10 Mẩu Truyện Thiền cho Đời Sống Thường Nhật Con Người - Osho
10 Mẩu Truyện Thiền cho Đời Sống Thường Nhật Con Người
Osho
Dịch giả Thích Nữ Minh Tâm
Lời Giới Thiệu
" Thiền không hứa hẹn với bạn một điều gì cả,
Thiền chỉ đơn thuần hướng dẫn bạn sống và ý thức ngay phút giây hiện tại và ở đây".
Quyển sách này thật quí giá; nó là một kho tàng. Nó có thể trở thành một cuộc đối thoại giữa bạn và đạo sư Oshọ Nó có thể trở thành một hiện tượng hiếm có, và sống động.
Trong niềm an tịnh và sùng kính, Osho đã khai phóng toàn thể nét đẹp, bí mật và cốt tủy Thiền tông. Chắc chắn bạn sẽ tìm thấy niềm tịch nhiên an lạc và bất ngờ pha lẫn thích thú trong "Không Nước Không Trăng". Những cú đấm, la hét, hay cười phá lên của các Thiền sư chỉ là những cái mẹo để tấn công, bắt buộc người đệ tử phải vận dụng tận cùng khả năng phá vỡ thành trì của Bản Ngã, hầu đạt tới cửa ngõ Giác Ngộ.
Qua những ngôn từ vay mượn hữu hạn của loài người, Osho đã phơi bày trọn vẹn thế giới nội tâm của ông cũng như sự sáng tỏ về ý nghĩa Tình Yêu, Cuộc Sống, Cái Chết, Thiền Định và Giác Ngộ trên từng nét chữ câu văn. Bạn chắc chắn sẽ tìm thấy "chính mình" khi soi bóng trên chiếc gương của Tư Duy và Thầm Lặng.
Những mẫu đối thoại trong mười câu truyện Thiền dưới đây là những viên đá đầu tiên giúp bạn đặt chân tới vùng đất tâm linh bởi vì chúng nó đang nói về bạn, ám chỉ tới bạn; chúng nó chính là "bạn" đấy! Bạn chính là kho tàng đang bị che dấu sau cái vỏ của chính mình.
"Thiền là khai mở mắt trí huệ,
Thiền là nhìn sâu thẳm vào trong ta "
Quyển sách này thật qúi giá; nó là một kho tàng. Nó là một món quà của Chân Lý hiện hữu đang kêu gọi bạn quay về quê hương, quay về tổ ấm.
Ma Yoga Rabiya.
Tiểu sử Tác Giả: OSHO
Hầu như tất cả chúng ta đều sống trong hoài niệm quá khứ và kỳ vọng tương lai. Có thể nói rất ít, rất ít ai chạm đến được cái Phi Thời Gian của Hiện Tại - khoảnh khắc khám phá ra cái Đẹp bất ngờ, hay đối diện với sự Hiểm Nguy bất ngờ. Rất ít người có thể bước ra khỏi thế giới của Thời Gian và Tri Thức, của Đam Mê và Tranh Đấu, để sống trong thế giới Phi Thời Gian, Phi Không Gian.
Trong số những người rất ít đó, chỉ có những Thánh nhân đã đạt được tới cái siêu việt "Không - Thời Gian" đó là Đức Phật, Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lão Tử, v.v... và gần đây nhất là George Gurdjieff, Ramana Maharshi, J. Krishnamurti, v.v... Khi đương thời, những bậc vĩ nhân này bị mọi người dèm pha cho là kỳ dị hay điên khùng, nhưng sau khi họ chết đi thì họ được tôn xưng là thánh nhân hay triết gia vĩ đại.
Osho là một trong những người rất hiếm có đã mở ra được cánh cửa của phi thời gian của Hiện Tại. Ông ta tự xưng là "người theo thuyết hiện sinh thực sự" và ông đã dành trọn cuộc đời để khuyến khích những người khác hãy tự khám phá lấy chính mình, và bước ra khỏi vòng kềm tỏa của Qúa Khứ và Tương Lai để sống trong thế giới Hiện Tại bất diệt, vĩnh cửu.
Osho sanh vào ngày 11 tháng 12 năm 1931 tại làng Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn Độ. Từ lúc còn là cậu bé con, Osho đã chứng tỏ cho mọi người thấy ông là một người có cá tánh độc lập, cương quyết và nổi loạn, khăng khăng bảo vệ chính kiến của mình bằng kinh nghiệm tư duy, sống thực thụ chứ không phải đi học mót lại hay lần mò theo tín ngưỡng của người khác.
Sau khi đạt ngộ vào năm 21 tuổi, Osho đã hoàn tất văn bằng Tiến Sĩ và dạy triết vài năm ở Đại Học Jabalpur, Ấn Độ. Cùng thời gian đó, ông đã đi du thuyết khắp nơi ở Ấn tranh luận công khai với nhiều đạo sư các tông phái chính thống khác, cật vấn họ về những tín ngưỡng truyền thống đương thời, và gặp mặt nhiều người từ mọi tầng lớp, chức vụ thượng lưu đến bình dân hạ tiện.
Cuối những năm 60, Osho đã tung ra phương pháp học thiền của chính ông. Ông cho rằng ngày nay người ta bị chèn ép và chất nặng trên vai những truyền thống tập tục, tín ngưỡng của quá khứ và những bất an của đời sống văn minh hiện đại; vì thế người ta cần phải gột rửa trí óc để có thể đi vào trạng thái an nhiên vô niệm của Thiền Định.
Osho nói "Chỉ có một số rất ít người can đảm thôi mới sẵn sàng chết đi để sống lại thành con người mới. Chỉ có những người can đảm đó mới liều mạng để nghe tôi nói, nói Sự Thật".
Osho từ giã cõi đời vào ngày 19 tháng giêng năm 1990. Cộng đồng những môn đệ của Osho ở Ấn vẫn tiếp tục duy trì theo đường lối của ông và ngày nay nó đã trở thành một trung tâm tu học phát triển tâm linh lớn mạnh nhất thế giới hấp dẫn hàng ngàn người khắp nơi về Ấn thực tập thiền định, điều trị tâm lý, chữa tật bịnh, đề xuất ra những chương trình sáng tạo hay trao đổi những kinh nghiệm tâm linh.
Osho không đến không đi.
Osho chỉ ghé lại hành tinh Địa Cầu này từ năm 1931 đến 1990.
"Ni Cô Chiyono đã tu học nhiều năm, nhưng vẫn chưa đạt được gì cả. Một đêm, cô quãy đôi thùng xuống suối múc nước. Khi cô gánh nước trở về tu viện, cô vừa đi vừa ngắm ánh trăng soi rọi xuống mặt nước trong thùng. Bất thình lình, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến - không còn - và Chiyono hoát nhiên giác ngộ. Cô đã viết bài thơ:
"Bằng cách này hay cách khác, tôi đã kềm giữ đôi thùng nước,
Mong rằng chiếc đòn gánh dòn yếu kia sẽ không gãy
Bất chợt, giây đứt thùng văng,
Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước,
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì".
Giác ngộ không hẹn mà đến, thật bất ngờ, thật đột ngột. Không có sự tuần tự tiến trình tìm tới sự Giác Ngộ, bởi vì sự tuần tự thuộc về trí óc, và Giác Ngộ không phải là sản phẩm của trí óc. Giác Ngộ vượt qua hàng rào tư duy và nhận thức lô gích của trí óc. Vì thế, chúng ta không thể tiến dần về Giác Ngộ, mà đơn thuần chúng ta nhảy một bước vọt vào trong Giác Ngộ. Chúng ta không đi từng bước từng bước; không, không có những từng bước đó. Một là chúng ta đại ngộ, hai là không. Không có sự chứng đắc từng phần, từng mảnh. Chân Lý là Chân Lý hoàn toàn, là viên mãn, tròn đầy. Chứng đắc là chứng đắc toàn diện. Hãy nhớ kỹ một điều cơ bản là:" trí óc không thể nào suy lường hiểu thấu được Chân Lý. Trí óc có thể làm công việc phân tích, suy luận, cân nhắc, v.v... những gì chúng ta có thể chia chẻ ra được. Trí óc có thể hiểu tất cả những gì mà chúng ta đem ra cân đong, đo lường, tính đếm. Vì thế, nếu chúng ta nghe theo trí óc, chúng ta không bao giờ đạt tới Chân Lý viên mãn được.
Đó chính là điều mà ni cô Chiyono đã sai lầm. Chiyono đã tu học, đã tư duy nhiều năm và đã bao năm trôi qua, cô vẫn chưa gặt hái được điều gì. Không có một sự cố gì xảy ra cho cô cả.
Trí óc con người có thể nghiên cứu về Thượng Đế, về Giác Ngộ, về Tuyệt Đối. Nó cũng có thể lừa bịp chúng ta là tất cả mọi sự việc trên đời này đều đã được giải thích tường tận, đã cho ra một đáp số trọn vẹn rồi. Ngay cả khi chúng ta nói chúng ta đã hiểu rõ ràng tất cả "về" Thượng Đế, về Chân Lý, về Phật, về Chúa, chúng ta đã tự lừa dối mình vậy.
Trí thức viên mãn là trí thức không phải "về" một cái gì. Khi chúng ta nói "về", thí dụ như tôi suy nghĩ "về" anh, suy nghĩ "về" cuộc đời, suy nghĩ "về" tình yêu, v.v... chúng ta đã tự đặt mình trong thế nhị nguyên đối đãi. Vì có cái này nên có cái kia, vì có anh nên có tôi, vì có đối tượng nên có người suy nghĩ; chúng ta đang xoay vòng theo một vòng tròn như con kiến bò theo miệng chén; chúng ta không bao giờ nhảy vào được bên trong vòng tròn đó. Vì thế, khi một người nào đó nói rằng:" tôi đã hiểu được chân lý, tôi đã hiểu được "Thượng Đế", hắn ta thực ra chẳng hiểu được một tí gì cả.
Phật Tánh, Chân Lý, Thượng Đế, Chúa v.v... là trung tâm điểm; không phải là chu vi, ngoại giới, không phải là cái bên ngoài. Chúng ta phải thể nhập vào Chân Lý, chúng ta với Phật, với Chúa là một; đó là con đường duy nhất, không có con đường nào khác.
Đó là lý do Chúa Giê Su đã nói :" Chúa là Tình Yêu - Tình Yêu viết hoa - chứ không phải là sự ái nhiễm của nam nữ. Bạn không định nghĩa được Tình Yêu, bởi vì bạn chưa hội nhập được vào tình yêu; bạn chưa là một với tình yêu. Bạn có thể là một nhà nghiên cứu, một nhà tâm lý, bạn có thể trở thành một học giả vĩ đại, nhưng bạn chưa bao giờ thể nhập vào Tình Yêu, vào Chân Lý Tuyệt Đối.
Tình Yêu chỉ thực sự hiện diện khi bạn trở thành tình yêu. Ngay cả khi người yêu bạn biến mất đi, tình yêu vẫn còn đó, bởi vì tình yêu đơn thuần là tình yêu, không có chủ thể, không có đối tượng. Cả hai chữ "chủ thể" và "đối tượng" đều là cái bên ngoài, là đối đãi. "Có cái này nên có cái kia", "vì có anh nên tôi có mặt"; nếu còn có sự đối đãi, thì bạn đang đánh mất thực tại.
Khi hai tình nhân đứng bên nhau, cả hai đều vắng bóng. Chỉ có Tình Yêu hiện diện, chỉ có giai điệu Tình Yêu phát ra tiết tấu. Tình Yêu có mặt khi bản ngã con người vắng bóng; Tri Thức có mặt khi đầu óc con người chứa đầy ý niệm. Tri Thức thì thuộc về bản ngã, về cái tôi, và cái tôi đó không thể nào xâm nhập được vào trung tâm điểm cả; nó chỉ là chu vi, là vòng tròn ngoại giới. Với cái Tôi đầy ắp những quan niệm, Kinh Thánh, Kinh Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư hay Kinh Koran, bạn mãi mãi là một kẻ xa lạ.
"Ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm... "
Ni cô đó đã tu học nhiều năm hay nhiều kiếp rồi. Bạn cũng đã tu học nhiều năm hay nhiều kiếp rồi. Bạn đang chạy trên một vòng tròn. Bạn tưởng rằng bạn đã tới đích, nhưng không, bạn đang di chuyển trên một vòng tròn lập đi lập lại. Vòng tròn đó, người tín đồ Ấn độ giáo gọi là "Samsara", có nghĩa là bánh xe, là vòng tròn. Bạn di chuyển, di chuyển mãi và không bao giờ tới đích cả. Bạn không bao giờ thấy được cái vòng tròn đó vì bạn chỉ biết một phần của vòng tròn đó mà thôi. Nó mãi mãi là một con đường, một con đường vô tận. Đó là những gì đã xẩy ra cho bao kiếp nhân sinh.
"Chiyono đã tu tập và tu tập, nhưng vẫn chưa đạt được chân lý". Vì sao? Không phải vì chân lý, giác ngộ khó khăn, hóc buá, mà chính vì khi bạn nỗ lực tìm hiểu nghiên cứu chân lý, bạn đã đi lạc hướng rồi. Bạn đã đi trật đường rầy rồi. Điều đó cũng giống như khi một người nào đó muốn đi vào căn phòng lại đâm đầu vào bức tường vậy. Vào căn phòng không phải khó, nhưng phải vào qua cánh cửa, chứ không phải qua bức tường. Nhiều người, rất nhiều người, khi họ bắt đầu cuộc hành trình, họ bắt đầu bằng học hỏi, nghiên cứu, bằng kiến thức, thông tin, triết lý, hệ thống hay lý thuyết. Họ bắt đầu từ "cái... về một cái... gì đó" cho nên họ đã va mặt vào bức tường vậy.
"Hãy là Chân Lý, hãy là Tình Yêu". Nếu bạn muốn biết Tình Yêu. Nếu bạn muốn biết Thượng Đế, hãy thiền định. Nếu bạn muốn thể nhập vào vô tận, hãy lắng lòng cầu nguyện. Phải tự chính mình là Chân Lý, là Tình Yêu; chứ không phải là người đang cầu nguyện, không phải là người đang thu góp lại những gì người khác nhả ra và nhai lại. Hãy buông bỏ tất cả chữ nghĩa, kinh điển. Chúng nó chỉ là những hàng rào, những bức tường ngăn cản bạn nhảy vọt vào Bản Thể Tuyệt Đối. Cánh cửa Chân Lý sẽ không bao giờ mở ra nếu bạn ôm đồm một mớ Kinh Thánh, Kinh Vệ Đà, Kinh Koran, v.v... cũng như ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm nhưng vẫn chưa đạt được gì.
Giác Ngộ là gì? Đó chính là sự tỉnh giác "Ta là Ai?. Giác Ngộ không có gì liên quan với thế giới bên ngoài. Giác Ngộ không có gì liên quan đến những gì người ta nói về nó. Những gì người ta nói đều lạc hướng hay chỉ diễn tả được một phần của Giác Ngộ. "Bạn đang có mặt tại đây, ngay phút giây này". Tại sao bạn phải đi tìm cầu nơi Kinh Thánh hay Kinh Vệ Đà? Hãy nhắm mắt lại và bạn đang ở đây, trong niềm hoan lạc thiêng liêng vô tận. Hãy nhắm mắt lại và cánh cửa đã mở. Bạn đang có mặt tại đây, ngay phút giây này. Không cần phải hỏi ai hết, không cần một tấm bản đồ chỉ dẫn. Trong thế giới nội tại, không có bản đồ, không cần có bản đồ, bỏi vì bạn không đi về một hướng vô định.
Bạn đang có sẵn trong tâm một "nẻo về của ý".
Thực ra, bạn cũng không di chuyển gì cả. Bạn đang ở đây; bạn là mục đích. Bạn không phải là kẻ tìm kiếm. Bạn chính là "Giác Ngộ"; bạn chính là "Giải Thoát"; bạn chính là "Chân Lý". Khi bạn chạy rong tìm kiếm cái bên ngoài, bạn là kẻ vô minh. Khi bạn quay ngược về bên trong mình, bạn chính là sự Giác Ngộ. Điều khác biệt duy nhất chính là sự chú tâm, sự quay ngược về.
Trong Kinh Thánh, danh từ "cải hoá" rất đẹp rất hay; nhưng nhiều người vì đã hiểu sai nên đã sử dụng nó không đúng. Sự "cải hoá" không có nghĩa là thay đổi một người Ấn Độ giáo thành một tín đồ Thiên Chúa, cũng không phải biến một người Công Giáo thành một tín đồ Ấn Độ giáo. "Cải Hóa" có nghĩa là quay lại. "Cải Hóa" có nghĩa là quay về nguồn, quay về bên trong, quay về tâm linh.
Tâm thức của bạn như một dòng sông, có thể trôi về hai phiá, bên ngoài hay bên trong; chỉ có hai phiá mà thôi, định hướng cho một dòng sông tâm thức. Nếu tâm thức bạn quay ra bên ngoài thì nó sẽ trôi qua nhiều đời, nhiều kiếp, và sẽ không bao giờ đạt tới mục đích; bởi vì mục đích chính là cội nguồn mà bạn đã quay đi, bỏ lại sau lưng. Cội nguồn đó không phải trước mặt, không phải là nơi mà bạn sẽ hướng tìm tới. Cội nguồn chính là nơi mà bạn đã quay lưng. Nếu bạn có thể quay ngược về điểm đầu tiên mà bạn đã xuất phát, bạn đã tìm thấy cội nguồn tâm linh rồi vậy.
Đó, đó là vì sao mà Chiyono đã tu học nhiều năm mà vẫn chưa đạt được gì, bởi vì cô đã chạy về phía trước tìm chân lý.
Còn một điều này nữa tôi muốn nói với bạn: "Đừng tìm kiếm Chân Lý trong kinh điển". Kinh điển chỉ là những xác chết, những thây mạ Đời sống là một đòng linh động, phát triển. Đi hỏi những xác chết về sự sống thì thực đáng buồn cười thay, phải không? (ghi chú của người dịch: Câu nói này có nghĩa là chúng ta không nên chấp trước vào văn tự chữ nghĩa, dù đó là kinh điển, mà hãy thực nghiệm tâm linh để thể chứng; Sự và Lý phải đi đôi, viên dung với nhau thì mới có thể đạt được giác ngộ; nếu chấp vào một bên thì sẽ rơi vào kiến chấp, sơ cứng tâm linh). Thần Krishna hay Chúa Giê Su cũng không thể giúp gì cho bạn - trừ phi chính bạn là Krishna hay Chúa Giê Sụ Nếu bạn nghĩ rằng bạn sẽ tìm thấy câu trả lời trong kinh điển thì bạn đã sai lầm lớn rồi vậy. Câu trả lời sẽ không bao giờ tìm thấy đâu, bạn ạ. Đó là lý do vì sao các triết gia, các học giả cứ lẩn quẩn, loanh quanh với mớ chủ nghĩa, lý thuyết, hệ thống v.v... Họ đã lạc hướng quá xa rồi.
Không, không có ai trả lời bạn được đâu. Đừng đi đến bất cứ ai để mong được câu trả lời về giác ngộ, giải thoát. Nếu bạn tìm đến vị đạo sư thì tất cả những gì ông ta làm là giúp bạn tìm ra chính bạn, tìm ra con người thật của bạn. Không có một vị đạo sư nào giúp bạn có câu trả lời sẵn; không có ai cho bạn cái chìa khóa đâu. Vị đạo sư chỉ giúp bạn quay về bên trong, nhìn vào bên trong bạn. Tất cả là ở đó; kho tàng là ở đó; chìa khóa là ở đó - bên trong con người bạn.
"Chiyono quãy đôi thùng cũ đầy nước... "
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng gánh cái đầu óc cũ kỹ đầy ắp những học thuyết, quan niệm, chủ nghĩa của chúng ta ngày nay qua ngày khác. Cái đầu óc đó đã cũ kỹ rồi, đã sơ cứng rồi, đã chết rồi.
