Kim Cương Bất Hoại Nguyên tác: Hoàng Vũ Dương
Đả tự: cao thủ Nhạn Môn Quan
Nguồn: www.nhanmonquan.com HỒI 1 Cuộc Khảo Võ Dị Thường
Mặt trời đỏ chiếu tia nắng qua làn sương mỏng vắt ngang các ngọn cây.
Chim chóc bắt đầu rời tổ đi kiếm mồi, tiếng kêu ríu rít.
Người sẹo mặt cùng chàng thanh niên bước ra một khoảng sân nhỏ rộng để cùng nhau đấu kiếm.
Người đàn bà tỏ vẻ ngại ngùng nói rằng:
- Mọi lần giao đấu bằng kiếm gỗ, như thế không nguy hiểm. Sao lần này dùng đồ binh khí thật ngộ lỡ tay xảy ra thương tích thì sao?
- Thôi lần này không phải bà đóng vai trọng tài nữa, nếu tập bằng kiếm gỗ như mọi lần thì con ta không chịu cố gắng chuyên tâm vào việc giao đấu. Muốn chóng giỏi thực sự thì phải đánh đỡ bằng kiếm thép thực sự, lần này tạm lấy chút máu để phân định sự hơn thua!
- Ủa! Đối với con mà ông cũng nói tới chuyện đổ máu sao?
- Sao lại không được! Nếu không luyện tập cho quen từ bây giờ mai sau giao đấu với kẻ khác, dễ thường địch thủ nhẹ tay dung mạng cho mình chắc? Đã chơi dao phải quen đứt tay chứ.
Thiếu phụ van nài:
- Vẫn biết thế, nhưng ông phải tuyệt đối cẩn thận, đừng để xảy ra sự gì ân hận! Chàng thiếu niên muốn mẹ được an lòng, nói rằng:
- Xin mẹ cứ yên tâm, không có gì đáng lo ngại cả. Con luyện tập võ nghệ cũng hơn mười năm nay, tay kiếm đã thuần, dù là kiếm gỗ hay kiếm thiệt, cũng không có nguy hiểm gì hết.
Nói rồi chàng cầm thanh trường kiếm tuốt trần lưỡi tỏa sáng lung linh, hiên ngang bước vào vòng đấu.
Người sẹo mặt cười ha hả và nói to lên:
- Có thế chứ, mới đáng là mặt anh hùng! Đã sẵn sàng chưa, ta ra tay đấy.
Nói chưa dứt lời, một ánh thép vung lên nhanh như chớp nhắm thẳng vào đầu chàng thanh niên chém bổ xuống. Người con hoàn kiếm đỡ. Một tiếng “choang” vang dội làm người thiếu niên chùn tay lùi lại phía sau hai bước!
Cậu ta biến sắc vì thấy cha mình ra tay sử dụng thế võ vô cùng ác và mạnh mẽ lạ thường làm hổ khẩu và cánh tay gần như bị tê bại.
Không để cho thiếu niên được nghĩ ngợi, người sẹo mặt chém liên tiếp dồn dập những nhát kiếm cực mạnh làm thiếu niên lúng túng, vừa chống đỡ vừa thoái bộ hoài, chẳng dám nói năng nửa lời.
Người sẹo mặt tấn công liên tiếp. Chưa trọn mười hiệp, một tiếng “choang” vang dội, thiếu niên lảo đảo suýt ngã, thanh trường kiếm đã gãy làm hai đoạn.
Người đàn bà thấy vậy sợ run lên kêu lớn:
- Úi chao! Gãy kiếm rồi. Xin dừng tay, đừng đấu nữa. Người sẹo mặt tỏ vẻ không bằng lòng:
- Chưa xong! Chưa xong! Còn phải đấu tiếp, đây ta cho con thanh bảo kiếm của ta. Kiếm này không gãy dễ dàng như thế được.
Nói rồi ông đã trở vào trong nhà mở bọc hành trang, lấy một thanh cổ kiếm, chuôi bằng đồng xanh, vỏ thau có chạm trổ rất đẹp, mới thoạt nhìn, ai cũng biết là một thanh kiếm quý.
Người con nghĩ bụng cha ta đã sử dụng bảo kiếm, cuộc đấu hôm nay trở nên rất ác liệt, ta phải cẩn thận mới được.
Thiếu phụ can ngăn không được, cuộc giao đấu đã gãy kiếm mà không thôi thì tỏ vẻ tức giận quay mình trở lui vô nhà và không ra nữa.
Hai người trở vào vòng đấu. Thanh cổ kiếm tuốt ra khỏi vỏ, lưỡi bén sáng ngời xanh biếc, trông rất ghê rợn.
Thoạt tiên, thiếu niên nâng bảo kiếm dùng thế Phiêu Tử Giao Thâu sáp chiến. Thế kiếm trong bài Mai Hoa lẹ làng linh động, lấy sự xoay chuyển nhanh chóng để khống chế thế công của người sẹo mặt.
Nhưng người cha cũng đã thay đổi kiếm pháp, dùng Xuyên Tâm Thập Cửu Thức có uy lực xoắn lấy lưỡi kiếm của đối phương, mục đích vừa đoạt kiếm vừa chém gãy bàn tay địch thủ.
Thiếu niên kinh sợ toát mồ hôi, nhảy lùi lại phía sau, không dám tấn công nữa. Nhưng bóng kiếm của người sẹo mặt vẫn vùn vụt chém tới, cậu ta phải gắng sức chuyển hết thần lực ra tay mới gạt nổi.
Đỡ chưa xong nhát kiếm chém sát vai tả đã phải nhảy lui để tránh nhát kiếm thứ hai chém tới vai trái. Mồ hôi chàng toát ra đầm đìa sau ba mươi hiệp chống đỡ, đồng thời thấy mắt hoa đầu choáng, tay chân rã rời cơ hồ thanh kiếm muốn vuột khỏi tay.
Người sẹo mặt chế riễu:
- Kém quá! Không chịu luyện tập, chẳng có tấn tới gì cả... Làm sao xuất hiện giang hồ đảm đương việc lớn?
Thiếu niên bị nhiếc mắng, mặt đỏ bừng, mím miệng cắn môi, tỏ vẻ uất ức vô cùng.
Cậu ta tự nghĩ nếu lấy sức mạnh và tài năng thì chẳng thể nào chống đỡ nổi các thế kiếm hiểm độc của cha cậu, vậy ta hãy nghĩ mẹo xem có cách gì thủ thắng được không?
Cậu ta có biết cách đó vài bước, mấy hôm trước đây, cậu có đào một cái lỗ định ươm cây tuyết lê, song mẹ cậu ta không ưng cho trồng cây tại sân cỏ gần nhà, nên hố đó đã bị cỏ mọc che lấp nhưng chưa đổ đất cho đầy. Người nào vô ý bước tới chỗ đó sẽ bị hụt chân xuống hố và vấp ngã.
Bây giờ cần phải nhử cha cậu tới chỗ đó dùng mẹo đánh ngã. Nhưng chỉ có ý nghĩ đó thôi, thiếu niên lơ là chia trí một chút, bị lưỡi kiếm rạch làm toạc một miếng vạt áo ở phía trước ngực, may chưa chạm đến da thịt. Liên tiếp cha chàng đã phát huy Thiếu Sơn Bát Thức Kiếm để mong vạch trên người chàng những vết chém dài.
Thiếu niên liền lùi đến bên hố trũng, cố tình nhảy nhót né tránh, chạy quanh miệng hố làm như di chuyển trên mặt phẳng. Tuy nhiên, cánh tay áo chàng lại bị rách thêm hai chỗ nữa. Sự cầm cự miễn cưỡng khó có thể kéo dài thêm!
Đối với cha chàng - một tay lão luyện giang hồ - mỗi bước tiến, mỗi bước thoái đều rập theo nguyên tắc, đâu có thể dễ dàng làm ông hụt chân sa hố được.
Cuộc đấu đã được trên năm chục hiệp. Thấy thiếu niên võ công quá sút kém nên người sẹo mặt đã nới tay tỏ ý khinh thường, không áp bách ráo riết như trước nữa.
Chính lúc này, thiếu phụ thấy cuộc đấu kiếm dữ dội, quá lâu, sự nguy hiểm rõ rệt y như một cuộc giao đấu quyết tâm ăn thua đủ không có tính cách gì luyện tập nương tay cả. Không thể chịu đựng được nổi sự lo âu đè nén, bà la lớn:
- Khoan tay đã... dừng...
Chính lúc này, thiếu niên đã nhận thấy cha chàng đứng ở vào tư thế xoay lưng vô lỗ trũng, gót chân cách hố đó đúng một bộ. Chàng liền nghiến răng, hai tay cầm chặt chuôi kiếm, chém theo thế Giao Long Xuất Hải vung kiếm như cầu vồng áp đảo cha chàng phải thoái bộ.
Và khi thấy gót chân ông ta đã lọt vào hố trũng thì chàng vận toàn lực chém nhầu một nhát sức mạnh như Thái Sơn từ trên trời đổ xuống. Buộc lòng cha chàng phải huơ kiếm ra đỡ. Vì đã có dụng ý, thiếu niên nhanh như chớp chuyển mình xuống thật thấp lia chân quét một ngọn tảo đường. Trong lúc bất kỳ xuất ý, ở vào thế hạ phong, người sẹo mặt thu chân trước để khỏi bị quẹt ngang thì chân sau đã bị rớt tụt xuống hố sâu. Ông ta bị té ngửa!
Thiếu niên lúc này chỉ cần với tay một nhát là có thể chém cụt một chân người sẹo mặt, nhưng chàng đâu dám làm thế, chàng hoàn bộ, thòng kiếm đứng nhìn...
Bỗng nhiên chàng thấy đau nhói một cái ở vai tả, thiếu niên lảo đảo lùi về phía sau và ngã gục. Người sẹo mặt chân còn bị tụt hố, chưa đứng dậy chỉ vẫy tay nhẹ một cái, mũi nhọn thanh cổ kiếm đã ghim sâu vào vai thiếu niên rồi.
Người mẹ thấy vậy vô cùng hoảng sợ chạy vội tới kêu lớn lên rằng:
- Ông điên rồi! Làm công tử thọ thương rồi! Người sẹo mặt đứng dậy, điềm đạm nói:
- Đã đánh ngã sao không chém ngay? Ở nhà bị thương thế là nhẹ, chứ còn ra ngoài đời ắt lưỡi kiếm đã xuyên qua cổ họng rồi! Có bị đau, có chảy máu thì mới nhớ lâu được! Mai sau đánh nhau với ai phải nhớ kỹ rằng: "Đừng có lơ là khinh thường địch thủ mà chết! Mình không chém địch thì tất địch... nó sẽ chém mình".
Người sẹo mặt bình tĩnh như thế, trái lại người đàn bà thì sợ cuống quít lo rút mũi kiếm ra khỏi vai, săn sóc vết thương và quay lại mắng người đàn ông:
- Không vào lấy kim sang mang ra đây, còn đứng nói lảm nhảm gì thế? Người sẹo mặt đáp:
- Một vết thương tầm thường nhỏ mọn, bà này làm gì mà rối rít lên như vậy? Ta đã có lần mang trên mình cả chục vết đâm chém máu chảy ròng ròng mà chẳng cần ai chăm sóc, lại còn phải cố chiến đấu với hàng chục địch thủ để giành lấy mạng sống...
Nhưng nói rồi ông ta cũng đi vô nhà lấy thuốc. Thiếu phụ dùng khăn tay bịt lấy vết thương, nhưng bà không thấy có máu chảy ra. Mặt tái mét, đầy vẻ kinh hãi, cầm lấy thanh cổ kiếm đưa lên mắt ngắm nhìn.
Cái chốt ở nơi đốc kiếm xoay ngang, bà lấy tay vặn chỗ nắp đốc kiếm cho rời hẳn ra khỏi chuôi, thấy có ống nhỏ chạy dài theo sống kiếm. Mỗi lần con chốt ở đốc kiếm bị xoay ngang thì chất độc ở bầu nhỏ trong chuôi kiếm lại chảy dọc theo sống kiếm và thấm ra ngoài.
Bà kêu to lên:
- Lưỡi kiếm có tẩm độc! Nguy tai rồi!
Người sẹo mặt nghe vậy hoảng sợ chạy ra, nhặt lấy thanh cổ kiếm lên và nói rằng:
- Thực nguy to rồi! Ta đã dùng nhầm phải thanh độc kiếm. Biết làm sao đây?
Người sẹo mặt cúi xuống vực thiếu niên đem vào nhà để tìm phương cứu chữa. Người đàn bà hỏi:
- Thần dược của lão Thần Y cho ông đâu? Thuốc đó có chữa được vết độc này không? Người sẹo mặt thấy vọng lắc đầu:
- Không thể được. Lúc ta xin lão Thần Y cho thuốc ta đâu có nghĩ và biết tới thanh độc kiếm này!
Thiếu niên mặt xanh như tàu lá nói rằng:
- Mẹ đi rừng có hái lá thuốc trừ nọc rắn, nên tạm dùng để nọc độc không nhập vào cơ thể. Mẹ cho con một ít rịt tạm xem sao?
