Bạn đọc thân mến,
Xin cám ơn đông đảo bạn đọc đã đóng góp để "Mật mã Da Vinci" trở thành tác phẩm ăn khách.
Ra đời trước tác phẩm "Mật mã Da Vinci", cuốn sách mà các bạn đang có trong tay là câu chuyện kể về cuộc hành trình của nhà biểu tượng học Robert Langdon ở thành Vatican đúng một năm trước khi có chuyến thăm định mệnh tới bảo tàng Louvre.
"Thiên thần và ác quỷ" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi xây dựng nhân vật Langdon cùng với những kiến thức của nhân vật về nghệ thuật, biểu tượng học, mật mã, những tổ chức bí mật và vùng ranh giới giữa thiện và ác. Tôi mong rằng các bạn sẽ thấy những bí ẩn trong tác phẩm Thiên thần và Ác quỷ cũng hấp dẫn không kém gi những bức hoạ của Da Vinci. Cho dù moi quan tâm của các bạn đối với nghệ thuật như thế nào, tôi vẫn dám chắc rằng bạn sẽ tim thấy trong cuốn sách những câu hỏi hóc búa, những điều bí ẩn trong lịch sử, - cũng những tình huống ly kỳ và nhiều sự kiện bất ngờ.
Tôi thực sự hy vọng các bạn cũng đam mê đọc sách và thích nhân vật Robert Langdon giống như niềm vui sướng của tôi khi viết tác phẩm này.
Xin chân thành cám ơn.
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Emily Bestler, Jason Kaufman, Ben Kaplan, và đội ngũ nhân viên của Nhà xuất bản Pocket Books vì họ đã tin tưởng vào dự án này. Cám ơn người bạn và người đồng nghiệp Jake Elwell vì sự nhiệt tình và những nỗ lực không mêt mỏi của anh. Cám ơn George Wieser huyền thoại, người đã thuyết phục tôi viết cuốn tiểu thuyết này.
Cám ơn người bạn thân thiết của tôi - Irv Sittler, người đã giúp tôi diện kiến Giáo hoàng và tiết lộ cho tôi nhiều bí mật của Vatican mà hiếm người biết được, và cũng là người biến chuyến thăm thành Rome của tôi thành kỷ niệm khó quên.
Cám ơn nghệ sĩ tài năng đương thời, John Langdon, người đã xuất sắc trong việc khơi gợi những thách thức tưởng chừng không thể thực hiện nỏi trong tôi và giúp tôi tạo biểu tượng Ambigram - biểu tượng hai chiều đối xứng - cho cuốn tiểu thuyết này.
Cám ơn Stan Planton, phu trach thư viện Trường Đại học Ohio -Chillicothe vì những nguồn thông tin quý báu trong rất nhiều chủ đề.
Cám ơn Sylvia Cavazzini vì chuyến đi tuyệt vời tới dương hạm Passetto bí ẩn.
Con cũng xin gứi tới cha mẹ, Dick và Connie Brown, lòng biết ơn… vì tất cả những gì cha mẹ đã dành cho con.
