thế như vầy mà còn cứ cẩn thận. Nam Cung thế gia định ra tay thì bọn ta hết đường sống!
Thấy hai người ngó nhau, lặng ngắt, Bách Duy ghé gần lại, gằn từng tiếng nói:
- Cuộc chiến tranh chưa từng có trong làng võ lâm ngày nay, ngày từ lúc đầu đã phân ra mạnh với yếu tố rõ rệt. “Trung Nguyên Tứ Quân Tử” với “Đường môn thế gia trong đất Thục” đều là những tay danh vọng, vậy mà đã bị hại trước tiên. Kế đó Nhâm tướng công, tuy là bậc kỳ tài, cố vãn hồi sự suy sụp, nhưng sức cũng không chống lại lâu hơn được nữa. Biết sao bây giờ? Chúng ta tận lực tham gia vào nhưng đôi bên lực lượng đã quá chênh lệch, lại thêm hai lần thảm hại ở Âm sơn và Hồi Thanh Cốc, thực đã kiệt lực không ngóc đầu lền được nữa.
Ngừng một giây phút, lão gay gắt giọng nói tiếp:
- Theo ta xét, bất luận là thế nào, nếu cứ giữ nguyên tình trạng này thì chỉ có mà chết mòn đi hết. Duy chỉ còn một lối chơi một đòn bất ngờ là có thể cứu nguy và hy vọng thắng là khác. Nếu cứ cẩn thận quá, bỏ lỡ cơ hội là hết đời!
Bị lão khích động và thúc đẩy mạnh, Diệu Pháp, Diệu Không tuy vẫn ngồi yên không nói, nhưng vẻ mặt ra ý tán đồng.
Một hồi sau, Diệu Pháp sẽ thở dài nói bâng quơ:
- Không định kế hoạch sẵn thì...
Bách Duy mắm môi nói:
- Kế hoạch à! Thiên biến vạn hoá, hãy biết rằng tới Trạm Truyền Thanh đã. Tuỳ việc xảy ra mà đối phó. Ngồi nhà hoạch định, đoán phỏng chỉ là lối hủ nho, hỏng việc! Phải thế không?
Thấy hai người ấp úng vâng dạ, Bách Duy bèn mạnh dạn nói với giọng cương nghị hơn:
- Hai vị đã nhận rằng bần tăng nói là phải, như vậy tức là nhận rằng Nhâm tướng công đã lầm lẫn. Rút lại là không thể theo mệnh lệnh của Nhâm tướng công, là người thần trí đã hôn mê, hơi sức đã kiệt rồi. Ôi! Đáng thương thay! Nhưng tình thế bắt buộc phải quyền biến, miễn là có lợi cho vận mệnh toàn thể võ lâm!
Diệu Pháp bóp chặt hai tay vào nhau, trịnh trọng nói:
- Việc này quan trọng quá lớn. Xin cho đệ tử chúng tôi nghĩ kỹ đã.
Một lúc sau Diệu Không ngập ngừng nói:
- Đại sư muốn rằng chúng tôi... đối với Nhâm tướng công! Chao ôi! Chúng tôi thực không nỡ!
Bách Duy quát lên:
- Không nỡ... ư? Để mặc cho võ lâm đồng đạo muôn kiếp không khôi phục được nữa sao? Đằng nào khinh, trọng?
Diệu Pháp, Diệu Không cùng hỏi:
- Theo ý đại sư nên như thế nào?
Bách Duy nhấn mạnh:
- Từ nay chúng ta hành động đều tự ý tác chủ. Quyết không chịu để Nhâm tướng công ra lệnh sai khiến. Đó là bất đắc dĩ. Hai vị nghĩ sao?
Diệu Pháp thở dài, buồn rầu nói:
- Đại cuộc đã hỏng. Cân nhắc nặng nhẹ thì cũng chỉ còn có cách ấy!
Quay lại hỏi Diệu Không:
- Sư đệ nghĩ thế nào?
Diệu Không nói:
- Đại kha đã quyết. Tiểu đệ đành cũng xin theo.
Bách Duy mừng thầm. Chợt Diệu Pháp nghiêm giọng nói:
- Nhưng còn.. Tam sư đệ... Có đồng ý chăng?
Bách Duy cau mặt lo ngại. Diệu Không gật đầu, thong thả nói:
- Đệ tử có thể thuyết phục hắn! Đại sư cứ yên tâm!