Các thiền sư đã nói: "Qúa khứ không truy tìm, tương lai chưa kịp đến, an trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời". Thực tại là đây, bạn đang có mặt tại đây - nhưng giữa bạn và thực tại là bức màn tri thức. Những gì bạn thấy, bạn thấy qua bức màn tri thức đó. Những gì bạn nghe, bạn nghe qua bức màn tri thức đó. Chúa Giê Su đã nói với các tông đồ rằng: "Nếu các người có tai để nghe, hãy nghe tạ Nếu các người có mắt để nhìn, hãy thấy ta". Nhưng chúa Giê Su đã biết là các tông đồ đã mù và đã điếc rồi vậy.
Những gì bạn nghe qua tri thức, những gì bạn thấy qua tri thức, những gì bạn thấy qua tri thức đã bị tri thức tô mầu, thay đổi hay pha trộn. Tri thức đã đánh lừa bạn, đã đưa bạn vào vùng ảo giác, mê hồn trận.
Chúng ta không thể nào đổi mới được với tri thức. Đừng tự lừa dối mình hay người qua lớp vỏ tri thức. Vì thế, nếu bạn muốn làm một cuộc cách mạng tư tưởng, trước hết phải nhìn lại rõ mình. Những người Cộng Sản không thể nào làm cách mạng được, vì họ không bao giờ định tâm thiền định. Chủ nghĩa Công Sản mà họ đang tôn thờ đó là sản phẩm của tri thức. Họ không tin vào bất cứ một đấng thần linh nào, họ tin vào Karl Marx hay họ tin vào Mao trạch Đông (bản sao cuối cùng của Marx); nhưng họ tin. Những người Cộng Sản hay những tín đồ Ấn Độ giáo, Công giáo và Hồi giáo thực giống nhau, bởi vì những người này đều nhắm mắt tin theo những chủ nghĩa, giáo điều hay hệ thống thiết lập trên nền tảng không vững chắc của tư duy và khái luận. Vì thế, trên thế gian này, chỉ có tôn giáo nào dám lật đổ mọi giáo điều cũ rích, hệ thống tư duy sai lạc để đưa con người quay trở về với bản thể, chân như, giác ngộ; tôn giáo đó mới thực sự làm cuộc cách mạng vĩ đại nhất; tôn giáo đó mới có thể làm một cuộc cách mạng chính xác, đúng đắn và toàn diện nhất. Một khi bạn phá vỡ được thành trì kiến chấp, giáo điều, hệ thống, buông xả được tri thức, bản ngã, thì lúc đó, bạn sẽ nhìn vạn vật vạn sự trên cõi đời này khác hơn, xuyên suốt hơn, mới mẻ hơn. Vạn vật sẽ trở nên tươi thắm, linh động. Bạn sẽ trở thành trẻ thơ trở lại. Mắt bạn ngây thơ hơn, trong sáng hơn, vô tư hơn. Bạn sẽ nhìn vạn vật không xuyên qua một bức màn che phủ nào. Cây cối xanh tươi và tiếng chim hót du dương trên cành cây kia sẽ là điệu nhạc đời muôn thưở.
Cảm giác khinh an đó rất khác với cảm giác mê ly của những người say ma túy. Aldous Huslley (một triết gia, tiểu thuyết gia, phê bình gia, nghị luận gia người Anh) đã sai lầm khi sử dụng ma túy, tưởng rằng sẽ tìm được cảm giác khinh an thoát tục. Thế hệ trẻ bây giờ nghiện cần sa ma túy cũng vì tưởng rằng sẽ tìm được an nhiên giải thoát cho những bế tắc khủng hoảng tâm linh. Dược tánh trong cần sa á phiện là độc dược. Nó làm tê liệt trung khu não bộ, và gây ra những ảo giác mờ mịt, khoái cảm bệnh hoạn cho người sử dụng nó. Hệ thần kinh của người sử dụng ma túy không còn hoạt động nhạy bén được nữa, và dần dần nếu còn dùng ma túy nhiều thì độc tố trong người càng tăng, mức độ khoái cảm càng bị kích thích cao. Ma túy đã đẩy trí óc qua một bên và chiếm chỗ, và những gì người sử dụng ma túy thấy và cảm giác họ kinh qua đều sai lạc và bệnh hoạn.
Tri thức con người cũng độc hại như ma túy vậy. Nó ngăn che không cho chúng ta nhìn rõ lại chính mình. Nó cũng tạo ra những ảo giác mê lầm, đưa đến bệnh Ngã - Kiến chấp cho chúng ta.
Chỉ có Thiền Định mới có thể giết chết bịnh Ngã - Kiến chấp đó. Chỉ có Thiền Định mới là liều thuốc giải độc tố tri thức của con người. Thiền định giúp người ta khai phóng mắt trí tuệ. Thiền định có nghĩa là nhìn - nhìn sâu vào bên trong.
Danh từ "Darshan" trong Ấn Độ giáo có nghĩa là "Nhìn" (looking at) - vì thế, tín đồ Ấn Độ giáo định nghĩa "Thiền" là "Nhìn" - nhìn sâu vào bên trong ta để tìm ra con người thật của chính mình.
Bạn hãy thử làm một thí nghiệm nhỏ này. Bạn vào phòng, đóng cửa lại, và bắt đầu lấy giấy bút viết ra tất cả những ý tưởng nào chợt đến, chợt đi, chợt thoáng qua trong đầu óc bạn. Hãy viết tất cả, bất cứ một ý nghĩ nào vụt đến. Bạn đừng thay đổi chúng, đừng biến dạng chúng, vì bạn không cần phải đưa mảnh giấy đó cho ai xem cả. Bạn cứ viết như vậy trong vòng mười phút thôi và sau đó nhìn lại: đó là những gì bạn tư tưởng, những gì bạn suy nghĩ. Nếu bạn nhìn kỹ, thì bạn sẽ nghĩ đó là tác phẩm của một kẻ điên loạn, mắc bịnh thần kinh. Những ý tưởng lăng xăng lộn xộn, không ăn nhập vào nhau, có cái thánh thiện, có cái ghê tởm, có cái thuần lương, có cái qủy sứ, v.v... Đó, trí óc con người là thế đó, là một cái hộp số chứa đầy những bí ẩn và phức tạp, và chúng ta lại đi che dấu sự điên loạn rối ren đó đằng sau cái mặt nạ con người. Chúng ta luôn luôn ẩn nấp, che dấu, không dám lộ diện con người thật của chúng tạ Đằng sau cái bộ mặt người đó, chúng ta chỉ là một kẻ điên, một người mắc bịnh thần kinh. Nhưng tại sao chúng ta lại đánh giá "tư tưởng" quá cao như vậy? Phải chăng chúng ta đã say mê nó, đã nghiện phải nó. Tri thức là ma túy, là một chất hóa học đầu độc con người. Trong sự mê loạn đó, con người tưởng rằng có thể quên hết sự đời, buông bỏ lo âu, bổn phận trách nhiệm, hoặc trở thành một mẫu anh hùng lý tưởng nào đó. Đã ngủ quên trong mộng, con người lại chồng chất thêm những cơn mộng huyễn hoặc phù dụ Ban đêm họ đã ngủ mợ Ban ngày, họ cũng nằm mợ Những cơn mơ đó phủ vây con người và họ đắm chìm trong đó, không thể thoát ra và có lẽ họ cũng không muốn thoát ra. Con người đã tự giam hãm mình trong cái tù chật hẹp đó, để rồi thống trách bi thương, để rồi đau khổ. Nhưng, mặc dù đã biết rõ như vậy, họ cũng đã ở trong nhà tù tư tưởng đó quá lâu đến nỗi họ đâm ra quen thuộc với nó, ôm ấp nó như ôm tình nhân, cũng giống như những tên tội phạm vì ở tù quá lâu nên đâm ra sợ hãi thế giới bên ngoài, sợ hãi được trả lại tự dọ Thật mâu thuẫn và chua chát, phải không? Biết ở tù là đau khổ, là sợ hãi nhưng vẫn can tâm chịu đựng không muốn giải thoát. Cái sợ "được trả lại tự do" đó bắt nguồn từ nỗi sợ hãi phải đối diện với cái mới, trách nhiệm mới, nếp sống mới, con người mới, xã hội mới v.v... Sự lột xác toàn diện khiến người ta đâm ra sợ hãi phải đối diện, phải chui đầu ra khỏi cái vỏ sò, chui đầu ra khỏi nhà tù quen thuộc.
Con người đã bám víu lấy tri thức như cái bóng của mình; một khi đánh mất nó đi, con người cảm thấy mất thăng bằng, không đứng vững. Krishnamurti đã nói: "Con người cảm thấy như mất thăng bằng nếu không suy nghĩ". Có lẽ con người cảm nhận là nếu không suy nghĩ thì họ sẽ làm gì bây giờ?
Một bộ Óc bình thường có thể chứa đựng tất cả thư viện trên thế giới. Trong cái đầu bé nhỏ của bạn, có 70 triệu tế bào thần kinh, mỗi một tế bào có thể chứa đựng ít nhất là một triệu thông tin. Không có một cái máy vi tính nào có thể so sánh nổi với bộ Óc con người. Bạn mang cả một thế giới cồng kềnh trong cái đầu nhỏ bé của bạn, và lẽ dĩ nhiên, sức chuyên chở có hạn, ngày nào đó bộ Óc bị quá tải sẽ nổ tung ra, văng hết.
Ni cô Chiyono đã tu học, đã tu học nhiều năm. Cô đã cố chế đầy thêm nước vào thùng cũng như cô đã cố nhồi nhét tri thức vào đầu óc cô, và vừa quẩy đôi thùng đầy nước, Chiyono vừa ngắm ánh trăng phản chiếu xuống mặt nước trong thùng. Đó không phải là chuyện lạ. Không phải chỉ riêng Chiyono mà chúng ta đây cũng vậy. Chúng ta không bao giờ nhìn mặt trăng. Chúng ta luôn nhìn cái bóng của mặt trăng phản chiếu xuống nước, phản chiếu trong tư tưởng, trong đầu óc chúng ta.
Danh từ Ấn Độ "Maya" có nghĩa là "Ảo Giác". Tất cả những gì ta thấy, ta nghe đều là ảo giác; có nghĩa là chúng ta chỉ thấy bóng của mặt trăng chứ không phải là mặt trăng thật. Những gì chúng ta thấy, chúng ta nghe; chúng ta thấy nghe qua sự phản chiếu. Mắt chúng ta phản chiếu, tai chúng ta phản chiếu. Tất cả giác quan, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đều là những cái gương phản chiếu sự vật, đưa đến sự sai lầm, ảo giác.
Chân Lý không bao giờ xảy ra khi chúng ta chỉ biết nhìn cái bóng phản chiếu trong gương; Chân Lý chỉ đến khi tấm gương bị đập nát đi, thùng nước vỡ đi, nước không còn, sự phản chiếu biến mất.
Giác Ngộ đến thật đột ngột, bất thình lình. Giác Ngộ có thể ví như một tai nạn xảy đến đột ngột. Chúng ta không thể đoán trước tai nạn sẽ xảy ra lúc nào. Nếu chúng ta có thể biết chắc tai nạn sẽ xảy ra, thì đó là sự sắp đặt, không phải là tai họa. Giác ngộ cũng vậy. Chúng ta không thể sắp đặt chờ đón giác ngộ sẽ đến thế này thế kia. Không, không bao giờ có chuyện như thế cả. Đột nhiên, chúng ta tỉnh thức; đột nhiên, chúng ta giác ngộ. Thế thôi. Khi Bồ Tát Sĩ đạt Ta chứng đắc quả Phật, có phải ngài vẫn là con người cũ không? Không, con người cũ không thể chứng đắc. Con người cũ đã hoàn toàn chết đi, thành con người mới, một con người hoàn toàn mới. Thái tử Sĩ đạt Ta, người đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, từ bỏ vợ đẹp con thơ, không còn nữa. Cái "Tự Ngã" của thái tử Sĩ đạt Ta không còn nữa. Cái "Tri Thức" của Sĩ đạt Ta không còn nữa. Con người cũ đã chết, cái thùng nước cũ đã vỡ. Bây giờ, là hoàn toàn một con người mới, một cái tên mới, chúng ta gọi Ngài một cái tên mới - Đức Phật - Bậc Giác Ngộ. Cái tên cũ "Sĩ đạt Ta" không còn thuộc về người này nữa.
Nhưng hãy cẩn thận coi chừng! Khi tôi ví dụ giác ngộ cũng giống như một tai họa bất ngờ, tôi không có ý nói là bạn không nên làm gì cả. Đó không phải là ý nghĩa xác thực của lời tôi nói. Nếu bạn ngồi yên không làm gì cả, lẽ dĩ nhiên tai nạn không xảy ra, giác ngộ không xảy ra. Ví dụ tai nạn chỉ xảy ra cho những người chạy xe nhanh quá hay ẩu quá; cũng vậy giác ngộ chỉ xảy ra cho những người công phu tinh tấn nhất. Nhưng điểm khác biệt là thế này: cái hành động chạy xe nhanh không phải là cái Nhân của tai nạn mà đó là cái Duyên đưa đến tai nạn; công phu tham thiền miên mật không phải là cái Nhân của giác ngộ. Vì thế, Đức Phật không thể nói khi nào giác ngộ sẽ đến với bạn. Có nhiều người đến hỏi tôi như vậy, và tôi trả lời họ "sắp tới rồi". Câu trả lời đó chẳng có ý nghĩa gì; "sắp tới" có thể sẽ là phút tới, có thể sẽ là ngày mai, có thể sẽ xảy ra trong nhiều kiếp sau, vô hạn. Bạn không thể đoán trước được. Bạn cứ việc làm, cứ việc tham thiền, cứ việc tu học. Đừng mong cầu, đừng ngóng đợi, đừng trông chờ. Cái gì đến sẽ đến. Bạn cứ an nhiên sẵn sàng trong tỉnh thức đón nhận cái gì đến với bạn. Vì nếu bạn không ở trong tư thế sẵn sàng, nếu bạn mơ ngủ thì có thể điều kỳ diệu sẽ tới và vụt tới, mất dấu. Ngay cả khi bạn sẵn sàng, bạn vẫn phải chờ đón. Bạn không thể bắt buộc giác ngộ phải xảy ra, bạn cũng không thể mong giác ngộ tới. Nếu bạn có thể bắt buộc, thì tôn giáo sẽ chẳng khác gì một môn khoa học. Đó là điểm khác nhau cơ bản giữa tôn giáo và khoa học. Khoa học có thể tạo ra những phản ứng hóa học, những kết quả vì nó tùy thuộc vào nguyên nhân. Khoa học có thể tạo ra sự vật vì nó tìm ra được cái nhân, ví dụ như: nếu bạn đun sôi nước lên 100 độ thì nước bốc hơi. Bạn biết chắc chắn rằng khi nước đun sôi tới 100 độ thì nước tự nhiên sẽ bốc hơi hay nếu bạn pha trộn hai nguyên tử oxy và hydro thì bạn sẽ tạo ra nước (H20). Bạn có thể tạo ra những phản ứng hóa học bạn muốn. Khoa học là môn học nghiên cứu tìm ra nguyên nhân vạn vật.
Tôn giáo thì khác, cơ bản rất khác, và tôn giáo không bao giờ trở thành một môn khoa học theo nghĩa đơn thuần của danh từ "khoa học", bởi vì tôn giáo đi tìm cái không cùng, cái không nhân, tôn giáo đi tìm sự Chuyển Hóa Tuyệt Đối.
Bạn có thể hỏi ngược lại tôi rằng :"Nếu giác ngộ xảy ra đột ngột, không biết trước được lúc nào giống như tai nạn xảy đến đột ngột như lời ông nói thì cần gì phải thiền? cần gì phải tham cứu? Cứ đơn giản ngồi chờ nó tới!" Không, sự chờ đợi của bạn không phải là sự chờ đợi biếng lười như vậy. Sự chờ đợi của bạn phải là sự chờ đợi tích cực, tươi mát, sống động. Bạn không nên ngồi chờ thụ động như một xác chết được; luôn luôn bạn chờ đợi trong tỉnh thức, trong chánh niệm, sống động và tươi thắm. Chỉ có trong trạng thái hồn nhiên tỉnh thức đó, điều kỳ diệu nhiệm mầu sẽ xảy ra cho bạn. Có bao giờ bạn quan sát cuộc đời và nhận xét rằng vạn sự vạn vật trên thế gian này đều vô thường, không chắc chắn, duy chỉ có cái chết chắc chắn sẽ đến với tất cả chúng sanh hữu tình không? Tất cả sự sự vật vật đều vô thường, không chắc thật! Tình yêu cũng vậy, không có cái tình yêu bất tử. Chỉ có một điều chắc chắn: đó là cái Chết, và sự chắc chắn thuộc về cái Chết, không phải thuộc về sự sống đâu, bạn ạ. Nếu bạn đang đi tìm Sự Sống Vĩnh Cửu, hãy sống cởi mở, an nhiên, bình dị ngay từ phút giây tỉnh thức này.
Tôi muốn kể cho bạn nghe về ni cô Chyonọ Trước khi xuất gia, Chiyono là một giai nhân tuyệt sắc. Sắc đẹp diễm lệ của cô quyến rũ đến nỗi khi cô muốn đi tu, đến nơi nào cô cũng bị từ chối vì các đại sư e ngại sắc đẹp của cô sẽ làm các vị sư khác đắm nhiễm mê saỵ Cuối cùng, Chiyono quyết định táo bạo là đốt phỏng gương mặt cô thành sẹo để không một ai mơ tưởng nữa. Từ đó, Chiyono sống yên trong một tu viện. Cô đã tinh tấn chiến đấu không ngừng với bản thân. Cô đã tu học tham thiền 10 năm, 20 năm, 30 năm, 40 năm liên tục không mệt mỏi, và đột ngột, một đêm kia, "kẻ lạ mặt" mà Chiyono đã cố công tìm kiếm đến gõ cửa nhà cô.
"Bất thình lình, giây thừng đứt, thùng nước rơi,
Nước đổ ào ra, bóng trăng biến mất - và Chiyono hoát nhiên đại ngộ".
Chiyono đang ngắm bóng trăng - bóng trăng thật đẹp, vì chúng phản chiếu cái Đẹp Tuyệt Đối. Thế gian này cũng rất đẹp vì nó là cái bóng phản chiếu Thượng Đế, phản chiếu cái Đẹp Thiêng Liêng. Ngoài thế gian, chúng ta không thể nào tìm ra cái Đẹp Tuyệt Đối. Những người đi tìm cái Đẹp Tuyệt Đối hay Chân Lý không bao giờ nhầm lẫn cái Thật và cái bóng phản chiếu. Anh ta không phủ nhận cái bóng, không chối bỏ nó, nhưng anh ta không đắm nhiễm nó, không nhầm lẫn nó với cái Thật. Anh ta mượn nó để tìm đến cái Thật, tìm thấy cái Thật.
"Chiyono ngắm bóng trăng phản chiếu trong thùng nước. Bỗng nhiên, giây đứt, thùng rơi, bóng trăng biến mất".
Chiyono ngước mắt nhìn lên trời - vành trăng tròn thực sự đang ở trên cao. Hoát nhiên Chiyono trực nhận rằng tất cả những gì cô ta thấy nghe đều là ảo ảnh, sai lầm - vì cô ta thấy nghe qua tri thức.
