HURAKI MURAKAMI
Trần Tiễn Cao Đăng dịch
Nhà xuất bản Hội nhà văn
QUYỂN I: CHIM ÁC LÀ ĂN CẮP
Tháng 6 và tháng 7 năm 1984
1
Chim vặn dây cót ngày thứ ba
*
Sáu ngón và bốn vú
Khi điện thoại reo, tôi đang nấu dở món spaghetti trong bếp, mồm huýt sáo theo bản overture Chim ác là ăn cắp của Rossini phát qua đài FM. Vừa nấu spaghetti vừa nghe bản nhạc này thì còn gì bằng.
Tôi muốn lờ cuộc gọi đi, không chỉ vì món spaghetti sắp chín mà còn bởi Claudio Abbado đang đưa dàn nhạc Giao hưởng Luân Đôn lên đến cao trào âm nhạc. Nhưng rốt cuộc tôi chịu thua. Nhỡ ai đó đang muốn gặp tôi về chuyện việc làm thì sao. Tôi vặn nhỏ bếp gas, đi ra phòng khách, nhắc ống nghe.
- Cho tôi xin mười phút, - giọng nữ ở đầu bên kia nói.
Tôi vốn có trí nhớ tốt về giọng người, nhưng giọng này tôi không quen.
- Xin lỗi? Chị muốn gặp ai/
- Dĩ nhiên là gặp anh. Tn mười phút thôi, thế là đủ để ch1ng ta có thể hiều nhau, - giọng cô ta trầm trầm, mềm mại, nhưng thật khó phân biệt.
- Hiểu nhau ?
- Hiểu cảm xúc của nhau.
Tôi cúi xuống nhìn qua khe cửa bếp. Nồi spaghetti đang sôi sùng sục. , Claudia Abbo vẫn đang điều khiển bản Chim ác là ăn cắp.
- Xin lỗi, chả là tôi đang nấu dở nồi spaghetti. Chị gọi lại sau được không ?
- Spaghetti à ? Ai lại đi nấu mì spaghetti vào lúc mười giờ rưỡi sáng kia chứ ?
- Đấy không phải là việc của cô, - tôi nói, hơi nổi cáu. – Tôi muốn ăn cái gì, ăn lúc nào là quyền của tôi.
- Thôi được, tôi sẽ gọi lại sau, - cô ta nói, giọng cô ta giờ khô khan, vô cảm. Thật lạ, một thay đổi nhỏ trong tâm trạng cũng có thể ảnh hưởng đến giọng nói người ta đến thế.
- Đợi một chút, - tôi nói trước khi cô ta gác máy. - Nếu có muốn chào hàng chào hiếc gì đó thì đừng gọi lại mất công. Tôi đang thất nghiệp nên không thể mua sắm gì đâu.
- Đừng lo, tôi biết.
- Cô biết ? Cô biết cái gì ?
- Rằng anh đang thất nghiệp. Tôi biết. Đi mà nấu cho xong món spaghetti quý giá của anh đi.
- Nhưng mà... cô này ! – nhưng cô ta đã cúp máy.
Tức anh ách mà không biết xả vào đâu, tôi nhìn trân trân một lúccái ống nghe đang cầm tiong tay rối mới sực nhớ tới món spaghetti. Tôi xuống bếp, tắt gas rồi trút chỗ mì trong nồi ra cái chao cho ráo nước. Vì cuộc gọi vừa rồi mà món spaghetti hơi bị chín quá, nhưng cũng không đến nỗi chết ai. Tôi vừa ăn vừa ngẫm nghĩ.
Hiểu nhau ? Hiểu cảm xúc của nhau chỉ trong vòng mười phút? Cô ta nói năng cái gì vậy ? Có lẽ chỉ là gọi để chơi xỏ thôi. Hay là lại làm một chiêu tiếp thị bán hàng gì đó. Gì thì gì, chẳng liên quan đến tôi.
Ăn trưa xong, tôi lên phòng khách, ngồi trên sofa đọc cuốn sách mượn của thư viên, chốc chốc lại liếc nhìn điện thoại. Làm sao có thể hiểu nahu trong vòng mười phút cơ chứ ? Hai người có thể hiểu gì về nhau trong vòng mười phút? Thử nghĩ mà xem : cô ta dường như tin chắc một cách quái lạ vào mười phút ấy : chẳng phải đó là câu đầu tiên cô tá thốt ra đấy sao. Cứ như thể chín phút thì quá ít còn mười một phút lại quá nhiều. Chính xác từng phút một, cũng như nấu món spaghetti vừa chín tới.
Tôi không đọc được nữa, bèn bỏ đấy đi là áo sơ mi. Tôi luôn luôn đi là quấn áo mỗi khi trong lòng bứt rứt bực bõ> Một thói quen có từ lâu. Tôi chia việc là áo thành muời hai công đoạn. đầu tiên là cổ cồn (mặt ngoài), cuối cùng là măng sét tay trái. Trật tự này bất di bất dịch, tôi vừa là vừa đếm ngược từng công đoạn. nếu không thì sẽ rối tung lên cả.
Tôi là ba chiếc sơ mi, kiểm tra xem còn chỗ nghăn nào không rồi treo lên mắc áo. Sau khi tắt bàn là rồi cất vào tủ cùng với cái giá là quần áo, đầu tôi thấy minh mẫn hẳn ra.
Tôi quay xuống bếp định rót một cốc nước thì điện thoại lại reo. Tôi chần chừ một giây rồi quyết định trả lời. Nếu cũng lại người đàn bà kia, tôi sẽ bảo là đang bận là quần áo rối cúp máy.
Lần này là Kumiko. Đồng hồ chỉ mười một rưỡi.
- Anh thế nào ? – nàng hỏi.
- Ổn cả, - tôi đáp, nh5 cả người khi nghe giọng vợ.
- Anh đang làm gì đấy ?
- Mới là quần áo xong.
- Có chuyện gì vậy ? - giọng nàng nhuốm chút căng thẳng. Nàng biết, thường chỉ trong tâm trạng thế nào đó tôi mới đi là quần áo thôi.
- Cp1 gì đâu. Anh là mấy cái áo so8 mi thôi mà. – Tôi ngồi xuống, chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. – Em gọi có chuyện gì ?
- Anh có biết làm thơ không ? – nàng hỏi.
- Thơ !?
Thơ ấy à ? Nàng có ý gì vậy... thơ ư ?
- Em có người quen ở một tạp chí chuyên đăng truyện cho các thiếu nữ. Họ đang tìm một người chuyên lựa chọn và chỉnh lý các bài thơ do độc giả gửi tới. Nhưng trước hết người đó hàng tháng phải viết một bài thơ ngắn. Lương họ trả cao mà viêc thì nhàn. Với lại chỉ làm bán thời gian thôi. Nhưng họ có thể giao thêm một ít việc biên tập nêu người đó...
- Việc nhàn ư ? – tôi cắt ngang. - Đợi đã. Anh tìm là tìm việc trong ngành luật, chứ không phải thơ với thẩn.
- Em cứ tưởng anh từng viết lách hồi còn đi học cơ mà.
- Ừ thì viết cho báo tường : thi đấu bóng đá đội nào thắng, hay thầy dạy lý ngã cầu thang nằm viện - đại loại thế. Nhưng thơ thì không. Anh không biết làm thơ.
- Hẳn rồi, nhưng em không nói chuyện thơ thứ thiệt, mà chỉ là ba thứ thơ nhăng nhít cho mấy cô nữ sinh thôi. Có ai bắt thơ của anh phải đi vào văn học sử đâu. Nhắm mắt anh cũng làm được. Anh không hiểu ư ?
- Nghe đây: anh không biết làm thơ, nhắm hay mở mắt cũng vậy thôi. Anh chưa bao giờ làm thơ và sẽ không làm đâu.
- Thì thôi, - Kumiko nói, giọng buồn buồn. – Nhưng tìm việc làm trong ngành luật khó lắm.
- Anh biết. Chính vì vậy mà anh mới phải đi gõ đếnngần ấy cửa. tuầnnày chắc sẽ có thư trả lời. nếu không được, anh sẽ tính cách khác.
- Thôi được, cứ cho là vậy. À, hôm nay thứ mấy ?
Tôi nghĩ một chút rồi đáp : - Thứ Ba.
- Vậy anh chạy ra ngân hàng trả tiền gas và điện thoại nhé ?
- Ừ, đằng nào anh cũng phải ra ngoài mua đồ ăn tối.
- Anh định làm món gì ?
- Anh chưa biết. Đến cửa hàng rồi sẽ tính.
Nàng ngừng một chút. – Anh nghĩ kĩ đi, - nàng nói, giọng trở nênnghiêm trang. – Anh chẳng việcgì phải hối hả tìm việc làm như vậy đâu.
Câu nói đó khiến tôi hoàn toàn bất ngờ. « Tạo sao ? », tôi hỏi. Phải chăng toàn thể phụ nữ trên thế giới đã chọn chính ngày hôm nay để làm tôi ngạc nhiên qua điện thoại ?
- Sớm muộn gì trợ cấp thất nghiệp của anh cũng sẽ cạn. Anh không thể ngồi không mãi được.
- Đúng thế, nhưng em vừa được tăng lương, thi thoảng có việc làm thêm, lại còn tiền tiết kiệm của chúng mình nữa, nếu biết dè xẻn thì vẫn sống được. thật ra có gì là nước sôi lửa bỏng đâu. Hay anh không thích ở nhà làm nội trợ như thế này ? Sống như vậy anh bứt rứt khó chịu lắm à ?
- Anh không biết, - tôi đáp rất chân thành. Quả thực là tôi không biết.
- Thôi, anh cứ từ từ suy nghĩ, - nàng nói. – À, thế con mèo đã về chưa ?
Con mèo. cả buổi sáng nay tôi không hề nghĩ tới con mèo.
- Không, - tôi nói. – Chưa về.
- Anh thử tìm quanh khu hàng xóm xem Nó đi cả tuần nay rồi.
Tôi ừ hử, chẳng ra đồngý cũng chẳng ra không rồi chuyển ống nghe sang tay trái. Nàng nói tiếp:
- Em tin hcắc là nó lảng vãng chỗ căn nhà không người ở đằng cuối ngõ ấy. Căn nhà mà trước sân có cái tượng chim ấy. Em vẫn hay thấy nó ở đó mà.
- Cái ngõ? Em tới cái ngõ ấy từ hồi nào vậy ? Em chưa hề nói gì về...
- Thôi nào ! Em phải chạy đi đây. Nhiều việc phải làm quá. Đừng quên chuyện con mèo đấy.
Nàng cúp máy. Tôi lại nhìn chằm chằm ống nghe. Rồi tôi đặt lên giá đỡ.
Tôi tự hỏi điều gì đã dẫn Kumiko đến cái ngõ ấy. Từ chỗ nhà chúng tôi, muốn đến cái ngõ ấy thì phải trèo qua bức tường bê tông. Mà có mất công trèo đi nữa thì tới đó cũng chẳng để làm gì.
Tôi xuống bếp uống một cốc nước, rồi đi ra hàng hiên xem đĩa thức ăn cho mèo. Mớ cá sardin không có ma nào động tới từ tối qua. Không, con mèo không về. Tối đứng đó nhìn ra khu vườn nhỏ của vợ chồng tôi đẫm trong ánh nắng đầu hè. Đây chẳng phải là loại vườn có khả năng an ủi tinh thần khi ta nhìn ngắm nó. Mặt trời chỉ len tới được đây trong khoảng thời gian ít ỏi mỗi ngày, nên mặt đất luôn đen và ẩm, và toàn bộ cây cối gọi là có ở trong vườn vẻn vẹn chỉ là mấy bụi tú cầu lầm bụi trong một góc, mà tôi thì chẳng ưa hoa tú cầu. gần đấy có một rặng cây nhỏ, đứng ở đó ta có thể tiếng kêu như bằng kim khí của một con chim, nghe như nó đang vặn dây cót đồng hồ vậy. Chúng tôi gọi nó là con chim vặn dây cót. Cái tên do Kumiko đặt. Chúng tôi chẳng biết đúngra con chim đó tên gì, hình thù nó ra sao, nhưng điều đó chẳng làm con chim vặn dây cót bận tâm. Ngày nào cũng vậy, nó đến đậu trên rặng cây nhà hàng xóm để lên dây cho cái thế giới nhỏ bé tĩnh lặng của chúng tôi.
Thế là bây giờ tôi phải đi lùng mèo. Xưa nay tôi vẫn yêu mèo. Riêng con này tôi càng yêu hơn. Nhưng mèo có lối sống riêng của chúng. Chúng không đần độn. Nếu một con mèo thôi sống ở nơi ta ở, thế nghĩa là nó đã quyết định chuyển đi nơi khác. Nếu mệt và đói bụng, nó sẽ trở về. Dù vậy nhưng, rốt cuộc, để Kumiko vui lòng, tôi sẽ phải đi tìm conmèo của vợ chống tôi. Tôi chẳng có việc gì hay hơn để làm.
