Không dè cái đói giáp hạt này lại có đủ móng vuốt nhảy xổ vào cả xóm Giếng Chùa, xóm vẫn quen đứng đầu về cái sang cái giàu toàn xã. Nơi đây nếu tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của đất trung du. Có đủ sông ngòi đồi sim: ruộng lúa. Làng vẫn còn khung cổng tiên cổng hậu như hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung màu gan gà vừa to vừa dày ốp khít vào nhau, chắc đến đập không vỡ. Con đường chính giữa làng dài một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh - Vĩnh Phúc, mà lát nghiêng, nên bây giờ vẫn chắc khừ. Có số gạch lát đường này là bởi ngay xưa làng có lệ mỗi đám cưới phái nộp 200 viên. Trai làng lấy gái làng nộp 200 thế tức là môi bên có một trăm viên thôi. Nhưng nếu trai gái làng đi lấy vợ chồng ở đồng đất khác, thì gia đinh cứ cũng phải chồng đủ 200 viên. Thế mới biết ngay một làng nhỏ như cái mắt muỗi, người ta cũng không khuyến khích xuất dương, không thích mở cửa ra ngoài! Làng còn quy định những người đỗ đạt từ tú tài trở lên được nhận chức từ lý trưởng trở lên, và cả thành phân này nữa, ấy là những cô theo cách gọi nôm na là hoang thai cũng phải nộp 200 viên gạch vồ. Thành thử đường làng được lát bằng những niềm vui hạnh phúc, sự kiêu hãnh, chức danh và được lát bằng cả nỗi khổ đau ê chề của những mảnh đời.
Nếu ví cả xã là cái bánh, là bông hoa, thì Giếng Chùa là cái nhân đường cái nhị mật: nghĩa là nơi có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng Chùa cũng là nhất xã, ở đây liên tục có những người đỗ đạt và nhưng người có địa vị chức sắc, dù chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên có một hai anh chàng chày cối, đến mức dù thời nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngoài vòng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng đầu toàn vùng, mà lại chơi cầu kỳ lợp toàn ngói ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng... Trông rêu phong và cổ kính.
Ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt! Nhiều nhà nấu cháo phải độn thêm rau tập tàng. Nhiều nhà luộc chuối xanh chấm nuối. Đến cả bà Đồ Ngất, người vẫn quen ăn trắng mặc trơn, phiên chợ nào cũng xách làn mây đi mua hôm thì chân giò lợn ỉ, hôm thì, cá chép cả con còn giãy đành đạch.
Giờ cạn vốn, liền sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng chưn gà, để ăn trừ bữa. Còn ông Quản Ngư, người được cả làng khen là chí lớn gan to, nước lã mà vã nên hồ. Bởi trong lúc khối anh có của nhưng chỉ ru rú bám váy vợ ở xó nhà, thì ông Quản với hai bàn tay trắng đã từng chu du đến nửa vòng trái đất. Hết Tân đảo, Tân-gia-ba, rồi mò mẫm sang đến cả đất tây từ thời còn bóng tối.
Khi về ông đã diện oách một bộ đồ dạ màu đất sét từ chân tới đầu.Quần dạ, áo dạ đính cúc đồng, mũ dạ tròn như cái nồi đồng úp ngược, lại thêm đôi giày săng đá, giữa mùa đông mà cũng trông bức đến phát sốt? Rồi lại thêm bộ răng vàng sáng chóe cả mồm! Nói cái gì ông cũng độn thêm tiếng Tây, lưỡi cứng đá ngược lên tận mái ngói, đến quăng cả mồm miệng! Và mặc dù ông vẫn ở với bà vợ yếm trắng, răng đen mỏ quạ và vẫn chẳng có chức sắc, chẳng đỗ đạt gì; nhưng ông Quản cũng có quà mừng của kẻ hồi hương là biếu làng 200 viên gạch vồ Hưng Ký, viên nào viên ấy cứ vuông bằn bặn như những cái gối đầu, chín đỏ lìm lìm. Khối người còn rỉ tai là ông có của chìm nữa. Hỏi ông chỉ cười tủm tỉm loe lóe ánh vàng! Bộ dạng rõ là coi tiền bạc chẳng ra gì, hãi thế!
Nhưng giờ thì tóe loe ra. Đám thanh niên hay thóc mách vừa cười sùng sục, vừa kể là có đến gần tháng nay bố con Quản Ngư đóng eửa ăn cháo cám, rồi làm bánh đồ cách thủy cho lạ miệng, nhưng nguyên liệu cũng vẫn là cám. Vì là người lịch sự ghét kêu rên, nên ông Quản không muốn người khác nhìn thấy sự khốn cùng của mình. Tưởng kín, nhưng ông quàn lại hớ không biết cám có chất kết dính rất cao, ăn mà không độn thêm rau là sẽ táo bón kịch liệt. Vì thế thằng con út gần mười tuổi của ông đã kêu la oai oái vì răn đến vã mồ hôi hột mà vẫn không sao đi được? Bà Quán đã qui tiên vài năm nay, nên cuối cùng đích thân ông Quản bảo thằng cu ôm vào gốc khế, chổng mông lên để ông lấy que... đào
- Có thật không? Hay lại chỉ mách qué, chúng mày thì cái gì cũng nhăn nhở cười được.
Mấy người già không tin, mắng mỏ thì anh chàng ở cạnh nhà ông Quản liền vừa tả tỷ mỉ cái pha bi hài kịch kia, vừa làm cả động tác của bố con ông Quản, khiến mấy ông già cũng cười đến trơ cả lợi? Cái cười lúc đói cũng không ra tiềng, lại bóp bóp cho héo quắt cả mặt, trông mà nẫu ruột! Keo vật giáp hạt này sẽ vần cho dân làng đến mê tơi dây!
Những nhà thường xuyên túng bấn thì lây giờ đứt bữa hẳn. Nôi niêu lúc nào cũng há miệng rỗng, nhãn như đâu bụt!
Nhưng mặt người hao gầy, nhớn nhác hớt hải cứ tường như vội vã đi đâu nhưng kỳ thực chẳng có gì hết, cứ ra vào quanh quân với cái bụng đói èo èo! Đường làng đầy rác rưởi và phân trâu phân hò. Toàn nhặng xanh bay đứng yên tại chỗ như những cái dấu chấm đen giữa thinh không dọc lối đi.
Nắng đầu hạ đã lên một lúc lâu mà làng xóm còn trễ nải như con gà gật. Gió thổi vu vơ trên những lùm tre vàng xác, càng khiến nhưng ngõ làng trống vắng đến ngẩn ngơ.
Trong chiếc lều thủng vách nứa ở ngã ba đầu làng, nắng chiếu qua lớp cỏ tranh đã ải, thủng lỗ rỗ. nắng tưới khắp lên chỗ lão Quềnh nằm. Tren chiếc võng tre ọp ẹp không mùng màn, lão Quềnh nằm duỗi dài thành một đống. Lão thì không sợ muỗi ruồi, vì da lão dày lắm. Người lão to sù sì, tính nết ngơ ngơ ngác ngác như ngỗng lạc đàn, đi đứng cứ dềnh dàng thồn thộn. Bộ nhớ và trí khôn của lão thì dại như thế này: Vắt chiếc áo, vắt khăn mặt lên vai, nhưng lại loay hoay cả giờ đi tìm khăn tìm áo. Ngày hợp tác còn ăn nên làm ra, nên tình thương và sự ưu đãi đã với tới tất cả nhưng hoàn cảnh khốn khó; từ bà già cô quả không chồng không con, bỗng chốc có một lô cháu chắt, ấy là bà được ra làm ở nhà giữ trẻ, nơi đã có mấy cô bảo mẫu óng á trông mềm như bún, nhưng đám con trại lại gọi họ là các cô nuôi dạy hổ!. Còn lão Quềnh hữu dũng vô mưu, chỉ quen làm thuê làm tớ, thì ban chủ nhiệm hợp tác xã cho Quềnh được làm chủ, mà làm chủ tập thể hẳn hoi. Ấy là lão được đưa ra trại trâu, chăn dắt một tập thể 50 con trâu. Chiều tối lão cưỡi con trâu mộng to nhất lùa cả đàn về. Đếm bày trâu đi trước có 49 con, thế là lão hoảng hốt lên. Lùa trâu vào chuồng cả con mộng lão cưỡi cũng vào nốt, cài toang xong, lão chạy bổ đi tìm con thứ 50! Đến đêm người ở trại đốt đuốc đi tìm lão nói rằng đủ 50 con trong chuồng rồi. Lão về đếm thấy đủ thật, nhưng trong đầu vẫn không hiểu được con thứ năm mươi chui ở đâu ra!
Lão Quềnh ra đời như để hứng chịu tất cả những sự ngờ nghệch khờ khạo cho dân Giếng Chùa. Đất làng này nghe nói từ khi khai thiên lập địa, thầy địa lý đă bảo là ở vào cái thế có vượng nhưng nghịch, cho nên từ xửa xưa đã có câu ca: “Ai may được ngọc Giếng Chùa. rủi ai núi Bụt thả bùa ma trêu”.
Vậy thì từ thời còn chùa và còn chiếc giếng làng to bằng gian nhà kê đá ong trước cửa tam quan đã ai bắt được ngọc ở đấy chưa? Chịu! Với lại dù có được thì người ta cũng ỉm đi thôi, chứ ai dại gì mà khoe mình vớ được của! Bằng mời trộm đến nhà! Còn ma núi ông Bụt, vì quả đồi ở đầu làng có dáng một ông bụt ngồi, thì nghe đồn thật nhiều chuyện. Những người già ở đây kể rằng núi ông Bụt ngày xưa rậm um tùm: những cây cột đình chật một vòng tay ôm là chặt từ đấy. Trong núi có hố, báo, vượn trắng, trăn gió, rắn đầu vuông có mào đỏ chon chót như mào gà, và đặc biệt là nhiều ma? Nhiều người quả quyết mình đã gặp ma núi ông Bụt. Mấy bà hàng xáo hay đi chợ sớm, bảo có lần đến gần núi ông Bụt thấy một người đàn ông đi trước mình chỉ chừng mươi bước chân dáng đi lại ve vẩy như đàn bà trông chậm mà không tài nào theo kịp. Gọi mãi người ấy mới quay lại, thì thấy mặt trắng như nặn bằng phấn, miệng bỗng nhe ra cười khanh khách, cười liền một hơi không dứt, hơi phả ra lạnh toát. Chớp mắt một cái, người đàn ông biến mất. Phiên chợ ấy mấy bà hàng xáo vốn đành hanh mà thành ra lú lẫn cả. Người thì bán một lại cân hai, người thì giao gạo mà quên nhận tiền, thật là đổ của xuống sông. Ma trêu đấy! Một ông đi đánh trúm lươn thì bảo lúc sẩm tối, ông đang thả trúm ở đầm dưới chân núi, bỗng nghe tiếng ru con lơ lửng phía trên đầu rừng; ngửng lên thì thấy chót vót trên cành si một người đàn bà tóc xõa phủ kín mắt, tay ôm cái bọc trắng toát vừa nhún cành si rung tít như đưa vong, vừa ru nỉ non như than như oán. Hôm sau ông đi đổ trúm, thấy trong ống toàn rắn nước!
Ngày ấy có một chàng trai tuổi mới mười bảy, nhưng lớn phổng phao như đã thanh niên. Mặt mũi thô vụng thật thà. Bỗng một dạo cứ ăn cơm tối xong là chú chàng biến đi đâu chừng giã xong một cối gạo mới về. Hỏi, cu cậu chỉ ậm ừ con đi đàng này rồi lảng ngay. Cha mẹ sinh nghi. Hay thằng này đã tự kiếm được món nào? Trò đời trai tơ mới lớn thì không say gì bằng say gái. Chỉ có gái thì chú mày mới chăm lỉnh như thế. Một tối, khi cậu vừa đi, ông bố liền lẳng lặng bám theo, thì thấy chú xăm xăm đi tắt qua cánh đồng. Tới gốc gai đầu núi ông Bụt, bỗng một tiếng hỏi rất thanh, như reo từ trong nhưng chùm rễ rùm ròa như một cái ô dưới gốc si già. Rồi tiếng một người con gái thì thầm, không rõ cô ả nói gì, cứ dấp da dấp dính ra điều vui lắm. Phía sau ông bố nén cười, đã bảo mà! Cứ tưởng cậu cả khù khờ, thế mà khá? Con hơn cha là nhà có phúc! Nhưng con bé nào mà tiếng chua chua nghe lạ thế nhỉ? Ông bố còn đang dùng dằng nửa muốn tò mò nghe chuyện, nửa muốn bỏ về, thì đôi tình nhân dìu nhau từ trong gốc si đi ra. Và, tức thì một đàn đom đóm bỗng từ đâu túa dậy con nào con ấy to khác thường. Chúng cùng chớp cánh một lúc, khiến cả khoảng không sáng rực lên như thắp đèn. Trong quầng sáng quái đản đó, ông bố đã nhìn thấy một người con gái trắng lôm lốp từ chân tới đầu. Tóc rất dài, buông xoã, khiến khuôn mặt lấp vào trong mờ ảo không sao nhìn rõ được. Chân đi nhẹ như lướt. Ông bố chớp mắt, định thần để nhìn cho rõ, thì thấy người con gái kia chỉ là một cái bóng trắng, một hình người chứ không phải người. Cái hình người ấy đi tựa vào vai con trai ông. Đang chập chờn ở bên trái, chớp mắt một cái, lại thấy cái bóng đi bên phải cậu cả, và rất nhanh đã hiện rõ ìô lộ một người đàn bà đẹp như tiên sa. Cậu cả bước thập thỏm như một người mê, mặt mũi cũng hoàn toàn như người trong mộng. Bầy đom đóm cứ chao lượn theo hai bóng người. Ông bố đứng vùng dậy, thét lên: Ma!, thì một tiếng kêu cũng vỡ ra, nghe sắc lạnh như đập một cái bình sứ. Trời đất tối sầm lại. Ông bố lảo đảo, rồi người cứ mê thiếp đi.
Rồi bố con ông về được tới nhà bằng cách nào? Ông không sao hiểu nôi. Vì khi tỉnh dậy ông đã thấy mình nằm ở giữa nhà, xung quanh đèn nến hương khói nghi ngút. Ông thầy cúng mặc áo đỏ, đội mũ giấy, vừa gõ chập cheng, miệng vừa đọc lầm rầm. tay cầm roi dâu, đó là roi trị tà của thầy cúng, quất vun vút vào không khí. Hôm sau ông dứt cơn, khỏi. Còn cậu cả thì vẫn li bì. Đang nằm thiêm thiếp, cậu bỗng vùng dậy, tay đưa lên bới tóc, kiểu bới tóc của đàn bà, rồi khóc như mưa như gió. Vừa khóc vừa kể lể ai oán, rằng người ta cướp chồng của tôi, đầy đọa tôi ở gốc si sương gió một thân một mình. Đang lâm li sướt mướt, lại bỗng rú lên cười sằng sặc, tiếng cứ lảnh vót lên, sắc như lưới dao cạo vào tinh nứa! Cười đến đâu hai bàn tay cứ chéo vào nhau đen đét đến đấy. Rầm rĩ một hồi, rồi cậu bỗng ngã kềnh ra, mặt quay vào tường, lịm phắc như tắt thở!
Thầy phải cúng liên tiếp ba đêm bảy ngày để xin lại hồn vía cho cậu cả. Ngày cuối cùng phải thửa một hình nhân cao lớn bằng đúng cậu cả, sắp một cỗ xôi và một con gà trống chưa đạp mái. Buổi tối mang ra gốc si tạ. Hình nhân thì hóa vàng còn mâm có thì để lại. Khi ra về thầy cúng còn đóng một cái bùa đựng trong ống nứa xuống đất, tức là yểm đề ma mất đường theo. Đêm ấy người ta nghe thấy tiếng khóc tỉ tê trong những chùm rễ si. Sáng ra nhìn cỗ xôi con gà vẫn còn nguyên, nhưng nhớt nhát có mùi tanh. Xôi gà mà lại tinh ma vày đấy! Còn đom đóm thì chết dày quanh gốc si như một sự tuẫn tiết, vun được một đống con nào con nấy to bằng đầu đũa.
Cậu cả ốm một trận thập tử nhất sinh rồi khỏi. Nhưng từ đấy cậu cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc nhớ lúc quên. Hỏi đâu cũng không được vợ. Cả những cô sứt môi lồi rốn cũng không dám lấy, vì sợ ma vẫn ám trong người cậu. Ông bố nghe có người xui: suốt mùa hè năm ấy cứ đi rình để bắt con chim cuốc thất tình. Họ bảo có những con chim cuốc bị người ta đánh bẫy mất bạn tình, buồn, nó không ăn không uống, tìm một chỗ khuất lói đứng kêu xà xã cho đến chết. Câu nói ra rả như cuốc kêu chính là chỉ những con cuốc đơn côi này. Mà thật kỳ lạ, bao giờ nó cũng đứng một cành nhó để những ngón chân quắp chặt vào cây. Khi hết hơi chết, nó lộn đầu trở xuống, treo lủng lẳng. Mới hay giống sinh vật nào đã dám chết vì tình cũng đều chọn một tư thế hiên ngang đến rùng rợn! Cũng như ở sông nước có những con cá sấu bị lẻ đôi, nó đã tìm nơi có cành cây mọc là ra mặt nước, rồi nhảy ngược từ dưới nước lên, táp đuôi ngoắc cứng vào cành cây. Cứ thế nó treo mình thẳng đứng như một dấu chấm than giữa trời và nước cho đến chết! Nhưng trường hợp này hiếm lắm, vì cá sấu là giống tham ăn - Đã xấu lại còn tham! Mà phàm giống gì cũng vậy, đã tham ăn thì hay sợ chết!
Lại nói những con cuốc chết vì tình. Người ta bảo xương của nó làm bùa yêu rất nghiệm. Đốt lên thành than, nhúng một tí vào nước cho đối tượng uống, thế là cứ theo không? Ông bố quyết cứu vớt cái cung thê cho cậu cả bằng con đường bùa mê thuốc lú này. Tối nào ông cũng lần mò đi nghe cuốc kêu. mặt mũi nhớn nhác như người đã hóa dở! Thế rồi chưa tìm thấy con cuốc tử vì tình thì chính ông đã tử! Ông chết nhẹ như đùa! Đêm nằm ngủ thế rồi ông không dậy nữa! Từ đấy gia cảnh sa sút nhanh. Cậu cả dùng cái sức cơ bắp của mình đi làm thuê làm mướn kiếm ăn. Làm như trâu nhưng chẳng biết mà cả vòi vĩnh, vì thế ai có việc gì cũng mướn cậu, và ai cũng có quyền đùa bỡn cậu. Ngay cả cái tên Quỳnh đẹp đẽ của cậu người ta cũng biến báo đi thành Quềnh - Cậu Quềnh, anh Quềnh và bây giờ xế bóng là lão Quềnh
Có thật tiểu sử lão Quềnh như thế không? Hay chỉ là giai thoại người ta dựng lên để tăng phần linh thiêng cho núi ông Bụt? Nhưng đấy là núi ông Bụt ngày xưa. chứ bây giờ núi ông Bụt đã bị phạt trụi lấy gỗ làm củi, bị đào bới để tìm đá ong, lấy đất sét nung gạch, thì không ai còn gặp ma quỷ đâu nữa. Thời buổi táo tợn đến ma quỷ giọi tàng hình cũng hết chỗ trú. Thế thì ma quỷ đi đâu? Hay ma quỷ đã bị người trần cắt hộ khẩu? Mấy anh trợn trạo đã cười cười một cách láu cá hỏi ông thầy cúng mà ở đây vẫn gọi là cô thống Biệu như vậy. Biếu là tên cúng cơm, còn cô thống là một từ chung để chỉ những người làm nghề cúng bái. Mới hay nghề nghiệp nào cũng có tướng mạo riêng của nó. Đã là thầy cúng, thầy mo, thì cái cần đầu tiên là phải có dáng đồng cô bóng cậu. Đi đứng ẽo ợt, nói giọng kim râu ria chả có và cái ăn cái uống cũng như đàn bà con gái hơn là giống đám mày râu. Nghĩa là cô thống Biệu mỗi bữa chỉ uống một chén rượu, sợ ớt sợ tỏi, ưa của chua hơn là ưa cay ưa chát. Năm nay đã gần chín mươi tuổi, non một thế kỷ đã đi qua cái dáng mảnh mai của cô. Với bộ mặt nhọn như mặt chim, nước da mai mái, cả mép cả cầm nhẵn thín không một sợi râu, nên nhìn cô không thể nào đoán được tuổi. Răng cô cũng nhỏ như răng phụ nữ, và vẫn chắc. ăn trầu thuốc cứ đen nhức, môi cắn chỉ. Cô đi thõng thà thõng thượt, nhưng cô cũng có con đàn cháu đống hẳn hoi. Thì ra cô vừa giỏi việc âm vừa tài việc dương! Nghe mấy anh chàng mặt sùi trứng cá, vừa cười nham nhở, vừa hỏi về ma núi ông Bụt bị người trần cắt hộ khẩu. Cô thống Biệu đã giương cặp mắt bạc phếch, trông chỉ rặt lòng trắng, tưởng như mắt cô đang tỏa ra một làn sương khói, và cô đã nói với cái giọng thanh thảnh thế này :
- Đừng tưởng đất này đã hết ma. Ma còn đang đẻ sinh đôi sinh ba nữa cơ đấy! Các vị có nhớ hôm trước hợp tác họp để đòi chia ruộng khoán không? Cứ như cuộc chọi gà, chọi trâu ngày xưa! Chả ai chịu nhả miếng nào. Cả làng có mỗi xứ Đồng Chùa là thượng đẳng điền, thì từ ông cán bộ đến bà xã viên, ai cũng muốn vơ giật về mình. Có đời thuở nào anh em ruột cũng cãi nhau, tranh nhau đất hương hỏa ngay ở đấy. Vợ chồng ông Tý Hỏi mới kinh, bỏ nhau mỗi người một niêu, hợp tác giao ruộng, ai cũng tranh thửa tốt. Vợ chồng thách nhau giữa làng: mày mà làm ông phá. Mấy là đòi ruộng cũ không được thì bù lu bù loa lên, cứ nhao nhao như chào mào ăn dom! Xưa nay người ta chỉ sợ người chết chứ ai sợ người sống? Có đúng không hở? Chỉ sợ ma chứ ai sợ người, có phải không hở? Thế mà hôm ấy tôi đi nhận ruộng hộ con cháu, thấy hốt quá. Nhìn chả thấy người đâu, toàn ma. Những thân người sống ngồi đấy mà mà cấm còn nhận ra ai nữa.
Càng nhìn càng thấy đúng là những ụ mối, những bao bì dựng ngược, cái cao cái thấp lố nhìn đây nhà! Những con ma tham, ma ác từ đấy chui ra, con nào cùng lành chanh lành chói mồm năm miệng mười, chả còn bùa đâu mà yểm cho xuể! Đấy, các người đừng có vội tí toé, ma nó vẫn ngủ gà ngủ gật ngay trong lòng các người!
Lão Quềnh bỗng thức giấc. Cái đói thúc lão dậy, lão dụi cặp mắt đờ đẫn, dỏng bộ tai to nhưng mong dính: mỏng đến độ nhìn thấu qua được. Những người sính xem tướng bảo cái tai thỏ ấy dù có cắm vào cái đầu con cáo thì cũng vẫn là đồ bỏ, vẫn tứ thời kiết xác. Lão lắng nghe. Đúng là có tiếng trống phát dẫn từ trong làng. Anh nào lại chết đây! giữa lúc này không biết chết no hay chết đói. Suốt hai ngày nay lão chỉ độc nắm ngô, rang lên nhai, rồi uống thật nhiều nước vào mà vẫn không lấp được cái khoảng trống quá lớn trong bụng lão, vì sức ăn của lão nói như người ác khẩu là như hùm đổ đó!
Lão quay sang khe hở của phên liếp, nhìn về phía khu nhà ủy ban xã. Cả một dãy nhà ngói bên ấy cửa đóng im ỉm như mồm thằng câm! Có đến hơn tuần nay các ông bên ấy không đánh chén, khiến lão mất chỗ dựa! Đã hơn năm nay lão sống dựa vào những bữa rượu kia. Đều đặn tuần nào cũng vài ba cuộc. Không ủy ban thi Đảng uỷ, rồi ban quản lý hợp tác xã, rồi các đoàn thể. Hội họp lu bù Các ông ấy càng hội họp nhiều thì lão Quềnh càng thích! Vì động họp là động thớt. Cái mẹo ấy là của tay Tám lé thợ cạo, chủ cái quán này. Người ta gọi là Tám lé vì mắt hắn hiếng lệch đi như xe sang vành, nhìn cứ xiên xiên. Có lần đánh kéo Tám đã xiên cả một mảng da đầu của khách. Suốt ngày được sửa gáy vít đầu thiên hạ: mà Tám vẫn không đủ vắt mũi đút miệng.
Người đã như con hạc thờ, lại một vợ bốn con, quanh năm hết giật tạm lại vay nóng. Vì nợ hợp tác xã nhiều quá, vợ chồng Tám lại phải xung phong đi kinh tế mới trên huyện miền núi để dược xí xóa (ở đây có lệ thế). Trước hôm đi, đến ủy ban lấy giấy. Vừa ra đến đây thì Tám lé gặp lão Quềnh đi đào ao thuê. Tám liền kéo Quềnh vào cái lều này, rút trong túi ra mót cút cổ rụt, chuyền tay nhau tu. Đang lúc đói, rượu dẫn nhanh như điện. Đến khi dốc ngược cái cút, thì cả hội cùng lâng lâng từ đầu đến tận gan bàn chân. Tám liền bá vai Quềnh, đôi chân cò hương với cái đầu gối củ lạc nhún nhảy, cái giọng kim eo éo được tắm rượu đã thành nghề ngà: Anh Quềnh rằng này anh Quềnh ơi, ngồi nghe ta nói cách ăn chơi.
Tưởng say nhưng hắn xui khôn đáo để. Ở người nghiện, rượu là một thứ động cơ, phát động được cả sức lực và trí tuệ. Tám bảo Quềnh bỏ phứt cái túp lều ở trong xóm. Nằm cạnh nhà người em là lão Quàng không những chiếm hết cái khôn cái ngoan, mà còn chiếm hết cả ao cả vườn, chỉ xí lại cho Quềnh một góc ớm nắng ven vẻn chừng dăm cái nong. Vợ chồng Quàng trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài, nhưng dăm bảy năm nay, kể từ ngày Quàng được giữ chân quỹ tín dụng của hợp tác xã thì đã nhấm khá dần lên. Nhưng có khá mấy thì vợ chồng Quàng vẫn tham và kiệt, chỉ khi nào có những việc thổ mộc nặng nhọc thì vợ chồng Quàng mới nhớ đến ông anh Quềnh. Vậy thì ra đây, cạnh mặt đường này ai có công có việc đến nhờ cũng tiện. Tám lé tặng lại cả chiếc chõng tre và chiếc ghế bố, dụng cụ giúp Tám cạo râu ngoáy tai cho thiên hạ để kiếm gạo. Nhưng điều quan trọng là từ đây nhìn xéo sang nhà ủy ban rõ mồn một. Hễ bên ấy động đũa động bát là đây biết ngay. Muốn ăn thì lăn vào bếp. Mà có lăn vào thì cũng là ăn của dân của xã chứ chẳng phải của mấy ông. Nhưng dẫu vậy - Tám dặn Quềnh cũng phải biết phận. Thấy động thớt là đi cổng sau, vào nhà dưới. Thì đi đường nào mà tới được mâm chả tốt! Cái cổng sau ấy, cái bếp ấy nhiều phen đã cứu Tám những bàn thua trông thấy! Giờ lão Quềnh tiếp thu cái vị trí lợi hại này, đúng là lão bóng được nhiều bữa nhờn môi. Có hôm lại thủ được cả lưng chai rượu về uống ngâm nga suốt đêm. Thế mà đã hơn tuần nay không thấy bên ấy họp hành gì! Hay họ lại kéo nhau ra quán bà Lợi béo có cái mông lồng bàn ở trên chợ kia. Quán ấy trước chỉ bán thuốc, bán nước nhi nhằng. Mới đây đổi sang quán ăn. Trước cửa treo lủng lẳng chân giò và những con gà luộc tứa mớ vàng nhóng nhánh. Gian bếp đằng sau lúc nào cũng khói um tùm, thơm inh. Thôi đúng rồi, họ đã dời mâm lên ấy rồi. Để khỏi phái khua dao thớt, vừa tiện vừa kín, tránh được mồm được mắt thiên hạ. Thế thì nguy cho lão Quềnh này quá! Mấy ông đúng là uống nước cả cặn?
Lão Quềnh vừa quảy người ngồi dậy, lại thêm mấy chiếc nan tre gãy roàn roạt, thì bên ngoài bỗng có tiếng gọi láo pháo :
- Đi uống rượu đám ma đi ông Quềnh!
- Bây giờ còn ngủ hả ông Quềnh? Hay đêm qua có bà nào trú nhờ trong ấy!
Vừa dứt lời một đám thanh niên tuổi những những đã ùa vào đầy căn lều. Đám trai làng đang tuổi ăn tuổi lớn như những chú nghé tơ, chân tay khềnh khoảng chưa định hình, nhưng da thịt trông óp quá, mặt mũi thô gầy góc cạnh. Cái thiếu, cái đói hiện lên từ ánh mắt mệt mỏi đến nước da mai mái và cặp môi khô tông tốc! Được cái vẫn tếu. Chúng tìm điếu, rồi thản nhiên bẻ phệnh vách làm đóm, kéo thuốc lào. Cái điếu cạn nước kêu nghìn nghịt như người hen tắc cổ. Anh chàng mặt sần sùi trứng cá, vô bồm bộp vào miệng điếu, giọng khảo khảo trong khói thuốc :
- Điếu điếc gì mà khô rông rốc như hang chuột ruộng cạn. Mấy hôm nay bố ngót diều lắm hử? Thì đi đào huyệt với cánh này thì sẽ có cơm rượu tử tế. Cụ cố nhà họ Vũ đã tịch thì không phải chuyện đùa. Ông Phúc đã trữ lợn to hàng năm nay rồi.
Lão Quềnh vớ cái áo bộ đội tàu tàu cứng như mo nang vẫn cuộn làm gối, đưa lên lau mặt, rồi vừa ngáp vừa nói ề à :
- Thảo nào có tiếng trống phát dẫn từ bảnh mắt. Hóa ra ông cố Đại chết à? Sướng thế sao lại chết? Mà ông cố vẫn ở bên nhà Quý chứ.
Đám thanh niên cười hô hố :
Đúng là trí nhớ ông Quềnh! Thế hôm trước ông ăn xôi ăn chuối mừng thượng thọ cụ cố ở nhà ai? Nhà ông Phúc hay nhà Quý?
Lão Quềnh ờ ờ như sực nhớ. Đám thâm niên rít thuốc xong lôi kéo lão đi, nhưng lão trằn lại. Đám trai tráng này được chủ nhiệm hợp tác xã gọi đến để đi đào huyệt cho ông cụ cố họ Vũ mới chết đêm qua. Không phải lão Quềnh ngại không ai mời mà đến, không mời thì lão cũng đến! Lão vẫn khoe là đã từng ở với ông Phúc con cả cụ Cố, trưởng chi họ Vũ Đình bây giờ cùng một đội du kích từ thời Tây kia (kỳ thực ngày ấy du kích tuyển anh thanh niên Quềnh vào để thêm một tay đào hầm. vì Quềnh đào khoẻ như một con tê tê dũi đất). Cho nên bố ông Phúc chết thì lão phải đến chứ. Nhưng thư thư đã. Chứ bây giờ đanh đói run cả gối mà ra đòi đào huyệt thì có khi đến ngã ngay xuống đấy! Lão Quềnh vục dậy đi ra sau vườn, nơi còn mấy dây khoai lang bò nguều ngoài, lão hái tuốt tuột từ gốc đến ngọn. ít quá, lão nhổ cả rễ, vặt những củ bằng ngón tay, rửa qua quít, rồi cho vào chiếc xoong cụt tai đun lên. Một nồi canh nhộn nhạo vừa củ vừa lá, rắc thêm tý muối trắng. Lão húp sịt soạt, nuốt chửng, như voi uống thuốc gió ăn giở miệng, con tì con vị được đánh thức, cái đói càng tăng thêm, bụng càng thèm cơm đến cồn cào. Ấy thế mà có người ăn không hết của lại lăn ra chết. Được sướng mà phải chết thì cũng là khổ! Vừa mới hồi trong năm, lúc gặt hái xong, cả chi họ Vũ Đình làm lễ thượng thọ mừng cụ Cố tròn 90 tuổi thật là thịnh soạn. Ông Phúc đứng chân chủ họ cho mời hết lượt các chủ hộ xóm Giếng Chùa. Ai đến cũng được ăn xôi đậu xanh và chuối trứng cuốc. Lão Quềnh cũng đến. Người thì đến vì được ăn. Người thì đến vì tò mò. Bởi cụ Cố đã nhất quyết từ mặt ông Phúc có đến hơn 30 năm nay rồi. Lâu nay cụ Cố ở với Quý là em ông Phúc, mặc dù vợ chồng Quý làm ăn chỉ giật gấu vá vai chứ không được dư dật như ông Phúc. Nhưng thiếu vay đâu thì vay, chứ cụ Cố nhất quyết không cho vợ chồng Quý vác rá đến ông anh giàu có. Tết nhất giỗ chạp cũng mặc. Ông Phúc làm nhà ngói năm gian, đốt pháo đùng đùng hôm đặt cây nóc, cụ Cố cũng bỏ ngoài tai! Mấy đứa con ông Quý về khoe là bác Phúc mới mua xe eúp và máy nghe nhạc, vặn mở suốt ngày ầm ầm như có đám cưới, thế là cụ Cố la toang lên, rằng là chúng mày có để cho ông yên không! Hơn ba mươi năm mối hận của Cụ như vẫn chưa nguôi. Đại - Sang - Phú - Quý - Lộc - Tài, tên bố con cụ Cố như vậy, nhưng cụ bảo lại hóa ra là đại vô phúc! Bố con cụ đã làm trò cười cho thiên hạ! ấy là hồi cải cách ruộng đất, cụ bị quy là địa chủ. Lúc ấy thanh niên Phúc đang làm bí thư đoàn thanh niên toàn xã, vì Phúc đã được kết nạp Đảng từ mấy năm trước, khi còn ở du kích. Để tỏ rõ mình không bị giai cấp địa chủ nhuộm đen, mình đã ly khai nguồn gốc xuất thân, không dính dáng gì tới kẻ bóc lột, vợ chồng Phúc ra ở riêng. Suốt ngày Phúc bám đội trưởng cải cách. Đội trưởng tên là Cường. Nhưng không được gọi là Đội Cường. Hôm đầu có người gọi thế đã bị triệu lên xã để giáo dục quan điểm lập trường, rằng là chỉ có thời phong kiến đế quốc mới có Cai có Đội, chứ ở đây gọi như vậy là bôi nhọ thanh danh người chiến sĩ cách mạng! Phải gọi là đồng chí Hùng Cường. Đồng chí Đội trưởng Hùng Cường. Rồi người ta rỉ tai nhau rằng đồng chí Hùng Cường không thích xung quanh gọi mình là Đội Cường, bởi vì rằng chính ông cụ bà cụ có diễm phúc sinh ra đồng chí Hùng Cường là người ở xã bên kia sông chứ đâu xa. Hai ông bà từ dưới xuôi tản cư lên dạo có nạn đói năm Dậu. Nghe nói quê của ông bà ở vùng toàn đội đầu. Từ thúng thóc, gánh lúa, đến việc thổ mộc là đào đất từ dưới ao lên, không gánh không vác mà cứ đưa cả lên đầu trông khiếp lắm, tưởng như gãy cổ đến nơi. Hai ông bà đi đội thuê đội mướn kiếm ăn. Vì thế bên xã ấy người ta quen gọi là ông Đội, bà Đội. Nghe nói đồng chí Hùng Cường ngày ấy gầy yếu lắm, nên bố mẹ cứ gọi nôm na là thằng Còm. Thế mới biết sông có khúc, người có lúc: từ thằng Còm đã lớn bồng lên thành đồng chí Hùng Cường. Vẫn cao, vẫn gầy, da vẫn dính sát vào xương, nhưng giọng nói thì thật là người có quyền. Nhất thanh nhì sắc, cứ choang choang. Nói một câu là quan trọng một câu. Đã có người lân la hỏi chuyên gia cảnh, thì đồng chí Hùng Cường vắn tắt mình là thành phần cơ bản, bố mẹ đều giai cấp cốt cán; rồi đồng chí chấn chỉnh ngay là không nên quá nặng nề tư tưởng gia đình, mà phải nghỉ đến sự nghiệp cách mạng trên hết. Thế là cạch, không ai dám hỏi chuyện gia đình đồng chí Hùng Cường nữa.
