Chiếc thủy phi cơ sắp đến là chiếc máy bay tuyệt vời nhất từ xưa đến nay.
Tom Luther đứng trên bến tàu Southampton, ngước mắt nhìn lên trời để dõi tìm chiếc máy bay sắp hạ cánh, lòng nôn nao lo sợ, lúc ấy là vào buổi trưa và sau khi có tin nước Anh tuyên chiến với Đức được nửa ngày. Anh ta luôn miệng ngân nga khe khẽ mấy khúc nhạc của Beethoven: đoạn đầu trong bản Côngxéctô LEmpereur, một giai điệu trầm buồn rất hợp với không khí chiến tranh.
Một đám đông đến xem đứng quanh anh ta. Họ là những người say mê máy bay, với ống nhòm trên tay, là những chàng trai trẻ và những người hiếu kỳ.
Luther tính ra thì đây là lần thứ chín chiếc thủy phi cơ Clipper của Hãng Hàng không Pan American đáp xuống nước ở Southampton, nhưng sự kiện này cũng không mất tính hấp dẫn mới lạ của nó. Chiếc máy bay rất kỳ diệu, rất đẹp đến nỗi mọi người đều tụ tập đến để xem ngay cả vào ngày đất nước họ bắt đầu lâm chiến. Trên bến tàu đã có hai chiếc tàu thủy đẹp lộng lẫy đang đậu, nhưng những khách sạn nổi này chẳng làm mọi người quan tâm, mà tất cả đều ngước mắt nhìn lên trời.
Trong khi chờ đợi máy bay đến, mọi người đều bàn tán với nhau về chiến tranh. Trẻ con rất náo nức trước viễn cảnh này; người lớn nói chuyện nho nhỏ với vẻ như đã nghe tiếng xe tăng và đại pháo kề bên; còn đàn bà thì chỉ giữ vẻ yên lặng. Luther là người Mỹ, anh hy vọng đất nước mình sẽ đứng ngoài cuộc chiến tranh này: đây không phải là việc của người Mỹ. Ngoài ra, chỉ có một việc khi người ta nói đến những người Đức Quốc xã là:họ không thích chủ nghĩa Cộng sản.
Luther là một kỹ nghệ gia sản xuất vải len, có một thời anh đã gặp nhiều chuyện khó khăn với những người Cộng Sản trong Các nhà máy sợi của mình.
Anh đã hoàn toàn phụ thuộc vào họ; họ đã làm cho anh gần sạt nghiệp. Nhớ lại chuyện này anh tức ứa cơm. Nhà máy sản xuất áo quần của bố anh đã thất bại, lại còn bị người Do thái cạnh tranh làm cho suy sụp thêm, rồi nhà máy len của Luther bị những người này hăm dọa - mà phần đông trong số này là người Do thái. Lúc bấy giờ Luther gặp được Ray Patriarca, và cuộc đời của anh được thay đổi. Thuộc hạ của Patriarca biết cách trị người Cộng sản. Anh ta đã thực hiện được nhiều vụ. Một người lãnh đạo phong trào đấu tranh đã bị máy dệt. nghiền nát một bàn tay. Một người hoạt động trong phong trào công đoàn đã bị một tay tài xế lái ẩu cho chầu Diêm vương. Hai người đàn ông than phiền về các qui chế bảo hiểm của công nhân không được thực hiện nghiêm túc, đã bị lôi kéo vào một cuộc ẩu đả trong quán rượu, rồi kết thúc cuộc đời trong bệnh viện. Một chị công nhân thường than vãn này nọ, đã tự động bỏ việc ở công ty sau khi nhà chị bị thần hỏa đến viếng. Những việc này chỉ xảy ra trong vòng mấy tuần, rồi từ đó về sau tất cả đều êm thấm. Patriarca đã học được sách lược của Hitler: phương pháp duy nhất để trị người Cộng sản là nghiền nát họ như nghiền gián. Luther nhịp chân lên đá, luôn luôn khẽ ngân nga trong miệng nhạc của Beethoven.
Một chiếc tàu tuần tra rời bến tàu của Hãng Hàng không Hoàng gia Anh phía bên kia cửa sông, ở Hythe, chạy quanh nhiều vòng khắp khu vực máy bay sắp đáp xuống, để bảo đảm không có vật gì chướng ngại trên mặt nước. Đám đông nôn nóng thì thào với nhau:chắc chắn chiếc thủy phi cơ sắp đến rồi.
Người đầu tiên trông thấy chiếc máy bay hiện ra là một cậu bé mang đôi giày mới toanh. Cậu ta không có ống nhòm, nhưng cặp mắt mười một tuổi của cậu sáng hơn những tấm thấu kính ở trong ống nhòm. “Máy bay đến kìa “ - Cậu ta reo lên giọng lanh lảnh. “Chiếc Clipper kia kìa” - Cậu ta chỉ về phía Tây Nam.
Mọi con mắt đều đổ dồn về phía ấy. Mới đầu, Luther chỉ thấy một vật lờ mờ như hình một con chim, nhưng chỉ một lát sau, vật lờ mờ ấy hiện rõ hình dáng một chiếc máy bay, và mọi người đều lộ vẻ hân hoan, thích thú:
cậu bé đã nói đúng. Mọi người đều gọi chiếc máy bay khổng lồ có vận tốc nhanh này là chiếc Clipper, nhưng theo kiểu thiết kế kỹ thuật, thì nó là một chiếc Boeing B-314.