Nhờ có thiếu niên nhắc nhở, bà ta chợt nhớ, chạy vội vô trong bếp, lấy ra một than hồng dí vào đốt cháy thịt chỗ vết đâm. Lửa kêu xèo xèo, thịt cháy khét lẹt, tuy không trị được chất độc nhưng cũng tạm thời ngăn không cho chất độc thấm nhanh vào máu.
Thiếu niên đau quá, nằm ngất lịm đi. Lúc này người sẹo mặt ngồi lặng lẽ, buồn bã xịu mặt không thốt được câu nào.
Hắn cầm thanh cổ kiếm tháo hẳn chuôi kiếm lấy ra một ít chất độc màu xanh xem xét kỹ càng. Hai vợ chồng bảo nhau:
- Thực là một chất cực độc, nhưng ta không biết loại gì? Nếu cứ để tình trạng y nguyên như thế này... thì công tử sẽ nguy mất!
Người sẹo mặt tự đấm ngực, vò đầu bứt tóc, la lối om sòm:
- Ta ngu thực! Tưởng rằng giúp đỡ được công tử, ai ngờ hóa ra hại người! Ta đã không hoàn thành được di ngôn của chủ soái, chỉ còn cách chết đi cho rồi! Ta mà tìm được cái tên chế tạo thanh kiếm này, thì ta phải chém chết, băm vằm nó ra mới hả giận! Trời ơi! Mã Hóa Long này đã già nửa đời người mà sao lại ngu thế?
Người vợ an ủi:
- Lúc này ta phải bình tĩnh mới được. Ông nói lão Thần Y cho ông thần dược chữa các vết thương của ông. Mau đưa cho tôi coi xem có dùng được không? Nếu không dùng được thì tôi đi kiếm một vài thứ là rừng làm thuốc đấu rịt tạm chứ biết sao?
Mã Hóa Long lục lại hành lý, lấy ra một cái lọ nhỏ dốc ra, bỗng thấy ba viên thuốc màu đỏ. Người đàn bà cầm lấy xem rồi nói rằng:
- Loại thuốc trị thương này thiệt lá quý, hiếm có. Nhưng chắc rằng không giải được chết độc đang ngấm vào trong cơ thể. Ta đắp lên vết thương rồi sẽ tính sau.
Mã Hóa Long nói:
- Tôi nghĩ rằng chúng ta mang Kỳ nhi đến thánh thủ lão Thần Y nhờ ông ta cứu chữa thì mới thoát được.
- Nhưng ông ta ở đâu?
- Ở tại vùng Vạn Diệu Sơn Trang, đi ngựa nhanh cũng mất vài ngày đường mới tới. Bà đi theo với tôi vì bà biết ít nhiều về y lý, bà có thể giúp tôi săn sóc Kỳ nhi ở dọc đường.
Nói rồi Mã Hóa Long mài thuốc đổ vào vết thương trong khi người vợ chạy ra sơn cốc tìm là cây rừng để dùng uống giải độc.
Nhờ có sự chăm sóc chu đáo, nên sau khi uống bát thuốc nóng hổi, thiếu niên đã tỉnh trở lại, chàng thấy ngoài sân ba con ngựa sẵn sàng hành lý. Cha chàng và mẹ chàng đã y phục sẵn, sắp sửa đi xa, liền nhỏm dậy hỏi:
- Cha và mẹ định đi đâu? Người mẹ đáp:
- Ta phải đưa con đi chữa bệnh. Con yên tâm, thế nào cũng khỏi.
Thiếu niên định đứng dậy, song khí lực trong người cơ hồ đã tiêu tan mất cả, cánh tay tê dại không thể nhấc lên được, chàng đành để cho người sẹo mặt bồng đặt nằm phục trên ngựa rồi cả ba người rời bỏ xóm nhà tranh ra đi.
Thiếu niên rất mến yêu khu rừng nhỏ đó. Đấy là nơi chàng đã sinh ra và cha mẹ nuôi đến lớn, nay phải rời bỏ ra đi không biết có ngày nào trở lại không? Chàng xiết bao bùi ngùi thương cảm.
Người vợ hỏi chồng rằng:
- Ông bảo không rõ xuất xứ của thanh kiếm kỳ quái này? Mã Hóa Long trả lời:
- Thật là một sự ngẫu nhiên, ta có gặp một vị Phiên tăng hình dung cổ quái, vai đeo thanh kiếm này. Ta biết y là người có võ nghệ cao cường nên thách thức y giao đấu để tranh tài cao thấp. Hắn cố tình không nhận lời thách thức. Hắn hỏi ta lý do tại sao đòi so kiếm. Ta thoái cớ rằng muốn đoạt thanh kiếm của hắn, nếu không chịu giao đấu thì phải nạp thanh kiếm cho ta. Tưởng hắn không ưng, ai ngờ hắn tươi cười cởi kiếm dâng cho ta, không tỏ vẻ tiếc rẻ chi hết. Ta thấy thanh kiếm tốt thì dùng chứ có biết đâu là một thanh độc kiếm, có thể gây vết thương nguy hại như vậy.
- Thế ông có hỏi tên vị Phiên tăng đó là gì không?
- Ta quên không hỏi ví y cũng chẳng hỏi gì tên ta...
Ba con ngựa vẫn băng băng trèo đồi, vượt núi. Mã Hóa Long quay lại hỏi thiếu niên:
- Con thấy trong người có sao không? Bình sinh tính nết ta rất ngay thẳng, ta sẽ tìm giết Phiên tăng chủ nhân thanh độc kiếm! Sáng nay, con đỡ nổi cho trên năm mươi hiệp lại còn dùng mẹo làm cha té ngã như vậy chứng tỏ võ công con đã có thể đem dùng với đời. Sau khi khỏi bệnh, giải trừ hết chất độc trong người, cha đi đâu sẽ mang con theo đó, không bắt con phải ẩn trong cốc nữa.
Người đàn bà nói:
- Ông có thù hận với những người đã chém làm hư mặt ông không? Mã Hóa Long âm thầm đáp:
- Nghĩ người ta chém vào mặt mình cũng tức thiệt... Nhưng lỗi không riêng gì người ta. Thiếu niên nói khẽ:
- Cha cho con biết những kẻ nào đã cả gan chém vào mặt cha, con sẽ rạch mặt chúng trả thù...
Mã Hóa Long đáp:
- Ta chẳng biết tên họ. Những kẻ đã lưu lại dấu kiếm trên mặt ta đều là tay cao thủ danh gia tuyệt nghệ, tài giỏi gấp mười ta. Họ không giết ta là may, làm sao mà trả thù họ được? Và lại lỗi cũng ta gây sự trước. Một bài học, một thế võ mua bằng một vết sẹo đâu có phải là mắc!
Người đàn bà nói tiếp:
- Nhưng bài học hôm nay, thế võ của ông hôm nay, mẹ con chúng tôi đã phải mua bằng một giá quá đắt...
Mã Hóa Long cắn môi, quất ngựa phi nhanh... Bụi tung mù mịt sau vó ngựa.
Đã ba ngày qua, nhóm người ngựa vẫn đi về phương bắc, lúc vượt rừng lúc băng suối, lúc trèo đèo trượt dốc, lúc phi nhanh rong ruổi trên đường cái quan, lúc len lỏi theo những đường sâu trong rừng rậm.
Mã Hóa Long cố tìm những ngả tắt để đi gấp đến Vạn Diệu Sơn Trang.
Ông ta cố tránh con mắt tò mò của người đi đường, chỉ dừng chân ở các thị trấn nhỏ khi cần phải cho ngựa nghỉ hay cần mua thêm lương thực, thuốc men cần thiết. Mỗi khi nghỉ tạm, ông chăm lo nắn bóp các huyệt đạo của thiếu niên trong khi Mã phu nhân sắc thuốc men để cầm giữ nguyên khí người bị thương. Vì vậy thiếu niên đủ hơi sức cầm cự với tử thần.
Tuy nhiên, sang tới ngày thứ ba thì thiếu niên chẳng thể một mình nằm phủ phục trên lưng ngựa được nữa. Hai mắt có quầng đen trũng sâu xuống, hai má hóp lại, da vàng lợt, mạch máu chạy yếu hẳn đi. Mã Hóa Long phải bế chàng trong tay, ngồi chung một ngựa tiếp tục cuộc hành trình... tìm danh y chữa chạy. Vẻ lo sợ của hai vợ chồng Mã Hóa Long càng hiện rõ trên nét mặt đầy ưu tư!
Mấy hôm đầu còn vừa đi vừa nghỉ, về sau tình trạng sức khỏe của thiếu niên trở nên suy yếu nhanh chóng, hai vợ chồng Mã Hóa Long mải miết thúc ngựa đi cả ngày lẫn đêm, không nói năng với nhau nửa lời. Ngọn Thất Chỉ Sơn như bảy ngón tay chỉ thẳng lên trời, khi mờ khi hiện ở đằng xa. Mã Hóa Long bảo vợ rằng:
- Vạn Diệu Sơn Trang ở chân rặng núi kia. Dân cư vùng này ai cũng biết Thánh Thủ lão Thần Y. Những đồi trồng chè ở đây sản xuất ra một loại chè rất ngon, bà nên tìm mua chút ít, uống vào cho đỡ mệt nhọc và khỏi khát.
Nhưng lạ thay, đi qua nhiều ngọn đồi chè lá mọc xanh um, rất tươi tốt, tìm vào một vài túp lều tranh trước đây có người ở mà nay thì hoang vắng. Không thấy một bóng người nào hết! Không có tiếng chó sủa, cũng không thấy một ngọn khói bốc lên, bóng gia súc, người đi hoặc trẻ nô đùa cũng như đi vào một khu rừng hoang thăm thẳm vô tận.
Mã Hóa Long tay bồng thiếu niên, tay ghì cương ngựa kiệu lên trên trước xem xét tình hình, chợt thấy bên đường cắm một tấm bảng trên úp chụp một sọ người phơi xương trắng hếu, hai con mắt rỗng đen ngòm với bộ răng nhe trắng nhởn, trên bảng có viết mấy chữ sau đây: “Ma Vương cấm địa: Kẻ nào xâm nhập Vạn Diệu Sơn Trang thì sẽ bị bêu đầu cắm trên cọc như người này!”.
Mã Hóa Long cau mày ngẫm nghĩ. Mã phu nhân tiến tới thấy vậy cũng hoang mang không hiểu sao. Bà nhìn chồng tỏ vẻ lo ngại bội phần!
Mã Hóa Long nói:
- Cách đây hơn tháng tôi trở về qua đây, cảnh trạng có như vậy đâu? Không biết biến cố gì đã xảy ra tại đây?
Với sự phập phồng lo sợ trong thâm tâm, hai vợ chồng thúc ngựa tới khu vực sát cận chân núi Thất Chỉ.
Trước một túp lều nhỏ bên đường, có hai con ngựa tốt buộc vào gốc cây dương liễu. Mã Hóa Long ra hiệu dừng ngựa đặt thiếu niên nằm phục trên yên, trao cương cho vợ vừa từ từ nhảy xuống đất, nhẹ nhàng đi lại túp lều. Ở trong lều có hai đại hán mặc võ phục toàn đen đương cùng nhau đối ẩm, vừa ăn uống thô tục vừa nói chuyện, tiếng nói oang oang:
- Hôm nay đến phiên chúng ta canh gác ở đầu đường này. Lệnh trên thì bảo đuổi dân cư đi, nhưng đại ca bảo có mật lệnh thịt hết không để một người nào, một con vật sống nào thoát ra ngoài báo tin. Dọa nạt cho chúng sợ phải rời bỏ đi. Nhưng đại ca đã cho người mai phục ở ngoài đây hàng trăm dặm, kẻ nào muốn mang tin Vạn Diệu Sơn Trang thoát ra ngoài đều bị tàn sát hết! Bây giờ đã được gần tháng rồi, vùng này đã biến thành hoang địa, nhiệm vụ đã làm xong từ lâu sao đại ca chưa có lệnh rút chúng ta về?
- Lâm huynh quên rằng còn có những người ở nơi khác tìm đến Vạn Diệu Sơn Trang, chúng ta có lệnh giết cả sao?
- Như vậy chúng ta phải canh gác nơi hoang địa này suốt đời à. Thật là buồn bỏ mẹ! Đã nửa tháng nay không gặp một bóng người nào. Tôi đã bảo Trần huynh giữ lại con bé nhà họ Đào làm thú tiêu khiển, có phải nhưng lúc buồn bã vắng vẻ như lúc này dễ chịu hơn không?
- Anh nói mà không biết nghĩ. Ngộ nhỡ đại ca biết chúng ta ra lệnh thì hai cái đầu đâu còn trên cổ này nữa.
- Ta tìm nơi kín đáo giấu chứ!
- Thì nào chúng mình có ai biết phải ở cái xóm thổ tả này lâu đâu. Tôi mong được trở về và công tác tại đồng bằng quá!
- Thôi đừng buồn phiền, rượu còn nhiều. Ông bạn uống thêm đi!
Nhắc lại Mã Hóa Long trong khi đến gần túp lều, bất chợt một âm thanh dịu dàng như có người vô hình đứng sau nói nhỏ bên tai:
- Sao Trấn Vệ tướng quân lại tự hủy mình như thế?
Mã Hóa Long mở mắt nhìn quanh thì thấy có một ông cụ già, râu tóc trắng bạc như tuyết, vẻ mặt uy nghiêm, thần thái tiên phong đạo cốt.