Ngừng một chút, như nhớ ra một điều, bèn cất giọng nghiêm trọng hỏi:
- Việc đã đành phải như thế, nhưng còn đối với Nhâm tướng công... Đại sư đối đãi ra sao?
Bách Duy thấy vẻ mặt hai người ngưng đọng, bèn đằng hắng nói:
- Nhâm tướng công vốn là tay hiệp cốt, nhân tâm. Nay dù đã biến ra đến thế nào, chúng ta cũng phải cư xử ăn nói cho lễ độ!
Thấy vẻ mặt hai người hoà hoãn, Bách Duy mới yên dạ, bèn nói:
- Giờ chúng ta lấy lời lẽ ôn tồn nói với Nhâm tướng công, yêu cầu tướng công nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Mọi việc xin uỷ cho người khác tạm thời điều khiển. Chớ làm cho tướng công quá xúc động!
Quay sang nhìn Diệu Pháp rồi nói tiếp:
- Xin uỷ cho Diệu Pháp đạo huynh dùng lời uyển chuyển nói với tướng công!
Thấy Diệu Pháp lắc đầu, xua tay, Bách Duy bèn nói với Diệu Không:
- Vậy thì Diệu Không đạo huynh đảm nhận việc này.
Diệu Không giãy nãy lên, không nhận và còn nói:
- Giết chết ngay đệ tử cũng không dám. Vả chăng ý kiến này chính do đại sư nêu lên, thiết tưởng...
Bỗng cánh cửa bị đẩy toang ra, Bách Duy giật bắn người lên. Một người vừa bước vào, chưa qua khuôn cửa đã lớn tiếng mà rằng:
- Việc ấy khó gì mà không dám nói. Nếu ai cũng ngại nói thì đệ tử xin đảm nhận.
Mọi người nhìn ra là Diệu Vũ. Bách Duy tái mặt đi, vội hỏi:
- Đạo huynh đã lén nghe hết câu chuyện chúng ta bàn rồi ư?
Thấy Diệu Vũ “dạ” gật đầu, Bách Duy càng đổ quạu:
- Tại sao không vào đây cùng bàn bạc mà lại nấp ở ngoài nghe lén?
Diệu Vũ thản nhiên nói:
- Đệ tử tới đã lâu. Nghe biết bên trong đương bàn bạc việc bí mật mà không có ai canh gác bên ngoài, quả thực là quá coi thường. Nếu như ai, hoặc lại chính Nhâm tướng công chợt tới thì sao?
Bách Duy định quở hắn, không ngờ bị hắn phê bình trách lại đến cứng họng ra. Một vài giây sau, lão cười gượng mà rằng:
- Bần tăng quả thật sơ ý! Xin thành thật cảm tạ đạo huynh!
Diệu Vũ cười nói:
- Không dám!
Chép miệng thở dài:
- Tình thế đến như vậy không còn cách gì hơn. Đệ tử chính sẵn có ý ấy, chưa dám đem bàn đó thôi!
Bách Duy mừng rờ, vừa nói vừa vỗ tay:
- Tuyệt diệu! Bần tăng biết chắc là đạo huynh tán thành mà!
Diệu Vũ nói:
- Không nên chậm trễ! Đệ tử xin nói ngay với Nhâm tướng công! Nhưng đại sư và sư huynh cũng phải giải thích thêm vào!
Thế là Diệu Vũ dẫn đầu, Bách Duy, Diệu Pháp, Diệu Không theo sau, tới chỗ Nhâm Vô Tâm ở. Thấy chàng ngồi bên giường Huyền Chân, đương thừ mặt ra.
Diệu Pháp chép miệng, hỏi:
- Chẳng hay bao giờ tướng công chuẩn bị lên đường?
Chợt nhớ ra rằng hỏi như vậy thì có khác gì mọi việc vẫn do Nhâm Vô Tâm làm chủ cho lệnh! Như vậy là trái hẳn với mục đích câu chuyện định nói ra lúc nãy. Biết mình lỡ lời, Diệu Pháp hỏi lên mấy tiếng vội lùi lại đứng vào bên góc phòng.