* * *
Tôi nghỉ việc từ hồi đầu tháng Tư – tôi vốn làm việc ở công ty luật này đã lâu, kể từ khi tốt nghiệp. Tôi thôi việc chẳng phải vì lý do gì đặc biệt. Đơn giản là tôi không ưa công việc. Chẳng có gì lý thú, nhưng lương bổng khá, đồng nghiệp thì thân thiện.
Chả cần phải sĩ làm gì, vai trò của tôi ở công ty là anh loong toong chạy giấy. Tôi làm việc đó rất cừ. Có thể nói, tôi thực sự có tài trong việc thi hành những sự vụ thực tiễn. Tôi học hỏi nhanh,làm gì cũng hiệu quả, không bao giờ ta thán và là người thực tế. Chính vì vậy mà khi tôi thông báo sẽ thôi việc, vị cổ đông chính của công ty (đây là một công ty luật kiểu cha con, ông này là cha) thậm chí còn đề nghị tăng lương cho tôi chút đỉnh.
Nhưng tôi vẫn thôi. Chẳng phải là để thực hiện một hoài bão hay dự tính gì đặc biệt. Chẳng hạn, việc tôi ghét nhất trên đời chính là đóng cửa học bài chuẩn bị cho kì thi luật sư. Tôi biết chắc như đinh đóng cột rằng tôi không muốn làm thầy cãi. Nhưng tôi cũng biết mình không muốn cứ chôn chân một chỗ làm mãi công việc đã làm bấy nay. Đằng nào cũng thôi việc thì thôi ngay bây giờ cho xong. Nếu còn nấn ná chỗ cũ, ắt tôi sẽ làm ở đó suốt đời. Dù gì tôi cũng đã ba mươi tuổi.
Trong lúc ăn tối tôi đã bảo Kumiko rằng tôi đang tính chuyện thôi việc. Nàng chỉ trả lời : « Em hiểu ». Tôi không biết ý nàng là nàng hiểu cái gì, nhưng hồi lâu sau nàng chẳng nói gì thêm.
Tôi cũng yên lặng, cho đến khi nàng tiếp : « Nếu anh đã muốnnghỉ việc thì cứ nghỉ. Đây là cuộc đời anh, anh muốn sống thế nào thì cứ sống như thế ấy ». Nói xong, nàng bắt đầu chăm chú dùng đũa tách xương cá để riêng ra mép đĩa.
Kumiko kiếm được khá nhiều tiền bằng nhề biên tập cho mộttạp chí chuyên về thực phẩm dưỡng sinh, thỉnh thoảng nàng còn nhận vẽ minh hoạ cho bạn bè ở các tap chí khác, nhờ vậy còn kiếm thêm một khoản thu nhập đáng kể nữa. (Nàng học khoa thiết kế ổ trường cao đẳng và từng mơ ước làm hoạ sỹ minh họa tự do). Ngoài ra, nếu nghỉ việc, tôi vẫn được nhận tiền trong một thời gian từ quỹ trợ cấp thất nghiệp. Thế nghĩa là dù tôi ở nhà làm nội trợ, hai vợ chồng vẫn đủ tiền cho đồ ăn thức uống, giặt ủi và những chi phí khác, và cuộc sống của chúng tôi vẫn chẳng thay đổi là mấy.
Thế là tôi nghỉ việc
* * *
Tôi đang cất thức ăn vào tủ lạnh thì điện thoại reo. Lần này tiếng chuông có vẻ nóng nảy, riết róng. Tôi vừa mới mở một gói nhỏ đựng đậu phụ, thế là phải cẩn thận đặt lên bàn nhà bếp sao cho nó khỏi chảy nước, rồi đi lên phòng khách nhấc điện thoại.
- Giờ thì anh ăn xong món spaghetti rồi chứ, - người đàn bà nói.
- Ăn rồi. Nhưng giờ tôi phải đi tìm con mèo.
- Chuyện ấy để mườiphút nữa cũng chẳng sao. Không phải như nấu món spaghetti.
Vì lý do nào đó tôi không cắt ngang cuộc gọi được. Có gì đó trong giọng cô ta buộc tôi phải chú ý.
- Thôi được, nhưng không quá mười phút đâu đấy.
- Giờ thì chúngta sẽ có thể hiểu nhau, - cô ta nói khẽ nhưng có vẻ quả quyết. Tôi có thể cảm thấy cô ta đang ngồi thoải mái xuống ghế bành, bắt tréo hai chân.
- Để xem, - tôi nói. – Trong vòng mười phút thì cô hiểu được gì nào ?
- Mười phút có thể là dài hơn anh tưởng đấy, - cô ta nói.
- Có chắc là cô biết tôi không ?
- Dĩ nhiên là chắc. Chúng ta đã gặp nhau hàng trăm lần rồi.
- Ở đâu ? Hồi nào ?
- Một lúc nào đó, một nơi nào đó, - cô ta nói. – Nhưng nếu em giải thích rõ thì mười phút không đủ đâu. Quan trọng là thời gian ta có lúc này đây. Hiện tại. Anh đồng ý không ?
- Có thể. Nhưng tôi muốn có bằng chứng là cô có biết tôi.
- Bằng chứng gì kia ?
- Tôi bao nhiêu tuổi chẳng hạn ?
- Ba mươi, - cô ta trả lời ngay. – Ba mươi tuổi hai tháng. Được chưa ?
Tôi cứng họng. Hiển nhiên là cô ta biết tôi, nhưng tôi không tài nào nhớ ra giọng cô ta.
- Giờ tới lượt anh, - cô ta nói, giọng mơn trớn. - Cố hình dung ra em đi. Từ giọng nói của em. Hình dung xem em thế nào. Em bao nhiêu tuổi. Em đang ở đâu. Em ăn mặc ra sao. Nào, anh nói đi chứ ?
- Tôi biết gì đâu mà nói.
- Thôi nào, cố lên đi, - cô ta nói.
Tôi nhìn đồng hồ. Nãy giờ mới có một phút năm giây trôi qua. – Tôi chẳng biết gì đâu, - tôi lặp lại.
- Thế để em giúp anh nhé, - cô ta nói. – Em đang nằm trên giường. Em vừa mới tắm xong, người em chẳng mặc gì hết.
Hừ, được lắm. lại cái trò *** qua điện thoại đây.
- Hay anh thích em mặc trên người một thứ gì đó ? Một cái gì có đăng ten. Hay tất dài chẳng hạn. Anh có thích vậy hơn không ?
- Thế nào cũng được, mặc cô. Cô muốn làm gì thì làm, - tôi nói. – Thích thì mang vài thứ trên người. Còn muốn trần truồng thì cứ việc. Xin lỗi, nhưng tôi không quan tâm đến những trò chơi qua điện thoại kiểu này. Tôi có quá nhiều thứ phải...
- Mười phút thôi, - cô ta nói. – Dành cho em mười phút thì anh có chết đâu nào, phải không ? Chỉ cần trả lời vài câu hỏi của em thôi. Anh muốn em trần truồng hay mang vài thứ trên người ? Em có nhiều thứ để mang lắm. Quần ren màu đen này...
- Tôi thì trần truồng đi.
- Được rồi. Anh muốn em trần truồng.
- Ừ, trần truồng.
Bốn phút rồi.
- Lông mu em vẫn còn ướt, - cô ta nói. – em sấy chưa kỹ lắm. Ôi, người em ướt quá chừng! Vừa ấm vừa ẩm ướt. Lại còn mềm nữa. Mềm thật là mềm, đen nhay nháy. Sờ em thử xem.
- Nào nào, tôi xin lỗi, nhưng mà…
- Xuống dưới cũng vậy. Xuống nữa. Dưới ấy thật là ấm, như là bơ ấy. Ấm quá chừng! Ôi ôi ôi. Lại còn chân em nữa. Anh thử nghĩ xem em đang ở trong tư thế nào nào? Đầu gối phải nhấc lên, chân trái dạng sang bên vừa đủ. Như hai cái kim đồng hồ lúc chỉ mười giờ năm phút vậy.
Từ giọng nói cô ta, tôi hiểu rằng cô ta không nói phét. Cô ta quả thật đang giạng chân ra như lúc kim đồng hồ chỉ mười giờ năm phút, âm hộ cô ta ấm áp và ẩm ướt.
- Sờ thử hai vành môi xem, - cô ta nói. – Châ-ậ-m-m thôi. Giờ thì vạch ra. Thế. Chậm thôi, thật chậm. Hãy để những ngón tay anh mơn trớn chúng. Ôi, thật châ-ậm-m-m. Giờ lấy tay kia sò vú phải của em đi. Đùa với nó. Mân mê nó. Lên trên nữa. Giờ bóp nhẹ núm vú đi. Lần nữa. Lần nữa. Lần nữa. Em sắp ra rồi đây.
Không nói một lời, tôi cúp ống nghe. Duỗi nguời trên ghế sopha, tôi nhìn đồng hồ và thở một hơi dài. Cuộc nói chuyện kéo dài gần sáu phút.
Mười phút sau điện thoại lại reo, nhưng tôi không **ng tới ống nghe. Chuông reo mười lăm lần. Khi nó ngừng reo, một nỗi im lặng sâu thẳm, lạnh lẽo trùm xuống căn phòng.
Ngay trước 2 giờ chiều, tôi trèo qua bức tường bê tông để sang bên cái ngõ, đúng hơn là chỗ mà chúng tôi gọi là cái ngõ. Thật ra nó chẳng phải là “ngõ”. Thật ra nó chẳng phải là “ngõ” theo đúng nghĩa; hẳn là chẳng có từ nào thích hợp để gọi nó cả. Nó không phải là “đường”, không phải “lối đi” , cũng chẳng ra cái “ngõ”. Dù “đường hay “ngõ” thì cũng phải có lối vào và lối ra, phải dẫn ta tới một chỗ nào đó nếu ta đi theo nó. Nhưng cái “ngõ” này chẳng có lối vào cũng chẳng có lối ra. Cũng không thể gọi là ngõ cụt, vì ít ra ngõ cụt cũng còn có lối vào. Còn cái ngõ này thì cả hai đầu đều cụt. Người dân xung quanh cứ gọi là “ngõ” cho tiện. Nó dài khoảng trăm mét, len lỏi giữa những khoảnh sân sau của các căn nhà dọc hai bên. Bề ngang nó chỉ tròm trèm một mét, ở vài chỗ thậm chí phải lách người qua mới qua được giữa những hàng rao thòi ra giữa lối đi hoặc phải tránh những đống đồ phế thải.
Về cái ngõ này, ông cậu tôi, người cho vợ chồng tôi thuê căn nhà này với giá gần như cho không, bảo rằng xưa kia nó cũng có đầu vào đầu ra, từng đóng vai trò kiểu như một lối đi tắt giữa hai con phố. Nhưng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng vào giữa thập kỷ 1950, hàng dãy nhà mọc lên trên các lô đất trống dọc hai bên ngõ, ép nó lại cho tới khi chỉ còn là một lối đi hẹo. Dân tình không thích kẻ lạ đến gần nhà và sân của mình , thế nên chẳng bao lâu một trong hai đầu ngõ bị người ta ngăn lại, đúng hơn là che lại bằng một hàng rào xộc xệch. Một người đia phương quyết định nới rộng khoảng sân của mình, thế là xây luôn một bức tường bê tông bít kín đầu ngõ. Như để đáp trả, một hàng rào dây thép gai được dựng ở đầu bên kia, ngay lũ chó cũng không qua lọt. Hàng xóm chẳng ai kêu ca gì, bởi có ai dùng cái ngõ này làm lối đi đâu, thậm chí họ còn hài lòng là khác, bởi nhờ bức tường rào này họ lại có thêm một lớp bảo vệ trước những phường bất hảo. Kết quả là cái ngõ chỉ còn như một kênh đào bị bỏ hoang, không ai dùng tới, có chăng chỉ là một vùng đệm giữa hai dãy nhà, thế thôi. Lũ nhện chăng mạng dày đặc trong những lùm cây mọc um tùm.
Cớ sao Kumiki hay lui tới một mơi như vậy? Bản thân tôi chỉ mới đi trên cái “ngõ” này không quá hai lần, Kumiki thì sợ nhện nhất trần đời. Nhưng thôi, quỷ tha ma bắt – nếu Kumiko đã bảo tôi ra ngõ kiếm con mèo thì tôi cần phải ra ngõ kiếm con mèo. Chuyện gì sẽ tới hẵng nghĩ sau. Đi ra ngoài thế này vẫn tốt chán so với ngồi nhà chờ đdiện thoại reo.
