Đi ăn tối ngoài tiệm là một điều thú vị phải không các bạn? Người ta nấu nướng mọi thứ cho bạn, dọn lên trên bàn cho bạn thưởng thức...và rồi sau đó còn dọn dẹp, rửa chén cho bạn nửa chứ...Đã thì thôị..Tất cả những điều bạn phải làm chỉ là nhai, nuốt và sau cùng là trả tiền. Nhưng thưa các bạn...những điều tôi vừa kể trên đã cuốn theo chiều gió hết rồi...Và đây là câu chuyện của tôi...
Một chiều cuối tuần nọ, sau khi lãnh pay check, tôi bèn quyết định một cách hạnh phúc là thay vì nấu ăn ở nhà như thường lệ, tôi sẽ rủ cô bạn gaí đi ăn tối ngoài tiệm. Xin thưa với các bạn đó là lần đầu tiên tôi đi ăn ntoài tiệm. Khi tôi đến tiệm ăn thì trời ơi... tôi có cái cảm tưởng như là đang lạc vào bát quái trận đô ìcủa Hoàng Dược Sư trên Đào Hoa Đảọ..Người hầu bàn, ăn mặc còn sang trọng hơn tôi nũa, chào đón tôi:
"Xin chào quí khách, 2 người phải không ạ?" Tôi hảnh diện đáp:
"Vâng , 2 người ." Anh ta hỏi tiếp
"Hút thuốc hay không hút thuốc?
Tôi trả lời ra vẻ như không bao giờ hút thuốc:
"Không, tôi không hút thuốc." Người hầu bàn tiếp tục hỏi:
"Ngài thích ngồi ở khu vực trong nhà hay ngoài trời ?" Tôi trả lời như là mình có một quyết định đúng đắn:
"Tôi thích ngồi ở trong hơn là ra ngoàị" Anh ta phụ họa:
"Đúng đấy, thưa ngàị" Vàhỏi tiếp:
"Ngài thích ngồi ở phòng ăn chính, ở bao lơn có mái che hay là trong khu nhà kiếng chan hòa ánh nắng của chúng tôỉ"
Đến đây thì tôi hơi lúng túng:
"Hmm...để coi.." Anh ta đề nghị:
"Tôi có thể sắp cho Ngài ngồi ở khu nhà kiếng với phong cảnh tuyệt vời"
Tôi hưởng ứng và đi theo anh ta:
"Tôi nghĩ anh nói đúng đấỵ" Anh ta lại hỏi tiếp:
"Bây giờ Ngài thích nhìn ra sân golf hay muốn nhìn cảnh mặt trời lặn trên bờ hồ hay là cảnh núi non hùng vĩ?..." Tôi nghỉ thầm là lần này hãy để nó chọn phứt đi cho xong, đở phải lúng túng:
"Chổ nào anh thấy đẹp là được rồi!"
Thật ra anh ta đặt chúng tôi ngồi hướng về sân golf hay bờ hồ hay núi non gì đó tôi cũng cóc biết vì lúc đó trời đã tối bên ngoài.
Lúc sau, một người hầu bàn khác trẻ hơn, cũng ăn mặt bảnh hơn tôi, đến bàn tôi và nói:
"Kính chào quí khách. Tôi là Paul. Chiều nay tôi sẽ phục vụ quí khách. Quí khách có muốn ngồi ngắm cảnh thêm vài phút trước khi đặt món ăn hay không?"
Tôi nói ngay:
"Không, tôi đang đói lắm. Tôi là dân lao động. Mang lên cho tôi một dĩa thịt bò với rau và khoai tây nướng."
Anh ta hỏi thêm:
"Ngài muốn dùng thêm súp hay rau trộn?" Tôi đáp ngay: " Rau"
Anh cứ hỏi:
"Chúng tôi có rau xanh nhiều loại, củ dền đỏ, cà chuạ..Ngài có thích trộn với tôm không?"
Tôi xẵng giọng: " Rau xanh thôi, OK?"
Anh ta đáp: " Vâng thưa Ngài. Có dầu giấm không?" Tôi không muốn kéo dài cuộc khẩu cung này nữa:
"Bất cứ cái gì cũng được." Anh ta cứ nói:
"Chúng tôi có dầu giấm kem Ý, phó mát xanh,giấm chua háp... Tôi cướp lời:
"Đem bất kỳ thứ nào làm tôi ngạc nhiên là được..." Anh ta vẫn đứng đó:
"Dầu giấm kem Ý là loại đặc biệt của chúng tôi. Như thế có được không thưa Ngài"
Tôi cộc lốc" Yeah"
Anh lại hỏi: " Còn khoai tây thì saọ.."
Tôi thừa biết caí gì sắp xảy ra nên không muốn anh ta đứng lải nhải nữa:
"Tôi chỉ muốn khoai tây nướng mà thôi, hiểu chưa? Không có cái giống gì kèm theo nữ hết."
Anh cứ hỏi: "Không bở Không kem chua à?"
Tôi gằn giọng: " Không."
Anh ta vẫn hỏi: "Không để hành luôn à?" Tôi hết chịu nỗi nên phải quát lên:
"Không. Anh không hiểu tiếng Anh à? Tôi không muốn cái gì với khoai tây hết. Cứ mang ra cho tôi khoai tây nướng với thịt bò là được rồi"
Anh ta lại chỉa mủi dùi sang thịt bò:
"Ngài muốn 200 gram, 250 gram hay 350 gram thưa Ngàỉ." Tôi trả lời cho có: "Bao nhiêu cũng được."
"Ngài muốn tái, tái vừa vừa, vừa, vừa chín hay chín hẳn thưa Ngàỉ"
Tôi không thể nào chịu được nữa:
"Ệ..Tao nổi cơn rồi đấy nhé..."
Anh ta vẫn không tha tôi: "Ngài thích broccoli, bắp hay cà rốt chung với thịt bò?"
Như giọt nước làm tràn ly nóng giận, tôi ném khăn ăn xuống đất , đứng phắt lên, xắn tay aó, xông vào anh ta và giở giọng vỏ biền:
"Ê... Mày muốn ra ngoài sân chơi tay đôi không, thằng dai như đỉa kia"
Trời ơi, đến nước này mà anh ta cũng không thể không hỏi ý kiến tôi:
"Vâng, thưa Ngài. Ngài thích ở bãi đậu xe, ngoài đường nhỏ hay đường lớn đối diện với nhà hàng, thưa Ngài"
Tôi nói: "Tao thích ngay tại đâỵ..", và đấm anh ta một cái. Anh ta né rồi phản công bằng một cú móc tay trái vào hàm tôị... Các bạn thân mến, đó là lần đầu tiên trong cái đêm nghiệt ngã đó anh ta đã không hỏi tôi thích bị đấm ở đâụ..Tôi cháng váng ngã xuống ghế trong khi các người khác tới kéo anh hầu bàn đó ra.
Tôi có cảm giác ai đó nới lỏng cà vạt tôi ra, mở nút áo cổ và vả nhẹ vào mặt tôi... Khi tôi hoàn tỉnh, tôi thấy trước mặt tôi là gương mặt lo âu của viên phụ trách các tên hầu bàn đêm đó... Ông ta xin lỗi ráo riết và đề nghị mua nước uống cho tôi, gọi y tá hay bất cứ cái gì tôi muốn...
Tôi lúng túng nói: "Không, không ... đừng gọi ai đến hết....cho tôi ly nước là được rồị..
"Vâng thưa Ngài, có ngay", ông ta hớn hở đáp lại sự đòi hỏi quá dễ thực hiện của tôị...
Và ông ta tiếp: "Ngài thích nước suối nhập cảng, nước soda, nước chanh hay nước lọc.?
Mẹ tôi đã thề không bao giờ đến ở trong ký túc xá nữa, nhưng hoàn cảnh không cho phép mẹ giữ trọn lời thề của mình. Do đó buộc lòng mẹ quyết định đổi đến thành phố khác. Dù sao mẹ con tôi cũng cần một nơi tạm trú. Hóa ra ký túc xá này còn tệ hơn nơi chúng tôi đã ở trước kia. Ở đây thiếu sự thân ái, buồn tẻ như đưa đám, và nặng mùi ẩm mốc khó ngửi. Nói chung, không khí nặng nề u ám dễ gây cho người ta sự thối chí. Ngay nền nhà dưới chân mẹ con tôi là người thủy thủ tàu buôn đã về hưu có chứng ho muốn vỡ phổi. Ông già là người thân thiện luôn chào hỏi khen ngợi mẹ tôi khi chúng tôi đi ngang qua căn phòng tăm tối mà ông đang ngồi hút thuốc sát mé giường. Lúc ban ngày tôi thương hại ông, nhưng đêm về khi nằm trăn trở lo lắng cho số phận đen đủi bấp bênh của mình trong những ngày sắp đến, mẹ con tôi nghe sự im lặng dâng cao bao trùm niềm thống khổ, chúng tôi ghét ông thậm tệ. Nhất là tôi.
Mẹ tôi tự an ủi đây chỉ là thời gian tạm bợ mà thôi, không bao lâu nữa chúng tôi tuyệt đối sẽ thoát khỏi cảnh này. Để chứng tỏ cho tôi, và có lẽ cũng cho riêng bản thân mẹ, thiện chí của mình, mỗi ngày chủ nhật vào giờ ăn sáng, mẹ miệt mài trên từng trang báo, khoanh tròn các ô quảng cáo cho thuê nhà. Rồi ghi xuống hàng chữ
'đúng nhu cầu.' Tôi khoái cung cách đầy tự tin và sốt sắng của mẹ. Điệu bộ ấy cho tôi có cảm tưởng nhu cầu của mình ít ra có chút ý nghĩa với cuộc đời chung quanh, và bản thân mình cũng là phần tử đáng kể trong xã hội. Khuôn mặt mẹ đăm chiêu như đang tính toán.
Mẹ so sánh giá cả các căn nhà, và loại ra những căn đắt giá hoặc rẻ nhất. Khi tìm được năm hoặc sáu căn vừa ý, mẹ gọi hỏi nếu người ta còn mở cửa cho xem. Có thể nói, chúng tôi dành cả ngày đi xem hết căn này đến căn khác.
Thật ra chúng tôi chưa mướn được căn nào cả. Chủ nhà đòi tiền tháng đầu và tháng cuối, cộng thêm tiền đặt cọc để họ lau chùi sang sửa. Tôi biết phải chờ thêm một thời gian nữa mẹ tôi mới có đủ khả năng. Thế là cứ đến chủ nhật, mẹ tôi lại tiếp diễn, lật báo, khoanh tròn, ghi chú, gọi diện thoại, đi xem nhà, và tôi bị lôi kéo theo. Mẹ con tôi cứ đi xem và chẳng quyết định được gì, tuồng như đi tham khảo thị trường. Ở vị trí của người đi mua sắm đôi khi rất thú vị. Tôi hạnh phúc trong vai trò của người biết mình đang cần gì, muốn gì và có thể mua mang về.