Nhưng, hãy coi chừng. Đừng đi theo Chiyonọ Chiyono không phải là bạn. Bạn không phải là Chiyonọ Cái hoát nhiên đốn ngộ đó sẽ không xảy ra cho bạn đâu. Chiyono là Chiyono; bạn là bạn. Mục tiêu giải thoát vẫn là một, nhưng không có phương cách nào giống phương cách nào; không có sự đốn ngộ nào giống với sự đốn ngộ nào. Không ai có thể là Chiyono thứ hai được. Thế giới không bao giờ lập lại. Chiyono chỉ sanh ra một lần, và không bao giờ có một Chiyono nữa. Bạn không thể lập lại hay bắt chước, vì bạn không phải là Chiyonọ Mỗi người tu tập một pháp môn; mỗi người tự thân chứng lấy một cách.
Ngay hình tượng Đức Phật cũng vậy. Bạn có thể ngồi kiết già thiền định như Đức Phật, dưới cội cây Bồ đề, y như Phật đã ngồi, mà thậm chí có thể bạn ngồi hay hơn Phật nữa kìa, nhưng mãi mãi bạn không bao giờ trở thành một Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thứ hai. (bạn có thể thành Đức Phật X, Đức Phật Y... nhưng không thể là Phật Thích Ca Mâu Ni).
Sự kiện Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội cây bồ đề là một sự kiện ngẫu nhiên. Nếu Phật không ngồi ở đó mà đi thiền hành hoặc ngồi ở cội cây khác thì Phật vẫn đạt ngộ như thường. Chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên Đức Phật đến dưới cội cây bồ đề và thiền định. Hình tướng không quan trọng; cây bồ đề không phải là nguyên nhân giác ngộ, cái dáng ngồi kiết già không phải là nguyên nhân giác ngộ - đó chẳng qua chỉ là những duyên đưa đẩy đến sự giác ngộ của Phật Thích Ca.
Đừng bao giờ mù quáng chạy theo bắt chước một ai, dù người đó là Đức Phật. Không phải bạn ngồi kiết già như Phật mà bạn mà bạn có thể thành Phật. Thực sự là chúng ta nên tu tập theo những lời dạy của Phật nhưng chúng ta vẫn phải tự mình chứng đạt, tự mình tìm ra tự tánh chân thật tự xưa của mình. Mỗi người chứng nghiệm một cách. Đức Phật, Lão Tử, Mahavira, Krishna hay Zarathustra - không có ai gánh nước như Chiyono mà giác ngộ. Trước và sau Đức Phật Thích Ca, không có ai ngồi dưới cây bồ đề mà giác ngộ.
Vì thế, đừng đóng khung trong lề thói, trong kinh điển, v.v... Hãy tỉnh thức và suy nghiệm! Đó là con đường duy nhất để thực hành, để chứng đạt. Tỉnh thức trong từng sát na, tỉnh thức trong từng hành động, ý nghĩ.
"Bất thình lình giây thừng đứt,
Không còn nước, không còn trăng trong nước,
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì".
Đó chính là những gì mà Đức Phật chứng ngộ; đó chính là định nghĩa một vị Phật là gì.
"Không - vạn vật giai không".
"Không" không có nghĩa là không có gì, phủ định. "Không" có nghĩa là "Có" - "Có" có nghĩa là "Không". "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc" (Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc)... (Bát Nhã Tâm Kinh)
"Không" trong tay có nghĩa là suối nguồn giác ngộ trong taỵ Vạn vật giai không, không có cái tướng của ta, không có cái tướng của người, không có tướng chúng sanh, không có tướng lãnh thọ của chúng sanh (Kinh Kim Cang).
Và một khi bốn tướng đó đều là Không thì bạn chạm tới bộ mặt thật của Thiền rồi vậy.
Và Chiyono đã tìm ra: "Không Nước - Không Trăng"
"Tay tôi rỗng không
Tâm tôi rỗng không... "
Theo truyền thống Thiền Nhật Bản ngày xưa, những tăng sĩ đi vân du khắp nơi, nếu muốn ngủ trọ qua đêm ở một ngôi chùa hay tịnh xá nào, đều phải thắng cuộc tranh luận tay đôi với vị sư thường trụ Ở đó. Nếu không thắng được,vị du tăng đó phải đi, không được phép ở lại, dù chỉ có một đêm.
Câu truyện xảy ra tại một ngôi cổ tự phía bắc Nhật Bản. Trụ trì ngôi chùa đó là hai anh em một nhà sự Người anh rất thông thái, biện luận vô cùng thiện xảo, còn người em lại ngớ ngẩn, lù khù và còn chột một mắt.
Một đêm nọ, có một vị du tăng đi ngang qua, muốn xin vào nghỉ tạm qua đêm. Nhà sư anh, quá mệt mỏi vì đã học hành suốt ngày, nên sai nhà sư em ra tiếp khách và tranh luận với vị du tăng theo truyền thống. Trước khi nhà sư em đi ra ngoài, Sư anh dặn dò:
"Này, đệ đòi hỏi là phải tranh luận trong im lặng đó nhé. Đừng có nói, kẻo đấu không lại người ta đó."
"Huynh yên tâm đi, để đó cho em!"
Độ một thời gian ngắn sau, vị du tăng xin gặp nhà Sư anh, vái chào và xin ra đi. Ông ta đã bị khuất phục và hết sức tán thán tài hùng biện của nhà Sư em.
Nhà Sư anh nói:
"Trước khi đi, xin Ngài thuật lại cho tôi nghe cuộc tranh luận thế nào?"
"Rất hay, tuyệt, vị du tăng trả lời, này nhé, trước hết tôi giơ một ngón tay lên ý tượng trưng Đức Phật. Sư đệ của ngài đưa 2 ngón tay lên có nghĩa là Đức Phật và Phật pháp. Tôi lại đưa 3 ngón tay lên có ý nói Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) số một. Sư đệ thông minh của ngài đưa nắm tay lên dứ vào mặt tôi có ý nói là cả 3 (Tam Bảo) đều qui về một. Một là tất cả, tất cả là một. Tuyệt, tuyệt, sâu xa, sâu xa, Đại Thừa, lý rốt ráo đại thừa đấy. Tôi cam lòng bái phục."
Vị du tăng ra đi, rất hể hả như đã học được một điều gì tuyệt diệu.
Lát sau, nhà sư em vào gặp anh, dáng điệu còn có vẻ bực bội vô cùng.
Vị Sư anh nói:
"Ta biết là đệ đã thắng cuộc tranh luận này."
"Thắng cái gì, cái tên du tăng đó thật là thô lỗ hết sức, nếu đệ không nhớ lời sư huynh dặn bảo là phải cố gắng nhẫn nại, nhã nhặn và lễ độ với khách thì em đã cho hắn một bài học thích đáng rồi."
"Sao, đệ thuật lại cho ta nghe sự việc như thế nào?"
"Này nhé, khi hắn ta vừa thấy em, hắn liền đưa một ngón tay lên có ý chế diễu em chột hết một mắt; em cố dằn cơn giận, đưa 2 ngón tay lên khen là hắn có phước, đầy đủ 2 con mắt. Thế mà hắn lại có ý trêu ngươi em nữa chứ, hắn đưa 3 ngón tay lên, có ý nói là em và hắn ta, hai người nhưng chỉ có 3 con mắt thôi. Em bực quá, dơ nắm tay đấm lên dứ vào mặt hắn có ý cho hắn biết là "Này, vừa phải thôi nghen, lộn xộn là ăn đấm đó." Hắn chột dạ, có vẻ ngán nên vái chào rút lui có trật tự. Thiệt là tăng sĩ gì mà thô lỗ hết sức!"
Nhà Sư anh trợn mắt, lắc đầu và ôm bụng lăn ra cười ngất.
"Ha ha ha! Ha ha ha!"
Qua câu chuyện vui trên, ta thấy tất cả những cuộc tranh luận thực ra đều sai lệch, kệch cỡm, bởi vì không một ai có thể đạt tới chân lý qua tranh luận cả. Những vị tăng sĩ Nhật Bản tranh cãi nhau, hơn thua nhau chỉ để khoa trương tự ngã và cái giải thắng là "ngủ trọ qua đêm". Chỉ có một đêm ngủ trọ thôi mà người ta hăng hái, hùng hổ tranh chấp với nhau. Nhưng đó là truyền thống và người ta nhắm mắt tuân theo truyền thống. Hàng ngàn năm qua, tại bất cứ một thiền viện Nhật nào, nếu bạn muốn ngủ trọ qua đêm, bạn phải thắng cuộc - và sau đêm đó, sáng mai, bạn lại khăn gói ra đi - nhưng nhiều người đã tự lừa dối mình rằng đã đạt tới chân lý, giác ngộ qua cuộc tranh luận. Họ lấy sự hơn thua trong cuộc tranh luận đó làm cái mốc đo tri thức và mức độ tu tập của họ.
Không, hoàn toàn không. Chân lý làm sao hiển hiện ra khi đầu óc bạn chứa đầy tư tưởng phải đánh gục đối phương, phải thắng cuộc tranh luận để chứng tỏ sở trường sở đắc của mình. Một khi bạn tìm cách làm sao để thắng đối phương, bạn đã là một kẻ bạo lực, dù là bạo lực tư tưởng.
Tranh luận là bạo lực. Bạn có thể giết hoặc bị giết qua phương cách đó, bạn không thể sống còn, và sự thực cũng bị giết chết qua phương cách đó. Quả thực, bạn không đi tìm sự thực, bạn đi tìm chiến thắng dưới bất cứ hình thức nào. Khi chiến thắng là mục đích, Chân lý phải hy sinh. Khi Chân lý là mục đích, chiến thắng hay vinh quang phải dẹp bỏ - và chân lý phải là mục đích, không phải là chiến thắng bởi vì nếu chiến thắng là mục đích thì bạn là một chính trị gia rồi, không phải là một người tôn giáo. Bạn là một kẻ bạo hành, đang tìm cách thống trị đàn áp người khác. Bạn cũng chẳng khác gì những kẻ đi gieo rắc chiến tranh; một là ta chết, hai là đối phương phải chết. Dù dưới dạng đấu tranh tư tưởng, thì cơ bản vẫn là tranh đấu.
Chân lý không bao giờ trở thành một sự thống trị cả; Chân lý không bao giờ hủy diệt một cái gì. Chân lý đưa đến "Tình Thương, Xả Kỷ, Khiêm Tốn" chứ không đưa đến thất bại, vinh nhục hay bẽ bàng.
Những người đi tìm Chân lý thực sự sẽ không chấp nhận hình thức đấu tranh. Họ không bao giờ mong muốn chiến thắng vinh quang phải thuộc về họ, chứ không thuộc về người khác. Trong chân lý, con người gặp nhau và trở thành một. Không có người chiến thắng, không có kẻ thất bại. Trong chân lý, không có một ai bị đánh ngã. Trong chân lý, chân lý là người thắng và chúng ta là người thua cuộc, mất mát. Mất cái gì? Thua cái gì? Mất cái "tự ngã nhỏ hẹp, ích kỷ, mê mờ." Thua sự "Thương Yêu Chân Thật". Nhưng nếu trong cuộc tranh luận, tôi là tôi, anh là anh, không có một nhịp cầu thông cảm bắc ngang.
Làm sao bạn có thể hiểu biết và thương yêu người khác khi bạn đang chống đối họ?
"Hiểu Biết" và "Thương Yêu" cần có sự đồng cảm, cần sự chia xẻ với nhau. Hiểu Biết có nghĩa là chịu lắng nghe người khác, tôn trọng ý kiến của họ, và chỉ khi nào bạn lắng nghe tư tưởng người khác, bạn sẽ nghe được âm thanh của gió, của chim, của vạn vật vũ trụ. Vì thế, khi bạn đang bàn thảo một vấn đề gì, đang lý luận một vấn đề gì, bạn thực sự không có khả năng lắng nghe người khác, bạn chỉ giả vờ nghe nhưng thực ra không thể nghe trọn vẹn những gì người khác nói, vì sao? Vì lúc đó, đầu óc bạn đang quay cuồng làm việc để đấu trả lại người khác, khi kẻ đó ngưng nói là bạn nhẩy tới tấn công ngaỵ Bạn đã chuẩn bị và sẵn sàng ăn miếng trả miếng với họ.
Đúng vậy, bất cứ một cuộc tranh luận nào cũng không bao giờ mang lại một sự thông cảm đoàn kết. Càng tranh cãi, bạn càng đi xa dần chân lý. Bạn đã bị chia cắt làm đôi. Đó là lý do mà các triết gia, các luận sư không thể nào đạt tới chân lý hoàn toàn. Họ chỉ chạm tới những mạnh vỏ rời rạc của chân lý.
Ngày xưa, Chúa Giê Su đã đi du thuyết khắp nơi, nhưng tất cả những người trọn vẹn đi theo Chúa lại là những người rất bình thường, tầm thường, không có đến một người trí thức, không có đến một người học giả nào. Không phải vì thời đó không có các nhà bác học trí thức, mà trái lại, các vị học giả lừng danh thời đó không chấp nhận đường lối giáo hóa của Chúa. Họ phản ứng dữ dội, họ muốn giết Chúa. Vì sao? Vì Chúa rao giảng Tình Thương, rao giảng Hòa Bình. Chúa nói về Đức Tin trong sáng, về Tình Yêu Nhân Loại; Chúa dạy con người làm cách nào nối kết hai trái tim lại với nhau để chung sống hạnh phúc. Những gì Chúa rao giảng đã đi ngược lại truyền thống xã hội thời đó. Các nhà học giả cảm thấy khó chịu bất mãn, vì sao? Vì họ quen sống trong đấu tranh, trong tư tưởng thắng bại, trong hào quang hãnh diện phỉnh phờ lường gạt tâm thức họ. Tự ái bản ngã được vuốt ve mỗi khi họ tranh luận và thắng đối phương. Vì thế, không làm sao họ chấp nhận được những lời giảng của Chúa, và để bảo vệ "cái tôi" của họ, những kẻ học thức đó đã liên kết tìm cách giết Chúa - và họ đã tìm được kẻ phản bội, Judas.
Những môn đồ của Chúa đều là những người bình thường; họ là những người thợ làm giầy, thợ săn, câu cá, đốn củi, cô thợ may, chị làm bếp, v.v... Chỉ có Judas là kẻ có học, một kẻ thông minh. Và kẻ thông minh học thức đó đã phản bội, đã bán rẻ Chúa với giá 30 đồng bạc. Chúa biết là nếu có phản đồ thì chỉ có Judas, vì sao? Vì trái tim chỉ có thể bị phản bội bởi đầu óc. Chỉ có Lý Trí phản bội Tình Thương mà thôi.
Đó là điểm thứ hai tôi muốn nói với bạn, muốn nhắc cho bạn nhớ trước khi tôi đi vào câu truyện là qua bức màn lô gích, qua mạng lưới tri thức, qua tranh luận, bạn đã trở thành một kẻ xa lạ với mọi người; nhịp cầu thông cảm giữa con người và con người đã gẫy. Làm sao bạn có thể đạt tới Chân Lý khi bạn không thể hiểu người khác, khi đầu óc bạn chứa đầy tư tưởng đấu tranh, bạo lực? Chính cái tư tưởng bạo hành đó đã hại bạn rồi vậy.
Vì thế những cuộc tranh luận đều phù phiếm; chúng không hướng dẫn bạn đi về đâu cả. Ngay cả khi bạn đã thắng và kết thúc cuộc tranh biện thì kết quả thắng cuộc đó cũng chỉ là gượng ép mà thôi. Bạn có thể bịt miệng người khác, làm cho đối phương im tiếng, không thể tranh cãi gì được thêm nửa ngày hôm nay, nhưng chưa chắc kẻ đó đã chịu thua, chịu khuất phục hoàn toàn. Trong thâm tâm, hắn ta sẽ nghĩ thầm rằng: "Ngày hôm nay ta tạm thua ngươi, nhưng một ngày nào đó, ta sẽ đánh bại ngươi." Hắn bị đánh bại ngày hôm nay nhưng không phải là sẽ bị thua mãi mãi. Tuy nhiên, có hai việc khác nhau là nếu bạn thắng đối phương bằng trái tim thì người đó sẽ chịu thua trong hoan hỷ, an lạc và cảm phục (nên nhớ "Cảm Phục" khác nghĩa với "Khuất phục"). Người đó hoan hỷ trong vinh quang của bạn; người đó chia xẻ với bạn sự hãnh diện sung sướng; vì đó không phải là chiến thắng trong tranh đấu, không phải bạn chiến thắng ai mà chân lý thắng; cả hai chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng đều cùng san sẻ khúc khải hoàn ca Chân Lý. Không có người thắng kẻ bại. Biên giới đã xóa mất, nhịp cầu đã bắc ngang, bạn và tôi tuy hai mà một, tuy một mà hai.
Vì thế, một vị đạo sư, không bao giờ tranh biện với ai cả. Nếu thỉnh thoảng, vị đạo sư ấy tỏ vẻ như tranh luận với bạn, thì chớ tưởng lầm nhé - Ông ta chẳng qua chỉ là đang chơi chữ với bạn đó thôi! Ông ta đang thử bạn đó. Nếu bạn nóng mặt, phản ứng liền, sợ bị thua thì bạn tự biến mình thành nạn nhân của trò chơi chữ của ông ta rồi vậy.
Có nhiều vị thiền sư tỏ ra thích biện luận. Rất khó mà đánh bại được họ, cũng không thể chơi chữ lại họ - nhưng thực ra, các vị thiền sư đó chỉ mượn trò chơi chữ đó để giúp bạn hâm nóng lại tâm thức, giúp bạn tỉnh cơn mê, giúp bạn rút chân ra khỏi vùng lầy chữ nghĩa.
Junnaid, một người Sufi, một thời học đạo với Sư Phụ, và vị thầy đó rất ư là kỳ quặc, chuyên môn nói ngược lại những gì người khác nói, thí dụ như bạn nói "ban ngày" thì ông ta nói "ban đêm", mặc dù trong lúc đó đang là ban ngày. Tuy nhiên, Junnaid không màng cải chính lại lời Sư Phụ. Junnaid chỉ giản dị, bình thản cúi đầu trả lời: "Dạ vâng, Sư Phụ, đó là ban đêm."
Một ngày kia, Sư Phụ Junnaid gọi Junnaid lại và bảo:
"Này Junnaid, ngươi đã thắng. Ta không thể châm ngòi một cuộc tranh luận nào với ngươi. Đức tin của ngươi thật sâu chắc, không lay động, kiên cố. Và bây giờ, ta có thể bắt đầu thuyết giảng chân lý cho ngươi, vì ngươi đã sẵn sàng tiếp nhận."
Một khi con tim nói lên tiếng nói chân thật của nó, bạn đã có đầy đủ khả năng lắng nghe và tiếp nhận Sự Thật Tuyệt Đối.
Tôi lại kể cho bạn nghe một câu truyện nữa:
"Ngày kia tại một tiểu quốc nọ, vị Tể Tướng đương triều đột nhiên bị bạo bệnh và từ trần. Vị Tể Tướng này rất tài ba lỗi lạc, khó ai sánh bằng. Cả vương quốc bàng hoàng và lo lắng. Nhà Vua truyền lệnh phải tìm gấp cho bằng được một người tài giỏi khác để trám vào chỗ trống của quan Tể Tướng cho kịp xử lý mọi công vụ quốc gia.
Lịnh ban truyền ra, mọi người từ các quan đến thần dân đều đỏ mắt tìm kiếm khắp nơi. Không có một hang cùng ngõ hẻm nào bị bỏ sót, và cuối cùng họ kiếm được ba người để trình kiến nhà Vua.
Người thứ nhất là một nhà tân toán học, một khoa học gia lỗi lạc nhất nước. Ông ta có thể giải đáp tất cả các bài toán hóc búa nhất trong nháy mắt, chia chẽ ngọn ngành các phương trình hệ thống khoa học tân kỳ mà khó có người nào hiểu thấu được.