Ánh nắng chói đầu hè rọi qua bóng những cành cây trải rộng trên đầu, vẽ những đốm tròn lỗ chỗ xuống bề mặt ngõ. Không có ngọn gió nào lay động cành lá, những bóng cây trông như những vết ố mà số trời đã định là sẽ in lên mặt đường này vĩnh viễn. Dường như không thứ tiếng động nào lọt được đến nơi này. Hầu như tôi có thể nghe những ngọn cỏ phập phồng trong ánh nắng. Vài đám mây nhỏ trôi qua bầu trời, bóng của chúng rõ rệt, sắc nét, như những đám may trong tranh khắc thời trung cổ. Tôi cảm nhận mọi thứ một cách rõ ràng đáng sợ đến nỗi chính thân thể tôi bỗng trở nên mơ hồ, vô hạn, tuôn chảy và … nóng bỏng.
Tôi mặc áo thun, quần mỏng bằng vải bông, mang giày tennis, nhưng khi đi dưới ánh nắng hè, tôi cảm thấy một lớp mồ hôi mỏng đọng dần dưới hai cánh tay và trên hõm ngực. Chiếc áo thun và quần sợi bông này lâu nay bị nhét trong hộp lèn quần áo mùa hè, tôi chỉ mới lấy ra mặc sáng nay, nên mùi băng phiến hăng hắc xộc vào trong lỗ mũi tôi.
Những căn nhà dọc hai bên ngõ chia làm hai loại khác hẳn nhau: những căn nhà cũ và những căn nhà mới xây. Những căn nhà mới thì nhỏ hơn, sân cũng nhỏ hơn. Những chiếc sào phơi quần áo trong sân thường thò hẳn ra ngoài ngõ, khiến nhiều lúc tôi phải len lỏi giữa những bức màn chắn bằng khăn mặt, khăn trải giường, đồ lót. Bên kia vài bức tường hậu vẳng ra tiếng ti vi, tiếng nước dội toa lét, thoang thoảng mùi nấu cà ri.
Nhữnng căn nhà cũ thì ngược lại, hầu như không có dấu hiệu sự sống. Chúng được ngăn cách bằng những bụi cây và hàng dậu ngay hàng thẳng lối, xen giữa là những mảnh vườn tỉ tót công phu.
Một cây thông Giáng sinh già nua, nâu xỉn, khô héo đứng trong góc một khu vườn. Một khu vườn khác đã hóa thành bãi rác để người ta vứt bỏ bất cứ món đồ chơi nào của con người, rõ ràng là nơi vứt bỏ hàng mấy thế hệ tuổi thơ. Nào chiếc xe đạp ba bánh, vòng gỗ, kiếm nhựa, bóng ca su, nào những con rùa đồ chơi, những chiếc mũ bóng chày bé xíu. Một khu vườn có một khoảnh chơi bằng bóng rổ, một vườn khác nữa có những cái ghế xinh xẻo xếp quanh chiếc bàn bằng gốm. Bụi đóng dày trên những chiếc ghế vốn dĩ màu trắng, hình như chẳng ma nào **ng tới nhiều tháng, thậm chí nhiều năm rồi. Mặt bàn phủ đầy những cánh hoa mộc lan tím bị mưa dập vùi tan nát.
Tôi thấy rõ một căn phòng khách qua một cánh cửa ngoài bằng nhôm. Phòng khách gồm một bộ sofa và ghế bành bằng da, một cái tivi lớn, một tủ buýp phê (trên đó có một bể nuôi cá nhiệt đới và hai món chiến lợi phẩm gì đó), một cây đèn đứng để trang trí. Căn phòng trông như bối cảnh cho một vở kịch truyền hình. Một cái cũi chó to đùng chiếm lĩnh phần lớn diện tích một khu vườn khác, những chẳng có con chó nào, cửa nhà thì mở toang. Tấm lưới cửa cũi chó bị vênh ra ngoài, như thể ai đó đã tựa vào đó liên tục hàng mấy tháng trời.
Căn nhà không người ở mà Kumiko nói với tôi nằm ngay sau khoảnh sân có cái chuồng chó kếch xù kia. Chỉ cần liếc qua cũng biết căn nhà này không có người ở đã khá lâu rồi. Đó là một căn nhà hai tầng trông cũng mới, nhưng mấy cánh cửa chớp bằng gỗ trông lại quá ư cũ kỹ, chấn song bên ngoài các cửa sổ trên tầng hai phủ đầy gỉ sét. Căn nhà có một khu vườn nhỏ xinh xinh, trong đó hiển nhiên là có bức tưởng chim. Tượng đặt trên một cái bệ cao ngang ngực, xung quanh cỏ dại um tùm. Đầu mút những nhánh xiêm gai vàng gần như bén tới chân chim. Con chim – tôi chịu không đoán nổi giống chim gì – giang rộng cánh như thể muốn thoát khỏi chốn khó ưa này càng nhanh càng tốt. Ngoài con chim ra chẳng còn vật trang trí nào khác trong khu vườn. Dăm chiếc ghế nhựa không biết tự đời thuở nào đứng chỏng chơ ở vách tường, cạnh đó là một bụi đỗ quyên phô những đóa hoa đỏ tươi, màu sắc có vẻ là lạ, không thực. Còn lại toàn là cỏ dại.
Tôi tựa vào hàng rào mắt cáo ngang ngực, ngắm khu vườn một hồi lâu. Chốn này hẳn là thiên đường cho lũ mèo, nhưng chẳng thấy mèo đâu cả. Điểm xuyết vào khung cảnh chỉ có tiếng kêu đều đều của một con bồ câu đơn độc vắt vẻo trên chiếc ăngten truyền hình. Bóng của con chim đá đổ lên mặt cỏ dưới chân bệ tượng, bị cắt làm hai mảnh.
Tôi rút trong túi quần ra một viên kẹo chanh, bóc giấy gói rồi cho vào mồm. Tôi từng coi việc nghỉ làm ở công ty là một cơ hội để bỏ thuốc lá, nhưng bây giờ đi đâu tôi cũng không thể thiếu mấy viên kẹo chanh. Kumiko bảo tôi nghiện kẹo chanh mất rồi và cánh cáo rằng chẳng mấy chốc tôi sẽ sâu hết cả hàm răng, nhưng tôi không bỏ kẹo được. Trong khi tôi đứng ngắm khu vườn, con bồ câu đậu trên ăngten vẫn kêu gù gù, như một tay cạo giấy đóng số lên một tệp giấy. Tôi không biết mình đã đứng đó tựa rào trong bao lâu, nhưng tôi nhớ mình đã nhổ kẹo ra khi cảm thấy nó đã tan một nửa và lấp đầy miệng cái vị ngọt dinh dính. Tôi vừa chuyển cái nhìn sang bóng chim đá thì có cảm giác ai đó vừa gọi mình từ phía sau.
Tôi quay lại thì thấy một cô gái đừng trong khu vườn bên kia ngõ. Người cô nhỏ nhắn, tóc tết bím. Cô đeo kính râm thẫm, gọng màu hổ phách, mặc áo phông cộc tay màu xanh nhạt. Mùa mưa vẫn chưa dứt hẳn, thế mà cô đã kịp làm cho đôi tay mảnh dẻ của mình có một màu rám nằng mềm mại ưa nhìn. Cô đút một bàn tay vào túi quần soóc. Bàn tay kia đặt lên một cánh cổng hằng tre ngang thắt lưng xem ra chẳng càn được ai. Hai chúng tôi chỉ cách nhau chừng hơn một thước.
- Nóng quá, - cô bảo.
- Ừ, nóng, - tôi đáp.
Sau mẩu trao đổi ngắn ngủi này cô lại đứng đó nhìn tôi. Rồi cô móc trong túi ra một bao “Hope”, rút một điếu, đút vào giữa miệng. Cô có cái miệng nhỏ, môi trên hơi vểnh. Cô quẹt diêm chấm thuốc. Khi cô khẽ nghiêng đầu, tóc cô lệch sang bên để lộ một chiếc tai có hình dáng tuyệt đẹp, nuột nà như vừa mới nặn, vành tai ánh lên vẻ dịu dàng của lớp lông tơ.
Cô búng que diêm đi rồi chúm môi phà khói. Đoạn, cô nhìn lên tôi như thể đã quên mất là có tôi ở đó. Tôi không nhìn thấy mắt cô sau cặp tròng thẫm của chiếc kính râm.
- Anh sống gần đây à? – cô hỏi.
- Ừ, - tôi muốn chỉ về phía nhà mình, nhưng để tới được đây tôi đã len lách quá nhiều đến nỗi giờ tôi chịu không biết nhà mình ở hướng nào nữa. Tôi đành chỉ hú họa.
- Tôi đi tìm con mèo, - tôi vừa nói như để thanh minh vừa chùi lòng bàn tay mướt mồi hôi vào quần. – Nó đi vắng cả tuần rồi. Có người thấy nó aunh quẩn chỗ này.
- Con mèo trông thế nào?
- Mèo đực, to khỏe. Có vằn nâu, Chót đuôi hơi quặp.
- Tên gì?
- Noboru. Wataya Noburu.
- Không, không phải tên anh. Tên con mèo cơ.
- Thì tên con mèo đấy.
- Chà, ấn tượng quá!
- Thực ra đấy là tên ông anh vợ anh. Con mèo có gì đó giống ông ấy. Bọn anh lấy tên ông ấy đặt cho con mèo, để cho vui thôi mà.
- Con mèo giống ông ấy chỗ nào cơ?
- Anh không biết. Nhìn chung là thế. Dáng đi chẳng hạn. Hay là cái nhìn chả biểu lộ gì hết.
Lần đầu tiên cô mỉm cười, nụ cười khiến cô giống trẻ con hơn nhiều so với ấn tượng ban đầu. Cô không quá mười lăm, mười sáu tuổi. Môi trên cô vểnh thành một góc kì lạ. tôi nghe như thấy giọng nói “Sờ em đi”, giọng người đàn bà trong điện thoại. Tôi lấy mu bàn tay lau mồ hôi trên trán.
- Con mèo có vằn nâu, chóm đuôi hơi quăn, - cô gái nói. - À, nó có đeo vòng cổ không?
- Đeo vòng cổ màu đen, để trị bọ chét.
- Cô đứng ngẫm nghĩ chứng mươi, mười lăm giây, bàn tay vẫn đặt trên cánh cổng. Rồi cô vứt điếu thuốc đang hút dở xuống đất, lấy bàn chân đi xăngđan giẫm lên.
- Có lẽ em đã gặp một con mèo như thế, - cô bảo. – Em không biết đuôi có quặp không, nhưng con mèo vàng nâu, giống như cọp ấy, hình như có đeo vòng cổ.
- Em thấy khi nào?
- Thấy khi nào á? Chà… Mới ba bốn hôm trước thôi. Sân nhà em cứ như là nơi quá cảnh của tất cả mèo hàng xóm ấy mà. Chúng đi tắt qua nhà em từ nhà Takitani tới nhà Miyawaki.
Cô chỉ về phía căn nhà không người ở, nơi con chim đá vẫn đang giang cánh, cây xiêm gai vàng đang đón nắng hè và con bồ câu vẫn tiếp tục gù gù đơn điệu trên cần ăngten tivi.
- Em có ý này, - cô nói. – Sao anh không đợi ở đây? Tất cả lũ mèo sớm muộn gì cũng đi qua nhà em trên đường tới nhà Miyakawi. Anh cứ đi tới đi lui kiểu này thì coi chừng người ta gọi cảnh sát bắt đấy. Có người bị như thế rồi.
Tôi lưỡng lự.
- Đừng lo, - cô nói. - Ở đây chỉ có em thôi. Chúng mình cứ ngồi sưởi nắng, đợi con mèo ló mặt ra. Em sẽ nhìn giúp anh. Thị lực của em những hai mươi-hai mươi cơ đấy.
Tôi nhìn đồng hồ. Hai giờ hai mươi sáu phút. Những gì tôi phải lám hôm nay, từ giờ cho đến tối là mang đồ đến hiệu giặt và làm bữa tối.
Tôi bước qua cổng vào trong vườn, theo sau cô bé băng qua bãi cỏ. Chân phải cô hơi khập khiễng. Cô đi vài bước rồi dừng, quay lại nhìn tôi.
- Em bị ngã xe máy từ ghế sau, - cô nói như thể chuyện ấy chẳng có gì quan trọng.