Tôi cũng xin cám ơn CERN, Henry Beckett, Brett Trotter, Viện khoa học giao chủ (Pontifical Academy of Science), Vien Brookhaven, Thư viện Fermi Lab, Olgar Wieser, Don Ulsch của Học viện An ninh Quốc gia, Caroline H. Thompson tai Trường Đại học Wales, Kathryn Gerhard và Omar Al Kinđi, John Pike và Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ, Heimlich Viserholder, Corina và Davis Hammond, Aizaz Ali, Dự án Galileo thuộc Trường Đại học Rice, Julie Lynn và Charlie Ryan thuộc hãng phim Mockingbird, Gary Goldstein, Dave (Vilas) Arnold và Andra Crawford, Hệ thống Hiệp hội Anh em Toàn cầu, Thư viện Học viện Phillip Exter, Jim Barrington, John Maier, đôi mắt cực kỳ tinh tường của Margie Watchtel, thành viên trang web: alt.masionic.members, Alan Wooley, Thư viện trưng bày Kinh thánh chép tay, Lisa Callamaro và Cong ty Callamaro, Jon A. Stowell, Bảo tàng Vatican, Aldo Baggia, Noah Alizera, Harriet Walker, Charles Ferry, Micron Electrics, Mindy Renselaer, Nancy và Dick Curtin, Thomas D. Nadeau, Nuvo Media và Rocket E-books, Frank và Sylvia Kenedy, Simon Edwards, Hãng du lịch Rome, Maestro Gregory Brown, Val Brown, Werner Brandes, Paul Krupin ở Direct Contact, Paul Stark, Tom King ở Computalk Network, Sandy và Jerry Nolan, Web guru Linda George, Vien Nghệ thuật Rome, Học giả tôn giáo và nhà vật lí Steve Howe, Robert Weston, The Water Street Bookstore ở Exeter, New Hampshire, và Đài quan sát Vatican.
Thông tin
Cơ quan nghiên cứu khoa học lớn nhất thế giới - Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) - gần đây đã thành công trong việc tạo ra những hạt đầu tiên của phản vật chất. Phản vật chất giống hệt vật chất, chỉ trừ một điều nó được cấu tạo bởi các hạt có điện tích ngược với điện tích trong vật chất thông thường.
Phản vật chất là nguồn năng lượng mạnh nhất ma con người từng biết đến. Nó tạo ra năng lượng với hiệu suất 100% (trong khi phản ứng phân hạch hạt nhân chỉ đạt hiệu suất là 1,5%). Phản vật chất không gây ô nhiễm hay phóng xạ, và chỉ cần một giọt nhỏ cũng có thể cung cấp đủ năng lượng cho thành phố New York trong một ngày.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều lo ngại…
Phản vật chất rất không ổn định. Nó sẽ phát nổ khi chạm vào bất cứ thứ gì… kể cả không khi. Chỉ riêng một gram phản vật chất đã chứa nguồn năng lượng của một quả bom hạt nhân 20 kiloton - bằng kích cỡ của trái bom thả xuống Hiroshima.
Cho đến gần đây, người ta mới chỉ chế tạo được một lượng phản vật chất rất nhỏ (khoảng vài nguyên tử mỗi lần). Nhưng CERN đã đưa ra bước đột phá dựa trên thiết bị hãm tốc phản Proton - một thiết bị sản xuất phản vật chất tiên tiến, hứa hẹn sẽ tạo được số lượng lớn phản vật chất.
Một câu hỏi được đặt ra là: Liệu thứ vật chất kém ổn định như vậy sẽ là cứu cánh cho thế giới này, hay nó sẽ được dùng để chế tạo thứ vũ khí huỷ diệt kinh hoàng nhất mà con người chưa từng biết đến?
Nhà vật lí Leonardo Vetra ngửi thấy mùi da thịt cháy khét lẹt trên cơ thể mình. Ông kinh hãi nhìn bóng đen lù lù trước mắt:
- Ngươi muốn gì!
- Chìa khoá, - giọng nói khàn khàn đáp lại. - Mật mã.
- Nhưng… ta không…
Kẻ lạ mặt lại đè xuống, ấn mạnh cái vật sáng trắng, nóng rực lên ngực Vetra. Chỉ có tiếng xèo xèo của thịt cháy.
Vetra gào lên đau đớn:
- Không có mật mã nào hết! - Ông cảm thấy mình sắp ngất lịm đi.
Bóng đen nhìn trừng trừng.
- Ta rất sợ điều đó.