Người thứ hai là một nhà triết học xuất chúng. Ông ta có thể bẻ gẫy mọi luận thuyết, giải đáp những vấn đề siêu hình của thế gian không một chút khó nhọc nào. Ông là người lỗi lạc nhất trong số các triết gia đương thời. Từng lời nói, câu văn của ông được mọi người khen thưởng và trân trọng cất giữ như một báu vật thiêng liêng. Ồ, Tạo Hóa còn được các triết gia vẽ vời ra huống chi những chuyện khác. Họ ngụy tạo ra Thượng Đế, họ tạo ra ngày mặc khải, họ tạo ra đủ thứ hệ thống, lý thuyết - nhưng suy cho cùng, tất cả chỉ là bánh vẽ, họ chẳng có gì trong tay họ cả. Họ là những người thợ sắp chữ rất tài tình khéo léo, kỹ xảo; họ là những người chơi trò chơi chữ vô cùng độc đáo, đến nỗi chúng ta có cảm tưởng là mọi điều họ nói đều căn bản, chắc chắn - nhưng thực tế là những lâu đài xây trên cát mà thôi.
Người thứ ba là một người tôn giáo, một người có đầy đủ đức tin, sùng bái và dâng hiến.
Ba người được tuyển chọn này tượng trưng cho ba góc độ tư tưởng và tri thức.
Nhà bác học quan tâm đến những thử nghiệm, nghiên cứu, phân tích. Tất cả mọi vấn đề phải được ông ta nghiên cứu tường tận, nếu không, ông không chấp thuận. Sự thật theo ông là sự thực đã được kiểm chứng.
Vị triết gia là người tư duy lô gích. Nhà triết học làm việc bằng đầu óc, chứ không phải trong phòng thử nghiệm. Bộ não của các triết gia chính là phòng thí nghiệm.
Người tôn giáo thì không nhìn cuộc đời như một bài toán hay một vấn đề cần phải mổ xẻ, phân tích hay lập luận. Đối với nhà tôn giáo, cuộc đời không phải là một bài toán hay vấn đề; cuộc đời không có gì và cũng không cần phải giải quyết; chỉ giản dị thôi, cuộc đời là để "sống, sống thực thụ và thể nghiệm" trong đó.
Theo quan điểm tôn giáo, cuộc đời không phải là một vật thể. Khi bạn thử nghiệm một vật gì, bạn hoàn toàn khác với vật đó, bạn là người làm công cuộc thử nghiệm, và đối tượng của bạn là vật được thử nghiệm. Nhưng khi bạn sống với cuộc đời, hòa mình nhập thể vào cuộc đời, bạn là một với nó. Thế cho nên, nhà tôn giáo đã nói: "Trừ phi bạn phải hòa nhập làm một với cuộc đời, bạn mới có thể hiểu ý nghĩa cuộc sống, nếu không, bạn sẽ không bao giờ biết được sống là gì?"
Ba người đó được dẫn đến trình diện nhà Vuạ Ngài nói:
"Được rồi, các người cứ tự nhiên nghỉ ngơi 3 ngày và đến ngày thứ 4 sẽ là ngày thử thách, chỉ một cuộc thi mà thôi. Ai thắng sẽ được chọn phong làm Tể Tướng, cận thần của ta vì kẻ đó thông minh tài trí nhất."
Ba người họ lui ra và bắt đầu suy nghĩ làm việc theo cách riêng của họ. Ba ngày thôi quả là không đủ đâu vào đâu cả! Nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu những phát minh thử nghiệm mới để sau ba ngày sẽ trình lên Đức Vuạ Ai mà biết nhà Vua sẽ chọn thử nghiệm nào, vì thế ông ta không tài nào ngủ được, và cũng nhất quyết không lãng phí thời gian cho ngủ nghỉ. Nếu ông ta thắng, ông ta có cả một cuộc đời để ngủ, tội gì mà ngủ lúc này? Ông ta không ngủ, không ăn vì nhiều việc phải làm quá trước ngày thi đấu.
Vị triết gia nhà ta cũng thế; ông ta ngồi trầm tư mặc tưởng đến nhiều vấn đề. Ông ta cũng không ăn, không ngủ, đi đi lại lại, ngồi đứng không yên. Bao nhiêu vấn đề trên trời dưới đất gì gì đều được bác triết gia nhà ta lôi ra mổ xẻ, nghiền ngẫm, phân tích hết.
Chỉ có nhà tôn giáo là an nhiên tự tại. Đến giờ ăn, ông ta ăn uống thoải mái. Đến lúc ngủ, ông ta đánh một giấc an lành. Khi cần cầu nguyện tụng kinh hay tham thiền, ông ta đều thực hành cẩn mật, đàng hoàng, nghiêm túc. Ông ta thảnh thơi dạo chơi, ngắm hoa lá, trời mây, và cám ơn trời đất đã ân sủng che chở cho ông; vì đối với một người tôn giáo, không cần nghĩ tới tương lai và cũng chẳng có cuộc thi cuối cùng. Từng giây phút hiện tại là cuộc thử thách, ta phải đối diện nó, chứ không phải sửa soạn chờ đón thử thách ở tương lai.
Thấy như thế, nhà khoa học và vị triết gia lên tiếng: "Này, người làm gì thế? Chỉ biết ăn, ngủ, cầu nguyện thôi sao? Phí thì giờ vô ích, hãy lo tìm phương pháp giải quyết vấn đề đi chớ, sau này có cầu nguyện bao lâu mà chẳng được."
Nhà tôn giáo chỉ cười, không trả lời; ông ta không phải là hạng người thích tranh cãi.
Ngày thứ ba chầm chậm trôi quạ Ngày thứ tư đến. Ba thí sinh được mời đến trình diện. Nhưng nhà khoa học không còn đủ sức đứng vững nữa. Ông ta mệt quá, hai mắt cứ díu lại, không mở ra nổi, hai chân rã rời, bước không vững. Còn nhà triết học lỗi lạc kia thì mơ mơ màng màng ở đâu đâu. Ông ta không mệt lắm nhưng đầu óc như lãng đãng phiêu bồng chốn nào, không tập trung được. Cái đầu như mớ bòng bong, rối tung mù mịt lên, câu hỏi này chồng lên câu hỏi kia, vấn đề kia chẳng biết nguyên nhân kết quả ở đâu, thế nào. Đã mấy lần ông ta muốn tháo lui vì cảm thấy không chắc ăn, bối rối hẳn lên, nhưng nhà khoa học khuyến khích: "Ấy, ta cứ thử xem, có sao đâu; nếu thắng, càng tốt, còn lỡ bị thua, cũng chẳng sao, nhưng dẹp bộ mặt đưa đám của đằng ấy đi chớ, cứ mạnh dạn lên."
Duy chỉ có nhà tôn giáo là bước tới vui vẻ, thoải mái, an nhiên. Ông ta ca hát, tiến bước vững chãi trước nhà Vua.
Nhà Vua là một người túc trí đa mưu. Ông đã sắp xếp một cuộc thi tài trí cho ba thí sinh. Vua sai người dẫn ba thí sinh vào một căn phòng, khóa lại. Ổ khóa căn phòng đó là một cái ổ khóa số đậc biệt, không có chìa - và người nào mở được cánh cửa thì thắng cuộc.
Nhà khoa học bắt đầu loay hoay tìm và viết ra hàng trăm bài toán để mở khóa; ông triết gia thì nhắm mắt lại tư duy: "Chà, vấn đề này hóc búa thật, chẳng phải chơi đâu, con số nào là con số mở khóa đây," vv và vv...
Nhà tôn giáo thì tự nhiên như không. Ông ta chẳng màng đến nhìn cái ổ khóa, cũng chẳng bóp đầu bức tóc suy tư gì cả. Ông đâu phải nhà toán học nên chẳng biết toán mà làm, cũng không phải là triết gia để tìm hiểu phân chia. Ông chỉ ngồi yên, cầu nguyện, hát lên một bài vinh danh Thượng Đế và đứng lên đi.
Thời gian trôi quạ Một lát sau, nhà Vua bước vào phòng:
"Ô hay, hai người còn ở đây à? Người thứ ba đã đi ra ngoài từ lâu rồi."
"Nhưng sao hắn ta ra khỏi đây được? Cửa khóa mà... " Hai nhà toán học và triết gia ngạc nhiên, lắp bắp hỏi.
"Nhưng cửa đâu có khóa," nhà Vua tủm tỉm cười hóm hỉnh trả lời.
Nhà toán học vùng chạy ra túm lấy áo nhà tôn giáo gặn hỏi. Ông này từ tốn trả lời:
"Tôi chỉ ngồi yên và lắng lòng cầu nguyện. Chợt tôi nghe một tiếng nói vang lên trong tôi: "Người đúng là một thằng khờ. Hãy đi đi và sẽ thấy. Cửa không có khóa." Tôi đứng lên đi về phía cửa và quả thực, cửa không có khóa."
Cuộc đời không phải là một bài toán đố. Nếu bạn tìm cách để giải đáp bài toán thì bạn đã đánh mất cuộc đời rồi vậy. Cánh cửa cuộc đời luôn mở rộng, không bao giờ khóa lại. Nếu cánh cửa bị khóa chốt thì nhà khoa học đã tìm ra đáp số rồi. Nếu cánh cửa bị khóa chốt thì những nhà triết học cũng lập ra hệ thống nào đó để mở cửa ra rồi. Nhưng cánh cửa cuộc đời không hề bị gài chốt, vì thế chỉ có Niềm Tin mới có thể đẩy cánh cửa ra mà thôi.
"Có anh em một nhà sư trụ trì một ngôi chùa phía bắc nước Nhật. Nhà sư anh rất thông thái, nhưng nhà sư em thì lại ngớ ngẩn, còn chột hết một mắt... "
Để hình thành một ngôi chùa, đền tháp, hay thánh đường, v.v... người ta cần đến hai hạng người: một hạng thông thái và một loại ngớ ngẩn. Hạng thông thái làm tu sĩ để dẫn dắt sai khiến đám ngớ ngẩn đi theo họ. Nếu trên đời này không có đám người ngớ ngẩn thì cần gì có tu sĩ, cần gì xây đền tháp, thánh đường? Và nếu hạng tu sĩ thông thái kia biến mất đi thì sẽ không còn những tu viện nữa. Một tự viện, đền tháp, chùa chiền hay thánh đường luôn cần có hai bộ mặt để tồn tại. Vì thế, bạn không thể nào tìm thấy Phật hay Chúa nơi thánh đường hay chùa tháp đâu, bởi vì Phật hay Chúa không bao giờ hiện hữu ở những nơi có hai bộ mặt đối đãi.
Những ngôi tu viện, đền tháp hay thánh đường là những phát minh của bọn người thông thái tạo ra để khuynh loát lừa bịp những kẻ lù khù, ngớ ngẩn, dễ tin. Tu sĩ là những người khôn khéo tinh ma nhất; họ tạo ra nhiều giáo điều, hệ thống tín ngưỡng, cấm kỵ để hù dọa tín đồ; họ sử dụng những danh từ ngôn ngữ khó hiểu để loè những kẻ ít học ngây thơ; họ đưa ra những chương trình dự án có vẻ như bảo vệ săn sóc đời sống tâm linh con người nhưng thực ra là lợi dụng vơ vét tiền bạc của tín đồ vào túi họ. Họ là những kẻ thống trị nguy hiểm nhất, và những tín đồ tội nghiệp kia là bọn người bị sai sử lợi dụng; tuy nhiên, với chiếc áo thầy tu, với hàng rào kinh điển, tín điều, bạn không thể nào chạm đến chéo áo của mấy lão thầy tu này được đâu. Bạn khó lòng lật tẩy họ được vì chính những tín đồ ngây thơ mù quáng lại là người bênh vực bảo vệ mấy thầy tu nầy*. (nếu bạn là một thầy tu chân chính thì sợ quái gì những lời châm chích này, phải không?)
Nên nhớ kỹ điều này: Đức Phật không bao giờ sử dụng những ngôn từ khó hiểu. Ngôn ngữ Ngài dùng để thuyết pháp hóa độ là ngôn ngữ Pàli (một ngôn ngữ bình dân của Ấn) để cho tất cả mọi tầng lớp chúng sanh đều có thể hiểu được. Phật nói rất giản dị, trong sáng; đưa ra những thí dụ dễ hiểu, dễ thâm nhập, thực tiễn trong đời sống hàng ngày của con người. Ngài gạt bỏ những hình thức cầu kỳ, những ngôn từ lập dị, những phương thức rườm rà, để mọi người trở về với bản thể chân tâm, với vũ trụ hàm linh thật mau chóng, xác thực và đúng đắn. Chúa Giê Su cũng vậy, Ngài cũng dùng những hình ảnh ví dụ đơn giản, dễ hiểu. Chúa không bao giờ dùng bất cứ một biệt ngữ tôn giáo nào. Mahavira, một đạo sư của Ấn, khi giảng pháp cho tín đồ, cũng nói bằng ngôn ngữ bình dân, thông thường.
Đức Phật và Mahavira không bao giờ sử dụng ngôn ngữ Sanskrist, vì Sanskrist là ngôn ngữ của giáo sĩ Bà la môn. Sanskrist là ngôn ngữ khó hiểu nhất, cổ xưa nhất của Ấn. Nghĩa chính của Sanskrist là "đánh bóng lại, trau chuốt lại". Bọn giáo sĩ đã cố ý sử dụng ngôn ngữ khó hiểu, cầu kỳ đó để loè những kẻ ít học; vì nếu bạn không hiểu thì bạn mới thán phục những người thông thái, hiểu biết hơn bạn chứ! Một khi bạn không hiểu, bạn sẽ cho là những ý nghĩ, những vấn đề các giáo sĩ đưa ra sâu xa, mầu nhiệm, linh thiêng, người thường không tài nào thấu triệt được - và từ sự thán phục đó, bạn dễ dàng thần tượng hóa và thần thánh hóa những "tu sĩ thông thái bác học" đó. Trái lại, Đức Phật, một Đại Đạo Sư của trời người, một đấng giáo chủ của một tôn giáo rộng lớn khắp thế giới, một Đại Thánh Nhân, lại sử dụng ngôn ngữ bình dân của Ấn (ngôn ngữ Pàli). Và Mahavira, một đạo sư nổi tiếng của Ấn, thì dùng ngôn ngữ Prakrit, một hình thức ngôn ngữ còn phôi thai của Sanskrit, không có văn phạm rắc rối, không có từ vựng nhiều.
Tôi kể cho bạn nghe một câu chuyện vui:
"Ngày kia, Mulla Nasruđin đi khám bịnh. Ông Bác Sĩ viết toa thuốc bằng tiếng La Tinh và Hy Lạp. Ông ta viết tháu đến độ Mulla đọc không được một chữ nào cả (Bác Sĩ nào cũng vậy!)
Mulla hỏi Bác Sĩ:
"Này Bác Sĩ, thôi thẳng thắn với nhau đi. Ông cứ nói bệnh của tôi, đừng viết chữ La Tinh hay Hy Lạp gì cả, đọc chẳng được một chữ nào."
"Nếu ông khăng khăng muốn biết, thì tôi nói cho ông rõ là ông chẳng có bịnh gì cả; ông chỉ có bịnh lười mà thôi" bác sĩ điềm nhiên trả lời.
Mulla nói:
"Được rồi, cám ơn. Thôi, bây giờ ông viết toa thuốc lại bằng tiếng La Tinh hay Hy Lạp gì gì cũng được, để tôi đưa cho gia đình tôi xem."
Qua câu chuyện vui trên, ta thấy những bọn thông thái luôn tìm cách lừa phỉnh mọi người. Đó cũng là lý do bọn này phản bội, quay lưng làm ngơ hay chống trái lại Đức Phật, Chúa hay Mahavirạ Nếu bọn giáo sĩ này cũng dùng những phương pháp giảng dạy dễ hiểu, bình dị và sống trung thực chân chánh như các Thánh Nhân thì họ đâu còn chỗ đứng nữa. Họ đâu còn được người khác tôn sùng ve vuốt nữa? Bọn giáo sĩ tự cho mình là người có đủ khả năng hiểu được ngôn ngữ của Thượng Đế; mình là người duy nhất làm gạch nối giữa con người và Thượng Đế. "Này, anh muốn gì? Muốn cầu xin hay than thở với Thượng Đế hả? Có ta đây, ta sẽ nói tiếng Sanskrist với Ngài, ta sẽ phúc trình lên Thượng Đế những gì anh mong muốn, và anh phải "biết điều" đấy nhé. Chỉ có mình ta giúp anh được thôi; chỉ có mình ta nói tiếng Sanskrist; Thượng Đế chỉ hiểu Sanskrist mà thôi!" (và lẽ dĩ nhiên, "biết điều" có nghĩa là phải trả tiền đấy, nhiều hay ít tùy theo lời cầu xin của bạn dài hay ngắn nữa đấy.)
"Có hai anh em nhà sư nọ trụ trì một ngôi chùa ở phía bắc Nhật Bản. Nhà sư anh rất thông thái, còn nhà sư em thì lại ngớ ngẩn lù khù còn chột một mắt nữa... "
Cái hình ảnh "một mắt" trong câu truyện biểu trưng cho cái gì nhỉ? Có phải chăng là những kẻ dễ tin, ngây thơ thì luôn luôn chỉ có một hướng, một bộ mặt mà thôi. Họ không bao giờ do dự, đắn đo, suy tư, thắc mắc hay nghi kỵ. Đối với bất cứ một vấn đề gì, những kẻ tài trí thông minh luôn luôn chia chẽ, phân tích, mổ xẻ nghiên cứu. Trong thâm tâm những hạng người nầy, luôn luôn có sự dằng co, mâu thuẫn, xâu xé nhau. Cái nào sai? Cái nào phải? Cái nào có lợi, cái nào không?
Những kẻ thông thái có học là những kẻ có hai bộ mặt - hai mắt. Và khi ta nhìn kỹ những kẻ ngây thơ lù khù kia, ta lại thấy họ thánh thiện, trong sáng hơn bọn bác học thông thái nhiều. Cái nét trong sáng, giản dị, hồn nhiên đó toát ra từ tấm lòng chân thật thẳng thắn không đắn đo nghi kỵ. Còn hạng tài trí lịch lãm kia thì đã mất sự thánh thiện đó tự lâu rồi.
Họ là người đứng giữa trí tuệ và vô minh. Họ tưởng là họ tài trí hơn người, song thực ra, họ lại là những kẻ ngu xuẩn và thua thiệt nhiều nhất. Vì thế, đầu óc bọn thông thái bác học luôn bị căng thẳng, không bao giờ được thư giãn an lạc.
Thánh Francis ngày xưa thường bị chế diễu là một thằng khờ, "một tên khờ của Chúa". Song, nếu được là thằng khờ của Chúa còn diễm phúc hơn là cái tiếng bác học của thế nhân. Vì sao? Vì cái "Ngã" kệch cỡm, cái "Ngã" ích kỷ, đáng ghét của Francis không còn nữa, và Thánh Francis được phong Thánh vì đã diệt trừ được cái " tôi" hợm hĩnh đó.
"Tên Khờ của Chúa!" Nếu bạn đã đọc những tác phẩm văn học lớn của Dostoevsky, bạn sẽ hiểu hàm nghĩa của các chữ "Tên Khờ của Chúa". Hầu hết trong các tác phẩm Dostoevsky đều có một nhân vật mang dáng dấp một "thằng khờ của Chúa". Trong tác phẩm "Những Anh Em Nhà Karamazov", tên khờ của Chúa có mặt. Tên khờ đó rất ngây thơ, bạn có thể khuynh loát lừa bịp hắn. Ngay cả khi bạn lừa bịp hắn, hắn vẫn tin bạn như thường. Tuy nhiên, bạn phải nhớ kỹ điều này: "Bạn có thể hủy diệt con người hắn nhưng bạn không thể hủy diệt Niềm Tin của hắn - đó chính là Nét Đẹp Tuyệt Đối Nhân Bản."