Mặc dù chỉ đi ngắm nhìn, nhưng tôi thoải mái vui vẻ, vì có gan ngắm nhìn rờ mó đã đời mà không cần phải mua. Mẹ tôi càng không phải là người khách hàng thích tính toán thiệt hơn, đi thẳng đến bảng giá, lắc đầu hoặc than phiền giá cả với người đi mua chung quanh. Mẹ tôi không có hứng thú về giá cả. Nói cho cùng, mẹ đâu có tiền để quyết định sự đắt rẻ. Mẹ thích đi phố, đóng vai người mua vì mẹ thấy thoải mái tự nhiên và muốn tìm hiểu về sản phẩm. Nhân viên bán hàng tiếp đãi mẹ một cách cực kỳ kiên nhẫn. Tỷ như, góp ý khi mẹ con tôi xem xét bộ vali bằng da, dẫn giải về chiếc tivi màn ảnh rộng hoặc chọn hộ tấm thảm Đông Phương. Đi xem thảm không phải là điều nhẹ nhàng dễ chịu vì người bán hàng làm việc vô cùng cực nhọc. Họ phải ra sức kéo lê lết từng tấm thảm nặng nề vắt cao nghều nghệu cho khách xem. Nhìn họ đổ mồ hôi, thở hào hển, xiểng niểng bước chân dưới sức nặng của tấm thảm, tôi tưởng chừng khuôn mặt của họ muốn xơ ra như những sợi bố bện trên tấm thảm vô hồn kia. Khách hàng đôi lúc phải trơ trẽn làm mặt dầy, như mẹ con tôi chẳng hạn. Biết chắc một điều, mình chỉ đi xem đã đời, mà chẳng bao giờ mua.
Khi có thời trang mới về, mẹ tôi thử hết bộ áo này đến chiếc váy kia để tôi nhìn ngắm. Xưa kia mẹ tôi từng một thời làm người mẫu, cho nên mẹ biết cách đi đứng nhún nhảy, làm dáng trước tấm gương, biết bước tự nhiên, dừng lại bất chợt, nghiêng đôi vai, lắc nhẹ một bên hông, hoặc liếc ngang liếc dọc ra chiều có ai gọi tên mình. Khi mẹ nhìn tôi, tôi gật gù với nụ cười, cái nhún vai, hoặc khe khẽ lắc đầu. Tôi biết mẹ đẹp hoàn toàn trên mọi phương diện, nhưng trong vai trò một vị giám khảo tôi bắt buộc phải có chút khắt khe kỳ thị.
Khi chúng tôi đi xem nhà, mẹ thường mặc bồ đồ đầm màu xám. Phần mình, tôi mặc bộ đồ tây khá bảnh baọ. Chiếc áo len thêu hàng chữ "Vòng Tay Bác Ái" trước ngực, cổ hình chữ V, và thắt thêm chiếc nơ thật trịnh trọng. Mấy ngày qua chúng tôi xem các căn nhà trong khu đại học. Ba căn đầu tiên khá thích hợp cho mẹ con tôi, nhưng đến căn thứ tư thì thật tồi tệ.
Người đàn bà cuối cùng sống trong căn nhà ấy bày bừa hoang tàn chẳng khác nào thú dại nơi hang động hoang sơ. Chủ nhà đã bỏ công dọn dẹp, nhưng chẳng vớt vát gì. Căn nhà xông lên mùi thịt thối rữa, dù cửa sổ đã mở toang và gió lồng lộng. Mọi nơi mọi phía đều nhớp nhúa. Chủ nhà tiết lộ rằng người đàn bà ấy bị khủng hoảng tinh thần sau cuộc hôn nhân đổ vỡ. Hắn đề nghị sơn lại căn nhà và lót thảm mới, nhưng lộ vẻ nản chí chẳng sốt sắng, đang thao thao bất tuyệt đột nhiên im bặt khi trông thấy vẻ thờ ơ nơi mẹ con tôi. Hắn tự hiểu cá không cắn câu, nên chẳng buồn để lại danh thiếp của mình. Còn vài căn nhà nữa nhưng mẹ tôi chừng đã mệt mỏi. Mẹ hỏi tôi muốn ra bến tàu hóng gió, đi về, hoặc dạo phố. Mẹ cố gắng tạo vẻ tự nhiên, nhưng tôi biết mẹ đang bực dọc. Tôi thật sự chưa muốn về nên gợi ý muốn tham quan khu đại học. Mẹ liếc ra đường.
- Đằng nào mình đã đến đây, phải đi cho biết chứ !
Mẹ con tôi đi dọc hàng phong bên đường. Lá rụng bị gió cuốn thổi xoáy vào chân chúng tôi. Mẹ vòng tay ôm lấy người, cúi xuống đất.
- Phải sống có ý chí và niềm tin nghe con. Không vì bất kỳ điều tại bị nào cả.
Lời mẹ nói làm tôi khó chịu, nhưng tôi biết mình chẳng làm điều gì sai nên tôi yên lặng, không trả lời trả vốn. Mẹ bảo:
- Không cần biết chuyện gì xảy ra, con không được bỏ cuộc nửa chừng. Không được đổ cho hoàn cảnh. Con nghe mẹ nói hay không ?
- Dạ.
Một nhóm người Hoa từ phía sau mẹ con tôi đi lên. Khoảng mười, mười hai người thanh niên nói chuyện thật sôi nổi. Khi qua mặt chúng tôi, họ còn cười nói ròn rã như nước chảy róc rách quanh hòn đá. Chúng tôi đi theo bọn họ đến đầu đường cái, và băng qua con lộ dẫn đến trường đại học. Mẹ con tôi lang thang qua từng khu lầu cho đến khi trời bắt đầu tối và gió thổi mạnh. Đây là ngày đầu tiên trời trở lạnh từ hôm chúng tôi dọn về nơi này.
Hôm nay tôi không chuẩn bị ăn mặc ấm, nhưng tôi không dám cho mẹ biết vì tôi chưa muốn về trong lúc này. Trước đến nay, tôi chưa hề đặt chân vào trường đại học, và tôi thật lòng muốn so sánh sự thật của nó với những ý nghĩ mà mình từng hình dung trong đầu. Những dẫy lầu cổ kính bằng đá, các lối đi có hình vòng cung và cửa sổ vòm cao. Thảm cỏ xanh mướt và các dây leo đã ngã sang màu đỏ. Trên dẫy lầu hướng tây, mặt trời le lói những chiếc lá tim tím lấp lánh khi gió thổi. Có tiếng reo hò từ sân vận động đưa sang. Tôi thầm nghĩ đến một cuộc đấu tài đấu sức đang diễn ra. Qua tiếng hò reo tôi phấn khởi nghe vô cùng thân thuộc. Thâm tâm tôi lưu luyến gắn bó nơi chốn này. Các sinh viên đi qua, tôi tưởng chừng họ nhìn tôi như một người anh em của họ trong 'Vòng Tay Bác Ái,' nếu không phải vì người đàn bà đang đi bên cạnh tôi, vì bàn tay quá đỗi nặng trĩu đang đặt trên vai tôi.
Mẹ tôi vô tình chẳng để ý. Có lẽ mẹ vui trở lại. Mặt mẹ ửng hồng vì gió lạnh và vì kỷ niệm của thời học ở Yale và Trinity tìm về. Ngày ấy mẹ thường được vé đi xem đấu bóng cà na từ người bạn gái có kép là cầu thủ. Mẹ cũng từng cặp bồ với một cầu thủ người Mỹ chính gốc, tại Yale, tên Dutch Diefenbacher. Mẹ nói qua giọng hờ hững.
- Anh ấy cầu hôn với mẹ.
- Ông ta thật sự ngỏ lời với mẹ sao ?
- Hắn tặng mẹ một chiếc nhẫn mua từ cửa hàng của ông ngoại, nhưng mẹ không nhận. Mẹ còn bảo, tôi không thể lấy một người lớn tuổi như anh.
Mẹ tôi cười lớn sau câu nói. Tôi ngắt lời:
- Thật sự có chuyện ấy ? Một người Mỹ trắng chính gốc, xuất thân từ Yale cầu hôn với mẹ và bị từ chối ?
- Dĩ nhiên !
Sao mẹ không lấy ông ấy.
Chúng tôi dừng lại bên cạnh chiếc máy nước ngập đầy lá. Mẹ nhìn lom lom vào mặt nước.
- Mẹ không hiểu. Thuở ấy, mẹ quá trẻ và Dutch không phải là người nổi bật. Anh ta tử tế dễ thương, nhưng cù lần. Quá cù lần.
Mẹ thở dài, thốt lên như quát.
- Trời ơi, anh ta chán ngấy chịu sao nổi. Tôi bảo:
- Nếu là con, thì con sẽ lấy ông ấy.
Thật sự trước đây tôi không hề biết điều này. Không thể tưởng tượng, một nữ sinh đua đòi như mẹ tôi mà có thể để vuột mất của tôi một người cha Mỹ trắng chính gốc, xuất thân từ Yale. Nếu không giờ này tôi đã giàu sụ, biết đâu còn có người ăn kẻ ở, và mọi việc sẽ hoàn toàn khác hẳn.
Mẹ con tôi đánh vòng quanh bùng binh và đi ngược trở lại. Khi ra đến đường mẹ hỏi tôi còn muốn xem thêm căn nhà nào nữa. Mẹ do dự:
- Dù sao đã đến đây ...
Tôi thấy lạnh nhưng đã lỡ im lặng ngay phút đầu nếu bây giờ than van này nọ e kỳ. Mẹ chận hai cô gái lại hỏi thăm đường đi. Trong lúc họ chỉ dẫn mẹ, tôi cúi nhìn uyển sách đang chưng bày trong tiệm nhỏ ngay đó, vờ như mình chỉ vô tình đứng gần người đàn bà không quen thuộc đang lạc đường chẳng tìm được lối ra.
Buổi tối trời trong. Ánh sáng toả yếu và dần tắt. Mẹ con tôi đi qua vài con phố, đến dẫy nhà xưa cửa sổ còn sáng. Gió thổi sau lưng chúng tôi. Tôi bắt đầu run rẩy, nhưng dấu không cho mẹ biết. Lẽ ra tôi đã nói từ sớm, nhưng tôi ngu ngốc không chịu nói, cho nên bây giờ chỉ biết che đậy cái lạnh của mình bằng mọi cách. Chúng tôi dừng lại trước căn nhà tầng trên tối đen. Tôi ngập ngừng:
- Tối quá mẹ ơi.
- Tối gì tối, căn nhà mình xem ở tầng trệt mà, lo gì.
Mẹ tôi bước đến mái hiên trong khi tôi đứng chờ ngoài ngõ. Tôi nghe tiếng chuông và thấy cửa sổ lay động. Mẹ quay lại khi một cánh cửa hé mở và người đàn ông thò đầu ra ngoài. Bóng ông ta thật to choáng hết khung cửa. Mẹ tôi lúng túng:
- Xin lỗi, lẽ ra tôi nên gọi trước.
- Thưa bà cần chi ?
Ông ta lộ vẻ khó chịu, nhưng khi mẹ tôi nhìn ông thì ông dịu giọng. Mẹ tôi nói về căn nhà. Mẹ khe khẽ.
- Có lẽ tôi đến hơi muộn.
Mẹ tôi phân trần vì mãi xem chung quanh trường nên quên cả giờ giấc. Mẹ nói và nói, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ không nhúc nhích nửa bước, như khẳng định nếu chẳng xem được nhà thì chẳng chịu cáo lui. Tôi tự tin, bước đến. Người đàn ông nhìn chúng tôi qua chiếc gọng kính màu đen, giọng nói thoảng chút thân thiện.
- Dù sao bà đã đến đây, xin mời.