Vetra cố giữ cho đầu óc tỉnh táo, nhưng bóng tối đang bủa vây lấy ông. Niềm an ủi duy nhất là kẻ tấn công kia chưa lấy được thứ hắn muốn. Dù vậy, chỉ một lát sau, kẻ đó rút ra một lưỡi dao, dí sát vào mặt Vetra. Lưỡi dao vung lên. Rất gon. Rất điêu luyện.
- Vì Chúa! - Vetra thét lên. Nhưng đã quá muộn.
Từ trên bậc cao nhất của Kim tự tháp vĩ đại Giza, một phụ nữ trẻ đang cười và gọi vọng xuống.
- Robert, nhanh lên! Lẽ ra em nên lấy ông chồng trẻ hơn! - Nụ cười của cô đầy quyến rũ.
Anh gắng hết sức để theo cho kịp, nhưng đôi chân như hoá đá.
- Đợi đã. Làm ơn đi. - Anh năn nỉ.
Tiếp tục leo lên, anh thấy mọi thứ trước mặt nhoà đi. Trong tai anh như có tiếng đập thình thịch. "Mình phải đuổi kịp cô ấy". Những khi anh ngước lên lần nữa thì người phụ nữ đã biến mất, thay vào đó là một ông già răng rụng gần hết. Ông ta nhìn xuống, môi mím lại, vẻ nhăn nhó, rồi gào lên đau đớn, tiếng gào vang khắp sa mạc.
Robert Langdon tỉnh dậy sau cơn ác mộng. Chiếc điện thoại cạnh giường reo vang. Nửa tỉnh nửa mê, anh nhấc máy.
- Xin chào.
- Tôi cần gặp ông Robert Langdon, - giọng một người đàn ông cất lên.
Langdon ngồi dậy trên chiếc giường trống trải và cố gắng trả lời một cách tỉnh táo.
- Tôi… là Robert Langdon đây.
Anh ghé mắt nhìn đồng hồ. Mới có 5 giờ 18 phút sáng.
- Tôi cần gặp ông ngay lập tức.
- Ông là ai?
- Tên tôi là Maximilian Kohler, nhà vật lí hạt cơ bản.
- Là gì cơ? - Langdon hầu như không thể tập trung tư tưởng. - Ông có gọi đúng Langdon mà ông cần tìm không đấy?
- Ông là giáo sư ngành biểu tượng học của Trường đại học Harvard. Ông từng viết ba cuốn sách về biểu tượng và...
- Ông có biết bây giờ là mấy giờ không?
- Tôi xin lỗi. Tôi có một thứ muốn nhờ ông xem hộ. Chuyện này không thể thảo luận trên điện thoại được.
Langdon rên lên. Trước đây, những chuyện tương tự như thế này đã từng xảy ra. Một trong những nỗi khổ của việc viết sách về biểu tượng tôn giáo là những kẻ cuồng tín thường gọi đến đòi anh khẳng định những dấu hiệu mới nhất của Chúa. Thág trước, một cô gái hành nghề thoát y ở bang Oklahoma hứa sẽ cho anh một đêm ái ân tuyệt vời nhất trong đời nếu anh có thể bay đến và chứng minh tính xác thực của biểu tượng thánh giá xuất hiện một cách kỳ lạ trên ga giường của cô ta. "Tấm vải liệm người chết ở Tulsa"(1), Langdon đã đặt cho nó cái tên như vậy.
- Làm thế nào ông có số điện thoại của tôi? - Dù vào giờ này, song Langdon vẫn cố gắng tỏ ra lịch sự.
- Trên mạng toàn cầu và trang web về cuốn sách của ông.
Langdon nhíu mày. Anh biết chắc chắn rằng trang web đó không nêu số điện thoại nhà của anh. Rõ ràng người đàn ông nay đang nói dối.
- Tôi cần gặp ông. - Người gọi điện khăng khăng. - Tôi sẽ trả công cho ông hậu hĩnh…
Đến lượt Langdon nổi đoá:
- Xin lỗi, nhưng tôi thực sự….