Ông cụ mặc đạo bào màu trắng, tay chống gậy trúc dài, lưng đeo giỏ thuốc lớn của người sơn thượng, đứng nhìn mình không chớp mắt. Nhãn quang của ông cụ phát ra oai lực hàng long phục hổ. Mã Hóa Long lớ ngớ chẳng biết nói năng ra sao. Ông cụ chỉ sẽ giơ đầu gậy gạt vào đầu lưỡi kiếm của Mã Hóa Long. Tức thời thanh trường kiếm rời khỏi tay người võ tướng sẹo mặt rồi rớt xuống đất kêu đến keng một tiếng.
- Lúc nãy tướng quân nói “Lý Đại Soái”, có phải là muốn nói tới “Lý Lăng Vương” đã từng cầm quân Tống đánh bại giặc Liêu không? Tướng quân tự xưng là Trấn Vệ tướng quân, có phải người là Trấn Vệ Kỵ Đô Mã Hóa Long dưới trướng Lý Lăng Vương không?
Ông cụ chậm rãi hỏi như vậy.
Mã Hóa Long quỳ xuống đáp rằng:
- Kính thưa lão trượng, tiểu sinh chính là Mã Hóa Long. Mười bảy năm trước đây đã từng hầu hạ dưới trướng của Lý Lăng Vương. Nhưng từ ngày toàn gia Lý Đại Soái bị gian thần sát hại, tiểu sinh mang công tử đi trốn vào rừng núi. Cũng định nuôi nấng cho khôn lớn để mong có ngày minh oan cùng triều đình, trả mối hận thù, tiêu diệt lũ gian thần. Nhưng chưa giúp tiểu công tử thành toàn được di ngôn của chủ soái và chủ mẫu thì tiểu sinh đã lỡ tay làm tiểu công tử thọ thương đến chết mất rồi.
Ông già cầm gậy trúc chỉ vào thiếu niên đương nắm sóng sượt gần đó hỏi rằng:
- Cậu trẻ tuổi kia là con của Lý Lăng Vương chăng? Có gì minh chứng?
Mã Hóa Long đứng dậy, lấy trong bọc một chiếc nhẫn và một tấm áo lụa trẻ nít mặt trên có viết hàng chữ máu, có đóng dấu son đỏ và nói rằng:
- Đây là chiếc áo tiểu công tử mặc khi tiểu sinh ẵm đi tỵ nạn. Còn đây là chiếc nhẫn ngọc có khắc triện của Lý tướng quân. Tiểu sinh định mang tiểu công tử đến đây định nhờ lão Thần Y chữa trị nhưng mà không ngờ Vạn Diệu Sơn Trang đã bị đốt phá tiêu tan nên tiểu sinh thất vọng chẳng muốn sống nữa! Sau khi tiểu sinh chết xin lão tiền bối đã biết hết căn nguyên câu chuyện, giữ hộ những kỷ vật này, nếu có thể xin đưa tới tay, một người tên là Nam Bình Hầu Vương Thế Cát...
Ông cụ già cầm lấy chiếc nhẫn và cái áo lụa xem xét giây lâu, lẳng lặng đi tới cạnh thiếu niên. Cụ để giỏ thuốc xuống đất và quỳ xuống xem mạch, đặt tay lên ngực thiếu niên... Mã Hóa Long cũng chạy lại đứng gần lão trượng. Cụ vạch mí mắt thiếu niên, cởi bỏ lần áo ngoài, xem xét kỹ càng vết thương rồi nói rằng:
- Cậu trẻ tuổi này đích thị là con Lý Lăng Vương. Y mắc phải chất độc Huyết Ma Dị Thảo. Không chết còn sống được đến bây giờ thực là một sự khác thường! Y chỉ ngất đi, chưa chết!
Ông ta nói tiếp:
- Ta là bạn của Thánh Thủ Thần Y. Để ta chữa chạy cho y mà cả cho ngươi nữa. Mã Hóa Long giật mình kinh sợ nói rằng:
- Tiểu công tử bị thương, mắc độc. Chứ còn tôi thì khỏe mạnh như thường có làm sao đâu?
Ông lão không trả lời, đi lại lẳng thuốc, lấy ra một cái bình bằng bạch ngọc. Rồi lựa chọn một củ rễ cây màu trắng trông giống như một chi nhân sâm còn tươi. Ông ta cậy răng thiếu niên, vắt chất nhựa chảy nhỏ giọt vô miệng. Một mùi thơm lạ xông lên. Sau đó ông lấy tay vứt bỏ chỗ thuốc đắp trên vai và dùng nước trong bình ngọc rửa sạch vết thương. Nước trong bình chảy ra màu trắng như sữa làm mùi hôi tanh bay đi mất. Ông lấy bã rễ cây đắp vào vết thương rồi xé áo, lấy vải buộc chặt lại.
Kế đó, ông bắt Mã Hóa Long xòe hai bàn tay ra, trút đổ nước sữa trong bình vô rồi bảo Mã Hóa Long xoa hai bàn tay với nhau. Viên võ tướng mặt sẹo cảm thấy nước trong bình chạm vào da thịt lạnh mát như băng tuyết. Sau đó một luồng hơi nóng ngấm vào các châu thân xông lên tới ót và truyền qua các kinh mạch trong người. Từ các lỗ chân lông trên bàn tay đã tiết ra đầm đìa những giọt nước đen như mực.
Ông lão bảo lấy nước rửa sạch chất dơ đi và nói rằng:
- Tướng quân đã bọ nhiễm độc vì đã dùng tay nắm lấy chuôi thanh độc kiếm kia! Lúc đó chàng thiếu niên cũng đã hồ tỉnh ngơ ngác nhìn quanh và hỏi rằng:
- Mẹ tôi đâu?
Mã Hóa Long nhớ tới vợ mình, liền chạy ra nâng đỡ người đàn bà lay gọi cho tỉnh lại:
- Lan nương! Lan nương! Mau tỉnh lại!
Người vợ, hai hàng nước mắt đầm đìa trên gò má, than vãn như nói thầm trong mơ:
- Trời ơi! Chồng tôi, con tôi đều chết cả thì tôi sống làm gì nữa? Mã Hóa Long nói rằng:
- Tỉnh lại! Tỉnh lại! Tiểu công tử đã có người cứu rồi, mình tỉnh dậy mà xem!
Vương Ngọc Lan phu nhân vội đứng dậy, lảo đảo chạy lại phía thiếu niên, thấy chàng còn sống, xiết bao mừng rỡ, bà ta ôm choàng lấy đứa con yêu quý. Sau đó bà ta sụp lạy ông già mà rằng:
- Cám ơn lão trượng gia ân tái sinh cho lũ chúng tôi! Cụ có phải là Thánh Thủ lão Thần Y không?
Ông cụ đỡ Vương Ngọc Lan đứng dậy và đáp rằng:
- Ta chỉ là bạn lão Thần Y. Có phải phu nhân đã đắp lá thuốc lên chỗ vết thương của lệnh công tử đây không? Ta khen phu nhân cũng giỏi nghề thuốc lắm đấy! Nếu không có phu nhân tận lực chăm sóc thì tiểu tử này chẳng thể còn sống tới ngày nay!
Ông lão bỗng lắng tai nghe. Mọi người không thấy động tĩnh gì cả. Ông lão nói:
- Có nhiều người sắp tới đây! Chỗ này chẳng phải là chỗ chúng ta ở lâu đặng. Tướng quân và phu nhân hãy lo vực công tử lên ngựa, dắt theo cả bốn con ngựa kia, rồi sẵn sàng chờ ta. Ta còn chút việc phải làm cho xong đã.
Nói rồi ông già tay xách lẵng thuốc, tay chống gậy trúc lướt mình như bay tới hốc đá gần đó. Ông thò gậy trúc vào trong khoắng mạnh rồi lấy ra một hộp gỗ sơn đen hình chữ nhật, trông giống như một tráp thuốc của mọi thầy lang. Thật không ai ngờ trong hốc đá nhỏ lại dấu một vật như vậy. Và cũng không ai biết ông già dùng thủ pháp gì, cầm cây gậy trúc không có móc câu ở đầu mà lại kéo được cái hộp ra khỏi hốc đá sâu. Kế đó ông mở hộp gỗ, cầm lấy tờ giấy gấp tư để ở trong hộp ra xem. Ông lẩm bẩm đọc, đầu khẽ gật không nói năng gì. Sẵn trong hộp có giấy, có bút, có mực, ông viết một phong thư bỏ vào trong hốc đá rồi lấy ra một viên đá đậy lên che kín miệng lỗ như cũ.
Sau đó ông tiến lại gần một tảng đá lớn, nặng kể vạn cân ở gần đấy, ông chuyển thần lực lật đẩy tảng đá ngửa lên trên rồi xòe bàn tay phóng ra một đạo thanh quang xanh lè như một ngọn lửa ma, quét vòng tròn lên bề mặt đáy tảng đá. Ông đổ tất cả những cành lá, rễ cây rừng trong lẵng thuốc vào lỗ trũng. Tảng đá được lật lại ở tư thế cũ.
Thiệt không ai ngờ trong lòng dưới đáy tảng đá, ông cụ già đã dấu một kho tàng cây thuốc quý! Ông nhặt bình ngọc, cái tráp gỗ cả thanh độc kiếm bỏ vào lẵng mây rỗng đeo lên vai rời khỏi Vạn Diệu Sơn Trang.
Cả đoàn bốn người biến dạng vào rừng sâu, vượt ra ngoài rặng Thất Chỉ Sơn.
Khi cả bọn ba người theo ông lão khuất sau cây rừng, đi xa chừng nửa dặm, sắp rẽ vào khe núi thì quả nhiên, một đoàn người ngựa khác phóng vào Vạn Diệu Sơn Trang.
Kỵ binh mặc toàn đồng phục đen giống những tên ác ôn bị Mã Hóa Long diệt trừ.
Ông già không nói gì, tiếp tục dẫn mọi người cưỡi ngựa đi sâu vào khe núi. Riêng Mã Hóa Long lấy làm kinh ngạc vì thấy rằng ông cụ không phải là bậc tầm thường, cụ không áp tai xuống đất mà nghe tiếng vó ngựa từ xa cách nhiều chục dặm trường.
Mặc dù ông cụ bước bộ trong khi ngựa kiệu nhanh mà luôn luôn ông cụ vẫn đi đầu hướng dẫn đường không sao bắt kịp. Có lẽ ông cụ đi chân không chấm đất, thực là bậc dị nhân phi thường không phải là người trần tục.
Quay lại nhìn ngựa đi sau thấy chàng thiếu niên hơi thở đã điều hòa, mặt đã có sắc máu nhưng hãy còn yếu nhiều, chưa mạnh. Đoàn người đi được nửa ngày, vượt qua nhiều rặng núi thì tới một khoảng đất trống, cỏ mọc tươi tốt, có bóng cây che mát, có suối nước ngọt.
Ông cụ ra hiệu cho mọi người xuống nghỉ, thả ngựa cho ăn cỏ, uống nước. Ông cụ chọn tấm đá phẳng bảo đặt thiếu niên nằm ngửa ở trên. Hai vợ chồng lấy lương khô ra ăn và ông cụ lại lấy ra một củ bạch sâm khác bóp nát lấy nước vắt vào miệng cho thiếu niên uống rồi lấy bã đắp vào vết thương.
Hai vợ chồng lại gần ông cụ hỏi tên họ và vái lạy để cảm ơn cứu mạng mãi không thôi. Ông cụ ngồi trên phiến đá, thong thả nói rằng:
- Ta không có họ tên. Ta chỉ là bạn của lão Thánh Thủ Thần Y ở Vạn Diệu Sơn Trang. Bình sinh ta chỉ biết cứu người, ta không biết giết người, ta rất hâm mộ những bậc trung thần nghĩa sĩ. Ta rất kính phục Lý Lăng Vương, và cả những bạn bè của ông. Ngẫu nhiên ta gặp các ngươi đang gặp nạn thì ta phải có bổn phận cứu. Ta có nghe danh tướng quân đây là một bộ hạ trung thành của Lý Lăng Vương khi tướng quân còn đem quân dẹp giặc Bắc Liêu.
Hôm nay được gặp tướng quân và phu nhân là duyên may đưa đến, còn những tên mặc áo đen đã tiêu thổ trong thôn xóm, sát hại lương dân và gia đình của lão Thần Y, chúng nó bị tướng quân giết chết cũng đáng kiếp lắm!
Mã Hóa Long hỏi:
- Kính thưa lão tiền bối, lão tiền bối có biết những tên mặc áo đen là ai không?
- Ta không biết rõ!
- Lão Thần Y còn sống hay đã chết, hay là bị bọn chúng bắt mang đi rồi?
- Ta cũng không biết rõ!
- Lão tiền bối viết thơ để trong hang đá và cất giấu những cây thuốc dưới tảng đá với mục đích gì?
- Để liên lạc nếu lão Thần Y còn sống. Những cây thuốc ta hái được đem tặng lão Thần Y để nghiên cứu, bào chế thần dược, cứu nhân độ thế.
- Lão Thần Y làm sao tìm thấy được thơ và thuốc?
- Ta đã có ước hẹn với ông ta nơi để thơ liên lạc. Mã Hóa Long lại hỏi thêm:
- Lão tiền bối làm phép gì mà khoét được tảng đá bằng tay?