Vật đầu tiên đập vào mắt tôi là ngọn lửa. Tôi để ý đến mọi vật chung quanh như bàn ghế, tủ nẻo, tranh ảnh, nhưng thật ra cặp mắt cứ chỉa thẳng vào ánh lửa. Ngọn lửa đang reo vui trong lò sưởi. Có đứa con gái nằm sấp trước vùng ánh sáng lung linh, bàn chân trần giơ lên cao, lắc nhè nhẹ, một tay chống cằm. Cô bé đang đọc sách. Khi chúng tôi bước vào, cô cố đọc thêm một phần, đoạn chồm dậy chào khách rất lễ độ.
- Chào bác, chào anh !
Cô bé không hẳn là người đẹp. Ngược lại, to thô, mang đôi kính tương tự người đàn ông. Quan sát khách lạ, cô chớp mắt liên hồi. Tôi thấy dễ chịu với cô bé ngay lập tức, khác hẳn vẻ xe lạ hờ hững lúc tôi gặp con gái đẹp. Tôi cười tươi, tự nhiên:
- Chào em !
Tôi bước đến gần ngọn lửa và ngồi xuống đưa lưng vào, gập hai tay ra sau. Tiếng người đàn ông trả lời mẹ tôi:
- Vâng, căn nhà này đầy đủ tiện nghi lắm thưa bà.
Gian phòng thật rộng, to nhất so với những căn nhà tôi đã xem qua. Chắc mẹ con tôi chẳng có đủ khả năng để ở căn nhà này, nhưng tôi không màng quan tâm đến điều ấy.
- Để tôi gọi nhà tôi.
Người đàn ông bảo thế, nhưng vẫn ngồi y nguyên tại chỗ nhìn mẹ tôi. Mẹ mĩm cười với ông, rồi gật gù một mình như trầm tư mặc tưởng tính toán trong đầu.
- Căn nhà thật ấm cúng. Sao ông bà nỡ bỏ đi.
Ông ta không trả lời câu hỏi của mẹ tôi, đưa mắt nhìn đứa con gái đang nhặt vật gì dưới nền thảm.
- Chúng ta chuẩn bị cho một vài thay đổi, phải không nào cô bé?
Đứa con gái gật đầu không đáp và chẳng nhìn lên. Người đàn bà từ phòng bên cạnh bước vào, tay cầm một khay bánh. Bà ta ốm và cao, với mái tóc muối tiêu cột đuôi ngựa. Trên mặt có rãnh nhăn sâu bên má chảy xuống hai khoé miệng. Bà hướng về phía chúng tôi, chậm rãi từng bước rất nhẹ, và đặt khay bánh trịnh trọng lên chiếc bàn con.
- Quý vị đến đúng lúc dùng bánh đặc biệt của giáo sư Avery. Thoạt đầu tôi cứ tưởng bà ám chỉ công thức làm bánh, nhưng khi ông chồng vội vàng nhào đến, và vốc đầy một tay thì tôi chợt hiểu. Chẳng những ông là giáo sư Avery, mà bánh kia dành cho ông. Tôi e ngại khi thò tay lấy bánh, trong khi cô bé tự nhiên nhón hai ba chiếc. Khi ăn, người đàn bà thả tay ra sau giáo sư Avery và tựa vào người ông. Hình ảnh ấy gợi cho tôi quan hệ đầm ấm giữa chồng và vợ như màn kịch diễn thật xuất sắc trước khán giả và ngôi nhà ấm cúng này là nơi người ta âu yếm trìu mến nhau. Nhìn bà giáo sư trong niềm hạnh phúc thật đơn thuần tôi thật sự vui dùm bà. Mẹ tôi xin phép xem qua căn nhà.
- Nếu ông bà không ngại, tôi có thể xem chung quanh ?
Giáo sư Avery ra dấu cho con gái đưa mẹ con tôi đi xem các căn phòng còn lại. Thêm những phòng to rộng, hai gian có lò sưởi. Sau một lúc chúng tôi trở lại phòng khách và cùng ngồi xuống quanh ngọn lửa. Giáo sư Avery và vợ ngồi trên chiếc trường kỷ, mẹ tôi ngồi trên chiếc ghế ngựa đối diện với họ, cô bé và tôi nằm dài dưới nền nhà. Cô bé mở quyển sách, chân giơ lên cao đong đưa nhịp nhàng trong khoảng không. Mẹ tôi và bà giáo sư bàn bạc với nhau về căn nhà. Tôi đưa mắt chăm chú vào ngọn lửa. Tiếng động chung quanh hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi. Mẹ tôi kể cho bà giáo sư về chuyến tham quan khu đại học. Mẹ khen ngợi ngôi trường đẹp. Giáo sư Avery ngắt lời:
- Đẹp ? Theo bà, đẹp chỗ nào ?
Mẹ tôi im lặng.
- Có lẽ bà muốn nói về các dẫy lầu, phòng ốc ...
- Thưa vâng, trường lớp, khuôn viên. Nói chung, toàn bộ thiết kế ...
Giáo sư Avery lên tiếng:
- Giả tạo như cảnh trong phim trường. Bà vợ đỡ lời:
- Ý của giáo sư muốn nói, trường đã quá chú trọng đến hình thức bên ngoài.
Giáo sư Avery nói:
- Họ chỉ để tâm vào đó mà thôi. Mẹ tôi nhỏ nhẹ:
- Điều ấy thì tôi không rõ, tôi không phải là chuyên gia về kiến trúc. Tôi chỉ có cái nhìn đơn giản, quang cảnh nơi đây thật đẹp
- Trông như các trường đại học khác mà thôi. Họ kinh doanh ngành giáo dục. Tất cả chỉ là sư giả dối từ đầu đến chân. Nổi tiếng một cách giả dối. Họ chỉ biết sơn phết bằng vật chất bên ngoài mà không chú tâm vào thực chất tinh thần.
Một phút trước đây giáo sư rất im lặng, nhưng khi bắt đầu mở miệng thì ông nói không ngừng. Và tôi chẳng muốn ông ngừng. Giọng ông nói làm tôi ngột ngạt, như khi đi xe mà bị ngồi phía sau trên đoạn đường dài thăm thẳm. Đến lúc này, bà giáo sư đành lên tiếng phụ họa theo lời chồng phát biểu. cô bé trăn trở cạnh tôi. Cô ngáp dài và lật trang sách. Trong lò sưởi, củi vang tiếng nổ lách tách nho nhỏ, chẳng khác nào con chó già nua đang bẻ mình vươn vai.
Giáo sư hăng say diễn thuyết. Mẹ gọi tên tôi. Mẹ ngồi yên không thêm bớt tiếng nào nữa cả, chỉ khẽ gọi tên tôi. Giáo sư vẫn nói tuồng như chẳng nghe. Ông nghiêng người về phía trước, ngón tay nhịp nhàng đưa theo lời nói, đôi kính lắc lư theo chiếc đầu gật gù. Tôi nhìn mẹ mình ngồi bất động, khuôn mặt lạnh lùng không cảm giác. Đó là thái độ chịu đựng của mẹ khi bị gài cứng ngắt trước người bán hàng dai dẳng, hoặc nhà truyền giáo kiên trì không chịu bỏ cuộc. Tôi biết mẹ muốn tháo lui. Nhưng tôi chưa muốn về và tôi cũng quên hẳn đấy không phải là nhà mình. Sự ấm cúng bên ánh lửa hồng tỏa ấm lòng tôi và giọng giáo sư đều đều ru ngủ trong cảnh êm đềm của một gia đình hạnh phúc. Tôi cố quên đi sự thật trước mắt. Họ đâu phải có máu mủ họ hàng với mình, và chẳng bao lâu nữa họ sẽ rời bỏ căn nhà và nơi chốn này. Song, tôi lại tô đậm vẽ hồng thêm thắt họ vào câu chuyện thêu dệt của mình, bất kể một điều rất vô lý là họ còn có cuộc đời riêng của họ.
Tôi hoàn toàn không hiểu việc gì đã xảy ra sau đó, vì tôi không còn gặp lại họ thêm lần nào nữa. Đến bây giờ, sau nhiều năm trôi qua, tôi ngồi đây suy nghĩ vẩn vơ, giáo sư Avery bị từ chối quyền cư trú trong khuôn viên trường đại học. Đây không phải là ngôi trường đầu tiên đối xử bất công với ông, cũng không hả(n là ngôi trường cuối cùng. Tôi hình dung sự tranh đấu của ông từ một trường kém phẩm vị này đến một trường khác. Qua mỗi lần bị từ chối, tinh thần chống đối và đời sống nội tâm của ông càng dâng cao. Đồng nghiệp của ông, những con người có đầu óc hạn hẹp và trái tim không rộng mở chế nhạo ông là kẻ hay gây hấn, tạo sự phiền hà và nhàm chán. Họ ám chỉ dè bĩu sự thanh cao của ông, cho rằng để che đậy phần thiếu sót, yếu kém trong phạm vi chuyên môn của mình. Qua năm này tháng nọ ông cứ thuyên chuyển hết trường nọ sang trường kia.
Bà giáo sư đành an ủi vết thương lòng của ông, cuộc sống nội tâm có chiều sâu của chồng mình bằng sự chung thủy tận tụy khó ngã gục của bà, và đương đầu với nỗi khổ tâm của chồng về cuộc sống vật chất ngày càng lấn lướt bằng các khay bánh ngày càng đầy và nhiều hơn. Bà tin tưởng ở chồng mình. Niềm tin của bà, trong bất cứ nguyên do nào cũng đều đáng được tuyên dương. Bà luôn nghĩ rằng niềm vui đơn thuần của mình, như người bạn cũ thân thiết, như cõi riêng bất khả xâm phạm, như cuộc sống đâm chồi bám rễ từ cộng đồng xã hội, tất cả đều là vật hy sinh không phải cho lẽ phải sự thật, cho điều cao cả mà cho phù du ảo mộng, cho ích kỷ và sự kiêu căng tự mãn. Lẽ tất nhiên, đâu phải người đàn bà nào cũng có thể sâu sắc thấu hiểu được những điều như thế.
Có thể nói, phần mất mát ấy thuộc về cô bé. Cô phải được tuyên dương anh hùng. Cô đâu có quyền lựa chọn nguồn gốc của mình, làm con của họ. Chẳng bao lâu, cô sẽ hiểu rõ những điều bất như ý trong đời mình. Tất cả đều bắt nguồn từ thất bại của cha mẹ. Ai có thể hiểu điều thua thiệt cay đắng ấy rõ ràng hơn cô bé ? Bối cảnh còn đây. Giáo sư Avery bị lên án về con người quá thật của ông, bà giáo sư bị lên án về con người tế nhị điềm đạm của bà. Chuyến thăm nhà từ Barnard hoặc Reed, hoặc bất cứ nơi nào học bổng đưa đẩy cô bé, từ thành phố xa xôi nơi cô làm việc. Tất cả diễn ra như màn kịch có tuồng tích lớp lang. Lời giận dữ thầm thì to nhỏ trong gian bếp, tiếng la mắng bên bàn ăn, hoặc cuộc khởi hành trong sương sớm. Tất cả lập đi lập lại nhiều năm, và chắc chắn chẳng phải là điều vĩnh viễn. Cô bé cố tạo sự bình yên bên cha mẹ. Thậm chí cô còn mang niềm vui thay thế lòng bất mãn oán hận của mình, bao chuyến dời đổi không ngừng, cuộc sống lặng câm của cha mẹ, và bản chất độc lập khác người của họ trong một xã hội mập mờ đầy khó hiểu. Cô chẳng thể làm gì khác hơn là yêu thương cha mẹ mình. Ai có thể yêu mến họ hơn cô bé?