- Nếu đi ngay bây giờ, - ông có thể ở đây vào lúc….
- Tôi chẳng đi đâu hết! Mới có 5 giờ sáng! - Langdon gác máy và nằm vật xuống giường. Anh nhắm mắt và cố ngủ, nhưng vô ích. Giấc mơ ban nãy vẫn hiện rõ nét trong tâm trí anh. Anh đành miễn cưỡng mặc quần áo và đi xuống nhà.
Với đôi chân trần, Robert Langdon đi tha thẩn trong ngôi nhà trống trải ở bang Massachusetts được thiết kế theo phong cách Victoria, và tự chữa căn bệnh mất ngủ thường xuyên của mình bằng một cốc ca-cao Nestle Quik nghi ngút khói. Ánh trăng tháng 4 rơi qua khung cửa sổ lồi và đùa rỡn trên những tấm thảm phương Đông. Đồng nghiệp của Langdon vẫn đùa rằng nơi này giống bảo tàng nhân chủng học hơn là một ngôi nhà. Trên các giá chất đầy những mẫu vật tôn giáo từ khắp nơi trên thế giới - bức tượng gỗ ekuaba(2) từ Ghana, cây thánh giá vàng của Tây Ban Nha, bức tượng thời kỳ đồ đồng của vùng biển Aegean(3), tượng gỗ đan boccus hiếm có của Borneo - biểu tượng trẻ mãi không già của các chiến binh.
Khi ngồi xuống bên chiếc rương đồng Maharishi và thưởng thức vị ấm nóng của so-co-la, anh chợt nhìn thấy hình ảnh mình phản chiếu trong khung kính cửa sổ, trong méo mó và nhợt nhạt… giống như ma. Một con ma già, anh nghĩ, hình ảnh đó gợi nhắc tới thực tế trần trụi là tâm hồn trẻ trung của anh đang sống trong vỏ bọc già cỗi.
Mặc dù không có vẻ ngoài đẹp trai theo kiểu cổ điển, song ở tuổi 45, Langdon được các nữ đồng nghiệp đánh giá là người có vẻ đẹp "thông thái" - mái tóc dày màu nâu, đôi mắt xanh ánh lên niềm khát khao học hỏi, giọng nói trầm trầm cuốn hút, nụ cười vô tư của một vận động viên thể thao thành viên trong đội tuyển lặn của trường trung học và đại học, Langdon vẫn giữ vóc dáng cao 1 mét 8 và thân hình rắn chắc của một vận động viên bơi lội bằng cách bơi 50 vòng quanh bể bơi ở trường đại học mỗi ngày.
Bạn bè của Langdon cho rằng anh thuộc tip người khó hiểu - con người của nhiều thế kỷ. Vào ngay nghỉ cuối tuần, bạn bè thường bắt gặp anh lang thang trong sân trường, mặc quần jean, thảo luận về đồ hoạ máy tính hay lịch sử tôn giáo với các sinh viên, có khi người ta lại bắt gặp anh trong chiếc ao vest thêu hoa làm bằng vải tuýt hiệu Harris và được đăng hình trên các tạp chí nghệ thuật hàng đầu khi tham dự lễ khai trường bảo tàng, nơi anh đã từng được mời đến thuyết giảng.
Mặc dù là một giáo viên khó tính và nghiêm khắc nhưng Langdon lại là người đầu tiên bạn bè chạy đến nếu muốn nghe "những chuyện cười nghệ thuật" - Sinh viên vẫn đồn rằng anh có biệt tài truyền sự say mê của mình sang người khác. Biệt danh "Cá heo" ở trong khu nội trú đã minh chứng cho bản chất hoà nhã và khả năng ngụp lặn kỳ diệu của anh, vượt trội hơn hẳn toàn bộ đối phương trong các trận đấu bóng Polo nước.