Nơi rìa bãi cỏ có một cây sồi lớn. Dưới bóng cây có hai ghế xếp bằng vải bạt, trên một chiếc có trải tấm khăn tắm màu xanh dương. Trên chiếc ghế kia lỉnh kỉnh một bao “Hope””chưa mở, cái gạt tàn, chiếc bật lửa, một cuốn tạp chí, một chiếc máy nghe nhạc ngoại cỡ. Máy đang phát một bản hard rock âm lượng không to lắm. Cô bé tắt nhạc rồi trút hết mớ đồ đạc trên chiếc ghế thứ hai xuống cỏ để lấy chỗ cho tôi. Ngồi trên chiếc ghế này tôi thấy rõ khỏang sân căn nhà không người ở bên kia – con chim đá, cây xiêm gai vàng, hàng rào mắt cáo. Hẳn là cô bé đã quan sát tôi suốt cả thời gian tối đứng ở bên kia.
Vườn nhà này lớn thật. Có một bãi cỏ rộng dài thoai thoải, đó đây có mấy khóm cây. Bên trái hai chiếc ghế là một hồ nước to mép bằng bê tông, phơi cái đáy cạn khô dưới nắng. Trông cái màu xanh xanh thì đủ biết đã bao lâu hồ không có nước. Chúng tôi ngồi xoay lưng lại căn nhà thấp thoáng sau màn cây. Nhà không lớn, kiến trúc chẳng cầu kỳ. Chỉ khu vườn thênh thang được chăm sóc cẩn thận là nom bề thế mà thôi.
- Vườn rộng quá, - tôi vừa nói vừa nhìn quanh. – Rộng thế này thì chăm sóc cũng mệt.
- Hẳn rồi.
- Hồi bé anh có làm việc cho một công ty chuyên xén cỏ thuê.
- Thế à? - rõ là cô bé chẳng quan tâm gì đến chuyện cỏ kiếc.
- Em luôn ở đây một mình à? – tôi hỏi.
- Vâng, lúc nào cũng một mình. Trừ một bà đến mỗi sáng và chiều, dọn dẹp ấy mà. Còn lại thì suốt ngày chỉ mình em thôi. Anh muốn uống gì lạnh không? Nhà có bia đấy.
- Không, cảm ơn.
- Thật á? Đừng khách sáo đấy nhé.
Tôi lắc đầu.
- Em không đi học à?
- Thế anh không đi làm à?
- Có việc gì làm đâu mà đi.
- Thất nghiệp à?
- Đại loại thế. Anh mới thôi việc vài tuần trước.
- Trước anh làm gì?
- Anh là trợ lý luật sư. Anh đến các cơ quan chính phủ để lấy tài liệu, sắp xếp hồ sơ đâu vào đó, kiểm tra các tiền lệ pháp lý tiến hành thủ tục tố tụng… kiểu kiểu thế.
- Nhưng anh thôi việc rồi.
- Ừ.
- Vợ anh có việc làm không?
- Có.
Con bồ câu ở khoảnh sân bên kia chắc đã thôi gù gù mà bay đi nơi khác. Đột nhiên tôi nhận thấy một sự im lặng chết chóc bao phủ quanh tôi.
- Kia là chỗ lũ mèo hay qua lại, - cô nói, tay chỉ về phía đằng kia bão cỏ. – Anh có thấy cái máy đốt rác trong sân nhà Takitani không? Chúng nó chui ra từ dưới hàng rào ngay ở chỗ ấy, đi qua bãi có, rồi chui qua cổng sang mảnh sân bên kia. Lần nào cũng đúng lộ trình ấy.
Cô lật kính lên trán, nheo mắt nhìn khu vườn rồi kéo kính xuống, phà ra một làn khói. Trong khoảng thời gian đó tôi kịp thấy cô có một vết xước dài khoảng năm phân gần mắt trái, loại vết xước có khả năng để sẹo suốt đời. Chiếc kính râm hẳn là để che vết xước ấy. Khuôn mặt cô bé không phải là đẹp lắm nhưng có cái gì đó thật quyến rũ, có thể là cặp mắt sống động hay đôi môi hình dáng khác thường.
- Anh có biết nhà Miyakawi không? – cô hỏi.
- Chả biết gì cả, - tôi đáp.
- Gia đình họ từng sống trong căn nhà không có người ở kia. Gia đình rất nền nếp. Họ có hai cô con gái, cả hai đều học trường tư dành cho nữ sinh. Ông Miyakawi là chủ mấy cái nhà hàng.
- Sao họ không ở đó nữa?
- Có lẽ vì ông ấy nợ nần. Họ bỏ trốn, biến mất vô tung tích chỉ trong một đêm. Đâu như một năm trước. Họ bỏ lại căn nhà, mặc cho cỏ dại và lũ mèo. Mẹ em cứ than phiền suốt.
- Có nhiều mèo đến thế sao?
Vẫn ngậm điều thuốc trong miệng, cô bé ngẩng lên nhìn trời.
- Đủ thứ trên đời. Con thì trụi lông, con thì chột mắt… ở cái chỗ trước kia là con mắt giờ chỉ còn cục thịt. Eo ôi!
Tôi gật đầu.
- Em có người bà con mỗi bàn tay đều có sáu ngón. Chị ấy lớn hơn em một chút thôi. Bên cạnh ngón út chị ấy lại có thêm một ngón thừa, như ngón tay trẻ sơ sinh ấy. Chị ấy biết cách gập nó lại nên hầu như không ai nhận thấy cả. Mà chị ấy đẹp lắm cơ.
Tôi lại gật.
- Anh nói thử xem, đó có phải là do di truyền không? Gọi thế nào ấy nhỉ… từ trong huyết thống ấy mà?
- Anh không biết nhiều lắm về di truyền.
- Cô ngừng nói. Tôi mút viên kẹo chanh và chúc mục vào lối đi của lũ mèo. Nãy giờ chẳng thấy con mèo nào cả.
- Thực tình anh không muốn uống gì à? – cô hỏi. – Em đi lấy Coca đây.
Tôi nói tôi không cần uống gì cả.
Cô đứng dậy khỏi ghế và biến mất sau hàng cây, chân phải hơi khập khiểng. Tôi nhặt tờ tạp chí từ dưới cỏ lên, lật lật các trang. Hoàn toàn bất ngờ, tôi nhận ra đó là một tạp chí dành cho nam giới, loại nguyệt san bìa láng. Trên trang ảnh là một ả ngồi ghế, hai chân dạng rộng thành một góc kỳ quái, quần bó chẽn mỏng dính phô ra toàn bộ chỗ kín với lớp lông đen nhánh. Tôi thở dài đặt tạp chí xuống, khoanh tay lên ngực, lại chú mục vào lối đi của lũ mèo.
Mãi rất lâu sau cô bé mới trở lại, tay cầm cốc Coca. Cái nóng **** chiều đang hành hạ tôi. Ngồi dưới nắng, tôi nghe đầu mình cứ ong ong. Tôi hoàn toàn không muốn nghĩ gì hết.
- Nói em nghe, - cô tiếp tục đề tài bỏ dở. – Nếu anh yêu một cô gái nhưng hóa ra cô ấy có những sáu ngón tay thì anh sẽ làm gì?
- Đưa cô ấy tới rạp xiếc, - tôi đáp.
- Thật à?
- Không, dĩ nhiên là không, - tôi nói. – Đùa thôi mà. Chắc là chuyện ấy chẳng làm anh bận tâm lắm đâu.
- Cho dù con cái anh có thể dũng bị do di truyền?
Tôi nghĩ một chút rồi mới trả lời.
- Không, thực tình anh nghĩ là sẽ không bận tâm về chuyện đó mà. Thừa một ngón tay thì đã sao?
- Thế nếu cô ấy có bốn vú?
Tôi lại phải nghĩ một hồi.
- Anh không biết.
Bốn vú? Cứ cái đà này thì nói mãi không hết. Tôi quyết định chuyển đề tài.
- Em bao nhiêu tuổi?
- Mười sáu. Mới đây thôi là sinh nhật tròn mười sáu của em đấy. Em vừa lên năm đầu trung học đệ nhị cấp.
- Em nghỉ học lâu chưa?
- Nếu em đi nhiều thì chân vẫn đau. Em lại còn bị vết xước gần mắt nữa. Trường em họ nhiễu sự lắm. Người ta mà biết em bị ngã xe máy thì sẽ bàn tán vào chẳng thiếu chuyện gì. Thành thử em nghỉ ốm. Em được nghỉ trọn một năm nhé. Chả việc gì phải vội lên lớp cả.
- Ừ thì thế.
- Thì thế là sao? Vừa rồi anh bảo là cô gái có sáu ngón thì anh vẫn lấy, nhưng có bốn vú thì không…
- Anh không nói vậy. Anh chỉ bảo là anh không biết.
- Anh không biết gì nào?
- Anh không biết – ý anh là khó tưởng tượng được chuyện ấy.
- Một cô gái có sáu ngón tay thì anh hình dung được chứ?
- Chắc là được.
- Thế sao bốn vú thì lại không? Có gì khác nhau nào?
Tôi lại phải nghĩ thêm một hồi nữa, nhưng vẫn không tìm ra câu trả lời.
- Em hỏi nhiều quá phải không?
- Người ta bảo em vậy à?
- Thỉnh thoảng.
Tôi lại quay về phía lối mèo đi. Tôi đang làm cái quái gì ở đây vậy?
Tự nãy đến giờ chẳng có con mèo nào ló mặt. Tay vẫn khoanh trước ngực, tôi nhắm mặt lại chừng ba mươi giây. Tôi nghe mồ hôi túa ra khắp mình khắp mẩy. Ánh mặt trời đổ lên tôi với một sức nặng kỳ lạ. Mỗi khi cô gái di chuyển cốc Coca, những mẩu nước đá lại kêu lanh canh như cái lục lạc buộc cổ bò.
- Nếu anh buồn ngủ thì ngủ đi, - cô thì thầm. – Con mèo xuất hiện em sẽ gọi anh.
Mắt vẫn nhắm, tôi lẳng lặng gật đầu.
Trời đứng gió, xung quanh lặng ngắt như tờ. Con bồ câu đã bay mất tự đời nào. Tôi nghĩ mãi về người đàn bà gọi điện thoại. Mình có biết cô ta không nhỉ? Hoàn toàn chẳng có gì quen thuộc trong giọng nói hay cung cách ăn nói của cô ta. Nhưng nhất định là cô ta biết tôi. Tôi có cảm giác mình đang nhìn vào một bức tranh của de Chirico: cái bóng dài thậm thượt của người đàn bà cắt qua một con phố vắng mà vươn về phía tôi. Một cái chuông cứ kêu leng keng không ngừng bên tai tôi.
- Anh ngủ à? – cô gái hỏi bằng giọng khẽ đến nỗi tôi không chắc mình nghe ra.
- Không, anh có ngủ đâu.
- Em xích lại gần một chút được không? Nói khẽ thì… dễ chịu hơn.
- Anh sao cũng được, - tôi nói, mắt vẫn nhắm.
Cô ta dịch ghế lại gần cho đến khi chạm vào ghế tôi làm phát ra tiếng gỗ khô khốc.
Thật lạ, giọng cô bé khi mình mở mắt thì nghe thế này, khi nhắm mắt thì lại nghe khác hẳn.
- Em nói chuyện được không? Em sẽ nói thật khẽ và anh không phải trả lời đâu. Thậm chị anh ngủ luôn cũng được.
- Ừ, - tôi nói.
- Khi người ta chết thì tuyệt lắm nhỉ.
Lúc này miệng cô bé kề bên tai tôi, nên những lời cô nói xuyên thẳng vào tôi cùng với hơi thở ấm áp, ẩm ướt.
- Sao lại thế?
Cô đặt một ngón tay lên môi tôi như thể niêm kín lại.
- Không hỏi gì cả, cũng không mở mắt. Được chứ?
Cái gật đầu của tôi cũng khẽ như giọng nói của cô.
Cô nhấc ngón tay khỏi môi tôi và đặt lên cổ tay tôi.
- Em ước gì có con dao mổ. Em sẽ rạch chỗ này ra mà nhìn vào trong. Không phải nhìn thịt của người chết đâu… mà nhìn vào cái chết. Em tin là có cái gì đó giống như cái chết. Nó tròn tròn, nhun nhũn giống như quả bóng mềm có cái lõi cứng bằng những sợi thần kinh chết. Em muốn lôi nó ra khỏi cơ thể người chết rồi rãchc nó mà nhìn vào trong. Em luôn luôn tự hỏi nó giống cái gì. Cũng có thể nó cứng ngắc, như kem đánh răng bị khô trong ống vậy. Anh nghĩ sa? Không, đừng trả lời. Bên ngoài nó mềm nhũn, càng vào trong lại càng rắn. Em muốn rạch da để lôi cái cục mềm mềm nhu nhũn đó ra, dùng dao mổ và một dụng cụ kiểu như cái đè lưỡi để lần vào trong, càng vào trong thì cục mềm nhũn đó lại càng rắn, cho đến khi gặp cái lõi nhỏ xíu kia. Nó bé tí, như hòn bi trong ổ bi ấy, và rất là cứng. Hẳn là vậy phải không?