Hãng Pan American đã đặt hàng cho Hãng Boeing đóng một loại máy bay có khả năng chuyên chở hành khách bay qua Đại Tây dương với điều kiện phải rất sang trọng, và kết quả là họ có một lâu dài bay khổng lồ, lộng lẫy, với sức mạnh phi thường. Hãng đã nhận được sáu chiếc và đặt mua thêm sáu chiếc nữa. So về mặt tiện nghi và vẻ đẹp, thì loại thủy phi cơ này tương đương với những chiếc tàu thủy khổng lồ chạy xuyên đại dương hiện đang neo đậu tại Southanlpton, nhưng trong khi những chiếc tàu thủy lộng lẫy kia phải mất bốn hay năm ngày mới vượt qua được đại dượng, thì chiếc Clipper chỉ bay mất từ 25 đến 30 giờ thôi.
Vừa nhìn chiếc máy bay đến gần, Luther nghĩ đến lời của nhiều người cho rằng đây là một con cá voi có cánh. Cái mõm của nó khổng lồ có:hình vuông như mõm cá voi, thân máy bay thật đồ sộ và đuôi máy bay thon thả, tận cùng bằng cặp cánh phụ. Những động cơ khổng lồ được gắn gọn vào hai cánh. Dưới hai cánh, có một cặp phao ngắn dùng để giữ cho thủy phi cơ đứng vững khi đậu trên mặt nước. Phía dưới thân máy bay, nhìn nghiêng trông như vỏ một chiếc tàu thủy chạy nhanh.
Chẳng bao lâu, Luther thấy rõ những ô cửa sổ có hình chữ nhật ở hai bên thân tàu, những ô cửa sắp xếp không đều nhau, một dãy ở boong trên. Anh vừa mới đến nước Anh trên chiếc Clipper này cách đây một tuần, cho nên anh biết rất rõ cách bố trí trên tàu. Boong trên của tàu gồm phòng lái và phòng chứa hành lý còn boong dưới dành cho hành khách. Ở boong hành khách thay vì những dãy ghế bành cho khách ngồi, thì người ta lại đóng một dãy vách hõm vào để kê ghế dài bọc nệm. Đến giờ ăn, phòng khách chính biến thành phòng ăn, còn ban đêm thì những ghế dài sẽ được biến thành giường ngủ.
Máy bay được chế tạo như thế để hành khách được hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài và khỏi bị nhiễm lạnh. Trên sàn boong có lát thảm dày, ánh sáng được lọc cho dịu lại, màn nhung có màu sắc thanh nhã và nệm ghế được bọc da độn bông. Trên vách gắn một lớp cách nhiệt dày để làm giảm bớt tiếng ồn do tiếng máy gây ra. Ông Cơ trưởng có thái độ trầm tĩnh uy nghiêm, nhân viên phi hành đoàn mặc đồng phục của hãng Pan American rất thanh lịch, và nhân viên phục vụ luôn luôn cần mẫn. Khách muốn thứ gì người ta cung cấp đầy đủ thứ ấy, luôn luôn khách được đề nghị ăn cái này hay uống cái nọ; tất cả thứ gì khách muốn, thứ ấy hiện ra như một trò ảo thuật. Đến tối những chiếc giường ngủ được màn che kín và dâu tây tươi mát có sẵn trên bàn ăn vào giờ điểm tâm. Thế giới bên ngoài trở nên phi thực, như một cuốn phim được chiếu lên các ô cửa sổ bên hông tàu, và vũ trụ hình như thu gọn lại vào bên trong máy bay.
Để hưởng trọn hạnh phúc này, người ta phải trả một giá rất đắt:Sáu trăm bảy mươi lăm đô la một vé khứ hồi; bằng một nửa giá tiền một ngôi nhà nhỏ. Khách đi máy bay đều là các nhân vật đế vương, các tài tử xi nê, giám đốc các công ty lớn và nguyên thủ các nước nhỏ.
Tom Luther không thuộc trong số các nhân vật này. Anh giàu đấy, nhưng anh đã làm việc cật lực mới có được một gia sản kếch xù, cho nên anh không xài phí tiền bạc vào cuộc sống xa hoa. Tuy nhiên, anh phải làm quen với chiếc thủy phi cơ. Anh được một nhân vật có uy lực, rất có uy lực, giao phó cho một nhiệm vụ tối nguy hiểm. Người ta không trả công cho anh, nhưng đổi lại, người ta sẽ giúp anh, những chuyện mà tính ra có lẽ còn đáng giá hơn cả tiền công trả cho anh nữa.
Công tác này còn có thể hủy bỏ, anh đang chờ bật đèn xanh. Anh đang ở trong tình trạng phân vân, vừa mong muốn tiến hành nhiệm vụ lại vừa mong sao khỏi phải làm công việc này.
Máy bay giảm độ cao với tư thế xiên xiên, đầu ngẩng lên, đuôi hạ thấp. Khi máy bay xuống gần, một lần nữa, Luther cảm thấy bàng hoàng kinh ngạc trước kích thước đồ sộ của nó. Anh đã biết thân máy bay có chiều dài 33 mét và cánh sải rộng đến 43 mét, nhưng những con số này chẳng có nghĩa lý gì khi người ta chưa thấy nó nằm trên mặt nước.
Bỗng người ta có cảm giác như chiếc thủy phi cơ không bay mà nó đang rơi và sẽ va mạnh vào mặt nước rồi chìm mất xuống đáy biển. Nhưng rồi người ta thấy như thể nó được treo lơ lửng trên mặt nước bằng một sợi dây vô hình. Rồi cuối cùng nó chạm vào mặt nước, nhảy lò cò trên sóng, làm bắn tưng tóe từng đám bọt nước. Nhưng cửa sông nằm khuất gió, nên sóng rất ít, và chỉ một lát sau, sàn máy bay chìm xuống nước, từng đám bụi nước văng lên tưng tóe.