- Ta dùng một loại kiếm khí do ta tu luyện nên.
- Vợ chồng chúng tôi đội ơn lão tiền bối cứu mạng, sau này biết lấy gì báo đền?
- Ta chỉ mong tướng quân thanh toàn di mệnh của chủ cũ.
- Tại làm sao lão tiền bối biết bàn tay tôi cầm phải độc kiếm nên nhiễm độc?
- Nhìn mắt và sắc diện tướng quân thì ta biết, vả lại hình thù thanh kiếm cũng khác lạ. Ta biết tướng quân đã bị ám hại. Lúc tướng quân đánh nhau với bọn người áo đen, ta thấy những người kia bị chém mà không thấy máu chảy, ta biết là thanh kiếm đó có chất độc Huyết Ma Thảo. Võ công tướng quân rất giỏi mà xem lúc giao đấu có vẻ kiệt quệ. Những thế kiếm quán tuyệt sử dụng có vẻ ngượng nghịu... Ta biết ở nước Tống có họ nhà Âu Dương, đúc kiếm rất tốt. Song từ khi quân nhà Liêu chiếm được Biện Kinh, đã dẫn họ nhà này mang lên miền Bắc bắt đúc kiếm. Loại kiếm này do họ nhà Âu Dương đúc. Chất độc Huyết Ma Thảo chỉ có ta hái được và lão Thần Y biết được tính chất của cỏ lạ đó. Cỏ này dùng để cầm máu trong khi cắt thịt, nạo xương chứ không dùng pha luyện với chất độc khác để giết người.
Nói rồi, ông cầm lấy thanh độc kiếm và chỉ cái khoen đồng ở dưới ngáng kiếm cho xem và giảng rằng:
- Mỗi khi cầm kiếm mà không vặn chặt vòng đồng này thì ở cán kiếm tiết ra một thứ nước nhờn màu nâu sậm, chất độc này ngấm vào da tay nhiều lần với mồ hôi sẽ làm cho người bị tiêu hao chân khí, tê bại gân cốt, mất cả võ công rồi chết dần.
Mã Hóa Long lấy làm kinh ngạc, sợ hãi hỏi thêm:
- Như vậy người có kiếm này không thể sử dụng được sao? Ông cụ già vô danh đáp:
- Phải vặn chặt khoen đồng và bao tay bằng da hải báo thì không sao cả. Ông cụ chỉ thiếu niên hỏi:
- Tiểu công tử họ tên là gì? Vương Ngọc Lan phu nhân đáp:
- Lúc chủ mẫu tôi giao cho tôi bế đứa bé này mang đi tị nạn, chỉ trao cho tôi lá huyết thư và chiếc nhẫn bảo ngọc không nói cho biết tên là gì.
- Tại sao vậy? Tại sao Lý Vương phi không đặt tên cho con?
- Tiểu công tử mới lọt lòng mẹ được ba ngày, Vương phi và Chúc công tôi có nói nếu đặt tên, kẻ thù sẽ truy danh tìm giết đi cho tuyệt dòng họ. Cho nên tiểu công tử mang họ Lý mà chưa có tên.
- Tướng quân và phu nhân là đường phụ và đường mẫu có thể đặt tên?
- Chúng tôi cũng chưa nghĩ tới...
- Để nó cũng vô danh như lão sao?
- Lão tiền bối là bậc kiếm tiên phi phàm. Xin lão tiền bối thương đến dòng họ Lý mà truyền thụ võ công cho tiểu công tử.
Ông cụ già trầm ngâm giây lát, lặng lẽ đáp:
- Ta không thu ai làm đồ đệ cả. Chính ta cũng cần phải nhờ lão Thần Y luyện thuốc cho ta dùng. Ta không có giỏi về y thuật như lão Thần Y. Vì vậy ta là kẻ hái thuốc, rồi đem cho lão Thần Y chế luyện. Lão Thần Y chỉ bảo ta điều gì thì ta biết một vài điều đó thôi. Hiện giờ ta cũng không biết chắc chắn là có thể chữa trị cho Lý công tử có thể tuyệt bệnh được không. Vậy còn nói chi đến chuyện thu nhận làm đồ đệ nữa!
Mọi người yên lặng hồi lâu. Ông già thong thả đứng dậy, lấy cái hộp sơn đen đem ra chỗ phiến đá, mở xem trong đó có đủ các loại linh đơn, thần dược bào chế sẵn. Phần nhiều đều đựng trong các lọ con bằng sứ, cũng có những thuốc hoàn bao sáp ong. Ông cụ lấy ra hai hoàn thuốc lớn, đưa cho Mã Hóa Long và phu nhân rồi nói rằng:
- Trông vẻ mặt hai người tiều tụy, vì bị mệt nhọc và cảm xúc quá độ. Nên dùng hai liều linh dược này sẽ bồi bổ sức khỏe mau chóng. Uống xong nên tịnh dưỡng, thấy kiến hiệu tức khắc.
Hai người vâng lệnh, nhận lãnh liều thuốc, uống rồi nằm nghĩ trên mặt đá phẳng quanh đó. Ông cụ già cũng lấy thuốc cho thiếu niên uống.
o0o
Mã Hóa Long chợt ngủ thiếp đi, không biết bao lâu... Nhưng lúc tỉnh dậy thì thấy mặt trời đã mọc cao, bóng nắng chiếu vào người ấm áp. Ông ta không thấy mình còn nằm trên phiến đá nữa mà trái lại hóa ra nằm trên một mô đất. Chung quanh phong cảnh thay đổi hẳn, không còn núi cao rừng rậm nữa. Chỉ thấy cánh đồng lúa bát ngát ở miền châu thổ. Mã Hóa Long vươn vai đứng dậy. Ông nhìn thấy vợ mình đang đun nước, hai con ngựa đang gặm cỏ gần đấy, còn ông cụ và công tử đã biến đâu mất?
Ông lấy làm lạ hỏi vợ rằng:
- Tại sao chúng ta lại ở đây? Đây là đâu? Thuộc địa phận nào? Lý công tử đâu? Ông cụ già đâu?
Vương Ngọc Lan trả lời:
- Ông đã ngủ được ba ngày rồi. Tôi tỉnh dậy sớm hơn ông. Chúng ta hiện nay ở cách Thất Chỉ Sơn kể cả ngàn dặm đường. Hiện nay chúng ta ở thuộc địa phận Hoài An, tỉnh Giang Nam, gần bờ sông Dương Tử. Các vết sẹo trên mặt ông đã lặn đi. Ông sờ tay lên trán mình xem. Trông ông không gớm ghiếc như trước nữa...
Mã Hóa Long đưa tay sờ soạng da mặt, thấy phẳng nhẵn lành lặn như xưa, bộ râu quai nón bị cạo sạch trơn, ngắm thấy mình mặc quần áo ra vẻ một bác nông phu thì lấy làm kinh ngạc vô cùng. Ông nhìn lại Vương Ngọc Lan, ông cũng nhận thấy da tóc bà cũng trở nên tươi nhuận, dung nghi hồng hào, đẹp đẽ như người thành thị lâu năm, không phải là kẻ phong trần cục mịch sống lâu trong vùng sơn cước.
Vương Ngọc Lan nấu cháo, pha trà cho chồng ăn uống, xong rồi ba thuật lại cho Mã Hóa Long nghe sau đây.
Ông cụ già sau khi cho vợ chồng Mã Hóa Long uống thuốc, trong khi hai người ngủ mê mệt, không biết đã làm cách nào đưa được hai vợ chồng xuống tận miền đồng bằng để nằm tại cánh đồng lúa này? Khi phu nhân tỉnh dậy trước thì thấy ông cụ già đương ngồi xoa nắn các huyệt đạo của Mã Hóa Long, chú trọng nhất là các huyệt ở sau gáy bên trái như huyệt Phong Thủ, Á Môn vào Não Phong.
Vương Ngọc Lan hỏi tại sao ông cụ lại làm như vậy thì cụ có dặn rằng: 'Cụ phát giác một sự biến động vô cùng nguy hiểm, vị Phiên tăng chịu dâng cho Mã Hóa Long thanh độc kiếm, mục đích là muốn theo dõi để tìm đến Vạn Diệu Sơn Trang để chiếm đoạt các phương thuốc kỳ lạ của lão Thần Y. Cũng có một tổ chức ghê gớm khác của nhóm người Hắc Y cũng kéo đến đốt phá, tàn sát lương dân quanh vùng Vạn Diệu Sơn Trang mục đích là để bắt sống Lão Thần Y và tìm ra những bí quyết mà Lão Thần Y đã dùng để luyện và chế tạo các loại thần dược. Tổ chức bí mật đó còn nhằm tiêu diệt nhiều cao thủ võ lâm khác và chiếm độc quyền bí quyết pha chế các loại độc dược, linh đan từ trước tới nay chưa từng thấy ở trên đời.
Họ cho rằng có lẽ chỉ một mình lão Thần Y là được biết sự bí mật, vì lẽ đó nên ông cụ già cấp tốc phải mang hai vợ chồng Mã Hóa Long xuống tận Hoài An phủ, khuyên nên tìm đến ẩn náu tại khu vực phía đông thành này trong ba năm.
Ông có viết thư giới thiệu cặp vợ chồng này với một người tên là Khương Lã Bá, người này chuyên nghề nuôi ngựa, có trang trại lớn trong vùng. Ông cụ già có cho hai người chút tiền nong làm lộ phí, chắc chắn tiền này cụ đã lấy ở những bọc hành trang trên lưng ngựa của bọn áo đen đã bị Mã Hóa Long giết.
Điều cần thiết, ông cụ già căn dặn kỹ càng là phải kiên nhẫn ẩn thân, không được để lộ hình tích. Kẻ thù đương truy tầm ráo riết người sẹo mặt có thanh độc kiếm chém người không xuất huyết, khắp mọi nơi.
Trong ba năm ẩn tích, Mã Hóa Long cần phải luyện tập lại bộ pháp và khai triển kiếm thuật bằng tay trái và mắt trái. Ông cụ già có nói là đã giúp khai thông các huyệt đạo, sửa nắn não hệ và các giây thần kinh để giúp Mã Hóa Long trở nên một danh gia đệ nhất kiếm sau này.
Ông cụ già còn hứa sẽ mang Lý công tử đến một nơi tuyệt tích, chữa bệnh và đào luyện cho thành một tay kiếm khách tuyệt vời.
Ba năm nữa Lý công tử sẽ tìm đến Hoài An phủ và lúc đó ông già sẽ giao cho một kế hoạch hành động để thành toàn di mệnh của Lý Lăng Vương.
Hoài An phủ thuộc đất Giang Nam, là nơi trù phú của miền đồng bằng, có sông to, hồ lớn, có ruộng lúa phì nhiêu, dân cư đông đúc, hiền lành, ảnh hưởng của quân ngoại xâm bắc Liêu, của ác đạo, của Phiên tăng chưa xâm nhập tới.
Muốn cho hai vợ chồng Mã Hóa Long có đủ phương kế sinh nhai, ông cụ còn tặng cuốn sách thuốc của lão Thần Y cho Vương Ngọc Lan học tập, tham khảo chữa bệnh cứu người. Cụ còn để lại một số rễ Dưỡng Mã Thảo, dạy cho cách trồng cỏ để nuôi lấy chiến mã. Cụ còn phải nhắc giấu thanh Huyết Ma Cổ Độc Kiếm, đừng để kẻ lạ trông thấy.
Mã Hóa Long sau khi đã hiểu rõ đầu đuôi mọi sự, tỏ vẻ vui mừng vô hạn, cùng vợ ăn cháo, uống nước trà rồi cùng nhau lên ngựa của Khương lão bá để xin tá túc.
Sau khi ấy thì ông cụ già dùng thuật Ngự phong, cắp thiếu niên bay về nơi tuyệt tích trên rặng núi cao trùng trùng điệp điệp, hiểm trở vô cùng.
Rặng núi này cao hơn rặng núi Nga Mi, núi Thái Hàng suốt ngày đêm khí núi trắng bốc lên nghi ngút. Sinh vật muôn thú không thể ở được. Người ta đi vào như có cảm giác như đi trong bóng mây mù.
Thân thể ông già nhẹ như chiếc lá, nương theo các luồng gió cuốn quanh sườn núi lởm chởm, bay đi như một ngọn khói. Cảnh tượng chập chờn hiện ra trong sương trắng giống như ảo ảnh.
Dị nhân đó bay rất lâu mới tới một mỏm núi nham thạch bằng phẳng mọc nhô ra trên vách đá trắng, tại nơi đó gió thổi rất mạnh, khí núi bốc mù mịt dày đặc hơn chỗ khác. Lão dị nhân phải có một nhãn lực phi thường mới nhận biết được mỏm núi nham thạch nhô ra để hạ mình đặt chân xuống. Không ngờ ở kế bên hòn nham thạch lại có một hốc đá rỗng trũng đủ người chui lọt, ăn thông vào lòng núi.
Ông lão kéo thiếu niên lúc này cứng đơ như xác chết, vào trong hang tối. Hang đó mỗi lúc mỗi rộng ra đủ tầm người đi đụng đầu. Thạch nhũ mọc dưới đất tủa lên và trên trần rũ xuống có nước rơi lạnh buốt.