Phúc cứ bám riết lấy đội trưởng Hùng Cường. Đến nỗi có mấy thanh niên hay thóc mách kháo nhau rằng đã bắt gặp đồng chí Hùng Cường đi sâu đi sát quần chúng, đến bắt rễ với cô Tý con bà Tẹo ở cuối xóm. Nhà chỉ có hai mẹ con, bà Tẹo lại vữa hỏng mắt lẫn hỏng tai, chỉ có cô Tẹo tuy xấu người, nhưng phốp pháp dễ dãi. Họ bảo thấy đồng chí Hùng Cường đến bắt rễ cốt cán để tìm hiểu tình hình của làng, đã ăn cơm thịt gà rồi ngủ luôn ở đấy đến sáng sớm hôm sau đi cổng ngách về trụ sở. Trong lúc đồng chí Hùng Cường đang đỏ mặt lên lúng túng, thì Phúc đã gọi ngay mấy thanh niên ấy lên làm kiểm điểm vì đã ăn phải đũa của bọn bóc lột, tung tin nói xấu cán bộ đội. Họp chi bộ đồng chí Hùng Cường tuyên dương Phúc là đã có tinh thần kiên quyết dứt bỏ được giai cấp phi vô sản, tự nguyện phục vụ sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nông. Đêm nào Phúc cũng tổ chức thanh thiếu niên đi cổ động, đèn đuốc cứ rừng rực như đình liệu, hô Đả đảo bọn địa chủ cường hào ác bá đến khản đặc cả tiếng. Trống đánh đến bỏng dùi. Rồi đoàn cổ động hô vang Đả đảo tên địa chủ bóc lột Vũ Đình Đại! Kiên quyết đánh đố tên địa chủ Vũ Đình Đại ầm ầm nộ khí.
Sáng hôm sau Đội tổ chức cho dân làng đấu tố Vũ Đình Đại, tên địa chủ có 5 màu ruộng, 3 trâu cày, ngày mùa, ngày vụ dám thuê gần chục nhân công làm cho nhanh. Mặc dù tên Đại cũng hai bữa cơm đèn, làm quần quật như trâu nhưng đấy chính là âm mưu của nó ta không được mơ hồ lẫn lộn, vì nó làm đế ốp những người vô sản không có tư liệu sản xuất phải đi làm thuê làm mướn kiếm ăn, nhưng đã bị những tên cường hào như những cái vòi cua con bạch tuộc bóc lột đến tận xương tủy. Ta phải vạch trần tư tưởng đen tối của chúng ra. Đồng chí Hùng Cường đã phân tích sâu sắc cho mọi người hiểu như vậy.
Cuộc đấu tố được tổ chức ở ngay giữa sân nhà Vũ Đình Đại. Hai vợ chồng Đại cùng mấy người con; tức những người em của Phúc chưa vợ chưa chồng, vẫn ở với bố mẹ, tất cả được lùa ra giữa sân như một đám hành khất, ngồi bệt xuống giữa vòng trong vòng ngoài dân làng. Vợ Phúc cầm cái liềm nhảy choi choi trước mặt những kẻ bóc lột, cái mỏ liềm cứ mổ trước mặt Vũ Đình Đại, vừa mổ chị vừa kể tội bọn chúng đã bóc lột, đã đè nén mình ra sao. Chị kể dài dòng và hay trùng lặp quá đến nỗi đồng chí Hùng Cường phải nói chị tạm nghỉ cho bớt xúc động rồi sẽ đấu tiếp. Đến lượt mình, Phúc bước ra, mở đầu bằng câu hỏi :
- Địa chủ Đại, mày có biết tao là ai không?
Ông bố đã trả lời thế này :
- Dạ thưa tôi có biết ông, vì tôi đã trót đẻ ra ông!
Đồng chí Hùng Cường đang ngồi bàn chủ tọa phủ chiếc chăn hoa, liền đập bàn đánh rình, đứng dậy :
- Địa chủ Đại không được ăn nói xỏ xiên! Đây chính là bản chất ngoan cố của giai cấp bóc lột.
- Đả đảo tên địa chủ Vũ Đình Đại xỏ xiên! - Một thanh niên cốt cán liền hét lên, thế là tất cả ầm ầm như vỡ chợ - Đả đảo! Đả đảo!
Lời nói gió bay, nhưng lại có những lời như đóng dấu chính vào in não mọi người. Đến bây giờ những người đứng tuổi ở làng Giếng Chùa này vẫn nhớ như in những câu đối đáp của bố con ông Đại - Phúc trong buổi đấu tố ấy. Vì thế hôm giáp tết mới đây, khi vợ chồng con cái ông Phúc đón được cụ Cố về, rồi làm lễ thượng thợ mời cả làng đến dự thì ai mà không tò mò ai mà không muốn đến xem bố eon ông cháu nhà ấy đối đãi với nhau như thế nào. Một sự tái hợp hiếm có. Nhưng duyên do để có được bữa tốc hỉ ấy, thì không ai biết được, là một tối kia, khi thấy ông cụ đã yếu lắm, một ngày khỏe thì năm bảy ngày đau. Ông Phúc đến nhà em trai, và vẫn tư thế của người quyền biến, với cặp mắt ba góc nhìn cứ ngắm ngắm, ông bắt Quý xua hết vợ con xuống bếp, để trên nhà ba bố con, ba người đàn ông rường cột của chi họ Vũ Đình có cuộc đàm phán mang tầm cỡ chấm dứt chiến tranh!
- Năm nay ông đuối sức lắm rồi - Ông Phúc bắt đầu vào chuyện - ông về bên con tĩnh dường cho tiện, chứ bên này chú thím nó vừa túng vừa neo người trông nom.
- Tao không đi đâu hết. Tao quen sống nghèo khổ rồi? Nghèo khổ còn yên ấm bằng vạn có tiền có của mà bị nhục!
Cụ Cố với nước da mồi xam đen, tóc lưa thưa, bạc và khô xác, đang nằm thở khò khử trên chiếc giường tre, loại giường cổ lỗ cách đây mấy chục năm; lại thêm chiếc màn xô màu cháo lòng, vá víu túm tó như vó tôm. Đã nhiều lần ông Phúc sai con mang bánh giò bánh dầy, mang sữa sang, cụ Cố cứ nằm trong chiếc màn ấy, như nằm trong chốn trú ngụ cuối cùng của cuộc đời, đầu kê lên chiếc gối mây đã ngả màu đen kít, miệng phóng ra những lời cay độc, đuổi như đuổi tà: Mang về! Mang về! Để cha mẹ con cái chúng mày ăn nhau cho béo rồi lấy sức mà đào mồ đào mả ông bà ông vải lên!
Lần này cụ Cố vẫn nằm đấy, mắt không nhìn người con trai đã đấu tố mình. Vừa nói, cụ vừa thở khó nhọc, nhưng cơn nộ khí trong lòng xem ra vẫn chưa một chút hạ hỏa! Ông Phúc cứ để mặc cho cụ via già nói thỏa thuê. Ông điềm nhiên kéo thuốc lào xoe xoè. Ông Quý thì càng ngồi im như thóc. Quý vốn là người chỉ biết bới đất lật cỏ làm ăn, còn nguyên vẹn là một nông dân thuần phác, dễ phục tùng. Việc gì Quý cũng lấy êm ấm làm đầu. Trong nhà Quý nhường nhịn ít lời hơn cả vợ con. Nên trong việc giữa bố và anh, Quý mặc? Thế nào cũng được.
- Bố chỉ bực bõ những chuyện vặt! Không nhìn xa được khỏi bờ rào! - Ông Phúc bắt đầu công bố quan diềm của mình - Thời bấy giờ nó nhiễu nhương, trắng đen lẫn lộn, cóc ngóe nhảy lên làm người! Muốn còn chỗ đứng thì phải biết lựa. Chân dù có nhún nhưng lòng vẫn khinh. Nhún với mấy thằng hách xằng để giữ cái lớn hơn, cái lâu dài. Bấy giờ không thế thì làm gì. còn Đảng! Mà không có chân Đảng viên thì cái họ nhà này chúng nó cho ăn bùn! Chân trắng thì làm gì chen được cái chức chủ nhiệm hợp tác sáu bảy năm trời? Mấy đứa trong họ nhà này vào được Đảng là nhờ ai? Tôi không ngồi đấy thì có mục thất! Rồi gạch ngói nhà chú Quý này, nhà bá Sang kia, không ở đấy mà ra thì ở đâu? Cũng mang tiếng mua, nhưng người khác phải trả mười, thì mình chỉ bỏ ra một. Không có lời của chủ nhiệm, thì mấy thằng lò gạch lò ngói có khối nó chịu nhả cho đấy! Tôi vừa mất chân Đảng ủy, nghỉ chủ nhiệm, thế là đủ chuyện rắc rối rồi. Phe cánh nhà Trịnh Bá đang lăm le chiếm hết quyền hành cái xã này. Nó dám nói chi họ Vũ Đình quanh năm lục đục thì còn lãnh đạo ai!
Thế là cụ Cố bật ngay dậy như một cái lò xo :
- Nó nói thối mồm thế mà mày chịu nhịn à?
Vậy là xong! Ông Phúc đã đánh trúng huyệt! Câu chuyện lập tức xoay ngược sang hướng khác. Chân tay cụ Cố vẫn rung lên vì xúc động. Như một con chiến mã về già, dù không còn đủ sức để lao vào trận mạc, nhưng mùi thuốc súng vẫn đủ kích thích nó gầm thét! Mối hiềm khích giữa cụ Cố với cánh nhà họ Trịnh Bá kia có từ xa xưa. Không nhắc, quên đi thì thôi, chứ nếu chỉ khi khơi dậy thì ngọn lửa bùng ngay lên?
Hôn nhân, điền thổ vạn cố chi thừ. Tức hôn nhân và đất đai là hai thứ dễ gây cho người ta thù oán nhau lâu nhất. Thì giữa hai họ Vũ Đình và Trịnh Bá không thể ngồi chung chiếu với nhau là bởi tất cả những thứ đó! Ngày xưa có dân hai bên đã túm ngực áo nhau giữa sân chùa trong ngày việc làng! Đời cụ Cố là chuyện-đất, chuyện chức, cái chức lý trưởng dù nhỏ nhưng đấy là danh dự là chuyện được thua giữa hai dòng họ, là phần đầu gà má lợn, là chỗ ngồi chiếu nhất giữa đình làng. Đôi bên đã giành nhau kịch liệt. Đến đời ông Phúc lại là chuyện tình. Thật oái oăm, hai dòng họ này cớ vờn, cứ lửa miếng nhau không biết mệt!
- Ông về bên này không chỉ là chuyện nghĩ ngơi tĩnh dưỡng - Ông Phúc lại lên tiếng, cắt dứt dòng nghĩ ngợi lan man của cụ Cố - Mà về bên này còn để bịt mồm những đứa nói hỗn lại! Thằng Tùng, con Bá Sang, được chúng nó thí cho cái chân xã đội, thế là nhảy cỡn lên theo voi ăn bã mía. Nó còn nói láo hơn cả anh em chú cháu nhà Trịnh Bá. Dù thế nào cũng không thể để họ Vũ này bị nhục trước dân làng! Giọng ông Phúc đã như muốn gầm lên. Cụ Cố ngồi hẳn dậy chứ không còn nằm nữa. Ông Quý càng thuỗn người ra ngơ ngác. Thế là sau hơn ba mươi năm quay lưng, cụ Cố đã chịu quy phục hoàn toàn trước lý lẽ của người con trai mà cụ đã từng rủa không còn thiếu một lời nào! Và đây là lần thứ hai cụ lại chịu thua Phúc!
Ngay hôm sau dân Giếng Chùa trố mắt thấy bà con dâu đáo để, tức là vợ ông Phúc cùng con trai, con gái, có cả dâu lẫn rể, rùng rùng dắt nhau sang nhà ông Quý để đón cụ em về bên này nghỉ ngơi tĩnh dưỡng!. Tất cả vui vẻ cứ như đi rước một ông quan đại thần! Và ngay tuần ấy, ông Phúc làm lễ thượng thọ cho cụ Cố tròn 90. Một sự kiện của làng!
Vậy mà cụ Cố không gắng sống rốn thêm nữa để hưởng cho đã cái cảnh điền viên xum họp. Từ hôm cụ Cố về bên nhà ông Phúc đến nay đã được mấy nả. Thế mà mới ra tết cụ đã chết đi sống lại mấy dân. Tay đã bắt chuồn chuồn, miệng đã cấm khẩu, ông Phúc phải cạy miệng đổ đến mấy chén sâm cao-ly mới hồi. Trong làng người ta bỗng thêu chuyện lên rằng, vì làm lễ thượng thọ to quá, nên động tới Thiên đình, khiến ông Nam Tào sực nhớ ra xóm Giếng Chùa còn để sót người sống quá dai mà chưa gạch tên Lại có kẻ ác khẩu bảo ngay việc tổ chức rùm beng cũng là một cách giỗ sống rồi! Muốn cha mẹ thọ lâu không ai làm thế!
Những chuyện đàm tiếu áy đến tai ông Phúc hết. Ông văng tục miệng lẩm bầm: Lại chỉ miệng lưỡi nhà Trịnh Bá!
Xem tiếp Hai
----------------- Bài viết của đc ghép lại-----------------------
Hai
Đúng như nhiều người nghĩ, cả đến lão Quềnh cũng dám chắc là đám tang cụ Cố chi họ Vũ Đình sẽ được tổ chức rất long trọng, quả là không ngoa. Sáng ra, ông Phúc triệu tập tất cả nội ngoại đến nhà ông. Trên bộ phản gỗ lim đen mun mà những người già vẫn quen gọi là ghế ngựa, chiếc màn tuyn màu nước biển phủ kín, thi hài cụ Cố đang ngự trên đó. Ngang người phủ một chiếc chăn đơn. Xung quanh con cháu nục nở sùi sụt. Người kêu bố người gọi ông, kẻ réo bác, réo chú cứ ời ời! Ông Phúc, với dáng cao lớn vuông vức, vẫn đi đứng đàng hoàng. Cặp mắt ba góc trầm lắng. Đầu ông thít khăn trắng, để hai dải thõng xuống gáy, đó là dấu hiệu của đại tang.
- Tất cả lý lặng! - Ông Phúc huơ tay. Tiếng khóc, tiếng hờ đang ỉ eo bỗng ngừng bặt như những chiếc loa bị ngắt điện. Ông Phúc nói, họ nhà ta là họ lớn trong làng, nên phải làm tang cho cụ Cố thật đàng hoàng, không nề hà tốn kém. Áo quan, ông sẽ xuất gỗ dồi vẫn trữ sẵn chứ không thể dùng gỗ tạp. Rồi nhà ông sẽ ngả một con lợn hơn một tạ, còn anh em con cháu có thế nào đóng góp tùy ý. Ông sẽ mời đội kèn, mà phải là phường bát âm lớn theo đúng nghi thức cổ truyền. Đột kèn sẽ chia làm hai nhóm. Một nhóm ngồi trong nhà, gần linh cữu. Còn một nhóm ở bên ngoài với nhiệm vụ khi các đoàn thể của làng, của xã đến viếng, thì nhóm này ra tận cổng nổi kèn, nổi trống đưa đoàn vào để tăng thêm phần trọng thể. Phải có người nhà trực bên ngoài để hướng dẫn từng đoàn vào thứ tự. Phải có người ngồi ghi chép những ai mang đồ phúng viếng đến, để sau này nhà người ta có đám, mình còn nhớ phúc đáp lại Rồi thì phải dựng rạp, kê bàn ghế, mượn thêm mâm bát...
Ông Phúc nói một loạt công việc, rồi phân công luôn. Dứt khoác như mệnh lệnh. Đúng là một ông trưởng họ quyền biến và thành thạo công việc.
Khi tất cả đã túa đi, ai vào việc nấy, ông Phúc mới quay lại hỏi bà Sang, người chị cả, vẫn ngồi sụt sịt ở góc giường :
- Thằng Tùng nhà bá đi đâu mà từ hôm qua đến giờ không thấy mặt?
Bà Sang ngước nhìn người em trai như có lỗi :
- Đêm qua tận khuya nó mới đi họp về. Sáng sớm thấy nó bảo là xã phân công đi mua sắn cứu đói cho hợp tác xã, rồi nó đi luôn.
Ông Phúc dằn giọng :
- Khoai sắn gì, nó không đi thì người ta chịu nhịn đấy. Nó là nó trốn đám tang này? Đi từ lúc trời chưa mở mắt, nhưng sáng bảnh nó với thằng Điểu còn ăn phở ở quán bà Lợi. Ngồi ở nhà nhưng tôi biết hết?
Bà Sang lại tức tưởi vừa khóc bố vừa kể lể về thân phận đàn bà con gái của mình. Chồng bà mất sớm, bây giờ con trai là trụ cột gia đình. Hàng ngày bà chỉ quanh quẩn việc nhà, cơm nước, cám bã, chu còn biết đâu bàn soạn. Bà có nghe người ta bảo giữa hai cậu cháu - ông Phúc và thằng Tùng nhà bà có chuyện mâu thuẫn mâu thọt gì đấy. Một lần bà vừa hỏi, thì Tùng gạt đi U hỏi làm gì những việc ấy mặc con! Thôi thì đành con dại cái mang. Một bên em ruột, cùng một gốc một cành; một bên con đẻ, hạt máu của mình, bà còn biết trọng ai khinh ai! Sao mà càng ngày càng lắm chuyện quay quắt vậy! Gần hết đời người vẫn chả biết ăn ở thế nào cho phải!
Bà Sang cứ tỉ tê ngồi than khóc một mình, mặc xung quanh - Hay là xung quanh người ta mặc bà? Mọi người tất bật nhốn nháo sai khiến, gọi hỏi nhau ầm ầm. Tiếng đóng ván kênh kếch. Rồi một hồi trống báo tang, cứ bảy tiếng lại dứt một nhịp - Tùng tùng tùng... tùng tùng tùng... tùng! Tiếng nhạc của tứ thần như có đôi cánh màu đen bay vờn trên những ngọn tre úa lá, lan tỏa khắp đầu làng cuối xóm. Chính tiếng trống ấy đã thúc lão Quềnh thức giấc. Khi đám thanh niên được chủ nhiệm gọi kéo nhau đi rồi, và lão Quềnh đã húp hết cả nồi rau khoai mà vẫn đói veo lão ngồi ngẩn ra không biết làm gì. Đã hàng tuần không thấy ai cần đến sức trâu lăn của lão. Làm mướn lúc này cũng không đắt! Lão Quềnh cứ ra ra vào và đi lại ù ì như voi nan. Chốc khốc lại liếc sang khu nhà ủy ban, nhưng tất cả các cửa bên ấy vẫn đóng chặt. Thế rồi suốt cả ngày lão Quềnh cứ thơ thần lờ vờ như vậy. Đến tối mịt nghe nhiều người nói đêm nay nhà ông Phúc làm lễ cầu hồn vui lắm, có trống có kèn như đêm hát đêm nhạc, chứ không giống những đám chết theo đời sống mới, cu hấp ha hấp hoảng, vất vả dụi do quá? Đám thanh niên kéo nhau đi xem như xem văn nghệ!
Khi lão Quềnh vật vờ tới nơi, thì đã thấy đến đóm nhà ông Phúc sáng trưng. Ngoài sân dựng rạp, căng phông, bàn ghế kê dàn dạt. Trong căn nhà ngói năm gian đông chật người, hương khói nghi ngút. Chiếc quan tài để mộc không sơn, chỉ bào nhẵn, màu gỗ dối vàng ươm trông còn nối hơn cả sơn, kê nằm dọc theo chiều nhà. Trên ván thiên, một bình hương tơ khói um tùm. Tàn hương rơi lả tả xuống quả trưng luộc và bát cơm đóng theo hình oản để cạnh. Tiếng ông Phúc cất lên, nói một câu gì đó lập tức cả một nhà khăn trắng rùng rùng đứng dậy như một đàn cò. Tất cả đến xếp hàng vòng tròn quanh linh cữu. Ông trưởng phường bát âm mặt đỏ tím rịm. Ông vận bộ quần áo màu vàng, rộng thùng thình như quần áo phường tuồng. Đầu ông đội mũ giấy xanh đó không chóp, như chít khăn xếp. Trên trán và hai bên tai dắt mấy chiếc lông chim sặc sỡ ông đến bên linh cữu hắng giọng dặn dò :
- Để cụ đi được thanh thản, trong lúc chào cụ lần cuối không ai được khóc.
Rồi ông phẩy tay ra hiệu. Tức thì con trai và con rể ông Phúc thận trọng nâng ván thiên lên, rồi kéo dịch xuống phía chân để con cháu họ hàng nhìn thấy mặt cụ Cố lần cuối cùng. Mọi người đứng lặng phắc như nín thở. Ông trưởng phường bát âm đi lại phía đậu cụ ông cúi xuống nơi âm bầm như dặn riêng cụ Cố điều gì, rồi ông rút trong túi áo ra chiếc bùa xoắn bằng giấy bổi, lùa vào miệng cụ Cố. Đó là giấy thông hành để cụ Cố đi sang thế giới bên kia. Đoạn, ông gật đầu ra hiệu. Ván thiên kéo lên, đóng chốt lại. Cụ Cố chính thức đi về nơi vĩnh viễn. Lập tức những tiếng khóc lại òa ra như vỡ đập. Ông Phúc ra hiệu tất cả đàn ông xúm tay lại, xoay quan tài ngang theo chiều nhà, đau cụ Cố quay ra ở chính cửa giữa. Một hồi chập choạng vang lên.
Đêm cầu hồn bắt đầu.
Trưởng phường bát âm mang ra một chiếc thuyền bằng chiếc diều sáo của trẻ con. Đó là thuyền đưa linh hồn người mới khuất về nơi chín suối. Tất cả chiến thuyền được dán bằng giấy đỏ, đó là màu biểu hiện điềm lành, điềm phúc của đạo Phật. Một sợi dây buộc vào mũi thuyền, và thằng cu Cần, con trai út ông Phúc, cháu đích tôn cụ Cố được cầm dây kéo thuyền đi trước. Trưởng phường bát âm cầm một cây gậy cuốn giấy đỏ ngang người ông thắt thêm một sợi dây cũng màu đỏ. Chiếc gậy ấy là sào chèo thuyền. Một đầu sào chống phía sau cạnh thuyền. Trưởng phường bát âm hơi cúi người về phía trước, dé chân chèo hai tay cầm sào rướn lên giật xuống rất dẻo như chèo thuyền thật. Phía trước cu Cán đã được hướng dẫn dắt theo thuyền đi thật chậm, rù rì như sên bò. Đội kèn trống và nhị không cần ra hiện trường, cứ ngồi trên chiếu phía tay trái, nghe trưởng phường bát âm xướng lời mà phụ họa nhạc theo.
Trưởng phường bát âm đu đưa nửa người trên, hai tay làm động tác khoát nước bát thuyền, miệng đọc ngân nga kéo dài, bắt dầu là bài dặn dò của những người đang sống đối với linh hồn người mới khuất :
Ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi
Ông đã khuất núi về nơi suối vàng
Đất dày cách biệt dương gian
Mấy lời nhắc nhủ ông về ngàn thu
ới ơi! Nơi ấy mịt mù
Gặp người chớ hỏi trước
Gặp sông hãy lội sau
Thấy thuyền xanh không xuống
Chờ thuyền đỏ qua mau...
Ông Phúc đang ngồi đứng dậy, đốt một nén hương cắm thêm vào bình hương trên ván thiên và bỏ tờ bạc một trăm vào chiếc thuyền thúng cu Cần đang kéo, rồi ông đứng phía sau trưởng phường bát âm. Thế là lần lượt những người ngồi vòng quanh phía ngoài đứng lên thi nhau bỏ tiền vào thuyền và xếp hàng tiếp phía sau ông Phúc. Hàng nối càng dài, thì tiền bỏ ra càng nhiều.Tiền ngân hàng Quốc gia hẳn hoi, tiền của người sống đang tiêu chứ không phải tiền âm phủ chỉ là thứ tiền giả vờ! Đây chính là cách thưởng của tang chủ đối với dội kèn. Trưởng phường bát âm càng nhiều bài cầu lâm ly, giọng càng hay, sức càng dai để đi được nhiều vòng, thì tiền của con cháu tang chủ bỏ vào thuyền càng nhiều. Một đêm cầu hồn có đội kèn đã vớ hàng bị tiền, tươm bằng mấy cha con ông lại đò chèo thuyền thật ở ngoài bến sông kia!
Đêm nay khổ chủ này xem ra cũng có máu mặt. Đầu xuôi đuôi lọt Tiền đang bay như bươm bướm vào lòng thuyền, và hình như toàn những tờ bạc kha khá cả? Trưởng phường bát âm liếc nhìn lòng càng phấn chấn. Hai chân ông nhún nhảy càng dẻo để nửa người phía trên đung đưa như thuyền đang dập dềnh trôi trên sóng. Giọng ông rất vang, trường hơi lắm. Bây giờ là bài con đưa tiễn cha :
Í ơi!... Bố đã đi rồi
Lòng con đau thắt nhỏ đôi lệ sầu
Bây giờ cách trở hai nơi
Âm dương xa ngát muôn đời biệt ly
Bố đi con biết dặn gì
Thế là tiếng khóc của mấy bà con gái, con dâu đang lắng xuống vì khàn tiếng, nghe lời ca thống thiết lại khóc dào lên. Tiếng kèn, tiếng nhị cũng nỉ non như cứa vào gan ruột! Khi chiếc thuyền kéo được một vòng quanh quan tài, thì tiền đã lùm lùm trong lòng thuyền.
Trưởng phường hát ám dừng lại, hai tay chắp vào nhau nâng ngang ngực, mắt mơ màng, miệng nói véo von có vần có điệu như nói với người ở chốn tuyền đài :
- Ba hồn bảy vía, đường đi bảy chặng, con cháu gần xa, phúc lộc đầy nhà, tiễn cụ đi xa, đã qua chặng nhất. Giờ xin hồn cụ hãy tạm nghỉ chân, lấy sức đi tiếp.
Mọi người vừa tản ra ngồi theo hình vòng tròn như cũ thì bỗng dưới nhà bếp, tiếng vợ ông Phúc kêu thất thanh, rồi cứ ớ ớ như bị chịt cổ, tiếng bát đĩa loảng xoảng. Mọi người lao bổ ra, nháo nhác, tán loạn. Trưởng phường bát âm thu vội chiếc thuyền mang về chỗ phường kèn. Ông Phúc lật bật gờ cây đèn măng-sông mang xuống bếp. Mọi người vây quanh bà Phúc. Bà đã hoàn hồn. Bà hào hển kể. Bà xuống bếp để mang xôi lên cho đội kèn dùng bữa đêm. Bà vừa mở cửa thì cha mẹ ơi! Một người đứng sửng sững giữa nhà, mặt to bằng đúng cái mâm và trắng bạch như sáp. Ma! Ma! Bà định kêu lên như như vậy, nhưng lưỡi đã cứng đờ ra, miệng chỉ còn ú ớ mắt tối sầm lại, hồn xiêu phách lạc. Nhằng một cái, khi bà định thần được thì con ma đã biến mất. Mọi người soi đèn đóm xem có mất mát gì không, tất cả vẫn nguyên vẹn. Thế thì đúng ma hiện thật rồi!
Trong khi cả nhà ông Phúc đang nhớn nhác lo lắng không biết điềm báo này lành dữ thế nào thì con ma mặt bằng cái mâm kia đang chân nam đá chân chiêu vừa bá vai lão Quềnh bước thập thòm, vừa cười hí há!
Chả là khi mọi người nháo nhác chen vai, huých cả vào bụng nhau để chạy xuống bếp, thì lão Quềnh thủng thẳng ra về. Vừa ra khỏi ngõ thì bỗng một bóng người nhỏ loắt choắt từ trong vườn chuối nhà ông Phúc chui ra. Thấy người, cái bóng ấy vội thụt vào và cái bọc hắn đang ôm lù lù trên tay, đáng lẽ phải rơi văng ra vì gặp người đột ngột, nhưng hai bàn tay hắn lại ôm chặt lấy ép vào bụng, đồng thời rất nhanh một chuỗi cười hí hí rung lên và tiếng nói thì lè bè đẫm hơi men :
- Ôi dào tưởng ai, hóa ra lão Quềnh đấy hừ? Người ta bảo lão có cái thân bằng con voi, nhưng óc lại bằng con kiến, thật không oan! Đến đây mà lại chịu về không à?
Lão Quềnh dụi mắt, dù đêm cuối tháng tối mờ mờ nhưng lão cũng đã nhận ra cái người đang dở say dở tỉnh này là anh chàng Thó ở ngay cạnh nhà chú Quàng, em trai lão. Tên hắn chính là Thọ kia, nhưng vì cái tính tắt mắt, thấy ai để hở cái gì mà hắn không thuổng, không thó thì ngứa ngáy không chịu được! Một lần lão Quềnh đang đào ao cho Quàng, thì bỗng thấy một sợi cước bay vuốt từ bờ rào bên nhà Thó quăng sang. Ở đầu sợi cước là một cái lưới câu móc vào con nhái. Sợi cước giật giật kéo con nhài như đang nhạy Thế thì chú gà trống nhanh chân hơn cả đàn đang tha thẩn tìm giun, liền lao theo nuốt mồi. Chỉ chờ có thế, sợi cước giật tung lên và chú gà trống bốc khỏi mặt đất, bay vút qua hàng rào sang nhà Thọ. Lão Quềnh bỏ cuốc, chạy sang, thì Thó đã bóp ngoéo con gà vứt vào góc bếp.
- Sao lại làm thế? - Lão Quềnh sừng sộ.
Thó vẫn tỉnh như tiền, nhe răng ra cười hít vào điệu cười lúc Thó thèm ăn :
- Sao với giăng cái con khẹc! Im đi! Ngồi đây rồi cùng tớ nhắm rượu! Ông làm cả ngày cho tay Quàng nhưng nó đãi ông cái gì nào? Mấy lưng cơm với tý tương chua như dấm ** hả?
Thế rồi Thó và Quàng đã đánh hết cả con gà gáy với chai bố rượu. Trong lúc ngà ngà cao hứng, Thó túm lấy con chó cốm nhà hắn, bảo Quềnh giữ chân, rồi Thó đổ cả một bát rượu vào họng chó làm con vện cũng say bò bới ra, miệng cứ tru lên như chó sói, rãi sều, mắt long sòng sọc như chó điên, trong lúc hai thằng vô dụng cứ xoa bụng cười sằng sặc như hóa ngộ.