Riêng bạn, bạn sẽ phản ứng ra sao khi có kẻ lừa bịp bạn? Nếu bạn bị kẻ nào đó lừa dối một lần, bạn có thể đâm ra nghi ngờ tất cả mọi người. Cũng như con chim bị tên bắn một lần, nó sợ cả giây cung và bụi rậm. Nếu bạn bị lừa dối hai lần, ba lần, bạn sẽ hoàn toàn tuyệt vọng, mất hẳn niềm tin vào nhân loại.
"Một ngày kia, có một du tăng đi ngang qua chùa, muốn xin vào ngủ trọ. Nhà sư anh quá mệt do học hành... "
Những người thông thái luôn luôn mệt mỏi bởi chữ nghĩa. Những người lao động cũng mệt vì công việc nặng nhọc nhưng xong việc rồi, họ cảm thấy thoải mái, khoẻ khoắn hơn - còn một khi bạn làm việc với chữ nghĩa - những thứ chữ nghĩa rỗng tuếch - bạn sẽ luôn cảm thấy mệt mỏi. Dòng sống luôn chảy về phía trước, dòng sống luôn linh động, tươi trẻ, tràn đầy sinh lực. Nếu bạn làm việc trong vườn, tiếp xúc với cỏ cây hoa lá, bạn sẽ đón nhận thêm luồng sinh lực mới, bạn không mất gì cả. Bạn đi tản bộ dọc theo con đường xanh mát, bạn hấp thụ thêm tinh khí trời đất, bạn đang sống từng phút giây; nhưng nếu bạn đóng cửa phòng, gầm đầu vào chữ nghĩa, suy nghĩ và suy nghĩ; dòng sống đã ngưng chảy, đã chết, và bạn chẳng còn gì ngoài sự lao nhọc tinh thần. Một người thông thái luôn mệt mỏi. Một tên khờ luôn tươi trẻ, một thánh nhân cũng luôn tươi trẻ. Tên khờ và vị thánh nhân thật có nhiều đặc tánh giống nhau.
"Nhà sư anh nói với sư đệ hãy ra ngoài tranh luận với vị sư khách, nhưng dặn dò sư đệ là phải tranh luận trong im lặng... "
Vì sao? Vì sư huynh biết chắc rằng sư đệ mình là người ít học, không biết nói gì, vì thế phải tranh luận bằng cử chỉ trong im lặng để không ai có thể đoán biết được ý nghĩ. Đo dó, im lặng là vàng; nếu bạn là một kẻ ngốc, nên im lặng - nhưng nếu bạn là bậc Thánh, bạn cũng nên im lặng luôn.
Một người "Trí Tuệ" sẽ im lặng vì hắn ta biết rằng sẽ không thể diễn tả sự hiểu biết bằng ngôn ngữ. Kẻ ngu cũng im lặng vì nếu lỡ nói ra điều gì sẽ bị chê cười ngaỵ Kẻ ngu có thể lừa bịp mọi người bằng cách im lặng, nhưng nếu hắn há miệng ra thì sẽ bị lật tẩy ngaỵ Nhà sư Anh biết sư đệ mình ngớ ngẩn nên đã dặn phải đòi tranh luận trong im lặng để không bị người khác biết cái tẩy ngu dốt của mình. Do đó, vị du tăng thông thái kia đã bị đánh bại phải đi nơi khác vì đã lọt vào cái bẫy của nhà sư Anh.
Những người thông thái bác học đều mắc phải cái bịnh hay nói - nói rất nhiều để phô trương cái giỏi cái hay của mình; cho nên khi không được nói; họ không biết xoay sở thế nào? Đột nhiên, tất cả những năng kỹ sở trường đó của họ biến mất. Trong im lặng, họ trở thành những con cừu, con dê ngớ ngẩn, ngờ nghệch; ngớ ngẩn hơn cả những kẻ ngu thực sự. Ngay cả kẻ ngốc cũng có thể đánh bại họ. Họ đã bị tách ra khỏi cái thế giới chuyên môn của mình nên đâm ra lúng túng, khó xử. Thực tế, thật khó khăn cho một người học thức phải giữ im lặng, không được nói gì cả. Vị du tăng kia cũng vậy, ông ta phải đi tìm chỗ trọ khác, phải tìm một nhà sư chịu tranh luận qua ngôn ngữ, qua học thức.
Những động tác, cử chỉ của chúng ta rất sống động. Khi chúng ta đưa tay lên hay ngó ngoáy cái đầu, cả con người chúng ta cử động theo đó. Khi chúng ta nhìn một người hay một vật nào, cả con người chúng ta chú mục đến đối tượng đó. Khi chúng ta bước đi, chúng ta bước đi với cả thân người chứ không phải chỉ có đôi chân di động. Nhưng đầu óc thì khác, nó có thể hoạt động liên tục khi chúng ta ngồi yên hay nằm ngủ. Vì thế, nếu chúng ta muốn tìm hiểu một người nào, đừng nghe những gì hắn nói mà hãy nhìn kỹ những hành động của hắn: cách hắn ta vào phòng thế nào, đóng cửa thế nào, ngồi ra sao, đi đứng, ăn uống, nhìn ngó, v.v thế nào. Có nghĩa là chúng ta hãy quan sát mọi hành động của hắn. Những cử chỉ của hắn sẽ nói rõ cho chúng ta biết bản chất của hắn, tư cách của hắn. Qua đó, chúng ta biết rõ sự thật con người của hắn không bị tô mầu hay phủ lên lớp vỏ tri thức nào.
Tôi đã thử nhiều người qua phương thức đó. Tôi nhìn hành động của họ chứ không quan tâm đến những lời họ nói. Những người đó có thể cúi đầu xuống chạm chân tôi để tỏ lòng kính ngưỡng, nhưng cả con người họ toát ra cái mùi Bản Ngã to lớn đậm nét vô cùng, vì thế cái cử chỉ cúi đầu chạm trán đó rõ thật vô dụng, giả trá. Những con người đó cố dấu cái bản ngã của họ nhưng rõ ràng họ đang tự lừa dối mình, lừa dối người. Họ không có sự thành thật nên không làm rung cảm được ai cả.
Soren Kierkegaard từng nói: "Trước kia, khi tôi bước vào nhà thờ, tôi hay nói lắm. Tôi luôn nói chuyện với người này, hay than thở cầu xin việc nọ việc kia. Nhưng rồi, tôi cảm thấy thật khờ khạo làm sao khi cứ lê thê dài dòng than vắn thở dài nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất với Thượng Đế. Con người có cố tật là thích nói nhiều về mình hơn là lắng nghe người khác nói, cho nên khi đến với Chúa, với Thượng Đế, con người cũng đem cái tật xấu đó ra mà kể lể, hắn không cho Chúa có một cơ hội nói chuyện với hắn; cho nên khi có dịp ta đứng trước Chúa, tốt hơn hết là ta nên lắng nghe Chúa nói."
Và Kierkegaard không kể lể nữa, rồi dần dần ông ta không cầu nguyện nữa. Ông ta chỉ vào thánh đường, ngồi yên lặng, ngồi thật yên lặng; nhưng trong sự Tuyệt Đối Im Lặng kia, Tiếng Nói Nội Tâm bắt đầu lên tiếng.
Khi bạn thực sự quay về lắng nghe "Tiếng Nói Nội Tâm", bạn sẽ đi vào một thế giới hoàn toàn khác lạ cái thế giới mà bạn đang sống.
Kierkegaard không còn đi nhà thờ nữa. Có người đã hỏi: "Sao ông không đi lễ nữa vậy?" Kierkegaard đã trả lời: "Bây giờ tôi đã hiểu nhà thờ là gì; nó có nghĩa là Im Lặng và Lắng Nghẹ Và khi tôi đã làm được hai việc đó rồi, nhà thờ đối với tôi không còn cần thiết nữa. Tôi có thể im lặng và lắng nghe bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Những nơi cầu nguyện luôn đông người quá, họ đến để phô trương bề ngoài, đến để tán dóc, gặp gỡ nhau hơn là cầu nguyện. Họ làm phiền, quấy rầy tôi quá. Vì thế, tốt hơn hết là hãy ngồi dưới gốc cây, dưới bầu trời, độc thoại và lắng nghẹ"
Thượng Đế có mặt khắp mọi nơi, không phải chỉ ở tại thánh đường hay đền thờ. Một khi tâm hồn chúng ta an tĩnh, không lăng xăng vọng động thì Thượng Đế và chúng ta đã gặp nhau rồi vậy; không cần phải đến nhà thờ thấy tượng Chúa hay vào chùa thấy tượng Phật mới là gặp Phật, gặp Chúa. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng thấu triệt được điều đó; cái "Tự Ngã" rườm rà đã che dần đi nét hồn nhiên thánh thiện của tâm hồn chúng tạ Để rồi từ đó, chúng ta luôn suy diễn hành động lời nói người khác qua sự ức đoán của mình; nếu lệch lạc sai lầm ít thì dẫn đến nghi kỵ, mất đoàn kết, không hòa hợp; nếu sai lệch nhiều thì đưa đến xung đột va chạm nhau từ người và người rồi đến đoàn thể, xã hội, quốc gia; cũng như vị du tăng và nhà sư chột mắt đã suy diễn cử chỉ của đối phương qua trình độ tư duy và óc tưởng tượng của mình. Vị du tăng đưa một ngón tay lên có ý nói tượng trưng cho Đức Phật, nhưng nhà sư chột mắt lại nghĩ là người kia đang chế diễu sự khuyết tật của mình. Ông ta đưa hai ngón tay lên tỏ vẻ lịch sự khen vị du tăng còn đủ hai mắt, nhưng vị du tăng với trình độ Phật pháp cao lại cho là hai ngón tay tượng trưng cho Đức Phật và Phật pháp... và cứ thế mà hai người suy đoán qua lại.
Khi ta nhìn một đóa hoa, tại sao ta không nhìn trực diện vào đóa hoa để thấy nụ hoa, sắc hoa, mà ta lại lan man suy diễn "Ồ, đóa hoa này đẹp như một người con gái xuân trinh", hay nhìn trăng tròn, ta lại tưởng tượng thấy giống như gương mặt sáng rỡ của người yêu... Đóa hoa là đóa hoa. Mặt trăng là mặt trăng. Ngón tay là ngón taỵ Đóa hoa không phải là người đẹp. Mặt trăng không tình như người yêu, và ngón tay không phải là Đức Phật.
Không có ai tượng trưng cho ai và cũng không có vật gì tượng trưng cho một người nào đó. Mỗi người là hình ảnh của chính mình. Không có ai là bản sao của ai cả. Khi bạn nói ngón tay tượng trưng cho Đức Phật thì Phật là bản chính, còn ngón tay là bản sao của Phật rồi. Đức Phật không chấp nhận cái hiểu sai lệch đó và tôi, tôi cũng không đồng ý tư kiến đó của bạn.
Để tôi kể cho bạn nghe một câu truyện: "Ngày kia, có một người đàn ông tìm tới Bayazid, một đạo sĩ Sifi và hỏi ông ta một câu hỏi. Bayazid trả lời: "Hãy về đi và một năm sau ông hãy trở lại, bởi vì lúc này đây, ông đang bị bịnh. Tâm hồn ông, đầu óc ông như là một mớ bòng bong rối mù lên và tôi không thể trình bày diễn giải gì cho ông nghe được cả. Ông sẽ không lãnh hội gì đâu với đầu óc hổ lốn như vậy. Vì thế, hãy về đi và tập ngồi yên lặng, tĩnh tâm, thư thái. Một năm sau, hãy trở lại tìm tôi; lúc đó nếu tôi thấy ông có thể nghe tôi nói, tôi sẽ nói - nếu không, ông hãy đi tìm người khác."
Người đàn ông đó nghe lời, ra về và tập thực hành theo lời dạy của Bayazid - nhưng rồi, anh ta cũng không trở lại tìm Bayazid nữa.
Có người thắc mắc nên hỏi: "Sao anh không tìm Bayazid? Anh ta trả lời: "Bây giờ tôi không cần tìm hỏi Bayazid nữa; tôi đã hiểu những gì Bayazid nói."
Đó là một nghịch lý, phải không? Chúng ta phải nhận thức rõ ràng rằng khi nội tâm chúng ta chưa vững vàng thì dù chúng ta có chạy rong cố tìm kiếm hay cầu xin, van lạy thì chúng ta cũng không thấu triệt được gì; nhưng một khi chúng ta đã vững chắc sẵn sàng, nội tâm đã an tĩnh thì dù chúng ta không hỏi, không cầu thì câu trả lời đã an bày sẵn rồi vậy.
Buồn thay! Hầu hết chúng ta đều không có khả năng sống trong hiện tại. Chỉ có chư Phật mới có khả năng sống trong hiện tại và an trú trong chánh niệm. Không có một ai hay rất ít, rất ít người có khả năng đó. Chúng ta hay quay về truy tìm quá khứ, mở rộng tương lai và bỏ quên hiện tại. Vì thế, chúng ta đã đánh mất mình mà không hay không biết.
... "Hắn đưa 3 ngón tay lên có ý nói là đệ và hắn, hai người có 3 mắt. Lúc này đệ bực quá, không lịch sự nổi nữa nên giơ nắm đấm lên đe dọa "nè, nếu lộn xộn nữa thì ta sẽ đấm vỡ mặt đó." Hắn sợ quá, bỏ đi luôn."
"Nhà sư Anh phá lên cười."
Cái cười của nhà sư Anh có thể là nụ cười giác ngộ. Cái cười đó có thể là sự chuyển hóa, là một sự thức tỉnh sâu xa mầu nhiệm.
Nhà sư Anh đã thấy cả hai phía rằng vị du tăng đó không hề có ý nghĩ gì đối với sư đệ mình, và sư đệ dốt đặc cán mai của mình cũng không tài nào hiểu nổi những gì sư du tăng kia ngụ ý. Cả hai người là hai con đường ngược chiều, mỗi kẻ một hướng. Họ không bao giờ gặp nhau cả. Nhà sư Anh cười vì đã thấy rõ tâm thức con người hoạt động mạnh mẽ cỡ nào, nó có thể lèo lái con người hướng thượng hay hướng hạ, có thể thành bậc Thánh, vĩ nhân hay thành một tên cùng đinh hèn hạ, một tên đạo đức giả, đội lốt; có thể sống đúng đắn hay trái phạm đều do nó cả.
"Tâm là chủ. Tất cả đều do Tâm tạo."
Nhà sư Anh cười.
Nụ cười giác ngộ, nụ cười trọn vẹn.
Giây thừng đứt, thùng nước rơi.
Không còn nước trong thùng.
Không còn trăng trong nước.
"Tay ta rỗng không, chẳng có vật gì.
Tâm ta rỗng không, chẳng có vật gì."
"Thiền sư Hakuin rất được mọi người trọng vọng kính nể vì phong cách đạo đức thánh thiện của ông.
Một ngày kia, có một người con gái trẻ đẹp nhà gần chùa của thiền sư bỗng bị chửa hoang. Người ta không biết cha đứa bé là ai. Bố mẹ cô gái vô cùng tức giận và xấu hổ nên đánh đập tra khảo cô con gái về lai lịch tình nhân của cộ Ban đầu cô con gái không chịu nói gì cả, nhưng sau cùng vì bị đánh đập dữ dội, cô tiết lộ đó là thiền sư Ha kuin.
Tin xấu đồn ra nhanh chóng. Cha mẹ cô gái giận dữ, đùng đùng lên chùa và mắng xối xả vào mặt Hakuin. Khi họ dứt lời, Hakuin chỉ thốt hai tiếng "Thế à!"
Sau khi đứa bé chào đời, gia đình cô gái mang đứa bé quẳng cho Hakuin nuôi. Trong thời này, Hakuin đã bị tai tiếng và nhiều người chê bai trách móc ông đủ điều; nhưng Hakuin vẫn thản nhiên như không, dường như câu chuyện kia chẳng có dính líu gì đến ông cả.
Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế và bồng nó đi xin sữa khắp nơi.
Một năm sau, cô gái vì cảm thấy ray rứt hối hận nên đã thú thực với cha mẹ là người cha đứa bé không phải là Hakuin mà là một chàng thanh niên làm việc ở chợ cá. Cha mẹ cô ta vội chạy lên chùa dập đầu tạ lỗi với Hakuin và xin mang đứa bé về.
Thiền sư Hakuin vẫn thản nhiên như không, thốt lên hai tiếng "Thế à!"
Đời sống thánh thiện là gì? Bạn định nghĩa trong sạch như thế nào? Thực ra, những gì bạn định nghĩa "đạo đức, trong sạch, v.v... đều không phải là sự trong sạch, đạo đức thực sự. Vì sao? Vì "Đạo Đức, Trong Sạch" mà đặt trên một tiêu chuẩn nào thì không phải là Đạo Đức hay Trong Sạch đúng nghĩa. Cái thứ đạo đức mà bạn đang nói đó chỉ là một sự tính toán, đo lường, định mức - một sự tính toán luân lý mà thôi. Cái thứ đạo đức đó không phải là đạo đức của bậc Thánh Nhân. Cái thứ đạo đức có tiêu chuẩn, có tính tóan đó là thứ "đạo đức giả hiệu", là thứ "đạo đức tối nghĩa".
Chúng ta cần phải luận bàn rõ ràng điểm này. Nếu bạn chịu khó suy nghĩ sâu xa hơn nữa với Trí Tuệ, bạn sẽ hiểu một vị Thánh thế nào, một người thông minh thế nào, một người có kiến thức thế nào. Nếu bạn hiểu đúng đắn thì tất cả sự việc sẽ diễn biến đúng; nếu bạn hiểu sai thì vạn sự đều sai.
Sự Thánh Thiện chân xác, vô tư như đứa bé con. Đầu óc một đứa bé con thật trong sáng. Đứa bé không biết phân tích, chia chẽ. Đứa bé không bao giờ tách rời và đánh giá sự kiện: đây là Chúa, đây là quỉ sứ; cái này tốt, cái kia xấu, cái này đúng, cái kia sai, v.v và v.v - nhưng sự thánh thiện đạo đức theo ý bạn là sự lựa chọn, đánh giá. Bạn đã làm một sự phân chia ranh giới Thiện Ác rõ ràng, bạn đã chia cắt thực tại và sự chia cắt đó không bao giờ dẫn đường bạn tới Chân Lý.
Sự Vô Tư Thánh Thiện chỉ nẩy mầm đơm bông khi hiện hữu không bị chia cắt. Bạn đón nhận nó y như nó là. Bạn không chọn lựa, không chia chẽ, không đánh giá một sự kiện nào. Bạn phải vượt lên trên ranh giới chia hai đó, bạn phải vượt lên trên những định mức, tiêu chuẩn đặt ra bởi đầu óc hẹp hòi thiên kiến của người đời thì bạn mới hy vọng nắm bắt được Chân Lý Tuyệt Đối. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta phải dùng trí tuệ phân biệt đúng sai nhưng đừng để bị dính mắc vào tư kiến phân biệt đó để tâm tư, tầm nhìn chúng ta không bị đóng khung vào những tiêu chuẩn định mức giả tạm. Sự việc này "đúng", "phải" là đúng phải như thế nào? Con người kia hành động "sai", "trái" là sự sai trái ra sao? Có phải chăng là do một số đông người chấp nhận đồng ý đó là giá trị luân lý xã hội thì chúng ta cho hành động này là đúng theo góc độ đạo đức này, việc làm kia sai theo góc độ luân lý kia v.v. và v.v... Những bảng giá trị định mức đạo đức luân lý đó từ đâu phát sinh rả Có phải chăng cùng từ tư kiến chủ quan của một vài người nào đó đề xướng ra và gặp may được mọi người hoan nghinh công bố.