Nhâm Vô Tâm quay lại, đôi mắt lờ đờ mất tinh thần, quét ngang một cái. Thấy chàng tiều tuỵ, bọn Bách Duy có ý hổ thẹn, đều cúi đầu xuống. Chợt nghe chàng thở dài rồi nói:
- Lẽ ra khởi hành rồi! Thấy các vị quá mệt mỏi nên chưa dám... đành thư hoãn lại.
Thấy chàng quên mình mà chỉ lo thay cho người, cả bọn cùng cảm thấy lúng túng cứ cúi gầm mặt xuống. Một hồi lâu, Bách Duy sốt ruột quá, bèn dịch gần lại bên Diệu Vũ, sẽ nắm áo giật ra hiệu.
Diệu Vũ sẽ đằng hắng, cười với vẻ ngượng nghịu, rồi cất tiếng:
- Bọn đệ tử chúng tôi dù có khó nhọc, xong cũng chỉ chừng nào thôi! Vậy mà bất cứ công việc lớn nhỏ, đều do tướng công phải lo liệu để ý. Ôi chao! Tướng công mới quả thực là vất vả quá sức!
Nhâm Vô Tâm lẩm nhẩm nói:
- Vất vả... quá sức! Thật vậy, quá... mệt... mỏi! Nhưng... nhưng biết sao được. Trừ phi chết thì chịu... Còn sống ngày phút nào thì còn phải...
Tiếng chàng nhỏ dần và thở gấp.
Diệu Vũ thở dài nói:
- Vì làng võ lâm mà hy sinh, cúc cung tận tuỵ xưa nay chưa từng có ai được như tướng công. Nhưng chẳng hay cứ tận tuỵ tranh đấu đến... bao giờ? Bao giờ kết liễu.
Nhâm Vô Tâm mỉm cười:
- Năm mười tháng hay vài chục năm xá kể chi! Còn tranh đấu được ngày nào thì cứ tranh đấu!
Diệu Vũ nói:
- Nhưng cuộc tranh đấu chưa kết thúc mà tướng công đã quỵ xuống thì sao? Cứ tình trạng sức khoẻ của tướng công hiện thời, có thể bất cứ lúc nào cũng quỵ xuống được. Xin tướng công nghĩ kỹ điểm ấy. Hậu quả sẽ ra sao?
Chàng buồn thảm trả lời, ngẩng đầu nhìn Diệu Vũ, một lúc sau lại nhìn Diệu Pháp, bỗng trầm giọng cất tiếng hỏi:
- Có thể như thế lắm. A! Các vị có câu chuyện gì muốn nói chăng?
Diệu Vũ “dạ”. Hắn ấp úng một chút, đánh bạo thưa:
- Đệ tử cùng Bách Duy đại sư, sau khi bàn bạc kỹ rồi, đều thấy rằng tướng công... cần phải tĩnh dưỡng một thời gian. Trong thời gian tĩnh dưỡng đó, tướng công chỉ nên...
Nhâm Vô Tâm hơi run người lên, vội giơ tay lắc, cắt đứt lời Diệu Vũ đi:
- A! Các người muốn rằng vô luận là việc gì, ta cũng không ngó ngàng tới sao?
Diệu Vũ cúi gầm mặt xuống nói:
- Dạ! Đó là đệ tử thành thực lo thay cho sức khoẻ của tướng công. Vì đã tới lúc cực kỳ quan hệ...
Nhâm Vô Tâm vụt cái đứng dậy, da mặt đương xanh nhợt bỗng ửng hồng lên, nhìn mọi người một lúc rồi chậm rãi nói từng tiếng:
- Các người muốn nói gì? Ta đã hiểu cả rồi. Khỏi phải nói nữa! Các người cho rằng ta không đủ tài sức chỉ huy mọi việc, vì gần đây ta luôn luôn bị thất bại! A! Điều đó không thể trách các người được.
Chàng hổn hển thở gấp, nghiến răng nói tiếp:
- Ta đã hủy hoại cả cơ nghiệp do ta gây dựng lên. Ta tự nhận không còn đủ uy tín lãnh đạo các vị nữa. Từ nay về sau, bất luận việc gì, ta sẽ không định đoạt.Quyền chỉ huy sẽ ở trong tay các người!