Tối nay Thó cũng chỉ chủ tâm đến nhà ông Phúc ngó đội kèn biểu diễn xem chơi. Nhưng đến khi thấy bà Phúc xuống bếp bắc chõ xôi lên bếp lò rồi không kịp khóa cửa, bà quay ngay lên nhà nhập vào đoàn con cháu đi đưa hồn cụ Cố quanh quan tài, thì cái máu nghề nghiệp của Thó nổi lên. Hắn lẻn ngay xuống. Xôi thì chưa chín, thịt thà không thấy đâu. Lợn thì chắc ngày mai mới mổ. Thế chả nhẽ họ lại để phường kèn ăn xôi nhạt? Hóa ra nhà này cũng kiết như chẳng phải vừa! Lần mò vào cái xó xỉnh thì lập tức hai cánh mũi rất mỏng của Thó phập phồng lên. Mùi rượu thơm cay cay thoảng đâu đây. Thó nuốt nước bọt. Hai tay rờ rẫm hết chai này đến lọ khác. Này. là chai mắm. Này là liễn muối. Này là vại dưa khú. Đồ khỉ gió! Đến khi Thó sờ vào một cái hũ tay rút nầm lá chuối khô làm nút, thì Thó rên lên trong bụng, hai chân chỉ muốn nhảy tưng tưng. Cả một hu đầy rượu. Thó lắc lắc tiếng rượu reo óc ách mời mọc. Thó kê ngay miệng làm một hơi. Rượu mới nấu ngon chí mề! Lúc ấy trên nhà tiếng ông trưởng phường bát âm đang cất cao giọng: ới ơi! Hôm nay ông đã đi rồi! Thó làm một ngụm nữa. ờ rượu ngon thế này mà chết khòng kịp uống thì phí của thật!Thấy thuyền xanh không xuống, chờ thuyền đỏ qua mau... Ông trưởng phường bát âm dặn dò. Thó ngồi bệt xuống làm ngụm nữa. Ờ, thế mà người ta vẫn nói dương sao âm vậy. Vậy mà trên trần đèn xanh thì đi, đèn đỏ thì dừng. Chả nhẽ lẽ luật ở dưới ấy lại xoay ngược lại? Thó ngả người vào tường, hai tay vẫn ôm cái hũ. Rượu mạnh đang quẫy đạp trong ruột Thó. Mấy ngày nay chỉ bữa rau bứa cháo nên rượu vào thèm ăn tợn. Đã thấy mùi xôi. Thó đến mở vung chõ cào ngay một tảng bỏ vào vạt áo. Đang xít xoa vì bỏng rãy, thì chính lúc ấy bà Phúc xuống! Vừa nghe tiếng đấy cửa, Thó vớ ngay cái chậu nhôm đang dựa cạnh đống bát đĩa, đưa lên che lấy mặt, chân đứng lom khom ở tư thế vùng chạy. Bà Phúc đang xăm xăm, tý nữa đâm sầm vào con ma đúng sừng sững trước mặt. Bà kê u ớ lên, hồn xiêu phách lạc. Thó liền vút cái thau nhôm, nhưng vẫn nhớ xách hũ rượu luồn ngay ra cửa, lủi biến vào vườn chuối.
- Thế ra chú vừa lần vào bếp bà Phúc đấy? - Lão Quềnh hỏi lại cho chắc chắn.
- Thì đã sao? Túng nên phải tính! Đừng có be lên như bê nghe chửa! Vừa nói Thó vừa ngả miệng hũ vào mồm lão Quềnh. Tiếng tu rượu chun chút vang lên.
Cứ thế, hai gã một khôn một dại, một to lớn xù xì như con gấu, một bé nhỏ như con cáo, bá vai nhau đi ngã nghiêng giữa đường làng trong đêm khuya. Cái miệng hũ lúc thì dốc vào mồm người này, lúc lại đổ vào mồm người kia, đi trên đất mà cú líu ríu dập dờn như đi trên sóng. Không còn biết trời đất xung quanh là gì. Chợt một tiếng hỏi làm cả hai sững lại :
- Ai thế này? Đi đứng thế nào thế này?
Quềnh và Thó cùng khứng lại. Một người đàn ông cao, gầy, đã đứng sát bên cạnh. Người ấy dịu giọng :
- À chú Thó à? Lại bác Quềnh nữa, ôm cái gì thế này?
Thó nhìn lên, nhận ra ông Chỉnh, một trung tá về hưu, người cả xóm Giếng Chùa đều nể trọng. Ông Chỉnh cũng ở ngay gần nhà Thó, nên Thó biết lắm. Ông Chỉnh có vợ đi theo trai, nên đã lấy vợ khác. Bây giờ ông Chỉnh cha già con cọc, nhà cũng hoàn cảnh lắm.
Thó cười, giọng lè nhè :
- A bác Chỉnh đấy ư? Bác đi đâu mà khuya khoắt thế này? Hay cũng sang đám nhà ông Phúc? Thi hãy làm với em một ngụm!
Nói rồi Thó định bá vai, khiến ông Chỉnh hốt hoảng né người ra, rồi bước vội. Ông đi canh lò gạch. Thó nhìn theo cười khùng khục, rồi bỗng hát nghề ngà;
- Trung tá mà sợ rượu! Trung tá mà cũng tiên có khồng là không có tiền! Hí hí! Thế cho nên trẻ con nó mới hát láo là Đầu làng đại tá vá xe, cuối làng trung tá bán chè đỗ đen, thiếu tá thì buôn dầu đèn, để cho đại úy thổi kèn đám ma! A hà ha thổi kèn đám ma! Tò te tí te!
Vừa hát Thó vừa nhún nhảy đôi chân chữ bát như ông trưởng phường bát âm lúc nãy. Tay giơ cái hũ lên như thổi kèn, và rượu lại chảy vào họng Thó tuồn tuồn. Rồi miệng hũ lại dốc vào mồm Quềnh. Cả hai tựa vào nhau, tay cùng ôm cái hũ. Chân bước lạng quạng. Đến chỗ rẽ, Thó lè nhè bảo Quềnh :
- Xin đãi bác chầu nữa! Làm hơi thật dài vào. Rượu là cao của gạo. Nữa đi, thế! Thôi té nhá.
Thó theo lối rẽ về nhà. Nhưng chỉ được vài bước, đầu nặng chân nhẹ, Thó chỉ còn lê vào được gốc ổi bên cạnh đường là lăn khoèo xuống, rượu từ trong hũ xối ra, ướt đẫm cả ngực Thó.
Lão Quềnh còn khiếp hơn! Vì lão uống cấp tập hơn Thó, bụng cũng đói hơn Thó, nên rượu càng hành lão dữ. Khi lão khật khưỡng về được đến cửa rêu thì rượu và sương gió ban đêm đã đánh quỵ lão. Lão Quềnh vừa bíu được vào tấm cánh dại che cửa, thì miệng đã nôn phóng ra như cái vòi phun. Trong bụng lão chỉ có bát rau khoai từ sáng, còn là toàn nước và rượu, nên bây giờ lão đáng phun ra rượu! Một thứ rượu qua tiêu hóa lợm mùi đến quỷ cũng khiếp? Lão Quềnh vừa nôn đến nảy đom đóm mắt, tay vừa đẩy cánh dại đề vào nhà, nhưng đẩy không nổi. Trong lúc người đang rã rời vì say, lại thêm bộ óc vốn ù ì, nên lão không thể nhớ cánh dại lão chỉ chống hờ, mà sao bây giờ lại chắc thế này?
Chắc thế là vì bên trong có người. Một người sống và một người chết! Cả hai đang nằm trên chiếc chõng ọp ẹp của lão Quềnh.
Người chết thì cứ chết, đã đành! Còn người sống thì cũng lại ngủ như chết!
Tiếng giật cửa của lão Quềnh làm người sống choàng thức. Đó là người đàn bà tuổi dòng dòng. Cao và gầy. Hốc hác và lôi thôi. Nhưng chân tay lại rất nhanh. Vừa nghe tiếng người đẩy lịch kịch, chị ta đã vực ngay dậy, rồi nhảy một bước tới cửa. Mặc dù đã chống một cái gậy vào tấm cánh dại, nhưng chị ta vội vã đứng áp người vào thêm cho chắc. Nhưng đến khi ghé mắt nhìn qua lỗ phên, thì người đàn bà bỗng bật ra một tiếng cười khô khốc :
- Ôi dào, lại một lão cám hấp! Đồ phải gió phải dây? Nhồi nhét ở đâu về mà khố thế này!
Vừa lẩm bẩm, người đàn bà mở toang cánh dại, rồi cầm tay lôi lão Quềnh vào nhà. Tối quá, lão Quềnh sờ sẫm đi lại chiếc chõng, thì người đàn bà đã kéo giật lão lại :
- Ông không được nằm đấy! Để cho con bé nhà tôi nó được ở cõi trần một tý!
Người đàn bà ngả tấm cánh dại xuống góc nhà, rồi kéo lão Quềnh đến. Quềnh ngã ngay xuống như một bao gạo, miệng hỏi ậm ẹ trong hơi men :
- Thế nhà chị ở đâu mà lại đến đây? Những hai mẹ con à?
Người đàn bà mở hộp dầu cao dúi vào tay lão Quềnh. Bằng con mắt trải đời, không cần hỏi, chị ta cũng biết đây chính là ông chủ của chiếc lều này, một ông chủ ngơ ngơ như bò đội nón! Dạng người này chỉ câu trước câu sau là có thể sai phái được rồi! Vì thế chị ta hỏi với giọng dấm dẳn :
- Tôi ở đâu đến ấy à? Ở chỗ đói đến chứ còn ở đâu nữa? Đói thì đầu gối phải bò. Không đói thì hơi đâu đi lang thang cho nhọc. Có hai mẹ con, nhưng con bé nó chết rồi! Nó nằm kia nhưng nó chết rồi!
- Cái gì? Nhà chị bảo cái gì? - Lão Quềnh nhỏm đầu dậy, hỏi giật giọng. Lão trương cặp mắt trong bóng tối sờ sẫm nhìn người đàn bà đang ngồi lờ mờ ở mép chõng. Lão đã tỉnh cơn say. Thở được ra là nhẹ cả người, lại thêm chất nóng của dầu cao, nên sương gió định quật lão đã phải lùi biến. Nhưng vì tỉnh nên lão biết sợ. Thế cái nhà chị này là thế nào? Người hay ma? Chả nhẽ lại có ma thật? Lão đã nghe người ta bảo chính lão đã bị ma làm, nhưng lão không tin; vì chưa bao giờ lão nhìn thấy ma. Lão chỉ tin những gì mắt lão sờ sờ nhìn thấy, chứ không thì đến rắn hai đầu, ma bốn mắt cũng chả là cái cóc khô gì đối với lão. Đêm hôm lão vẫn đi sùng sục mà có thấy gì đâu. Chả nhẽ hôm nay ma lại dám xông váo nhà lão thật? Kìa, một ma sống và một ma chết! Đói khát đến ma cũng chết!
- Con nhà chị chết thật à?
Lão Quềnh hỏi với giọng rụt rè, nhưng thật quái quỷ, người đàn bà lại như muốn chồm lên, giọng rít lại :
- Thì tôi đã bảo là nó chết? Chứ con tôi không chết mà tôi lại bảo là chết à? Ông có điên không đấy? Ông đã nghe thủng tai chưa đấy?
Vừa nói, người đàn bà vừa sấn tới, khiến lão Quềnh đang nhổm người hiên nằm ẹp xuống. Người đàn bà đứng lại, hai tay chống nạnh, giọng vẫn chao chát như đang cãi nhau với ai: Còn tôi ở đâu đến đấy à? Ở cái nơi vì đói quá mà đã có nhà bỏ thuốc sâu vào nồi cháo để ăn rồi cùng chết cho rảnh nợ! Tôi cũng bỏ thuốc sâu vào nồi cháo gà để định giết chúng nó, cái thằng chồng với con vợ thành đanh đỏ mỏ ấy! Chúng nó lấy nhau hàng chục năm mà không có con, cứ như nuốt gang nuốt sắt vào người! Thế là chúng nó nịnh tôi, hùn mẹ con tôi về ở với chúng nó cầu may. Tôi vừa đến tháng trước, thì tháng sau con vợ nó chửa. Rồi nó đẻ con trai. Thế là nó trở mặt, nó nhiếc móc tôi là đồ không cha không bố, là thứ không chồng mà chửa, sai tôi như sai con ở. Đêm hôm nó bắt tôi đi giặt tã lót cho con nó. Nó thì ăn cháo chân giò, còn mẹ con tôi thì cơm độn với sắn khô. Đã thế thì phải cho nó biết tay. Bà đã mang lộc đến cho mày, mà mày lại vong ơn bạc nghĩa với bà à? Bà phải thả thuốc sâu vào nồi cháo chim bồ câu của mày! Cho mày được bô béo một thể!
Chị ta bỗng ôm mặt bật khóc! Tiếng ngàn ngạt trong lòng bàn tay :
- Nhưng con chó nhà nó đã hại tôi! Cháo nóng thế mà con vện đánh sạch cả nồi, rồi giãy chết đành đạch. Thế là vợ chồng nó chửi tôi. Thằng chồng đã ăn nằm với tôi cũng đánh tôi. Con vợ thì xé cả áo quần tôi, đuổi mẹ con tôi, giữa lúc con tôi đang sốt, người nóng như hòn than. Chập tối nay dắt díu nhau đến đây là nó chết? May mà gặp được cái kêu này. Mai tôi bọc con tôi vào cái chăn kia, rồi phải về tận nhà vợ chồng chúng nó, tôi sẽ chết giữa nhà chúng nó, để cho chúng nó biết tay bà. Con ơi, mai mẹ lại đưa con về Mẹ con ta phcli chết trước mũi chúng nó? Phải móc mắt chúng nó.
Người đàn bà càng khóc nức lên. Vừa khóc chị vừa kể lể đủ thứ chuyện mà chỉ riêng chị biết. Rõ ràng không phải chị khóc, chị kể với lão Quềnh mà chị đang cần xả ra cho vơi bớt nỗi lòng.
Lão Quềnh cứ nằm co trên tấm cánh dại, giương cặp mắt ngơ ngáo nhìn người đàn bà xa lạ trong khoảng tối lờ mờ. Chị ta đang kể lể rền rĩ thì chợt có tiếng chít chít hốt hoảng phía sau nhà, rồi một con chuột cống bằng bắp tay lao thục mạng qua khe hở của bức vách, lao chồm qua chiếc chõng, đâm sầm vào chân chị, lủi biến vào xó tối. Giáp lá cà ngay phía sau, một con mèo hoang bằng con chó con, đen trũi như thiên lôi thần sét quả quyết phải nuốt tươi con mồi, cũng lao đánh roác qua phên nứa miệng kêu ngao một tiếng như kèn trận, hai mắt tròn xoe, xanh cháy lên. Con mèo xù lông, nhảy quăng mình qua đầu chõng, ngã dúi vào bức vách bên này vì quá đà lại gặp người đàn bà cuống quít, chân tay cứ khua ngậu xị trước cửa. Bị lạc mồi, lại bị chắn, mèo ta ngoão lên cáu sườn, nhảy chồm qua mặt chõng quay lại lối cũ, phóng ra ngoài. Tức thì một cảnh kinh hoàng diễn ra. Cái bọc chăn đang nằm im lìm, tức là đứa trẻ bốn tuổi con người đàn bà đã chết từ lúc chập tối, bị luồng sóng điện tử mắt con mèo hoang dựng bật dậy? Cả người đàn bà và lão Quềnh đứng bật dậy cùng kêu ối rụng rời khi thấy cái thi hài kia nhổm hẳn lên, gạt cả chiếc vỏ chăn rơi xuống đất. Cái xác không hồn dở đứng dở ngồi ở một tư thế rất chân lâng, chới với trong một giây, rồi ngã đánh roàng xuống mặt chõng. Người đàn bà đổ xuống ngất xỉu. Lão Quềnh thì nằm vật ra không động cựa.
Đêm vẫn lặng phắc như tờ.
Chênh chếch trên trời khuya, mảnh trăng khuyết hao gầy vàng úa bơi trong sương mù se sẽ nhát một, tiếng cú rúc thăm dò trên vòm cây trám tối đen phía sau nhà ủy ban. Có phải sứ giả của tử thần đã đánh hơi thấy có mùi khang khác?
Một lúc lâu sau.
Người đàn bà hôm lồm bò dậy, rên rẩm :
- Ối giời cao đất dày ơi? Làm phúc cho con tôi được sống khôn thác thiêng. Khổ thân tôi, khổ con tôi!
Vừa nói, chị vừa lê tới chiếc chõng, lập cập ôm lấy thi thể đứa con lạnh ngắt. Đầu đứa bé ngất ra ngoài. Mái tóc râu ngô lơ phơ rã rượi. Chị đắp mảnh vỏ chăn nhàu nát lên người con, rồi run rẩy nằm xuống bên cạnh, vừa khóc vừa nói liên chi hồ điệp, đến chính chị cũng không biết mình nó gì.
Lão Quềnh đã hoàn hồn, nhưng mồ hôi lạnh vẫn ri ra ở sống lưng. Lão nằm trên tấm cánh dại, mắt mở trong bóng tối nhìn lom lom sang chiếc chõng. Trong bộ óc luôn luôn có màn sương bao phủ của lão chợt lờ mờ nhớ lại cũng đã có một người đàn bà đến ở với lão, và lão đã trở thành người sai kẻ khiến ngay trong nhà của mình. Đến bây giờ cả làng lão! ấy là ngày còn ở cạnh vợ chồng Quàng trong xóm kia. Một hôm vợ Quàng đi chợ trên phố huyện về có dắt theo một cô bụng chửa vượt mặt, vợ Quàng nói là đưa cô ấy về để làm bạn với bác Quềnh nhà em! Không biết nghe bà em dâu nỉ non thế nào, mà Quềnh cứ cười hề hề nói tô tô Tớ tậu bò mà được cả bê!. Rồi Quềnh lại đi làm thuê hùng hục để nuôi cô vợ hờ suốt ngày ăn xong lại nằm ôm cái bụng chình ình như nhện ôm trứng. Rồi chị ta đẻ. Rồi chị ta lẻn di biệt sau khi ở cử được hơn một tháng. Đêm ấy thấy đứa trẻ khóc thét lên, lão Quềnh đang ngáy pho pho ở góc bên này thức giấc, gọi sang mẹ thằng cu vẫn ngủ à?. Không thấy tiếng trả lời mà thằng cu vẫn khóc ngằn ngặt. Lão Quềnh dậy châm đèn. Thì thấy mẹ thằng cu với bọc quần áo đã biến mất tăm rồi. Thằng bé đó sau cho gia đình không có con trai, và chuyện lão Quềnh lấy vợ thành một giai thoại. Đi làm ở đâu, Quềnh cũng bị cánh đàn ông xúm vào tra hỏi: Đã biết mùi chưa?. Mùi với mẽ gì! Đêm lão còn phải đi đổ cả nước giải cho nó, vậy mà không được mó đến người đó. Kể cả buổi tối nó tắm ở trong nhà. Cứ đến tối là cái gì nó cũng làm ở trong nhà! Nó bảo ra ngoài sợ gió máy, nhưng kỳ thực cô ả lười chầy thây. Lão Quềnh phải xách nước vào cho ả tắm. Người ả trần như con ếch lột. Dọc người ả đến là nhiều chỗ tôi lõm! Lão Quềnh vừa mon men như con gấu đến gần con chuột bạch, thì ả liền khoăm mặt lại, gắt: Xê ra đằng kia! Thế là lão lại chui về ổ nằm. Còn bây giờ, với mẹ con nhà chị này, một sống một chết một người một ma, rõ khiếp! Lão phải làm gì đây? Lần đầu tiên lão Quềnh phải tính xa tính gần, nghĩ tới nghĩ lui. Đang lơ mơ thức ngủ, thì bỗng có tiếng gọi váng lên ngoài ngã ba :
- Bác Quềnh đã dậy chưa đới? Hôm nay đến giúp em nhá.
Quềnh vùng ngay dậy. Thế mà đã sáng bạch. Lão lịch bịch chạy ra, nói dòng dả;
- Chu Ích đấy hả? Lại đào đá ong hừ? Được rồi, về đi tớ đến ngay.
Người gọi làm thuê đi rồi, lão Quềnh quay lại. Người đàn bà thôi không nói lâm bầm một mình nữa. Chị ta nằm nghiêng, thở nặng nhọc. Một bên gò má nhô lên, trông gần như nhọn. Cạnh đấy một nốt ruồi to như hạt đậu đen làm cho tối cả khuôn mặt gầy. Hai bàn chân đen đùa co lên chõng. Bộ quần áo trên người còn lành lặn, nhưng nhàu nhỏ. Bên cạnh, cái bọc chăn kín mít nằm thẳng cứng. Lão Quềnh chờn chợn, sẽ sàng rút cái khăn tổ ong vắt trên sợi dây cùng với mấy bộ quần áo bộ đội, cái thì tàu tàu, cái đã rách. Tất cả thấm mồ hôi muối của lão cứng như mo nang. Lão rửa mặt khan, rồi xách chiếc mai, dụng cụ kiếm cơm của lão, đang định đi, thì người đàn bà nhổm dậy, giọng tỉnh như sáo
- Ông đi ngay à? Nấu cơm ăn đã, tôi có gạo.
- Thôi, nhà chị cứ ở đây nấu mà ăn. Bếp đấy, nồi đấy. Tôi đi làm rồi ăn ở bên này.
Cơ mà nước nôi ở đâu? Cái vại nhà ông có mà rắn ráo nó đẻ trong ấy!
Nhìn lão Quanh nghệt mặt ra, biết là nói khôn mồm thế thì lão không hiểu, thế là người đàn bà ngồi bật dậy, đã như muốn nổi đóa lên :
- Rằng là cái vại nước nhà ông cạn nhăn răng ra từ tám hoánh kia rồi! Ông đi xách về đây cho tôi một thùng! Lão Quềnh nhếch cặp môi dày ra như cười, miệng khẽ à một tiếng, rồi quay vào xó nhà xách chiếc thùng cùng cục chạy sang giếng nước nhà ủy ban. Lão vẫn ăn nước bên ấy. Khi lão xách thùng nước về, thì người đàn bà đang ngồi trên chõng rũ tóc chải bằng chiếc lược gỗ trông như lược cổ. Cả mặt cả người chị ta chìm trong mớ tóc khô cứng vì lâu không gội, nhưng rất dài, rất dày, buông lù xù bốn xung quanh, nhìn cứ như bụi cây kỳ dị. Chị vẫn cắm cúi chải tóc soạn soạt, nói với lão Quềnh bằng cái giọng chùng hẳn lại :
- Ông chờ tôi nấu cơm cho mà ăn, từ hôm qua tới giờ tôi cũng chưa có hạt nào trong bụng.
Ấy là tâm trạng của người luôn luôn bị hạch sách, sai phái, đến khi chính chị bỗng dưng được sai phái thì lòng chợt mềm lại. Nhưng lão Quềnh vẫn một hai trả lời :
- Thôi chả cần, tớ đi đây. Bên ấy người ta đang chờ cơm đấy.
Rồi lão vác mai bình bịch bước đi, mặc những gì diễn ra ở nhà lão. Khi người đàn bà rẽ tóc ra nhìn, thì chỉ thấy thấp thoáng bên bụi hóp một mảng lưng áo trăng khô mồ hôi muối, vài cái áo quần bộ đội đã rộng đã dài, mà khoác vào người lão vẫn cũn cỡn. Tới lúc người đàn bà rửa chiếc xoong cụt tay để nấu cơm, mới thấy mọi đồ đạc của lão đều nhẵn như chùi, đến bói một hạt thóc cắn chắt cũng không ra. Chị đong hẳn hai bơ gạo trong cái tay nải cho vào nồi cơm vo. Rồi chị để lại quá nửa xoong cơm trên ba hòn đá chụm làm kiềng. Đó là một lời cảm ơn của người khốn khổ dành cho một người khốn khổ.
Nhưng lão Quềnh đã không sống được đến chiều mà về nhìn thấy phần cơm của người đàn bà xa lạ dành cho mình. Có ai ngờ một sức vóc như thế, một người vô hại như thế mà bị lưỡi hái của tử thần xén ngọt như đùa! ở hiền mà chẳng gặp lành là thế đấy ai ơi!
Đúng ba giờ chiều, thời khắc cô thống Biệu đã bấm cho ông Phúc là giờ thanh long, giờ hành trong ngày, tang lễ cụ Cố nhà họ Vũ Đình bắt đầu cử hành. Ông Phúc đang đứng túc trực bên đầu linh cữu luôn luôn đưa mắt nhìn ra ngoài ngõ đầy vẻ sốt ruột. Bởi lúc này chưa thấy hai thành phần quan trọng nhất của xã tới viếng: Đảng ủy và ủy ban. Thế là họ cố tình chơi ông đây! Coi thường ông đây. Thôi đành. Ông tiến ra giữa thềm, hai tay đưa lên chắp trước ngực, rồi hạ giọng trầm trầm cảm ơn chính quyền địa phương (thì cứ phải nói thế!) và bà con xóm làng đã đến chia buồn với gia đình ông, rồi ông mời tất cả sau buổi tang mọi người bớt chút thì giờ ở lại dùng bữa cơm rau muối với gia đình ông. Thật khéo, ông vừa dứt lời, thì mùi xôi, mùi thịt luộc và tiếng dao thớt kênh kếch từ dưới bếp đưa lên thơm đến cồn cào các con tì con vị!
Ông Phúc nói xong quay vào, ông hội trưởng hội bảo thọ với bộ râu ngạnh trê vàng như râu ngô bước tới. Bây giờ đến việc của ông. Là người có đầy kinh nghiệm về khiêng cáng chôn cất, nên đám tang nào cũng mời hội trưởng hội bảo thọ đến điều khiển đội đô tuỳ. Ông phẩy tay ra hiệu như một nhạc trưởng, tức thì một hồi trống cái thùng thùng vang lên, đánh theo nhịp phát dẫn. Hội trưởng hội bảo thọ đang định phát lệnh tiếp, thì bỗng ngoài sân mọi người đứng dạt ra, rẽ thành một lối, bí thư đảng ủy Trịnh Bá Thủ và chủ tịch xã Trần Văn Sửu cùng năm người nữa tiến vào. Một nửa đội kèn làm nhiệm vụ dẫn khách tưởng đã hết người viếng, nên đã tản mát từ lúc nãy. Người thì đi uống nước người thì đi xả nước chuẩn bị tinh thần và sức lực để đưa cụ Cố ra đồng. Thành ra đoàn chức sắc quan trọng nhất, ông Phúc chờ đợi nhất, lại hóa ra được khổ chủ đón tiếp thiếu nghi thức nhất!
Hai anh em Phúc - Quý vội trở lại bên linh cửu để đáp lễ. Cặp mắt ba góc của ông Phúc cứng ra vì mệt, suốt ngày cứ nhịu nhíu cau cảu, giờ thấy Thủ và Sửu lóe sáng lên. Mừng nhưng vẫn tức!
Hai cô nhân viên trong ủy ban bê vòng hoa đi trước. Thủ mặc quần ka-ki, áo kẻ cộc tay đi chính giữa. Đoàn xếp theo hàng dọc như một tiểu đội lính đi sau. Đến trước linh cữu, Thủ đốt ba nén hương cắm vào bát hương, vái một vái. Phúc nhìn chằm chằm vào từng động tác của Thủ, bụng bảo dạ:Hắn chỉ đứng sống lưng và chỉ vái một vái chớ không phải ba như mọi người. Đây dứt khoát là sự cố ý. Biết thế!
Thủ đến bên Phúc, thay mặt đảng ủy và ủy ban nói những lời chia buồn rất trôi chảy lưu loát. Phúc nghiêng người đáp lại cặp mắt ba góc nhìn Thủ thầm bảo: Tôi biết là anh muốn nói những lời chúc mừng kia! Và ánh mắt của Thủ cũng đáp lại không vừa: Dù thế nào đi nữa lúc này ông vẫn rất cần sự có mặt của tôi! Đời là thế mà! Tạm thời thế thì phải thế. Phúc lại bụng bảo dạ, rồi quay sang hội trưởng hội bảo thọ nói nhỏ. Ông râu ngạnh trê liền huơ tay lên như một lão tướng, phát lệnh :
- Thân quyến tang chủ ra làm cầu ngồi xuống! Các tay đòn đô tuỳ chuẩn bị!
Ông Phúc bước xuống, đứng sẵn dưới giọt gianh. Hội trưởng hội bảo thọ vừa dứt lời, ông liền ngồi thụp xuống, quay mặt lên nhà. Tiếp đến là ông Quý, bà Sang, bà Lộc, bà Tài. Rồi các cháu chắt dâu rể, họ hàng nội ngoại. Người nọ tiếp người kia, thành một dãy dài. Tất cả cùng ngồi thụp, nhìn vào lưng nhau trên đầu khăn trắng xóa trông như một vạch vôi thẳng tắp từ bờ hè ra tận cổng. Theo tập tục, đó là chiếc cầu của con cháu đưa tiễn người quá cố là bậc trên mình ra đi được xuôi chèo mát mái.
- Chú ý! Sau ba tiếng trống đầu nâng trước, chân nâng sau. Đầu xuôi đuôi lọt. Chuẩn bị!- hội trưởng hội bảo thọ hô lớn, rồi vung tay đánh ba tiếng trống dài. Tám thanh niên trong đội đô tùy chia làm hai, đứng hai bên áo quan đã cúi lom khom sẵn sàng. Tiếng trống thứ ba vừa dứt, cùng với tiếng hô Lên nào! Chiếc áo quan được nâng bật dậy. Đầu nâng cao ra trước. Tám thanh niên trai tráng mà phải bặm môi, vì những tấm dổi chắc quá, dày quá. Đám này áo nặng hơn người. Theo những bước chân sâu đo, chiếc áo quan lừ lừ trôi trên những mái đầu quấn khăn trắng xoá, nối nhau ngồi phủ phục. Cụ Cố đang đi trên cái cầu cuối cùng của tình máu mủ nơi trần thế để sang thế giới bên kia.
Tiếng kèn, tiếng nhị, tiếng trống cùng âm vang, rít xé lên nức nở. Khóc như ri. Người vòng trong vòng ngoài đầy sân, đầy vườn. Linh cửu đi tới đâu, cuốn theo những người chít khăn trắng trôi đi đến đấy. Ở nhà lúc này chỉ còn những người hàng xóm đến giúp việc bếp núc. Đào văn Quàng, em ruột lão Quềnh (tức là Đào văn Quang) người nhỏ thó, trông lụt cụt và khôn ngoan như con cò lửa. Quàng đi cùng ban quản trị hợp tác xã đến viếng từ trước đoàn của Thủ, giờ chưa biết tính nên ở hay nên về. Đang đứng lớ xớ bên đầu hồi nhà bếp, bỗng Quàng thấy một chiếc còng lợn chưa luộc, trắng hếu, không chân không cánh mà từ trong nhà bếp bay vọt qua cửa sổ, rơi đánh xàoxuống gốc cây hồng xiêm ở sát bờ dậu. Chắc chắn chỉ lát nứa là chiếc giò sẽ vượt biên sang nhà chủ bên kia. Và Quàng nghe đúng là có tiếng nhai xôi nhí nhóp trong bếp. Cái miệng phễu dầu của Quàng đang mủm mỉm cưới túm tó, thì bỗng có người kéo tay Quàng, vừa nói vừa thở :
- Bác Quàng, bác Quềnh đang gay quá, có khi nguy mất! Vâng, bác Quềnh đang ở nhà em, bác về ngay đi.
Đó là vợ Ích, người đã thuê lão Quềnh đào đá ong sáng nay. Vợ chồng Ích đang tích cóp chuẩn bị làm nhà. Khi phát hiện ra vỉa đá ong ở đồi ông Bụt, Ích lập tức chiếm giữ khai thác ngay. Ở vùng này nhiều người đã khui được những mạch đá ong ăn chìm dưới đất rất kỳ lạ. Đá ong cấu kiện thành từng viên rời, to bằng những viên đá tảng kê cột nhà, vuông vắn như đẽo, xếp liền nhau tầng tầng lớp lớp. Có người bảo thời nhà Mạc đã có thời kỳ định lập căn cứ địa ở đây. Vật liệu đã tập kết kha khá. Nhưng rồi đêm nằm chiêm bao thấy động, sáng dậy lại thấy gà mái gáy ke ke, thế là cha con bỏ của chạy lấy người, kéo nhau lên mãi Cao Bằng. Thành ra những vỉa đá ong này bây giờ ai vớ được làm móng nhà thì tuyệt vời.
Sáng nay khi lão Quềnh vác mai đến, thì Ích đang ngồi chờ bên rổ khoai luộc. Tiếng là nhà có đồng ra đồng vào, nhưng vợ chồng Ích có thói quen không bao giờ ăn sáng. Ngủ dậy chỉ có củ khoai củ sắn nhì nhằng rồi đi làm.
- Ta lót dạ tạm, rồi trưa ăn cơm một thể bác ạ!
Ích cười xoa xoa bảo lão Quềnh. Quềnh gật, với lão thì thế nào cũng xong. Cả việc trả công thế nào cũng được. Vì thế ai cũng thích mướn Quềnh. ăn khoai xong, đi làm. Lão Quềnh đánh xà beng chan chát như một cái máy đào. Đá tóe lửa khét lẹt. Vợ chồng Ích chỉ lăng xăng chạy ngoài. Đến trưa đá ong đã xếp một đống cao ngất. Nghỉ tay đến bữa Ích với lão Quềnh ngồi riêng. Một cút rượu tăm với nửa cân thịt trâu. Đưa cay xong, lão Quềnh diệt gọn một nồi ba cơm. Buông đũa, súc miệng xong là lão đi làm ngay tắp lự, cần mẫn đến hơn cả chủ nhà. Lão lại thủ mai thình thịch như một cái máy khoan, rồi lão gánh gấp rưỡi vợ chồng Ích, như một con lừa thồ. Đến gánh thứ mười thì lão kêu đau bụng. Mồ hôi hột vã ra đầm đìa. Hai mắt lão tối lại. Lão định gánh một chuyến nữa, thì hai chân lảo đảo, rồi ngã vật ra. Vợ chồng Ích cuống quít lên, chạy gọi thêm một ông hàng xóm nữa. Khi cả ba người cõng được Quềnh về nhà Ích, thì lão đã mê man gần đất xa trời. Trong khi vợ Ích đi gọi Quàng, thì Ích và ông hàng xóm vội vã cõng Quềnh lên trạm xá.