Để tôi kể cho bạn nghe một nghịch lý như sau:
"Khalil Gibran đã viết một câu truyện thật hay, thật tuyệt: "Có một vị tu sĩ đang vội vã đi về phía nhà thờ. Ngay trên đường đi, ông ta bỗng thấy một người đàn ông sắp chết. Người này bị mất máu nhiều, đang hấp hối; có lẽ hắn bị kẻ nào đó tấn công quá nặng - hắn bị thương nhiều nơi, máu me tràn lan.
Vị tu sĩ này đang gấp đi, ông ta phải đến nhà cầu nguyện đúng giờ, nhiều tín đồ đang đợi ông ta giảng đạo. Nhưng ông ta là một con người đạo đức (tôi nói ông ta "đạo đức" chứ không nói ông ta "thánh thiện"). Ông ta tự nghĩ mình sẽ làm gì trong trường hợp này. Ông ta suy tính: "Tốt hơn hết là phải cứu kẻ sắp chết này. Đó là những gì Chúa Giê Su đã dạy. Nên quên nhà thờ đi, những con chiên đi; họ có thể đợi một chút mà - nhưng kẻ này phải được giúp đỡ liền, nếu không hắn sẽ chết mất."
Và rồi ông tu sĩ này tiến đến gần người đàn ông hấp hối đó, nhưng ngay phút ông ta nhìn tận mặt kẻ sắp chết, ông ta bỗng giật thót người lại, bàng hoàng. Bộ mặt này nhìn có vẻ rất quen thuộc, có vẻ rất ư là tội lỗi. Và ông tu sĩ này chợt nhớ là ở nhà thờ ông ta có một bức tranh vẽ tên Tội Lỗi - và đúng rồi, đúng là người này rồi. Đúng là tên Tội Lỗi, chẳng có ai khác đâu. Ông tu sĩ hốt hoảng chạy về phía nhà thờ.
Tên Tội Lỗi ngóc cổ dậy gọi lớn:
"Nè tên linh mục kia! Hãy nghe đây. Nếu ta chết, ngươi sẽ hối hận mãi mãi đó nghen. Vì nếu ta chết đi, nếu tội lỗi không còn, thì Chúa nhà ngươi sẽ ở đâu? Nếu cái Xấu mất hết, thì cái Tốt cũng không còn đất đứng nữa! Nhà ngươi có mặt bởi vì có Ta, cái Tốt được nêu lên vì có cái Xấu đối lập, Chúa hay Thượng Đế, Thánh Thần hiện hữu vì có Tội Lỗi đứng kề bên! Hãy nghĩ kỹ đi!"
Ông linh mục dừng lại. Tên Tội Lỗi kia nói đúng, đúng thật. "Nếu tội lỗi không còn thì địa ngục cũng đâu có. Và nếu không có sự sợ hãi thì ai sẽ tôn thờ Chúa nữa? Tất cả những lời cầu nguyện, van xin thống thiết kia đều bắt nguồn từ sự Sợ Hãi. Bạn sợ hãi, tình yêu của bạn đối với Thiên Chúa cũng dựa trên sự sợ hãi tội lỗi và trừng phạt. Cái tốt đẹp của bạn cũng được đo lường qua sự tội lỗi. Chúa, Thượng Đế hay Thánh Thần gì gì đi nữa đều cần có tên tội lỗi này."
Tên Tội Lỗi lại lải nhải tiếp:
"Chúa cần ta đó! Tin ta đi, Chúa không thể nào không có tạ Tất cả thánh đường, đền thờ sẽ sụp đổ và sẽ không còn một con chiên, một tín đồ nào nếu không có tạ Và ngươi sẽ không tìm thấy một người tôn giáo nào nếu ta không còn có mặt trên đời này. Ta dụ dỗ bọn chúng, ta mê hoặc con người; qua sự dụ dỗ mê hoặc của ta, các ngươi trở thành những tên đạo đức. Ngươi có bao giờ nghe là có một tên đạo đức nào lại không bị lọt vào cạm bẫy của tội lỗi không? Tất cả đều bị ta dụ dẫn hết. Chính ta tạo ra bọn chúng; chính ta tạo ra bọn đạo đức đó. Hãy quay lại đây!"
Ông linh mục do dự một chút, nhưng quả thực tên Tội Lỗi ranh ma này có lý - và hắn có lý một cách rất "người". Ông ta lắp bắp: "Ông nói có lý thật. Quả thực ông rất có lý. Chúng tôi sẽ ra sao, sẽ về đâu nếu không có ông?" và vị linh mục kia vác tên Tội Lỗi lên vai cõng hắn tới nhà thương. Ông ta đợi ở đó cho tới khi biết chắc rằng tên Tội Lỗi kia sẽ qua được cơn nguy hiểm và sống sót - và một khi tên Tội Lỗi sống sót thì nhà thờ, đền đài, các tu sĩ, các tôn giáo sẽ tồn tại.
Vị linh mục kia quả thực là một người đạo đức, nhưng không phải là một người thánh thiện. Cuộc đời của ông ta là cả một chuỗi dài tính toán, đo lường; và một khi bạn tính toán thiệt hơn thì bạn đã thua cuộc rồi vậy; một khi bạn chia chẻ cuộc đời ra, biến nó thành một bài toán lô gích thì không có cách gì bạn thắng cuộc được. Trận chiến giữa Ác và Thiện, giữa Tội Lỗi và Đạo Đức đã quyết định - bạn là người thua cuộc.
Một con người trong sáng vô tư không phân biệt thánh phàm, thiện ác, tốt xấu, tội lỗi hay đạo đức. Một con người trong sáng hoàn toàn sống với sự thuần khiết nội tâm, không tính toán so đọ Người đó thật giản dị, trung thực và thanh khiết. Người đó sống an lạc trong phút giây hiện tại, lúc này ngay bây giờ chứ không trôi về quá khứ hay bay bổng theo tương lai. Danh từ "Qúa Khứ" "Tương Lai" không có nghĩa lý gì đối với người đó. Chỉ có phút giây Hiện Tại là quan trọng.
Nhưng cái Đạo Đức của bạn... Cái đạo đức của bạn đó được cấu tạo ra bởi các vị tu sĩ và các tu sĩ đó sánh vai với tên Tội Lỗi; tên Tội Lỗi và các tu sĩ không thể tách rời, họ cần có nhau để tồn tại. Vì thế, cái vỏ đạo đức mà bạn đang đánh bóng đó không phải là sự thánh thiện, không phải là sự trong sáng vô tự Song, nếu hễ có người nào hành xử có vẻ đạo đức theo cách bạn nghĩ thì bạn sẽ tôn sùng, vinh danh người đó ngaỵ Bạn sẽ gọi người đó là vị thánh, là một người đạo đức. Những vị thánh, những người đạo đức đó chẳng qua chỉ là những hình nộm được khoác áo qua sự nhận xét đánh giá của bạn. Cái tiêu chuẩn, cái giá trị luân lý định mức đó chỉ là cái vỏ che dấu sự sợ hãi, và sự trá hình đó thật khéo léo đến nỗi bạn cũng bị đánh lừa, bạn tự lừa dối mình luôn.
Krishnamurti đã từng nhấn mạnh rằng không nên lựa chọn, không được lựa chọn gì cả; một khi bạn thích tính toán lựa chọn, bạn đã sai lầm rồi vậy. "Hãy nhận thức, hiểu biết, đừng chọn lựa so đo - ngay cả cái "Không Chọn Lựa", cũng phải vứt bỏ luôn. Hãy đơn giản hiểu rằng, những gì bạn chọn lựa so đo để hành xử đều phát xuất từ đầu óc tính tóan của bạn. Cái thứ đầu óc đó chỉ có thể tạo ra những giấc mộng, chứ nó không thể nào dẫn bạn tới Chân Lý được. Chân Lý luôn luôn hiện hữu trước mặt chúng ta, không cần phải tạo ra. Chỉ cần chúng ta nhìn thật trung thực, đúng đắn; một cái nhìn không phân biệt thì Chân Lý tức thời hiện hữu.
Một con người trong sáng vô tư không phải là một chiến sĩ; người đó là vị thánh; nhưng con người của đạo đức xã hội là một chiến sĩ, không phải là thánh nhân. Dù đó là trận chiến nội tâm, bạn đang chiến đấu với chính bạn chứ không phải với người nào khác thì trận chiến vẫn là trận chiến; chỉ khác danh từ một chút là trận chiến bên ngoài hay trận chiến bên trong mà thôi; thực nghĩa danh từ chiến đấu vẫn là một với thắng bại, hơn thua, vẫn là ranh giới hai bờ đối đãi.
Con người của sự trong sáng thánh thiện đúng nghĩa không cần phải chiến đấu, không cần phải đàn áp hay bao vây cái gì. Chẳng có cái gì phải chiến đấu, chẳng có người nào cần phải đàn áp. Người đó đi đứng an nhiên tự tại vượt Không - Thời Gian, không bị ràng buộc dính mắc mà cũng không trói chèn ai cả. Tự Do Tuyệt Đối!
Nếu bạn thấu hiểu toàn triệt vấn đề, bạn mặc nhiên đón nhận mọi việc, và thái độ đón chào đó dẫn đường bạn tới sự trong sáng toàn thiện, và sự trong sáng đó cũng không cần được ai vinh danh bốc thơm cả.
Chân Lý mãi mãi vẫn là Chân Lý. Chân Thiện Mỹ mãi mãi là Chân Thiện Mỹ. Dù có hay không có ai nhắc tới thì sự thực vẫn là sự thực, không thay đổi. Tuy nhiên, đạo đức thì lại khác. Đạo đức thuộc về một quốc gia; thánh thiện thì không biên giới. Đạo đức thuộc về một thời đại nào đó; thánh thiện thì vô kỳ. Đạo đức thuộc về một xã hội nào đó, nhiều môi trường xã hội khác nhau thì có nhiều mẫu đạo đức khác nhau - nhưng thánh thiện thì chỉ có một. Dù bạn đi bất cứ nơi đâu, thánh thiện vẫn chỉ là một; như mùi vị nước biển, chỉ có một vị là mặn, giáo lý đạo Phật chỉ có một vị là vị giải thoát. Đức Phật, Chúa Giê Su, hay Ramakrishna, những bậc Thánh vĩ đại này đều chỉ có mục đích là ban vui cứu khổ cho chúng sanh. Nhưng con người của đạo đức thì lại khác. Nếu họ là tín đồ Ấn Độ giáo thì cách hành xử của họ lại khác với người đạo Hồi, khác với người đạo Thiên Chúa. Con người của đạo đức phải theo những mẫu mã, luật lệ, qui ước của xã hội họ đang sống. Có nhiều xã hội thì khuôn mẫu đạo đức cũng có cả triệu thứ. Xã hội thay đổi thì khuôn mẫu đạo đức thay đổi. (ghi chú thêm của người dịch cho dễ hiểu: Thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Trung Hoa, người dân lấy tôn chỉ đạo đức của Đức Khổng Phu Tử làm kim chỉ nam xây dựng xã hội, qui chế. "Tam Cương" ( quân, sư, phụ) và "Ngũ Thường" (nhân, nghiã, lễ, trí, tín ) là gốc đạo đức, là khuôn phép hành xử của người dân. Nhưng đến nay, cơ chế thay đổi, xã hội thay đổi, cái khuôn mẫu đã được tôn trọng ngàn năm đó đã thay đổi theo thời đại, theo quan niệm mới để phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại).
Chân Thiện Mỹ thì vĩnh cửu - vượt Thời gian, Không gian, không giới hạn bởi quốc gia, dân tộc, môi trường xã hội, v.v... Chân Thiện Mỹ vượt qua tất cả những gì do con người định đặt, tạo tác.
"Thiền Sư Hakuin được mọi người xung quanh trọng vọng kính nể vì phong cách đạo đức thánh thiện của ông."
Những người đó thực sự không biết gì cả; họ không biết rằng những lời khen, tâng bốc đó không ảnh hưởng chút nào tới thiền sư Hakuin. Họ cho rằng "Hakuin là một người đạo đức" nhưng thực ra, Hakuin không phải mẫu người đạo đức theo cách nghĩ của họ. Hakuin là một người thánh thiện, một người chân tịnh. Hakuin là một người tôn giáo, và hãy nhớ sự khác biệt này - Hakuin là người đã đạt tới Chân Thiện Mỹ vĩnh cửu; nhưng mọi người xung quanh Hakuin không thể nào thấu đáo được sự khác biệt giữa đạo đức và sự thánh thiện vượt ra ngoài qui tắc đạo đức luân lý đời thường. Người ta cũng có thể nghĩ rằng Hakuin là vị thánh, nhưng Hakuin không phải là vị thánh theo quan niệm của họ. Hakuin là bậc thánh, nhưng không phải là bậc thánh theo sự đánh giá định mức của họ. Những tiêu chuẩn, qui tắc của người đời không thể áp dụng vào thiền sư Hakuin. Bạn phải quăng bỏ đi những đánh giá phán xét của bạn và chỉ "nhìn", nhìn bằng con mắt thứ ba, mắt trí tuệ, mắt nội tâm thì bạn mới thấy được chân tướng một vị thánh.
"Một ngày kia, người con gái nhà gần chùa thiền sư Hakuin bị chửa hoang. Cha mẹ cô ta giận dữ đánh đập cô ta để tra hỏi lai lịch cha đứa bé, và cô ta đã nói đó là Hakuin. Bị cha mẹ cô gái mắng nhiếc thậm tệ, Hakuin chỉ điềm nhiên thốt lên hai tiếng "Thế à!"
Thiền sư Hakuin không chấp nhận cũng không phủ nhận. Hakuin không nói "Tôi không chịu trách nhiệm chuyện này". Hakuin cũng không nói "Tôi chịu trách nhiệm chuyện này." Hakuin chỉ điềm nhiên thốt lên hai tiếng không ăn nhập vào đâu hết "Thế à!"
"Thế à!" nghĩa là thế nào? Nó có nghĩa là một sự nhận chịu ngay cả khi sự nhận chịu đó không cần thiết phải có. Bởi vì khi bạn nói "Tôi chấp nhận" thì tận cùng thâm tâm của bạn không ưng chịu; bạn đã chối bỏ nhưng bạn ép bụng mà nhận. Hakuin không nói "Có" cũng không nói "Không". Hakuin không cần phải tranh cãi vô ích. Nếu người ta đã gán cho ông cái tội như vậy, thì nếu càng biện hộ lại càng làm cho mọi người nghi ngờ hơn. Hakuin không chọn lựa, không tranh cãi gì cả. Hãy nhớ một điều là "nếu ta càng biện hộ tranh cãi thì càng nói lên sự sợ hãi, khuyết điểm của ta vậy."
Nếu Hakuin chỉ là một vị sư bình thường, một người đạo đức bình thường, một người được coi như là vị thánh, thì Hakuin sẽ chống trả tự bào chữa ngay là ông không phải là cha đứa bé đó, rằng ông không hề phạm tội, rằng ông trong sạch, rằng ông bị người ta vu oan v.v. và v.v... ngay cả nếu ông có phạm tội, ông cũng không nhận. Một người đạo đức, một người được mọi người tôn trọng như một vị thánh, sẽ phủ nhận quyết liệt ngay nếu họ không phạm tội - nhưng Hakuin, thiền sư Hakuin không hề bào chữa, không hề biện minh điều gì, cũng chẳng nói nói lời gì ngoài hai tiếng "Thế à!"
Cái gì đã xảy ra trong tâm Hakuin? Không, không có gì cả. Hakuin chỉ lẳng lặng nghe những lời buộc tội đó, chỉ điềm nhiên nghe những lời khinh chê báng bổ đó, Hakuin không phản ứng cách này hay cách khác. Ông không nói có cũng chẳng nói không. Nội tâm không xao động, phong cách vẫn an nhiên tự tại, Thiền sư Hakuin đón nhận đứa bé với tinh thần vô quải ngại, vô úy.
Một khi ta phản ứng, một khi ta nói cái này đúng, cái kia sai, cái này có, cái kia không, thì ta đã bộc lộ sự sợ hãi của ta rồi. Chỉ có Sợ Hãi mới đưa đến phản ứng chống trả lại. Còn tinh thần không sợ sệt, không khuất lấp, không ngại ngần sẽ đưa đến bình tĩnh an nhiên trước nghịch cảnh. Vì sao? Vì chính tinh thần vô quải ngại, vô úy đó mới là sức mạnh nội tâm tuyệt đối, sức mạnh mãnh liệt của bậc siêu phàm, bậc đại Bồ Tát.
Còn chúng ta, nếu có ai xúc phạm một chút, nói dèm pha một chút là chúng ta thấy khó chịu phản ứng ngay liền. Tại sao? Tại sao chúng ta lại lo sợ mất thể diện quá vậy? Tại sao chúng ta phản ứng tức thời ngay vậy? - có phải trong tâm chúng ta có điều gì khuất lấp, có tì vết gì chăng? Vì thế một khi có ai chạm đến, vô tình hay hữu ý, chúng ta cảm thấy đau nhói, khó chịu. Cổ nhân nói: "Thuốc đắng giã tật, sự thực mích lòng." Sự thực làm người ta đau đớn khó chịu bởi vết thương còn đó, còn rỉ máu. Chúng ta tự biết mình có tì vết nên hễ ai chạm đến thì chúng ta không cười nổi, chúng ta phải la toáng lên nếu không muôn sự việc đổ bể ra. Do đó những kẻ đạo đức giả, những kẻ đội lốt thánh nhân rất dễ lừa bịp mọi người qua lớp áo đạo đức thánh thiện. Một khi họ đã tạo được sự tin tưởng nơi mọi người rồi thì họ nói gì, chúng ta cũng biện hộ cho họ là đúng, là phải hết. (Người ta thực quá ngây thơ đến độ tội nghiệp!). Và khi chúng ta đã hoàn toàn tin tưởng rồi thì dù kẻ đó là kẻ cắp hay một tên ba xạo thì chúng ta cũng tin kẻ đó là thánh nhân giáng phàm độ thế. Lúc đó chúng ta không e dè nghi ngại gì kẻ đó nữa, có thể đem hết tài sản tâm tư đặt vào con người đó.
Đúng vậy, một con người đạo đức giả hiệu luôn luôn tìm cách bảo vệ chính mình, luôn luôn tìm cách phô trường bộ mã quân tử chân chính; lúc nào hắn ta cũng phải che dấu bộ mặt thật của hắn dưới lớp áo sơn phết mầu đạo đức hay huyền bí. Những kẻ đó không bao giờ dám vỗ ngực lớn tiếng nói mạnh rằng: "Ồ, người ta phê bình tôi như vậy à? Được rồi, tôi phải tự kiểm điểm lại xem tôi đã làm những gì và có lẽ người ta phê bình tôi đúng đấy!"
Tham Lam, Sợ Hãi, Sân Hận, Si Mê... tất cả những tánh xấu đó đều cần có bộ áo giáp che chắn bên ngoài. Trong tận cùng thâm tâm chúng ta, chúng ta phải nhìn nhận rằng chúng ta thật hèn nhát khi phải che dấu bộ mặt thật chúng ta sau lớp áo giáp đó.
Một đứa bé khi mới sanh ra nào biết cái gì là tốt, cái gì là xấu. Nhưng nó được cha mẹ dạy bảo phải biết phân biệt cái này cái kia. Nó sẽ bị phạt nếu nó làm điều gì mà người lớn cho là sai trái - nhưng với lứa tuổi ngây thơ kia, đứa bé không tài nào hiểu được rõ ràng tốt là phải thế nào, và xấu là như thế nào mới là xấu! Tuy nhiên vì cha mẹ nó nói là xấu thì nó phải tin đó là xấu, nếu không nó sẽ bị phạt đánh đòn. Nó phải nghe lời vì cha mẹ nó có quyền uy, và dưới sự thống trị uy quyền đó, sự ngây thơ trong trắng của đứa bé bị bóp méo, vặn vò, chèn ép. Đựa bé phải tạo cho nó một chiếc áo giáp để tự bảo vệ. Nó đâm ra sợ hãi, mất tự nhiên khi bị sai bảo làm việc gì vì nó biết sẽ bị phạt nếu nó làm không đúng, hoặc sẽ được thưởng nếu người lớn cho là tốt, phải. Nó không còn tự nhiên nữa; nó không còn trong sáng ngây thơ hoàn toàn như bản chất của nó. Người ta đã nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ vô tư của nó một số quy luật, ước lệ, khuôn mẫu của đạo đức xã hội và nó phải tùng phục, không được có ý kiến.