Máy bay chạy tới vạch trên mặt nước xanh một đường trắng, rẽ ra hai chùm bọt nước hai bên; Luther nghĩ đến một con vịt trời trên hồ, hai cánh xòe ra, hai chân bơi dưới bụng. Bụng máy bay chìm dưới nước một ít làm cho hai chùm bọt nước rộng thêm ra, phần than trước nhấp nhô bập bềnh. Tia bọt nước càng nhiều thêm trong khi máy bay vươn lên lại, cái bụng như bụng cá voi trườn tới trước. Cuối cùng mũi máy bay hạ xuống. Tốc độ thình lình giảm sút, những chùm bọt nước biến mất, chỉ còn lại những xoáy nước nhẹ nhàng, và chiếc thủy phi cơ lướt đi trên mặt biển như một chiếc tàu thủy, êm ái như thể không bao giờ cất cánh bay lên trên trời xanh được Luther nhận thấy mình nín thở, rồi anh buông tiếng thở dài. Anh lại khẽ hát trong miệng. Chiếc thủy phi cơ tiến về chỗ đậu. Chính chỗ này tuần trước anh đã từ chiếc thủy phi cơ bước lên bờ, trên bến tàu nổi đã được bố trí rất tiện lợi cho khách lên xuống dễ dàng. Chỉ trong mấy phút người ta buộc dây neo ở trước và sau máy bay, rồi kéo máy bay vào chỗ đậu nằm giữa hai cái đê chắn sóng của bến tàu. Khách quan trọng bắt đầu xuất hiện, họ đi đến cửa đã mở trên cánh máy bay, bước sang bến tàu nổi, rồi từ đấy họ theo cầu tàu để lên bờ.
Luther bỏ đi, nhưng bỗng anh dừng lại. Một người đàn ông xuất hiện bên cạnh Luther, và anh chưa bao giờ gặp người này:gã ta có thân hình gần như bằng anh, mặc bộ áo quần màu xám đậm, đầu đội mũ trái dưa, có vẻ là nhân viên làm việc trong văn phòng.
Luther định đi tiếp, nhưng anh cứ dán mắt vào mặt người đàn ông. Khuôn mặt không phải là mặt của người làm việc trong văn phòng. Gã có vầng trán cao, cặp mắt xanh sắc sảo, hàm bạnh và đôi môi mỏng, độc ác. Gã lớn tuổi hơn Luther, quãng 40, nhưng đôi vai rộng và trông rắn chắc. Thái độ của gã có kiêu căng và nguy hiểm.
Luther thôi không hát lẩm nhẩm trong miệng nữa.
Gã đàn ông nói:
– Tôi là Herry Faber.
– Tôi là Tom Luther.
– Tôi mang tin nhắn tới cho ông.
Luther cảm thấy tim đập nhanh. Anh cố che giấu sự hồi hộp của mình và cũng trả lời bằng cái giọng khô khan chắc nịch như gã:
– Tốt. Nói đi.
– Người có liên quan đến công việc của ông sẽ đi trên chiếc thủy phi cơ này vào thứ tư khi nó cất cánh đi New York.
– Ông nói chắc chắn chứ?
Gã đàn ông nhìn Luther với ánh mắt gay gắt và không đáp. Luther gật đầu.
Thế là sứ mệnh đã được xác nhận. Chấm dứt sự căng thẳng. Anh nói:
– Cảm ơn.
– Chưa hết đâu.
– Còn gì nữa, cứ nói.
– Phần thứ hai của tin nhắn là:Chúng ta đừng để nhiệm vụ này thất bại.
Luther hít vô một hơi thật dài rồi đáp với giọng rất quả quyết:
– Ông báo cho họ hay là đừng lo. Có lẽ người ấy sẽ rời khỏi Southampton, nhưng hắn sẽ không bao giờ đến New York.
*
* *
Hãng Hàng không Hoàng gia Anh quốc bố trí các xưởng cơ khí nằm phía bên kia cửa sông, ngay trước mặt bến cảng Southampton. Chính các kỹ sư cơ khí hãng Hàng không Anh quốc đảm nhiệm công việc bảo trì chiếc Clipper, được sự giám sát của kỹ sư cơ khí hãng Hàng không Hoa Kỳ. Trong chuyến bay này, kỹ sư cơ khí của Pan American là Eddie Deakin.
Công việc bảo trì rất kỹ lưỡng, nhưng người ta có ba ngày đề làm công việc này. Sau khi đã để khách lên bến tàu số 108, chiếc Clipper chạy qua bên Hythe.
Ớ đây, người ta đưa máy bay vào một cái vịnh, trục nó lên giàn xe rồi kéo vào một nhà xưởng khổng lồ sơn màu xanh, trông như một con cá voi nằm yên trên chiếc xe của trẻ con.
Chuyến bay vượt đại dương đã làm cho các động cơ phải hoạt động vất vả.
Trên đoạn bay dài nhất, từ Terre-Neuve đến Ailen, thủy phi cơ bay mất 9 giờ nhưng trên chuyến bay trở về, vì ngược gió, nên chuyến bay cũng phải mất 16 gìờ rưỡi. Giờ này qua giờ nọ, nhiên liệu tiêu hao, bu gi nổ lốp bốp, 14 xi lanh trong một động cơ khổng lồ chạy lên chạy xuống không ngừng và những cánh quạt dài 4 mét 50 quay vòng trong mây, trong mưa và trong gió lốc.