Lão dị nhân đi trong bóng tối đen như mực, tay xốc thiếu niên, tay vịn các mũi đá, càng ngày càng đi sâu xuống địa huyệt giống như một u hồn lần bước xuống địa ngục. Từ vách đá. Từ vách đá... bỗng vang lên tiếng thác nước chảy ầm ĩ như sấm động.
Thì ra lão dị nhân đã vào sâu tới giữa lòng núi, mà nơi đây có một hồ nước lớn, nước từ trên ngọn núi chảy dồn về hợp thành nhiều thác nhỏ trút cả xuống mặt hồ.
Nước chảy dồn xuống hồ suốt ngày đêm ầm ầm chuyển trời động đất như thế, mà mực nước hồ không thấy dâng cao. Vật nhẹ như lông chim thả xuống hồ cũng chìm, không thấy nổi.
Men tới bên hồ nước ngầm trong lòng núi, lão dị nhân bấy giờ mới đánh đá lửa, châm vào cây hỏa liệu soi sáng để tìm một vật gì. Khi ngọn lửa cháy bùng lên, muôn đạo hào quang trong động bỗng lóe sáng, phản chiếu lại muôn ngàn sắc màu rực rỡ như một nơi tiên cảnh.
Tuy nhiên mặt nước hồ vẫn phẳng lặng đen xì, chứa chất một âm thầm ghê gớm. Lão dị nhân tay cầm hỏa liệu soi lên các mỏm thạch nhũ óng ánh, bước tới mé dưới một tảng đá lớn, lôi ra một cái bọc lớn làm bằng da giống da hải cẩu, màu đen bóng loáng.
Ông mở cái túi rộng lớn đó ra, bế thiếu niên đặt vô, ông cũng bước vô trong túi đó, kế kéo trùm miệng túi lên người và thắt kín. Cái túi da tự nhiên phồng lên như quả banh tròn khổng lồ, tự lăn tròn và rơi tõm xuống hồ. Thoạt nhiên nó còn nổi lềnh bềnh như một cái phao lớn, nhưng khi ra gần tới giữa hồ, cùng với ánh lửa của cây đuốc bắt đầu tàn rồi tắt ngấm thì cái túi da trong có hai người cũng chìm lỉm luôn như bị một sức hút vô hình thần bí kéo rút xuống đáy hồ mất dạng...
Cảnh vật trở nên tối đen ngòm, âm u như một nơi nhà mồ thiên nhiên, thạch huyệt từ trước tới nay chưa từng xảy ra một chuyện gì cả. Chỉ còn tiếng thác đổ, khí lạnh thấu xương...
Thật là ma quái. Thật là kỳ lạ không ai tưởng tượng được!
Người ngạc nhiên nhất, ắt phải là chàng thiếu niên, tuy chất độc còn tồn tại trong châu thân đã làm thân thể và tứ chi chết cứng, nhưng đầu óc chàng hãy còn đôi chút tỉnh táo.
Chàng còn nhớ rằng đã rất xúc động khi phải từ biệt dưỡng mẫu Mã phu nhân là người chàng yêu quí nhất trên đời, chàng lại xúc động hơn khi biết rõ thân thế của mình, là giọt máu cuối cùng của dòng họ Lý Lăng Vương và mình có bổn phận phải rửa mối huyết hận, phục thù cho cha mẹ.
Chàng lại thương cảm vô cùng khi liên tưởng tới Mã Hóa Long đã hy sinh gầy dựng cho chàng một thân võ công khả dụng, dù chịu mang trên mặt, trên người bao nhiêu vết đao đâm kiếm chém.
Trong lúc lão dị nhân cắp chàng bay đi vù vù trong không khí, chàng không hiểu tại sao thân thể hai người lại có thể nhẹ nhõm như thế được. Chàng lại được trông thấy bao nhiêu cảnh núi non hùng vĩ liên tiếp hiện ra trước mắt, những ngọn núi kỳ lạ cao vời vợi mà nhất sinh làm người chàng không bao giờ được trông thấy, không bao giờ nghĩ là tạo hóa tạo nên như thế được và không bao giờ đi tới đó.
Lúc bay cao trăm trượng, chỉ thấy gió thổi ào ào, mây bay chớp giật, bây giờ lại chui xuống địa huyệt, thu mình trong cái túi da chìm xuống xoáy nước trong hồ theo dòng nước ngầm chảy trong lòng đất cuốn đi. Tốc độ càng ngày càng nhanh, nước chảy xiết lôi túi da đi còn nhanh hơn cả lúc bay bổng trên trời theo thuật phi hành.
Lão dị nhân ôm lấy chàng, che chở cho chàng vì e sợ lúc túi da đập mạnh vào thành đá mỗi khi dòng sông ngầm chuyển khúc. Không khí trong túi da mỗi ngày một ít đi, Lý công tử cảm thấy mỗi lúc một ngột ngạt. Thần trí khi tỉnh khi mê, rồi sắp đến lúc hoàn toàn mất cả tri giác như từ giã cõi sống thì...
Chiếc túi da vọt lên như cây pháo thăng thiên. Đến đây tiếng nước chảy réo và cọ sát vào ghềnh đá mất hẳn... Chiếc túi da bỗng nhiên ngừng lại, bất động, bốn bề im lặng như tờ.
Lão dị nhân cởi miệng túi ra. Một luồng ánh sáng rọi vào quáng mắt. Một làm không khí nhẹ lâng lâng, thơm mát ùa vào. Lý công tử thấy mình và lão dị nhân ngồi trong túi da như ngồi trên một chiếc thuyền con, nổi lềnh bềnh trên mặt nước... Một vùng nước rộng, trôi dần vào bờ có nhiều lạch nhỏ. Lý công tử nghe thấy lão dị nhân nói:
- Ơn trời vạn hộ! Chúng ta đã đến nơi rồi! Việc đầu tiên là ta phải lo cứu con khỏi tuyệt mạng đã!
Nói rồi, ông ẵm Lý công tử đi lại trước một động phủ. Nơi đó có một suối nước nóng, màu nước giống như nước sữa loãng mà trước đây lão dị nhân đã đổ ở ngọc bình, chữa trị vết thương nơi bàn tay Mã Hóa Long và nơi vai Lý công tử.
Khói ở suối nước nóng xông lên một mùi thơm kỳ lạ, thoang thoảng như mùi hoa phong lan quý ở trong rừng. Lão dị nhân cởi bỏ hết quần áo của Lý công tử và đặt chàng nằm vào nước tới cổ.
Lý công tử cảm thấy trong người dễ chịu bội phần, không còn thấy ngạt thở như trước nữa. Một dòng nước đen từ vết thương thâm tím, rỉ rỉ chảy ra, chàng như con cá chết khô lại được đem thả xuống nước.
Lão dị nhân nói:
- Bao nhiêu máu huyết trong thân thể con đều bị nhiễm độc cả rồi. Phải để cho máu cùng chất độc chảy ra hết. Con phải nằm đây cho tới khi nào thân thể tứ chi phục hồi sinh khí, cử động được, tự mình đi đứng được thì vào trong động đá kia mà nghỉ ngơi. Ta đi kiếm Bạch Tuyết Dương Sâm cho con ăn để phục hoàn chân dương khỏi tuyệt khí.
Lúc này Lý công tử như người đã chết đi, nay lại được sống dậy, nằm trong nước ôn tuyền, ngắm cảnh vật chung quanh. Chàng thấy từ mặt đất, hòn đá, cây cỏ đều không giống với cảnh vật mình thường thấy. Một vài giống cây lá muôn màu rất to mà không thấy cành. Mặt đất rắn như lát đá hoa cương song không phải tay người đẽo tạc nên.
Lúc này, lão dị nhân mang đến một ôm những củ Bạch Tuyết Dương Sâm trắng nõn, còn tươi, mới nhổ ở khe đá lên, bẻ đôi ra loại sâm này còn nguyên chất nhựa trắng chảy ròng, mùi thơm ngào ngạt, ăn vào có một hương vị ngọt thơm đặc biệt.
Lý công tử lúc này cũng ví như một bào thai còn nằm trong bụng mẹ, sống nhờ khí huyết chuyển vận trong hai mạch Nhâm Đốc trong châu thân. Da thịt chàng ngâm trong dòng nước suối đều đều từ trong lòng khe suối chảy ra. Khí nóng ấm áp ngấm vào trong các tế bào gân cốt, xô đẩy dịch chuyển không ngừng như tay người nắn bóp các kinh mạch, nhựa Bạch Tuyết Dương Sâm như dòng cam lộ, giúp thêm sự khôi phục lại âm dương khí hóa làm cho cơ thể bị chất độc hủy hoại lại được quy nguyên.
Bao nhiêu độc khí phong hàn được đẩy ra theo với máu đen từ chỗ vết thương tiết ra ngoài. Điều dưỡng trong Nhũ Chấp ôn tuyền khoảng bảy ngày thì không thấy máu đen chảy ra nữa, trái lại cũng không thấy máu còn màu đỏ mà lạ thay từ miệng vết thương đã thu nhỏ lại rỉ ra chút bạch nguyên dương trắng.
Lý công tử tuy chưa đứng dậy được, nhưng đã có thể tự động bò lên bờ được. Lão Thần Y liền lấy quần áo cho chàng mặc, bồng vào động phủ để chàng nằm tịnh dưỡng trên giường đá.
Hàng ngày lão dị nhân nuôi chàng bằng trái cây. Những loại trái cây kỳ dị không biết tên gọi là gì. Chưa đầy một tháng, Lý công tử hoàn toàn khỏi bệnh, đã có thể đi lại, chạy nhảy như thường, vết thương trên vai đã hàn gắn, dấu thẹo cũng biến mất. Lão dị nhân liền bảo Lý công tử rằng:
- Nơi đây không phải là đất sống cho các sinh vật. Cong chú ý mà xem, nhỏ bé như con giun con kiến, lớn như con hổ báo sài lang cũng không thể nào sống ở đây được. Tuyệt cốc này không phải là đất như bình nguyên ta ở. Đây là một thế giới khác. Con mới lọt vào vòng thế giới kỳ ảo đó. Sau này sống ở đây lâu, con cùng ta tìm cách đi sâu vào trung tâm thì có lẽ chúng ta còn thấy nhiều sự kỳ lại hơn nữa. Thật cũng là thiên duyên kỳ ngộ nên ta mới đem được con vô đây.
Thân xác con đã chết hẳn rồi. Ta đã dùng linh đơn kỳ diệu và một phương pháp kỳ lạ để giữ cho não tủy của con còn sống thêm một vài ngày. Nhưng chính nhờ vậy mà hóa ra chuyển họa thành phúc ngày nay. Cả thân thể con đều có cơ duyên thích hợp sống được ở nơi đây, tức địa linh này, nếu không nó đã bị hủy phá đi như cơ thể các loài sinh vật khác.
Máu của con đã chuyển hóa thành thuần dương, nếu biết đường lối luyện tập, hấp thụ những linh khí thiên nhiên của vũ trụ bất biến tại đây, thì cũng như các hóa chất ở đây so với đời sống phàm tục bên kia vách núi thì con trở thành Kim Cương Bất Hoại.
Ta sẽ dạy con mọi phương pháp kỳ diệu mà ta đã khám phá được. Con nên nhớ: Có những điều mà ta mất công phu năm mươi năm trời mới biết được. Nay truyền lại cho con chỉ mất năm mười tháng đã thấu hiểu. Ta không được Thuần Chất Nguyên Dương, con hơn ta điểm đó. Nhưng điều tốt nhất là con phải tuân hành những lời ta chỉ dạy thì mới mau có kết quả được.
Trong năm đầu, con chỉ được ở trong khu vực quanh nơi động phủ này thôi. Sinh sống bằng uống nước thiên nhiên ngọc dịch trong thủy bình, ăn trái cây do ta đem đến, thụ tập “tĩnh điện” trên giường đá này và luyện ngoại công trên mặt suối kia. Nhất nhất phải theo lời ta dạy bảo. Nếu tò mò hay trái lệnh thì có sự nguy hại không thể cứu được. Con có biết đây là đâu không?
- Thưa lão tiền bối, tiểu tử không thể biết được...
- Chúng ta đang sống trong “mảnh sao băng” trên trời rơi xuống. Một mảnh sao băng kỳ lạ... mà ta đang tìm hiểu!
Từ lúc sơ sinh đến tuổi thiếu niên, Lý công tử đã quen sống với cảnh cô tịch trong rừng rú. Nên bây giờ, sống với lão dị nhân trong sơn động thấy không có gì là thay đổi. Chàng hành động nhất nhất đều theo lời chỉ dạy, ép mình vào trong khuôn phép như trước đây đã bị Mã Hóa Long kềm thúc.
Lão dị nhân xếp trên mặt suối những hòn đá cách nhau ba bộ, cả thảy có đến một trăm lẻ tám hòn theo những phương vị đã định sẵn. Mỗi ngày Lý công tử phải luyện khí, điều tức, vừa chuyển vận thân hình theo đúng bộ pháp nhảy nhót bước đi lùi lại cả trăm ngàn lần trên một trăm lẻ tám hòn đá đó. Hễ thấy mình mệt nhọc thì lặn hụp dưới ôn tuyền cho tới khi hết mệt mỏi. Trở về động phủ thì lên thạch bàn tĩnh tọa dưỡng thần. Lão dị nhân mỗi lần mang trái cây đến cho ăn thì lại chỉ điểm thêm cho biết rõ đạo Âm Dương Ngũ Hành, phân tích bảy mươi hai kinh lạc và trên ba trăm huyệt đạo quan yếu trong cơ thể.