Khi Langdon ngồi một mình, lơ đễnh nhìn vào bóng tối, sự im lặng trong ngôi nhà bị tan bởi tiếng xành xạch của máy fax. Kiệt sức vì bị quấy rầy, anh gượng nở một nụ cười mệt mỏi.
"Người của Chúa, anh nghĩ. 2000 năm chờ đợi Chúa Cứu Thế, và họ vẫn kiên trì như vậy".
Anh mệt nhọc đặt chiếc cốc lên bàn ăn và chậm chạp tiến về bàn làm việc bằng gỗ sồi. Bản fax vừa gửi đến đang nằm trên khay. Anh thở dài nhắc tờ giấy lên xem.
Ngay lập tức, Langdon thấy buồn nôn.
Trên trang fax là hình ảnh của một xác chết, toàn thân bị lột trần, đầu bị vặn ngược ra sau. Trên ngực nạn nhân có một vết cháy sém khủng khiếp. Người này bị đóng dấu... khắc một từ.
Langdon biết rõ từ này. Rất rõ. Anh nhìn chằm chằm vào những chữ cái được trang trí hết sức cầu kỳ, không thể nào tin được.
- Illuminati… - anh lắp bắp, tim đập thình thịch. Không thể nào...
E ngại vì những gì mình sắp chứng kiến, Langdon chầm chậm xoay tờ fax 180 độ. Anh nhìn ngược từ đó.
Ngay lập tức, anh cảm thấy nghẹt thở, hệt như bị xe tải đâm. Không tin vào mắt mình, anh quay lại tờ fax, đọc xuôi rồi đọc ngược.
Illuminati, anh thì thầm.
Langdon sững sờ ngồi sụp xuống ghế. Anh lặng đi một lúc, hoàn toàn ngây dại. Một lúc sau, anh nhận ra ánh đèn đỏ vẫn đang nhấp nháy trên máy fax. Người gửi cho anh bản fax này vẫn đang giữ máy... chờ nói chuyện với anh. Langdon nhìn ánh dèn đỏ nhấp nháy một hồi lâu.
Rồi anh run rẩy nhấc điện thoại.
Chú thích: (1) Tulsa: Thành phố lớn thứ hai ở bang Oklahoma, Mỹ.
(2) Ekuaba: tượng một vị thần làm bằng gỗ - biểu tượng cho sự phồn thịnh ở Ghana và các khu vực phụ cận.
(3) Aegean: vùng biển nằm gần Địa Trung Hải, giữa phía Nam bán đảo Balkan và Anatolian (giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ)
- Liệu tôi đã được anh chú ý đến chưa? - Giọng nói của người đàn ông cất lên khi anh trả lời đường dây.
- Vâng, ông đã làm được cái việc chết tiệt ấy rồi đấy. Ông muốn giải thích gì về bản thân?
- Ban nãy tôi đã định trình bày với ông. - Giọng nói có vẻ cứng nhắc. - Tôi là một nhà vật lý, đang điều hành một cơ sở nghiên cứu. Ở đây vừa xảy ra một vụ án mạng. Ông dã nhìn thấy xác chết rồi đấy.
- Làm thế nào ông tìm ra tôi? - Langdon hầu như không thể tập trung được vì tâm trí anh vẫn bị ám ảnh bởi hình ảnh trên tờ fax.
- Tôi đã nói với ông rồi. Trên mạng toàn cầu. Trên trang web về cuốn sách của ông: Nghệ thuật của Illuminati.
Langdon cố gắng tập trung suy nghĩ. Cuốn sách của anh ít người trong giới học thuật biết đến, nhưng nó vẫn được tung lên mạng. Tuy nhiên, những gì người đàn ông này nói có vẻ không hợp lý.
- Trang web đó không có thông tin liên lạc. - Langdon nói - Tôi chắc như vậy.
- Người của tôi ở phòng thí nghiệm rất thạo việc moi thông tin của người sử dụng từ trên mạng.