Bằng cách này hay cách khác, tôi đã lồng họ vào nhân vật trong câu chuyện của mình, mặc dù chẳng biết rõ họ là ai. Chỉ biết, ngay đêm ấy tôi mơ màng tưởng tượng mình là một phần tử của gia đình họ, khi chúng tôi chỉ là những người hoàn toàn xa lạ. Trải qua bốn mươi lăm phút vỏn vẹn trong ngôi nhà ấy, vừa đủ cho tôi thấy ấm áp cõi lòng và quên hết mọi sự trên đời.
Mẹ gọi tên tôi một lần nữa, nhưng tôi vẫn không nhúc nhích cục cựa. Thông thường, chẳng cần mẹ kêu réo, tôi đã chuẩn bị khi biết mẹ muốn ra về, chẳng phải vì tôi ngoan ngoãn vâng lời. Chỉ vì tôi khoan khoái mang đôi chút hãnh diện khi muốn chứng tỏ mình có nề nếp. Nhưng lần này, nghe tiếng mẹ gọi tôi chỉ đưa mắt nhăn nhó. Thấy tôi ngồi lỳ, mẹ từ từ đứng dậy. Tôi đọc được sự ngạc nhiên trong mắt mẹ. Mọi người đứng lên theo mẹ, ngoại trừ tôi. Khi mẹ ra gần đến cửa, tôi mới vội vàng bật dậy ấp úng chào từ giã trong họng, và chạy theo. Giáo sư Avery tiễn mẹ con tôi ra tận bên ngoài. Mẹ ngập ngừng.
- Đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ đây là một ngôi trường tuyệt đẹp. Ông cười thật lớn. Chẳng hiểu vì hoan hỉ hay chua chát.
- Cho là thế. Đẹp với nó thôi chứ đẹp với ai.
Ông chờ mẹ con tôi ra đến đầu ngõ mới quay trở vào tắt đèn, đóng cửa. Tôi nghe tiếng cửa đóng sầm sau lưng. Mẹ tròn mắt.
- Thế là sao ?
Tôi nhún vai chẳng trả lời.
- Con có sao không ?
- Không sao cả mẹ ơi, ... chỉ lạnh tí mà thôi.
- Lạnh ? Sao suốt buổi ngậm câm không nói ?
- Mẹ cởi áo khoác đưa qua tôi.
- Nè !
- Con không sao mà ...
- Mặc vào !
- Thật mà, con không sao hết.
- Mặc vào, đồ ngốc !
- Tôi khoác chiếc áo. Hai mẹ con đi một đoạn, tôi bảo:
- Dị quá mẹ.
- Rồi sao ? ai cười ?
- Con thấy kỳ.
- Biết kỳ hở ? Cả buổi tối mi dở dở ương ương.
- Con không mặc lên xe đâu nhé.
- Ai bảo mi mặc lên xe ?
Tôi kéo cổ áo lên cao, và so vai.
- Còn lạnh hở ?
- Tí ti.
Tôi rùng mình, lạnh như chưa bao giờ biết lạnh, và đổ lỗi cho mẹ đã bắt tôi rời ngọn lửa hồng. Tôi hiểu không phải do lỗi của mẹ, nhưng tôi muốn đổ cho mẹ, cho ngọn gió thổi lên mặt tôi rát buốt và cho mọi điều không tên tuổi lẽ ra đừng nên xảy đến.
- Sang đây, con !
Tôi nhích ra xa, mẹ kéo tôi đến gần, và chà xát bàn tay của mẹ lên cánh tay tôi. Tôi né ra ngoài, nhưng mẹ giữ tôi lại, và tiếp tục vuốt tay tôi. Tôi thấy dễ chịu. Mẹ chợt hỏi:
- Nè con ! con nghĩ sao về ngôi trường này ? thành thật nhé.
- Con thích nơi này.
- Mẹ nghĩ ... ngôi trường rất khá.
- Con cũng vậy. Mẹ tôi lẩm bẩm.
- Lão kiêu căng, như mắng vào mặt người ta.
Giờ tôi đã có lò sưởi riêng cho mình. Nơi tôi ở, mùa đông thật dài và thật lạnh. Gió thổi bần bật, giạt tuyết qua hai bên lối đi. Căn nhà trở mình kêu kèn kẹt, cửa sổ đóng đầy sương và đá. Sau bửa ăn tối, tôi chất củi nhóm lò. Các con tôi nôn nóng chờ đợi. Sau đó chúng ngồi ngắm ngọn lửa bằng đôi mắt tôn sùng chiêm ngưỡng. Nhà tôi bước vào trìu mến nhìn ánh lửa hồng. Nàng cầm quyển sách và nằm xuống chiếc ghế dài, nhưng chẳng đọc. Tôi cũng thế, quyển sách nằm chơ vơ bên cạnh tôi. Tôi ngắm ngọn lửa, ngắm ánh sáng lung linh thay đổi trên từng gương mặt thân yêu của mình. Tôi khoan khoái trong sự đầm ấm ngọt ngào của gia đình. Tuy nhiên sâu xa trong tâm hồn, tôi nghe vướng víu thoáng lo âu, sợ niềm hạnh phúc này sẽ tan biến, như có tiếng gọi từ đâu bất ngờ đánh thức cơn mơ choàng dậy.
V.S. Naipaul kể lại chặng đường đầu tiên gian khổ thế này,
"Tôi viết Miguel Street trước tiên, bạn tôi, Andrew Salkey mang tác phẩm này đến André Deutsch. Diana Athill, biên tập viên của nhà xuất bản Deutsch, thích câu chuyện nhưng André Deutsch biết những tác phẩm loại này, cho rằng 'truyện ngắn bán không được.' " Bản thảo Miguel Street bị giữ lại trong ngăn kéo. Nhà xuất bản cần truyện dài, thế là Naipaul viết The Mystic Masseur. Ông hoàn tất tác phẩm này tháng Giêng năm 1956.
Quyển này lẽ ra được xuất bản ngay trong năm đó. Tác giả là người nôn nóng hơn ai hết mong được nhìn thấy tác phẩm mình trên giấy trắng mực đen. Cuối cùng phải đến tháng Năm, năm sau, The Mystic Masseur mới chào đời. Nhà xuất bản lại đòi thêm một truyện dài khác. Ông viết tiếp và The Suffrage of Elvira được xuất bản tháng Tư, năm 1958.
Ngày nay khi nhìn lại quãng đời trước, Naipaul vẫn không quên "nỗi lo lắng và đớn đau tột cùng" đã tạo tác nên ba tác phẩm đó. Hãy thử tưởng tượng, chàng trai Naipaul 23 tuổi đầu, sống trong giấc mơ trở thành nhà văn. Chàng dồn tất cả tấm lòng và sức lực vào tác phẩm đầu tiên. Thời của chàng, thế giới văn chương Tây phương không ai mấy quan tâm đến chuyện thuộc địa hay hậu thuộc địa là điều duy nhất chàng có thể viết vì một lẽ dễ hiểu, chàng đã sinh ra và lớn lên ở một nơi như vậy. Kịch bản đời sống của xã hội đó chàng vừa là nhân chứng, vừa là diễn viên. Trái đắng đó chàng đã nếm, dâu biển đó chàng đã trải qua, một lần và cho cả đời. Hãy thử tưởng tượng, sau những lần chàng bị từ chối, niềm hy vọng đó lọt vào mắt nhà xuất bản Deutsch, rồi kế tiếp là nỗi thất vọng vì "truyện ngắn bán không được." Chàng vẫn không thể quên, "... điều này vẫn còn là cái bóng đen lớn che phủ đời tôi." Chàng nói, "...khi bạn còn trẻ, hai năm là thời gian dài để chờ đợi. Khi bạn lâm cảnh cùng quẩn, như tôi, hai năm cùng quẩn là thời gian quá dài để chờ đợi. Khi bạn muốn đánh dấu sự hiện diện của mình trong thế giới, đó là thời gian dài để chờ đợi... Hồi đó, rất khó cho tôi để tìm ra việc làm, rất khó cho tôi để tìm một chỗ sống, rất khó cho tôi để tìm tiếng nói chính mình. Rất khó cho tôi, vừa phải làm tất cả những việc đó, vừa phải viết ra những quyển sách ấy, để xuất bản." V.S. Naipaul đã khởi đầu sự nghiệp văn chương như thế.
Trong công bố với báo chí, Hàn Lâm Viện Thụy Điển coi những câu chuyện ngắn của Miguel Street là "sự pha trộn giữa Chekhov và điệu nhạc calypso tạo Naipaul thành nhà hoạt kê và kẻ mô tả đời sống trên đường phố." Con đường có tên Miguel, khu ổ chuột của thành phố Port of Spain, đã được nhìn qua cặp mắt quan sát của cậu bé mới lớn của nhân vật xưng tôi. Ở đó có gã thợ mộc tên tên Popo làm việc tất tả để tạo những "vật không có tên." Ở đó có cô Laura luôn luôn mang bầu, có tám đứa con với bảy đời chồng. Ở đó có tay anh chị tên Bogart chọc trời khuấy nước và sau cùng bị bắt vì tội đa thê... Con đường nối liền những mảnh đời tù túng, buồn, xám. Con đường cũng nối liền những ước mơ vượt thoát, bỏ đi, đổi đời. Có cả thảy mười bảy câu chuyện được kể. Mỗi chuyện mở ra một bi kịch của đời sống riêng tư từng nhân vật. Nhưng ở đây, người kể chuyện không khai thác khía cạnh bi kịch đó. Ông nhìn mọi chuyện trong cái vẻ khôi hài, một thứ "cười ra nước mắt" của Gogol. Tiếng cười theo nhận xét của Octavio Paz không thấy ở Homer hay Virgil mà chỉ được thấy kể từ khi có Cervantes, "là phát minh lớn của tinh thần hiện đại." Milan Kundera nói rõ hơn, "đó là sự phát minh gắn liền với sự ra đời của tiểu thuyết."
***
Tôi nghĩ Laura là người giữ kỷ lục thế giới. Laura có tám đứa con.
Điều này không có gì đáng ngạc nhiên.
Tám đứa con của cô có cả thảy bảy người cha. Dám qua mặt nổi không!
Chính Laura là người đã dạy cho tôi bài sinh vật học đầu tiên. Cô sống cạnh nhà chúng tôi, và tôi có cảm tưởng mình quan sát cô thật gần.
Tôi ghi nhận bụng cô lớn dần lên sau nhiều tháng. Kế tiếp cô biến đi một khoảng thời gian ngắn.
Và rồi tôi thấy bụng cô nhỏ đi.
Và tiến trình tăng trưởng này bắt đầu trở lại vài tháng sau đó. Đối với tôi đó là một trong những điều kỳ diệu của thế giới nơi
tôi đã sống, và mãi quan sát Laura. Chính cô cũng khá vui vẻ khi nói đến chuyện xảy ra trong đời sống. Cô vẫn thường chỉ bụng mình và nói, "Của này lại đến nữa đây, nhưng chị sẽ quen đi sau ba bốn lần đầu. Tuy thiệt là phiền hết sức."
Cô thường đổ lỗi cho Thượng Đế, và nói về sự tinh quái của đàn ông. Bởi vì với sáu đứa con đầu tiên, cô đã thử qua sáu người đàn ông khác nhau.
Hat vẫn hay nói, "Có một số người thiệt khó làm cho họ hài lòng."
Nhưng tôi không muốn tạo ấn tượng cho bạn là Laura dùng cả thì giờ cô có vào việc sinh đẻ và lên án đàn ông, và thường xuyên cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nếu Bogart là người nhàm chán nhất trong khu phố, Laura lại là người sinh động hơn hết. Cô luôn luôn vui vẻ và cô lại thích tôi.