Tại nơi đó đêm cũng như ngày không có sáng tối phân biệt rõ rệt, không có gió mưa nóng lạnh bão bùng, sự tu luyện công phu của Lý công tử tiến nhanh chóng lạ thường. Khởi đầu chàng khó khăn lắm mới chạy nổi mười hai vòng trên một trăm lẻ tám hòn đá. Rồi sau quen thuộc dần, mặc dầu phương vị dọc ngang lùi tiến xoay chuyển thế nào, chàng cũng bước đi thoăn thoắt không sai lệch và nhanh chóng như chim bay, mắt người không theo kịp.
Một ngày kia, lão dị nhân đến bảo chàng rằng:
- Bây giờ con đã đủ sức để rời bỏ nơi đây, cùng ta đi vô động chính của ta hành công. Con phải lưu ý cẩn thận vì dọc đường có nhiều trở ngại.
Nói rồi ông dắt tay thiếu niên đi vào một địa đạo dài và sâu thẳm giống như một đường hầm đào trong đá rắn. Càng vô sâu thì thấy ở trong càng rộng ra và ánh sáng bắt đầu tối dần lại.
Đột nhiên tới chỗ rẽ chia ra nhiều ngõ, tại đó có nhiều ngọn gió lốc nổi lên ầm ầm với tốc độ kinh hồn, có thể làm rách tả tơi quần áo làm bằng vải bố bền chắc nhất. Nếu đi ngược chiều gió mạnh thì thân thể sẽ bị xô đẩy, cuốn đi đập vào vách đá đến tan thây nát thịt.
Lão dị nhân hỏi:
- Con có đủ sức để đi ngược lại luồng kình phong tới đầu hầm đằng kia không? Thiếu niên đáp:
- Nếu lấy sức mạnh chôn chân nặng ngàn cân xuống mặt đất, rồi đạp ngọn kình phong giữ cho khỏi bị lôi cuốn đi hoặc để cho khỏi thổi mạnh, toạc rách da thịt là may! Nói chi đến xông pha đi ngược lại chiều gió!
Lão dị nhân cười rằng:
- Thế thì công phu luyện tập bộ pháp Xuyên Phong của con đâu không đem ra sử dụng. Gió lốc thì xoay theo chiều gió lốc, lánh chỗ cường tiến chỗ nhược, lấy sức gió làm sức mình, cũng xoay tít mà đi ngược dần lên được không?
Lý công tử thốt nhiên tỉnh ngộ đáp rằng:
- Để con thử xem có thể được chăng?
- Cách đây hai chục năm ta cũng đã tới địa huyệt này mà không biết làm thế nào để đi tới. Sở dĩ mà liều mạng thành công được không phải do công lực của ta mà phải nhờ lão Thần Y chế ra mấy liều Định Phong Đơn ngậm vô miệng rồi mới dám xông pha, thực là cực nhọc. Nhưng tới lúc đi đến đầu đường kia thì trong hai người chúng ta bị thọ thương mất một. Bây giờ ta với ngươi đi thử vô xem sao, nếu ngươi gặp khó khăn ta sẽ giúp đỡ.
Hai người tiến vào đường hầm đi ngược lại cơn lốc đang thét rú lên những tiếng kinh hồn. Cả hai đều dùng bộ pháp Xuyên Phong mình xoay tít như con vụ, lúc tiến tả, lúc lui hữu nương theo chiều gió xoáy không bị thổi đi mà lại dấn tới đầu hầm phát sinh ra ngọn gió.
Khi tới cùng đường, lão dị nhân truyền âm nói nhỏ bên tai cho Lý công tử nghe thấy:
- Kình phong không sợ bằng tuyến phong, con nên theo ta né tránh các tia gió nhỏ, nguy hiểm lắm đấy.
Nói chưa dứt lời thì một tia gió đã xé rách ống tay áo thiếu niên, chàng vội uốn mình tránh thoát và bám theo lão dị nhân bay ra khỏi khu vực nguy hiểm...
Hai người đi tới một thạch động bốn bề đều tỏa hào quang rực rỡ như trên vách đá đều có gắn ngọc lưu ly. Lão dị nhân nói:
- Nơi đây là chốn ở của ta. Khoảng rộng mênh mông đằng sau sơn động này là nơi ta ươm cây thuốc. Một số dị thảo mà ta đem trồng tại đây đều do lão Thần Y chọn hạt giống hoặc rễ cây. Linh khí thiên nhiên ở tinh thể thạch giúp cho cây thuốc có tính trị bệnh công hiệu lạ lùng. Ngoài ra ở đây cũng tự mọc lên một vài giống cây lạ mà ta đem cho lão Thần Y nghiên cứu, tới nay cũng chưa biết kết quả công dụng của nó ra sao.
Một vài loại làm hôn mê thần trí, cũng có nhiều loại làm tiêu máu huyết như Huyết Ma Thảo, có loại trị độc, có loại làm liền gân liền cốt, có loại trị nọc rắn độc... Tiếc thay là ta không ham thích về y học nên không biết rõ nhiều... Trong thời gian ở đây, con nên thay ta chăm nom vun tưới, sau này có thể sử dụng hữu ích những kỳ hoa dị thảo.
Còn về vấn đề thức ăn nuôi dưỡng thân thể thì con không lo. Cách sau động không xa, ở mé trái có một ngọn suối lớn, hai bên bờ suối mọc rất nhiều loại cây Bạch Tuyết Dương Sâm, Hồng Đào, Hoàng Lê, Thạch Lựu... và nhiều cây trái khác có thể ăn được. Người hãy ở đây mà luyện tập khí công, vun trồng cây trái rồi có dịp ta sẽ đưa con tới gặp người bạn đó.
Lý công tử vâng lời, ngày ngày lo đi hái trái cây, múc nước vun tưới cây thuốc và theo cách chỉ bảo của lão dị nhân luyện những kỳ công trong sơn động. Việc đi hái trái cây hàng ngày và việc đi hứng nước ngọc dịch tiết ở các thạch nhũ trong động suối là một việc đối với Lý công tử vô cùng mệt nhọc.
Vì lẽ muốn hái được những trái cây tốt và hứng được nước uống quý tiết ra từ thạch nhũ không phải là một việc dễ dàng. Phải lội qua dưới thác nước từ trên cao cả trăm trượng đổ xuống, những hạt nước bắn xối xả vào người. Nếu da thịt tầm thường thì có thể bị đau buốt đến đứt gân gãy cốt.
Sức chịu đựng của chàng thiếu niên đã đến độ cao siêu mà mỗi khi đi qua thác nước, phải tìm những kẽ hở ít nước xối xuống đem hết thuật phi hành lao mình vượt qua như điện xẹt để tránh khối nước lớn đập xuống như ngàn tảng đá đánh vào thân thể. Lúc vượt qua được vùng thác nước, đi sát vào sườn núi đá trơn như đổ mỡ, chỉ vụng về một chút là sẽ bị trượt chân té như trời giáng nếu không sứt đầu thì cũng trầy xước chân tay.
Cây trái mọc đây không có cành lá. Rễ nó ăn sâu vào khe đá, trái nó không mọc lộ ra ngoài mà lại nằm trong lớp đá hỏa sơn.
Nếu không có nhãn lực trông suốt qua được lớp dung nham che ngoài thì không thể biết được trong đó có quả có trái. Hái độ chục trái Bạch Tuyết Dương Sâm phải mất tới nửa ngày tìm kiếm, khi đã thấy rễ rồi thì lần mò theo rễ đó, theo dọc đường gân đá để tìm tới trái, rồi phải dùng công lực ở hai cườm tay đánh vỡ lớp đá ngoài rồi bứt rễ nhẹ nhàng bới lấy quả. Còn muốn hái trái Hồng Đào, Thạch Lựu hoặc Bạch Tuyết Liên thì phải leo cao trăm trượng. Những cây này mang hạt giống từ ngoài vào đem trồng ở những nơi đã lựa chọn trong hốc núi. Rễ những loại cây này không ăn sâu vào kẽ đá được nên lão dị nhân đã trộn rêu và mốc với tán thạch làm chất bón. Quả trổ ra tuy ít nhưng đã mọc được trái nào thì trái đó to lớn dị thường, nhựa trái cây rất thơm ngon bổ kỳ lạ.
Lý công tử nhìn thấy nhiều quả gần chín, to lớn muốn hái nhưng không đủ tài phi thân để tự mình bay lên hái lấy đem về. Việc mang ngọc bình đi hứng nước uống, phải lần mò đi đến nhiều hang sâu, tìm xem nhú đá nào tiết ra những nước trắng như sữa nhỏ giọt thì hứng lấy. Có khi bắt buộc phải tìm những túi nước còn đọng trong khối tinh thể, rồi phải tìm cách đập vỡ cho nước chảy ra.
Loại ngọc dịch này còn quý gấp bội thứ nước ở trong suối ôn tuyền bên ngoài, ở trong hang tối mà các giọt sữa đá cũng tự phát ra ánh sáng. Theo lời lão dị nhân, uống liền sữa đá này nhiều lần thì gân cốt sẽ chuyển hóa thành tinh thạch tự phát ra điện năng khiến nội lực sung mãn như các bậc chân nhân tu tiên, trong các chuyện thần tiên đã mô tả vậy.
Tinh thạch ngọc dịch còn giúp cho hai mắt trông rõ vật nhỏ như cây kim trong bóng tối, tai có thể nghe xa cả chục dặm, óc thông minh gấp mười trí tuệ người thường. Vì thế Lý công tử cố gắng tìm và hứng thật nhiều chất ngọc dịch quý báu trong miền thạch động kỳ lạ đó. Khoảng ba trăm ngày sau, hình dạng Lý công tử đã biến cải trở nên một trang thanh niên thân hình khỏe mạnh, dung nghi cực kỳ mỹ mạn, hai mắt thần quang trong sáng, trán cao tóc tốt, đúng là một kỳ nam tử. Tử Đô, Phan An, Tống Ngọc thuở xưa cũng chẳng sánh bằng...
Bây giờ chàng có thể đứng rất lâu dưới thác nước, tắm rửa vùng vẫy, chịu đựng những khối nước lớn đổ ầm ầm như trời sập. Chỉ khẽ vỗ tay lên đá tảng cứng rắn như thạch anh cũng đủ làm vỡ vụn như ý muốn.
Thần tình hơn nữa chàng đã biết cách lấy một loại rễ cây, có những sợi tơ dài dằng dặc mọc từ núi này qua núi khác như cây Quả Sơn Long đã hút những chất nước nhũ toan, kết thành một sợi dây nhỏ nhưng có sức bền bỉ cột và nhấc lên cả khối đá nặng vạn cân rồi kéo lên cao mà vẫn không bị đứt. Dùng sợi tơ trắng đó làm thòng lọng, vung lên móc cuốn vào các mõm đá cao, chàng có thể phi thân leo lên bất kỳ nơi nào chàng muốn.
Nhờ có sợi dây kỳ diệu này, chàng hái được nhiều trái cây mọc ở nhiều hóc núi cao hơn bao giờ hết. Một hôm, chàng mạo hiểm dùng dây leo lên một mỏm đá cao nhất, hàng mấy trăm trượng, trong lúc thân hình bám cheo leo giữa vách đá trơn thẳng cao vô tận, chàng bỗng nhìn thấy một đóa hoa kỳ lạ trông rất giống một bông hồng vĩ đại nhưng đặc biệt là cánh hoa chưa nở tung lại có một một màu xanh biếc óng ả rất đẹp.
Mùi hương từ đóa hoa tỏa ra một khoảng rộng, sực nức ngào ngạt, càng ngửi càng sảng khoái say mê. Chàng vội hái bông hoa lạ đem về dâng cho lão dị nhân coi. Lão dị nhân trông thấy bông hoa hồng xanh, mặt ông bỗng vui mừng hớn hở nói rằng:
- Khá khen cho con! Ta đích thân tìm đóa hoa này cả chục năm nay, biết là có mà chẳng biết tìm ở đâu cho thấy. Con hái được đóa hoa này là một điều hạnh phúc lớn, mà cũng tỏ ra rằng con đã có một tài nghệ tiến bộ vượt bực. Loại hoa này mọc ở trên cao, màu xanh lẫn với màu đá lam thạch, phải có một nhãn lực phi thường mới phát giác được. Nhờ có bông hoa này, ta hy vọng chí nguyện của ta sẽ thành đạt. Để tặng thưởng cho con, ta sẽ ban cho một thanh kiếm trên đời có một không hai, đó là thanh Siêu Điện Tử Quang Bảo Kiếm.
Nghe thấy cái tên Siêu Điện Tử Quang Bảo Kiếm, Lý công tử nghĩ rằng chắc lão dị nhân sẽ ban cho mình một thanh bảo kiếm chuôi vàng lưỡi bạc sáng như gương có thể chém sắt như chém bùn... Một thanh kiếm quý, ít nhất khi rút lưỡi bén ra khỏi bao, ánh sáng ngời khí lạnh ghê rợn! Chàng rùng mình khi nghĩ tới ánh sáng xanh của lưỡi độc kiếm khi Mã Hóa Long, dưỡng phụ của chàng vô tình đã dùng chiêu Phi Long Đoạt Mạng lao kiếm đâm thủng vai chàng, mũi kiếm cắm vào vai chàng ngọt xớt như dao cắt chuối...