Cô hắng giọng mấy lần.
- Mấy hôm nay em cứ nghĩ mãi chuyện ấy. Có lẽ vì ngày nào em cũng có quá nhiều thời gian rảnh. Mỗi khi không có việc gì làm, ý nghĩ của mình đi xa, rất xa, xa đến nỗi mình không theo kịp ấy.
Cô nhấc ngón tay khỏi cổ tay tôi và uống nốt chỗ Coca còn lại. Nghe tiếng những mẩu nước đá, tôi biết cái cốc giờ đã rỗng.
- Đừng lo chuyện con mèo, em sẽ canh cho. Nếu thấy Wataya Noboru, em sẽ báo cho anh ngay. Anh cứ nhắm mắt. Em tin chắc Wataya Noburu chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Nó có thể ló mặt ra bất cứ lúc nào. Wataya Noburu đang đến đấy. Em biết là nó đang đến – nó len qua bão cỏ, luốn dưới hàng rào, dừng lại nửa đường đề ngửi những bông hoa. Càng lúc càng gần, Wataya Noburu, từng bước từng bước một. hãy hình dung cảnh đó, đưa hình ảnh đó vào trong tâm trí anh.
Tôi cố tưởng tượng ra con mèo, nhưng cố lắm cũng chỉ thấy một hình ảnh mờ mờ như bức ảnh bị thiếu ánh sáng. Ánh nắng xuyên qua mí mắt tôi làm chao đảo và tán xạ cái bóng tối bên trong tôi, khiến tôi không thể vẽ nên một hình ảnh chính xác về con mèo. Thay vào đó tôi chỉ nặn ra được một bức chân dung tồi, một bức tranh méo mó, thiếu tự nhiên, có vài nét hao hao giống nguyên bản song phần quan trọng nhất thì lại thiếu vắng. Thậm chí tôi không nhớ nổi dáng đi của con mèo ra sao nữa.
Cô gái lại đặt ngón tay lên cổ tay tôi, dùng đầu ngón tay vẽ một thứ ký hiệu lạ lùng nào đó. Như thể đáp lại, một thứ bóng tối khác – khác về chất so với bóng tối mà tôi cảm thấy nãy giờ - bắt đầu xâm nhập vào ý thức tôi. Có lẽ tôi đã thiếp đi. Tôi không muốn điều đó xảy ra, nhưng không cách nào cưỡng lại được. Cơ thể tôi như cái xác chết – xác chết của một ai khác – đang chìm sâu vào chiếc ghế xếp bằng vải bạt.
Trong bóng tối, tôi thấy bốn cái chân của Wtaya Noburu, bốn cái chân tĩnh lặng màu nâu bên trên bốn bàn chân với những cái núm chân mềm như bằng cao su, những cái chân đang giẫm lên đâu đó mặt đất tịnh không một tiếng động.
Nhưng ở đâu?
“Chỉ cần mười phút thôi”, người đàn bà trên điện thoại đã nói thế. Không, cô ta lầm. Đôi khi mười phút không phải là mười phút. Nó có thể giãn ra co lại. Điều đó thì tôi biết rõ.
Khi thức dậy tôi chỉ có một mình. Cô gái đã biến mất, ghế xếp của cô vẫn kê sát vào ghế tôi. Chiếc khăn tắm, hộp thuốc lá và cuốn tạp chí vẫn nằm đấy, nhưng cốc và máy nghe nhạc thì không còn đó nữa.
Mặt trời đã bắt đầu lặn về phía Tây, bóng một cây sồi vắt ngang qua ngang đầu gối tôi. Đồng hồ của tôi chỉ 4 giờ 15. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Bãi cỏ rộng, cái hồ cạn, hàng rào, con chim bằng đá, cây xiêm gai vàng, cần ăngten tivi. Vẫn không thấy bóng dáng con mèo. Hay cô gái.
Vẫn ngồi trên ghế, tôi đưa mắt nhìn lối mèo đi, chờ cô gái quay lại. Mười phút trôi qua, nhưng cả mèo và cô gái vẫn biệt tăm. Chẳng có gì động đậy. Tôi cảm thấy như trong khi ngủ mình đã già khọm đi.
Tôi đứng dậy đi về phía căn nhà, nơi không có dấu hiệu sự sống. Kính cửa sổ phản chiếu ánh hoàng hôn. Tôi đành không đợi nữa, băng qua bãi cỏ về nhà. Vẫn chưa tìm thấy con mèo, nhưng tôi đã cố hết sức rồi.
Ở nhà, tôi thu quần áo phơi vào rồi chuẩn bị một bữa tối đơn giản. Điện thoại reo mười hai lần lúc 5 giờ 30, song tôi không trả lời. Ngay cả khi điện thoại đã ngừng reo, tiếng chuông vẫn còn reo trong bóng tối đang sẫm dần của căn phòng như những hạt bụi lơ lửng trong không khí. Bằng những cây kim có đầu mút cứng, đồng hồ để bàn gõ nhịp đều đều lên một chiếc bảng trong suốt trôi trong không trung.
Tao sao không viết một bài thơ về con chim vặn dây cót nhỉ? Ý nghĩ này làm tôi như sực tỉnh, song chẳng làm cách nào cho dòng đầu tiên nảy ra trong đầu được. Nhưng liệu các cô nữ sinh có thích một bài thơ viết về con chim vặn dây cót không?
* * *
Kumiko về nhà lúc 7 giờ 30 tối. Tháng rồi nàng ngày càng đi làm về muộn. Chẳng hiếm khi nàng về sau 8 giờ, thậm chí đôi khi sau 10 giờ. Nay thì đã có tôi ở nhà nấu ăn nên nàng chẳng phải vội về nhà nữa. Nàng bảo tòa soạn neo người quá, với lại gần đây một trong các đồng nghiệp của nàng xin nghỉ ốm.
- Xin lỗi nhé, - nàng nói. – Việc nhiều quá, mà con bé làm bán thời gian thì chả được tích sự gì.
Tôi xuống bếp nấu nướng: cá xốt bơ, xà lách, súp miso. Kumiko ngồi vào bàn bếp, làm động tác duỗi người.
- Lúc 5 rưỡi anh đi đâu? – nàng hỏi. – Em điện về báo là về muộn mà.
- Hết bơ, anh ra cửa hiệu mua. – tôi nói dối.
- Anh có ra ngân hàng không?
- Có.
- Còn con mèo?
- Không tìm thấy. Anh có đến chỗ căn nhà không người ở như em dặn, nhưng không có nó ở đó. Anh đánh cuộc là nó đã đi xa hơn nhiều.
Nàng chả nói gì.
Sau bữa tối, khi tôi tắm xong, Kumiko đang ngồi trong phòng khách, không mở đèn. Ngồi thu lu trong bóng tối, mặc áo sơ mi màu xám, nàng trông như một chiếc vali đặt không đúng chỗ.
Tôi vừa lau tóc bằng khăn tắm vừa ngồi xuống ghế sofa đối diện Kumiki.
Bằng giọng khẽ đến nỗi khó khăn lắm tôi mới nghe ra, nàng nói: - Em chắc là con mèo chết rồi.
- Nào, đừng ngốc thế, - tôi đáp. – Anh chắc là nó đang tung tăng vui vẻ đâu đó thôi. Khi nào đói thì nó sẽ mò về. Chuyện đó xảy ra một lần rồi, em nhớ chứ? Hồi mình sống ở Koenji ấy…
- Lần này khác, - nàng nói. – Lần này thì anh lầm. Em biết. Con mèo chết rồi. Nó đang thối rửa trong một bãi cỏ ở đâu đó. Anh có tìm trên bãi có quanh căn nhà không có người ở không?
- Không. Nhà không có người ở nhưng vẫn là nhà có chủ. Anh đâu có tự tiện xông vào được.
- Thế thì anh tìm ở đâu chứ? Em dám cá là anh không hề tìm thử. Chính vì vậy mà anh không tìm ra.
Tôi thở dài, lại lau tóc bằng chiếc khăn tắm. Tôi đã toan nói, nhưng lại thôi khi nhận thấy Kumiko khóc. Dễ hiểu thôi, nàng rất thương con mèo. Nó đã ở cùng chúng tôi ngay từ sau đám cưới. Tôi ném khăn tắm vào chiếc giỏ đựng đồ ướt trong buồng tắm rồi xuống bếp lấy một lon bia lạnh. Hôm nay thật là một ngày ngu ngốc. Một ngày ngu ngốc trong một tháng ngu ngốc của một năm ngu ngốc.
Wataya Noburu, mày ở đâu? Lẽ nào con chim vặn dây cót đã quên vặn dây cót cho mày?
Mấy câu này nảy ra trong đầu tôi như những dòng thơ.
Wataya Noburu
Mày ở đâu?
Lẽ nào con chim vặn dây cót
Đã quên vặn dây cót cho mày?
Tôi đang uống dở lon bia thì điện thoại lại reo.
- Em nghe máy nhé? – tôi thét vào bóng tối trong phòng khách
- Không, - Kumiko đáp. – Anh đi mà nghe.
- Anh không muốn.
Điện thoại vẫn reo, khuấy động những hạt bụi lơ lửng trong bóng tối. Không ai nói một lời. Tôi uống bia, còn Kumiko tiếp tục khóc lặng lẽ. Tôi đếm được hai mươi hồi chuông thì chịu thua. Đếm mãi cũng chẳng có ý nghĩa gì.
2
Trăng tròn và nhật thực
*
Về những con ngựa chết trong chuồng
Nói cho cùng, liệu người ta có hoàn toàn hiểu nhau không?
Chúng ta có thể đầu tư rất nhiều thời gian và công sức hòng hiểu được người khác, nhưng rốt cục chúng ta tiếp cận được tới đâu cái bản chất xấu xa của con người đó? Ta tự thuyết phục mình rằng ta biết rất rõ người kia, nhưng liệu ta có biết được điều gì hệ trọng về một ai đó không?
Tôi bắt đầu suy ngẫm những chuyện như vậy một cách nghiêm túc từ khoảng sau khi thôi việc ở công ty luật. Trước đó – suốt khoảng thời gian trước đó của tôi – tôi chưa bao giờ vật lộn với những câu hỏi như thế này. Tại sao nhỉ? Có lẽ vì đối với tôi, nội việc sống thôi, đã đủ lắm rồi. Đơn giản là tôi quá bận bịu nghĩ về bản thân mình.
Một sự kiện vặt vãnh đã là cú huých để tôi biết suy ngẫm, nhưng ở đời hầu hết những chuyện hệ trọng nhất đều bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt. Có một buổi sáng nọ, sau khi Kumiko nuốt vội cho xong bữa sáng để đi làm, tôi ném quần áo bẩn vào máy giặt, dọn giường, rửa bát và hút bụi sàn nhà. Sau đó, có con mèo bên cạnh, tôi ra ngoài hiên ngồi đọc các mục quảng cáo tuyển người và rao vặt mua bán. Đến trưa tôi ăn rồi ra siêu thị. Ở đó tôi mua thức ăn dành cho buổi tối rồi mua thuốc tẩy rửa, khăn giấy và giấy vệ sinh ở quầy giảm giá. Lại về nhà, sửa soạn bửa tối rồi nằm xuống ghế sofa đọc sách chờ Kumiko về.
Tôi vừa mới thất nghiệp nên cảm thấy sống kiểu này thật thoải mái. Không còn phải tất tả đi làm trên những toa xe điện ngầm lèn cứng như cá hộp, không còn phải gặp những người tôi không muốn gặp. Và hơn hết, tôi có thể đọc bất cứ cuốn sách nào mình thích, bất cứ lúc nào mình muốn. Tôi chả biết cái lối sống phong lưu này sẽ tiếp diễn bao lâu, nhưng ít nhất là lúc này, mới sau một tuần, tôi vẫn còn đang thích thú và cố không nghĩ đến tương lai. Đây là kì nghỉ hè lớn của đời tôi. Sẽ đến lúc nó chấm dứt, nhưng từ giờ tới đó tôi quyết tâm tận hưởng an nhàn.