Cô vẫn cho tôi những trái mận và xoài cô có; và khi nào làm bánh đường, cô vẫn thường cho tôi một ít.
Ngay cả mẹ tôi vốn không thích cười đùa, nhất là ở tôi, cũng phải cười với Laura.
Bà vẫn thường nói với tôi, "Mẹ không biết vì sao Laura lại để tâm đến con như vậy. Bộ cô ta không có đủ con cái để lo hay sao."
Tôi nghĩ mẹ tôi đúng. Tôi không nghĩ một người đàn bà như Laura lại có thể có nhiều con đến như vậy. Cô thương mọi đứa, dù rằng bạn có thể không tin vào điều này nếu dựa vào ngôn ngữ cô dùng để nói với chúng. Một số những lời quát mắng của Laura khá phong phú đến nỗi tôi chưa bao giờ nghe qua và tôi sẽ không bao giờ quên được.
Một lần Hat nói, "Mày coi, cổ giống như Shakespeare khi cần dùng đến chữ nghĩa."
Laura thường la con thế này, "Alwyn, con thú rộng mồm kia, đến đây."
Và, "Gavin, nếu mày không đến đây ngay, tao sẽ khiến mày *** ra lửa, có nghe không."
Và, "Lorna, con chó đen chân vòng kiềng, tại sao mày không để ý tứ vào chuyện mày đang làm hả?"
***
Bây giờ, so sánh Laura, mẹ của tám con, với cô người Tàu Mary, cũng tám con, là điều không công bằng. Bởi vì Mary chăm sóc con cái thật kỹ lưỡng, và chưa bao giờ nặng lời với chúng. Nhưng Mary, xin lưu ý với bạn, có người chồng chủ một cửa hàng, và Mary có điều kiện để lịch sự và tử tế với con cái, sau khi đã cung phụng chúng đầy đủ những món rau cải xào thịt, và mì xào, và hủ tiếu xào và những món có tên tương tự. Còn Laura, cô tìm ở đâu ra tiền để lo cho con?
Những người đàn ông tuần tự chậm rãi đi ngang qua nhà Laura mỗi chiều, huýt sáo gọi Laura, không phải là người bỏ tiền ra cho con của Laura. Họ chỉ muốn Laura.
Tôi hỏi mẹ tôi, "Laura ra sinh sống ra sao?"
Mẹ tát yêu tôi, nói, "Con biết không, con nhanh nhẩu quá so với tuổi của con."
Tôi ngờ là có chuyện thật tệ hại. Nhưng tôi không tin đó là sự thật.
Thế nên tôi hỏi Hat. Hat nói, "Cô ta có rất nhiều bạn buôn bán ngoài chợ. Họ biếu xén cô nhiều thứ, và đôi khi một, hai hay ba người chồng cô cho cô nữa, nhưng không nhiều lắm đâu."
Phần lạ nhất của câu chuyện là ở Laura. Laura không đẹp. Như Boyee một lần có nói, "Cô ta có khuôn mặt giống như cái mặt trên của bình điện xe hơi." Và cô hơi mập một chút.
Tôi đang nói đến thời kỳ cô chỉ mới có sáu đứa con.
Một ngày nọ, Hat nói, "Laura vừa có một người đàn ông mới." Mọi người cười, "Chuyện chẳng có gì lạ. Nếu Laura có cách của cô, cổ nên thử qua mỗi người đàn ông một lần."
Nhưng Hat nói, "Không, tao nói thiệt. Hắn đến sống với cổ luôn rồi. Tao thấy hắn sáng nay lúc tao dắt bò ra đồng."
Chúng tôi theo dõi và chờ đợi người đàn ông này.
Sau đó chúng tôi mới biết chính hắn cũng theo dõi và chờ đợi chúng tôi.
Không ít lâu sau, người đàn ông này, Nathaniel, gia nhập vào băng của đường Miguel. Nhưng rõ ràng hắn không thật sự là một thành viên trong nhóm chúng tôi. Hắn xuất thân từ tận cùng phía đông của Port of Spain, là nơi chúng tôi coi như là nhơ bẩn hơn; và ngôn ngữ hắn dùng thật thô nhám.
Hắn bịa chuyện hắn là một kẻ từng gieo rắc kinh hoàng ở đoạn cuối phía đông đường Piccadilly. Hắn kể lại nhiều chuyện băng đảng đánh nhau, và hắn cũng muốn cho mọi người biết hắn đã từng tàn phá diện mạo của hai hay ba người gì đó.
Hat nói, "Tao nghĩ hắn chỉ nói nhăng, nói cuội, tụi bây biết không."
Chính tôi cũng không tin hắn. Hắn là người nhỏ con, và tôi luôn luôn có cảm tưởng là người nhỏ con thường quỷ quái và hung bạo.
Nhưng điều thật sự khiến chúng tôi buồn nôn là thái độ của hắn đối với phụ nữ. Tuy không một ai trong chúng tôi gọi là hào hiệp nhưng thái độ khinh miệt phụ nữ của Nathaniel là điều chúng tôi không thích. Hắn luôn luôn đưa ra nhận xét thô lổ khi nhác thấy một phụ nữ đi ngang qua.
Nathaniel có thể nói, "Đàn bà giống như bò cái. Bò cái và họ như nhau."
Và khi cô Ricaud, người đàn bà an phận, đi qua, Nathaniel buông miệng, "Hãy nhìn con bò cái mập kia kìa."
Đó không phải là câu nói đàng hoàng bởi vì chúng tôi đều nghĩ rằng cô Ricaud quá mập để đáng bị chế nhạo, và lẽ ra nên thương hại cô hơn.
Nathaniel, lúc đầu, cố gắng làm cho chúng tôi tin rằng hắn biết cách trị Laura. Hắn gợi ý là hắn vẫn thường đánh đập cô. Hắn hay nói, "Đàn bà, họ thích bị đập cho thật đích đáng, biết không. Tụi bây chắc biết điệu hát calypso này:
Thỉnh thoảng chỉ cần đánh họ ngã xuống Thỉnh thoảng chỉ cần ném họ xuống Đánh bầm mắt họ, đánh sưng gối họ lên Và như thế họ sẽ yêu anh vĩnh viễn
Đó là sự thật phúc âm về đàn bà."
Hat nói, "Thiệt đúng đàn bà là thứ buồn cười. Tao không hiểu một người đàn bà như Laura thấy gì ở Nathaniel."
Eddoes nói, "Tao biết rất nhiều về đàn bà. Tao nghĩ Nathaniel chỉ nói nhăng nói cuội. Tao nghĩ khi đối diện với Laura hắn cụp đuôi từ đầu đến cuối."
Chúng tôi thường nghe các vụ đánh nhau và nghe tiếng trẻ con la hét ầm ỉ, và khi chúng tôi gặp Nathaniel, hắn có thể chỉ nói, "Vừa đập cho mụ đàn bà đó một bài học."
Hat nói, "Vui chưa. Laura không có vẻ gì buồn hơn trước." Nathaniel nói, "Chỉ có đánh mụ mới thực sự khiến mụ hài lòng."
Dĩ nhiên Nathaniel nói dối. Không phải hắn là kẻ xuống tay mà là Laura. Điều này lộ ra khi Nathaniel tìm cách đội mũ để che giấu con mắt bầm đen của mình.
Eddoes nói, "Hình như người ta viết ra điệu hát calypso cho đàn ông chứ không phải cho đàn bà."
Nathaniel sấn tới định thịt Eddoes, là người vốn nhỏ con, ốm yếu. Nhưng Hat buộc miệng, "Này, hãy thử ra tay với Laura đi. Tao biết Laura. Laura chỉ mới đập mày vừa đủ để mày ở với nó, nhưng đến ngày nó chán mày, cách tốt nhất là mày phải chạy thôi."
Chúng tôi cầu nguyện cho một chuyện gì đó xảy ra để Nathaniel phải rời bỏ đường Miguel.
Hat nói, "Chúng mình không cần phải đợi lâu đâu. Laura mang bầu tám tháng rồi. Còn một tháng nữa là Nathaniel phải đi thôi."
Eddoes nói, "Đó mới thật là một kỷ lục mới. Bảy đứa con với bảy thằng chồng."
Đứa bé chào đời.
Đó là ngày thứ Bảy. Buổi chiều hôm trước tôi còn thấy Laura đứng trong sân tựa vào hàng rào.
Đứa bé lọt lòng mẹ lúc tám giờ sáng. Và, như một phép lạ, chỉ hai giờ sau, Laura đã gọi vọng sang mẹ tôi.
Tôi nấp và lén nhìn.
Laura tựa vào thành cửa sổ. Cô đang ăn xoài, và chất nước vàng loang lổ trên mặt cô.
Cô nói với mẹ tôi, "Cháu bé ra đời sáng nay." Và mẹ tôi chỉ có thể nói, "Trai hay gái?"
Laura nói, "Bà nghĩ tôi có may mắn hay không chứ? Tôi nghĩ mình thiệt bịnh hoạn. Lại một đứa con gái nữa. Tôi chỉ muốn cho bà biết chuyện này, thế thôi. Thôi, tôi phải đi đây. Tôi phải lo may vá chút đỉnh.
Và ngay buổi chiều hôm đó có vẻ như điều Hat nói trở thành sự thực. Bởi vì buổi chiều hôm đó Laura ra đường và kêu to tiếng với Nathaniel, "Ê, Nathaniel, tới đây."
Hat nói, "Chuyện quái gở gì nữa đây? Có phải cổ vừa sinh con sáng hôm nay không vậy?"
Nathaniel làm ra vẻ ngon lành trước mặt chúng tôi. Hắn nói với Laura, "Tao đang bận. Tao không về được."
Laura sấn tới và tôi thấy cô có vẻ như sẵn sàng đập lộn. Cô nói,
"Mày không về? Không về? Tao nghe có đúng không?"
Nathaniel lo ngại. Hắn cố trò chuyện với chúng tôi, nhưng không ai hiểu hắn nói gì.
Laura nói, "Mày nghĩ mày là đàn ông. Nhưng đừng đóng vai đàn ông với tao nghe chưa. Phải, Nathaniel có phải tao đang nói với mày hay không, cái thằng có cái đít như hai ổ bánh mì thiu trong quần kia."
Đó là câu nói hay nhất của Laura, và chúng tôi tất cả phá lên cười. Khi thấy chúng tôi cười, Laura cũng bật cười theo.
Hat nói, "Mụ đàn bà này thiệt quá cỡ."
***
Nhưng sau khi đứa con ra đời, Nathaniel vẫn không rời đường
Miguel. Chúng tôi hơi lo ngại.
Hat nói, "Nếu không cẩn thận, cổ lại có thêm đứa con nữa với cùng một người đàn ông, tụi bây biết không."
Không phải tại lỗi của Laura mà Nathaniel không ra đi. Cô đập hắn nhiều trận và làm điều này một cách công khai hơn trước. Thỉnh thoảng cô nhốt hắn ở ngoài và chúng tôi được nghe Nathaniel khóc lóc và năn nỉ nhẹ nhàng bên lề đường, "Laura, em yêu, Laura, cục cưng, hãy để anh vô nhà đêm nay. Laura, cục cưng, hãy để anh vô."
Bây giờ hắn bỏ quên cả cái thói giả bộ như một tay có thể trừng trị được Laura. Hắn không muốn nhập bọn với chúng tôi nữa, và chúng tôi lấy làm khoái trá về điều này.