Lão dị nhân dẫn chàng vô một căn phòng bốn bề là đá hình chữ nhật, trần vách nền đều là cẩm thạch nhẵn bóng, ở đầu phòng có một hộp đá màu hồng, dài chừng ba thước ta. Ông ta nói rằng:
- Người mà ta yêu quí trên đời lúc nào cũng mơ ước một đóa thanh hoa. Ta bảo rằng: hoa hồng màu đỏ, màu bạch thì có, trên đời này làm gì có bông hoa nào giống hoa hồng mà lại màu xanh. Người đó bảo rằng có bông hoa cùng loại hoa hồng nhưng các cánh màu xanh. Ta nghĩ có lẽ tài học của ta chưa được uyên bác để dư biết là có, để mong có dịp được thưởng ngoạn... Ta cãi lại bảo người đó là gàn dở. Người đó chỉ cười mà không đáp lại. Đến bây giờ mục kích được đóa thanh hoa trước mắt, được ngửi thấy mùi thơm của giống hồng hoa, ta mới biết chính ta là gàn dở, kiến thức nông cạn và thương tiếc người đó vô cùng. Thanh bảo kiếm này cũng không phải của ta, mà là vật sở hữu của người đó. Nay ta ban cho con vì con đã giải quyết được câu chuyện bông hoa xanh.
Nói rồi lão dị nhân mở hộp đá màu hồng ra... Lý công tử nhìn vô chỉ thấy trong đựng một cục sắt dài, đen sì có nhiều vết loang lổ như bị rỉ sét chẳng ra hình dạng cây kiếm, mà cũng chẳng có giá trị gì hết. Lão dị nhân cầm lấy thanh sắt rỉ rét cung kính nhấc ra và trao cho thanh niên.
Lý công tử đành phải quỳ xuống, giơ tay kính cẩn đỡ lấy, miệng nói:
- Sư phụ, con... ối chao!
Thì ra cục sắt này nặng mấy trăm cân. Lý công tử phải vận hết nội công ra hai tay mới đỡ nổi, suýt ngã.
Chàng nghĩ bụng thật là quái lạ! Thanh sắt rỉ rét này dù cho là làm bằng vàng đúc đi chăng nữa cũng chỉ nặng hai ba cân là cùng. Không biết nó bằng chất gì mà lại nặng dữ vậy.
Chưa kịp mở miệng nói lời cảm tạ, lão dị nhân đã xua tay bảo chàng đứng dậy và nói rằng:
- Không có ai là sư phụ gì cả! Ý ta muốn cho ngươi thì cho. Phần ngươi muốn thích lấy thì lấy. Ta thích dạy thì dạy. Phần ngươi thích học thì học. Học được hay không đó là tùy ý ở ngươi, ngươi chẳng có gì ràng buộc với ta, như thế có phải là tự do sướng hơn không? Ta không thích nhà ngươi gọi ta là sư phụ. Ta cũng không bao giờ gọi ngươi là đồ đệ, chúng ta không có gì gọi là ràng buộc nhau cả.
- Ta không có tên họ, ngươi có họ nhưng không có tên, biết vậy là đủ. Ngươi cầm lấy thanh kiếm này, chịu khó luyện tập những chiêu thức mà Mã Hóa Long đã dạy cho ngươi. Khi nào thuần thục thì vào phòng này luyện với ta.
Từ hôm đó ngoài việc đi kiếm thức ăn nước uống, Lý công tử tự luyện phương cách múa kiếm theo những chiêu thế sở trường của chàng. Nhưng chàng chỉ múa kiếm được một lát là thân thể đã mỏi rã rời, tay nọ chuyển kiếm sang tay kia, giơ lên chém xuống được vài cái thì thấy gân cốt kêu răng rắc, phải buông thanh kiếm ngồi nghỉ cả giờ mới phục hồi được sức khỏe như cũ.
Chàng lấy làm tức giận lắm, không hiểu tại sao hai cánh tay mình có thể nhấc nổi tảng đá ngàn cân mà không thể vận dụng được cục sắt ngắn quá vài gang tay theo như ý được? Chàng liền tập trung ý chí, vận hết cả nội lực ra hai tay để điều khiển bằng được thanh sắt quái gở đó.
Sự cố gắng đã giúp chàng cầm nổi thanh bảo kiếm đó múa được bài Xuyên Tâm Thập Tam Thức Kiếm Pháp thì hai tay đành buông xuôi và thở hồng hộc.
Sau khoảng thời gian khá lâu gần một trăm ngày, sự thông minh đã giúp chàng nhận thấy một điều kỳ lạ như sau: Nếu chàng tập trung ý lực mạnh mẽ thì sự khiển dụng thanh kiếm có vẻ nhẹ nhàng, tay không phải nắm thật chặt vào thanh sắt. Nhưng một khi ý tưởng lơ là thì thanh sắt trở nên nặng trĩu trong lòng bàn tay. Vậy trước khi muốn sử dụng thanh kiếm phải ngồi tĩnh tọa, tập trung tư tưởng, thần thái thanh nhàn cầm thanh kiếm trong tay cũng như không, dùng ý nghĩ sai khiến thì vung tay chém lên chém xuống cả giờ cũng không mỏi.
Nhờ thấu hiểu phương pháp luyện tập “tĩnh công” như vậy, chàng thấy kiếm pháp của chàng trở nên tiến bộ rất kỳ ảo, tưởng rằng khi đã cầm trong tay thì dù có muôn ngàn mũi tên bắn tới chàng cũng có thể dùng kiếm đỡ gạt không để lọt qua một mũi tên.
Khi ý nghĩ muốn chém tới điểm nào thì đầu thanh kiếm như có gắn đá nam châm, chém tới ngay điểm đó.
Đúng ngày hẹn, lão dị nhân dẫn Lý công tử vào căn phòng không có đèn đuốc gì cả. Lỗ chiếu sáng trên trần cũng đã được bít kín. Cái hộp đá màu hồng hình chữ nhật cũng đã được cất đi chỗ khác. Trong phòng tối đen chỉ còn có hai người.
Lão dị nhân ngồi xếp chân vòng tròn ở đầu căn phòng. Lý công tử cầm kiếm đứng ở giữa căn phòng. Hai người đều yên lặng tập trung ý lực.
Bỗng lão dị nhân quát to:
- Cẩn thận đỡ Hồng Châu Phi Kiếm của ta!
Nói rồi, tức thời có một điểm lửa đỏ tròn như hòn bi bắn thẳng từ ngón tay lão dị nhân về phía mặt Lý công tử. Lý công tử vung thanh sắt chém vào điểm đó. Điểm đó bị chém bật lại vào tường, bắn sang tường đối diện, xẹt trở lại thân mình Lý công tử.
Cứ mỗi lần Lý công tử chém trúng mạnh thì Hồng Châu Phi Kiếm lại mạnh thêm lên. Tia lửa đỏ băng đi băng lại từ vách tường này sang vách tường khác, lúc vuột thẳng lên trần phòng, lúc xuôi xuống mặt đất, lúc nhằm đầu, lúc nhằm vai, lúc nhằm bụng, lúc nhằm thân Lý công tử bắn vào làm tối tăm mặt mũi.
Hồng Châu bị kiếm đánh trúng văng ra các tia lửa đỏ chói lóe cả mắt. Nếu không bình tĩnh, lanh mắt nhanh nhẹn đối phó ắt bị Hồng Châu đánh trúng thân mình nhiều lần rồi.
Khởi đầu Lý công tử còn bối rối bỡ ngỡ nhưng về sau càng được luyện tập càng quen dần sự đánh đỡ càng tinh diệu hơn và ý niệm tập trung càng dồi dào. Thấy vậy lão dị nhân càng gia tăng tốc độ của Hồng Châu, thoạt kỳ thì còn trông rõ là một đóm lửa tròn bay đi, văng lại, nhưng về sau thì biến thành một đạo hồng quang bay đi xẹt lại nhanh như chớp giật.
Lý công tử tập trung ý chí cố đón đỡ. Một sự kỳ lạ xảy ra mà chàng không ngờ tới là thanh sắt cầm ở trong tay cũng đỏ rực lên. Chàng càng vận khí truyền sang thanh sắt, trước thấy đỏ hồng như lửa sau quyện với màu sắc đỏ máu của hồng châu thì sự đón đợi trở nên nhẹ nhàng như một trò chơi, không còn khô khan gì cả. Hồng Châu bắn sang phía nào thì vệt đỏ thanh Siêu Điện chặn trúng ngay giữa điểm đó.
Lão dị nhân thu Hồng Châu về. Lý công tử buông thõng tay kiếm, nghỉ ngơi. Ánh đỏ ở thanh kiếm cũng mờ dần rồi tắt đi. Trong tay chàng thanh niên chỉ còn một thanh sắt đen tầm thường có rỉ rét trơ lại nguyên hình.
Lão dị nhân vui mừng lên tiếng bảo rằng:
- Con tấn bộ nhiều lắm rồi! Ta cho phép con vô động tuyết để vận dụng khí thử thành quang Siêu Điện Tử Quang Bảo Kiếm.
Nói rồi ông dẫn Lý công tử đi vô thực sâu trong một địa huyệt ở tận cùng một cái hang nhỏ có đầy thạch nhũ, từ trước tới nay chàng chưa tìm vô lần vào. Những thạch nhũ này cũng tiết ra nhiều giọt ngọc dịch có khả năng cải huyết hoàn lực cho những kẻ có kỳ duyên đột nhập nơi kỳ diệu đó.
Động tuyết nói trên bốn bề đều là nước lạnh đông lại, kết thành băng đá. Vách váng đá trong suốt như pha lê, sức lạnh tỏa ra kinh hồn khiến cho từ lúc mới bước chân vô, Lý công tử phải ngậm miệng vận hết cả mười phần thần dương khí công để khỏi bị chết vì cóng lạnh.
Thanh sắt chàng cầm ở tay, tự nó cũng tiết ra một luồng hơi nóng nhiệt năng truyền vô cơ thể làm Lý công tử cảm thấy thêm sự ấm áp dễ chịu vô cùng.
Chàng bước theo lão dị nhân đi theo đường hầm, bốn bề một màu trắng toát. Càng đi sâu hơi lạnh buốt bốc lên thành khói và ánh sáng phản chiếu lóng lánh như đi trong một căn phòng bốn bề đều tráng thủy ngân. Ở giữa căn động tuyết băng trong một quan tài hình khối thủy tinh trong suốt như kim cương có một thiếu nữ, da trắng như ngọc, tóc màu vàng, khuôn mặt xinh đẹp tuyệt trần, thân mình phủ áo dệt toàn bằng ngân tuyến phát ra muôn tia bạch quang lóng lánh.
Trong khung cảnh băng tuyết huyền diệu ấy, người thiếu nữ nằm yên bất động là hiện thân của một bạch tiên nữ giáng trần...
Hai người đứng trước khối thủy tinh, lão dị nhân lấy trong ống tay áo ra đóa hoa hồng xanh, mở nắp áo quan, cung kính đặt đóa hoa lên trên ngực thiếu nữ rồi đậy nắp hòm thủy tinh lại và nói rằng:
- Đây là người bạn mà ta đã nói với con. Nàng là người ta yêu quý và tôn kính nhất trên đời! Ta với Thánh Thủ lão Thần Y là hai anh em ruột. Lão Thần Y chuyên học về nghề thuốc. Còn ta chỉ học về thiên văn. Nhiều năm trước đây, trong một đêm tối trời, ta đương ngắm các tinh tượng trên đỉnh một ngọn núi cao thì ta bỗng trông thấy một quả cầu lửa to lớn dị thường như cả một trái núi rớt xuống phía này. Sẵn có khinh công tuyệt thế, ta đi nhiều ngày trời để tìm nơi hỏa cầu sa xuống.
Sau nhiều ngày trời băng ngàn vượt suối, trong lúc quanh co tìm kiếm, lạc lõng trong đám khí núi sương mù vẩn đục thì gặp được nàng. Thoạt tiên ta cứ tưởng nàng là thần nữ giáng hạ. Vì ngôn ngữ bất đồng nên không thể nói chuyện với nhau. Song nàng cũng ra hiệu cho ta biết nàng từ Tây phương đi tới với mục đích cũng đi tìm hỏa cầu như ta. Nhưng nàng giỏi và thông minh hơn ta nhiều...
Nàng chỉ đường dẫn lối, tìm phương cách để lọt được vào vùng kế cận chỗ hỏa cầu rớt xuống. Thanh kiếm Siêu Điện Tử Quang là vật báu của nàng, có khả năng đẽo đá đục hang để tìm lối vào tâm động. Nàng và ta hợp sức tạo ra động phủ bên ngoài...
Cái túi da mà ta cùng con chui vô để cho trôi theo con sông ngầm cũng là vật báu của nàng chế tạo. Dòng suối nóng Nhũ Chấp Ôn Tuyền do nàng tìm thấy trước và khơi rộng ra.