Vừa trông thấy Quàng từ xa, Ích đã lao bổ ra với bộ mặt vô cùng hốt hoảng :
- Chết đứt rồi bác Quàng ơi! Làm thế nào bây giờ? Không phải tại em đâu. Em không giục gì bác ấy đâu, làm được đến đâu thì làm. Không phải tại em...
Quàng nhịu nhíu bộ mặt nhỏ thó và sắc lạnh, cũ kỹ như một đồng xu đã bỏ, gắt lên với Ích :
- Làm gì mà anh cứ rối rít tít mù lên thế! Bác ấy thế nào?
Ích vẫn nói như rên :
- Còn thế nào nữa, chết rồi! Bác ấy chết rồi!
Vừa cáng tới trạm xá, lão Quềnh liền thổ ra một đống máu, người nhũn như cây cần héo, hai tay bắt chuồn chuồn, hàm cứng lại, đôi vành tai cụp dính vào da đầu. Cánh tay gân guốc với những ngón xù xì đang chới với, đổ xuống. Lão tắt thở. Hai con mắt ngơ ngơ đờ dại mở trừng trừng như kinh ngạc, như không tin vào cái chết của chính mình.
Ích sợ quá, cứ luôn miệng rên rỉ :
- Nhà tôi không cho bác ấy ăn cái gì độc hại cả. Tôi với bác ấy cùng uống rượu, cùng ăn cơm với nhau, thế mà sao giời lại bắt tội thế này!
Y sĩ trạm trưởng hỏi nguyên do, rồi kết luận rất quả quyết: Quềnh bị vỡ dạ dày vì ăn quá no rồi làm việc nặng ngay. Quàng đứng lặng nhìn thi thể thẳng cứng của người anh khốn khổ trong bộ quần áo vá. Một luồng sóng của tình huyết thống phả vào Quàng. Mặt nóng rực. Hai vai nặng trĩu.
Luồng sóng đi dần dần xuống người, xuống chân, rồi tan ra theo tứ chi. Quàng quay lại hỏi nhỏ Ích :
- Anh lấy đá ở đồi ông Bụt à?
Ích gật đầu mà mắt thì bạc ra lo lắng, tưởng mình phạm thêm một lỗi gì. Nhưng Quàng lại lẩm bầm như nói một mình :
- Có khi ma đồi ông Bụt lại bắt bác ấy như ngày xưa. Ma vẫn nhớ mặt bác ấy!
Ích cũng như sực nhớ ra, vỗ đét vào đùi :
- Thôi chết, đúng rồi! Em quên mất! Sáng nay bác ấy bảo tối hôm qua ma đến chơi nhà bác ấy! Những hai mẹ con! Vợ chồng em lại cứ đùa: Ma mồ gì, hay bác lại vớ được món nào rồi! Đói vàng mắt ra lại còn rừng mỡ! Đúng là các ngài lên gọi bác ấy đi rồi!
Ích thở phào, lòng trút được gánh nặng.
Quàng quyết định chôn cất ông anh mình thật nhanh. Con ma keo kiệt trong người Quàng đã xui Quàng làm một việc táng tận: Hắn chôn ông anh bằng bó chiếu. Quàng, Ích, Thó và một anh hàng xóm nữa đào một cái hố ở chính đồi ông Bụt, nơi xưa nay không ai đặt mộ, vì ở đây rất nhiều mối. Nhưng Quàng bảo, thôi thì chết đâu chôn đấy. Làm thế là chiều theo ý các ngài dưới đó, để các ngài khỏi quấy quả. Bốn Người khiêng Quềnh bó trong chiếc chiếu hoa của Quàng mang đến, đi lặng lẽ trong bóng chiều chạng vạng. Tiếng trống đám cụ Cố ông Phúc phía cuối làng vẫn thì thùng vọng lên. Theo tuổi cụ Cố, lúc này mới được giờ hạ huyệt. Khi nấm mộ cụ Cố đã đắp xong, vuông thành sắc cạnh, ông trưởng phường bát âm lại chống cây gậy dán giấy đỏ, theo động tác chèo thuyền, cùng con cháu cụ Cố rồng rắn đi vòng quanh một lượt hát bài tiễn biệt cuối cùng: Bây giờ con giã biệt cha. Ì ơi... đầy nhà cháu chắt cũng là giã ông! Tiếng kèn giật lên nức nở. Lại than, lại khóc vang vang cả cánh đồng.
Trên này mộ lão Quềnh cũng đã đắp xong. Xong sớm nghỉ sớm! Ích lấy đòn đập bàm bạp mấy cái vào hai bên sườn mộ, rồi cả lũ cùn cụt kéo nhau ra về. Thó là người rút sau cùng. Thó vẫn chưa hết bàng hoàng về cái chết của lão Quềnh. Mới đêm qua mình với lão còn bá vai nhau vừa đi vừa nốc rước. Mùi mồ hôi rất nặng, mặn khét của lão vẫn như còn lởn vởn bên người Thó. Thế mà nhằng một cái. Mạng người thật chẳng là cái thá đếch gì!
Thó đốt cả nắm hương còn lại cắm lên nấm cỏ tròn như cái mũ đặt chốc giữa mộ. Chợt nghe tiếng lạo xạo, Thó quay lại nhìn thấy một người đàn bà cao, gầy, dáng lam lũ, hai gò má nhô lên sạm nắng. Một nốt ruồi rất to mọc ngay dưới đuôi con mắt như hạt đậu đen. Vai đeo chiếc tay nải màu nước dưa. Người đàn bà nhìn Thó, cặp môi khô mấp máy :
- Tôi mới quay lại chiếc lều của ông ấy thì được biết...
Thó như bừng tỉnh. Những chuyện ma mồ từ xa xưa lập tức sững dậy. Thó hốt hoảng, môi run lên lật bật :
- Chị là... Bà là...
Vừa hỏi, Thó vừa bước giật lùi. Được mấy bước, Thó quay cổ vùng chạy. Đúng là chạy như ma đuổi! Lao cả vào những bụi gai xấu hổ ngã lăn chiêng, lại vùng dậy chạy. Vừa chạy, miệng vừa A...a! A...a! như người câm hoảng loạn.
Người đàn bà đứng sững chẳng hiểu ra làm sao. Chị quay lại, cúi xuống đưa bàn tay cóc cáy bóp bóp một hòn đất trên mộ lão Quềnh. Một giọt nước mắt hiếm hoi chắt ra từ cặp mắt khô của chị rơi xuống. Đây là giọt nước mắt duy nhất rỏ trên mộ lão Quềnh! Chị khóc cho người mới gặp tình cờ chị khóc cho con, chị khóc cho mình!
Sáng nay ăn cơm xong, chị ôm cái xác lạnh cứng của đứa con trong bọc chăn lên bến xe phố huyện. Một ông lái xe khách phát hiện ra, đã lu loa lên như cháy nhà. Người ta xúm đen xúm đỏ lại. Công an đã đưa chị vào đồn. Rồi không biết nghe khuyên can thế nào mà chị đồng ý cùng các đồng chí công an đưa chôn đứa trẻ ở sườn đồi bạch đàn gần đấy. Không còn xác đứa con, thế tức là trong tay không còn vũ khí, nên chị thôi không về để móc mắt cặp vợ chồng phụ bạc kia nữa. Đi lang thang quanh quẩn với bộ mặt cô hồn, cuối cùng chị lại quay về chiếc têu đã trú tạm đêm qua, thì được nghe đám trẻ trâu kể về cái chết của lão Quềnh. Thế là chị lần tìm đến nơi, mà chính chị cũng không biết mình đến để làm gì.
Đêm ấy bà Đồ Ngật đi ăn cỗ bên kia sông về, khi qua ngã ba chợt thấy có ánh lửa lờ mờ trong lều lão Quềnh, rồi thấy loáng nhoáng đúng là bóng đàn bà, thế là ba Đồ chạy te tái đến thở ra đằng tai. Đến mấy ngày sau bà vẫn mắt tròn mắt dẹt kể ồn ĩ là bà đã hai năm rõ mười nhìn thấy con ma mặc áo cánh quần thâm, đầu tóc rũ rượi hiện lên ở lều lão Quềnh. Lại đến lúc các cô các ngài về đấy!
Nhưng lúc này chẳng ai còn hơi đâu nghe chuyện ma của bà Đồ. Có người còn nói phũ là cái nhà bà quen ăn quà như mỏ khoét này, đến hàng tháng nay mồm miệng đến mốc ra như hang cua vì phải nhịn thèm, giờ được đánh rượu vào thế là mắt nọ sọ mắt kia, nhìn người ra ma, trông gà hóa cuốc! Điều cả xóm Giếng Chùa quan tâm, bàn tán ầm lên là cái chết trăm phần trăm của lão Quềnh. Người ta cứ túm Thó và Ích để hỏi Quềnh chết thế nào, chôn cất ra sao. Trong lúc Thó kể Quềnh chết không được tắm rửa, vẫn mặc bộ quần áo đẫm mồ hôi nằm bó trong chiếu rồi buộc túm hai đầu lại; thì Ích lại ra sức giãi bày về sự vô can của gia đình mình khi thuê mướn Quềnh.
Còn Quàng thì lẩn biến như rắn mồng năm.
Hôm sau nữa dân làng lại xôn xao lên về một tin sốt dẻo: ông chủ tịch huyện đã đánh xe về gặp bí thư Thủ và chủ tịch Sửu. Xong việc, vù ngay, chứ không ở lại để nhấc lên đặt xuống như mọi khi. Ông về vì có đơn tố cáo từ Giếng Chùa gửi lên. Người đệ đơn không ký tên, mà chỉ ghi là Một nhân chứng trung thực. Người ấy kể về việc lão Quềnh bị chôn bằng bó chiếu và lên án đó là việc làm dã man trong thời buổi này, mà lại chôn dấm chôn dúi như một việc vụng trộm: Vậy thì Đảng ủy, ủy ban và ban quản trị hợp tác xã coi việc nghĩa tử là nghĩa tận của nhân dân thế nào? Sự quan tâm đối với những người cô quả ra sao? Người viết đơn nói ngân quỹ của xã không phải là nghèo. Một bữa cơm thường khi họp Đảng ủy, khi họp hội đồng nhân dân, khi tiếp mấy anh điện cao thế là có thể chôn được mấy người như lão Quềnh một cách tươm tất! (Thật là đồ xỏ xiên! Thủ lẩm bẩm, Đầy đủ tiền để chôn cả họ nhà hắn nữa đấy!) Cho nên nếu huyện không có biện pháp nghiêm khắc với những người chủ chốt ở đây, thì người viết đơn nói, sẽ tố cáo lên tỉnh, lên Trung ương, lên báo lên đài kể nhiều việc bê bối khác nữa. (Đúng là cái thư đâm bị thóc chọc bị gạo! Thủ lại lẩm bẩm).
Nhưng rõ là cái kẻ tố cáo kia đã đánh trúng huyệt ông chủ tịch huyện. Vốn là ủy viên thư ký, sau một thời gian đi học đào tạo giờ trở về với cương vị cao nhất về mặt chính quyền, bởi vậy vị tân chủ tịch rất không muốn có những việc rối ren trong khu vực mình quản lý. Chủ tịch huyện đã chỉ trích những người lãnh đạo ở xã quan liêu, tại sao xã ở gọn thế này, làng nọ sát làng kia, đầu xã tới cuối xã không quá năm cây số mà mấy anh lại không biết những gì diễn ra ở dưới dân chúng.
- Việc này sẽ phải kiểm điểm, nếu cần phải kỷ luật Đảng tay Quàng, cái thằng keo kiệt uống nước cả cắn. Còn y sĩ trạm xá thì càng ngày hắn càng đúng là một tên bạch vệ vô chính phủ! Sắp tới cô Vi đi học về chúng tôi sẽ thay - Bí thư Trịnh Bá Thủ bật y như một cái lò xo. Thủ nói tiếp với giọng rin rít :
- Còn giọng điệu cái đơn này thì tôi biết là của ai rồi. Họ mượn cái chết của ông Quềnh để đánh chúng tôi đây. Trong lúc tất cả đang đói nhao lên, thì họ làm ma ông bố đến mấy ngày. Hương khói, kèn trống, ăn uống linh đình, tốn kém bạc vạn. ý thức đảng vừa kém lại vừa hợm hĩnh khoe khoang! Chúng tôi chưa sờ đến đấy!.
- Ai thế?
Chủ tịch huyện hạ giọng khi thấy Thủ nói như muốn gây gổ với cái người vắng mặt đó.
- Tay Phúc chứ ai! Cái đơn này đích thị là của Vũ Đình Phúc! Từ hôm mất chân đảng ủy đến giờ lão ấy cứ lồng lộn lên.
Chủ tịch xã gật gù đồng tình :
- Đúng, đúng là của Vũ Đình Phúc.
Thủ bổng trở nên bình tĩnh đến mát mẻ, bởi Thủ chưa biết sự yêu ghét của đồng chí chủ tịch mới ra sao. Chỉ nghe nói đồng chí ấy là người mềm mỏng, không thích những gì quá khích. Thủ hạ giọng :
- Đấy là những người cùng cánh với Vũ Đình Phúc. Hoặc là có họ hàng, hoặc là đã được ông Phúc bao che dạo ông ấy làm chủ nhiệm. Sau khi trượt Đảng ủy, những người phe cánh của ông Phúc đã đi vận động ráo riết để ông ấy trúng hội đông nhân dân. Hôm bầu hội đồng, cả họ hàng nhà ông ấy cứ sùng sục như muốn ăn tươi nuốt sống ai! Chả là họ nhà ông ấy to vẫn quen cái thói lấy thịt đè người! Chúng tôi biết một số người trong hội đồng cứ khăng khăng bầu ông ấy làm phó chủ tịch là vì đã bị họ hàng nhà ông ấy mua chuộc. Vì thế để tránh bè phái, tránh mất đoàn kết nội bộ thường vụ chúng tôi kiên quyết chỉ để ông ấy làm trưởng ban kiểm soát. Các đồng chí ở trên ấy hãy ủng hộ chúng tôi. Đồng chí mới về chưa hiểu hết cơ sở, chứ bác Luân bí thư và các anh trong thường vụ trên ấy chẳng còn lạ gì nhân sự dưới này.
Chủ tịch huyện rít một hơi thuốc, giọng khảo khảo :
- Chúng tôi có nhận được đơn khiếu nại của ông Phúc về việc phân công này. Ông ấy có đề nghị được gặp anh Luân và tôi, nhưng chúng tôi chưa bố trí được. Tôi mới về chưa hiểu hết, nhưng thấy xã này từ sau đại hội Đảng bộ và bầu hội đồng nhân dân lại đâm ra rắc rối quá. Nhưng thôi, việc ấy bàn sau. Giờ phải tìm cách dẹp cho yên cái pha này đã.
Thế rồi sau một hồi bàn bạc. ba người đã đi đến một quyết định dữ dội như sau: Xã chi tiền mua một bộ áo quan để chôn cất lại cho lão Quềnh? Thủ nói phải kiên quyết thế mới bịt được những cái mồm xấu hay xúc xiểm. Vậy thì lão Quềnh được ưu đãi hay lão phải chết hai lần? Chôn xuống rồi lại moi lên là điều xưa nay người ta cấm kỵ. Nhưng lão Quềnh ơi! Đã được nằm trong bộ áo quan, nghĩa là được chết bình dẳng như những cái chết khác, lão phải vui lòng nhận thêm một sự vất vả khi đã nhắm mắt xuôi tay. Nghĩa là lão phải hy sinh một lần nữa để cứu danh dự cho những người khác đấy! Sứ mệnh của lão thế mà to! Thôi thì đại xá cho cái sự khôn ngoan của người đời, lão Quềnh à!
Xã đã nói là xã làm. ủy ban thuê mấy anh thợ đấu mỗi người ba ngàn, tương đương với bốn cân gạo để làm cái việc mà sau này dân làng gọi là đội cảm tử: Moi xác lão Quềnh lên rồi chôn lại. Thó cũng được cánh thợ đấu vời vào ban tang lễ kỳ dị này.
Đảng viên Đào Văn Quang, tức Quàng hiện giờ bị bí thư gọi đến xạc một trận tơi bời về hành động bạc đãi người ruột thịt của mình. Quàng sụt sịt nhận khuyết điểm và xin được lo an táng lại cho Quềnh, nhưng Thủ gạt phắt :
- Thôi thôi xin đủ! Chúng tôi không cần đến cái thứ hối hận của anh! Để anh bỏ tiền ra, rồi bọn xấu bụng kia lại làm đơn kiện chúng tôi à! Bây giờ việc của anh là bàn với mấy ông thợ đấu lo sao cho tốt. Đừng để chúng tôi phải gọi anh lên lần nữa đấy!
Quàng lủi thủi về, bàn với Thó và cánh thợ đấu rằng để tránh ồn ào, tránh sự nhòm ngó bép xép của đám trẻ con, tránh phải đèn đóm ban đêm, đội cảm tử sẽ thực thi nhiệm vụ vào sáng sớm.
Vì thế bước sang ngày thứ tư kể từ hôm lão Quềnh chết, trời còn nhập nhòa tranh tối tranh sáng, bốn người đã khiêng chiếc quan tài màu đỏ cùng với Quàng đi cun cút như nhạy ra đồi ông Bụt. Rồi san, rồi bới. Đến khi hở chiếu bốn người cùng dừng tay nhìn nhau. Ông thợ đấu cao tuổi nhất quyết định :
- Bác Quàng xuống đi, buộc dây vào hai đầu chiếu, chúng tôi ở trên này kéo lên.
Khi cái bọc chiếu từ từ được lôi lên, một luồng khí lạnh cùng với một thứ mùi khăm khẳm của tử khí mà chỉ cần ngửi thấy một lần cũng đủ kinh sợ hàng năm trời, từ dưới lòng hố phả lên, khiến tất cả cùng rùng mình ớn lạnh. Ông thợ đấu cao tuổi nói lầm bầm như khấn :
- Tạ vong linh bác Quềnh, sinh có nhà, tử có mồ. Hôm nay chúng tôi sửa sang lại chỗ ở cho bác đây. Bác sống hiền thác lành, phù hộ độ trì cho anh em liền khúc ruột, cho hàng xóm láng giềng chúng tôi.
Rồi cái bọc chiếu âm ẩm như thấm nước được mở ra, một làn hơi mỏng như khói bay lên, mọi người cùng kêu ôi trời!. Thó bỗng run bắn lên, chân tay lẩy bẩy, hai hàm răng khua vào nhau cầm cập. Mắt Thó cứ tối lại trước cảnh toàn thân lão Quềnh trương phình lên, nước thấm ra dấp dính như cá ướp; mặt như phù thũng, to và phùng phịu như đọng đầy nước. Đến khi đặt Quềnh vào áo quan, mấy ông thợ đấu phải vừa ấn vừa ép người Quềnh uốn cho vừa, làm bật ra những tiếng lóp bọp, thì Thó xây xẩm mặt mày, ruột gan cuộn lên thốc tháo. Thó ôm lấy nghe ho rũ rượi.
Hàng tuần sau nghĩ lại việc này, Thó vẫn sởn da gà.
Xem tiếp Bốn
----------------- Bài viết của đc ghép lại-----------------------
Bốn
Làng Giếng Chùa lại rộ lên bàn tán về việc chôn lại lão Quềnh. Dạo này đói bụng, nhưng đến là nhiều chuyện để bàn! Nhiều lúc quên cả những cơn réo trong dạ dày! Bà con khen người nào đó đã kịp thời tố cáo lên huyện để ngăn chặn những hành động bạc đãi với những người cô quả, vì làng này còn đến dăm hộ đơn côi không nơi nương tựa. Trong số ấy có cả cha mẹ của liệt sĩ sống rất vất vả. Mỗi suất liệt sĩ được 632 đồng một tháng, nhưng lại lĩnh theo quý. Còn số thóc mua giá điều hòa theo chính sách ưu tiên, thì làng này chỉ có nhà ông Bỉnh là được mua đầy đủ, vì ông có thế ở anh con cả hiện là trưởng ban tổ chức huyện ủy. Mấy dân cán bộ cấp trên về thăm những gia đình có con liệt sĩ nhân ngày 27 tháng 7, xã cũng chỉ đưa đến nhà ông Bỉnh, vì ở đấy nhà cửa khang trang, còn những gia đình liệt sĩ khác đã túng bấn quá, lại thóc ưu tiên cũng bị cắt đầu cắt đuôi, nên những ông bà ấy hay nói ngang cành bứa với xã, bởi vậy chả bao giờ được rước chân cán bộ. Thôi thì sạch sẽ khoe ra, bươi ba đậy lại cũng phải, chứ xấu mặt xã thì thật hổ lòng dân!
Ấy thế mà bây giờ huyện lại biết đến cả cái việc chết của lão Quềnh, xã cũng cuống lên vì cái chết của lão Quềnh, kể cũng khoái đấy chứ! Nghe mọi người bình phẩm, cười hí há với nhau như vậy, ông Hàm chỉ lẳng lặng tảng lờ vẫn bào soạn soạt trên tấm gỗ kháo. Những phoi bào tròn loăn xoăn như những cái bánh phồng tôm rán giòn bắn ra lả tả. Câu chuyện của mọi người khiến ông Hàm sôi máu lên. Ông chính là Trịnh Bá Hàm, trưởng chi họ Trịnh Bá, chi họ đang lên ở vùng này. Bí thư Đảng ủy Trịnh Bá Thủ là em ruột ông.
Ông Hàm bào, mắt vẫn nhìn chăm chú mà lại không thấy gì. Tai nghe, óc nghĩ, tay chỉ miết bào một cách bản năng, khiến cái vai giường ông đang bào vì ấn mạnh quá, lõm vào một đường mà ông không biết. Đến khi sực tỉnh thì đã quá đà. Cái vai giường gỗ kháo vàng au như tấm vải tơ tằm bị lẹm vào một đường, trông tức mắt như anh thợ vụng ăn cắp!
Ông Hàm vứt bào đứng dậy, tập tễnh đi lên nhà. Vì một chân của ông bị co gân từ bé, nên dân làng cũng gọi ngay từ nhỏ là Hàm thọt, Hàm chấm phẩy. Những kẻ ác ý thì gọi là hùm thọt. Vì giống họ của ông Hàm thờ Hổ. Tô tiên của họ Trịnh Bá là một ông ba mươi nhe nanh múa vuốt trong những bức vẽ rất tỉ mỉ đặt chính giữa bàn thờ. Tại sao gốc đạo Phật, mà dòng họ ông lại thờ Hổ? Đó là cả một câu chuyện bi tráng mang nhiều chất thần thoại!
Ông Hàm lên nhà trên mở toang cửa, rồi gọi với giọng rất sang :
- Nước sôi chưa Hoa?
Một tiếng dạ từ dưới bếp, rồi đứa con gái út hơn mười tuổi bỏ dở bài đang học, xách siêu nước lửa vẫn còn cháy nhấp nháy quanh ấm nhôm đi lên. Con bé tráng ấm, pha trà, khéo léo và thành thạo như người lớn, bởi nó đã được huấn luyện để phục vụ ông bố ghê gớm. Khác với ông, người lúc nào cũng lừ khừ, lúc nào cũng cau cau, mấy đứa con đều giống mẹ, mặt mũi tươi bưởi sáng láng. Chả thế mà ngày ông mới lấy vợ, những kẻ ghen ăn ghét ở đã xui trẻ con hát đố nhau: Vợ thì tươi tắn như hoa, chồng thì nhăn nhó chẳng ma nào nhìn! Đó là cái gì? Là mặt trăng mặt trời. Không phải! Là anh Hàm chị Son!
Cái Hoa rót một chén nước để trước mặt bố, rồi đi kiểu nhảy dây xuống nhà dưới. Mùi trà ướp hoa ngâu tỏa lên thơm mát. Ông Hàm co hai bàn chân đi đất ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế sa lông rất to đóng bằng gỗ lát chun bóng nhoáng, vần vũ những đường vân như tranh sơn mài. So với những đồ đạc giường tủ bàn ghế vàng rực cả bốn gian nhà mái bằng quét ve xanh, thì ông chủ với bộ quần áo xanh tàu tàu xoàng xĩnh kia chỉ đáng mặt anh ăn đợ ở nhờ. Nhưng ông Hàm lại ngầm thích thú về điều ấy. Bởi hãy nhìn đồ đạc toàn một thú kiểu mới, chứ tịnh không có đồ cổ, thế nghĩa là nhà này mới mọc mũi sủi tăm lên thôi, chứ đời ông bà cha mẹ xưa không để lại được thứ gì đáng giá. Điều ấy chứng tỏ một tay ông Hàm dựng lên tất cả. Nên ông cứ ngồi xếp bằng, rung đùi tự thưởng, cứ việc tha cả đất cát lên mặt ghế bóng như gương, cứ việc xì bã điếu ra nền gạch men, rồi vợ con ông phải quét, phải lau bởi ông đã đẻ ra tất cả cái cơ đồ này. Ông tuy xấu mã, người lùn và to ngang, đó là dáng điệu của gấu. Chân tay ngắn, mặt ngắn, trán cũng ngắn choằn. Cái tài ẩn vào trong, khi cần mới ló ra ngoài. Như đôi tay ông, với những ngón to đầu tù thô tháp, nhưng đấy là đôi tay vàng. Hoa tay là cái thần của tứ chi, mắt mũi trần tục đâu dễ nhìn thấy. Ông chỉ học nghề mộc qua quít, mà đã tay tràng tay đục đi ăn cơm khắp bàn dân thiên hạ từ thời trai trẻ. Bây giờ ông chỉ ngồi nhà, nhưng quanh năm không hết việc Nào là giường mô-đéc, tủ buýp-phê, tủ lệch đến sa-lông chân quỳ. Thời này người ta đua nhau sắm đồ đạc như lây lan một cơn sốt. Đói cũng vẫn bóp bụng sắm. Đói mà được ngồi sa-lông gỗ lát cũng vẫn vênh vang. Khách đến làm sao biết được trong bụng chủ nhà chứa những gì. Rau lang, sắn mốc hay cơm tám giò chả đã qua khỏi cửa miệng thì cũng là nhập khẩu vô tang, có giời dân! Con công hơn con quạ cũng là ở bộ lông, chứ vặt trụi đi thì ông quyền cao cũng giống ông nhọ đít! Có quyền lo ô, lo ghế; dân chạy lo gỗ sắm đồ! Càng sắm ông Hàm càng trúng mánh. Cứ nhẩn nha túc tắc mà mỗi năm thu ngót tấn thóc, ngon như chén óc chó! Bằng mấy anh theo đuôi trâu ngoài đồng.
Ông Hàm rít lạch sạch một hơi điếu bát, rồi ngửa cổ lim dim nhả khói. Một nửa người ông chìm trong màn mây thuốc. Chỉ thấy mái đầu muối tiêu khẽ gật gù bập bềnh trong khói mờ. Mồi thuốc làm ông Hàm tê mê bần thần cả chân tay đầu óc. Ông ngồi tĩnh tâm. Mắt lơ mơ óc lơ mơ. Làn khói bay lởn vởn bỗng đưa trí não ông Hàm trôi ngược về buổi tối cách đây hơn 30 năm trước khi ông Trịnh Bá Hoành từ giã cõi đời. Lúc ấy chỉ duy nhất người con giai trưởng Trịnh Bá Hàm được đứng bên cạnh giường để nghe bố dặn dò. Bằng một giọng lào phào nhưng rất tỉnh, ông Trịnh Bá Hoành dặn Hàm sống ở làng này phải biết bố con Đại - Phúc là người không thể di chung đường, ngồi chung chiếu. Không bao giờ nó muốn ta ngóc đầu lên được.
Ông Hoành nói hồi năm 1949 giặc Pháp định mở một cuộc càn mà chúng nói là càn theo chiến thuật gọng kìm, chiến thuật càng cua lên đây. Một cánh quân sẽ từ Sơn Cốt tràn sang, một cánh sẽ từ Đáp cầu đánh lại. Hai gọng kìm, hai càng cua sẽ khép lại, hội quân ở quanh vùng này. Thế là cả làng bỏ chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Nhưng rồi cuộc càn của giặc không thành. Ông Trịnh Bá Hoành từ vùng núi Phúc Thuận vội vã chạy về, thì đã thấy bố con Đại - Phúc ở nhà rồi. Dạo ấy Phúc là du kích xã phải ở lại đã dành nhưng còn lão Đại. Ai khiến cái mặt lão mà lão đã mò về sớm thế! Thấy cửa nhà mình mất dấu ông Hoành mở ra nhìn đồ đạc còn nguyên, nhưng nói có vía ngài chứng giám, bức tranh Hổ thần của họ nhà Trịnh Bá treo chính giữa bàn thờ không biết thằng giời đánh thánh vật nào đã chọc thủng cả hai mắt, rồi lấy than vạch chéo một dấu thập đen xì giữa đầu ngài. Thế này là nó bôi gio trát trấu vào tổ tiên nhà Trịnh Bá đây! Mà không thể là trẻ con được. Cách chọc, cách vạch than này, nhìn đường nét phũ phàng căm tức lắm. Thì còn ai vào đây nữa. Cái kiểu thù để cho động vào tận thủy tổ gia tộc thế này, hỏi rằng không phải là nó thì còn là ai! Có khi nó còn yểm bùa nữa đây.
Ngay tuần ấy Trịnh Bá Hoành phải đi thửa một bức tranh khác, mà họa lên một tấm vải gai cho chắc chắn. Ông thợ vẽ truyền thần trên phố huyện không lấy tiền, mà đòi đến hai nồi thóc, vị chi là hơn nửa tạ. Có tranh rồi, lại lo sửa lễ. Phải có đủ xôi nếp, thủ lợn, gà trống luộc cả con không chặt và một con cá chép to rán vàng để chờm cả đĩa tây, rồi mời cô thống Biệu đến cúng, xin đủ âm dương ngũ hành và thưa báo cho ngài biết rõ sự tình tại sao phải tái họa lại chân dung ngài, xong đâu đấy rồi mới được treo lên. Thành ra tốn kém không khác gì giặc càn đến nhà! Thì chính nó là giặc, là thù của họ nhà ông chứ còn gì nữa!
- Ở đời hòn bấc ném đi, thì hòn chì ném lại - Trịnh Bá Hoành nói như thầm thì, nhưng cặp mắt quăm quắm nhìn Hàm thì sáng lên lạ thường, thứ ánh sáng của ngọn đèn sắp phụt tắt - Có vay phải có trả. Nó đã dám bạo nghịch dẫm đạp lên cả gia bảo nhà ta, thầy ân hận là chưa đòi cái món nợ ấy được vì chưa gặp dịp. Đến đời anh, anh phải nhớ! Chuyện thằng Phúc với con Son vợ anh dạo trước, thầy biết cả! Tha thứ cho vợ là phải. Đấng nam nhi có khi còn lấy ** về làm vợ để dạy, nhưng không được lấy vợ làm **! Anh chỉ được phép tha riêng vợ anh thôi! Làm thằng đàn ông không được hèn! Chấp vặt là tiểu nhân, nhưng cái gì cũng bỏ qua thì lại là người hèn! Có mấy cách làm thầy đã nói kỹ, để ở dưới đáy tráp.
Rồi từ đấy cho tới nửa đêm, ông Trịnh Bá Hoành cứ nằm quay mặt vào tường không nói lời nào nữa. Ông đi, ai cũng bảo là thanh thản. Chỉ riêng Hàm biết bố mình vẫn nuốt một cục uất ức trong người! Tiếng hót của con chim trước khi chết là tiếng hót hay, lời dặn dò của người trước khi chết là lời thiêng, lời độc!
Làm ma bố xong, Hàm vào buồng đóng cửa, mở cái tráp khóa chuông, cái tráp bằng gỗ nghiến nhỏ như cái hòm của ông thợ cạo chỉ có một chìa, và trong nhà chỉ có một người được mở. Dưới những tờ văn tự về đồng điền và thổ cư từ hai đời nay, là một quyển vở giấy giang xếp dưới cùng, loại vở học trò. Với những chữ quốc ngữ rất to trông cứ nghều ngoáo run rẩy như người vờ đánh vần vừa viết. Nhưng cái điều nói qua những nét chữ bấy bớt ấy thì đọc đến đâu, Hàm lạnh toát người đến đấy!
Đọc xong, Hàm ngồi lặng người một lúc lâu rồi lại run run xếp quyển vở dưới đáy tráp, khóa lại, cất vào gốc cái hòm cáng như cất một quả mìn!
Thì bây giờ đến lúc ông dùng quả mìn ấy rồi! Chỉ có cách này mới trị được thằng cha Phúc hay hợm của hợm người. Hàm biết Phúc vẫn nhìn mình bằng con mắt coi thường. Coi thường cả hình dáng lẫn địa vị trong thôn, trong xã. Thì phen này ông sẽ cho cả họ nhà mày ăn bùn ăn bùn! Quyết thế rồi, ngay chập tối ông Hàm đến nhà Thủ. Cũng bốn gian nhà mái bằng như nhà Hàm nhưng trên bờ tường trước cửa, đồng chí bí thư Đảng ủy cho đắp nổi một cây dừa trĩu quả. Trên ngọn chim bay dưới gốc cá lội. Con nào con ấy béo nần như đang chửa. Tất cả đêu tô đậm sơn màu xanh đỏ tím vàng, rực rỡ như cái phông của hiệu ảnh trên phố huyện. Nhà trên ở giữa, nhà ngang nhà bếp hai bên lợp ngói ta, trước cửa là vườn cây ăn quả xung quanh trồng găng làm bờ rào tất cả toát lên ve phồn thực và viên mãn.
Vợ con Thủ đang nấu cơm, thấy Hàm, đều chào lễ phép :
- Bác sang chơi ạ.
Hàm chỉ khẽ ờ, rồi tập tễnh bước lên nhà trên. Dù là anh em ruột, Hàm cũng giữ lề luật không bao giờ vào nhà bếp. Không nói giỗ tết, ngay ngày thường anh em giúp nhau làm gì, đến bữa cũng chỉ có đàn ông ngồi với nhau ở nhà trên.