Đối với Eddie, đây là mặt phi thường của ngành cơ khí. Những con người chế tạo ra những bộ máy có khả năng làm việc một cách hoàn hảo và chính xác trong nhiều giờ liền như thế này thật là kỳ diệu, tài giỏi đến độ làm cho ta phải ngạc nhiên. Dĩ nhiên là trong quá trình hoạt động sẽ có nhiều thứ hư hỏng, sẽ có nhiều thứ mòn đi, nhưng người ta đã trù tính và lắp ráp một cách chính xác, chi ly đến nồi các chi tiết máy không thể rơi rớt ra, không bị vướng mắc vào nhau hay là mất khả năng hoạt động để chiếc thủy phi cơ nặng đến 41 tấn này có thể đi đến nơi về đến chốn bình an.
Sáng thứ tư, chiếc Clipper sẽ cất cánh lại.
Việc tuyên chiến xảy ra vào hôm chủ nhật êm ả của một ngày cuối hè, bầu trời nắng ấm, tươi đẹp. Trước khi người ta tuyên bố tin chiến tranh bùng nổ trên đài phát thanh mấy phút, Margaret Oxenford ra khỏi nhà, ngôi nhà gạch đồ sộ, người cô toát mồ hôi vì đội mũ trên đầu và khoác áo măng tô, lòng tức bực vì phải đi nhà thờ. Ngôi nhà thờ độc nhất của giáo xứ nằm ở cuối làng, kéo chuông đều đều để gọi con chiên đến dự lễ.
Margaret rất sợ nhà thờ, nhưng bố cô không chấp nhận việc cô không đi lễ, thậm chí cô đã 19 tuổi và đã đủ khả năng suy nghĩ về tôn giáo. Trước đây một năm, cô đã lấy hết can đảm để nói với bố cô rằng cô không muốn đi nhà thờ, nhưng ông không chịu nghe lời cô. Margaret đã nói:
“Bộ ba không thấy con đạo đức giả khi đến dự lễ ở nhà thờ trong lúc con không tin vào Chúa hay sao?” Bố cô đáp:
“Con đừng có kỳ cục”. Thất bại và tức giận, cô tuyên bố với mẹ cô rằng khi cô đã lớn cô sẽ không bao giờ đặt chân đến nhà thờ. Mẹ cô đáp:
“Chuyện này sẽ phụ thuộc vào chồng con, con yêu à” .Với họ, việc bàn cãi thế là chấm dứt, nhưng cứ đến mỗi sáng chủ nhật là Margaret lại thấy tức tối trong lòng.
Chị gái và em trai của cô đã rời khỏi nhà rồi. Elizabeth đã 21 tuổi. Chị ta cao lớn, vụng về và không đẹp lắm. Trước đây, hai chị em thông cảm nhau. Hai người sống bên nhau suốt thời niên thiếu, vì họ không đi học ở trường, mà chỉ học ở nhà, hai người đã được các bà bảo mẫu và các gia sư dạy dỗ rất vu vơ.
Nhưng khi họ khôn lớn, tình hình không còn giống như trước nữa. Khi đến tuổi trưởng thành, Elizabeth đã hấp thụ những giá trị đạo đức cứng ngắt, thủ cựu của cha mẹ:chị ta rất bảo thủ, rất trung thành với đế chế, không thèm hay biết đến những tư tưởng mới mẻ và khinh ghét những đổi thay trong xã hội. Còn Margaret thì đi theo con đường ngược lại. Cô chủ trương quyền bình đẳng của phụ nữ, theo chủ nghĩa xã hội, say mê nhạc Jazz, tranh lập thể và thơ tự do.
Elizabeth cho rằng Margaret không phục tùng gia đình khi tiếp thu những tư tưởng cấp tiến. Margaret rất tức giận Elizabeth vì thái độ ngu ngốc của bà chị, nhưng cô buồn nhất là hai chị em không còn gần gũi nhau như xưa nữa.
Percy mới 14 tuổi. Cậu ta không có ý kiến gì về những tư tưởng cấp tiến này, nhưng bản tính cậu tinh nghịch và cậu có thiện cảm với tinh thần phản kháng của Margaret. Cả hai đều đau khổ vì bị sống dưới sự độc đoán của bố, nên hai chị em nương tựa nhau để che chở cho nhau, do đó Margaret rất thương em trai.
Bố với mẹ một lát sau mới đi. Bố đeo chiếc cà vạt màu vàng cam và xanh trông thật tồi tệ. Hầu như ông không có ý niệm gì về màu sắc hết, nhưng có lẽ chính mẹ đã mua chiếc cà vạt cho ông. Tóc mẹ màu hung, mắt xanh màu nước biển, làn da trắng tái, và bà chỉ thích các màu như màu vàng cam và màu xanh.
Nhưng bố lại có mái tóc đen đã hoa râm, da mặt đỏ, nên trông chiếc cà vạt như là tấm bảng hiệu trên người ông vậy.
Elizabeth giống bố, mái tóc chị màu nâu và nét mặt thô tháp. Margaret có màu da của mẹ:chắc cô thích có chiếc khăn quàng bằng xoa như chiếc cà vạt mà mẹ cô đã mua cho bố. Còn Percy thì thay đổi quá nhanh nên không thể nói được cậu ta giống ai.