Dù vậy, tối hôm đó tôi không thể đắm mình vào thú vui đọc sách vì Kumiko về muộn. Nàng không bao giờ về muộn quá sáu rưỡi, và nếu cho rằng mình sẽ về mua dù chỉ mười phút, nàng luôn báo cho tôi biết. Nhưng hôm đó là ngoại lệ. Mãi sau 7 giờ nàng vẫn chưa về, mà cũng không gọi điện. Thịt và rau đã sẵn sàng, chỉ đợi nàng về là tôi sẽ nấu ngay. Chẳng phải tôi định bày vẽ thịnh soạn gì: tôi sẽ chỉ xào mấy lát thịt bò, hành tây, ớt xanh, giá đỗ, thêm ít muối, tiêu, nước tương và một chút bia, đó là món tôi học được từ hồi còn độc thân. Cơm đã chín, xúp miso đương nóng, rau đã thái, xếp gọn từng chồng trên một cái đĩa to, sẵn sàng cho vào chảo. Chỉ còn thiếu mỗi Kumiko. Tôi khá đói nên đã nghĩ đến chuyện tự nấu phần mình rồi ăn trước, nhưng lại thôi. Làm vậy hình như không phải lắm.
Tôi ngồi ở bàn bếp, vừa nhấp bia vừa nhai mấy cái bánh quy xôđa nhão nhoét tìm được sau tủ bếp. Kim chỉ giờ của đồng hồ nhích tới vị trí bảy giờ rưỡi rồi chầm chậm bò qua.
Mãi sau 9 giờ Kumiko mới về. Nàng có vẻ mệt bã người. Mắt nàng đỏ ngầu, sưng húp: dấu hiệu không tốt. Mỗi khi mắt nàng đỏ là y như rằng có chuyện không hay.
- Được rồi, -tôi tự nhủ. - Cứ bình thản, đừng nói gì thừa, hãy tự nhiên, hãy làm như không có gì xảy ra. Đừng nổi nóng.
- Em xin lỗi, -Kumiko nói. – Cái công việc này thật chẳng ra sao cả. Em đã định gọi cho anh, nhưng chẳng lúc nào bỏ ra được.
- Không sao, chuyện vặt ấy mà. Đừng áy náy gì cả, - tôi cố nói bằng giọng càng bình thường càng tốt. Mà thật, tôi cũng chẳng thấy khó chịu gì cho lắm. Chuyện ấy từng xảy ra với tôi hàng bao nhiêu lần. Đi làm đâu có phải là việc nhẹ nhàng gì, đâu có phải an nhàn dễ chịu như ngắt đóa hoa hồng đẹp nhất trong vườn để tặng người bà bị ốm sống cách hai khu phố và nán lại suốt ngày ở bên bà. hễ đã đi làm, đôi khi ta phải làm những việc tê ngắt, phải gặp những người khó chịu, đã thế lại chẳng rãnh phút nào để gọi về nhà. Ba mươi giây là đủ để nói: “Hôm nay anh về muộn”, điện thoại thì đâu cũng có, thế mà vẫn không sao gọi được.
Tôi bắt đầu nấu nướng: bật bếp gas lên, rót dầu vào chảo. Kumiko lấy một chai bia trong tủ lạnh và một cái cốc trong chạn, nhìn qua những thứ tôi sắp nấu rồi lẳng lặng ngồi xuống bàn bếp. Xem vẻ mặt thì biết nàng uống bia mà chẳng thấy ngon lành gì.
- Đáng lẽ anh cứ ăn, đừng đợi em, - nàng nói.
- Chả sao cả. Anh cũng không đói lắm.
Trong khi tôi xào thịt và rau, Kumiko đi tắm. Tôi nghe tiếng nàng rửa mặt và đánh răng. Lát sau nàng ra khỏi buồng tắm, tay cầm cái gì đó. Ấy là giấy vệ sinh và khăn giấy tôi mua ở siêu thị.
- Anh mua cái thứ này làm gì? – nàng hỏi, giọng mệt mỏi.
Tay cầm chảo, tôi nhìn nàng. Rồi tôi nhìn xuống hộp khăn giấy và cuộn giấy vệ sinh. Tôi không hiểu nàng muốn nói gì.
- Ý em là sao? Thì khăn giấy và giấy vệ sinh thôi mà. Mình cần chứ. Thật ra mấy thứ này ở nhà vẫn còn, nhưng có mua thêm thì để lâu một chút chúng cũng có mục ra đâu.
- Dĩ nhiên là không. Nhưng việc gì anh phải mua khăn giấy màu xanh dương và giấy vệ sinh in hoa ?
- Anh không hiểu, - tôi nói, cố trấn tĩnh. - Mấy thứ này bán hạ giá. Khăn giấy xanh có làm mũi em xanh lè ra đâu. Có gì to tát cơ chứ ?
- Có. Em ghét khăn giấy xanh và giấy vệ sinh in hoa. Anh không biết à ?
- Không, anh không biết. – tôi nói. – Sao em lại ghét ?
- Làm sao em biết được tại sao em ghét ? Em không chịu được, có thế thôi. Anh thì ghét khăn phủ điện thoại, ghét mấy cái chai giữ nhiệt có trang trí hoa, ghét quần bò rách te tua có cúc bấm, ghét em làm móng tay. Anh cũng có nói được tại sao đâu. Đó là ý thích của mỗi người.
Thực ra tôi có thể giải thích lý do tất cả những chuyện nàng vừa kể nhưng dĩ nhiên tôi chẳng giải thích gì.
- Thôi được, - tôi nói. - Cứ cho đó là ý thích mỗi người. Nhưng liệu em có thể bảo anh rằng suốt sáu năm kể từ ngày mình lấy nhau chưa một lần nào em mua khăn giấy màu xanh hay giấy vệ sinh có in hoa không?
- Không bao giờ. Không một lần nào.
- Thật chứ ?
- Thật. Khăn giấy của em chỉ màu trắng, vàng hay hồng thôi. Và em không bao giờ mua giấy vệ sinh có vẽ này vẽ nọ. Em thật sự bị sốc vì anh đã sống với em suốt thời gian qua mà lại không biết chuyện ấy.
Bản thân tôi cũng bị sốc khi nhận ra rằng suốt sáu năm qua tôi chưa một lần nào dùng khăn giấy màu xanh hay giấy vệ sinh có vẽ hình.
- Và hễ đã nói thì để em nói nốt, - nàng tiếp. – Em ghét cay ghét đắng món thịt bò rán với ớt xanh. Chuyện ấy anh không biết à ?
- Không, anh không biết. – tôi đáp.
- Phải, em ghét cay ghét đắng. Anh cũng đừng hỏi tại sao. Đơn giản là em không chịu nổi mùi của hai thứ nấu trong cùng một chảo.
- Em muốn nói là suốt sáu năm qua chưa một lần nào em nấu thịt bò với ớt xanh ?
Nàng lắc đầu. - Ớ xanh làm rau trộn thì em ăn. Em rán thịt bò với hành. Nhưng em chưa bao giờ nấu thịt bò chung với ớt xanh cả.
Tôi thở dài.
- Anh chả bao giờ thấy chuyện đó là lạ sao ? – nàng hỏi.
- Thấy lạ á ? Anh chưa bao giờ nhận ra điều đó, - tôi vừa nói vừa ngẫm nghĩ một chút: chẳng lẽ suốt từ khi lấy vợ tôi chưa bao giờ ăn món nào vừa có thịt bò vừa có ớt xanh. Dĩ nhiên là tôi không nhớ nổi.
- Anh sống với em ngần ấy năm nhưng có mấy khi quan tâm tới em. Anh chỉ quan tâm tới bản thân mình thôi.
- Khoan đã nào, - tôi vừa nói vừa tắt bếp và đặt chảo lên mặt bếp. – Mình không nên lạc đề. Có thể em nói đúng. Có thể anh đã không quan tâm đầy đủ tới những chuyện như khăn giấy hay giấy vệ sinh hay thịt bò và ớt xanh. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh chẳng quan tâm gì đến em. Anh cóc cần biết khăn giấy anh dùng có màu gì. Nếu màu đen thì, ờ, chắc cũng hơi rợn một tí, nhưng trắng hay xanh... với anh có khác gì nhau đâu. Thịt bò với ớt xanh cũng vậy. Nấu riêng, nấu chung, việc gì tới anh chứ ? Món thịt bò xào với ớt xanh cò hoàn toàn biến khỏi trái đất này thì anh cũng chẳng quan tâm. Nó chẳng liên quan gì đến em, đến những gì là tinh tuý của em. Anh nói thế không đúng sao ?
Thay vì trả lời, nàng nốc hai ngụm hế cốc bia rồi nhìn chăm chăm vào cái chai rỗng.
Tôi trút các thứ trong chảo vào thùng rác. Này thì thịt bò, này thì ớt xanh, hành tây, giá đỗ. Lạ thật: mới đây là đồ ăn, nhoáng cái đã thành rác. Tôi mở một chai bia rồi nốc từ cổ chai.
- Sao anh làm vậy ?
- Em ghét món này lắm mà.
- Nhưng lẽ ra anh có thể ăn chứ.
- Tự nhiên anh không thích thịt bò xào ớt xanh nữa.
- Tuỳ anh thôi, - nàng nhún vai.
Nàng khoanh hai tay lên bàn rồi úp mặt vào, ngồi như vậy một hồi lâu. Rõ là nàng không khóc cũng chẳng ngủ. Tôi nhìn cái chảo rỗng trên bếp, nhìn Kumiko rồi nốc cạn cốc bia. Điên rồ quá. Việc gì phải ầm ĩ về chuyện khăn giấy, giấy vệ sinh và ớt xanh cơ chứ?
Tôi lại gần vợ, đặt tay lên vai nàng.
- Thôi được, - tôi nói. – Anh hiểu rồi. Anh sẽ không bao giờ mua khăn giấy xanh hay giấy vệ sinh in hoa nữa. Mai anh sẽ mang trả lại siêu thị và đổi hàng khác. Nếu họ không chịu đổi, anh sẽ đốt ở ngoài sân. Anh sẽ ném tro xuống biển. Cũng sẽ không bao giờ có món thịt bò và ớt xanh nữa. Không bao giờ nữa. chẳng mấy chốc mùi cũng sẽ bay đi, và chúng mình cũng sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện này nữa. Đồng ý nhé ?
Nhưng nàng vẫn chẳng nói gì. Tôi ước gì có thể ra ngoài đi dạo chừng một giờ, trở về thì thấy nàng đã vui vẻ lại, nhưng tôi biết chuyện đó sẽ không xảy ra đâu.Tôi phải tự giải quyết chuyện này thôi.
- Nghe này, em mệt rồi, - tôi nói. – Nghỉ một chút đi, rồi chúng mình đi đâu đó ăn pizza . Lần cuối mình ăn pizza là khi nào nhỉ ? Ăn với cá trồng và hành. Mình sẽ gọi một suất chia đôi. Lâu lâu tự cho phép mình ra ngoài ăn hàng một lần thì cũng có sao đâu.
Vẫn không ăn thua. Nàng vẫn gục mặt xuống hai cánh tay.
Tôi chẳng biết nói gì nữa. Tôi ngồi xuống nhìn nàng từ phía bên kia bàn. Một tai nàng lộ ra qua mái tóc đen cắt ngắn. Nó có đeo một chiếc hoa tai mà tôi chưa bao giờ thấy, một cái hoa tai nhỏ bằng vàng hình con cá. Nàng mua ở đâu ra cái của này vậy ? Tôi muốn hút thuốc. Tôi hình dung mình rút gói thuốc và bật lửa ra khỏi túi quần, lấy một điếu đút vào mồm, châm lửa. Tôi hít vào một hơi đầy phổi và đột nhiên cảm thấy cái mùi gắt của thịt bò xào rau. Tôi đói cồn cào cả ruột gan.
Mắt tôi bắt gặp tấm lịch trên tường. Tấm lịch này cho biết các tuần trăng. Sắp đến tuần trăng tròn. Ừ thì dĩ nhiên: sắp đến kỳ kinh nguyệt của Kumiko.
Chỉ từ khi thành người có vợ tôi mới thật sự ngộ ra rằng mình là một công dân của Trái đất, hành tinh thứ ba trong hệ mặt trời. Tôi sống trên trái đất, trái đất quay quanh mặt trời, và quay quanh trái đất là mặt trăng. Dù ta có muốn hay không, điều đó sẽ tiếp diễn vĩnh viễn (hay ít nhất cái gọi là vĩnh viễn khi so sánh với cuộc đời tôi). Điều đã khiến tôi đâm ra nhìn sự vật theo cách đó chính là chu kỳ kinh nguyệt tuyệt đối chính xác của vợ tôi, hai mươi chín ngày, lại trùng khớp hoàn toàn với chu kỳ trăng khuyết trăng tròn. Những ngày có kinh của Kumiko luôn thật khổ sở. Từ mấy ngày trước đó nàng đã trở nên bất an, thậm chí trầm uất. Vì vậy chu kỳ của nàng cũng trở thành chu kỳ của tôi, mặc dù nó chỉ liên quan với tôi một cách gián tiếp. Tôi phải cẩn thận không gây những phiền phức không cần thiết vào những ngày đó trong mỗi tháng. Trước khi chúng tôi lấy nhau, tôi chả mấy khi nhận thấy chu kỳ của mặt trăng. Nó có thể lọt vào mắt tôi khi tôi nhìn lên bầu trời, nhưng tôi không hề bận tâm đến hình dạng của nó vào lúc này hay lúc khác. Nay thì tôi luôn luôn để ý theo dõi hình dáng của mặt trăng.