- Bác ở đây chơi, em nấu cơm bác - Vợ Thủ người sồ sề, mặt rỗ hoa chứ không được mỏng mày hay hạt như bà Son, nhưng được cái sởi lởi, lên nhà mời.
Ông Hàm xua tay :
- Thôi tôi gặp chú ấy một tý, rồi về ngay có việc.
Khác với ông Hàm, Thủ là người có mã, cao ráo trắng trẻo. Với bộ quần áo pi-gia-ma kẻ sọc như công chức. Thủ đang tưới cây ngoài vườn, đã bỏ ô-roa đi vào. Thấy Hàm đang giở ngày giở tối thế này, Thủ biết là có việc cần. Mặc dù là bí thư quyền hành cao nhất xã, lại được học hành khá chu đáo từ bé, chứ không bị thiệt thòi như hai ông anh là Hàm và Long. Ông Long bây giờ làm công nhân trên khu gang thép cũng chỉ học hành chữ tác chữ tộ; vì khi Hàm và Long vừa lớn thì gặp ngay cái đận ông Trịnh Bá Hoành bán cả ruộng vườn để lao vào cuộc đen đỏ tranh giành cái chức lý trưởng với Vũ Đình Đại. Thật là một phen liểng xiểng. Vài năm sau gia đình mới hồi lực, có bát ăn bát để thì vừa lúc Thủ tới tuổi cắp sách đến trường. Thế là Thủ cứ đường quang lối rộng mà tiến. Dầu vậy chưa bao giờ Thủ dám trái lời ông anh cả. Người trưởng họ có một thứ quyền lực riêng. Không chỉ là trong gia đình ngay công việc của Thủ, Hàm cũng giữ vai trò cố vấn đặc biệt. Hôm đại hội Đảng bộ, các chi họ hồi hộp đến thắt tim khi đến mục bầu Đảng ủy mới. Rất nhiều không có chức trách gì cũng thập thò lảng vảng đến săn tin. Phải bầu đến vòng ba, tối mịt mới xong. Thủ vừa về đến nhà đã thấy ông Hàm ngồi chờ.
- Chú cao phiếu nhất phải không?
Ông Hàm hỏi thế, tức là chúc mừng đấy, nhưng mặt vẫn lạnh như tiền.
Ông nói tiếp :
- Lại đúng dịp ông Đáng về hưu đợt này, vậy chú phải thay chân ông ấy giữ ngay lấy cái triện đỏ, tức rằng là phải làm bí thư. Chứ còn chủ tịch cũng chỉ là thứ triện xanh! Thằng Tùng nhà Sang cũng trúng hả? Chỉ cho nó chân chạy ngoài, hữu danh vô thực thôi!
Lúc ấy Thủ đang đầy phấn chấn vì đắc cử, đến mức không còn thấy ai là đối kháng với mình, nên lòng dạ bỗng thành dễ dãi. Với lại Thủ vốn thuộc dạng người cải lương, dễ bằng lòng và dễ chấp nhận.
- Thực ra thằng Tùng cũng được chứ không đến nỗi nào đâu. Nó còn chất lính bộc trực thẳng thắn, với công việc thi xốc vác
Ông Hàm nghiêm ngay mặt, kịp thời nhắc nhở Thủ đang nói khôn nói dại những gì :
- Được là được thế nào! Rau nào sâu ấy! Hãy giao cờ vào tay nó xem, gai ngạnh sẽ mọc ra ngay!
Gáo nước lạnh của Hàm đã làm Thủ tỉnh cơn say, và Tùng đã được phê chuẩn làm xã đội trưởng ngày sau đấy, chứ không phải chờ đến tuần sau họp Đảng ủy mới phân công, để mỗi năm cho nó dẫn đám thanh niên ra đôi nằm chổng mông lên mà nheo mắt bóp cò khan vào mấy cái bia giấy!
Hôm nay ông cố vấn sẽ chỉ thị gì đây! Thủ rửa chân tay đàng hoàng rồi mới vào nhà. Hàm hỏi ngay :
- Chú định thế nào về cái việc ấy?
Vừa hạ giọng vào chuyện, Hàm vừa thu hai bàn chân ngắn và to bè lên đi-văng. Thủ tráng ấm pha trà, cũng nói nhỏ để hai anh em vừa đủ nghe :
- Em cũng chưa định. Theo bác nên thế nào?
- Chả nhẽ chịu thua nó à?
Hàm tự rót nước ra chiếc chén hạt mít, hỏi thủng thẳng. Đó là cách nói chuyện riêng với nhau của hai anh em nhà này. Họ thường nói nửa vời, mù mờ rời rạc như vậy. Nếu có ai nghe được cũng chịu chết không hiểu họ nói gì, ám chỉ ai. Nhưng với Thủ thì anh biết ngay cái việc ấy và nó ở đây là chỉ ông Phúc và cái việc kiện cáo của ông ta khiến xã phải chôn lại lão Quềnh. Phúc đã thắng 1 - 0! Cứ đà này Phúc còn dở dói những gì nữa?
- Tôi đã nghĩ ra cách rồi - Hàm chiêu từng ngụm nước nhỏ như nhắp rượu, rồi vẫn với giọng nhát một, ông công bố kế hoạch phản công :
- Lấy độc trị độc, mỡ nó rán nó! Lại dùng ngay cách lão Phúc đã bắt các chú chôn đi chôn lại lão Quềnh - Tức rằng là... đào mộ?
Thủ quay sang sửng sốt. Bởi ở đây dạo đã lâu có hai nhà thù nhau, bên nhà yếu lực không đủ sức đánh lại đã dùng cách khủng khiếp này.
Hàm vẫn thủng thẳng :
- Có gì mà chú đã tái mào lên như thế! Nó muốn cưa đốt đục suốt, thì sẽ được người ta đục thẳng vào cây nóc nhà nó! Đây là dịp tốt để lấy âm trị dương. Phen này tôi sẽ yểm cho cả họ nhà nó không ngóc lên được! Đào lên, lấy ván, lật sấp bố nó xuống! Còn cỗ ván dổi tôi sẽ đóng một bộ sa-lông thật mốt, rồi tìm cách bán cho chính anh em họ hàng nhà nó!
Thủ đã thấy ớn khắp người, ngập ngừng :
- Nhưng mà...
Hàm biết thóp ngay ông em chỉ được cái võ mồm, quen phòng xa giữ gìn, mà cũng là phòng cho mỗi cái thân hắn thôi! Hàm càng hạ giọng tới mức lào thào :
- Ngày thầy mất, chú với chú Long còn chưa nghĩ được đến đầu đến đũa, nên thầy chỉ dặn riêng tôi...
Rồi ông Hàm trang nghiêm kể với giọng rin rít về bức tranh thờ Hổ thần của nhà ông bị chọc mắt, bị bôi bẩn và những lời chỉ dẫn của ông bố trong quyển vở giấy giang về cách lấy âm trị dương thế nào, rồi để tránh phản hồi trở lại thì trước khi hạ cuốc phải đọc bài tạ thần ra sao. Thủ ngồi cứng người, tay cầm chén nước mà quên cả uống.
- Có hai thời điểm để lấy âm trị dương - Hàm vẫn nói thầm thì - Lúc vừa chôn xong và lúc được ngày cải táng. Nhưng chờ đến cải táng thì lâu quá, với lại nghi thức lúc ấy rườm rà lắm, phải lấy đến bảy đốt xương mang ra sông tạ thần, rồi đóng bè chuối, đưa bảy đốt xương lên đó thả trôi sông. Mất đến cả đêm, dễ lộ. Cho nên thời điểm này là tốt nhất. Làm xong lại đắp điếm như cũ đố biết! Chú khỏi lo. Không ai bắt chú phải mó tay vào. Chỉ cần tôi với thằng Ưởng, thằng Ngạc, tí nữa chú nhắn thằng Thó đến tôi là được. Trong việc này phải có một người ở ngoài họ mới đại an. Thì chọn thằng Thó là tốt nhất.
Thủ càng bứt rứt không yên :
- Liệu thằng Thó nó có chịu không? Hôm trước đám ông Quềnh, nghe nói nó đã mửa ra mật xanh mật vàng.
Hàm vẫn cứng như thép :
- Chú cứ nhắn nó đến gặp tôi. Tôi sẽ có cách dọa để nó phải nghe. Cái đêm lão Phúc cầu hồn cho bố, thằng Thó đã lỉnh vào bếp nẫng cả hủ rượu tăm ra đường uống, rồi say bò lê bắt sải ở vườn ổi nhà bà Đồ Ngật. Cái hũ ấy đang ở nhà tôi! Tôi chỉ dọa là lão Phúc nó sắp trả thù là thằng Thó sợ thọt *** lên cổ! Muốn an thân phải có chỗ dựa, thì hỏi còn dựa đâu vững bằng dựa vào ta!
Thủ chỉ còn biết ngồi ngay tán tàn nghe ông anh giảng giải. Ông ấy suốt ngày đục đẽo ở nhà, mà sao chuyện gì cũng biết. Lại đưa được cả cái hũ; tang vật ăn vụng không biết chùi miệng của Thó vào tận nhà mình, thì thật là chịu ông anh ma xó! Thủ cũng muốn trừng phạt Phúc, cũng muốn cho Phúc xiêu điêu liểng xiểng, nhưng người ra tay phải là ai kia chứ không thể là mình. Mình chỉ đóng vai tọa sơn quan hổ đấu mới sướng! Bây giờ ông Hàm xin lĩnh trách nhiệm, thực ra cũng chưa phải là hay, giá là người không dây mơ rễ má gì với mình thì tốt, nhưng kiếm đâu ra. Thôi cũng dược, có gì Thủ cũng đủ lý là người tay trắng! Ông Hàm không cần biết những nghĩ ngợi vân vi trong óc Thủ, ông đứng dậy, coi như việc đã bàn xong, dặn thêm :
- Chú nhắn ngay thằng Thó đến nhà tôi, làm như vẫn nhờ nó đi áp tải gỗ chứ mình lại đằng ấy không tiện. Để tối mai là làm luôn!
Thủ chỉ còn biết nhắc lại như cái máy :
- Ngay tối mai à?
Hàm buông một câu lạnh gáy :
- Cho nó đỡ nặng mùi!
Xem tiếp Năm
Last edited by Memory; 09-08-2008 at 08:58 PM.
Lý do: Hệ thống tự ghép bài chống spam
Nhận được lời nhắn, Thó sắng sẻ đến nhà ông Hàm ngay.
Chắc ông lại nhờ đi áp tải gỗ ghiếc gì đây. Ông Hàm có cậu con trai thứ khỏe mạnh, không biết bằng cách nào mà chưa hết hạn nghĩa vụ đã ra quân, rồi nhảy tót đi lao động nước ngoài, thành thử bây giờ ở nhà còn rặt đàn bà con gái, nên ông vẫn hay nhờ Thó đi áp tải gỗ về đóng đồ. Tiếng là hay ma lem ma cuội, nhưng thực tình Thó chỉ thuổng những miếng chín, chén ngay; chứ làm ăn lớn thì Thó sợ. Với lại được người như ông Hàm tin, trước khi đi bao giờ cũng lót miệng vài choạc cho ấm bụng, khi về lại cùng ông cuộn chân ngồi xếp bằng trên chiếu hoa cơm rượu bí tỉ, thế là Thó khoái. Còn ông Hàm thì thật tinh đời, vì ngoài những miếng ăn ngay, ông không phải trả một đồng công nào.
Thó đi tắt qua khu đầm nước cho nhanh. Đã tối sò sẫm. Xóm làng trở về tịch mịch. Một con bò gọi con, tiếng âm ồ của nó vang trong bóng chiều chạng vạng. Con bê be lên nũng nịu, rồi tế chạy, nện móng lốc cốc ròn rã trên những viên gạch vồ như ném một tràng mưa đá. Bầy liếu điếu giật mình, kêu thé lên trong bụi tre. Ở dưới ấy, chân các rặng tre, một dải sương mờ mờ như đùn từ dưới đất lên, bay là là phập phồng như giăng một tấm to xanh biếc. Tiếng cuốc kêu luốc cuốc cu loa trầm đục như thấn ướt hơi sương trong ấy. Khói bếp thở trầm ngâm trên mái rạ. Giờ này là giờ nghỉ ngơi, giờ sum họp. Dù sung sướng hay đau khổ thì giờ này người ta cũng rút về hang ổ cuối cùng của mình là những mái nhà. Dù ít dù nhiều, ngay người giàu nơi thôn dã cũng chỉ ngày cơm hai bữa, và kẻ khó cũng cứ đỏ lửa hai lần. Nơi đây từ bao đời nay cái ăn cái uống gần như chỉ là chuyện phụ. Người ta có thể nhịn ăn nhịn mặc để xây một căn nhà gạch, sắm một cái xe, có khi cả xe máy; mua đài, mua cát- sét rồi mở om tỏi suốt ngày để được,mở mày mở mặt với xóm làng. Nơi vùng quê bề ngoài rất yên tĩnh này, vừa có những người ngơ ngác dại khờ, những người thật thà như đếm nhưng cũng lại lắm những kẻ đủ mưu ma chước quỷ, không mấy lúc ngồi yên, và cũng không để cho người khác ngồi yên. Cũng có đủ cách bon chen để giành một cái ghế ngồi không to hơn cái vảy ốc, chen một chỗ đứng không caữ hơn cái đế dép thường ngày. Cũng có đủ những thì thầm thì thụt, cũng xúi bẩy, kích động, cũng ném đá dấu tay, cũng cười bả lả chạm cốc nhau lanh canh trong những bữa tiệc đồng chí, nhưng trong bụng lại thầm rủa sau bữa rượu này mày sa chân lỡ bước chết dấp đi cho rảnh! Mặt ao làng tím thẫm những hoa bèo giờ đây không còn bình lặng nữa. Những sóng cồn của biển rộng sông dài đã vang động đã lôi kéo khuấy sục lên, khiến những mảnh ao cung đủ gan tùng những cơn sóng bùn tanh tưởi!
Tiếng con cuốc kêu khắc khoải bên bờ đầm. Nó gọi gì? Gọi bạn tình, hay gọi cái chết?
Thó bước cắm cúi cũng như một con cuốc. Thấy nhà trên ông Hàm ìấp lóa ánh đèn, Thó đi thẳng vào.
Nhà ông Hàm đang chuẩn bị ăn cơm tối. Tiếng mâm bát lanh canh dưới nhà bếp. Tiếng hai chị em nhí nhắn. Vợ chồng ông Hàm đang ở nhà trên. Nghe tiếng Đào, cô con gái lớn chào Thó ngoài sân, ông Hàm tập tễnh đi ra niềm nở, đúng là ông đang nóng lòng chờ.
- Vào đây chú. Có việc cần đến chú đây. Nhưng ta hãy làm vài chén cho ấm bụng đã - Rồi ông Hàm quay sang bà vợ dang gấp quần áo trên chiếc giường Đức nâu bóng :
- Bà xuống rang cho tôi đĩa lạc.
Bà Hàm vặn to ngọn đèn ba dây treo giữa nhà, rồi thu vội đống quần áo, con cón đi xuống bếp. Đã ngoài năm mươi đến dăm cái lẻ, nhưng bà vẫn giữ được dáng người gọn gàng cân đối. Tóc vẫn dày, nước da vẫn trắng. Khuôn mặt trái xoan được điểm thêm cặp mắt lá răm và cái miệng tươi, khi cười còn trẻ lắm Dân làng bảo bà là người có số sướng, đã được cái sắc trời phú, lại từ bé đến giờ chưa đến cái đói rách là gì, nên cái duyên càng bền. Bà sẽ đẹp đến già, đẹp đến chết!
Ông Hàm mở tủ buýp-phê, bê ra một cái hũ da lươn đặt giữa bàn. Thó bỗng giật thót người. Chính cái hũ nhà ông Phúc mà Thó đã khoắng đêm hôm trước!
- Chắc chú đã nhận ra cái hũ này - Ông Hàm vừa róc rượu ra hai chén vại, vừa khề khà - Nhưng tôi đưa được về đến đây là đã cứu sống chú rồi. Hôm kia lão Phúc có đánh tiếng là đã biết việc làm của chú, lại biết cả cái hũ đang ở đây, nhưng đố dám hoạnh họe với tôi.
Rồi ông Hàm vươn người trên mặt bàn, nhìn sát vào bộ mặt thờ thẫn với cái cằm vốn đã nhọn của Thó, giờ cái đói càng vót cho nhọn hoắt như bút chì, ông Hàm thì thầm nhỏ tới mức Thó phải dỏng tai, nhăn trán lại mà nghe. Vừa lúc bà Hàm xuýt xoa với đùm lạc nóng trong tay đi lênl ông Hàm quay lại, nói phắt sang chuyện khác :
- Mẹ nó đong cho chú Thó vay nồi thóc, dồn vào bao tải để chú vác cho tiện.
Bà Hàm bày lạc ra chiếc đĩa sứ hoa. Bà biết hai người đang có câu chuyện gì hệ trọng lắm, và ông không muốn cho bà biết. Nếp quen nhà này là ông Hàm đã không nói thì không ai được hỏi. Hôm nay đích thị không phải chuyện thóc lúa gỗ lạt gì. Bà Hàm ân cần hỏi Thó :
- Nghe nói chú cũng bán lúa non à? Bao nhiêu một tạ?
Thó đang sững cả người. Đang nói chuyện đi quật mộ ông bố Phúc, Thó nghe khiếp quá, vậy mà ngoắc một cái, ông Hàm lại sai vợ đi lấy thóc cho vay. Một nồi chóe, đó là cách gọi cổ truyền ở đây, là chừng ba mươi cân, đến mùa mới trả không lấy lãi, lòng tốt ấy bây giờ đến bói không ra. Thó nhìn khuôn mặt đầy đặn hồng lên dưới ánh đèn của bà Hàm, kể lể ca cẩm :
- Em phải bán non hai tạ cho nhà ông Quàng đấy bá ạ. Giá có mười hai. Mấy nhà có tiền định giá như thế, chứ thóc bây giờ bỏ rẻ cũng phải năm mươi ngàn một tạ. Lượt chợ nữa mới được gặt, đập xong rồi cho bá lấy thóc tươi luôn chứ không cần chờ khô. Dắng là sợ nhà em ăn quịt.
Bà Hàm khẽ cười, đưa mắt nhanh sang nhìn ông. Thì nhà bà cũng mua lúa non với cái giá ấy! Chẳng ai bắt, nhưng những nhà thiếu ăn đều phải bán mười hai ngàn một tạ lúa chưa gặt ở ngoài đồng. Không biết nhờ ai mối lái, mà ông Hàm còn móc nối được với ông thợ may và ông hàng phở trên phố nhận mua thóc với giá hai mươi. Tiền đã trao cho ông Hàm từ tuần trước, còn thóc thì đến gặt chiêm mới lấy.
Vậy là mỗi tạ ông Hàm ngồi không đã được lãi tám ngàn. Về mặt tính toán sít sao ở nhà này thì bà còn phải chịu ông. Nên cái việc cho Thó vay nồi thóc không lấy lãi, bà biết chắc là ông không hớ. Thả con săn sắt bắt con cá rô, ông không được lãi thóc thì cũng phải lãi cái khác.
Bà Hàm bảo Thó :
- Người ta đòi thóc tươi, tức là muốn nắm đằng chuôi đấy chú ạ.
Ông Hàm chép miệng :
- Thôi được, chú cứ trả cho sòng phẳng, rồi có thiếu lại sang đây - Đoạn ông quay sang vợ - Mấy mẹ con cứ ăn cơm trước đi, rồi rán thêm mấy quả trứng để tôi với chú ăn sau.
Bà Hàm vừa đi xuống, ông Hàm lại thì thào :
- Phải từ mười giờ đêm trở đi, lúc ấy thì tất cả đã ngủ kỹ rồi. Tôi, chú, thằng Ưởng, thằng Ngạo, thế là đủ. Rồi bốn người vác bốn tấm ván về đây, thế là xong! Chú không lo, đào tới rồi tôi sẽ vẩy cả hũ rượu này xuống đó để tẩy mùi. Làm xong lại rửa tay bằng rượu, tha hồ sạch!
Thó cũng vươn cổ trên mặt bàn, như mổ cái mũi nhọn vào mặt ông Hàm. Đã có mấy chén rượu cất nước đầu trợ sức, vậy mà giọng Thó vẫn run :
- Bác dã gọi thì em cũng xin hết lòng, nhưng vía em nó yếu lắm. Em chỉ lo rồi thì...
Ông Hàm xua tay :
- Rồi thì ma nó vật chú chứ gì? Đừng lo, đã có tôi. Tôi có bài khấn để yểm rồi. Với lại đây là chuyện dòng họ nhà tôi với dòng họ nhà Phúc, chứ chú không có dính gì. Còn dòng họ nhà tôi thì chú biết rồi chứ? Tôi treo bục tranh kia không phải là treo làm cảnh, mà đấy là tranh thờ. Chính Ngài đã giữ phần âm cho chúng tôi, hùng mạnh và an toàn lắm.
Vừa nói, ông Hàm vừa trỏ lên bàn thờ. Trên ấy đằng sau cái lư hương đồng là bức truyền thần họa một ông ba mươi trên tấm vải dệt bằng những sợi gai ở tư thế chồm lên. Những răng lợi móng vuốt giương ra trông đằng đằng lẫm liệt. Nghe nói đời kỵ nhà ông Hàm, tức là ông cụ tổ đã cách đây bốn đời của dòng họ Trịnh Bá đã giáp mặt một đấng trượng phu hồ vằn chân thọt trong tư thế phanh thân xé xác ấy! Phúc ân chi sớ họa, trong họa có phúc. Có thể tin được chăng? ông ba mươi kia chính là thần sát sinh, rồi sau lại trở thành thần phù trợ, thần cứu thế của dòng họ Trịnh Bá. Chuyện rằng :
Đời kỵ nhà ông Hàm đến sinh cơ lập nghiệp ở đây nghèo lắm. Cả nhà sống dựa vào cái tài kiếm cá của ông. Thuở ấy đồi ông Bụt còn là khu rừng già đầy bí hiểm. Chưa nói chuyện ma hiện hình, người thấy người không, riêng thú dữ thời ấy thì ai cũng gặp. Hổ báo, hươu nai, vượn trắng ngồi bế con trên cành trông khéo như người. Trăn gió quăng mình từ cây nọ sang cây kia ầm ầm như một cơn lốc.
Trong sách Dư địa chí của cụ Nguyễn Trãi khi nói về huyện này có câu: Huyện... có trăn, chim trĩ và vượn trắng. Có phải cụ Nguyễn đã viết chính về sản vật ở núi ông Bụt này? Ban đêm tiếng hươu tác rầm rì, hổ đuổi, hươu lao cả vào nhà người đang ở là chuyện thường. Con suối cạn dưới chân đồi ông Bụt bây giờ, thuở ấy rộng như một nhánh sông, quanh năm đầy nước, tôm cá đánh dễ như ao nhà. Ông kỵ của chi họ Trịnh Bá lúc ấy sống nhờ vào con suối này. Chỉ với cái đó đón ở hồ nước xiết, vậy mà sáng nào là vợ cũng có cá bán. Thế rồi liền trong mấy hôm, đó của ông bị xé rách, cá mất. ông đoán với cách ăn trộm vụng kiểu này chỉ là một chú rái cá hay một con vòi gà nào đó chứ không phải người. Vì suối toàn là đá nên con thú ăn vụng không để lại một dấu chân. Một hôm ông đi thăm đó sớm hơn thường lệ để rình, thì lạy trời! Kẻ ăn trộm cá của ông là một bác hổ vằn không biết đi đứng hấp hoảng thế nào bị đá kẹp một bên chân hậu, chặt tới mức khỏe như hổ mà mà cứ chịu đứng ngay đơ, không tài nào rút chân lên được. Trước mặt ông mãnh là cái đó đã cào rách, nhưng hình như đau quá, nên cá vẫn quẫy phanh phách trong đó mà hổ ta bỏ mặc, không ăn. Thấy người ehủ của đó cá, hổ ta nhìn bằng con mắt cầu cứu và hối hận vô cùng. ông kỵ của chi họ Trịnh Bá liền chắp hai tay trước ngực, nói như khấn :
- Lạy thần núi Bụt, lạy chúa sơn lâm, tôi xin cứu ông được tai qua nạn khỏi, chỉ mong từ giờ trở đi ông đừng lấy cá của tôi, cả vợ chồng con cái tôi sống nhờ vào cái đó này.
Rồi ông lấy đòn bẩy đá. Hồ bị giập một bên chân, tập tễnh nhảy lên núi Bụt. Từ đấy ông không bị mất cá, mà còn được thêm phần. Hôm thì một con cá quả bằng bụng chân chửa, hôm thì một con cầy hương còn tươi rói để ngay trên bờ, cạnh đó cá. Hổ đền ơn đấy. Thế rồi một đêm mưa gió, sấm chớp ầm ầm, ông sợ đó bị trôi, liên đội nón, khoác áo tơi ra đi. Chính bộ tơi nón lòe xòe ấy đã dẫn đến sự nhầm lẫn chết người. Giữa lúc ông đang lúi húi bốc đá chắn cơn đập để dòng nước chạy thẳng vào đó, thì hổ vằn cầm một con cheo cheo đến tạ ơn như thường nhật. Thấy có người, hổ dừng lại. Nhìn bộ tơi áo tùm hụp với dáng điệu lom khom lục sục đầy vẻ vụng trộm; tin chắc đấy là một kẻ gian đang ăn hớt tay trên. Thế là để bảo vệ nguồn sống cho người đã cứu mình, không một hai suy tính, ngay tắp lự, hố vằn nhảy chồm lên cái bóng tơi nón ấy! Đến khi lật cái xác tơi tả, nhìn mặt, ông ba mươi bỗng lăn lộn, đập đầu vào đá, rống lên gào thét về sự nhầm lẫn không sao cứu vãn được của mình. Thế rồi hổ cõng xác con người xấu số đến một gốc cây gạo, dùng móng vuốt cào đất thành hố, đặt xác ông đơm cá xuống đó. Sáng hôm sau mối đùn lên thành một nấm mộ, vuông vức như đắp. Dạo ấy có một người thợ săn được chứng kiến, liền ba ngày sau đó, cứ đến nửa đêm hổ thọt lại cầm một con cá đến trước mộ, rồi đập đuôi bình bịch xuống đất, dựng đứng người đi bằng hai chân sau đến phía đầu mộ, miệng tru lên thống thiết về lỗi ìâm của mình. Gào thét đến xé họng một hồi, rồi hổ ta cúi đầu tập tễnh bước đi rũ rượi đến chán ngán cả chính mình. Ngồi bên này, người thợ săn tắt đèn ló, buông khẩu súng hai nòng, rồi bỏ con mồi như bỏ cục vàng đã nắm trong tầm tay. ông cũng thừ người ra trước nỗi lòng của anh thú dữ tưởng chỉ biết có cắn xé! Chi họ Trịnh Bá làm lăn phất lên như diều từ đấy.
Theo lời thầy tướng, đó là sự đền bù, sự phù trừ của Hổ thần. Chi họ Trình Bá thờ loài thú dữ nhất nhì của sơn lâm từ đấy.
Đến đời bố ông Hàm đã làm được nhà gỗ, mua được ruộng thượng đẳng điền. Trong chuồng rậm rịch lợn đàn, trâu nái. Thế rồi tất cả lại gần như về số không khi có cuộc tranh đua ném tiền ra mua cái chức lý trưởng. Đâm lao theo lao, lợn sề trâu nái, ruộng sâu giữa đồng cứ lần lượt chống gậy ra đi, mà cái chức lý trưởng lại về tay Vũ Đình Đại. Lúc ấy ông Hàm chưa học hết Tam tự kinh đã phải bỏ đi cầm tràng đục kiếm ăn. Nhà chỉ còn cái vỏ. Bố ông Hàm - Trịnh Bá Hoành lại cày sâu cuốc bẫm để dựng lại cơ đồ. Miếng ăn giữa làng hơn sàng xó bếp. Những lúc rượu vào, ông trừng trừng cặp mắt vằn những tia đỏ, miệng lẩm bẩm: Ta không có vòng bạc, xà tích, không đủ bạc trắng để chạy nên thua. Rồi ông rít lên, nhưng tao chưa chịu đâu? Chưa chịu đâu!
Cũng may thời thế chuyển vần. Lý trưởng Vũ Đình Đại chưa kịp ăn lộc thì cách mạng đã đến. Gió nổi can qua, Vũ Đình Đại bán vội con ngựa vừa mua, mới nhoong nhoong được dăm lần lên phủ, chưa kịp ngấm cái sướng của anh đầu gà hơn đít voi, thì đã bán ngựa tậu trâu để trở lại làm anh dân thường. Trịnh Bá Hoành mổ chó ăn mừng!
Ngày ấy Hàm chưa đủ tuổi, đủ trí để cảm hết được cái cay, cái uất của cha, nên cũng không để tâm đến sự tranh giành giữa hai họ. Nhưng vài năm sau đến tuổi lấy vợ, thì mối hận của người bố đã trở lại nguyên vẹn trong lòng Hàm, mà còn sôi sục hơn! ấy là chuyện về cô Son, vợ Hàm.
Hồi ấy cô Son đẹp nhất làng. Mặt hoa da phấn, thắt đáy lưng ong. Đi một bước là có người theo, người ghẹo một bước.
Nhưng chưa có anh nào lọt được vào cặp mắt lá răm vừa đen vừa sắc của cô. Thế rồi bỗng dưng cả làng Giếng Chùa đồn ầm lên là Son phải lòng cậu giáo Phúc, con ông lý Đại (người ta vẫn quen mồm gọi Đại như thế). Phúc lúc ấy đã học hết sơ học yếu lược, nhận một chân gõ đầu trẻ ở trường tư thục trên phố huyện. Phúc đã một vợ một con, nhưng vẫn phong tình lắm. Vợ Phúc răng đen hạt na, tóc vấn trần, người vừa gầy vừa khô. Khô chân gân nhặt, đắt tiền cũng mua! Nhưng đây là bố mẹ Phúc mua, chứ Phúc không thích. Được cái chị làm ăn giỏi và chịu nhịn. Từ nhỏ vợ Phúc đã được bố đẻ răn dạy phận nhi nữ là Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Nên chị nghĩ đàn bà như dây leo dây cuốn. Nhỏ ở nhà nghe bố, lớn lấy chồng nghe chồng theo chồng, chồng chết theo con. Ai thế nào số trời đã định. Vì thế nghe người ta đồn chồng chị mua khăn mùi xoa, mua lược sửng có cán, mua gương có hình cô đầm để tặng Son. Chị ức, nhưng sợ chồng nên lại cười bảo, trò đời đàn ông như cái nơm, chòm chóp úp cầu may cũng như thả những lời trăng hoa ỡm ờ, nhưng đâu phải cứ úp là được cá, đâu phải cứ ghẹo là gái theo!
Rồi người ta lại kháo nhau là ở bờ tường ngoài điếm canh có cái bài ca dao ca thớt thế này :
Chiều tà dao ná bờ sông
Thấy cái nón trắng thà không thấy người
Ngỡ là có đám chết trôi
Hóa ra trong bụi một đôi tinh tình!
Tính tình là tính tình tinh
Chị Son anh Phúc tính tình bên sông!
Người làm vè còn chỉ rõ nơi tính tình của ổ con chuồn chuồn là ở chỗ quẹo suối ông Bụt chảy qua sông Cầu. Không biết ban đêm vợ Phúc có cào cấu làm tình làm tội Phúc không, chứ bề ngoài chị chỉ buông một câu: Rõ đồ quạ mổ! Không nhịn được nữa hay sao mà đâm đầu đi theo người đã có vợ, cho nó chết!
Nhưng cô Son không chết! Son vẫn lấy chồng có thách có treo phân miệng tử tế. Hôm cưới cả làng Giếng Chùa được ăn cỗ nhờn môi. Son lấy anh Hàm, người không được hào hoa phong nhã như cậu giáo Phúc. Hàm lại đi tập tễnh, nhưng nhiều hoa tay, làm cái gì cũng khéo. Hàm đã mê Son từ lâu Son gặp nhiều khi Hàm đón đường chỉ để hỏi một câu giở trăng giở đèn vì hai con mắt cứ nhìn Son đờ đẫn như người say thuốc thì Son biết, nhưng cô dửng dưng tảng lờ.
Son còn không biết là Hàm đã lén ra tận bờ sông, chỗ vai cày của suối ông Bụt tiếp giáp với sông Cầu như bài ca dao đã chỉ dẫn, để xem binh tình hư thực thế nào. Thì Hàm thấy một đệm lá ở dưới gốc cây bạc thau rùm ròa như một cái ô che cho hai kẻ đi ăn vụng. Hàm đã ngồi xuống đấy ức đến phát khóc. Nhưng Hàm vẫn không bỏ ý định lấy Son làm vợ. Nghe dân làng đàm tiếu về con gái mình, bố mẹ Son vừa mắng mỏ chì chiết, vừa canh chừng riết róng, cứ phấp phỏng như giấu trong nhà một thùng thuốc súng. Nhằm trúng thời cơ ấy, Hàm giục gia đình đến hỏi Son, và cuộc gả bán được ngã ngũ thật chóng vánh.
Ngày cưới, cỗ bàn bày dàn dạt từ trong nhà ra tít ngoài sân. Người ăn hết lớp này đến lớp khác, rào rào từ sáng đến chiều tà như tằm ăn rỗi. Trước giờ thành nhân của đôi trẻ, ông Trịnh Bá Hoành khăn áo chỉnh tề, thắp ba nén hương trước bàn thờ. Ông đứng trước. Vợ chồng Hàm đứng sau. Ông sịt soạt khấn lầm rầm. Đó là lễ giới thiệu đôi vợ chồng trẻ với gia tiên, giới thiệu một người khác họ về nhập tịch làm dâu con chi họ Trình Bá. Vợ chồng Hàm quỳ lạy rồi lui. Một bà bác cao tuổi nhất họ đã chờ sẵn. Bà là người được tiếng mát vía về đường con cái, từng sòn sòn ba năm đôi. Bà eắp chiếc chiếu mới xuống gian buồng dưới nhà ngang. Căn nhà này chỉ để cối xay, cối giã và đồ lề của Hàm, bây giờ dành riêng cho vợ chồng Hàm. Bà phẩy giường, giũ chiếu, rồi trải ra lấy khước, đoạn quay lại dắt tay đôi vợ chồng trẻ ngượng ngập líu rfu bước vào nơi bí ẩn của cõi đời, nơi hứa hẹn những đam mê và cũng lắm lắm cái đau khổ của kiếp người! Mà đau khổ thật! Hàm thấy ngay mình là kẻ chậm chân!