Họ đi theo một con đường dài đến tận ngôi làng nhỏ nằm phía sau dãy hàng rào. Bố là chủ nhân hầu hết những ngôi nhà cùng đất đai nằm quanh đấy xa đến hàng dặm đường. Ông không làm gì hết mà có được sự giàu có như thế là kết quả của một loạt hôn nhân từ đầu thế kỷ thứ XIX, loạt hôn nhân này đã qui tụ ba gia đình giàu có nhất, có đất đai nằm trong lãnh địa của bá tước, số đất này gộp lại thành một vùng rộng lớn, bền vững, cứ truyền lại từ đời này sang đời khác.
Họ đi vào đường làng, rồi băng qua bãi cỏ đến ngôi nhà thờ xây bằng đá xám. Họ đi vào nhà thờ theo đoàn một như đoàn diễu hành:bố, mẹ đi trước, Margaret theo sau Elizabeth, và sau cùng là Percy. Giáo dân trong làng làm dấu thánh giá trong khi gia đình Oxenford đi vào lối đi giữa nhà thờ để đến hàng ghế của gia đình. Các chủ nông giàu có đang canh tác trên đất đai của bố, cúi đầu chào rất lễ phép; những người thuộc tầng lớp tiểu tư sản như bác sĩ Rowan, đại tá Smythe và ngài Alfred cũng cung kính chào họ. Cứ mỗi lần Margaret thấy tục lệ phong kiến kỳ cục này diễn ra là cô thấy rùng mình, khó chịu. Tất cả - mọi người đều được xem là bình đẳng trước Chúa phải không? Cô muốn la lên:“Cha tôi không có giá trị gì với quí vị đâu, ông ta là người rất tồi tệ!”. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ có can đảm để nói thế. Nếu cô gây chuyện ở nhà thờ, thì có lẽ không bao giờ cô đến đây nữa. Nhưng cô quá sợ phản ứng của bố.
Ngay khi họ vào đến ghế ngồi, mọi con mắt đều đổ dồn vào họ, Percy nói nho nhỏ, nhưng cũng đủ cho mọi người nghe:“Cà vạt đẹp lắm, bố à” .Margaret phì cười Percy và cô vội ngồi xuống, úp mặt vào hai tay như đang cầu nguyện cho đến khi bình tĩnh trở lại. Sau đó, Margaret cảm thấy đỡ hơn.
Cha xứ thuyết giảng về tình thương của Chúa Jesus. Margaret nghĩ đáng ra ông già ngốc nghếch này nên chọn đề thi thuyết giảng mà mọi người đang quan tâm hơn hết, đó là viễn cảnh một cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Ông Thủ tướng đã gởi tối hậu thư cho Hitler, lão Quốc trưởng Đức không trả lời, và bây giờ người ta đang chờ đợi chiến tranh bùng nổ. Nghĩ đến chuyện chiến tranh là Margaret kinh hoàng. Chàng trai cô thương mến đã chết trong trận chiến tranh Tây Ban Nha. Chuyện xảy ra đã hơn một năm rồi, nhưng bây giờ, thỉnh thoảng ban đêm cô vẫn còn khóc. Đối với cô, chiến tranh bùng nổ tức là sẽ có hàng ngàn cô gái phải lâm vào cảnh đau buồn như cô đã gặp. Thế nhưng, con người thứ hai trong cô lại muốn chiến tranh. Suốt mấy năm nay cô thường lên án nước Anh là hèn nhát đối với cuộc chiến tranh ở Tây Ban Nha. Nước cô bình tâm trước những biến cố xảy ra ở đấy, trong khi chính phủ xã hội do dân bầu lên đã bị một nhóm phiêu lưu quốc tế được Hitler và Mussolini trang bị vũ khí lật đổ. Hàng trăm thanh niên có lý tưởng dân chủ khắp châu Âu đổ xô đến Tây Ban Nha để chiến đấu bảo vệ sự dân chủ. Nhưng họ thiếu vũ khí và các chính quyền dân chủ trên thế giới từ chối không chịu cung cấp vũ khí cho họ; cho nên những thanh niên này đã mất mạng và những người như Margaret đã hết sức phẫn nộ, thất vọng và nhục nhã. Nếu bây giờ nước Anh quyết định đứng ở vị thế chống phát xít, thì chắc cô sẽ lại tự hào về đất nước của mình.
Còn một lý do khác nữa khiến cho tim cô rộn rã bồn chồn khi chiến tranh xảy ra, đó là việc có lẽ cô sẽ được chấm dứt cuộc sống tù túng ngột ngạt bên cạnh cha mẹ cô. Cô rất đau khổ khi sống với gia đình, cô cảm thấy như mình bị bó tay, cô tức giận khi thấy cha mẹ đã sống theo lối thủ cựu và thói ăn chơi phi lý của xã hội thượng lưu. Cô muốn thoát khỏi gia đình, sống cuộc sống tự lập, nhưng việc này không thể thực hiện được:cô còn nhỏ, không có tiền bạc, không có nghề nghiệp gì để nuôi thân. Nhưng cô nôn nóng nghĩ, khi chiến tranh bùng nổ, thế nào mọi việc cũng sẽ thay đổi.