Các cây có trái đều do nàng ươm trồng theo sự hiểu biết của riêng nàng. Tiếc thay vì ta không hiểu được tiếng nói của nàng cũng như nàng không hiểu được tiếng nói của ta nên muốn bày tỏ ý kiến gì phải ra hiệu hồi lâu mới hiểu được ý nhau.
Hồi đó ta còn trẻ, nàng cũng tỏ vẻ cảm mến ta lắm. Võ công của nàng rất giỏi. Ta dạy nàng về quyền thuật, nội công vận khí. Nàng lấy đá bày ra trên suối và biểu diễn pho Xuyên Phong Bộ Pháp để tìm cách vượt qua hầm gió vào sát hỏa cầu. Một hôm vì sơ ý khi đến cuối hầm, nàng bị gió đánh gãy xương tay.
Ta cùng nàng trao đổi và nghiên cứu rất nhiều tư tưởng trong khoảng thời gian cùng sống ở động Hồng Thạch, uống “ngọc dịch” tiết ra ở nhũ đá và gây giống thêm nhiều giống trái cây để sinh sống. Vì muốn chữa cho nàng khỏi vết đau ở tay nên ta tìm cây thuốc để chữa lành.
Ta nhận thấy bất kỳ loại thảo mộc nào ở khu vực này đều hút được tú khí có thêm đặc tính trị liệu, mà tiếc thay ta không biết phân biệt, khai thác nhiều về y học ngay từ lúc đầu. Nhận xét đó đã khiến ta nảy sinh ý nghĩ nếu có dịp đưa đến, ta sẽ hái tất cả các loại cây này đem ra ngoài núi, tìm lão Thần Y để nhờ lão tra khảo cứu hộ.
Nàng đã nhiều lần cố gắng giảng cho ta hiểu biết rằng hỏa cầu này từ trên không trung rơi xuống, đó là một mảnh sao băng... Những sự kỳ lạ về thảo mộc, về thủy hỏa phong thạch phát hiện đều do tinh lực của sao băng ảnh hưởng gây ra.
Nàng muốn tìm nguồn tinh lực vô hình của sao băng đó và tin rằng sẽ có thể trở nên Trường Sinh Bất Tử và có nhiều phép mầu huyền diệu, vô biên trên cõi đời này. Nàng bảo ta rằng tinh lực đó có thể giúp ta điểm đá hóa vàng, biến hoa hồng đỏ thành hoa hồng xanh. Ta chỉ cười và đáp rằng:
- Ta không tin rằng ở trên đời này có thể có một đóa hoa hồng xanh được!
Chỉ vì câu nói đó mà nàng giận ta mất mấy ngày, lánh mặt ta và không nói chuyện với ta. Ta phải tìm nàng xin lỗi mãi, mong được nàng tha thứ.
Nàng đã tha thứ cho ta, song kiên quyết thêm về việc đi tìm tinh lực của sao băng chìm sâu trong lòng đá. Không một khe đá nào mà nàng không lần mò tới, không một địa huyệt đạo nào mà nàng không đào sâu thêm... Tuy nhiên, tìm được điều gì mới lạ, nàng cố tìm cách cho ta hiểu, hoặc bằng tiếng nói, hoặc bằng dùng kiếm vẽ hình trên mặt đá.
Sau nhiều năm trời tìm kiếm, tập luyện, ta tin rằng có nguồn tinh lực như nàng nói. Cả hai chúng ta đều luyện được kiếm khí, có công lực làm sạt đổ cả một góc núi như chơi! Chúng ta có thể đứng cách xa nhau hàng chục dặm đường mà vẫn có thể chuyển vận công lực truyền âm vào tai nhau cho nghe được. Mắt chúng ta có thể nhìn thấu qua lớp đá...
Cho tới một ngày, nàng là người đầu tiên tìm được vị trí của hỏa cầu và đi thẳng vào hỏa cầu đó. Ta hoảng sợ vô cùng! Kết quả thảm khốc là ta đã liều mạng bế được nàng ra khỏi ánh điện quang luôn bùng nổ trong hỏa cầu. Nhưng nàng đã mất hết tri giác và từ đấy đến nay, chưa bao giờ hồi tỉnh lại!...
Ta đặt nàng vào đồng băng tuyết này để giữ cho thi hài nghìn năm không mục nát, giữ y nguyên vẻ tươi đẹp như xưa. Còn thanh kiếm Siêu Điện Tử Quang lúc trước là một thanh bảo kiếm chuôi vàng dát ngọc, lưỡi kiếm sáng ngời. Sau này ta nhặt được ở hỏa cầu đem ra thì tinh lực hỏa cầu đã làm biến dạng nói thành cục sắt nhỏ nhắn nhưng nặng vô cùng mà con đương cầm ở trong tay đó.
Thế rồi ngày tháng trôi qua, không biết là đã bao nhiêu năm? Từ một trang thanh niên với bao nhiêu ước vọng vui tươi của cuộc sống đầy kỳ thú, phiêu lưu và mạo hiểm...
Ta bây giờ đã thành một cụ già cô độc, buồn tẻ! Ở trong một động tuyết này, con trông xem, nàng vẫn là một tiên nữ giữ nguyên dung nhan buổi thiếu thời nhiều chục năm về trước... Ta đã tìm đủ mọi cách nghiên cứu đủ mọi thuốc linh đơn, thần dược mà lão Thần Y đã giúp ta. Song chẳng có mảy may kết quả và ta cũng chẳng có phương cách gì để đi vào trung tâm tìm biết thêm sự kỳ lạ của hỏa cầu. Ta biết nàng thích những sự mới lạ...
(... thiếu một đoạn...)
Bầu trời xanh tươi và rộng vô cùng. Thiếu nữ quay lại bảo hai người:
- Đây là trung tâm của ngôi sao băng ở trên trời rớt xuống. Ở đây không có sống không có chết. Không có ăn không có uống. Ở đây không có ngày không có đêm. Âm dương ngũ hành thất tinh: hỷ, nộ, ái ố, ai, lạc, dục, thời gian đều không có cả...
Lão dị nhân hỏi:
- Thế ở trong sao băng này thì có cái gì? Thiếu nữ đáp:
- Có tôi, có ông, có tình “yêu thương” vô hạn. Lão dị nhân nói:
- Yêu làm sao được, tôi là một ông già, còn cô là một thiếu nữ xinh đẹp.
- Thế trước kia ông không trẻ tuổi sao? Ông muốn được trẻ thì...
Nói chưa dứt lời, ông cụ già đã trở lại nguyên dạng một cậu trai trẻ cùng tuổi với thiếu nữ, trông chàng thanh niên này lanh lẹ, khỏe đẹp chẳng kém gì Lý công tử.
Thiếu nữ tiếp tục nói:
- Đấy ông đã trẻ lại rồi đấy, ông đã trẻ lại như khi ông mới gặp tôi. Còn tôi bây giờ tôi lại muốn già bằng tuổi ông lúc nãy!
Rõ ràng mắt chàng trông thấy thiếu nữ tóc vàng tay cầm đóa hoa hồng xanh đã đứng dậy trước mắt hai người tự bao giờ! Chiếc áo phủ ngoài bằng ngân tuyến rung rinh, lóng lánh làm tăng sắc đẹp diễm lệ của người con gái kỳ dị.
Thiếu nữ vẫy tay ra hiệu cho hai người đứng lên đi theo nàng về phía cuối phòng.
Lý công tử thấy lão dị nhân đứng dậy cũng bắt chước đứng lên đi theo. Chàng không quên cầm cục sắt Siêu Điện, song thân mình chàng nhẹ như gió thoảng chân đi không chấm đất, lơ lửng giữa khoảng không chừng hai tấc.
Nói là bước đi, nhưng kỳ thực là thân mình chàng trôi đi như lướt trên mặt nước. Cả ba người đi xuyên qua vách băng đá. Lý công tử tưởng mình ngủ mê, không hiểu sao mình lại có thể đi được vào trong tường nước đá và không biết đi đến đâu nữa?...
Lần này thì lại đi xuyên qua các vách đá núi, đi được một hồi lâu thì tới một nơi lửa cháy đỏ rực, ngọn lửa ở dưới bốc lên phùn phụt, như miệng hỏa diệm sơn... Cả ba người đi vào trong lửa mà không thấy nóng. Thật là một giấc mơ!
Thiếu nữ dẫn tới một vòm trời mọi vật đều xanh biếc cùng màu đóa hoa đang cầm ở trong tay. Đóa hoa vẫn tươi không bị lửa làm khô héo!
(... thiếu vài trang...)
Nói chưa dứt lời, mớ tóc vàng nuột của thiếu nữ đã trở nên trắng xóa và cô gái đã biến thành một bà cụ già lụ khụ...
Bà cụ già nói:
- Bây giờ ông trẻ, còn tôi lại già mà tôi vẫn có tình “yêu thương” bất diệt. Thế mới biết đàn ông là giống bạc tình... hơn phụ nữ nhiều.
Lý công tử đứng ngẩn người ra chẳng hiểu ra sao. Lão dị nhân cười ha hả nói rằng:
- Sướng thật! Sướng thật! Ta chỉ sợ có thời gian! Ở đây làm chủ được thời gian còn gì sướng bằng? Tôi muốn bà và tôi, cả hai chúng mình không già và không trẻ.
Chưa dứt lời, lão dị nhân đương là một thanh niên tuấn tú đã cằn cỗi biến thành một trung niên với bộ râu ba chòm đen nhánh, còn bà lão thì xinh đẹp trở lại thành một trung phụ tuổi trạc ba chục xuân xanh. Thiếu phụ có mái tóc vàng giơ tay chỉ Lý công tử rồi hỏi rằng:
- Có phải cậu này hái được bông hồng xanh dâng cho ta phải không? Lão dị nhân đáp:
- Phải, cậu này là con của Lý Lăng Vương, vị trung thần có công dẹp giặc, giúp nước. Cậu trúng độc được tôi đem về động phủ cứu thoát. Hiền muội nên giúp cậu ấy, truyền cho bí pháp để nối chí cha.
- Tên cậu là gì?
- Cậu ấy họ Lý nhưng chưa đặt tên...
Thiếu phụ nói:
- Tôi với ông đều là kẻ vô danh. Cậu này cũng không có tên. Chúng ta không biết gọi tên nhau là gì? Kẻ nào đã du nhập khối tinh cầu chẳng cần phải học bí pháp gì cả, và ở đây cũng chẳng có bí pháp nào để mà học. Bí pháp nằm ở “Thanh tâm”. Ta chỉ cần hỏi cậu một câu thôi.
- Cậu họ Lý! Bây giờ cậu có nghĩ thương yêu ai không?
- Dạ có ạ!
- “Ai?”.
- Lúc nào tôi cũng thương nhớ đến người mẹ đà nuôi dạy dỗ tôi từ thuở ấu thơ. Người đó là Mã phu nhân đang đợi chờ tôi ở Hoài An phủ, tỉnh Giang Nam, mẹ tôi lo sợ cho tôi...
Thiếu phụ tóc vàng vỗ tay nói:
- Tốt lắm! Cậu là người con rất tốt! Đấy là bí pháp của ta truyền cho cậu rồi! Cậu họ Lý, bí pháp của ta nằm trong hai chữ “Thanh Hoa”.
Ở đời chẳng có gì hơn bằng “Thanh tịnh - Thanh tâm”. Cũng vì lòng nhân ái, có người phải giết kẻ bạo tàn!... Nếu mình lấy cái sở trường của mình thì thường thắng được cái sở đoản của người. Nếu mình kém người thì mình lấy cái sở trường của người mà diệt họ! Nhưng tốt hơn hết thanh tâm, chẳng nghĩ diệt ai. Còn lại đây ta khai thông cho hai huyệt đạo ở sau ót tức thời con sẽ hiểu rõ thêm bí quyết của đóa hoa hồng xanh. Con có thể trở về Hoài An phủ để tìm mẹ con vì ta biết lúc này mẹ con thương nhớ con lắm.
Ngôi sao băng này chẳng mấy bữa sẽ bị lún xuống lòng đất, rồi lửa ngầm ở lòng đất sẽ nổi lên thiêu rụi tất cả trái núi và biến thành núi lửa. Chừng đến lúc đó con có muốn trở về gặp mẹ con cũng không thể được nữa! Cơ duyên đến đây là hết! Con có nhớ đến hai chúng ta và mảnh sao băng kỳ lạ thì nhắc đến hai chữ Thanh Hoa là đủ. Ta có quyển sách này, con là người hiếu học, chịu khó đọc xem sẽ hiểu rõ nhiều điều có ích cho đời sống của con và vũ trụ. Có một điều đáng tiếc là trở lại đời sống ở ngoại địa, con đắc thuần dương không thể hội hợp được với âm chất. Con không thể phối ngẫu để có dòng dõi nối truyền như người khác.
Ta giúp con khai thông hai huyệt Minh Cường và Phong Phủ để con có đủ thần trí thông minh lãnh hội được các điểm huyền bí trong Thanh Thư Kỳ Yếu.
Lý công tử thấy thiếu phụ tóc vàng xoay ngược cuống hoa điểm vào sau ót chàng điếng nhói tưởng như óc bị xuyên thủng làm chàng kêu “ối chao” và phục xuống... mê man như người bị rớt từ trên cao xuống, chới với trong cơn mê sảng...