Cái trái cấm kia đã có kẻ bóc trước!
Hàm vặn to đèn con, rồi kéo miếng vải xô lót dưới giường lên, vứt trước mặt Son. Miếng vải còn trắng tinh, không một dấu vết của sự trinh tiết. Và cuộc hỏi cung bắt đầu.
Son cuốn chăn quanh người, ngồi co vào góc giường, nước mắt chảy ngoằn ngoèo trên má, trên cằm, khiến cho khuôn mặt đẹp mang hình một tấm gương vỡ. Cô khóc lặng lẽ, không bật ra tiếng, không nói một lời, như thể người câm. Hàm cứ bặm môi tra hỏi, như thể đối đáp một mình. Nỗi ghen tức thấy mình bị Son coi rẻ vẫn âm ỉ lâu nay, giờ càng bùng lên như lửa bắt dầu. Những tiếng đồn đại, những câu ca tinh quái móc máy về Son và cái kẻ ấy, lại thức dậy sôi réo trong người Hàm. Hàm hỏi dồn dập, tiếng cứ líu lại vì uất hận: Cô nằm với nó mấy lần? Hả, hả? Nằm ở chỗ nào? Hả, hả? Có đúng quãng vai cày ở suối ông Bụt không? Hả, hả? Son vẫn lặng thinh. Hàm nổi cơn lôi đình, giật tung chiếc chăn trên người Son. Cả cái khỏi ngọc ngà như trứng bóc, như đá tạc trắng lóa dưới ánh đèn. Nhưng Hàm chỉ thấy mình bị khinh khi, bị thua thiệt, bị là người đi sau đổ vỏ cho kẻ ăn ốc! Cả cái khối nõn nà ấy đã dâng hiến, đã run rẩy mê cuồng trong vòng tay của kẻ thập thành quen phỗng tay trên! Và anh thợ mộc đã nổi cơn điên, ứng xử theo đúng nghề nghiệp; Hàm rút phất tay thước quất hai cái như trời giáng xuống cặp đùi tròn mịn như bột lọc, và tiếng Hàm rít trong họng phả hơi rượu vào mặt Son: Nhìn đường gân ở bụng dưới của mày là tao đã biết? Ngày mai tao sẽ trả cho bố mẹ mày? Đến nước ấy thì Son chồm dậy. Mái tóc dài đen mun phủ dọc tấm thân tràn. Son gạt nước mắt, giọng khô lạnh rắn
- Anh im lặng thì tôi nguyện làm con hầu con hạ cho anh suốt đời. Tôi cắn răng là vì thầy u tôi, chứ không bao giờ tôi yêu anh? Còn nếu anh chỉ cần hé răng với ai việc này, tôi sẽ đâm đầu xuống sông tự vẫn. Rồi tôi sẽ báo oán, sẽ vật anh chết theo!
Hàm buông rời tay thước, đứng như trồng. Rồi bất thần như một kẻ chiếm đoạt man rợ, Hàm nhảy choàng tới nằm phủ lên người Son như phủ một con mồi. Tình yêu của kẻ ghen tột cùng đến thành rồ dại, bỗng chốc biến Hàm thành một tên có máu sa-đích. Đêm động phòng có mùi vị địa ngục ấy đã gần bốn mươi năm nay. Những gì diễn ra đêm ấy chỉ có vợ chồng Hàm và bốn bức tường biết. Sáng hôm sau bà bác mát vía dẫn đầu nhà trai đi lại mặt; người ta chỉ thấy anh Hàm bước tập tễnh vui vẻ như nhún nhảy, còn Son hai má vẫn đỏ au, đôi mắt nhung nhìn rất đằm như e lệ. Son cố đi tự nhiên, cố giấu hai con trạch vẫn lằn đỏ, bỏng rát, vắt cho trên đùi non. Câu chuyện trong đêm hai người chôn chặt vào nơi u tối của lòng mình, như cùng giữ lời nguyền sống để dạ, chết mang đi.
Bây giờ những chuyện xưa lại sống dậy trong ông Hàm. Như lửa vẫn ủ kín trong trấu, im lìm không một sợi khói, cứ tưởng đã tắt, nhưng không! Gió đã thổi cho than ủ bùng lên thành lửa rồi! Ông Hàm thấy đây là thời cơ tốt nhất để ông ra tay theo cách riêng của ông. Chỉ ra tay một lần mà đối phương phải lụi tàn tử gốc đến ngọn!
Đêm.
Bầu trời bùng bìu vá víu trong những đám mây lờm xờm tựa một tấm da thú nham nhở. Hôm nay là ngày cùng tháng kiệt, trăng bỏ trốn, chỉ còn những vì sao yếu ớt bị nuốt trong mây xám. Đêm càng mung lung, vừa bí hiểm, vừa bồi hồi vẫy gọi. Đêm chở che và đêm đồng lõa!
Đào đang chạy trong đêm đến chỗ hẹn.
Với Đào, một cô gái hai mươi tuổi, đang được tiếng là xinh đẹp nhất nhì trong xóm Giếng Chùa này, lại là người mau mắn cả mồm miệng lẫn chân tay; lại là cháu bí thư Đảng ủy, lại là con ông Hàm, người giàu có tiếng, chỉ quanh năm ngồi nhà mà hái ra tiền, nên đi đến đâu Đào cũng được mời chào, được nhận những ánh mắt vuốt ve.
Với Đào, không có sự đe dọa nào, kể cả bóng đêm. Bóng đêm là tấm màn nhung xanh mượt che chở cho Đào. Mà điểm hẹn đâu phải nơi xa lạ bí hiểm gì. Là gốc nhãn rùm ra như một cái dù xanh trên con đường xép nối giữa xóm Giếng Chùa với xóm Mới. Vì là xóm lập sau khi dân cư quá đông, nên mới gọi nôm na như vậy. Trên giấy tờ văn bản, người ta gọi là xóm Đại Thắng, nhưng xem ra dân lại không thích cái tên mỹ miễu ấy Con đường xép chạy giữa cánh đồng nối liền hai làng này mới có từ khi hợp nhất hợp tác xã toàn xã, nghĩa là mới có gần mười năm nay. Những cây xoan, cây nhãn, bạch đàn trồng đã cao quá đầu người. Ban ngày chỉ có người làm đồng ngồi trú mát khi nắng, chứ trai gái có cho ăn kẹo cũng không dám đứng ở giữa nơi đồng trống tô hô này mà liếc nhau đầu mày cuối mắt! Tình yêu nơi thôn dã vẫn có thói quen thầm lén. Yêu thầm lén, và lấy nhau xong rồi cũng vẫn thầm lén. Sự say mê của những cặp vợ chồng được gói trong những căn buồng tối mò mò, đếm mức dù có mở thao láo mắt ra cũng bằng thừa! Thành thứ bóng đêm bao giờ cũng là bạn đồng hành của tình yêu.
Bóng đêm đang che chở và khuyến khích Đào. Đào đang chạy gần đến gốc nhãn, chạy đến nơi say mê của lòng mình. Chập tối nay, lúc Đào đang nấu cơm, thì bỗng nghe tiếng Tùng chào ông Hàm rất to ngoài cổng :
- Bác tưới cây ạ? Bác Thủ có đây không ạ?
Ông Hàm vẫn tưới ròe ròe vào mấy gốc táo Thiện phiến, nói nho nhỏ gì đó, trong khi Tùng vẫn oang oang như muốn thông báo cho cả làng biết :
- Vâng, cháu mới đi mua sắn về. Lên Võ Nhai sắn nhỏ và đắt, thế là phải ngược tận Định Hóa, Bạch Thông. Cháu đi tìm bác Thủ để cùng bảo quản trị lên phương án chia cho xã viên.
Đào bỏ cả nồi cơm đang ghế chạy ra sân, và bốn con mắt tinh quái đã loáng bắt vào nhau như điện. Tùng chỉ muốn gào lên: Đào! Anh đã về! Đào đọc được tiếng gọi đó và ánh mắt Đào cũng reo lên trả lời: Thôi biết rồi, đi đi ông nỡm! Lộ hết bây giờ! Tối gặp nhau ở gốc nhãn!.
Thế là bản thông báo quan trọng của hai người đã xong. Cái cớ đi tìm bí thư Đảng ủy của Tùng đã đạt kết quả mỹ mãn, và vẫn kín mít, đến mức tinh khôn như ông Hàm mà cũng chịu cứng. Thế mới biết tình yêu mà đã thông đồng thì chúng có trăm phương nghìn kế, trời cũng bó tay! Mặc cho ông Hàm lử khừ nói nhát một, Tùng cứ hào hứng kể chuyện giá sắn, giá ngô trên mạn ngược thế nào, rồi chào ông Hàm rất ngọt ngào lễ phép trước khi đi như bay về nhà.
Đào nấu cơm mà hồn vía như bay đi đâu mất. Tay đang cầm đũa cả, mà mắt cứ nhớn nhác đi tìm đũa ghế cơm. Đáng nhẽ tra mì chính vào canh, thì lại cứ tống mãi muối trắng vào! ấy là óc Đào đang nghĩ làm cách nào để tý nứa đi vắng có lý do. Không họp hành mà đi nửa đêm mới về là không xong với cụ via! Và nếu cụ biết lại đi với Tùng thì Đào đến gọt đâu bôi vôi! Không biết hai họ nhà này có điều gì mà cú nhau đến thế! Đào không biết những chuyện sâu xa, cô chỉ nghĩ là Tùng trêu tức vào ông via cái hôm Tùng mới ở bộ đội về. Ngày ấy cách đây đã hơn một năm, Tùng hết hạn nghĩa vụ trở về. Sau mươi hôm thu xếp việc nhà, anh đi tìm Thủ để nộp giấy sinh hoạt Đảng. Lúe ấy Thủ đang ở bên nhà ông Hàm.
- Đồng chí nhận một công tác gì để xây dựng quê hương chứ? - Thủ xem xong giấy giới thiệu, ngửng lên hỏi Tùng.
Vừa lúc ấy Đào ở trên phố huyện về. Quần bò, áo phông, lại thêm dáng người ong óng giống mẹ, trông cô tươi bưởi như vừa ở đám hội bước ra. Vốn là học sinh trung cấp nông nghiệp của tỉnh, xã định đào tạo để rồi về làm kỹ thuật viên cho hợp tác. Nhưng mới học được một năm thì trường giải thể vì khó khăn về cơ sở vật chất, đông thời bây giờ người ta không mở hệ trung cấp nữa. Về nhà, nhưng Đào vẫn có tác phong của một nữ sinh. Nghe tiếng chào, Tùng quay khẽ gật, và rõ ràng anh bị sửng sốt về vẻ đẹp khoẻ mạnh, mới mẻ của cô gái, nhưng Tùng vội quay lại phía Thủ, nói rành rọt :
- Báo cáo đồng chí bí thư, cho tôi nghỉ dăm sáu tháng nữa để tôi kiến thiết nhà cửa.
Lúc ấy Thủ mới là phó bí thư thường trực, nhưng ông Đáng hen suyễn đã gần như giao hết quyền cho Thủ, chắc Tùng đã quen biết, nên cứ một hai gọi Thủ là bí thư. Hắn tôn trọng thật, hay hắn móc máy đây?
- Mới có vài năm, mà xóm làng đã ngói hóa đỏ cả - Tùng tiếp lời - Nhưng mà tôi thì vẫn nhà tranh vách đất. An cư mới lạc nghiệp. Không có cái nhà hẳn hoi, mưa gió không yên, mà bà con dân làng cũng khinh cho!
Lúc ấy ông Hàm mới quay sang bắt chuyện, nhưng mặt vẫn lạnh khô :
- Nghe nói anh đang đốt gạch, anh định làm mái bằng hay mái chảy?
- Dạ trước mắt cháu làm nhà bếp và nhà ngang mái chảy, còn nhà trên hãy thư thư rồi cũng phải cố theo gương các bác! Rồi Tùng hỏi ông Hàm về công xá của phần mộc. Cũng nói vanh vách những thượng thu hạ thách, những kèo kìm chống chéo để bớt được trụ ra sao. Và anh đã mặc cả công thợ nếu khoán trắng thì thế này, nếu chủ nhà phải chi một bữa ăn trưa trong một thời gian thợ làm thì sẽ còn lại là...
Ông Hàm gật gù :
- Nghe anh nói tôi thấy anh cũng thạo việc đấy. Thế mấy năm ở bộ đội anh làm gì?
- Dạ, cháu ở bộ binh. Nhưng đến hơn năm nay đơn vị cháu đi làm kinh tế. Cháu có thẻ ra quân từ năm kia, nhưng cháu xin được ở lại để chuyển Đảng chính thức cho xong, kẻo về địa phương lại rắc rối! Với lại ở đấy học thêm được mấy nghề để về có vốn liếng sinh sống.
- Sao đồng chí lại nghĩ chưa chuyển Đảng chính thức thì về địa phương sẽ rắc rối? - Thủ hỏi đã có ý bực.
Nhưng Tùng vẫn cười cười. Cái cười của hắn như chọc vào người nghe! Với hai anh em ông Hàm, Tùng có cách xưng hô rất phân biệt. Với ông Hàm thì bác, cháu. Còn với Thủ thì cứ đồng chí và tôi. Đào dọn dẹp quét sân bên ngoài, cứ tủm cười. Nghe nói lão này mới ngót ba mươi tuổi, nhưng nói năng cứ như ông cụ non! Ngày ở nhà lão đã học hết phố thông, làm thư ký đội, làm bí thư chi đoàn, năng nổ và hoạt bát. Nhưng ngày ấy Đào còn nhỏ và lại ở khác tổ sản xuất, nên chỉ biết chứ không quen. Nghe người ta nói từ hôm về đến nay, lão đào đất, đóng gạch huỳnh huỵch cả ngày cả đêm. Định làm giàu thành ông địa chủ chắc!
Trong nhà Tùng vẫn vui vẻ trả lời Thủ với giọng rành rẽ :
- Báo cáo đồng chí bí thư, tôi tự thấy tôi rất hiểu địa phương ta. Dạo ở nhà tôi đã được thử thách đến vài ba năm. Kể cả ông cậu của tôi cũng bảo tôi chưa thể là Đảng viên được vì người ta ít nhìn vào hiệu suất công việc. Từ ngày tôi đi đến giờ gần năm năm, mà cả Đảng bộ chỉ kết nạp được hai đảng viên mới.
Ông Hàm như bỏ ngoài tai chuyện công tác, vẫn hỏi theo chủ đề của ông :
- Thế anh học được những nghề gì?
- Dạ, đóng gạch và đốt gạch thì cháu đã thạo. Nghề mộc mới sơ sơ. Ban đêm cháu đi học võ!
- Lại học cả võ nữa?
- Dạ, đơn vị cháu có mấy anh rất giỏi ka-ra-te.
- Anh khá đấy! - Ông Hàm gật gù, mặt vẫn tỉnh khô, không biết ông khen thật hay khen đùa.
Lát sau Tùng về, bấy giờ ông Hàm mới xổ ra :
- Mới nứt mắt đã cốc láo? Không còn coi ai ra gì! Thằng này rồi làm loạn ở cái làng này đây!
Rõ thật ghét của nào trời trao của ấy! Ông Hàm không thể nào ngờ được con gái rượu của ông lại đi đầm đầu yêu tháng cốc láo, cái tháng sẽ làm loạn ấy! Với Đào, chỉ sau mấy buổi đi họp ở xã đoàn, vì xã yêu cầu những Đảng viên trẻ vẫn tiếp tục cùng sinh hoạt đoàn, và đi tập dân quân, thì cô chỉ thấy Tùng rặt những ưu điểm! Cả gương mặt vuông chữ điền với nước da bánh mật của Tùng, Đào cũng thấy quanh đây chẳng anh nào ăn đứt? Nếu có cần sửa chăng là sửa cái mồm. Cứ gáy lên để làm ngứa gan các ông khốt thì ăn bàn ăn giải gì? Đào đã cắn vào miệng Tùng, beo vào tai Tùng mà bảo sớm chừa cái tính ta đây ấy đi. Còn anh chàng cũng có tý máu khoe khoang, khi ngồi bên Đào thì chỉ là một chú cừu, cứ rúc mặt vào nách Đào mà nỉ non những lời sám hối!
Và bây giờ hai người đã quen hơi bén tiếng nhau có đến dăm tháng, nhưng vẫn phải hoạt động trong vòng bí mật, chưa thể công khai được! Đào đang nghĩ cách, thì vừa lúc cái Hoa đi học về: Đào bảo nó như dỗ dành :
- Chị nấu cơm sắp chín rồi, Hoa sang chị Minh bảo lúc nữa chị ấy ăn cơm xong, sang đây chị nhắn cái này nhá. Đi đi, rồi gọi u ở ngoài bãi chè về ăn cơm.
**** tối Minh sang, rúc rích một lúc, khi chiếc đông hồ Ô-đô gõ bình boong chín tiếng, thì lòng Đào nóng như lửa đốt. Việc này thì chưa thể nói với cái con ruột ngựa này. Mãi đến chín rưỡi Minh mới về. Đào dặn nhỏ bà Son: U cứ để cồng, tý nữa về con đóng. Rồi hai cô dắt nhau đi, làm như cùng chung một đường. Ra tới cổng, Đào bảo bạn: Mày về nhá, tao đến nhà chú Thủ có tý việc.
Rồi Đào đi. Rồi Đào chạy. Một tay giữ vạt áo một tay giữ ngực, động tác của người con gái có ý, dù đêm khuya không một bóng người. Con đường dẫn ra đồng Tròn, nơi có gốc nhãn hẹn hò mấp mô sống trâu. Lại tối, Đào cứ như chạy trong mơ. Lúa hai bên ruộng ngả sang tê đường, quét rào rào vào ống quần. Châu chấu phóng càng bay tanh tách, đạp cả những bộ chân ráp như chấu vào má, vào cổ Đào. Đào vẫn chạy dần, ngực đập thình thịch. Cây nhãn đã hiện ra, mờ mờ rùm ra như một người đứng xõa tóc trong đêm. Tới gần, Đào dừng bước, cứ tưởng Tùng từ gốc cây sẽ lao bổ ra ôm chầm lấy Đào như mọi khi. Nhưng đến tận nơi mà không thấy gì. Chỉ có gốc nhãn đứng chơ vơ một mình. Sao thế này? Hay là Tùng ra chờ lâu quá đã về rồi? Hay Tùng bận phải trông xe sắn nên không đến? Không, chưa bao giờ Tùng lỡ hẹn cả. Có hôm mưa Tùng còn khoác áo mưa thì không có gì quan trọng bằng gặp Đào. Mà lần này đã năm ngày không gặp nhau rồi còn gì. Đào ngồi xuống cái rể cây đội gồ lên, thở. Bực, Đào đã thấy bực. Để người ta chạy hộc tốc, rồi bây giờ đứng ôm gốc cây một mình như con dở thế này đây! Phen này thì phải cắt cầu vài ngày nữa mới được! Cho chết?
Bỗng có tiếng cú rúc đâu rất gần. Đào rùng mình nghiêng ngó, thì ngay trên ngọn cây, tiếng Cú! Cú! lại vang lên lẫn tiếng người cười! Đào vừa kêu ớ định vùng chạy, thì con cú đã từ trên cành nhảy đánh rào như ném mình xuống, và bằng động tác của con đại bàng cắp nàng công chúa trong truyện cổ, Đào bị hai cánh tay rắn chắc ôm trùm lấy, nhấc bổng lên, quay tròn một vòng. Đào nhận ra tiếng cười, mùi mồ hôi và những cái xoắn từ những ngón tay của người con trai như muốn lặn vào da thịt mình. Bởi những động tác ấy đã quen thuộc với Đào lắm. Bởi hai người đã qua giai đoạn thả lời ướm ý. Đào ngã lịm vào ngực người yêu. Vòng tay lên ôm lấy cổ Tùng, miệng cắn vào bả vai Tùng, giọng rên lên sung sướng đến nức nở :
- Chết đi! Làm người ta cứ tưởng mình bỏ về rồi!
Tùng áp miệng vào tai Đào gọi liến láu như một gã điên :
- Đào ơi em Đào ơi, chị Đào ơi, bà Đào ơi, cụ Đào ơi! Có nhớ anh không?
Vừa liến láu, Tùng vừa xoay người lại, nâng mặt cô lên, nhìn sát vào khuôn mặt hình bầu dục với hai má tròn đầy, cặp mắt mở lim dim. Đào nằm cuộn trong lòng Tùng, hai tay vẫn ôm chặt lấy cổ. Tùng cà cà cái cằm ram ráp những chân râu lên khắp khuôn mặt Đào, rồi cà xuống cổ, cà xuống bộ ngực đã mở cúc căng đầy mịn màng khiến Đào rùng mình rướn cong người lên, miệng càng rên se sẽ, đầu óc loạn xạ, không còn biết nên chống đỡ hay nên buông thả. Tùng thì hoàn toàn mê mẩn, lòng chỉ còn sôi réo đòi hỏi. Bàn tay khao khát lần tìm những nơi sâu kín trên cơ thể chắc mẩy, nuột nà, rừng rực sức trẻ của người yêu. Bỗng Đào kêu giật giọng. Không hiểu sao những lúc này người tỉnh táo, cảnh giác được xung quanh bao giờ cũng là nữ giới, là đàn bà chứ không phải là đàn ông. Đàn ông lúc này chỉ còn biết có chết!
- Có người! - Đào kêu hốt hoảng.
Tùng vẫn còn chưa tỉnh cơn mê. Cả mũi, cả miệng vẫn đang thở hít hà cái mùi ngầy ngậy hôi hổi của da thịt con gái, thì Đào kéo cổ áo, gỡ Tùng ra, ngồi vùng dậy cuống quít :
- Họ đi lại đây! Tùng ngẩng lên. Đúng là lờ mờ có mấy bóng người đang từ trên đường chính đi xuống, và họ sẽ đi qua đây thật!
- Chạy, anh!
- Không, lên cây!
Khi mấy bóng người vừa đi khuất xuống hủm, thì Tùng đã đu người chạc lên cây nhãn, rồi kéo tay Đào lên. Nhưng Đào lóng ngóng như đã sắp khóc.
- Em không trèo được!
Tùng nhảy xuống, đội Đào ngồi lên cổ. Đào vừa bíu được vào cành nhãn, Tùng đã đu người lên, rồi kéo Đào ngã ngồi xuống mấy chạc cây xòe ngang như một cái sàn. Tùng gỡ lá gài cho kín phía dưới, rồi một tay bíu cành, một tay ôm chặt ngang người Đào nóng rừng rực và trẹo trọ như muốn ngã. Mấy bóng người đã hiện ra ở đầu ruộng. Một, hai, ba, bốn.
Tùng bỗng rùng mình, rồi thì thào rất sẽ :
- Ồ, thầy!
Đào nhắm mắt, rúc mặt vào ngực Tùng, người run lẩy bẩy, tiếng cũng run lấy bẩy :
- Thầy em?
Tùng bịt miệng Đào. Cả hai cùng run như dẽ. Trống ngực người này đập, người kia nghe rõ, cứ thình thịch như đập đất bên tai!
Trong ánh sao bạc mờ, trên bờ lúa đã hiện rõ ông Hàm tập tễnh đi đâu, vai vác cuốc. Rồi Ưởng, rồi Ngạc, hai người cháu ông Hàm, hai người anh thúc bá bất trị của Đào. Một tay của Ưởng xách cái gì như là một cái can nhựa. Rồi cuối cùng là ông Thó, sao ông Thó lại như con gà lạc đàn vào đây? Trên vai, trên tay người nào cũng cuốc và xẻng. Tất cả cùng lặng phắc, cắm cúi đi rất nhanh. Rồi họ đi sát vào gốc nhãn. Mùi người, mùi mồ hôi thoang thoảng tỏa lên. Trên cây, tim hai người đến ngừng đập. Khi những bước chân lạt sạt nghe đã đuối mờ, Tùng và Đào cùng se sẽ thở hắt ra một hơi dài.
Đào hỏi giọng giống như người ốm :
- Có những ai hả anh? Họ đi đâu?
Tùng nhảy xuống, nghểnh cổ nhìn theo hút mấy bóng người. Đi đến giữa đông, họ rẽ trái, rồi biến mất sau những bụi lau. Thế có nghĩa là họ không sang sớm Mới, mà ngược lên đồi Sim. Họ đi đâu? Trên ấy không còn nhà ai, chỉ là đồi hoang. Bãi tha ma của làng ở đấy! Ông Phúc vừa chôn cụ Cố ở đấy! Đó là ông ngoại của Tùng. Một tia lạnh bỗng chạy dọc người Tùng. Chả nhẽ lại là... Tùng rùng mình, không dám nghĩ nữa.
Đào bíu vào cổ Tùng đu xuống, rồi theo lệ Tùng đưa Đào về. Hai người lại ôm nhau đi tắt qua những bờ ruộng mấp mô. Cả hai cùng yên lặng, không vừa đi vừa cấu chí cười rúc rích như mọi khi. Đào nói thầm thì :
- Thảo nào lúc nãy ra ngõ em gặp ông Thó với anh Ưởng, anh Ngạc đến tìm bố em. Anh đoán họ rủ bố em đi đâu?
Tùng sững người, tý nữa thì kêu a. Thế là vô tình Đào đã giao chiếc chìa khóa của sự bí mật cho người yêu. Hỡi Mỵ Châu công chúa! Đây là người con gái thứ bao nhiêu đã vì con tim yêu bồng bột mà đi theo bước sai lầm của Người? Vì yêu nàng đã mở hết những bí mật của vua cha cho người tinh của mình. Người đời vẫn nói yêu là đui, là mù, thật bao giờ cũng đúng vậy thay!
Thế thì đúng rồi, không phải họ rủ, mà chính bố cô rủ họ? Tùng thầm kêu lên như vậy. Bàn tay đang ôm eo Đào bỗng lỏng rời ra. Nhưng Đào không để ý. Đến chỗ rẽ, Tùng chỉ ôm Đào xiết vào ngực chứ không cắn cấu cuồng nhiệt như mọi khi.
- Tám giờ tối mai lại ra đây nhé - Tùng dặn.
Đào đồng ý bằng cách cắn vào ngực Tùng, rồi biến vào rặng tre tối thẫm đang kẽo kẹt trong gió, miệng lại hát se sẽ nữa. Tùng đứng một mình một lúc để ngẫm nghĩ, rồi quay đầu chạy hối hả về xóm Mới. Bà Sang đã ngủ được một giấc đầy, bỗng nghe Tùng mở cứa ken két, rồi gọi giật giọng :
- U ơi! Dậy ngay có việc cần!
Bà Sang nói giọng khê nặc trong chiếc màn nhuộm nâu :
- Việc gì đêm hôm này? Gọi cái Mai, thằng Tú dậy thì sao.
Tùng vừa xập xèo đánh diêm, vừa nói hào hển như sợ ai cướp lời :
- Con đã bảo U dậy có việc. Cái Mai, thằng Tú không thể để cho chúng nó biết được.
Bà Sang vừa dụi mắt bước ra, thì Tùng đến gần bà nói từng tiếng một đầy hệ trọng :
- U đến nhà cậu Phúc nói cậu ấy phải ra ngay đồi Sim, chỗ vừa đặt mộ ông. Ngoài ấy đang có chuyện không lành!
Bà Sang tỉnh ngủ hẳn, bủn rủn cả người, dụi mắt nhìn Tùng như người bị ma ám đồng nhập.
- Chuyện gì? Thế sao mày không đến nói với cậu? Con không đi được. Con đi là hỏng hết việc. U cứ nói với cậu là U nằm ngủ được báo mộng ngoài ấy có chuyện? Bảo cậu phải gọi thêm người, không được đi một mình. Nếu cậu có hỏi thì u bảo con thưa về.
Bà Sang cuống quít tìm cây gậy hèo, lấy đèn pin, rồi bước lập cập đến nhà ông Phúc. Ra đến sân bà còn ngoái lại nhìn Tùng như nhìn một người lạ vừa mang họa đến nhà! Còn lại một mình, Tùng đi đi lại lại, suốt hai gian nhà ngoài, vơ vẩn như một kẻ mộng du, rồi đến nằm vật xuống giường, miệng thầm kêu lên: Thế là lúc chúng ta phải đối đầu với họ rồi!.
Chính lúc này, ở đồi Sim.
Ông Hàm đi trước dừng lại. Ba người bước lạt sạt qua những bụi mua phía sau dừng theo. Sương thấm lạnh vào những ống chân. Ngôi mộ cụ Cố họ Vũ đã ở trước mặt. Chiếc nhà táng đặt trên chốc mộ chỉ còn lại bộ khung tre. Lớp giấy vang tróc ra, rách lùa tủa, gió thổi bay lật phật. Những vòng hoa xếp kín xung quanh hôm trước, nay trẻ trâu đã mang nghịch vung vãi. Ngôi mộ nằm dài im lìm, đen sẫm trong đêm. Trời bận mây, che nốt cả thứ ánh sáng nhợt nhòa của những vì sao yếu ớt. Đêm càng tối. Đêm giấu trong mình những việc làm của người đời mà ban ngày họ không đủ gan làm. Đêm đồng lõa!
Ông Hàm đứng im nhìn ngôi mộ. Nó! Chính nó đây! Đối thủ của ông? Một đối thủ tay không vũ khí, vậy mà ông bỗng khẽ rùng mình. Thó và hai người cháu bất trị của ông Hàm đi nhẹ như nhón gót, sột soạt đến sát bên ông. Ưởng vuốt lại mái tóc gần chờm vai, thở phì phì như con trâu *** sắp sửa lao vào cuộc. Ưởng và Ngạc từng có nhiều thành tích bất hảo, đã đón đường đánh cả thấy giáo vì không cho chúng lên lớp vì học quá dốt. Đánh nhau ở bãi chiếu bóng, đánh nhau ở giữa chợ. Cũng có nhiều phen bò lê bò càng, bố mẹ phải bán cả lợn nái, và đàn lợn giống để mua mật gấu bóp mới khỏi, nhưng rồi chứng nào tật ấy. Ưởng đi lính chưa được một năm, thì bị loại ngũ vì quá nhiều vụ vô kỷ luật.
- Tất cả đứng sau tôi - Ông Hàm nói khe khẽ - Chú Thó chuẩn bị sẵn hương với diêm, lúc nào tôi bảo hẵng châm.
- Em cầm sẵn đây rồi - Thó nói run run.
Bốn người đứng hàng dọc theo mộ, cuốc xẻng chống bên người, rất sẵn sàng xông vào trận. Ông Hàm bước lên một bước, ngang đầu mộ, đầu khẽ quay về sau, bảo Thó :
- Chú Thó đốt ba nén hương.
Thó lật đật đánh lửa, châm ba nén hương. Ông Hàm với tay lại cầm, rồi huơ lên một vòng đỏ. Đoạn ông cầm hai tay, đưa thẳng ra phía trước. Chân đứng hơi khuỳnh như lên tấn, miệng sịt soạt hít vào dọn giọng, rồi bắt đầu đọc bài khấn :
Lạy thần Thành hoàng
Lạy ông Tiên chỉ
Lạy ngài Quan Âm chốn niết bàn
Lạy bà Bồ tát nơi Âm phủ
Nay con xin tâu rằng :
Dòng họ Vũ nhà này chua cay ác độc, mấy đời nay từng thay đen đổi trắng, từng buôn quạ bán diều, buôn rết bán rắn, gây nhiều tai oán với họ Trình nhà con. Chúng chiếm ruộng nương gia sản, chiếm tình chiếm nghĩa, xui khiến họ Trịnh sớm hôm lục đục, lửa ít khói nhiều, bức bối toàn gia! Nay đến lúc gặp ơn đền ơn, gieo oán trả oán, Ô hô hô!
Ông Hàm lại huơ ba nén hương thành một vòng tròn. Những lời vừa đọc đã kích thích ông. Mối thù được khơi lại. Máu bừng sôi. Ông e hèm, rồi cao giọng tuyên án :
- Lạy thần Thành hoàng, giờ con xin được cải mả, lật sấp thi thể chi họ Vũ Đình xuống, để đưa quả báo này tới chốn dương gian, bắt họ Vũ phải chịu :
Ba đời tuyệt tự
Hữu nữ vô nam
Hữu sinh vô dưỡng
Gái thì đẻ ngược
Giai chết không mồ
Đứa ngã xứ Đoài
Đứa vùi xứ Đông
Đứa sống chạy rông
Quanh năng khốn khó
Trồng rau ra cỏ
Cấy lúa ra lau
Trồng trầu hóa tiêu
Gieo cà ra ớt
Long đong lật đật
Hệt đường sinh nhai
Ô hô hô!
Vừa dứt, ông Hàm quay sang tung ba nén hương lên mộ, rồi cầm can róc rượu vào chén vẩy xuống theo. Ông vẩy ba chén liền xuống mộ, rồi dằn giọng hạ lệnh như dao chém đá :
- Đào!
Miệng nói tay làm, Hàm vớ ngay lấy cuốc đẩy chiếc khung nhà táng xuống, giận dữ như đẩy nhào một đối thủ bằng xương bằng thịt. Rồi Hàm bổ nhát cuốc xuống đỉnh mộ như hạ một lời tuyên chiến. Ưởng và Ngạc nhảy bổ vào như hai thằng thiên lôi lành nghề, phóng lưỡi xẻng vào bờ thành ngôi mộ, hất đất xuống rào rào, Thó lóng ngóng gạt đất phía sau.