Sự Ngây Thơ Trong Sáng của đứa bé đã bị "đầu độc" - và đứa bé vác lên vai những khuôn mẫu, những qui ước xã hội nặng nề đó, rồi từ từ lớn lên, nó đi vào cuộc sống với tâm trạng héo hon, nghi kỵ, ưu tư, với tâm hồn đã cằn cỗi đóng khung. Nếu nó dám bất tuân, không phục, sống theo ý muốn của nó tức thì nó sẽ bị xã hội lên án và trừng phạt. Có khi tội của nó không quá đỗi nặng nề để bị xử phạt nhưng nó vẫn bị trừng phạt vì nó dám sống theo ý nó, nó dám cãi lại không phục, nó dám sống cho nó. Thế thì liệu sự trừng phạt đó có hoán chuyển nổi con người nó hay không? Hay chỉ tạo ra những hậu quả ngược lại?
Bạn là Cha, là Mẹ. Bạn tự cho mình có quyền trừng phạt đứa con nếu nó dám cãi lời. Cũng vậy, Tòa Án Đạo Đức Xã hội sẽ trừng trị kẻ nào dám đi ngược lại bánh xe khuôn mẫu xã hội. Có khi nào bạn tự gẫm lại, nhìn kỹ lại lòng mình tại sao bạn lại trừng phạt con bạn khi nó đi ngược lại ý bạn, nó dám sống cho nó? Bạn viện dẫn lý do là bạn dạy dỗ nó, muốn nó trở thành người thế nọ thế kia và bổn phận nó phải vâng lời, nhưng thực ra không phải vì Tình Thương bạn dạy con cái mình mà chính Tự Ngã của bạn đang được vuốt ve nếu con cái bạn dễ dạy, phục tùng. Khi nó dám cãi lại thì bạn bị xốc ngay vì Tự Ngã của bạn bị va chạm nặng nề.
Nếu bạn xem lại những kinh sách cổ xưa như Cựu Ước, Kinh Koran hay những kinh sách khác, bạn sẽ thấy hình ảnh Thượng Đế, Chúa như thế nào. Trong Kinh Cựu Ước có câu: "Vâng lời là đạo đức; không vâng lời là tội lỗi." - và những kẻ nào tội lỗi phải bị đày xuống hỏa ngục đời đời.
Nếu sự phục tùng vâng lời bị cưỡng ép đe dọa như vậy thì ngay từ lúc đầu đứa bé đã học được một bài học vỡ lòng là: phải tính toán cái gì làm được, cái gì không làm dược. Nó sẽ tìm cách chinh phục bạn, ve vuốt bạn, làm sao trở thành một đứa bé ngoan để được thưởng. Đựa bé đã biết đóng kịch, biết nói dối, biết che dấu lọc lừa. Nó đang bị đánh mất dần bản tánh trung thực của nó. Để tự bảo vệ, đứa bé bắt đầu sống dưới hai bộ mặt. Chúng ta cũng như đứa bé con này, luôn núp sau một nhãn hiệu, một tên gọi.
Nhà bác học Pascal thường nói: "Thế giới này đầy dẫy những tên điên và những đứa trẻ con bị rơi vào tay những tên cuồng loạn ngớ ngẩn đó. Những đứa trẻ ngây thơ thánh thiện kia đã bị họ bóp méo, vo tròn và đầu độc. Một số chạy trốn qua cửa sau và trở thành những tên tội phạm. Một số chạy ra cửa trước và trở thành những nhà thông thái, kỹ sư, bác sĩ v.v... Song, những nhà thông thái và những tên tội phạm có cùng một tính chất "nổi loạn". Tên tội phạm nổi loạn chống lại những khuôn mẫu đè nặng lên hắn nhưng hắn đi sai đường nên hắn trở thành tội phạm. Sự nổi loạn của hắn đưa đến sự phá hủy, tiêu diệt. Còn các nhà thông thái hay các vĩ nhân khác cũng nổi loạn nhưng nổi loạn đúng đường, theo chiều hướng đập phá cái cũ, xây dựng cái mới; bộc lộ sự nổi loạn của họ qua sự sáng tạo và cải thiện.
... "Cha mẹ cô gái rất giận dữ, tra khảo cô về lai lịch cha đứa bé. Lúc đầu cô ta không nói, nhưng sau cô ta tiết lộ đó là Hakuin. Cha mẹ cô ta chạy lên chùa và mắng xối xả vào mặt thiền sư Hakuin. Sư Hakuin vẫn điềm nhiên nhẹ nhàng nói "Thế à!" "Khi đứa bé được sanh ra, nó bị cha mẹ cô gái đem quăng bỏ cho Hakuin. Thời gian này, Hakuin đã bị tai tiếng dèm pha rất nhiều, nhưng Hakuin chẳng quan tâm gì cả."
Đối với bực thượng nhân, những lời tâng bốc, khen thưởng hay những lời châm biếm thóa mạ chẳng có tác động gì đến họ cả. Họ đã vượt ra ngoài những lý luận dung tục tầm thường của người đời. Còn chúng ta, chúng ta quan tâm quá đến dư luận; quan tâm quá đến ý kiến của người khác. Tại sao dư luận lại quan trọng đối với chúng ta như vậy? Tõi sao chúng ta lại lo lắng đến ý kiến suy nghĩ của người khác? Bởi vì chúng ta không còn tự chủ được nữa. Từ nhỏ, người lớn đã tập cho chúng ta phải cúi đầu tùng phục nên chúng ta cũng không còn biết mình là ai nữa. Chúng ta lệ thuộc vào người khác quá nhiều, chúng ta coi trọng dư luận quá nhiều. Nếu họ nói chúng ta đúng, tốt thì chắc chắn chúng ta như vậy. Nếu họ nói chúng ta sai, xấu thì quả thật chúng ta sai, xấu, không trật chút nào. Chúng ta tự biến mình thành nô lệ cho dư luận, nô lệ ý kiến người khác. Chúng ta thiếu can đảm để có thể dám nói "Ý kiến của họ là ý kiến của họ. Tôi là tôi, không ăn nhập dính dáng gì đến họ cả. Nếu tôi không tốt thì dù họ có dấu diếm, sơn phết cho tôi thì tôi vẫn là một người xấu. Nếu tôi tốt đẹp, dù họ có nói vạn lời đi chăng nữa thì sự thực vốn không thay đổi. Dư luận là dư luận; tôi là tôi."
Quả thực, người nào tự biết mình rồi sẽ không bao giờ bị lay động bởi những gì người khác nghĩ về họ.
"Như tảng đá vững chắc không lay động bởi sức gió,
Người trí không lay động bởi khinh chê yêu ghét của người thường." (Kinh Pháp Cú).
Dư luận ý kiến người thường cũng giống như thời tiết thay đổi và không bao giờ giống nhau. Sáng nay trời có mây đến trưa thì quang đãng. Lúc này thì rực nắng chói chang, bây giờ thì lại mưa rồi. Thời tiết thay đổi bất thường, dư luận người đời cũng biến đổi như chong chóng. Hãy nhìn ông cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon, mới vừa phút trước ông ta là đỉnh cao thiên hạ, phút sau ông ta bị hạ bệ liền, chẳng còn gì hết. Ý kiến thay đổi, những người từng thân cận ông quay lại chống đối ông ngay tại chỗ - cũng chính những con người đó! Họ mới vỗ tay chào đón ta, phút sau quay lại phỉ nhổ vào ta liền.
Thói thường tình đời là vậy: nhưng người đưa ta lên ngôi cao cũng chính là những kẻ sẽ hạ ta xuống thấp trước nhất. Qui luật ngàn đời đó thật chua chát, mai mỉa làm sao, phải không? Những người bốc thơm ta, khen thưởng ta nhiều nhất cũng là những kẻ sẽ phản bội, quay mũi giáo về ta trước nhất. Vì sao? Vì chính bản thân họ vốn là loại người phân biệt, kỳ thị. Họ luôn đứng giữa hai bến bờ kựa chọn, và với tư tưởng sằn có như vậy, họ sẽ chọn cái nào có lợi cho họ nhiều nhất, lẽ dĩ nhiên.
"Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế. Sư đi khắp nơi xin sữa, thức ăn và tất cả đồ cần dùng cho đứa bé. Một năm sau, mẹ đứa bé vì ăn năn hối hận đã vu oan cho Hakuin, thú thực với cha mẹ rằng cha ruột đứa bé là một tên bán cá ngoài chợ."
Quả tình, sư Hakuin đã chịu nhiều cay đắng. Sư có thể bị chửi rủa, mắng nhiếc, khinh ghét, thậm chí có thể bị liệng đá vào người; - những người mà trước kia đã từng dâng hoa cúi đầu đảnh lễ dưới chân Sư cầu xin ân phúc - nhưng Sư Hakuin vẫn thản nhiên như không, ngày ngày bế đứa bé đi xin sữa khắp nơi, mặc những lời nhiếc móc ngoài tai. Thiền Sư chỉ chú tâm săn sóc đứa bé, một linh vật đáng thương đang bị bỏ rơi. Thiền Sư ban rải tình thương vô phân biệt, tình thương của chư Phật cho đứa bé. Thiền Sư chăm sóc đứa bé thật tử tế, trước sau như một, không thay đổi.
Hối hận ray rứt vì thấy tăm tiếng của Thiền Sư bị tổn hại rất nhiều, vì nghe những lời xầm xì chê bai nhiếc móc, vì thấy những cánh cửa đóng sầm lại tàn nhẫn vào mặt Sư khi ngài bế đứa bé đi xin sữa hay thức ăn, cô gái đã thú nhận rằng cha đứa bé là một anh bán cá ngoài chợ.
"Cha mẹ cô gái hối lỗi vội vàng chạy đến xin tạ lỗi với Thiền Sư và xin mang đứa bé về. Thiền Sư Hakuin vẫn điềm nhiên thốt lên hai tiếng "Thế à!"
Thật kính cẩn thán phục một bậc chân sư, một bậc đại Bồ Tát. Trong vinh quang, hạnh phúc hay đau khổ thất bại, sống hay chết, bậc Thánh nhân không hề rúng động, luôn luôn an trú trong tịch nhiên tự tại.
Hai tiếng vỏn vẹn "Thế à!" của Sư Hakuin bộc lộ trọn vẹn sự Tỉnh Thức Chân Nguyên của bậc chứng đạo. Cuộc đời tặng ta cái gì, ta đón nhận cái đó. Nó tặng ta đau khổ và chê bai nguyền rủa, hãy dang tay ôm tất cả vào lòng. Nó tặng ta thành công hay hạnh phúc, hãy an nhiên đi đứng thẳng lưng trong vầng hào quang đó.
Và nhớ là đừng khởi niệm phân biệt gì cả. Nếu ta khởi lên một vọng niệm nào, tức thì ta bị mất thăng bằng ngay, và một khi đã mất thăng bằng, thì lẽ dĩ nhiên ta sẽ bị té ngã xuống bất cứ lúc nào.
Sự thăng bằng nội tâm chính là bản nguyên thánh thiện. Khi ta giữ được thăng bằng nội tâm, ta là bậc thánh. Khi ta không giữ được, để cho tâm thức nghiêng ngả bên này bên kia, ta dễ vướng vào tội lỗi. Nhưng hãy nhớ kỹ thế này, tội lỗi không chỉ thành hình khi ta hành động, mà nó đã nẩy mầm ngay trong ta khi ta bị mất thăng bằng - có nghĩa là quan trọng nhất đừng để bị loạn tâm, ý thức khởi lên phân biệt. Tội lỗi thành hình ngay trong ý tưởng vừa loé lên chứ không đợi đến khi xuất phát ra hành động.
"Tâm là chủ. Tâm tạo tác ra tất cả." Nếu Thiền Sư Hakuin nói: "Được rồi. Bây giờ qúi vị đã biết sự thật rồi sao?" thì Hakuin cũng tầm thường như bao kẻ phàm phu khác, vì nó có nghĩa là Sư đã chờ đợi cái giây phút mà người ta sẽ tìm ra sự thật và sẽ tìm đến ông xin lỗi, v.v.. và v.v... Nó có nghĩa là Sư Hakuin đã chờ đợi cả năm trời cái giây phút trong tương lai đó, ông đã cố gắng che đậy cái ý nghĩ là: "Một ngày nào đó, sớm hay muộn, họ sẽ tìm ra sự thật là ta không phải là cha đứa bé, họ sẽ ta lỗi với ta, danh dự ta sẽ được phục hồi, v.v... " Nếu Hakuin không phải là thánh nhân, ông ta chắc sẽ nghĩ và cầu nguyện các đấng thiêng liêng phù hộ cho ông ta sớm được phục hồi danh dự. Dù Hakuin thản nhiên bên ngoài, nhưng nội tâm ông ta đã đảo điên, mất thăng bằng rồi vậy.
Nhưng không, Hakuin không cầu nguyện cũng chẳng chờ đợi một cái gì. Đứa bé đang bị bỏ rơi, Sư dang rộng vòng tay ôm nó vào lòng, săn sóc nó, che chở nó, cho nó tình thương rộng lớn; đứa bé cần cha mẹ, Sư thương nó hơn cha mẹ ruột thương con. Suối "Tình Thương Vô Ngã" trong Sư Hakuin tuôn chảy chan hòa lên vạn vật, lên đứa bé trong từng giọt sữa đi xin, trong từng miếng cơm đạm bạc. Năm tháng trôi qua, lớp áo bốn mùa thay đổi, đứa bé lớn lên trong tình thương của Sư Hakuin - và rồi, cha mẹ đứa bé đã tìm tới, tạ lỗi và xin mang đứa bé về. Sư Hakuin vẫn điềm nhiên tọa thị trao đứa bé lại và cũng thốt lên vỏn vẹn hai tiếng "Thế à!"
Nếu như là một người thường khác, thì họ sẽ cảm thấy đau khổ mất mát vô cùng, vì một khi ta chăm sóc thương yêu một đứa bé, hy sinh cho nó từng chút một, vui trong tiếng cười của nó, buồn trong tiếng khóc của nó thì "Ái Hữu" trong ta cũng khởi lên sự dính mắc ràng buộc. Tình thương ta ban cho nó bao nhiêu thì sự ràng buộc chiếm hữu trong ta cùng to lớn lên từng đó. Một sợi giây ràng buộc, một sự liên kết vô hình thắt chặt lại người cho và kẻ nhận.
Nhưng Sư Hakuin không mừng, không giận, không buồn; mọi biến cố trong năm qua dường như không hề tác động ảnh hưởng gì đến Sư.
Nội tâm Sư Hakuin phẳng lặng như mặt nước hồ thu, không gợn một mảy may sóng nào. Sư Hakuin có mặt trong cuộc sống, nhưng Sư là người ngoài dòng đời phàm tục; "hoà nhưng không đồng". Bậc Bồ Tát hòa hợp với chúng sanh để hóa độ nhưng không cùng một bản chất, không bị nghiệp quả chuyển lôi. Nếu chúng ta có thể đi ngược dòng sinh tử, có thể là người đứng ngoài hí trường thiên hạ thì sớm hay muộn gì chúng ta cũng sẽ thấu triệt được "Không Nước - Không Trăng" - "Tay ta rỗng không, tâm ta rỗng không.
Hai tiếng "Thế à!" đã nói lên tất cả những gì trong lòng Hakuin. "Thế à, nếu là như thế thì được rồi."
Bậc Bồ Tát đón nhận mọi sự cố xảy ra không lựa chọn, không phản đối. Và một khi không lựa chọn phân biệt thì không có nước, không có sự phản chiếu, không vầng trăng, không bóng trăng.
Xách nước qua đây
Đai tre ải đứt,
Thùng vỡ đáy tung,
Nước ào ra hết.
Đâu còn đáy nước trăng trong,
Hư không còn lại tay không hững hờ.
"Thiền Sư Mamiya là một đạo sư nổi tiếng. Nhưng trước kia khi ngài còn cầu pháp dưới sự chỉ đạo của Sư Phụ, ngài đã bị chất vấn phải giải đáp thế nào là "tiếng vỗ một bàn tay?" Mặc dù Mamiya đã ngày đêm gia công thiền quán về câu hỏi đó, Sư Phụ vẫn không hài lòng và đã rầy Mamiya: "Ngươi không chuyên tâm cần cầu tu học gì cả. Ngươi dính mắc nhiều quá vào lợi dưỡng, danh vọng- và nhất là vào tiếng vỗ một bàn taỵ Tốt hơn hết là ngươi nên chết quách đi cho xong."
Lần khác, Mamiya lên gặp Sư Phụ và khi được hỏi về công án đó, Mamiya lăn quay ra đất, thẳng cẳng giả bộ như người chết.
Sư Phụ hé mắt nhìn hỏi:
"Ừ, ngươi đã chết rồi, vậy tiếng vỗ một bàn tay là thế nào?"
Mở mắt ra, Mamiya trả lời:
"Ồ, con vẫn chưa giải đáp được."
Sư Phụ hét lớn:
"Cái gì? Người chết không trả lời! Cút ngay!"
Thiền có một đường lối chỉ dạy rất độc đáo, riêng biệt gọi là Công Án. Công án là một câu đố tối nghĩa, vô lý. Bạn không thể nào giải đáp nó được. Càng cố công giải đáp công án, bạn càng đi vào bí đạo. Vị Sư Phụ cứ nói: "Cố lên, cố lên, ngươi không chịu cố công tìm hiểu gì cả." Song, ông ấy đang phỉnh gạt bạn đấy, vì sao, vì làm sao bạn có thể giải đáp một câu đố vô nghĩa được. Công án là một bài toán không đáp số, một trò chơi chữ vô nghĩa mà các Thiền sư dùng để thử tài trí đồ đệ của mình. Công án đó không tùy thuộc vào sự nổ lực của người thiền sinh. Dù bạn có chạy theo công án đó đến hụt hơi chết ngất đi nữa thì bạn cũng không bao giờ tìm ra đựơc ẩn số của nó. Nhưng nếu bạn an nhiên bình thản nghiền ngẫm nó như một trò chơi thú vị với tất cả tổng thể con người bạn, bất chợt bạn sẽ bùng vỡ ý thức về nó.
Tiếng vỗ một bàn tay...
AÂm thanh chỉ phát ra khi có hai vật chạm vào nhau, chứ chỉ có một vật thì làm sao gây ra tiếng động được? Do đó, ngay trong câu hỏi. "Tiếng vỗ một bàn tay", ta đã hiểu ngay đó là một câu hỏi vô lý vô nghĩa rồi, nhưng thói thường, người ta hay dùng tri thức để khám phá, suy luận một vấn đề; vì thế người đệ tử đã rơi đúng vào cạm bẫy của ông thầy.
Mamiya cũng vậy, đã gắng sức suy tư nghiền ngẫm về câu hỏi của Sư Phụ, vì cho rằng phải có ẩn ý gì sâu kín bên trong, phải có sự bí mật nào đó đằng sau câu hỏi; nhưng không ngờ công án đó chỉ là một xảo thuật mà Sư Phụ Mamiya (cũng như các vị thiền sư khác) sử dụng để giúp đệ tử rạch toang lớp màn tri kiến, phá vỡ thành trì ngôn luận, chọc thủng mạng lứơi vô minh để khai phóng nội tâm, thoát khỏi cái vỏ tự ngã to tứơng.