Dứt lời, chàng ngồi phệt xuống, hai tay ôm đầu, mặt cúi gầm! Bách Duy không ngờ rằng câu chuyện kết thúc thuận tiện một cách lẹ làng như thế. Tuy có chút thương xót thay cho chàng, một thiếu niên anh hùng bị nước đường cùng, đành thúc thủ, nhưng lại mừng thầm mưu mẹo của mình đã đạt. Bọn Diệu Pháp cũng bùi ngùi rơi lệ. Diệu Pháp lẩm bẩm nói:
- Về tình trạng sức khoẻ, tướng công phải lui bước, dưỡng sức. Nhưng bất quá chỉ là tạm thời thôi!
Diệu Không, Diệu Vũ cùng nói:
- Thực vậy! Một khi sức khoẻ và tinh thần tướng công khôi phục rồi thì xin tướng công lại đảm đương mọi việc như cũ! Trừ tướng công ra, không ai đảm nhận nổi gánh nặng này...
Nhâm Vô Tâm mỉm cười. Lòng chàng chua xót, vụt cái đứng lên giơ tay đẩy cánh cửa sổ ngó ra. Bên ngoài mưa phùn phơi phới như tơ bay, càng khiến kẻ có tâm sự não ruột buồn hơn.
- Ôi! Mưa gió tơi bời! Không một tiếng gà gáy, chó cắn! Giang hồ mưa gió, biết bao giờ... tạnh!
Nhâm Vô Tâm lầm nhầm than thở, lòng rạo rực lên, mắt loang loáng, đột nhiên đôi hàng lệ nhỏ xuống. Chàng không quay đầu lại cho nên bọn Diệu Pháp không biết chàng đương khóc.
Bách Duy sốt ruột, đằng hắng một cái, cất tiếng hỏi:
- Chẳng hay tướng công... rồi sẽ rút lui về đâu?
Diệu Pháp bỗng biến sắc mặt, nói chặn đi:
- Rút lui về đâu? Sao đại sư lại hỏi thế? Lẽ nào chúng ta để tướng công một mình thui thủi ra đi!
Diệu Không lớn tiếng nói:
- Trong khi dưỡng sức, dù là tướng công không nên bận tâm lo nghĩ hỏi han mọi việc, nhưng cũng cần phải luôn luôn ở gần chúng ta để chúng ta tiện coi sóc.
Bách Duy cười gượng:
- Xin chớ hiểu lầm ý bần tăng! Chính là sợ tướng công bỏ đi, không ai trông nom săn sóc... đó thôi!
Nhâm Vô Tâm đưa tay gạt thầm nước mắt, quay lại nói:
- Tại hạ mong được ở gần bên các vị! Nhưng... nhưng các vị thì luôn luôn bôn ba... hoạt động! Dù tại hạ chẳng còn là chủ động, song le vẫn không tránh được lo lắng. Như vậy sao gọi là tĩnh dưỡng.. Vậy nên...
Nói tới đây sẽ đưa mắt thấy mọi người thất sắc, chàng từ từ nói tiếp:
- Nếu các vị thật tâm muốn tại hạ được nghỉ ngơi, thì tại hạ phải tự ý rời xa các vị.
Diệu Pháp kinh hãi hỏi:
- Tướng công... quyết định xa chúng tôi?
Vô Tâm thở dài:
- Tại hạ đã nói rằng sự việc bất đắc dĩ phải như thế...
Quay lại nhìn Huyền Chân, thở dài nói tiếp:
- Các vị lăn mình vào trong cuộc thảm chiến, không còn hơi sức đâu săn sóc kẻ khác. Vậy nên tại hạ sẽ đem Huyền Chân đạo trưởng đi theo. Vì lẽ đạo trưởng là do tại hạ mời, vô luận là thế nào, phải do tại hạ đem ông ta đến chỗ có danh y săn sóc. Sau đó... nếu đạo trưởng sớm lành mạnh, tại hạ sẽ cùng đạo trưởng trở lại đây... chờ đợi các vị. Trái lại... nếu bệnh tình không giảm thì tại hạ sẽ đem đạo trưởng đi khắp chân trời góc bể, kiếm cho kỳ được danh y mới thôi!
Bách Duy bỗng gay gắt giọng mà rằng:
- Tướng công nghĩ lầm rồi! Nếu như bệnh tình đạo trưởng không giảm thì tướng công sẽ không bao giờ trở lại đây sao? Bần tăng tuy chẳng phải là đệ tử đường nhưng thấy Huyền Chân đạo trưởng như vậy, cũng phải đau lòng.