Tôi từng gần gũi vài phụ nữ trước khi gặp Kumiko, dĩ nhiên mỗi người đều có kỳ kinh nguyệt riêng. Ở vài người kỳ kinh nguyệt diễn ra rất nhọc nhằn, vài người khác thì nhẹ không, có người chỉ ba ngày là xong, người khác phải một tuần; có người đều đặn, có người lại muộn những 10 ngày khiến tôi sợ chết khiếp; người này khi có kinh thì đâm bẳn tính, người khác hầu như không bị ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, trước khi cưới Kumiko, tôi chưa hề sống với một phụ nữ nào. Cho tới khi đó, vòng tuần hoàn của tự nhiên đối với tôi chỉ có nghĩa là bốn mùa thay đổi. Mùa đông tôi mặc áo khoác, mùa hè tôi đi dép lê. Từ khi lấy vợ, tôi không chỉ có một người chung sống mà còn có thêm một ý niệm mới về tính tuần hoàn: chu kỳ của mặt trăng. Chỉ có một lần nàng bị rối loạn kinh nguyệt trong vòng vài tháng; đó là khi nàng có thai.
- Em xin lỗi, - nàng ngẩng lên nói. – Em không có ý trút hết mọi chuyện lên đầu anh. Em mệt quá, với lại tâm trạng không thoải mái.
- Không sao đâu, - tôi nói. – Đừng nghĩ ngợi gì cả. Mỗi khi mệt mỏi thì cũng nên xả vào một ai đó. Rồi em sẽ thấy dễ chịu hơn.
Kumiko chầm chậm hít vào một hơi dài, nén lại một lát rồi thở ra.
- Còn anh? – nàng hỏi.
- Thì sao là thế nào?
- Mỗi khi anh mệt, anh chẳng bao giờ xả vào ai cả. Còn em thì có, tại sao vậy ?
- Anh chẳng bao giờ nhận ra điều ấy, - tôi lắc đầu. – Lạ thật.
- Chắc là bên trong anh có một cái giếng sâu, anh hét xuống giếng : « Nhà vua có tai lừa ! », thế là mọi chuyện ổn cả.
Tôi nghĩ một chút.
- Có thể, - tôi đáp.
Kumiko lại nhìn cái chai rỗng . Nàng nhìn chăm chăm vào nhãn chai, sau đó nhìn cổ chai, rồi xoay xoay cổ chai trong mấy ngón tay.
- Em xắp có kinh, - nàng nói. – Có lẽ vì vậy mà em khó chịu.
- Anh biết. Đừng lo nghĩ về chuyện đó. Em không phải là kẻ duy nhất đâu. Hàng lô ngựa cũng chết vào đêm trăng tròn đấy.
Nàng nhấc tay khỏi chai, há hốc mồm nhìn tôi.
- Này, sao tự dưng anh lôi chuyện ngựa nghẽo gì đó ra đây thế ?
- Hôm nọ anh đọc trong báo mà. Anh đã định kể cho em nghe nhưng quên mất. Đấy là bài phỏng vấn một bác sỹ thú y. Hóa ra, ngựa là loài bị ảnh hưởng ghê gớm bởi chu kỳ của mặt trăng, cả về thể chất lẫn tâm lý. Mỗi khi sắp đến kỳ trăng tròn, dao động não của chúng trở nên tán loạn, chúng lại còn bị đủ thứ triệu chứng khó ở. Thế rồi, vào đúng đêm trăng tròn, nhiều con ngã bệnh, nhiều con nữa lăn ra chết. Không ai biết vì sao, nhưng số liệu thống kê chứng minh là chuyện đó có. Váo các đêm trăng tròn, bác sỹ thú ý chẳng có thì giờ đâu mà ngủ vì nhiều việc quá.
- Thú vị nhỉ, - Kumiko nói.
- Nhưng nhật thực lại càng tệ hơn. Chẳng thiếu gì thảm kịch cho lũ ngựa. Em không thể hình dung số ngựa chết vào ngày nhật thực toàn phần đâu. Dù sao đi nữa, điều anh muốn nói là ngay lúc này đây, ngựa đang chết ở khắp nơi trên thế giới. So với chuyện đó thì chuyện em trút nỗi bực dọc lên người khác chẳng có gì là ghê gớm cả. Vì vậy đừng bận tâm làm gì. Hãy nghĩ về lũ ngựa bất hạnh kia. Hãy hình dung chúng nằm trên ổ rơm chuồng ngựa dưới ánh trăng tròn, sùi bọt mép, mồm ngáp ngáp trong cơn hấp hối.
Nàng có vẻ nghĩ ngợi một chút về những con ngựa đang chết trong chuồng.
- Thôi được, - nàng nói với giọng nhượng bộ. – Em phải thừa nhận là anh có thể thuyết phục bất cứ ai về bất cứ chuyện gì.
- Vậy em thay đồ đi, rồi mình đi ăn pizza.
Đêm đó, nằm bên Kumiko trong căn phòng ngủ tắt đèn, tôi nhìn lên trần nhà và tự hỏi mình thực sự biết những gì về người phụ nữ này. Đồng hồ chỉ 2 giờ sáng. Nàng đang ngủ say. Trong bóng tối, tôi nghĩ về nhựng cái khăn giấy màu xanh dương và giấy vệ sinh in hoa, về thịt bò và ớt xanh. Tôi đã sống với nàng suốt thời gian qua mà không hề biết nàng ghét những thứ đó đến nhường nào. Tự thân chúng chẳng có gì quan trọng hết. Thật ngu xuẩn. Lẽ ra phải cười xòa rồi quên đi, đừng nên chuyện bé xé to. Toàn những điều vặt vãnh , chỉ hai ba hôm là ta sẽ quên béng đi ngay.
Nhưng chuyện này thì khác. Có cái gì đó mới mẻ, không bình thường, nó làm tôi bứt rứt như một mẩu xương cá hóc trong cuống họng. Có thể - chỉ là có thể thôi- chuyện này quan trọng hơn tôi tưởng nhiều. Hoàn toàn có thể là một cái gì đó thật nguy hại. Hay thậm chí đây chỉ mới là khởi đầu cho một cái gì đó thật sự nghiêm trọng và bi thảm. Có thể tôi đang đứng trước ngưỡng cửa một cái gì đó lớn lao mà trong đó là một thế giới chỉ thuộc về Kumiko thôi, một thế giới mênh mông mà tôi chưa hề biết. Tôi thấy nó như một căn phòng rộng, tối tăm. Tôi đứng đó tay cầm một cái bật lửa, ngọn lửa bé tí của nó chỉ soi cho tôi thấy một phần rất nhỏ của căn phòng.
Liệu có thể nào tôi nhìn thấy phần còn lại không? Hay là cho đến già, đến khi xuống lỗ tôi vẫn chẳng bao giờ thực sự biết được vợ mình? Nếu quả thật đời tôi sẽ thế thì cái cuộc sống vợ chồng này có ý nghĩa gì cơ chứ? Cuộc đời tôi có ý nghĩa gì nếu suốt đời tôi ngủ chung giường với một người đàn bà xa lạ vẫn hoàn xa lạ.
* * *
Đó là những gì mà suốt đêm đó tôi nghĩ miên man và sau đó thỉnh thoảng vẫn tiếp tục miên man nghĩ. Chỉ rất lâu sau tôi mới vỡ ra rằng mình đã tìm được đường đến tận cốt lõi vấn đề.
3
Cái mũ của Kano Malta
*
Màu kem quả, Allen Ginsberg và các hiệp sĩ Thập tự chinh
Tôi đang làm bữa trưa thì điện thoại reo. Tôi vừa cắt hai lát bánh mì, phết bơ và mù tạc, kẹp mấy lát cà chua và phó mát vào giữa, đặt cả lên thớt và đang sắp sửa dùng dao cắt làm đôi thì chuông điện thoại vang lên.
Tôi để điện thoại reo ba tiếng rồi mới cắt chiếc sandwich làm đôi. Sau đó tôi đặt hai nửa bánh vào đĩa, lau sạch dao, đặt vào ngăn để dao, rồi rót một cốc cà phê vừa mới đun.
Điện thoại vừa reo. Dễ đến mười lăm lần. Tôi chịu thua, đành ra nghe máy. Tôi chẳng thích trả lời, nhưng nhỡ người gọi là Kumiko thì sao.
- Alô, - ở đầu dây bên kia là giọng một phụ nữ mà tôi chưa hề nghe. Không phải giọng Kumiko, cũng không phải giọng người đàn bà lạ đã gọi tôi hôm nọ khi tôi đang nấu dở món spaghetti. – Chẳng hay có phải tôi đang nói chuyện với ông Toru Okada không ạ? – giọng kia nói, như thể chủ nhân của nó đang đọc thành tiếng một văn bản đã soạn sẵn.
- Đúng rồi, - tôi đáp.
- Ông là chồng của Okada Kumiko phải không ạ?
- Đúng, Okada Kumoko là vợ tôi?
- Và anh trai của bà Okada là Wataya Noburu?
- Lại đúng nữa, - tôi nói, tỏ ra tự chủ đến đáng khâm phục. – Wataya Noburu là anh trai của vợ tôi.
- Thưa ông, tôi tên là Kano.
Tôi đợi cô ta nói tiếp. Việc cô ta bất ngờ nhắc tới anh trai của Kumiko khiến tôi phải cảnh giác. Tôi lấy cái đầu cùn của cây bút chì đặt cạnh điện thoại mà gãi sau cổ. Năm giây hay hơn thế trôi qua, người đàn bà im lặng. Hoàn toàn không có âm thanh gì phát ra từ ống nghe, như thể người đàn bà kia đã lấy khăn tay bịt ống nói để nói chuyện với người bên cạnh.
- Alô, - tôi nói, giờ đã hơi bồn chồn
- Xin ông thứ lỗi, - giọng nói lại bật lên. – Trong trường hợp đó tôi xin phép được gọi lại ông sau.
- Này, đợi đã, - tôi nói. – Đây là…
Ngay khi đó cô ta gác máy. Tôi nhìn cái ống nghe, rồi lại áp vào tai. Chẳng nghi ngờ gì nữa: người đàn bà đã gác máy.
Cảm thấy bất mãn một cách mơ hồ, tôi trở lại bàn bếp uống cà phê, ăn bánh sandwich. Trước khi điện thoại reo tôi đang nghĩ về chuyện gì đó, nhưng giờ thì chịu không nhớ nỗi là chuyện gì. Ban nãy khi cầm dao sắp sửa cắt bánh làm đôi, nhất định là tôi đang nghĩ về một điều gì đó. Một điều rất quan trọng. Một điều mà đã bao lâu nay tôi cố nhớ nhưng hoài công. Nó đã nảy ra trong đầu tôi đúng vào khoảnh khắc tôi sắp cắt bánh làm đôi, nhưng giờ nó đã lại biến mất. Tôi vừa nhai sandwich vừa ra sức khơi lại điều đó, nhưng vô ích. Nó đã quay về vùng âm u trong ký ức tôi, nơi nó vẫn hằng nằm yên cho đến khoảnh khắc đó.
* * *
Tôi vừa ăn xong và đang rửa bát thì điện thoại lại reo. Lần này tôi nhấc máy ngay.
Một lần nữa tôi lại nghe giọng nữ nói “Alô”, nhưng lần này là Kumiko.
- Anh sao rồi?, - nàng hỏi. – Ăn trưa chưa?
- Rồi. Em thì ăn gì?
- Chẳng ăn gì cả, - nàng đáp. – Bận túi bụi. Chắc em sẽ mua sandwich sau vậy. Anh ăn gì?
Tôi mô tả cái sandwich của mình.
- Hiểu rồi, - nàng nói, không một chút ghen tị. – À, tiện thể, có chuyện này suýt nữa em quên bảo anh sáng nay. Hôm nay sẽ có mộ cô Kano nào đó gọi điện cho anh.
- Cô ta gọi rồi, - tôi nói. – Vừa gọi xong. Cô ta chỉ toàn kể tên nhà mình – tên anh, tên em, tên ông anh trai em. Chẳng nói cô ta muốn gì. Thế là thế nào vậy?
- Cô ta gác máy à?
- Bảo là sẽ gọi lại.