Đêm càng đen kịt. Đen như chính lòng người!
Trong chốc lát phần nổi của ngôi mộ đã bị phá tung. Đã có những hơi thở ậm è vì quá hộc tốc, Hàm vẫn là người đâu tiên cuốc xuống phần âm của ngôi mộ. Hâu như Hàm không biết mệt, cứ lầm lì và quả quyết như một gã phá huyệt chuyên nghề! Trong lòng Hàm vừa căm giận, vừa hả hê. Lão dồn sức vào cán cuốc, hất tung đất lên như hất nỗi u uất bao lâu nay từ chính lòng mình.
Thó đang lúi húi cào đất phía trên bờ huyệt, bỗng kêu giật giọng kinh hoàng :
- Có người!
Ngay lập tức tiếng Vũ Đình Phúc, trưởng chi họ Vũ Đình vang lên phía sau như một tiếng sét :
- Tất cả đứng im! Thằng nào chạy tao bắn!
Rồi để cho lời nói có hiệu lực, Phúc cao giọng ra lệnh cho người em rể, chồng bà Lộc, một cán bộ mới về hưu, chiều nào cũng khoác súng săn đi bắn gà gô, chim gáy :
- Chú Tính lên đạn, thằng nào chạy bắn què!
Cả Hàm, Ưởng, Ngạc và Thó cùng đứng cứng người như bốn cái cọc cắm xuống đất. Ông Phúc đi lại, cúi xuống nhìn mộ bố đã bị phá tan. Phúc gầm lên :
- Quân khốn nạn! Quân tán tận lương tâm. Quân...
Thó bỗng vứt cuốc, chạy lại bên Phúc, nức nở :
- Bác Phúc ơi, bác tha cho em! Em không muốn, nhưng bị người ta bắt đi. Bác Phúc ơi, bác hiểu cho em!
Phúc định hét lên, nhưng một sự tính toán đã đến rất nhanh. Phải biết lôi kéo, phải biết phân hóa, phải biết nhằm vào mục tiêu chính. Phúc hắng giọng, dõng dạc :
- Chú Thó, tôi biết chú bị mua chuộc, bị ép buộc. Tôi không chấp chú. Chú đứng sang bên này. Chú sẽ là người làm chứng. Còn ba người nhà này đứng yên, động đậy tao bắn! Rồi Phúc quay sang thằng cháu con bà Tài cao như một cái sào đứng bên cạnh, nói lớn :
- Thằng Quyền về báo động, khua cả làng ra đây! Gọi cả thằng Thủ ra đây! Chú Quỳ sang bãi chè nhà tôi vơ hết guộc lại để đốt. Phải cho cả làng Giếng Chùa thấy việc làm của chúng nó! Phen này cả làng sẽ thấy chúng nó quỳ lạy dưới chân tao! Thằng Thủ cũng phải quỳ lạy dưới chần tao! Quảng, đốt lửa lên!
Tiếng chân chạy rầm ráp, rào rào. Khi ngọn lửa bùng vào đống guộc khô; gặp gió, lửa reo ù ù phần phật, sáng hửng cả vùng đồi, quét dạt những dải sương bay vật vờ, thì Hàm hực lên một tiếng, nhảy bổ vào Phúc!
Tối nay bí thư Đảng ủy Trình Bá Thủ có cuộc đánh chén ở nhà chủ tịch Trần Văn Sửu.
Nhà Sửu ở xóm Trại, khuất lảnh ngoài vùng đồi. Đây là xóm của bà con dưới Nam Định, Thái Bình lên khai hoang từ những năm sáu mươi. Mặc dù cũng ăn nên làm ra, con cái đi bộ đội, đi thoát ly, nhiều người trở thành cán bộ đảng viên rất chững chạc, nhưng trong thâm tâm của mọi người, xóm trại vẫn là xóm của dân ngụ cư, dù thế nào cũng không thể là cái xương sống của xã. Hồi chiến tranh phá hoại, đã có một dạo bí thư Đảng ủy xã là người của xóm Trại. Dịp ấy có năm thanh niên của Giếng Chùa nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện, đơn vị hành quân vào nam. Tới khu 4 thì bị máy bay oanh tạc, cả đại đội gần như bị xóa sổ. Năm người Giếng Chùa thì chết ba. Hai người còn lại hoảng quá, liền đằng sau quay đi nước mã hồi phóng thắng về nhà. Ngày ấy chủ tịch và xã đội trưởng đều là người của Giọng Chùa, nể nả định lờ đi. Nhưng bí thư Đảng ủy đã chỉ thị cho phó chủ tịch kiêm trưởng ban công an phải gọi hai người thanh niên kia lên và đã xử trí đúng như xử trí những quân nhân đào ngũ, tức là đi làm lao công cho xã. Thôi thì thượng vàng hạ cám, từ rẫy cỏ quanh nhà ủy ban, ngào đất trát tường cửa hàng mua bán xã, đến xe gạch xe vôi từ trên phố huyện về làm nhà tắm, làm hố tiêu hố tiểu công cộng. Xã không thiếu việc. Cứ cơm nhà việc xã. Ngày ngày trưởng ban công an đích thị đôn đốc kiểm tra, còn việc thì bí thư Đảng ủy sẽ nghĩ ra, vẽ ra, làm đến quanh năm không hết. Lúc ấy có một trợ lý quân lực của tỉnh đội là người của Giếng Chùa đã ra tay cứu danh dự cho làng mình bằng cách khuyên hai chiến sĩ báo cáo xã xin trở lại đơn vị. Thế rồi khi lên tỉnh, và không biết bằng cách nào, hai anh lính ấy đã biên chế về một đơn vị của tỉnh đội. Cuối năm ấy đại hội Đảng bộ, bí thư Đảng ủy mất phiếu tới mức chỉ còn là một đảng viên thường. Rồi llên đó có đợt kiểm tra Đảng, đồng chí bí thư cũ bị một phen cuống cà kê lên khi bỗng có dư luận là chuyện vào Đảng của anh không rõ ràng? Lý lịch chưa khai hết những chỗ khúc mắc, còn hai người giới thiệu thì đều dinh tê vào Nam năm 1954! Anh đã phải chạy đi chạy lại về quê gốc ở mãi dưới vùng biển mất dăm lượt mới lấy đủ giấy tờ chứng thực anh là đảng viên chính hiệu! Thật hú vía! Phải chống đỡ lao đao, mà lại không biết ai là đối thủ chính. Bởi tất cả đối với anh vẫn rất thân tình vui vẻ. Khi họp hành không ai lên giọng bới móc chỉ trích gì, mà chỉ nhỏ nhẻ Đề nghị đồng chí giải thích cho cái chỗ ông cụ bên vợ có đúng là đã tham gia Quốc dân đảng không? Còn hai người giới thiệu thì lý do gì lại chạy vào nhà thờ để đi Nam với một số giáo dân? Tất nhiên để bảo đảm lời nói đông chí là đúng, thì phải có chứng thực! Thế là đủ giết nhau không gươm giáo! Mà thái độ vẫn cứ ngọt ngào, vẫn êm như ru! Chỉ bên ngoài dân chúng mới có lời nhắn tin rằng: Đất có thổ công, sông có hà bá, thành hoàng vùng này chưa đến nỗi mạt vận phải chuyển bài vị sang dân ngụ cư xóm Trại.
Từ đấy dân xóm Trại nhìn những người quê gốc ở đây cứ chờn chợn, thấy như họ tiềm ẩn một cái gì thật vô hình, mà lại có ma lực biến hóa khôn lường. Tốt nhất hãy chăm lo làm giàu. Nếu trong những cuộc bầu bán nếu ai có thắng phiếu, thì khôn ngoan chỉ xin lận làm cấp phó thôi, chớ dại tranh phần chiếu trên của dân bản xứ mà rồi có lúc tự mang dây buộc mình! Người xóm trại bảo nhau như vậy.
Lần này Trần Văn Sửu trúng ghế chủ tịch, mà có người đã nói là ông Sửu trúng xổ số, là bởi Trịnh Bá Thủ thấy cùng một lúc bên cánh nhà ông Phúc có đến ba đảng viên nối theo nhau nhảy dù về xã. Hai người em rể ông Phúc là chồng bà Lộc, bà Tài. Một người làm quản đốc trên Khu gang thép, một là cán bộ tuyên huấn lâu năm ở nông trường bò sữa cùng về hưu trong một tháng. Rồi Tùng, con bà Sang một thượng sĩ như trâu tơ ngứa sửng. Cả ba đảng viên đều kết nạp ở nơi khác, thế tức là họ không chịu ơn chịu nghĩa gì ở đây. Anh nào cũng có sỏi trong đầu! Phải nhanh chóng hùn vào cho Sửu người đứng đầu xóm Trại, đang là thường trực ủy ban xưa nay tôn trọng Thủ đến kính nề. Và để không bị mang tiếng là hẹp hòi, bè phái, chính Thủ đã đề xuất ý kiến khi họp với chi bộ Giếng Chùa nên đề cử Tùng vào danh sách bầu Đảng ủy mới, bởi Thủ thấy Tùng dám phê bình ông Phúc cả trong cuộc họp. Ngày Tùng chưa đi bộ đội, ông Phúc đã nhận xét về Tùng khi duyệt danh sách đối tượng là còn thiếu chín chắn, còn lớp cớp! Vậy thì phải triệt để lợi dụng ngay mối bất hòa ở trong dòng họ Vũ Đình này, chứ không thể trông chờ vào hai đảng viên già đời là chồng bà Lộc, bà Tài. Thủ đã giới thiệu Tùng khi họp toàn đảng bộ như là một nhân tố ga-ne-pho nhiều sức bật. Nhưng tất nhiên khi bỏ phiếu thì anh gạch tên Tùng đầu tiên! Tùng sao lại có thể ngồi cùng chiếu với mình được! Đến khi Tùng trúng cử với số phiếu vừa phải, nhưng đã là nỗi sửng sốt đối với Thủ. Còn Trần Văn Sửu thì trúng khá cao, bởi hai phe mạnh nhất chống nhau, thì người đứng giữa dễ dàng hưởng lộc. Lại phải làm cuộc vận động nữa để Sửu trúng cao trong cuộc bầu cử hội đông nhân dân. Đến khi Sửu ngồi được vào ghế chủ tịch rồi, thì không riêng Sửu mà cả xóm trại đều biết công lao to lớn của Trịnh Bá Thủ. Vậy là Thủ đã đạt được ý định không để chức chủ tịch rơi vào phe cánh chi họ Vũ Đình, đồng thời với Sửu, Thủ như người ơn mưa móc, anh có thể hoàn toàn lái theo mình.
Hôm nay vợ chồng Sửu cúng giỗ bố vợ, vì bên nhà vợ Sửu không có con trai. Làm từ trưa. Ngả một chú vện gần chục ký. Cả ban thường vụ kéo đến chén chú chén anh từ mười một giờ cho tới quá ngọ. Thủ cáo lỗi trưa này bận, hẹn tối sẽ đến thắp nén hương để tưởng nhớ cụ. Đó là ý định của Thủ, chứ thực ra anh không bận gì. Vì buổi tối ông Hàm đi làm cái việc ấy nên Thủ muốn vắng mặt ở nhà. Đến nơi nào càng đông người càng hay. Để nếu có sự cố gì, thì nhiêu người chứng giám là Thủ không liên quan, không biết tí gì.
Buổi chiều đạp xe lên xã, Thủ đi qua cổng nhà ông Hàm, thấy ông đang kỳ cạch chữa xe cải tiến để vài hôm nữa là gạt chiêm. Thủ vẫn ngồi trên xe, chống chân xuống hỏi nhỏ :
- Tối nay bát vẫn làm cái ấy chứ?.
- Thì vẫn! - Ông Hàm tiếp tục đục canh cách không ngửng lên, cũng trả lời vừa đủ nghe.
Thủ đạp xe đi ngay. Buổi chiều, hết giờ làm việc ở trên xã, Thủ còn thong thả chán. Hết sang trạm xá, lại sang khu nội trú các giáo viên trường cấp I, II. Ở đấy có đến ba cô giáo đã ngoài tuổi băm mà vẫn chưa chồng. Mỗi ìần gặp đồng chí bí thư cao ráo xởi lởi, là đôi bên chuyện trò không dứt. Thấy khói từ túp nhà bếp nhỏ như cái quán chợ bốc lên nghi ngút. Thủ nói gióng từ ngoài :
- Ba cô đội gạo lên chùa! Cho xin bát cơm bát cháo đây!
Có tiếng bấm nhau, rồi một giọng vóng vót :
- Có gạo mà đội đã tốt! ở đây là ba cô hết gạo lên chùa, một cô má thắm bắt đền bí thư!
Những tiếng cười ré như bị cù. Rồi vẫn cô gái mồm miệng như tép nhảy gạt khói chui ra. Mặt tròn người óng lẳn được lắm! Chỉ phải cái miệng rộng quá, cứ như miệng một gã đàn ông phàm tục đặt thâm vào. Chắc cánh con trai sợ vía cái miệng áy!
- Bây giờ nói nghiêm chỉnh với bí thư nhé, chúng em sắp đội nón chống gậy sang ủy ban ăn xin đấy? Có cái mái nhà bị thủng, đã kêu đến tỉ lần mà xã vẫn không dọi cho. Đêm hôm kia mưa dột như sảo, chúng em phải dậy ngồi quàng áo mưa. Đấy, xã bảo thương mấy cô trưởng ban phòng không, thương thế thì cái xương chả còn!
Thủ dừng lại trước cửa, nhe bộ răng trắng bóng ra cười, nói ỡm ờ :
- Ai bảo kén cho lắm vào còn kêu!
Thế là nói cười càng ồn ĩ, đối đáp ráo riết. Cứ xem cung cách nói năng như chém chả, nhưng lại với thái độ vui vẻ, ánh mắt đôi bên ngắm nhìn nhau rất bạo dạn thân ái, là đủ biết là đồng chí bí thư đảng ủy và ba cô gái sống độc thân ở đây quen biết nhau đến mức nào.
Thủ còn chuyện trò con cà con kê một lúc lâu. Mâm cỗ đậy lồng bàn để cạnh. Thủ bước tới bắt tay người anh họ vợ Sửu khiến ông nông dân chuyên nghề thợ đấu lúng túng với cách chào hỏi mà ông cho là phù phiếm này. Vào bàn thờ trong nhà thắp ba nén hương trước bức ảnh truyền thần một ông già gân guốc cắt đầu móng lừa, vừa quay ra Sửu đã kéo Thủ ngồi xuống chiếu. Còn nguyên vẹn một mâm đầy. với đủ các món ăn. Thủ gọi với xuống bếp :
- Bà chủ đâu rồi?
Thủ chưa dứt lời, vợ Sửu đã từ nhà dưới cầm cây đèn tọa đăng đi lên đon đả, tiếng người đồng bãi trồng đay vẫn giữ nguyên pha tạp. Nghĩa là phát âm rất ngọng :
- Giờ bác mới sang. Bác Hợi với bố cháu mong bác từ trưa. Hôm nay em sắp cơm canh quấy quá nhớ cụ cháu. Nuôi được con cày béo quá, mà mấy anh em thợ vụng nàm hỏng mất bộ nòng. Bố nó xem có phải hâm nại canh không?
Về khuya, gần tàn bữa rượu, mấy ông hàng xóm bên cạnh mới lệt sệt kéo những đôi guốc mộc sang. Số láng giềng này Sửu đã mời lúc trưa, bây giờ họ tự động đến là một cách biểu hiện tình cảm với đông chí bí thư Đảng uỷ. Vợ Sửu trải thêm chiếu nữa ra hiên. Mấy ông tự tráng ấm pha trà. Chè móc câu nhỏ khô săn như gạo rang, bỏ vào xuyến kêu roong roong như đông. Chế nước chỉ được qua lưng ấm, đậy nắp, rồi dội một chén nước sôi lên bên ngoài để xuyến nóng đều khiến chè mau ngấm. Nước róc ra xanh ánh trong những chiếc chén hạt mít uống sít soạt rất to, chép miệng rất to, nhưngbnước chỉ thấm môi. Người sành trà là phải biết tận hưởng, biết nhâm nhi ngẫm ngợi từng cái hương cái khói tỏa ra từ những nụ búp căng nhựa rang khô đang nở ra trong thủy nhiệt. Đó là phép thưởng trà. Lúc này chuyện mới nở như ngô rang. Từ chuyện đảng ủy và ủy ban cho người đi mua sắn, mua khoai về bán chịu cho bà con từ mươi hôm trước thật là sáng suốt, đúng là một miếng khi đói bằng cả gói khi no (Họ khen Thủ đấy!) Rồi nhảy sang chuyện bà con có kêu ca về việc hợp tác chia ruộng khoán còn có chỗ chưa hợp lý giữa Giếng Chùa với xóm Trại (Họ muốn nhắc nhở Thủ đấy!). Rồi sang chuyện nghe đồn lại có đơn kiện từ dưới này gửi lên huyện, lên tỉnh tố cáo rằng xã tự ý cắt một số đất canh tác cho con cháu mấy cán bộ chưa tách hộ làm nhà. Thoắt cái, chuyện của mấy ông nông dân vươn tới tầm chiến lược, bàn từ ông Goocbachốp dấy lên cái việc cải tổ, làm cho một số cán bộ cũ bên ấy về nghỉ như sung rụng. Thì ra con người cũng như cái kèo cái cột, dùng lâu quá không mối mọt bên ngoài, thì cũng ải nát bên trong! Rồi thì từ chuyện ông tai to mặt lớn đang khuấy đảo cả gầm trời, đến những anh cu chị cún chỉ quen với con cua cái ốc nơi xó đồng, các bố đều trộn lẫn với nhau, bàn rôm rả bên manh chiếu cùng ly rượu chén trà và những hơi khói thuốc lào sòng sọc.
Thủ giở nằm giở ngồi, tựa người vào tường, làm ra vẻ say lừ đừ để đỡ phải nói nhiều, nhưng thực ra đâu óc anh rất tỉnh. Chốc chốc Thủ lại kín đáo liếc nhìn đồng hồ tay. Anh bỗng thấy nóng ruột bồn chồn thế nào. Đã hơn mười giờ, nhưng chưa ai buồn ngủ. Sửu lại pha một ấm trà mới. Mọi người quay sang bàn tán về chuyện con ma hiện lên ở lêu lão Quềnh mà bà Đồ Ngật mắt tròn mắt dẹt kề mấy hôm nay. Hóa ra là một người đàn bà thật. Bà cả Lợi chủ quán phở ở đâu xã đã thuê chị ta gánh nước và rửa bát hai hôm nay. Nhưng hình như ban đêm chị ta lại về ngủ ở nhà lão Quềnh. Sao thế nhỉ? Hay lão Quềnh đã được tí tá tí mẻ, nên chị ta nhớ hơi cái ổ nằm? Hay là ma đội lốt người? Mọi người đang cười hinh hích, thì bỗng phía cuối làng có tiếng gì ầm ầm và ánh lửa chấp chới. Rất nhanh, cái khối ầm ào ấy mỗi lúc một to thêm, sáng thêm, rùng rùng chuyển động giữa đường làng, đi ngược lên phía ủy ban xã.
- Cái gì thế nhỉ? Bắt được cướp hay sao?
- Hay đấy chính là một đám cướp?
Mọi người nháo nhác hỏi nhau, rồi bỏ những chén trà vừa róc chạy ra cổng. Thủ cũng nhỏm người dậy, mắt vẫn nhìn ngơ ngác như chưa hết cơn say. Nhưng toàn thân anh bỗng nháy một cái như có tia điện chạy lướt từ chân lên đầu. Không nhẽ lại chính là chuyện ấy? Thế thi chết cả nút!. Sửu thu vội ấm chén, bảo Thủ :
- Ta cũng phải ra xem cái gì anh ạ!
Thủ gật đâu, vùng dậy, châm một điếu thuốc. Không có ai bên cạnh để nhìn thấy bàn tay Thủ đang run bắn. Một sự thầm mách bảo rằng cái đám ồn ào và những ánh lửa nhấp nhóa kia là điều rất gở đối với anh! Cái điều anh thắt thỏm lo ngại suốt ngày nay, hình như có đến thật rồi! Không khéo ông Hàm bị rồi? Thế thì hại tôi, chết tôi rồi? Xoay xở thế nào đây?
Khi Thủ vừa lẹp kẹp đến ngõ, thì thằng con trai lớn của Sửu dưới chân đồi chạy bố lên, miệng lấp bấp cứ lạc đi :
- Bác Thủ! Bác Thủ! Bác Hàm bị người nhà ông Phúc trói! Họ.. Họ đang dong lên xã.
Mắt Thủ tối xầm lại, ngực dội lên một cái Chết đứt rồi! Chỉ tí nữa thì Thủ kêu lên như vậy, nhưng anh đã lái được sang câu hỏi đến ngớ ngẩn :
- Sao? Hai ông già mà đánh nhau à?
Rồi cả Thủ, Sửu cùng mấy người hàng xóm băng qua mặt đồi chạy xuống đường. Mặc dù đã chuẩn bị thần kinh và gân cốt để đương đầu với cánh khan tương đổ mẻ nhưng người Thủ vẫn rã rời như chỉ muốn đổ sập xuống khi đám đông đèn đuốc rừng rực, rùng rùng những mặt người phừng phừng vừa đi vừa hô hoán kia đã hiện ra ở trước mắt.
Quang cảnh này y như hồi chiến tranh phá hoại, một hôm cũng vào lúc gần sáng có chiếc F4 đến bỏ bom trộm trên khu gang thép, bị tên lửa bắn cháy, thằng giặc lao quáng quàng xuống đến đây thì vỡ tung giữa cánh đồng Cây Quéo ở cuối làng kia. Mảnh bắn vung vãi làm vỡ một mái ngói, cháy hai túp nhà bếp, nhưng may không ai việc gì, kể cả viên đại uý phi công nhảy dù treo lơ lửng trên bụi tre gai, dân quân phải bắc thang khều hắn xuống, rồi dong tên giặc cao lênh khênh bó người trong bộ quần áo kháng áp nhằng nhịt những túi, những khóa như dong một con thú mặt người mình thuồng luồng lên ủy ban xã. Người các làng đổ đến như đi xem xiếc.
Lần này cũng gần như cả làng Giếng chùa mất cả ngủ ngáy, chạy xô vào nhau để nhìn ba bác cháu ông Hàm bị dòng họ Vũ Đình bắt làm tù binh.
Khi Hàm nhảy xổ vào Phúc, vung tay đấm vào ngực Phúc, thì Ưởng và Ngạc cũng hét một tiếng, huơ xẻng lên như hai tên hung thần. Rất nhanh một cái gậy phanh đánh chát vào chiếc xẻng của Ưởng và một cây gậy khác phạt phía dưới, ngang gióng chân, làm Ưởng ối lên một tiếng, ngã sấp vào bụi đồng ré lá sắc như cật nứa. Cùng lúc cái xẻng của Ngạc bổ bừa xuống những cái bóng nhốn nháo trước mặt. Một tiếng kêu á và một phát súng nổ đánh đoàng tóe lửa ở đầu nòng. Không ai động đến Thó, nhưng anh lính đánh thuê đã ngã nhào xuống, rồi cư lăn người rào rào trên bãi cỏ như một khúc gỗ tròn, miệng khóc hu hu. Viên đạn ghém bay sượt qua tai Ngạc. Biết là chưa dính da, nên một bóng người ở phía sau kéo giật ngang chân Ngạc, khiến cả cái khối thịt bị hẫng, ngã đánh hự. Đám con cháu nhà Vũ Đình nhảy phất ngay lên người Ngạc. Con trai bà Lộc, một gã thanh niên cao to như cái minh tinh, cùng xấp tuổi với Ngạc, từng hục hặc với Ngạc, llên mượn gió bẻ măng, gióng lấy súng của chồng bà Tài lên đạn lách chách, rồi chọc cái nòng lạnh ngắt vào mang tai Ngạc, rống lên đắc thắng :
- Đ. Mẹ! Ta phải bắn vỡ sọ thằng này!
Nhưng ông Tính đã vội giật lại khẩu súng. Vừa lúc tiếng Vũ Đình Phúc cũng hét lên :
- Không được bắn? Trói tất cả lại!
Thoắt cái, Ưởng và Ngạc đã bị trói gô bằng chạc trâu. Còn lại vị chủ tướng của chi họ Trịnh Bá, ông Hàm đang oằn oại bên bụi sim. Sau khi đấm cả hai nắm tay vào ngực Phúc, trút nỗi uất ức rồ dại vào đối thủ, thì Hàm bị Phúc đá vào hạ bộ, ngã lăn ra. Thực chất là cả hai ông trưởng họ không biết miếng mẹo gì cả, đánh nhau như trẻ con, cứ lao bừa, đấm đá bừa, được đâu hay đấy! Khi Hàm tỉnh lại, thì bị trói cứng cả hai tay.
- Dong chúng nó lên xã! Hô hoán nữa lên cho cả làng thấy cái mặt mo mặt mẹt!
- Để nguyên chỗ nó phá, đừng lấp. Sẽ gọi công an đến làm chứng.
Anh em nhà Vũ Đình hò hét bảo nhau, rồi đẩy ba bác cháu ông Hàm đi. Những bó đuốc được đốt thêm, người đổ ra thêm. Vừa đi đám người vừa hò hét khua gõ ầm ĩ. Một người cháu họ của ông Phúc bị một lưỡi xẻng của Ngạc bổ sượt qua vai, tí nữa cậu ta bị chẻ theo chiều dọc! Bây giờ một miếng vải xô trắng cuốn trên bả vai, trông mùi mẫn như một nhân chứng của sự cảm tử! Cậu ta vác chiếc gậy đi cạnh bó đuốc cháy chửng chửng, nhìn dữ dần như một đội nghĩa quân thời bộ lạc.
Đám người đi đến đâu, đêm vỡ ra đến đấy trong ánh lửa và tiếng hò hét thinh nộ. Đám đông đã hiện ra nhỡn tiền trước mắt Thủ.
Đi đầu là con trai bà Tài. Người dài lêu đêu như con sếu. Hai tay giơ bó đuốc quá đầu, chốc chống lại huơ tròn cho ngọn lửa bốc cao. Tiếp đến là Ưởng và Ngạc tóc tai bù xù rũ rượi, mặt mũi sây sát, tối sầm. Rồi đến ông Hàm, vẫn bộ quần áo xanh tàu tàu, mắt gườm gườm nhìn xuống, mái đầu cắt móng lừa, tóc dựng lên như bông gáo. Lòng Thủ bỗng quặn lại, thương ông anh khốn khổ. Mồ hôi vã ra từ lòng bàn tay. Nỗi đau của tình máu mủ dội lên trong người Thủ. Uất ức đến nghẹn ứ lên. Trán và sống lưng chảy mồ hôi lạnh. Thấy Thủ bỗng run toàn thân như dẽ khi cái đám bộ lạc kia chỉ còn cách mươi bước chân, Sửu quay sang hỏi nhỏ :
- Anh quay lại vào nhà tôi đã. Coi như anh không ở đây. Cứ để tôi lo liệu.
Thấy Thủ vẫn đứng ngây ra bất động, Sửu bảo con trai.
- Thằng Mùi đưa bác về nhà.
Sửu lo Thủ không giữ được bình tĩnh, lại giống như Nẫm hồi năm ngoái thì hỏng bét. Đang là phố chủ tịch kiêm trưởng ban công an, chỉ vì bênh em gái, mà em gái Nấm chúa hay cậy thế gào làng ăn vạ. Làm thủ kho mà ăn cắp như ranh. Bị Phát giác còn lu loa xông vào xé áo người ta. Thế là đánh nhau. Được tin, Nẫm lao bế đến bênh em. Khi bị phê bình kiểm điềm, Nẫm còn nói chầy bứa: Dù mất chức, mất quyền, mất Đảng, chứ tôi không cho ai động đến người nhà của tôi! Đã thế thì mất ráo! Anh mất chức tháng trước thì em gái mất cái chân thủ kho béo bở tháng sau. Cả làng cười cho là dại!
Giờ đây Sửu chỉ lo Thủ cũng không giữ được mình. Anh ấy đang run thế kia. Mặt tái đi thế kia! Dân gốc vùng này hễ động đến họ hàng ruột thịt của họ, là họ dễ nổi máu điên lắm. Thằng Mùi vừa kéo Thủ quay lại, thì Sửu nhảy xuống đường vung tay nói lớn :
- Có chuyện gì thế này? Tại sao đêm hôm lại khua ầm ĩ thế hả? Biểu tình hả? Tất cả giải tán ngay! Có việc gì mai lên xã giải quyết!.
Đám người đang hùng hổ, bỗng sững lại. Như dòng nước đang sôi sục, bỗng hút vào một con đập chắn ngang. Những người không dính dáng gì đến dòng họ Vũ Đình, chỉ đóng vai chầu rìa, nếu cần nhảy vào đánh hôi dăm ba quả cho sướng tay. Bầy giờ thấy mặt chủ tịch xã đàng đằng cương quyết, nên lỉnh ngay. Chả dại dây với chính quyền, trứng chọi đá.
- Báo cáo với ông xã là thế này! Một tiếng nói the thé rẽ đám người đi lên. Đấy là bà Lộc, người đành hanh nhất họ Vũ Đình, cũng ham hố vào loại nhất họ. Khi ông Phúc mất chân chủ nhiệm, bà nói toang toang là ông anh bà không cùng ê kíp với cánh cán bộ xã bây giờ, chứ còn ai thạo việc bằng bác Phúc! Thấy chồng về hưu, bà thở dài đánh thượt: Ông vội về làm gì? Tôi không cần ông phải chân lấm tay bùn, tôi gánh được tất. Ở làng này mà cả vợ chồng con cái phải bán mặt cho đất, bán lưng cho giời mới kiếm được miếng ăn, thì không ai người ta trọng - Bà đang ấm ức khi thấy họ Trịnh Bá đang lên, họ Vũ Đình nhà bà đang xuống. Cả bên nội bên ngoại những một đống đảng viên mà lại chịu đi xuống? Đảng viên mà lại chỉ biết cái cày cái cuốc người ta bảo quan ba cũng ừ, quan tư cũng gật, thì còn đảng làm gì! Bà Lộc thấy nội tộc nhà mình như bị vặt lông vặt cánh. Cho nên lúc nãy đang ngủ, nghe chồng về báo, bà chồm ngay dậy. Nỗi căm tức mộ bố bị phá còn chưa sôi sục bằng thấy họ nhà mình bị thua thiệt. Bây giờ có cớ bà lập tức như con chim xù lông, thấy đây là lúc tốt nhất để bà túm tóc cả nhà Trình Bá mà ấn dúi xuống!
- Báo cáo với xã là chúng tôi không có lật đổ ai, chỉ vì mấy người xấu bụng này định hại cả họ nhà chúng tôi. Đã đào mộ bố chúng tôi vừa chôn, lại định đánh chết người nhà chúng tôi ra ngăn. Lúc nãy thằng con tôi không tránh nhanh thì bị bổ chết rồi! Hỏi cả cái gầm trời này có còn ai ác độc hơn thế nữa không? ối bà con làng nước ơi!
Bà Lộc òa khóc nức nở. Chủ tịch Sửu lại huơ tay nói lớn :
- Nhưng cứ phải giải tán! Đêm hôm không được làm loạn xà ngầu lên. Có gì sáng mai giải quyết.
Bỗng một tiếng hét cắt ngang từ phía cuối đoàn người :
- Tại sao lại giải tán? Định âm mưu đánh tháo những tên có tội hả?
Rồi đến năm sáu bóng người lừng lững xừng xổ đi lên. Ông Phúc vội kéo tay một người, thì người ấy nói rinh rích như nhai chính giọng nói của mình Bác mặc chúng em. Đấy là những người họ xa của ông Phúc, vừa mắt nhắm mắt mở đến, nhưng đã nghe thủng câu chuyện, họ lên gầm lên. Đây cũng là những thành phần ghê gớm, thật ra họ chẳng thù hằn gì anh em nhà Trịnh Bá, mà lại cay cú với chính Trần Văn Sửu về việc Sửu giải quyết đất đai không đúng ý họ từ hơn năm nay, nên họ muốn nắn gân Sửu cho hả giận. Một người quay sang bà Lộc hét :
- Thím Lộc câm ngay mồm? Việc gì phải khóc? Cái lý nắm trong tay mình, sao phải khóc?
Rồi ào một cái, cả sáu người đàn ông đứng vòng tròn quanh Sửu. Lô nhô những đầu gậy và cả một cái lưỡi thùng lùng nhọn hoắt cứ lấp ló sau lưng Sửu. Một bàn tay nặng như cùm ấn vai Sửu xuống. Những khuôn mặt gân guốc như đá đeo, những tia mất sóc sói như đã nổi cơn điên, cứ xỉa vào người Sửu Một giọng nói trầm, nhưng rất sắc chõ vào tai Sửu :
- Này ông chủ tịch ngụ cư hãy liệu thần hồn! Mở tai ra nghe đây: ông định hống hách với ai? ông định bao che để trả ơn thằng Thủ hả? Định để sáng mai rồi đổi trắng thay đen, *** trâu hóa bùn hả? Khôn hồn phải giải quyết ngay đêm nay, và không được động đến mấy thằng này, nếu không phải có người phá hết lúa má, sẽ đốt nhà rồi dìm ông xuống sông! Những thằng trọc đầu này đã chơi là không ngán đâu.
Sửu đang tái xám cả mặt mũi, thì chính người vừa nói những lời dao búa ấy quay ra, đấm tay vào thinh không, cao giọng :
- Tất cả im lặng! Chúng tôi đã hội ý với ông chủ tịch! Ông chủ tịch đã bằng lòng sẽ giải quyết ngay đêm nay. Bây giờ mời ông chủ tịch có vài lời!
Sửu lách người, đứng ra khỏi vòng vây hãm, nhưng mắt vẫn liếc dè chừng. Cái giọng quyền biến lúc nãy, bây giờ bỗng ngắc ngứ.