Cô đã đọc sách báo viết về cuộc chiến tranh vừa qua, trong cuộc chiến tranh này, phụ nữ mặc quần đi làm trong các nhà máy. Bây giờ đã có phụ nữ làm việc trong quân đội, trong bãi quân và không quân. Margaret mơ được vào làm việc trong lực lượng Dịch vụ Hậu cần, một ngành nữ quân nhân. Cô có khả năng lái xe mà ít phụ nữ biết. Cô đã được người tài xế của bố dạy cho cách lái chiếc Rolls; và Ian, chàng trai chết ở Tây Ban Nha, đã để cho cô lái chiếc xe mô tô của anh ấy. Cô lại còn có thể lái thuyền có gắn động cơ, vì bố có một chiếc du thuyền nhỏ ở Nice. Ngành Dịch vụ Hậu cần rất cần nữ tài xế để lái xe cấp cứu và xe chuyển vận thư tín Cô tưởng tượng ra cảnh mình mặc đồng phục, đội mũ cát két, cưỡi xe mô tô, mang tin tối khẩn đi từ mặt trận này sang mặt trận khác chạy hết tốc lực, với tấm ảnh của Ian trên ngực trong túi áo sơ mi ka ki. Cô tin chắc, nếu người ta cho cô cơ hội, cô sẽ đủ can đảm để hoàn thành nhiệm vụ.
Sau đó, họ biết trong khi nhà thờ đang làm lễ thì chiến tranh đã được công bố. Thậm chí còn có cuộc báo động trên không vào lúc 11 giờ 28, trong khi ông cha xứ đang thuyết giáo, nhưng sự báo động không đến được làng, và dù sao thì đó chỉ là cuộc báo động giả. Vì vậy gia đình Oxenford đi bộ từ nhà thờ về nhà mà không hay biết gì về cuộc chiến tranh với Đức đã xảy ra.
Percy muốn xách súng đi săn thỏ. Tất cả mọi người đều biết bắn, đây là trò giải trí của gia đình, hầu như là một ám ảnh. Nhưng đương nhiên là bố không bằng lòng cho phép Percy đi săn, vì không ai được đi săn vào ngày chủ nhật.
Percy thất vọng, nhưng cậu vâng lời bố. Mặc dù có tính nghịch ngợm, nhưng cậu chưa trưởng thành, nên chưa đủ can đảm để công khai chống lại bố.
Margaret rất thích tính tinh nghịch của em trai. Cậu ta là tía nắng duy nhất rọi vào cuộc đời buồn bã của cô. Cô thường ân hận, trách mình là không có khả năng châm chọc bố như Percy, và cười nhạo sau lưng ông, nhưng cô quá giận nên không cười cợt được như cậu em.
Về đến nhà, họ rất sửng sốt khi thấy chị giúp việc để chân trần mà đi tưới hoa ở tiền sảnh. Bố không biết chị ta, ông liền hỏi:
– Chị là ai thế?
Mẹ trả lời, giọng Mỹ dịu dàng:
– Chị ấy là Jenkins, mới bắt đầu làm việc tuần này.
Chị giúp việc cúi đầu cung kính.
– Thế giày dép của chị ta đâu? - Bố hỏi.
Trên mặt chị ta hiện ra vẻ khinh khỉnh, chị nhìn Percy, ánh mắt lên án.
– Thưa ngài, chuyện này đều do ngài tiểu chủ Isley mà ra. - Tước vị của Percy là bá tước Isley. - Cậu ấy nói với tôi rằng phụ nữ giúp việc trong nhà phải đi chân trần vào chủ nhật để tỏ lòng kính Chúa.
Mẹ thở dài, còn bố thì càu nhàu chán nản. Margaret không thể nào nín cười được. Đây là trò bỡn cợt để cười đùa của Percy:sáng tạo ra luật lệ buồn cười cho gia nhân mới. Cậu ta có thể nói những chuyện vô nghĩa mà vẫn giữ nét mặt tỉnh bơ, còn gia đình thì đã nổi tiếng có những hành động kỳ quặc, cho nên người ta nghe nói gì cũng đều tin hết.
Percy thường làm cho Margaret cười, nhưng lần này cô bất bình khi thấy chị gia nhân bất hạnh để chân trần mà đi trong tiền sảnh, và cô thấy chị ta có vẻ ngượng ngập, lúng túng.
– Chị đi mang giày vào. - Mẹ nói.
Và Margaret nói thêm:
– Chị đừng tin ngài Isley.
Họ cất mũ khi vào trong phòng khách nhỏ.
– Đùa như thế bậy lắm đấy nhé. - Margaret nói nhỏ bên tai Percy, vừa kéo tóc cậu ta.
Percy khoan khoái, cậu ta tính nào tật nấy. Có lần cậu báo cho cha xứ rằng bố đã chết vì bệnh tim trong đêm, và cả làng đều đến phúng viếng, khi ấy mới biết là tin đó không thiệt.
Bố mở đài vô tuyến ra nghe, bấy giờ mọi người mới biết tin:Nước Anh tuyên chiến với nước Đức.
Margaret cảm thấy lòng tràn ngập vui sướng, như khi người ta có cái gì kích thích, khiến họ lái xe chạy thật nhanh hay là leo lên tận ngọn cây. Người ta không còn đặt vấn đề:sẽ có những tấm thảm kịch, sẽ có cảnh tang tóc buồn phiền và đau khổ, nhưng bây giờ tất cả đều không thể tránh được nữa, những rào cản đều đã được dẹp bỏ và chỉ còn lại vấn đề duy nhất là chiến đấu chống lại quân thù. Nghĩ đến chuyện này tim cô đập thình thịch. Tất cả đều sẽ thay đổi hết. Người ta sẽ bỏ hết những qui ước xã hội cũ rích, phụ nữ sẽ tham gia chiến đấu, rào cản giai cấp sẽ biến mất, tất cả mọi người đều sẽ cùng làm việc với nhau. Cô cảm thấy đang được hít thở bầu không khí tự do. Rồi mọi người sẽ ra mặt trận chống lại bọn phát xít, bọn người đã sát hại Ian thân yêu của cô và giết hàng ngàn thanh niên quả cảm khác. Margaret không phải là người hiếu chiến, nhưng mỗi khi nghĩ đến chuyện chống lại bọn Quốc xã đức, là cô lại cảm thấy ý chí phục hận bùng lên mãnh liệt trong lòng. Ý chí phục hận này rất mới mẻ, rất quyết liệt và hấp dẫn.