Hat thường hay nói, "Tao không biết tại sao hắn không trở về Dry River nơi hắn xuất thân. Hắn sẽ sung sướng hơn ở cái nơi không có văn hóa đó."
Tôi cũng không hiểu tại sao hắn vẫn ở lại đây.
Hat nói, "Có một số đàn ông giống như hắn. Bọn này thích bị đàn bà hành hạ."
Và Laura càng ghét cay đắng Nathaniel hơn.
Một ngày nọ chúng tôi nghe cô bảo hắn, "Mày nghĩ mày cho bà một đứa con là mày làm chủ bà phải không. Đứa con đó ra đời vì tai nạn, mày có nghe thủng không."
Cô đe dọa kêu cảnh sát.
Nathaniel nói, "Nhưng rồi ai chăm sóc con cái cho em?"
Laura nói, "Chuyện đó để tao tính. Tao không muốn mày ở đây. Mày chỉ thêm một miệng ăn phải lo. Và nếu mày không đi ngay lập tức tao sẽ kêu trung sĩ Charles lo cho mày."
Chỉ khi bị đe dọa kêu cảnh sát Nathaniel mới chịu ra đi. Mặt hắn ràn rụa nước mắt.
Nhưng bụng Laura lại phình ra thêm lần nữa.
Hat nói, "Trời ơi! Hai đứa con với cùng một người đàn ông!"Một trong những sự kỳ diệu của đời sống trên đường Miguel là không ai bị chết đói. Nếu bạn ngồi xuống bàn với cây viết chì và tờ giấy và cố gắng tính toán, bạn sẽ thấy điều này không thể nào xảy ra được. Nhưng là người sống ở đường Miguel, tôi có thể bảo đảm với bạn là không ai chết đói. Có lẽ họ có bị đói, nhưng bạn sẽ không bao giờ nghe ai nói về điều này.
Con cái của Laura rồi cũng lớn lên.
Cô con gái cả, Lorna, bắt đầu làm đầy tớ cho một nhà ở St. Claire và đi học đánh máy từ một người đàn ông ở đường Sackville.
Laura hay nói, "Trên thế giới không có điều gì giống như giáo dục. Tôi không muốn các con tôi lớn lên giống như tôi."
Vào lúc đó, Laura sinh ra đứa con thứ tám, một cách không cần phải cố gắng như thường lệ.
Đó là đứa con sau cùng của cô.
Không phải tại vì cô đã quá mỏi mệt hay cô đã đánh mất tình yêu đối với nhân loại hay cô đã mất đam mê cung cấp thêm người cho nhân loại. Thực tế là Laura không bao giờ già hơn hay ít vui hơn. Tôi luôn có cảm tưởng rằng nếu có cơ hội, cô có thể tiếp tục có thêm con nữa.
***
Cô con gái cả, Lorna, một đêm nọ, từ lớp học đánh máy về nhà trễ và nói, "Mẹ, con sẽ có con."
Tôi nghe tiếng rít của Laura.
Và đó là lần đầu tiên tôi nghe Laura khóc. Đó không phải là tiếng khóc bình thường. Cô có vẻ như khóc cho mọi tiếng khóc cô đã giữ lại kể từ ngày cô được sinh ra; cho mọi tiếng khóc mà cô đã cố giấu đi bằng tiếng cười. Tôi từng nghe người ta khóc ở các đám tang, nhưng có khá nhiều giả tạo trong tiếng khóc đó của họ. Tiếng khóc của Laura trong đêm hôm đó là điều ghê gớm nhất tôi chưa từng nghe được. Nó khiến tôi cảm thấy thế giới thật là một nơi chốn ngu xuẩn và buồn, và tôi gần như sắp rớt nước mắt với Laura.
Cả đường phố đều nghe Laura khóc.
Ngày hôm sau Boyee nói, "Tao không hiểu tại sao Laura lại quá giận dữ về chuyện đó. Cổ cũng có khác gì đâu."
Hat thật bực tức, nó rút dây thắt lưng da ra và quật Boyee. Tôi không biết tôi phải tội nghiệp ai, Laura hay con của cô.
Tôi có cảm tưởng như giờ đây Laura cảm thấy tủi nhục nếu phải xuất hiện ngoài đường phố. Khi tôi gặp lại cô tôi không tin cô là người đã từng cười đùa với tôi và đã từng cho tôi những cái bánh đường.
Bây giờ cô đã thành một bà già.
Cô không còn la mắng con cái, không còn đánh đập chúng. Tôi không biết tại vì cô lo lắng chúng đặc biệt hơn hay đã không còn quan tâm đến chúng nữa.
Nhưng chúng tôi không nghe Laura nói một lời trách móc nào đối với Lorna.
Điều này thật kinh khủng.
Lorna mang con về nhà. Không có lời bỡn cợt nào về chuyện này trên đường phố.
Nhà của Laura là căn nhà chết chóc, im lặng.
Hat nói, "Đời sống thiệt quá sức. Mày có thể thấy chuyện rắc rối xảy đến mà không thể làm được chút gì để ngăn chận nó lại. Rồi mày chỉ còn biết ngồi nhìn và chờ đợi."
***
Theo tin trên báo, chuyện đó chỉ tạo thêm một bi kịch cuối tuần, là một trong số nhiều bi kịch.
Lorna chết đuối ở Carenage.
Hat nói, "Đó là chuyện thiên hạ hay làm, bơi ra xa, thật xa cho đến khi thật rã rời và không thể bơi được nữa."
Và khi cảnh sát đến báo tin cho Laura, cô chỉ nói thật ít. Laura nói, "Tốt. Tốt. Tốt hơn là như vậy."
Ngoài trời, đêm lạnh và ướt, nhưng trong biệt thự Lakesnam màn bỏ bốn bề, và lửa cháy sáng rực trong lò.
Hai cha con ông White đang say mê đánh cờ. Người cha thua hai bàn nên có hơi bực.
Bà vợ ngồi gần bên ôn tồn bảo:
- Ông đừng nóng, có thể bàn sau ông sẽ thắng.
Ông chồng vừa ngẩng đầu lên đúng lúc để nhìn thấy một cái nhìn đồng loã giữa hai mẹ con...
Ngay lúc đó có tiếng động cửa bên ngoài và có tiếng chân bước về phía cửa. Ông White đứng lên mở cửa. Chủ và khách chào hỏi nhau rồi bước vào trong.
Khách lạ là một người cao lớn vạm vỡ, mắt nhỏ và sáng, mặt đỏ gay. Ông tự giới thiệu:
- Trung sỹ Morris.
Khách bắt tay những người trong nhà rồi ngồi xuống bên cạnh lò sưởi trong khi chủ rót rượu mời khách.
Đến ly thứ ba, đôi mắt khách lạ bừng sáng và ông ta bắt đầu nói chuyện. Gia đình nhỏ bé của chủ nhà gồm có ba người, quây quần chung quanh để nghe ông khách lạ từ phương xa kể nhiều chuyện kỳ quái.
Ông White gật gù nói với bà vợ và cậu con:
- Hai mươi mốt năm qua, khi cậu này ra đi lưu lạc giang hồ, cậu chỉ là một thiếu niên giúp việc trong kho hàng của mình. Bây giờ nhìn xem, cậu đã trưởng thành tốt đẹp!
Bà vợ góp ý:
- Cậu Morris có vẻ nhàn lắm. Ông chồng:
- Tôi cũng muốn đi chu du thiên hạ, muốn ghé qua ấn Độ để cho biết với người ta.
Trung sỹ lắc đầu, bảo:
- Tôi nghĩ rằng ai ở đâu nên ở đó là tốt hơn hết.
Rồi đặt ly rượu xuống, ông khẽ thở dài rồi lại lắc đầu. Ông White vẫn tiếp tục nói lên ý nghĩ của ông:
- Tôi muốn thấy những đền đài cổ, những ông phù thuỷ và những tay thuật sỹ. à, hôm trước cậu có nói sơ qua về câu chuyện bàn tay khỉ, cậu có thể kể thêm cho chúng tôi nghe không? Trung sỹ vội gạt ngang:
- Thôi bỏ qua đi. Chuyện đó không đáng nói. Toàn nhảm nhí. Nhưng bà White tò mò hỏi:
- Chuyện bàn tay khỉ? Chuyện đó ra sao? Trung sỹ giải thích sơ qua:
- Đó là một câu chuyện có thể gọi là huyền bí.
Ba thính giả chồm tới lắng nghe. Ông khách mơ màng nốc cạn ly rượu rồi đặt xuống bàn. Ông White châm rượu vào ly. Trung sỹ mò trong túi áo lấy một vật, đưa ra:
- Đây, bàn tay khỉ đây!
- Nó cũng chẳng có gì lạ. Người ta đã phơi khô nó tự bao giờ. Bà White ngả người ra sau, le lưỡi. Nhưng cậu con ngắm nghía cẩn thận. Ông White hỏi:
- Cái này có gì đặc biệt không? Trung sỹ Morris tiếp tục nói:
- Bàn tay khỉ này có một phép màu do một vị phù thuỷ đại tài ban cho nó. Vị phù thuỷ này muốn chứng tỏ là con người ở đời ai cũng có số mệnh, và kẻ nào toan cải đổi số mệnh sẽ bị tai nạn buồn phiền. Bàn tay khỉ này có phép màu. Ba người ở đây có thể xin mỗi người một điều ước.
Thái độ của khách lạ rất trịnh trọng nên thính giả không cười nữa.
Cậu Herbert hỏi:
- Tại sao ông không xin ba điều ước đó?
Trung sỹ nhìn cậu thanh niên với đôi mắt của kẻ lớn tuổi dành cho kẻ hậu sinh. Rồi ôn tồn đáp, gương mặt tái hẳn:
- Tôi đã có xin rồi!
Rồi nâng ly rượu lên nốc cạn. Bà White hỏi thêm:
- Còn có ai khác xin nữa không? Trung sỹ đáp:
- Người đầu tiên được cả ba điều ước. Tôi không rõ hai điều trước là gì. Nhưng điều thứ ba là chết. Nhờ người đó chết nên tôi mới có vật này.
Giọng nói của ông ta rất trầm buồn, nghiêm nghị thành thử mọi người trở nên im lặng.
Ông White nói:
- Nếu cậu đã được ba điều ước rồi thì vật này không còn giá trị đối với cậu nữa. Tại sao cậu lại giữ nó để làm gì?
Trung sỹ lắc đầu:
- Tôi có ý định bán nó, nhưng nghĩ lại tôi không muốn. Vì nó đã gây tai nạn cho biết bao người rồi. Vả lại không ai mua đâu, không ai tin chuyện tôi nói. Họ nghĩ thời buổi này làm gì có những chuyện hoang đường như thế. Vài người đồi thử trước rồi mới trả tiền sau. Ông White lại hỏi:
- Nếu cậu được phép xin thêm ba điều khác, cậu có muốn không?
Trung sỹ lắc đầu:
- Tôi không biết, tôi không nghĩ tới vấn đề đó.
Y cầm bàn tay khỉ lên xoay qua xoay lại giữa mấy ngón tay rồi bỗng ném nó vào lửa.
Ông White kêu lên một tiếng, cúi xuống kéo nó ra thật nhanh. Trung sỹ trịnh trọng:
- Nên đốt nó đi là hơn. Ông White lắc đầu:
- Nếu cậu không muốn giữ nó thì cậu cho tôi.