- Xin bà con yên tâm. Tôi sẽ không bao che khuyết điểm cho ai. Nhưng vì đây là việc phức tạp, nên phải có mặt của cả đảng uỷ, ủy ban và công an, rồi nghe đôi bên trình bày. Vì thế tôi không muốn gây rối loạn giữa đêm thế này.
Thế là tất cả lại ầm ầm lên :
- Đừng có nói quanh co tù mù thế! Ông có giải quyết không?
Ông Phúc bây giờ mới lên tiếng :
- Tất cả im lặng, mọi việc đã có tôi. Từ nãy đến giờ tôi chưa nói, là tôi muốn xem xã định giải quyết thế nào. Bây giờ chúng tôi yêu cầu: xã phải lập biên bản ngay. Phải giam giữ luôn mấy người này! Tôi đã cho người đi gọi trưởng ban công an và bí thư đảng ủy tới.
Sửu quay lại Phúc nói thống thiết :
- Đồng chí Phúc, tôi đề nghị chúng ta hãy lấy tinh thần đảng viên để giải quyết công việc. Đồng chí định khua cả xã dậy hay sao? tôi được biết tối nay cả bí thư đảng ủy và trưởng ban công an đều đi vắng không có nhà.
Lại ầm ầm như vỡ chợ :
- Khua cả xã dậy cũng được. Đừng có đánh bài chuồn mà không xong đâu? Làm cán bộ thấy việc phải giải quyết, chứ không phải chỉ quen nghe người ta mời vào mâm!
- Bí thư với công an đi vắng, chúng tôi cũng tìm bằng được có lẩn đằng trời!
Đang nhao nhao, thì bỗng một giọng rất đanh, vang lên phía trên đồi :
- Tôi đây! việc gì tôi phải lẩn đi đâu!
Rồi Thủ nhảy từ trên thành ta-luy xuống. Đôi mắt thường ngày hay nheo cười lấy lòng, bây giờ ánh lên sắc lạnh.
Thủ liếc nhanh sang Sửu như muốn nói: Anh chỉ tổ gây rối thêm việc! Đáng lẽ phải vờ nhũn để lấy lòng họ, để dập tắt đám cháy, rồi sẽ tìm cách phản công sau, thì anh lại chọc tức họ, rõ là chọc tổ ong, ngốc!..
Sửu đã đọc được những lời chỉ trích ấy và ông chủ tịch sổ xổ đứng co người lại.
- Thưa bà con! - Thủ cố hạ giọng, nhưng tiếng vẫn run lên - Tôi mới được tin vội đến đây ngay. Nhưng tôi đã nghe rõ sự việc. Như vậy là người nhà của chúng tôi sai. Mức độ thế nào đã có pháp luật phân giải. Tôi đồng ý sẽ giải quyết ngay đêm nay. Ngày mai sẽ mời huyện về xem xét. Bây giờ tôi yêu cầu đồng chí Phúc, đại diện bên tố cáo, cùng chúng tôi lên văn phòng ủy ban để lập biên bản. Còn tất cả xin mời về nghỉ để đảm bảo trật tự an ninh.
Bà Lộc lại the thé :
- Nhưng giữ ba người phạm pháp này lại không được thả.
Thủ khóa tay dứt khoát :
- Tôi đồng ý! - Bên chúng tôi không phải chỉ có mình ông Phúc, mà phải có cả thằng Quyền con tôi bị chém hụt, rồi ông Thó bị mua chuộc cùng lên để kể rõ sự việc vào biên bản.
- Tôi đồng ý!
Một tiếng thở phào từ cuối đám đông :
- Có thế chứ!
- Nghe lọt tai đấy!
Sự nhũn nhặn của người có quyền cao nhất xã, cộng với sự đầu hàng của người đại diện cho dòng họ Trịnh Bá đã làm cho quả bóng đầy hơi của chi họ Vũ Đình được mở van. Cả đến những anh chầu rìa sẵn sàng nhảy vào đánh hôi tuốt tuột cả hai dòng họ, giờ cũng toát ra cười hể hả! Những bộ mặt đang hầm hè hến chùng ngay xuống. Duy nhất chỉ có một người nghe lời mềm mỏng của Thủ, thấy như mình bị thoi từng quả đấm vào tim. Miệng chỉ chực gầm lên chực chửi bới tất cả, chân tay đập phá tất cả. Đấy là ông Hàm!
Ông trừng trừng cặp mắt cá rói nhìn thẳng vào Thủ, người cùng giọt máu với ông. Người xưa nay quen gặt hái trên công lao nhọc nhằn của ông. Ông đã vì hắn mà nai lưng ra cáng đáng mọi việc như một con lừa! vậy mà hắn đã bán phéng ông! Đồ đểu! Mặc cho ông Hàm tức giận đến dựng ngược cả mái đầu bông gáo, nhưng lên tới văn phòng ủy ban, ông vẫn phải ký vào biên bản rằng: ba bác cháu ông cùng một lúc đã phạm vào hai tội: phá mộ người mới chết và hành hung thân nhân người chết khi họ ra can ngăn.
Cả hai tội đều to kềnh! Đó là hai cánh cửa để đón ba bác cháu vào tù! Biên bản được lập trước sự chứng giám của những người chủ chốt của chính quyền địa phương: bí thư đảng uỷ, chủ tịch xã và phó ban công an.
Đồng chí phó ban công an thực sự bị dựng dậy từ trong buồng vợ, giữa lúc đồng chí đang lắp ghép bức tượng người hai lưng? Phó ban công an là cháu bên vợ Thủ, gọi Thủ bằng dượng. Thế nghĩa là ba người này: bí thư, chủ tịch xã và phó bạn công an rất hợp ý, hợp lòng như ba chân kiềng. Vậy mà vẫn thua. Vẫn phải làm theo yêu cầu của Vũ Đình Phúc, là xã quyết đinh tạm giam ba bác cháu ông Hàm để hôm sau huyện về phân xử. Và ba bác cháu ông làm đã nằm chờ sáng trên mấy cái ghế băng ghép lại trong căn phòng dùng làm nhà kho ngổn ngang những cờ, đèn, kèn, trống, panô, khẩu hiệu của xã. Một căn phòng tối tăm đây những mùi mốc, mùi bụi. Bên ngoài cửa khóa trái. Đích thị là nhốt những thằng tù! Xong việc, Thủ vừa ra đến cổng ủy ban thì gà gáy canh hai. Người mệt như rút tuỷ. Thủ cay đắng nhận thấy chính mình, đang có trong tay cả một chính quyền, nhưng vừa bị thua một cú nốc ao! Chính anh, vừa phải bàn giao cả uy tín và sức mạnh của cá nhân mình, của dòng họ mình cho Vũ Đình Phúc! Hai tay Thủ bỗng chốc như tuột hẫng, không còn biết bấu víu vào đâu. Xung quanh trống hoác!
- Anh ạ, ta bàn xem - Sửu bước vội lên gần Thủ, rụt rè nói.
- Thôi! - Thủ dằng giọng, bước nhanh. Anh cũng tự thấy mình vô lý khi nổi cáu với Sửu, nhưng lại không thể ngọt được! Cả Sửu và Cao, phó ban công an đều không dám gọi Thủ lại.
Vừa ra đến cổng, Thủ bỗng giật mình khi thấy một bóng người quen quen đang đứng tựa vào gốc cây bạch đàn phía trước.
- Ai? Cái Đào hả?
Thủ vừa lên tiếng, thì bóng người con gái đang đứng ủ rũ ngửng phắt lên, giọng đanh lại, đúng là con gái ông Hàm!
- Phải! Cháu đây! Chú đã cứu một người ruột thịt của chú như thế đấy! - Rồi Đào khóc hức hức lên, chạy xiêu xiêu nhòa vào những bóng cây tối thẫm.
Thủ đứng lặng, lòng tan nát!
Đào vẫn chạy xuôi theo đường, miệng vẫn khóc nức lên như bị đòn oan, như bị hắt hủi. Nhưng Đào vốn là cô bé không chỉ biết có sướt mướt. Mang hình dáng mẹ, một hình dáng thon óng, gợi cảm gợi tình, nhưng trong người Đào là dòng máu bố, chất máu của sự quyết đoán và bạo liệt. Khóc cho vợi lòng, rồi Đào lần lần nhớ lại. Đào thấy mình đã bị lừa!
Mà người lừa cô không phải ai xa lạ. Chính cái người tối tối Đào vẫn phải tìm mọi cớ cho lọt tai hai cụ via, để rồi cô lao bố ra gốc nhãn, ra điểm hẹn, điểm say mê của hai người. Đến khi về nhà, đêm đã rét se se, nhưng Đào vẫn dội nước lạnh để cho dịu người lại. Da thịt cứ hôi hổi, bừng bừng. Có hôm cái Hoa sang ngủ chung, đêm nằm mơ, Đào cứ ôm ghì lấy đưa em, dụi đầu vào mặt nó, đến khi cái Hoa kêu thét lên, Đào mới tỉnh. Sáng dậy, đang rửa mặt, cái Hoa bỗng sực nhớ, và ở đứa con gái mười hai tuổi, đã có nhạy cảm về giới tính, nó nháy mắt quay sang bà Son: U ơi đêm qua chị Đào ghê quá? Đào gần như hét lên, lấp liếm cất ngang lời nó: Im đi! Đừng có nhí nhố! rồi Đào kèm sát nó, thấy nó định mở miệng là chí tay vào sườn, cho đến khi nó đi học cô mới thở ra cười thầm. Để rồi đến tối, trước sự háo hức của người con trai, Đào hãy tay ra, béo vào tai Tùng khoan đã nào, để yên người ta kể cho mà nghe chuyện đêm qua người ta mơ. Rồi kể, rồi cả hai cười rinh rích rồi ôm cuốn lấy nhau. Những vòng tay siết chặt như bện thừng!
Đêm nào gặp nhau cũng như men, như lửa. Rồi xa nhau chỉ mươi tiếng đồng hồ, và chỉ có cánh nhau một cánh đồng, nhưng lúc chia tay cứ bịn rịn nấn ná. Người này nhìn như uống lấy người kia. Đang đi, lại đứng, lại ngồi dùng dằng nối tiếc. Nhưng tối nay rõ ràng là khác lắm. Hắn vội vội vàng vàng như người mất của. Vừa đến đầu rặng tre kia là hắn quay lại phới ngay. Thế mà lúc ấy mình ngu quá, không phát hiện ra. Hắn đã chạy vội về để huy động cả họ hàng ra đồi sim bắt mấy người làm bậy. Ừ thì mấy người này sai rồi, nhưng thiếu gì cách để ngăn cản họ. Chỉ cần một mình hắn chạy ra đánh động từ xa, thế là đủ để mấy người kia bỏ chạy ré kèn. Nhưng hắn đã không làm thế. Chinh hắn đã đầu têu, đã tồ chức ra cái việc bắt bớ này. Đào lại khóc nức lên uất ức. Cô đang thầm hoạch tội hắn, tức là tính sổ Tùng với tất cả sự vứt bỏ và căm thù!
Cả bà Son và cái Hoa cũng đang nằm khóc. Cái Hoa cứ ôm lấy bà Son khóc như bị mắng, bị phạt từ lúc Đào tất cả chạy theo đám người đèn đuốc rừng rực dong ba bác cháu ông Hàm lên xã. Lúc ấy bà Son đi như lê từ ngoài cổng vào. Chỉ tới được chiếc giường là bà lăn ra như không còn xương cốt. Buổi tối thấy Thó đến với bộ mặt thấp thỏm, bà đã nghi nghi. Rồi về khuya thấy Ưởng và Ngạc, hai ông cháu bất hảo đến, thì bà Son thấy rõ mấy người này sắp làm cái gì vụng trộm. Chiều ý ông Hàm, bà vào buồng nằm, cố lắng tai nghe, nhưng không sao rõ được những lời thì thầm của họ. Thôi mặc, lại đến đi móc trộm gỗ, trộm phản của ai là cùng chớ gì. Cái ông này đến lạ, có thiếu thốn gì cho cam. Hay đấy là cái máu của những anh cầm tràng đục? Nhìn thấy gỗ đẹp, gỗ tốt là cứ mắt la mày lét như anh háu sắc thấy gái!
Khi họ dắt nhau đi, thì bà Son đã thiu thiu ngủ. Rồi chó cắn rầm rĩ, rồi người la, rồi những bó đuốc đùng đùng cứ huơ lên như phát cuồng. Thấy ông Hàm chưa về, linh tính bỗng báo cho bà có cái gì không lành. Bà chạy ra đường cái chính. Rồi bà dụi mắt mấy lần để nhìn xem có đúng là ba bác cháu ông Hàm bị trói và đang bị dong đi kia không. Đến khi thấy đúng là thật rồi, chứ không còn mộng mi gì nữa, bà đã nhìn thấy ông Phúc và cái đám đông kia hầu hết là anh em họ hàng nhà Vũ Đình, thì bà Son run hết cả chân tay, ngồi khụy xuống, nước mắt chảy ràn rụa. Chắc chắn không phải chuyện gỗ lạt rồi, cái gì đó nghiêm trọng hơn nhiều. Bà Son chạy tắt về nhà, dựng Đào đang ngủ mê mệt dậy. Chưa hết tuổi ăn tuổi ngủ, lại được tình yêu đắm say ru vỗ nên đặt mình xuống là Đào trôi ngay vào giấc ngủ vừa bềnh bóng vừa thăm thẳm.
Đào khoác vội áo, rồi vùng chạy theo đám đèn đuốc. Lát sau lại chạy bổ về kể đầu đuôi cho bà Son nghe. Bà Son thất kinh, miệng mếu máo kêu: Giời ơi! Sao thầy mày dám làm cái việc ác ấy? Chân tay bà càng run như eơn kinh giật. Thì ra ông ấy thù hằn anh em nhà Vũ Đình ghê gớm quá nhưng ông ấy lại chuốc lấy tai họa rồi! Một lần nữa ông ấy lại thua rồi. Lần trước thua, ông ấy đã trút sự uất ức lên đầu bà. thua lần này, ông ấy sẽ đổ vào đâu ai? Càng nghĩ, bà Son càng tủi cho cái số của mình, chỉ muốn yên phận mà cũng không được. tiếng khóc cứ lặng đi. Cái Hoa cũng đã thức. Ba mẹ con rặt đàn bà con gái ôm nhau khóc như nhà có đám. Đào lại vùng dậy chạy ra đường.
- Mày còn đi.đâu? - Bà Son kéo áo Đào.
- Con phải đi xem người ta làm gì thầy.
- Đừng có lu loa, Đừng có gây sự với họ nữa con ơi! Mình sai rồi? - Bà Son nói như van vỉ. Bà biết tính con gái. Khi cần nó cũng đanh đá ghê gớm lắm, chứ không mềm mỏng như thằng Dương anh nó. Nó giống thằng Dinh, tính cục. Ngày mới lớn đi chăn trâu, Đào đã thấy lần đánh nhau với con trai, mà lại đánh được! Vì lúc tính cục nổi lên, Đào vớ cái gì đánh nấy, vớ gì phang nấy. Đám con trai làng này vừa thích nó, lại vừa sợ nó!
- U cứ mặc kệ con! - Đào vùng vằng rồi lao ra cổng.
Và cô đã đi theo đoàn người đến tận cùng, đến phút chót. Đào lùi lại một quãng khuất vào bóng tối để không ai nhận thấy mình. Đào cố nhìn nhưng không thấy hắn. Thế tức là hắn ném đá giấu tay! Hiểm thế! Cụ bô thế mà tinh, ngay từ hôm đầu cụ đã bảo hắn không phải tay vừa! Tới ủy ban, Đào núp trong bụi chuối ở góc vườn. Đến khi thấy người ta đưa ba bác cháu ông Hàm về gian nhà kho ở cuối hội trường, thì Đào định nhảy ra hét lớn. Nhưng rồi cô đã kìm được khi quyết định chờ Thủ ra để trút hết sự giận dữ lên ông chú đang nắm quyền cao nhất xã, vậy mà bây giờ đã hoàn toàn bất lực.
Nhưng rồi Đào chỉ ném được câu trách móc ấy vào người Thủ, rồi khóc tứe tưởi chạy về nhà.
Đào đi sầm ầm lên nhà trên. Bà Son văn mở cửa. Ngọn đèn con vặn nhỏ đề trên bàn sa-lông giữa nhà. Bấc đèn có hoa. Người hay tin điềm, cho đó là một báo hiệu xấu.
Cái Hoa nằm ôm lấy bà Son, rúc đầu vào nách mẹ như sợ một tai họa gì sẽ đến với chính nó.
- Người ta làm những gì với thầy? - Bà Son nhỏm lên tiếng đã rè đặc.
Trong ánh sáng vàng mờ của ngọn đèn, khuôn mặt bà Son như gầy võ hẳn đi.
- Ông Thủ cũng chẳng được cái tích sự gì! Anh em ông Phúc yêu cầu thế nào, mấy ông xã cũng phải chịu nghe thế? - Đào vừa nói dằn giọng, vừa róc nước như xối ra cốc, uống; rồi vặn to ngọn đèn. Bà Son sửng sốt thấy Đào đã có cái giọng đúng là người của dòng họ Trịnh Bá khi nói về người dòng họ Vũ Đình. Nó nhiễm cái máu ấy từ bao giờ? Sao lại nghe phong phanh là nó với thằng Tùng con bà Sang phải lòng nhau?
- Lúc đi thầy có nói gì với u không? - Đào vẫn ngồi lầm rầm ở ghế, giọng đanh lại chứ không còn sùi sụt nữa.
- Những chuyện riêng của thầy mày có bao giờ tao được biết? - Bà Son nói ấm ức - Lúc mấy người kia đến, thầy mày còn không cho tao ngồi gần sợ nghe thấy. Chả nhẽ việc như thế ông Thủ lại không biết?
Đào buông một câu, càng đúng là cái gien ông Hàm :
- Có biết bây giờ cũng chối là không!
Chiếc đông hồ ô-đô trên tường buông năm tiếng. Cả bà Son và Đào chợt khẽ rùng mình. Bởi cả hai người cùng hiểu sáng ra, giữa thanh thiên bạch nhật, chuyện nhà bà sẽ càng ầm ĩ cả làng, cả xã. Rồi những người không ưa ông Hàm, không ưa họ mạc nhà này sẽ được dịp cười cợt khích bác cho bằng thích để hả lòng hả dạ. Kể cả những người không yêu không ghét, xưa nay không có xích mích gì, nhưng thấy một nhà phong lưu một dòng họ phong lưu bị sa sẩy, thì họ cũng vẫn cứ thích? Nhất là lại được nói những lời an ủi, được san sẻ nỗi âu lo với các người quen đứng ở trên mình, thì sự thích thú càng tăng! Bởi lâu nay họ phải nhìn thấy anh em nhà Trịnh Bá may mắn nhiều rồi, làm chơi ăn thật nhiều rồi, đến bây giờ họ mới được đưa tay ra cảm thông cùng những lời trắc ẩn để an ủi anh em nhà Trịnh Bá thì còn gì thú vị bằng! Làm thế là chính là để tự vuốt ve mình đấy thôi! Được đưa tay cúi xuống nâng người khác, bao giờ cũng dễ chịu hơn rất nhiều là phải kiễng chân để xin một ân huệ! Bà với con Đào cũng sẽ bị họ cười vào mũi! Nhan sắc hơn người mà! Nhan sắc luôn là con dao phản chủ!
Mặc nỗi lo của mẹ con bà Son, đêm đông tỏ ra sáng dần.
Đã sáng một lúc lâu nhưng Thủ vẫn chưa muốn dậy. Mặc dù từ lúc ở xã về đến giờ anh không hề chợp mắt. Người cứ như rỗng không. Đêm qua về đến nhà không thiết rửa ráy, Thủ vào ngã người ngay xuống giường. Vợ Thủ nằm với đứa con gái nhỏ ở góc bên kia, nói với sang :
- Thầy nó có đói đi ăn cơm thêm? Buổi tối cậu Lưu cho thịt vịt em vẫn để phần đấy.
Vì nhà Thủ ở khuất, lại xa đường, thêm cái nết ngủ của Luyến đến súng bắn bên tai cũng coi khinh, nên vợ con Thủ chưa hay biết gì cả. Thủ nói lừng khừng :
- Ăn rồi. Sáng mai không được gọi tôi đấy nhá!
Rồi Thủ tắt đèn, mắt mở chong chong nhìn vào đêm tối. Đau óc nhức tấy lên. Lần này thì Thủ thật sự bị đôn vào chân tường rồi, không còn lượn lờ dựa dẫm vào ai được nữa. Về mặt xã và chính quyền, đã có Sửu và những người khác, họ cứ dựa vào pháp luật mà thi hành, dễ ợt. Nhưng với Thủ là cả dòng họ Trịnh Bá trông vào anh. Phải tự xoay xỏa. Lúc này một mình một ngựa, một mình một chiến trường! Xưa nay Thủ chưa hề thấy sự bức xúc trong việc giành chỗ đứng cho dòng họ, bởi Thủ không có những uẩn ức riêng tư như Hàm, và mọi việc đối với Thủ đều quá thuận lợi, đều ở trong tàm tay. Vậy mà ông Hàm chơi cú này đến mất cả chì lẫn chài của dòng họ Trịnh Bá đây! Thủ cũng đến chết chìm theo con thuyền này! Chịu khoanh tay phó mặc sao? Muốn thay đổi thế cờ thì thay cách nào? Đến nước này trở tay không được đâu. Cánh lão Phúc nó cúng có sừng có mỏ chứ không phải dân ngu cu đen gì mà dễ bắt nạt.
Thủ hết nằm ngửa lại nằm nghiêng. Đầu ong ong. Sáng ra Thủ nghe thấy tiếng mấy mẹ con thì thào rồi đi lên đi xuống đây sốt ruột, nhưng vẫn không ai dám đánh thức Thủ. Bây giờ lại nghe tiếng Sửu ở ngoài sân, rồi vợ Thủ cứ thế á, thế á đầy hốt hoảng.
Dường như không đừng được nữa, vợ Thủ rón rén lại bên giường gọi nhỏ :
- Thầy em dậy đi, có chú Sửu đến.
Thủ vừa dụi mắt, chui ra khỏi màn, thì Sửu đã quần ống thấp ống cao nét mặt rầu rầu như người có lỗi, đến bên Thủ :
- Gay lắm anh ạ! Cứ ầm ĩ từ sáng đến giờ. Đám trẻ con thì bỏ cả học, cứ bâu lấy hội trường. Cánh nhà ông Phúc đã cho người lên huyện báo từ sớm, chắc lúc nữa họ về. Ta phải làm gì hả anh?
Nhìn Thủ cứ ngồi lựng với bộ mặt mất thần, Sửu càng lúng túng. Mới cớ một đêm mà anh ấy hốc hác đi khiếp quá. Đúng như người ta nói đa suy tổn tỳ, nghĩ nhiều tổn thọ. Sửu lại nói nho nhỏ :
- Cánh nhà ông Phúc cũng đáo để. Đêm hôm qua họ bí mật gài hai người ngồi suốt đêm ở nách hội trường để nếu xã đánh tháo bác Hàm, thì họ sẽ la lối lên.
Vợ Thủ bưng chiếc mâm từ dưới bếp lên. Bên trên là tô cơm rang và đĩa thịt vịt xào. Chị vừa dọn bàn, vừa nói sẽ sàng :
- Thầy em đi rửa mặt, rồi mời chú Sửu ăn tạm bát cơm.
Sửu quay lại lấy làm may mắn đã có cớ rút lui để khỏi phải ngồi với Thủ lúc này.
- Thôi tôi ăn rồi. Sáng nay bên tôi vẫn còn nồi xáo ăn cố mới hết.
Rồi Sửu quay sang Thủ hỏi nhỏ :
- Tý nữa anh có lên xã không? Tôi thấy lúng túng quá.
Thủ đáp sổng :
- Tôi sẽ lên.
Sửu tươi nét mặt.
- Vâng thế tôi lên trước nhé.
Dứt lời, Sửu ra sân dắt xe đi ngay. Sửu còn chưa nói với Thủ chuyện này: ấy là hai người của nhà họ Vũ Đình gài nằm lại ở nách hội trường đã nghe hết chuyện lục đục của bác cháu ông Hàm trong đêm. Thằng Ưởng nằm trên hai chiếc ghế băng ghép lại, thừa cả đầu cả đuôi. Đang nằm thẳng đẵng như khúc gỗ bỗng nó co chân đập chan chát xuống ghế, miệng chửi rầm lên. Ở bên ngoài chỉ nghe nó hét Mẹ kiếp! Mẹ kiếp Không biết nó mẹ kiếp với ai! Rồi nó làu nhàu những gì, cũng không nghe rõ. Ở góc bên kia, ông Hàm và thằng Ngạc nằm chung trên mặt bàn. Thằng Ngạc nhổm lên văng tục sang thằng Ưởng Làm đ. gì mà rống lên thế? Ông Hàm nằm im không động cựa, miệng chỉ làu bàu im nào! im nào Nhưng thằng Ưởng không im, chốc chốc nó lại dộng chân thình thình, lại văng tục ầm ĩ.
- Thế tức là ông via trưởng họ mất thiêng rồi! Cá mè một lứa rồi! - Vừa kể chuyện oang oang trước đám đông, hai người của họ nhà Vũ Đình vừa bình, vừa đế thêm vào rồi gã con trai nhà bà Lộc cao như cái sào chọc mít cứ hoa đôi tay dài ngoằng, hét tướng lên khoái trá: Thế là nội bộ họ lục đục rồi! Khỉ tự vặt lông khỉ rồi!
Người ta xúm đông xúm đỏ nghe chuyện, cười hấng nhấc khoái chí lắm!
Thủ rửa mặt, rồi ngồi nhai cơm trệu trạo như nhai rơm. Bốn gian nhà mái bằng rộng huênh. Mấy đứa trẻ đã biến hết. Chắc chúng kéo nhau lên xã rồi, bẽ bàng chưa! Vợ Thủ sàng gạo ròe ròe dưới nhà. Đoán chừng Thủ đã ăn xong, chị đi lên với bộ mặt bồn chồn. Những nốt rỗ hoa ửng đỏ lên. Khác với người chị dâu sắc nước hương trời là bà Son, vợ Thủ tự nhận mình thua kém chồng cả về cái mã bên ngoài lẫn sự tài trí bên trong. Hai người lấy nhau hồi đoàn thanh niên đi đắp đê Hà Châu để phòng mùa mưa nước sông dâu tràn vào. Dạo ấy Thủ làm bí thư xã đoàn, một anh bí thư đẹp trai và hào hoa, biết hát, biết đóng kịch và phát biểu rất hay khi lên diễn đàn. Vậy mà mới giữa chiến dịch, khi bờ đê con chạch mới nhu nhú thì những lời đôn thổi đã tới tấp bay về xã, về làng là anh Thủ và cô Luyến đang say nhau như cóc ngậm thuốc lào! Rằng là tối nào bí thư xã đoàn cũng đi hội ý với cô phân đoàn trưởng xóm Trại ở mãi ngoài bờ đê. Sở dĩ người ta quan tâm, người ta ầm ĩ lên, nhất là cánh con gái càng sồn sồn trong việc tuyên truyền, chính là vì các cô tức? Ai đời tay Thủ đẹp tông lộng thế kia lại đi mê con Luyến mặt rỗ hoa thì còn giời đất nào nữa! Các cô thấy như mình bị mất mát, bị tước đoạt một cái gì! ừ thì con Luyến được tiếng là nết na, thùy mị, khéo tay và chịu khó, ừ thì nó có đáng người cá trắm nở nang chắc đậm, tươi khỏe cứ giống như khoai tím trồng ở đất cát pha, chất đất màu mỡ đã tạo nên những củ khoai mập mạp, rắn chắc mà bở tơi! ừ thì nó có hàm rồng hoa cau và nước da bánh mật. Nhưng da bánh mật sao bì được với da bánh trôi? Cũng là tổ trưởng nuôi ong! Cô nào cũng tự cho mình hơn đứt Luyến ở khâu xung yếu nhất ấy! Thế mà đùng một cái, con cá to bị mắe vào cái lưỡi câu cùn! Đùng một cái sẩm vớ miếng gan! Thế là các cô cứ thêu dệt thêm lên. Đồn thổi thêm lên với tâm trạng vừa bực bội, vừa nuối tiếc! Đến nỗi Đảng ủy phải gọi ngay Thủ về để báo cáo tình hình xem hư thực thế nào. Ngày ấy người ta coi việc yêu đương thầm lén là một vi phạm đạo đức vi phạm phẩm chất cực kỳ to lớn, cực kỳ nghiêm trọng. Dù trai chưa vợ gái chưa chồng, nhưng cũng cấm chỉ hò hẹn thì thụt. Tiền và gái xem ra ít ai chê, nhưng người khôn thì chỉ thích ngầm và dùng ngầm thôi, chứ nếu anh dám nói toẹt ra là thích, thế là anh toi đời! Huống hồ con Luyến này lại không phải là đẹp, mà hai người lại dắt nhau ra tận bờ đê, thế là dứt khoát có vấn đề rồi! Trong việc này đứa nào lợi dụng đứa nào đây? Đứa nào thoái hóa biến chất trước? Thủ bấy giờ đang là đối tượng đảng, lớ vớ phen này trắng túi! Nhưng rồi Thủ đã làm cả đảng ủy chưng hửng! Sau khi nghe ông bí thư già chất vấn một hồi về những dư luận rằng Thủ đã có nhiều biểu hiện sa sút trong việc rèn luyện tu dưỡng, Thủ điềm tĩnh hỏi lại :
- Thế cô Luyến có phải là người xấu không? Gia đình cô ấy xấu không?
Ông bí thư hơi sững ra, rồi quả quyết :
- Nào ai bảo cô ấy xấu. Là phân đoàn trưởng thanh niên cả xóm Trại, là thư ký đội sản xuất, người xấu ai để ngồi đấy. Còn gia đình thì bần nông, cơ bản đến ba đời sao lại xấu được.
- Thế tôi lấy cô ấy có gì sai không?
- Không sai - Bí thư giương mắt kính nhìn Thủ.
Thủ hạ câu chắc nịch :
- Thế thi xin báo cáo với đảng ủy là tôi sắp lấy cô ấy!
Đơn giản có vậy, mà bấy giờ người ta đã coi như một quả bom! Mùa đông năm ấy Thủ cưới Luyến. đúng nghi thức đời sống mới. Nghĩa là chỉ có mấy cân kẹo cứng răng rắc và bọc thuốc lá cuộn. Đơn giản hết cỡ! Làm cho bố mẹ Luyến. dù có mừng, đã gả chồng cho con được vào nơi mát mặt, nhưng cứ ngơ ngẩn như đánh tuột khỏi tay nồi thóc giống! Tưởng thế là hết chuyện ngồi lê đôi thách, vậy mà người ta lại còn kháo nhau là Thủ phải cưới Luyến vì đã quá mù ra mưa chứ thực ra Thủ ta thấy cô nàng cứ lúng liếng bày ra trước mắt không nỡ để phí của giời, thì chàng facũng léng phéng cải thiện tí cho vui, chứ cũng không nghĩ đến chuyện bách niên giai lão. Nếu bây giờ Thủ đánh bài chuồn, thì coi như cấm cửa vào Đảng. Vậy mà cũng phải ba năm sau Thủ mới được kết nạp. Cứ mỗi lần mang ra xét, lại có ý kiến cho rằng dù thế nào đi nữa thì Thủ vẫn có điều tiếng trong thời gian yêu đương. Đặc biệt là thái độ không khiêm tốn, dám vặn vẹo cãi lý với đảng ủy. Thực ra Thủ bị om chỉ vì mấy câu vặn vẹo ấy. Thái độ, cái điều tưởng đơn giản và nhỏ nhặt, nhưng nhiều anh đã bị mờ đời chỉ vì thái độ! Thủ đã có một thời thanh niên sống đẹp, sống hào hùng và có bản lĩnh. Còn Luyến từ ngày lấy chồng, chị sống yên phận làm người vợ, làm người đàn bà. Chi đẻ sòn sòn bốn đứa, nuôi con rất khéo. Bây giờ mới bốn mươi lăm, nhưng Luyến đã nói năng, sinh hoạt đúng cung cách của người chân quê. Luyến chỉ còn có nlêm vui chiều chồng, quý con. Có mấy bận nghe phong phanh Thủ đi học, đi tập huấn cũng có tý táu tí mẻ với cô giáo này, cô hội phụ nữ nọ, Luyến chỉ cười ửng đỏ những nốt rỗ hoa mờ mờ. “Ôi dào máu đàn ông ấy mà! Em chỉ quản ông ấy khi về nhà. Còn ra ngoài đã có Đảng! Em là cứ giao hết ông ấy cho Đảng! Chả ai ăn vụng được với Đảng!” Và hình như với chiến thuật buông để nắm ấy, người đàn bà sởi lởi đến tồ tề này lại giữ được chồng. Thỉnh thoảng gặp dịp Thủ cũng chỉ hiu hiu gió thoảng chứ không dám quá đà.
- Thầy em có lên xã bây giờ không? - Vừa dọn mâm bát, Luyến vừa hỏi ngập ngừng.
Thủ rót nước tránh nhìn vợ giọng thẫn thờ cụt lủn :
- Có
Luyến đã bưng mâm lên, nhưng chưa đi, lại hỏi dẽ dàng :
- Thế định giải quyết việc bác Hàm thế nào?
Bỗng nhiên Thử nổi cáu. Lại một lần nữa Thủ nối cáu rất vô lý :
- Đi tù chứ còn thế nào! Phen này thì chết cả nút! Dọn đi, để cho người ta yên!
Rồi Thủ súc miệng òng ọc, phun nước phì phì. Rồi Thủ thay quần áo cho đàng hoàng tươm tất. Quần sa-vi-ốt, áo cộc tay màu nước biển. Anh vốn ghét sự lúi xùi. Hôm nay cũng không được lúi xùi, không được cho ai thương hại. Thủ vứt bừa quần áo cú lên đi-văng, rồi không một lời dàn dò, anh hầm hầm dắt xe đi.