Bố tức giận vô cùng. Người ông sưng huyết, mặt đỏ gay mỗi khi giận dữ và mọi người đều nghĩ, thế nào ông cũng la lối om sòm. Thật vậy, khi nghe tin này, ông hét lớn:
– Lão Chamberlain mắc dịch. Lão khốn nạn này thật đáng nguyền rủa!
– Kìa Algemon, tôi van ông! – Mẹ nói, giọng đầy trách móc, nghe thật bất thường.
Bố là một trong những người sáng lập ra Liên minh Phát xít Anh quốc. Ông là người rất tương phản:không còn trẻ nữa, nhưng mảnh khảnh, rất đẹp và rất cáu kỉnh. Ông được lòng nhiều người và được họ trung thành. Ông có viết một tác phẩm gây nhiều tranh luận với nhan đề : Dân lai:mối đe dọa làm ô nhiễm chủng tộc, cuốn sách nêu vấn đề nguồn văn minh của con người xuống dốc kể từ khi dân da trắng pha giống với người Do thái, người Á châu, người phương Đông và thậm chí với người da đen. ông đã liên lạc với Adolf Hitler, người mà ông cho là một chỉnh khách vĩ đại từ khi có Napoleon. Cứ mỗi cuối tuần, nhà ông đã biến thành hội trường đón tiếp long trọng những chính trị gia, các chính khách ngoại quốc và thỉnh thoảng cả nhà vua nữa - đây là điếu thật khó quên.
Họ bàn cãi đến tận khuya, người đầu bếp không ngừng mang rượu cô nhắc dưới hầm rượu lên cho quan khách, con tôi tớ trong nhà thì ngáp ngắn ngáp dài trước cửa. Trong thời gian kinh tế suy thoái, bố cứ đợi tổ quốc mời ông ra giúp nước, trao cho ông chức thủ tướng để ông tái thiết quốc gia; nhưng không bao giờ có chuyện đó. Những cuộc tiếp tân cuối tuần hiếm dần và khách tham dự cũng ít đi; những vị khách sáng giá tìm cách rút lui khỏi những cuộc hội họp của Liên minh Phát xít Anh quốc; và bố trở thành con người thất bại, đau đớn. Ông không được lòng mọi người và không ai tin ông nữa. Phong độ đẹp đẽ không con nữa vì sự hận thù, vì buồn phiền và vì uống rượu. Sự thông minh của ông chỉ là vẻ hào nhoáng bên ngoài:Margaret đã đọc cuốn sách của ông, cô kinh ngạc nhận thấy ông không chỉ sai lầm thôi, mà còn ngu ngốc nữa.
Mấy năm vừa qua, hy vọng duy nhất của ông là thực hiện cho kỳ được ước mơ Anh quốc và Đức quốc liên minh với nhau để chống lại Liên bang Xô Viết.
Ông viết bài gởi đến các tạp chí và viết thư cho các nhật báo để bảo vệ luận thuyết này, cho nên càng lúc ông càng ít có cơ hội để người ta mời ông đến phát biểu ở các buổi hội họp chính trị và trong các buổi sinh hoạt tập thể ở các trường đại học. Ông khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình trong khi những biến cố xảy ra ở Âu châu đã biến quan điểm chính trị của ông thành điều phi thực, viển vông. Việc tuyên bố chiến tranh giữa Anh và Đức đã làm tiêu tan hết hy vọng của ông, và trong cảnh dao động tinh thần này của ông, bỗng Margaret cảm thấy hơi thương hại bố.
– Nước Anh và nước Đức sẽ tàn sát lẫn nhau, và sẽ để cho Cộng sản vô thần thống trị châu Âu cho mà xem - Ông nói.
Nghe nói đến chuyện vô thần, bỗng Margaret nhớ đến việc cô bị bắt buộc phải đi nhà thờ, cô bèn nói:
– Vô thần đối với con chẳng sao hết, vì con vô thần.
– Con không vô thần đâu, - Mẹ nói. - Con thuộc giáo hội Anh quốc.
Margaret không sao khỏi bật cười Elizabeth rơm rớm nước mắt, chị nói lớn:
– Tại sao em cười được nhỉ? Chuyện thật bi đát!
Elizabeth rất khâm phục những ngươi theo Đức Quốc xã. Chị ta nói tiếng Đức - hai chị em nói được tiếng Đức là nhờ bà gia sư là người Đức, bà này dạy cho hai cô lâu hơn những người khác.
Chị đã sang Berlin nhiều lần và đã được dùng bữa với Quốc trưởng hai lần. Margaret không tin những người Quốc xã là xu thời chỉ thích được giới quí tộc Anh tán thưởng.
Margaret quay qua phía Elizabeth, cô nói:
– Đã đến lúc chúng ta chống lại bọn súc sinh ấy rồi đấy!
– Họ không phải là đồ súc sinh, - Elizabeth tức giận cãi lại. - Họ là dân tộc Aryen kiêu hãnh, khỏe mạnh và thuần chủng, việc nước ta đánh nhau với họ quả là điều bi đát. Bố đã nói đúng:dân da trắng sẽ tuyệt diệt, thế giới sẽ rơi vào tay bọn lai và bọn Do thái.