Trung sỹ lắc đầu:
- Không được. Tôi ném vào lửa. Nếu ông tiếc mà giữ nó lại thì có chuyện gì xảy ra, ông đừng phiền tôi. Ông nên ném vào lửa đi cho được việc.
Ông White lắc đầu, chăm chú ngắm vật mà ông vừa làm chủ. Một lúc sau ông hỏi:
- Muốn ước, phải làm thế nào? Trung sỹ:
- Nắm vật này trong tay mặt và lớn tiếng nói rõ những điều ước. Nhưng tôi khuyên ông hãy suy nghĩ cẩn thận lại. Nên thấy rõ những hậu quả của hành động của ông.
Bà White kêu lên:
- Giống như chuyện ả Rập "Ngàn lẻ một đêm". Bà đứng lên lo buổi ăn tối, nói đùa:
- Đâu, ông ước cho tôi có bốn tay để làm công việc nhà nhanh chóng.
Ông chồng lấy bảo vật trong túi ra, và cả ba người trong gia đình bật cười khi trung sỹ hốt hoảng nắm tay ông lại, dặn dò thêm:
- Nếu ông cương quyết xin ba điều ước thì nên xin sao cho hợp lý.
Ông White vỏ lại vật trong túi, kéo ghế mời trung sỹ ngồi xuống bàn.
Trong khi ăn, người ta quên câu chuyện bùa chú, nhưng sau lúc ăn cả ba người ngồi quây quần bên anh quân nhân để nghe chiuện kỳ thú ở ấn Độ.
Ông khách cáo từ, Herbert tiễn ông ra cửa rồi quay vào ngay nói với cha mẹ cậu:
- Nếu câu chuyện huyền hoặc về cái bàn tay khỉ là chuyện bịa đặt cũng như các câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà ông ta vừa kể cho mình nghe thì mình có bảo vật đó cũng chẳng ích gì. Bà White nhìn chồng chăm chú rồi hỏi:
- Ông có trả cho cậu đó chút đỉnh gì không? Ông chồng:
- Của chả đáng gì. Cậu ta không thèm nữa, ném vào lửa. Tôi lượm mót, cậu ta lại khuyên tôi vứt đi.
Cậu Herbert vẻ tin tưởng:
- Đâu mình thử ước xem. Nếu linh ứng thì gia đình mình sẽ giàu có, tên tuổi, hạnh phúc. Ba hãy ước được làm vua. Và trước khi làm vua, ba sẽ không... thờ bà.
Nói xong cậu chạy quanh bàn ăn vì mẹ cậu đuổi theo toan "ký" vào đầu cậu về câu nói phạm thượng đó.
Ông White lại móc túi lấy bùa ra, nhìn nó với vẻ bán tín bán nghi, lẩm bẩm:
- Tôi chưa biết phải ước gì đây? Kể ra thì đời tôi đầy đủ, chẳng thiếu thứ gì.
Cậu con đến bên cạnh cha, nói:
- Bây giờ nếu có thêm một ít tiền xài chơi chắc ba thích lắm. Vậy ba nên ước có hai trăm bạc.
Người cha cười dễ dãi, như tự tha thứ tánh dễ tin của mình rồi cầm bàn tay khỉ đưa lên cao, vẻ trịnh trọng. Ông nheo mắt về phía bà vợ đang ngồi sau chiếc dương cầm. Bà đánh lên mấy nốt nhạc thật mạnh.
Ông chồng dõng dạ nói to lên:
- Tôi muốn có hai trăm bạc.
Bà White đánh thêm mấy nốt nhạc như để phụ hoạ với lời ước ao của chồng.
Nhưng liền sau đó ông White kêu lên:
- ý trời đất ơi! Nó nhúc nhích!
Vừa lạ, ông vừa nhìn cái bàn tay khỉ đang cử động trên sàn. Ông nói tiếp:
- Khi nãy tôi có ước là trông thấy bàn tay này nhúc nhích trong bàn tay tôi như một con rắn. Rõ ràng là điều tôi ước đã được ứng nghiệm.
Cậu con cầm bàn tay khỉ lên, đặt trên bàn, nói:
- Nhưng con chưa thấy có tiền, và con cam đoan là số tiền đó sẽ không bao giờ đến với ta.
Bà vợ hoang mang bảo chồng:
- Ông ước chuyện không hay! Ông chồng lắc đầu:
- Chỉ là trò đùa thôi. Bà đừng thắc mắc. Dù sao chuyện này cũng làm cho tôi kinh sợ.
Cả gia đình ngồi bên lò sưởi. Hai cha con ông White ngồi hút ống điếu.
Bên ngoài gió gào dữ dội hơn bao giờ hết, cánh cửa trên lầu bị gió đập kêu rầm rầm, tiếng động đó khiến ông White lo sợ không đâu.
Bầu không khí lạ thường bao trùm gia đình cho đến khi họ đi ngủ.
Cậu Herbert nói:
- Con hy vọng ba sẽ nhận được số tiền hai trăm bạc mà ba ước
trong một túi lớn đặt trên giường của ba và sẽ có một cái gì ghê gớm ngồi trên nóc tủ chứng kiến lúc ba nhận số tiền đó.
II
Sáng hôm sau trời trong sáng, Herbert mỉm cười trước những điều lo sợ hoang đường trong đêm. Bàn tay khỉ bỏ lăn lóc trên mặt bàn trong phòng. Điều này cho thấy là báu vật lúc này không được người ta tín nhiệm, tưng tiu như trong đêm.
Bà White nói:
- Tôi nghĩ ông quân nhân nào cũng vậy. Họ mê tín dị đoan lắm. Vậy mà chúng mình cũng chịu khó lắng nghe. Thật là vô lý. Vào thời buổi này làm gì có những chuyện ước nguyện như vậy! Và nếu như chuyện này có thật thì số bạc hai trăm đến tay ông bằng cách nào? Cậu Herbert xen vào:
- Chắc là từ trên trời rơi xuống! Ông White nói:
- Cậu Morris quả quyết là các điều ước ứng nghiệm một cách tự nhiên khiến người ta nghĩ đó là sự ngẫu nhiên.
Sau khi ăn xong, Herbert đứng lên:
- Nếu có tiền thật thì ba hãy giữ nguyên trước khi con về. Con chỉ sợ số bạc đó sẽ biến ba thành một người hà tiện và má với con phải giữ số tiền đó cho ba.
Bà mẹ cười trước câu nói đùa của con. Bà theo Herbert ra cửa rồi quay trở về bàn ăn. Bà có vẻ vui tươi trước thái độ dễ tin của ông chồng.
Dù vậy khi nghe người phát thư gõ cửa, bà cũng chạy nhanh ra hy vọng có tiền. Nhưng bà chỉ nhận được giấy đòi tiền Herbert may quần áo của ông thợ may.
Đến bữa ăn chiều, vẫn không có gì mới lạ. Bà mẹ lẩưm bẩm:
- Chốc nữa đây thằng Herbert về, nó sẽ chế nhạo ông nhiều nữa cho mà coi!
Ông White rót bia vào ly nói:
- Có một chuyện lạ là bàn tay khỉ cử động khi tôi nắm nó trong tay.
Bà vợ cười:
- Đó là tại ông giàu óc tưởng tượng. Ông chồng nhấn mạnh:
- Tôi không nghĩ mà tôi biết rõ ràng nó cử động...
Bà vợ không đáp, bà đang nhìn một người bên ngoài đang có những cử chỉ khác thường. Ông này nhìn đăm đăm vào nhà, nhưng do dự nửa muốn vào nửa muốn không.
Bà White thấy kẻ lạ ăn mặc đàng hoàn, đầu đội nón thật mới. Ba lần y đứng lại trước cổng rồi tiếp tục đi. Đến lần thứ tư y đứng lại, đặt tay lên cổng rồi bỗng nhiên cương quyết đẩy cửa cổng bước vào con đường đưa tới trước cửa nhà.
Bà White vội vàng cởi khăn choàng trước ngực giấu dưới nệm. Bà đưa khách lạ vào phòng. Ông này có vẻ không được tự nhiên. Ông thường nhìn trộm bà và lơ đãng nghe bà giải thích vì sao phòng khách không được ngăn nắp như thường ngày.
Bà White không dám hỏi ngay lý do cuộc viếng thăm của khách lạ. Sau cùng ông khách mới nói:
- Thưa bà, tôi được người ta nhờ đến đây để... Khách im lặng một lúc rồi tiếp:
- Tôi từ Maw và Meggins tới đây. Bà White giật mình, hổn hển nói:
- Có việc gì không? Herbert có chuyện gì? Ông chồng xen vào:
- Bà nên bình tĩnh. Mời ông ngồi. Chúng ta nên thong thả. Tôi nghĩ ông không mang tin dữ đến cho chúng tôi, phải vậy không? Vừa nói ông vừa nháy mắt với khách lạ.
Ông khách ấp úng:
- Tôi rất tiếc...
Bà White vẫn không an tâm:
- Con tôi bị thương?
Khách lạ gật đầu, ôn tồn nói:
- Dạ phải, cậu Herbert bị thương nặng. Nhưng cậu cảm thấy không đau đớn gì hết!
Bà mẹ chắp hai tay lại kêu lên:
- Cám ơn Chúa đã giúp con tôi. Chúa đã...
Bà chưa dứt lời, bỗng thấy khuôn mặt buồn thảm của khách lạ, bà bấm bàn tay chồng để giữ bình tĩnh.
Im lặng một lúc thật lâu, khách lạ nói thật nhỏ:
- Cậu Herbert bị kẹt trong guồng máy!
Ông White lặp lại câu đó như một tiếng vang:
- Kẹt trong guồng máy!
Rồi ông nhìn ra ngoài cửa sổ, siết chặt bàn tay vợ. Ông nói với khách lạ, giọng thật buồn:
- Herbert là đứa con duy nhất còn lại của chúng tôi. Nó chết rồi, chúng tôi thật là bơ vơ.
Khách lạ ho mấy tiếng, đứng lên từ từ bước về phía cửa sổ. Ông nói:
- Công ty phái tôi đến để tỏ lời phân ưu với ông bà về tai nạn đáng tiếc vừa qua.
Khách nói một hơi không nhìn đôi vợ chồng già, tiếp tục:
- Tôi chỉ là nhân viên của công ty, xin ông bà hiểu cho tình thế của tôi.
Không ai trả lời. Gương mặt bà vợ tái xanh, đứng tròng và hơi thở của bà chỉ còn thoi thóp. Còn ông thì có vẻ xa vắng.
Khách lạ nói tiếp:
- Công ty Maw và Meggins không nhận trách nhiệm trong tai nạn này. Nhưng vì cậu Herbert đã giúp việc lâu năm cho công ty nên công ty quyết định gửi đến cho ông bà món tiền gọi là... Ông White buông bàn tay của bà vợ mà ông đang nắm, nhìn khách lạ với đôi mắt đầy kinh hãi:
- Bao nhiêu?
- Hai trăm bạc.
III
Trong nghĩa địa mới lập, rộng thênh thang, cách nhà độ hơn dặm, hai vợ chồng già chôn cất đứa con duy nhất. Học trở về nhà sống âm thầm như hai chiếc bóng.
Chuyện xảy ra quá nhanh chóng khiến họ ý thức được tầm quan trọng của vấn đề. Họ vẫn ở trong tình trạng chờ đợi, hy vọng một cái gì xảy ra để cho họ nhẹ bớt được phần nào gánh nặng sầu đau, quá nặng đối với hai vợ chồng già.