Toàn thể sự văn minh của con ngừơi đều nằm trong phạm vi Cái Tôi cả: văn hóa, quốc gia, dân tộc, phong tục, tập quán, tôn giáo, vv. Tất cả những giấc mơ vĩ đại, siêu quần đều qui tụ vào con ngừơi vì nó tự cho rằng con ngừơi là động vật tối linh duy nhất đứng thẳng trên hai chân. Con ngừơi không phải là thú vật, nó hoàn toàn khác hẳn, nó là độc nhất, nó không thuộc vào thế giới loài thú. Vì thế, càng lúc cái Ngã càng bành trứơng to ra, bao trùm lên tất cả và dẫn dắt con ngừơi xa rời thực tại, đánh mất tâm linh, khiến họ mơ mơ hồ hồ, nhận thức sai lạc.
Điểm thứ hai là chúng ta là những kẻ chỉ biết bắt chước như con vẹt mà thôi. Bắt chước thì dễ dàng hơn là phải có tính xác thực và có lập trường riêng. Chúng ta bắt chước người này, tập theo phong cách người nọ; cả cái xã hội này và những con người, văn hóa tập tục đều lập đi lập lại, tái diễn liên tục. Tất cả đều bắt chứơc lẫn nhau. Chúng ta đựơc chỉ bày phải xử sự thế này thế nọ, chúng ta phải sống theo hướng này hướng kia, chúng ta phải suy nghĩ, phải ăn nói theo cách mà những người khác đang hành động, vv. và vv. Những con người tôn giáo - mang danh tôn giáo - những tu sĩ, những nhà thần học, họ cũng chỉ dẫn, bắt buộc chúng ta phải bắt chứơc làm theo như Chúa, như Phật, như Krishna; không có một ai bảo chúng ta là "Hãy là chúng ta". Không một ai cả. Không một ai cho phép chúng ta sống cho chính mình, là tự chính mình. Không một ai cho chúng ta cái tự do đó cả. Chúng ta không thể sống cho chúng ta đựợc. Chúng ta là một phần tử của xã hội, là một phần tử của thế giới, chúng ta phải bắt chước ngừơi khác, chúng ta phải sống y như người khác đang sống. Chúng ta không còn và cũng không có tự do cá nhân để hành xử theo ý hứơng của mình. Chúng ta không cõn là chúng ta nữa.
Thật kỳ cục và ngớ ngẩn làm sao! Ngày xưa, chính Đức Phật cũng đã bị thiên hạ nói phải bắt chước giống như Rama, như Krishnạ Nhưng Đức Phật đã không làm theo ý họ, vì thế Ngài đã thành một vị Phật. Đức Phật giác ngộ vì Ngài không muốn trở thành một nạn nhân cuả sự bắt chước ngu xuẩn, không muốn trở thành một nạn nhân cuả tư tưởng, cuả tập tục, lề thói, của xã hội. Nếu chúng ta bắt chước ngừơi khác, chúng ta đã đánh mất mình rồi còn gì! Tuy nhiên, chúng ta có dám cách mạng như Đức Phật không? Có dám sống, dám nghĩ, dám làm như Ngài không?
Từ lúc chúng ta bắt đầu biết nhận thức, chúng ta đã bị uốn nắn theo khuôn mẫu người lớn đặt để cho chúng ta - và đó là cái mà người ta gọi là nhân cách. Nếu đứa trẻ nào sống đúng qui tắc khuôn mẫu như vậy, nó sẽ đựơc ban thưởng xứng đáng; ngựơc lại, nó sẽ là đứa trẻ bất trị, có vấn đề.
Thực sự, chúng ta đã bị tước đoạt quyền sống ngay từ lúc mới chào đời. Cái goi. là Tự Do chỉ là một danh từ suông, rỗng tuếch và giả dối.
Người vợ không muốn người chồng sống theo ý muốn của anh tạ Người chồng không cho phép người vợ tự do có ý kiến, tự do phát biểu, tự do sống.
Không một ai muốn người khác sống cho họ, sống đúng theo ý họ cả; bởi vì nếu người nào dám sống theo ý mình, người đó rất nguy hiểm.
Những qui ước, luật lệ, những phong tục, tập quán, lối xử thế, cách suy nghĩ đều bị rập khuôn - mọi người đều phải đi đúng khuôn mòn lối cũ; không đựơc đi trệch hướng. Người trước ta đi một bước trái, một bước phải, ta cũng phải đi một bước trái, một bước phải. Người trước ta rớt xuống hố, ta cũng phải lăn tòm theo. Ta đã được huấn luyện phải trở thành con cừu kêu be be lê lết theo vết chân đằng trước. Không dám có ý kiến, không dám làm khác đi; ta chỉ biết cúi đầu và phục tùng, cúi đầu và phục tùng thật tội nghiệp đáng thương!
Dồn nén! Con người bị dồn nén; xã hội bị dồn nén; cả một thế giới bị ức chế; và sự ức chế tâm lý đó đã tạo ra những bi kịch cùng bịnh tật cho con người. Không một ai có đựơc một hạnh phúc thực sự cả; con người chỉ có đau khổ, ray rứt và suy sụp toàn diện.
Freud (một triết gia người Áo) đã nói: "Nhân loại không còn và cũng không có khả năng lãnh hội; và cũng không có hy vọng đựơc cứu độ". Ông ta đã nhận xét đúng, cái phương cách, con đường mà nhân loại đang đi tới đó, chỉ có đau khổ, ức chế và vô vọng. Không thấy một dấu hiệu sống nào; không có một chút sinh lực nào; không có đến một tia sáng hy vọng cỏn con nào. Và rồi những con người máy móc đó, những con người giả hiệu đó, sau khi đến tận cùng bờ vực thẳm của cái gọi là khuôn mẫu xã hội, sau khi bị dồn nén quá độ, đã bùng nổ ra như trái bom và chống trả lại. Có kẻ bùng nổ và tìm cách hủy diệt người khác. Có người đi theo các đạo sư hầu mong tìm ra một lối thoát; nhưng đáng buồn thay, trong những đền thờ, thánh đừơng, chùa miễu, vv... họ lại gặp những con người rập khuôn. Những nơi tôn nghiêm đó chỉ là những nấm mồ hoang lạnh. Với Chúa, ta là con người thực sự; nhưng đứng trước Đức Giáo Hoàng của Tòa Thánh Vatican, ta phải là một tên biết bắt chước và phục tùng.
Chúa Giê Su không bao giờ là một phần tử của xã hội. Ngài vẫn là một người đứng ngoài vòng xã hội. Tất cả những bậc chân sư, những người tôn giáo thực thụ luôn luôn là những người lạ mặt, đứng ngoài vòng xã hội. Nhưng các thánh đường, các chùa miễu, đền thờ là một phần của xã hội, và các nhà tu sĩ không còn là người đại diện cho Tôn Giáo, đại diện cho sự thánh thiện linh thiêng nữa; họ bây giờ đại diện cho tiền bạc, danh vọng; họ đại diện cho nền kinh tế của xã hội. Càng xây những ngôi thánh đường nguy nga vĩ đại, càng xây những đền đài chạm trỗ tinh vi, càng bộc lộ cho người ta thấy nền kinh tế phồn vinh của đất nước đó, xã hội đó _ song như một thiền sư đã nói: "Điện Phật to lớn nhưng Phật trong không linh".
Karl Marx đã đúng khi ông ta nói tôn giáo đang nằm trong tay những nhà tư bản hay những người trưởng giả phong kiến, những người khuynh loát và có quyền lực. Tôn giáo giờ chỉ còn là một công cụ cho sự khuynh loát thống trị. Marx đã nói đúng về bộ máy quyền hành của Tòa Thánh La Mã Vatican hay tôn giáo cuả Mecca và Medina; nhưng Marx đã sai lầm về Mohammed, về Chúa Giê Sụ Marx đã sai lầm vì không thấu triệt đựoc hoàn toàn phong cách đạo đức của các bậc Chân Sự Các đấng Giáo chủ khác xa với cái gọi là tôn giáo của xã hội.Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng...
Nhưng hãy nhớ kỹ rằng chỉ những người nào là đệ tử chân chính thì mới trở thành những đạo sư chân chính đựơc. Người nào chưa bao giờ làm đệ tử, chưa bao giờ là người cầu đạo, chưa bao giờ học hỏi hiểu biết giới luật kinh điển là gì, thì không bao giờ có thể thành thầy dạy người khác đựơc. Trước khi ta muốn dạy người, ta phải học cho chính mình trước đã. Nhưng moi. người đều muốn làm thầy người khác, muốn dạy bảo người khác trước, muốn chứng tỏ cho mọi người biết ta đây ngon lành tài giỏi hơn người chứ không muốn làm đệ tử, cho nên trên đời này có quá nhiều những tên thầy rỗng tuếch, bịp bợm. Bạn cũng vậy, cái tự ngã của bạn cũng muốn một bước thành thầy người khác, thành vĩ nhân, thành thánh, nên bạn cũng trở thành một tên thầy kém tài đức _ nhưng không những chỉ riêng mình bạn gặp nguy hiểm mà bạn còn dẫn dắt nhiều kẻ khác vào đường cùng nữa. Một người mù dắt những kẻ mù khác rơi tòm xuống hố.
Hãy nhớ rằng, cái bản ngã cuả ta bao giờ cũng muốn bành trứơng. Ta không thể để mất một dịp may nào có thể lên mặt dạy dỗ kẻ khác; ta có thể mất hàng ngàn cơ duyên học hỏi, nhưng ta không thể mất một dịp may được dạy bảo kẻ khác. Có người nào đó hỏi ta một câu, có khi ta cũng chẳng hiểu hoàn toàn ý câu hỏi đó, nhưng ta vẫn gân cổ lên trả lời (sợ gì cơ chứ, chắc gì kẻ hỏi ta đã giỏi hơn ta) cho nên cái bãn ngã của ta được vuốt ve,
được khoái chí khi chứng tỏ ta đây là kẻ hiểu biết, đầy kiến thức. Đó là lý do trên đời này có lắm kẻ dậy người nhưng rất hiếm các bậc chân sự Những người thầy đó có thể nói, có thể giảng đạo, thuyết pháp, có thể tranh luận rất thiện xảo; họ có thể tạo ảnh hưởng đến mọi người, nhưng họ không phải là những bậc Chân Sư có tu chứng thực, có kinh nghiệm sống thực.
Muốn trở thành một bậc đạo sư thực thụ, muốn trở thành một vị thánh, một vĩ nhân, một bậc chân sư, ta cần phải triệt để xả bỏ và khai phóng toàn diện chấp Ngã và chấp Pháp - có nghiã là không thấy có cái ta đang dạy người, đang thuyết pháp, không thấy có người để học, cũng không thấy có những pháp môn, phương tiện thuyết giáo. Cái Thực chỉ hiển hiện khi cái Giả đã bị hủy bỏ.
Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng; nhưng khi ông ta còn tu học dưới sự hướng dẫn của Sư Phụ, ông ta bị buộc phải giải thích thế nào là " Tiếng vỗ một bàn tay?"
Lúc đó, Mamiya đã không thể thấu suốt được ẩn ý của Sư Phụ khi ra một câu hỏi vô lý như vậy. Mamiya cứ miệt mài vào công án đó như con dê húc đầu vào tường đá, ngày này qua tháng nọ. Sư Phụ Ông cũng không giải thích cho ông, vì có gì đâu mà giải thích; nhưng Mamiya vẫn không nản chí bỏ cuộc vì Mamiya tuyệt đối tin tưởng vào Sư Phụ mình. Khi Sư Phụ đưa ra công án. "Tiếng vỗ một bàn tay", chắc chắn phải có gì trong đó. Dù công án đó khó giải thích, khó hiểu, vô nghĩa, phi lý đến đâu đi nữa nhưng khi Sư Phụ nói thì chắc chắn có cái gì mà ta không hiểu nổi. Mamiya tự nghĩ như vậy và miệt mài tư duy hành trì công án mà Sư Phụ đã đề ra. Niềm tin mãnh liệt và sắt đá của Mamiya đối với Sư Phụ chính là động lực giúp Mamiya nhẫn nại hành trì công án. Nhưng Sư Phụ Mamiya vẫn không hài lòng, ông la rầy Mamiya: "Ngươi không cố công tu học gì cả. Ngươi còn đắm nhiễm quá nhiều vào tiền bạc, vào những lạc thú trần tục, nhất là vào tiếng vỗ một bàn taỵ Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy đựơc lời giải đáp."
Sư Phụ Mamiya nói thế có nghĩa gì? Vị thầy cố ý chỉ dẫn cho đệ tử thấu đáo rằng không những ăn uống, tiền bạc, danh vọng là những thứ vật chất cám dỗ đầy nguy hiểm mà cái tư tưởng bám viú ôm giữ lấy những thứ đó cũng là trở ngại trên đường tìm giải thoát.
Mamiya đã bỏ nhà cửa, gia đình, vào tự viện sống đời tu sĩ, chỉ có ba tấm cà sa, một bình bát khất thực, một cái đãy lọc nước và một manh chiếu nhỏ ngủ qua đêm. Không còn gì quí báu xa hoa cả, thật quá đơn giản, phải không? Nhưng nếu Mamiya chưa xả ly đựơc cái tư tưởng bám víu vào cái Không đó cũng vẫn còn là chấp thủ. Vị Sư Phụ nói: "Ngươi vẫn còn chấp vào tài sản, vật chất... " (thực ra, các tu sĩ đâu có vật chất tài sản gì) - song, vị Sư Phụ đâu có phải nói cái vật chất tầm thừơng bên ngoài, mà ông ta muốn nói đến cái tâm niệm, cái tư tưởng bám víu vào ba tấm cà sa, vào cái chùa, vào cái danh hiệu tu sĩ, vv... Nếu ta tham đắm vào thiền định; thiền định từ phương tiện trở thành cứu cánh. Nếu ta bám víu vào cầu nguyện, tụng kinh; kinh điển trở thành chướng ngại, hàng rào bao bọc lấy tạ Dù tham ngồi thiền, tham tụng kinh, tham làm việc thiện, tham tu hành v.v... vẫn
còn là tâm tham. Dù tham thiện khác xa với tham bất thiện, tham vẫn là tham. Chính cái tâm tham đắm đó đưa ta lộn lạo luân hồi trong ba cõi sáu đừơng. Chính cái tâm tham đắm đó cản ngăn ta chứng đao..
Vì thế vị Sư Phụ đã nói: "Tiếng vỗ một bàn tay đã ràng buộc ngươi. Ngươi đã cố công tìm cách giải thích nó cho bằng đựơc. Đừng tham đắm, bám giữ như vậy. Chính ngươi đã ràng buộc ngươi. Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy đựơc lời giải đáp."
Nhưng Mamiya đã hiểu lầm câu nói của thầy mình. Vị Sư Phụ nói: "Tốt hơn hết là ngươi nên chết đi" là chết cái tâm niệm ràng buộc, là chết cái tư tưởng bám víu, là chết cái Tôi, cái Tự Ngã. Chính cái lúc mà ta chết đi được cái tự ngã của ta thì ta sẽ hiểu được thế nào là Tiếng vỗ một bàn tay.
Đó là cái chết của Đức Phật, cái chết của các bậc Thánh. Chết đi và không bao giờ tái sanh lại. Đức Phật đã tận diệt, đã chết đi cái tâm tham luyến vô minh; các bậc A La Hán cũng đã xả ly hoàn toàn tâm khát ái đắm nhiễm. Một khi tâm niệm chấp thủ đã vắng bóng, ai sẽ là người tái sanh do nghiệp quả?
Nhưng Mamiya, lúc ấy, chưa thấu triệt đựơc nên đã giả bộ thẳng cẳng ra chết, và còn ngóc cổ lên nói: "Ồ, con chưa giải đựơc Tiếng vỗ một bàn tay?"
Vị Sư Phụ hét lớn: "Cái gì? Người chết không trả lời! Hãy đứng dậy cuốn xéo khỏi nơi đây!"
Đúng vậy. Người chết rồi làm sao trả lời đựơc? Nếu Mamiya đã chuyển hóa đựơc vô minh thì cần gì phải giải đáp công án Tiếng vỗ một bàn tay?
Đó, chỗ vướng mắc của chúng ta là cái tâm chấp trứơc đó. Ta cứ đi tìm những cái xa xôi, mờ ao? và quên đi cái thường hằng. Ta cứ lo lấp đầy khoảng trống tri thức mà quên nuôi dưỡng chân tâm. Vì thế, ta đã tu tập bao nhiêu năm mà vẫn còn cách đạo xa lắm, xa lắm.
Người dịch tạm mượn một đoạn trong kinh Kim Cang để giải rõ về công án "Tiếng vỗ một bàn taỵ"
Phật cáo Tu Bồ Đề:
" Thị cố Tu Bồ Đề, chư Bồ Tát Ma Ha Tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm".
(Phật dạy Tu Bồ Đề:
"Thế nên Tu Bồ Đề, các vị Bồ Tát lớn nên như thế mà sanh tâm thanh tịnh, không nên chấp nơi sắc, nơi âm thanh, nơi mùi hương, khẩu vị, xúc chạm, pháp môn mà sanh tâm đắm chấp, nên không chỗ trụ mà sanh tâm".
Các pháp hữu vi đều là tướng giả hợp, duyên sanh. Có cái này nên có cái kia, cái này diệt thì cái kia diệt; đã là tướng duyên hợp thì đâu phải là cố định, là chân thật; cho nên Phật dạy các hàng Bồ Tát không nên để tâm dính kẹt vào sáu trần, không dính mắc, không chỗ trụ thì mới có thể phát hiện cái tâm thanh tịnh chân thật, không sanh không diệt.
Cũng vậy, Mamiya bị kẹt vào âm thanh, vào công án nên loay hoay mãi mà chưa thể hóa giải nổi thế nào là Ba Động Vô Thanh.
Phải đẩy vạn sự vào hư không - nhưng hư không cũng còn là khái niệm, cho nên cuối cùng chính khái niệm hư không cũng phải đập vỡ tan nốt đi để cho thực tại bừng nở chan hòa. Cũng như có người tới hỏi một vị Thiền Sư :
"Xin Thiền Sư cho biết Đạo là thế nào?
Vị Thiền Sư đáp:
"Ở ngay trước mắt ngươi."
"Sao đệ tử không nhìn thấy gì cho đệ tử cả?"
"Vì ngươi còn mãi nghĩ về bản thân ngươi."
"Thưa Thiền Sư, về phần Ngài thì sao? Ngài có thấy Đạo không?"
"Khi còn giữ cái nhìn đối đãi, phân biệt cái này là Ta, cái kia không phải là Ta, thì cái nhìn còn ngụp lặn trong mê mờ chẳng thể thấy đựơc cái gì."
"Thưa Thiền Sư, khi đã có cái nhìn thuần thành không còn phân biệt Ta với Không Ta nữa thì liệu có thấy Đạo hiển hiện không?"
"Khi đã không còn Ta và Không Ta thì còn ai là kẻ muốn nhìn Đạo nữa."
Cũng như khi hỏi: Nếu có người đã ngồi chót vót trên một cột cao trăm bộ, làm thế nào để có thể vượt xa hơn nữa bây giờ? Một Thiền Sư đã đáp: "Người đó phải đạt tới giác ngộ để có thể cùng một lúc đứng ở cả bốn phương trời." (trích trong Vào Thiền cuả Doãn Quốc Sỹ).
Lúc đó thì tay ta rỗng không chẳng có vật gì, tâm ta rỗng không chẳng có vật gì...
Có thì có tự mảy may,
Không thì cả thế gian này cũng không,
Thử xem bóng nguyệt dòng sông,
Ai hay Không Có Có Không là gì.
(Thiền Sư Từ Đạo Hạnh)