- Nghe này! Khi nào cô ta gọi lại, em muốn anh làm tất cả những gì cô ta bảo. Điều này thật sự quan trọng đấy. Em nghĩ là anh sẽ phải đi gặp cô ta.
- Khi nào? Hôm nay à?
- Thì đã sao? Anh đã có kế hoạch làm gì đó à? Anh sắp phải gặp ai sao?
- Không. Chẳng có kế họach nào hết. – Hôm qua không, hôm nay không, ngày mai không; hoàn toàn không có kế hoạch gì. – Nhưng cái nhà cô Kano này là ai? Cô ta muốn gì ở anh chứ? Anh muốn biết đôi điều trước khi cô ta gọi lại. Nhưng nếu đây là chuyện việc làm của anh mà lại dính dáng tới ông anh của em thì quên đi. Anh không muốn dây và anh ta. Em biết mà.
- Không, ở đây chẳng liên quan gì đến việc làm cả, - nàng nói, thoáng chút bực bội. – Là về con mèo.
- Con mèo?
- Xin lỗi, em phải chạy đi đây. Có người đang đợi em. Lẽ ra em không nên gọi điện cho anh vào giờ này. Em đã nói mà: thậm chí chẳng có lúc nào mà ăn nữa. Khi nào rỗi em sẽ gọi lại ngay cho anh.
- Khoan đã nào, anh biết em rất bận, nhưng em phải giải thích một chút chứ, đừng làm anh rối tung lên chẳng hiều đầu cua tai nheo gì cả. Mèo là thế nào? Cái cô Kano này là…
- Cô ta bảo anh làm gì thì anh cứ làm, nhé? Hiểu không nào? Chuyện này hệ trọng đấy. Anh cứ ở nhà đợi cô ta gọi. Thôi em đi đây.
Nàng gác máy.
* * *
Khi điện thoại reo lúc 2 giờ rưỡi, tôi đang ngủ trên sofa. Thoạt tiên tôi nghĩ là đồng hồ báo thức. Tôi với tay bấm nút tắt, nhưng đồng hồ không có đó. Tôi không nằm trên giường mà trên sofa, và bây giờ không phải buổi sáng mà là xế trưa. Tôi dậy đi ra chỗ điện thoại.
- Alô? – tôi nói.
- Alô, - một giọng nữ nói. Đó là người đã gọi lúc sáng. – Ông Okada Toru phải không ạ?
- Vâng, tôi đây, Okada Toru.
- Thưa ông, tên tôi là Kano, - cô ta nói.
- Cô vừa mới gọi đây phải không?
- Vâng. Tôi em rằng mình đã quá ư thất lễ. Nhưng thưa ông Okada, xin ông cho biết liệu chiều nay ông có rãnh không?
- Chắc là rảnh.
- Nếu vậy, tôi biết thế này quả thật là đường đột, nhưng liệu chúng ta có thể gặp nhau không?
- Khi nào? Hôm nay? Ngay bây giờ sao?
- Vâng.
Tôi nhìn đồng hồ. Thực ra thì chẳng cần nhìn – cách đây nửa phút tôi vừa nhìn đồng hồ xong – mà chỉ để cho chắc. Vẫn đang 2 giờ rưỡi.
- Có lâu không?
- Chắc không lâu lắm đâu. Tuy nhiên tôi có thể lầm. Ngay lúc này tôi không thể nói hoàn toàn chính xác được. Xin ông thứ lỗi cho.
Dù là thế nào đi nữa, tôi cũng không có cách nào khác. Kumiko đã bảo tôi phải làm theo lời người đàn bà này, bởi chuyện rất hệ trọng. Một khi nàng đã nói là hệ trọng thì đúng là hệ trọng, và tốt nhất là tôi nên làm theo.
- Tôi hiểu, - tôi đáp. – Ta nên gặp nhau ở đâu?
- Chẳng hay ông có biết khách sạn Pacific bên cạnh ga Shinagawa không?
- Có.
- Có một tiệm cà phê ở tầng một. Tôi sẽ đợi ông ở đó lúc 4 giờ. Thế có tiện cho ông không ạ?
- Được, - tôi nói.
- Tôi ba mươi mốt tuổi, tôi sẽ đội mũ bằng vải vinyl màu đỏ.
Thật lạ lùng. Có cái gì đó kì quặc trong cách nói năng của người đàn bà này, nó khiến tôi bối rối một lát.. Nhưng tôi không thể lý giải có gì khác thường trong lời lẽ của cô ta. Cũng chẳn có luật nào cấm phụ nữ ba mươi mốt tuổi đội nón vinyl màu đỏ cả.
- Tôi hiểu, tôi sẽ nhận ra cô.
- Thưa ông Okada, ông có thể vui lòng cho tôi biết ông cónhững nét bề ngoài nào nổi bật dễ nhận diện không?
Tôi cố nghĩ xem mình có thể có những “nét bề ngoài nổi bật” nào. Mình có không nhỉ?
- Tôi ba mươi tuổi. Tôi cao 1,72 mét, nặng 63 cân, tóc cắt ngắn, không đeo kính. – Trong khi liệt kê mấy nét trên, tôi nhận ra rằng vị tất đó là những đặc điểm bề ngoài dễ nhận diện. Có thể có tới năm chục người đàn ông như vậy trong quán cà phê ở khách sạn Pacific. Tôi từng tới đó rồi, quán cà phê rộng mênh mông. Phải là nét gì nổi bật hơn thì cô ta mới nhận ra được. Nhưng tôi chẳng nghĩ được gì cả. Nói thế không có nghĩa là tôi chả có nét gì nổi bật. Tôi có một bàn Sketchy of Spain của Mils Davis có chữ ký của tác giả. Tôi có nhịp tim rất chậm: bình thường bốn mươi bảy, khi nào lên cơn sốt cũng không quá bảy mươi. Tôi vừa thất nghiệp. Tôi thuộc tên tất thảy anh em trong nhà Karamazov. Nhưng chẳng có nét nào trong số đó là nét bên ngoài cả.
- Ông sẽ ăn mặc thế nào? – cô ta hỏi.
- Tôi không biết. Tôi chưa quyết định. Chuyện này đột ngột quá.
- Thế thì xin ông hãy mang cà vạt chấm hạt đỗ, - cô ta nói với vẻ quyết đoán. _ Liệu ông có chiếc cà vạt chấm hạt đỗ nào không?
- Chắc là có, - tôi nói. Tôi có một cái cà vạt xanh kiểu lính thuỷ có những hạt đỗ li ti màu kem. Đó là quà sinh nhật của Kumiko tặng tôi vài năm trước.
- Vậy xin ông hãy mang cái cà vạt ấy, - cô ta nói. – cám ơn ông đã đồng ý gặp tôi lúc 4 giờ. - Rồi cô ta gác máy.
* * *
Tôi mở tủ tìm cái cà vạt chấm hạt đỗ. Không thấy trên giá treo cà vạt. Tôi lục tất cả các hộc. Tôi tìm trong mấy cái hộp đựng quần áo. Cái cà vạt chấm hạt đỗ chẳng thấy đâu. Không thể có chuyện cái cà vạt vẫn đang ở trong nhà mà tôi không thể tìm ra. Kumiko là người rất kỹ tính, với nàng quần áo trong tủ luôn phải ngăn nắp đâu ra đó, nên cái cà vạt không thể ở đâu khác ngoài nơi từ trước đến nay vẫn dùng để cất nó. thực vậy, tôi thấy mọi thứ - cả quần áo của nàng và của tôi - đều rất chỉn chu. Các sơ mi của tôi xếp gọn trong hộp dành cho chúng. Các áolen của tôi nằm trong mấy cái hộp lèn chặt băng ohiến đến nỗi vừa mở nắp ra là mắt tôi đã cay xè. Một hộp đựng các thứ quần áo nàng mặc hồi còn đi học : một bộ đồng phục kiểu lính thuỷ, một bộ váy áo mini kẻ hoa, những bức ảnh ưa thích trong một album cũ. Giữ lại những thứ này để làm gì chứ ? Có lẽ nàng vẫn mang chúng theo chỉ vì chưa tìm được cơ hội để tống khứ đi. Hoặc có thể nàng định gửi chúng sang Bangladesh. hoặc một ngày nào đó sẽ đem bán như là vật phẩm văn hóa. Nói gì thì nói, chẳng kiếm đâu ra cái cà vạt chấm hạt đỗ của tôi.
Tì tay lên cửa tủ, tôi cố nhớ lại lần cuối cùng mình đeo cái cà vạt là khi nào. Nó là một cái cà vạt khá sành điệu, rất có gu, chỉ có điều mang đi làm thì hơi điệu quá. Nếu tôi mang nó tới cơ quan thì ắt hẳn trong bữa ăn trưa sẽ có người lại gần trầm trồ náo màu sắc tuyệ đẹp, nào hình dáng tinh tế. Mà đấy chính là một kiểu cảnh cáo. Ở công ty tôi làm trước đây, được khen về cà vạt mình đeo thì chẳng hay ho gì. Vì vậy tôi chẳng bao giờ đeo cái cà vạt chấm hạt đỗ đi làm cả. Tôi chỉ đeo nó trong những dịp riêng tư và tương đối trang trọng, chẳng hạn nghe hòa nhạc hoặc ăn tối trong một nhà hàng có hạng, nghĩa là những hôm nào Kumiko bảo « Hôm nay em muốn vợ chồng mình ăn mặc lịch sự » (thật ra những dịp như thế không có nhiều). Cái cà vạt ấy đi với chiếc áo sơ mi màu xanh thẫm của tôi rất hợp, và Kumiko rất thích. Thế nhưng tôi vẫn không nhớ nổi lần cuối mình đeo nó là khi nào.
Tôi kiểm lại lần nữa tất cả mọi thứ trong tủ quần áo rồi chịu thua. Vì lý do nào đó, cái cà vạt chấm hạt đỗ đã không cánh mà bay. Thôi vậy. Đành phải mặc bộ comple xanh thẫm, sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc. Chẳng sao cả. Cô ta có thể không nhận ra tôi, nhưng tôi thì chỉ cần tìm người đàn bà nào trạc ba mươi tuổi đội mũ bằng vải vinyl màu đỏ.
Vận quần áo đâu đấy xong, tôi ngồi lên ghế sofa nhìn chăm chăm vào tường. lần cuối tôi vận bộ comple đã lâu lắm rồi. Bình thường ra, mùa này mà mặc bộ comple xanh thẫm này có thể là quá nặng, nhưng hôm ấy trời lất phất mưa, lại còn se lạnh nữa. Đó chính là bộ comple tôi đã mặc vào hôm cuối cùng đi làm (dạo tháng Tư). Chợt tôi nhận ra có cái gì đó ở một trong các túi. Trong túi ngực tôi tìm thấy một cái biên lai đề ngày từ mùa thu trước. Nó là một cái biên lai taxi, loại mà trước kia tôi hay mang về cơ quan làm thủ tục thanh toán lại. Giờ thì muộn quá rồi. Tôi vò mảnh biên lai vứt vào sọt rác.
Từ lúc thôi việc cách đây hai tháng, tôi chưa lần nào mặc lại bộ com lê này. Giờ đây, sau ngần ấy thời gian mới mặc lại, tôi cảm như thân thể mình biến thành một chất liệu khác. Nó nặng trịch, thô cứng, dường như không khớp với đường viền thân thể tôi. Tôi đứng dậy đi tới đi lui trong phòng, đứng lại trước gương, kéo thẳng tay áo và vạt áo để bô com lê ôm khít người hơn. Tôi duỗi thẳng hai tay, hít mộ hơi dài rồi gập người xuống ngang thắt lưng đặng kiểm tra xem dáng người tôi có thay đổi không trong hai tháng vừa qua. Tôi lại ngồi xuống sofa, nhưng vẫn thấy bứt rứt bất an như trước.
Mãi đến mùa xuân vừa rồi, ngày nào tôi cũng mặt com lê đi làm mà không hề cảm thấy nó là cái gì lạ lẫm. Công ty tôi có quy định tương đối khắt khe về chuyện ăn mặc, họ yêu cầu ngay cả những nhân viên hạng tép riu như tôi cũng phải mặc com lê. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì về điều đó cả.
Tuy nhiên, lúc này đây, mặc bộ com lê mà ngồi trên sofa, tôi có cảm giác mình đang thực hiện một hành vi vô đạo, kiểu như làm sơ yếu lích lịch giả hay cải trang thành phụ nữ. Có cái gì đó rất gần với mặc cảm có tội tràn ngập trong lòng khiến tôi càng lúc càng khó thở.
Tôi bước ra phòng ngoài, lấy đôi giày màu nâu ra khỏi giá, dùng cái bót đi giày để xỏ chân vào. Bề mặt đôi giày phủ một lớp bụi mỏng.