Langdon vẫn còn hoài nghi:
- Nghe cứ như phòng thí nghiệm của ông biết rất nhiều về Internet.
- Đúng thế, - người đàn ông đáp trả. - Chúng tôi tạo ra nó mà.
Giọng nói của người này cho thấy ông ta không đùa.
- Tôi cần gặp ông? - người gọi điện khăng khăng - Vấn đề này không thể đề cập trên điện thoại được. Phòng thí nghiệm của chúng tôi chỉ cách Boston một giờ bay.
Langdon đứng im dưới ánh sáng lờ mờ hắt ra từ bàn làm việc, chăm chú nhìn bản fax trong tay. Hình ảnh quá ấn tượng, có lẽ phải mất cả thế kỷ để tìm kiếm. Một thập kỷ nghiên cứu của anh chỉ để khẳng định một dấu hiệu.
- Rất khẩn cấp đấy. - Giọng nói ở đầu dây bên kia lộ rõ vẻ căng thẳng.
Mắt Langdon dán chặt vào hình dấu khắc. Illuminati, anh đọc đi đọc lại. Các công trình nghiên cứu của anh luôn dựa vào các biểu tượng đào từ dưới đất lên - những tài liệu cổ xưa với những câu chuyện truyền miệng - nhưng hình ảnh trước mắt anh là của thực tại. Của thời hiện tại. Anh thấy mình giống như một nhà cổ sinh vật đang đối mặt với một con khủng long sống.
- Tôi sẽ cử một máy bay riêng đến chỗ ông, - giọng nói cất lên. - Nó sẽ có mặt ở Boston trong vòng 20 phút nữa.
Langdon cảm thấy miệng đắng ngắt. Một giờ đồng hồ bay...
- Xin hãy tha lỗi cho sự đường đột của tôi, - giọng nói tiếp tục, - nhưng tôi cần ông ở đây.
Langdon nhìn lại bản fax - một bí ẩn cổ đại trong bức ảnh đen trắng. Y nghĩa sâu xa của nó thì thật là ghê rợn. Anh lại nhìn lơ đãng qua khung cửa sổ. Những tia nắng bình minh đầu tiên đang chiếu xuống hàng cây bulô ngoài vườn, nhưng sáng nay quang cảnh trông khác hẳn. Sự đan xen kỳ lạ của nỗi sợ hãi và cảm giác phấn khích tràn ngập trong anh. Langdon biết anh không còn sự lựa chọn nào khác.
- Ông đã thắng. - Anh nói - Cho tôi biết chỗ đậu máy bay.
Cách đó hàng chục ngàn kilômét, hai người đàn ông đang gặp nhau trong một căn phòng tối tăm bằng đá xây từ thời Trung cổ.
Benvenuto(1), người có quyền lực nói. Ông ta ngồi trong bóng tối nên không nhìn rõ mặt.
- Ngươi có làm được việc không?
Si(2), bóng đen đáp lại.
- Perfettamente(3) - Lời nói của hắn chắc như đinh đóng cột.
- Và không thể biết được ai là người phải chịu trách nhiệm?
- Không.
- Tuyệt vời. Ngươi đã lấy được thứ ta yêu cầu chưa?
Đôi mắt của kẻ giết người sáng quắc lên. Hắn đưa ra một thiết bị điện tử khá nặng và đặt lên bàn.
Người đàn ông trong bóng tối có vẻ hài lòng:
- Ngươi được việc lắm.
- Được phụng sự hội là niềm vinh dự đối với tôi. - Kẻ giết người đáp.
- Giai đoạn hai sẽ bắt đầu sớm thôi. Hãy nghỉ ngơi đi. Đêm nay chúng ta sẽ thay đổi cả thế giới.
Chú thích:
(1) Benvenuto (tiếng Ý): Chào mừng, Xin chào.
(2) Si (tiếng Ý): Có.
(3) Perfettamente (tiếng Ý): Tuyệt vời.