Tới đây lão đưa mắt cho bọn Diệu Pháp, rồi nói tiếp:
- Tuy nhiên cân nhắc nặng nhẹ, lợi hại, thì vô luận là bệnh tình đạo trưởng ra sao, nội trong một tháng cũng phải trở về đây đã. Bất quá chỉ trong vòng một tháng là đại cuộc biến đổi. Lúc đó chúng tôi cần có tướng công chủ trì mọi việc. Còn bệnh tình đạo trưởng sẽ lo sau!
Kể ra Bách Duy bàn như vậy là chánh đáng quang minh. Kỳ thực thì lão không muốn Huyền Chân khôi phục thần trí, vì sợ âm mưu của lão bị bại lộ. Lão tin chắc một trăm phần trăm là các danh y trong bọn Địch đại hiệp đều bị Nam Cung thế gia giết sạch cả rồi! Nếu như chàng đem Huyền Chân đi khắp đó đây, lỡ ra gặp tay thánh y chữa được cho Huyền Chân tỉnh táo trở lại, sẽ nói hết bí mật của lão ra thì nguy.
Bọn Diệu Pháp có hiểu đâu thâm mưu của Bách Duy. Thấy lão khẩn khoản như vậy lại cho là phải, bèn đồng thanh nói:
- Đại sư nói phải lắm! Phải coi việc công là hệ trọng. Xin tướng công chấp thuận!
Nhâm Vô Tâm nghĩ ngợi một lúc rồi nói:
- Cũng đành phải như thế vậy! Nhưng xin Bách Duy đại sư chấp thuận cho một điều này.
Thấy Bách Duy hơi giật mình nhưng trấn tĩnh ngay lại, chàng nói tiếp:
- Tại hạ dời khỏi đây rồi, xin đại sư thay thế tại hạ, đảm nhiệm chủ trương mọi việc.
Bách Duy mừng rơn lên, nhưng làm ra bộ rụt rè, nói:
- Chết nỗi! Tài sức bần tăng gánh vác sao nổi trọng trách!
Nhâm Vô Tâm ôn tồn nói:
- Lâm nguy không loạn! Tuỳ cơ ứng biến! Phi đại sư không ai đương nổi!
Thấy Bách Duy còn ra vẻ khiêm tốn, Diệu Pháp lớn tiếng nói:
- Nếu được đại sư chỉ huy, anh em tôi xin nhất nhất tuân lệnh!
Vừa nói vừa cầm chén trà lên, bóp một cái vỡ vụn ra mà rằng:
- Ai trái lệnh sẽ như chiếc chén này...
Nhâm Vô Tâm gật đầu khen phải. Bách Duy thở dài nói:
- Các vị cả quyết như vậy! Bần tăng còn dám nói gì nữa!
Nhâm Vô Tâm liếc mắt một cái, nghiêm giọng mà rằng:
- Vậy ngay từ phút này, để tránh cho khỏi bị ảnh hưởng vì sự có mặt của tại hạ, xin mời bốn vị qua nhà bên bàn việc!
Bách Duy nghĩ ra điều gì, vừa toan nói, thì bọn Diệu Pháp đã quay mình đi ra. Còn Nhâm Vô Tâm thì ngồi xuống, ngẩn mặt ra nhìn Huyền Chân đạo trưởng. Bách Duy đành lặng lẽ theo bọn kia đi ra.
Về tới nhà bên, Bách Duy còn vờ vẫn thở ngắn than dài. Một hồi lâu, mới trở lại điểm chính, trầm giọng mà rằng:
- Bần tăng tuy được các vị đồng thanh đề cử. Nhưng bất cứ việc gì phải có họp bàn với nhau, thảo luận, quyết định đã. Ý kiến một người thì có hạn. Góp lại mới tránh khỏi thiếu sót.
Ngưng một lúc, Bách Duy nêu câu hỏi đầu tiên:
- Bữa nay, sau khi lìa khỏi đây, chúng ta đi về đâu?
Diệu Vũ hăng hái nói:
- “Phong Vân Tế Hội” nơi Trạm Truyền Thanh! Tới đó chứ còn đâu nữa.
Thấy ba người kia cùng tỏ ý tán thành, Bách Duy cả mừng. Không còn nghi ngờ gì nữa, mưu kế của mình quyết phải thành công!
|