Nhưng ngày lại ngày thấm thoát qua và niềm hy vọng mơ hồ của họ trở thành tuyệt vọng.
Họ sống âm thầm. Cả ngày không trao đổi với nhau một lời, vì họ chẳng còn gì để nói. Cho nên ngày tháng đối với họ thật dài, dài không chịu nổi.
Một tuần sau, ông White giật mình thức giấc vào lúc nửa đêm. Ông dang cánh tay ra và chỉ thấy một mình trên giường. Gian phòng tối đen, chỉ có tiếng khóc nghẹn ngào bên cửa sổ. Ông ngồi dậy, lắng nghe một lúc rồi bảo:
- Bà ơi! Bà vào đây, ở đó coi chừng trúng sương, trúng gió. Bà vợ khóc oà lên:
- Nhưng con tôi còn lạnh hơn tôi nhiều!
Ông chồng vẫn còn mê ngủ, ông nằm xuống chiếc giường ấm êm, nhắm mắt lại.
Ông đang mơ màng thì nghe tiếng bà vợ hét lên thật hãi hùng. Ông lồm cồm bò dậy thì nghe tiếng bà vợ la tiếp:
- Cái bàn tay khỉ! Cái bàn tay khỉ! Ông chồng hỏi:
- ở đâu? Để làm gì?
Bà vợ thất thểu tiến về phía ông nói:
- Tôi muốn thấy cái bàn tay khỉ! Ông đã thiêu hủy nó chưa?
- Chưa. Tôi để nó ở ngoài phòng khách, trên giá đàn. Nhưng để làm gì?
- Mình mới chỉ ước có một điều, còn hai điều nữa.
Ông chồng kêu lên giận dữ:
- Trời ơi! Bấy nhiêu đó còn chưa đủ sao? Bà vợ cũng to tiếng không kém:
- Chưa! Tôi còn có thể ước thêm một điều nữa. Ông xuống dưới lấy lên đây. Nhanh, nghe không? Và ước cho thằng Herbert sống lại. Ông White ngồi dậy, vứt mền sang một bên, hoảng hốt:
- Trời đất! Bà có điên không? Nhưng bà vợ vẫn cương quyết:
- Ông đi lấy ngay đi. Và ước cho thằng Herbert sống lại. Ông chồng quẹt lửa thắp ngọn nến, bảo:
- Bà nên đi ngủ đi, bà không biết bà đang nói gì. Bà vợ vẫn không chịu thua:
- Chúng ta đã có điều ước thứ nhất, tại sao lại không có điều ước thứ hai?
Ông chồng lẩm bẩm:
- Đó là một sự ngẫu nhiên. Bà cụ ré lên:
- Ông có đi nhanh không! Và ước y như tôi nói.
Ông chồng đành đi xuống lầu trong đêm tối, mò mẫm vào phòng khách. Đến bên lò sưởi ông thấy bảo vật vẫn nằm ở chỗ cũ. Một sự lo sợ xâm chiếm lấy hồn ông. Ông sợ ước cậu con sống lại, cậu sẽ bị tật nguyền suốt đời. Với sự lo sợ đó ông toát mồ hôi, lò mò mãi mà không trở lên lầu được.
Nét mặt của bà vợ đổi sắc khi ông White bước vào phòng ngủ. Ông cảm thấy sợ cả bà vợ của ông.
Bà vợ kêu lên:
- ước đi!
Ông ấp úng nhưng bà vợ lại quát:
- ước đi!
Ông White nắm tay đưa lên:
- Tôi ước con tôi sống lại!
Cái bàn tay khỉ rơi xuống sàn. Ông thấy nó nhúc nhích. Hai vợ chồng già chăm chú nhìn bảo vật một lúc, tâm trí như đặt hết tin tưởng vào phép lạ. Một lúc sau bà vợ tiến đến bên cửa sổ, vén màn lên. Bà đứng đó, nhìn ra ngoài chờ đợi cậu Herrbert sống dậy trở về.
Ông chồng ngồi bất động trên ghế. Ông cảm thấy khí lạnh thấm vào cơ thể, nhưng vẫn ngồi yên, thỉnh thoảng liếc về phía bà vợ đang nhìn lom lom ra phía ngoài đường.
Ngọn nến đã tàn, ném những mảnh ánh sáng chập chờn lên trần, lên tường. Cuối cùng, khi tim nến đã lụi, đốm lửa bỗng loé lên lần chót rồi phụt tắt. Ông White thấy nhẹ người khi bảo vật không đem lại lời ước thứ hai của ông. Ông trở về giường nằm. Một hai phút sau bà cụ cũng đến ngồi bên ông.
Không ai nói với ai lời nào, cả hai nằm trong tiếng tích tắc của đồng hồ. Trong sự yên lặng của đêm, dường như có tiếng răng rắc xuất phát từ thang lầu, tiếng chuột chạy sát chân tường. Bóng tối như đè lên người khiến ông cụ ngột ngạt, khó chịu. Sau khi nằm ráng một chút để lấy can đảm, ông cụ lấy hộp quẹt, bật lửa lên, đi xuống lầu để tìm một cây nến khác.
Đúng vào lúc đó có tiếng gõ cửa thật nhẹ, lén lút cho nên tiếng động rất nhỏ, gần như đủ lớn để cho người nghe thấy.
Hộp quẹt rơi khỏi bàn tay ông White. Ông đến chết sững, hơi thở của ông ngưng lại cho đến khi tiếng gõ cửa lại vang lên lần nữa. Bấy giờ ông mới quay lưng lại để chạy về phòng ngủ, đóng cửa thật nhanh.
Một tiếng gõ cửa thứ ba vang động khắp nhà. Bà cụ giật mình kêu lên:
- Cái gì vậy?
Ông chồng run run đáp:
- Chuột, một con chuột chạy lên thang lầu, suýt dẫm lên chân
Bà cụ ngồi trên giường lắng nghe. Lại một tiếng động vang lên khắp nhà. Bà kêu lên:
- Herbert về! Chính Herbert về.
Bà chạy về phía cửa, nhưng chồng bà đã tới trước bà. Ông nắm tay níu bà lại, hỏi:
- Bà định làm gì? Bà cụ kêu lên:
- Herbert về! Nó là con tôi. Ông phải để tôi mở cửa cho nó vào. Buông tôi ra!
Ông cụ run rẩy, van nài:
- Không! Bà không nên cho nó vào! Bà cụ bất bình:
- Coi kìa! Ông sợ cả con ông nữa sao? Hãy buông tôi ra. Để tôi mở cửa cho nó vào.
Rồi bà nói to:
- Má đây! Herbert, chờ má một chút!
Lại thêm một tiếng, rồi hai tiếng gõ cửa. Bà vợ vùng khỏi tay chồng, chạy ra khỏi phòng. Ông chồng theo bà tới cầu thàng, dang tay bất lực gọi với theo, nhưng bà lao xuống đến tầng dưới. Ông nghe tiếng mở khoá và tút chốt thật khó khăn. Thế rồi tiếng bà vợ hổn hển kêu to:
- Còn cái chốt! Ông mau xuống mở giùm đi!
Trên lầu, ông chồng đang quỳ xuống sàn mò kiếm cái bàn tay khi. Ông cố kiếm được nó trước khi kẻ gây ra tiếng gõ cửa bước vào nhà.
Trong khi đó tiếng gõ cửa vang dội liên tiếp như một loạt súng. Ông nghe tiếng kéo ghế mà bà vợ đặt ngay trước cửa. Ông nghe tiếng chốt cửa khua lên. Cũng trong lúc đó ông tìm được cái bàn tay khỉ. Hổn hển, ông nắm nó vào bàn tay, đưa lên cao nói lên lời ước thứ ba và cũng là lời ước cuối cùng.
Đột nhiên tiếng gõ cửa ngưng ngay tức khắc, mặc dầu những tiếng động trước đó vẫn còn vọng dội vào trong nhà. Cùng lúc ông nghe tiếng ghế kéo ở phía cửa và cánh cửa mở toang. Gió lạnh lùa vào, thổi tạt lên tận cầu thang...
Tiếng rên đầy đau đớn thất vọng của bà vợ khiến ông White có thêm can đảm để chạy xuống bên cạnh bà. Rồi như còn quán tính, ông chạy thẳng ra cổng bên ngoài. Ngọn đèn đường lù mù đối diện với ngôi nhà toả ánh sáng yếu ớt xuống con đường im vắng, không một bóng người...
Bài văn sau đây là của một cô bé 15 tuổi viết để trả lời câu hỏi,
"Tôi phải làm thế nào để chuẩn bị cho một đời sống đầy đủ?"
Tôi là tôi.
Trên cả thế giới, không ai hoàn toàn giống như tôi. Có những người giống tôi một phần nào đó nhưng không một ai có thể chính xác giống như tôi được. Vì thế, mọi thứ đến từ tôi là của tôi mà thôi tại vì một mình tôi đã chọn nó.
Tôi sở hữu tất cả mọi thứ thuộc về tôi - thân thể, bao gồm mọi thứ mà nó làm; suy nghĩ, bao gồm mọi ý tưởng và ý kiến; đôi mắt, bao gồm mọi hình ảnh nó nhìn thấy; cảm giác của tôi, tất cả mọi thứ
- giận dữ, vui vẻ, sự thất vọng, tình yêu thương, nỗi chán ngán, sự phấn chấn; môi miệng tôi và những từ ngữ của nó - lời lịch sự, ngọt ngào và nghiêm khắc, đúng và sai, âm thanh, to và nhỏ; mọi hành động của tôi, cho người khác hay cho chính tôi.
Tôi sở hữu sự mơ mộng, giấc mơ, ước vọng, và sự sợ hãi của tôi. Tôi sở hữu tất cả sự chiến thắng, và thành công, và sự thất bại và lỗi lầm của tôi.
Bởi vì tôi sở hữu mọi thứ về tôi, tôi trở thành quen biết nhất với chính tôi. Cũng chính vì thế, tôi có thể yêu chính tôi và thân thiết với mọi phần của tôi. Tôi có thể khiến cho những phần của tôi làm việc cho sự tốt đẹp nhất của tôi mà thôi.
Tôi biết có những khía cạnh về chính tôi là một bài toán đố cho riêng tôi, và những khía cạnh khác mà tôi còn không biết. Nhưng khi tôi thân thiết và yêu chính bản thân tôi, tôi có thể can đảm và hy vọng tìm kiếm cách giải bài toán đố hay những cách khác để có thể hiểu thêm về tôi.
Tuy nhiên, tôi nhìn và phát âm, những gì tôi nói và làm, những gì tôi nghĩ và cảm giác được ngay giờ phút này chính là tôi. Đó là nguyên bản của tôi và đại diện cho tôi vào giờ phút đó.
Khi tôi xem xét lại tôi đã nhìn và phát âm, đã nóivà đã làm như thế nào, và tôi đã nghĩ và cảm giác như thế nào, một số phần có thể tỏ ra không thích ứng. Tôi có thể xoá bỏ những phần không thích ứng, và giữ lại những phần thích ứng, và sáng tạo một cái mới cho những phần mà tôi từ bỏ.
Tôi có thể thấy, nghe, cảm nhận, nghĩ, nói, và làm. Tôi có những dụng cụ cần thiết để tồn tại, để gần gũi người khác, để hữu ích, để làm mọi thứ và mọi người trở nên có ý nghĩa và có thứ tự.
Tôi sở hữu tôi và vì thế tôi có thể xây dựng tôi. Tôi là tôi và như thế thì rất tốt.