Margaret không còn kiên nhẫn để nghe chuyện vớ vẩn như thế này nữa. Cô hỏi lớn:
– Dân Do thái có gì xấu?
Bố chỉ ngón tay, đáp:
– Người Do thái không xấu là người .... biết thân phận của mình.
– Là người chịu nằm dưới gót giày của bố, người chịu ở trong. .... trong hệ thống phát xít của bố. – Cô định nói ở trong hệ thống ghê tởm của bố, nhưng bỗng cô sợ và cô đã ráng nhịn; chọc tức bố sẽ rất nguy hiểm.
Elizabeth nói tiếp:
– Còn theo hệ thống Cộng sản của cô, thì bọn Do thái sẽ cai trị người ta!
– Tôi không phải là Cộng sản, tôi là người xã hội chủ nghĩa.
Percy bắt chước mẹ, cậu ta nói:
– Không thế được đâu, chị ơi. Chị thuộc Giáo hội Anh quốc!
Margaret không thể nín cười được; và một lần nữa, việc cô cười làm cho bà chị điên tiết lên, chị ta nói với giọng gay gắt:
– Mày không phá hủy hết những gì tốt đẹp, cao cả để cười đùa.
Câu nói của chị không đáng cho cô trả lời, nhưng cô muốn mọi người biết ý kiến của mình. Cô quay qua nói với bố.
– Dù sao thì con cũng nhất trí với bố về những việc mà ông Nevil1e Chamberlain phải chịu trách nhiệm. Ông ấy đã làm cho lực lượng quân sự của ta yếu kém bằng cách đổ cho bọn phát xít chiếm Tây Ban Nha. Bây giờ kẻ thù của chúng ta có mặt từ phía Tây cho đến phía Đông.
– Chamberlain không để cho người phát xít chiếm lấy Tây Ban Nha, - Bố đáp. - Nước Anh đã ký một hiệp ước bất can thiệp với Đức Ý và Pháp. Chúng ta chỉ có việc phải tôn trọng hiệp ước.
Nói thế là đạo đức giả, và ông phải biết như thế chứ. Margaret cảm thấy đỏ mặt vì tức giận.
– Chúng ta tôn trọng hiệp ước trong khi người Ý và người Đức không tôn trọng! - Cô cãi lại. - Thế đấy, bọn phát xít có khí giới còn những người dân chủ chẳng có gì ngoài ... những anh hùng!
Không khí yên lặng nặng nề một lát.
– Mẹ rất buồn về cái chết của Ian, con à, - Mẹ nói - nhưng cậu ấy đã gây ảnh hưởng rất xấu cho con.
Bỗng nhiên Margaret muốn bật khóc.
Ian Rochdale là người đã mang đến cho cô nguồn vui của cuộc sống, và khi nghe tin anh chết, cô đã rất đau khổ, bây giờ cứ mỗi khi nhớ đến là lòng cô lại quặn đau.
Suốt nhiều năm qua! Vào những dịp tổ chức hội săn bắn, cô thường có khiêu vũ với các chàng trai con các gia đình thế phiệt trong vùng, những anh chàng này đều có đầu óc trống rỗng, chỉ nghĩ đến chuyện ăn nhậu và săn bắn thôi; cô thất vọng vì không gặp được một người cùng trang lứa thật tình quan tâm đến cô. Cho nên khi cô gặp Ian, anh như tia sáng rực rỡ đến với đời cô, và từ khi anh chết đi, cô sống trong cảnh tăm tối của cuộc đời.
Anh ta đã tốt nghiệp ở đại học Oxford. Margaret rất muốn vào đại học, nhưng cô không có khả năng để vào đấy : vì cô chưa bao giờ đi học ở trường.
Thế nhưng cô đọc sách nhiều - vì chẳng có gì để làm hết. – Và cô rất sung sướng khi tìm được người thảo luận các vấn đề về tư tưởng như cô. Anh là người duy nhất có thể giảng giải cho cô hiểu biết nhiều chuyện mà không có thái độ kể cả, ta đây. Chưa bao giờ cô gặp người nào có tinh thần trong sáng như Ian; trong khi thảo luận, anh có thái độ rất kiên nhẫn và không kiêu căng về vốn kiến thức của mình : khi không biết điều gì, anh thú thật mình không biết.
Ngay khi mới gặp lần đầu, cô đã thương mến anh.
Quen nhau một thời gian mà cô vẫn không biết anh có yêu cô không. Rồi một hôm, anh vụng về bối rối thú nhận anh yêu cô, anh ấp úng một hồi mới tìm ra được từ để nói với cô:“Anh nghĩ là chắc anh đã yêu em ... Chuyện anh yêu em có gì trở ngại không? Chính lúc ấy cô mới vui mừng nhận ra chính cô cũng đã yêu anh.
Anh đã làm thay đổi cuộc đời cô. Như thể cô đã đi đến một nước khác, nơi mà cuộc sống hoàn toàn khác biệt: cảnh vật, thời tiết, con người, chuyện bếp núc. Cô yêu tất cả Những xung khắc, những giận hờn trong cuộc sống với bố mẹ đối với cô lúc bấy giờ quá nhỏ nhoi.
Ngay cả sau khi anh tình nguyện đầu quân vào lữ đoàn quốc tế và đã đến Tây Ban Nha để chiến đấu chống lại bọn phát xít nổi loạn để bảo vệ chính quyền xã hội, anh vẫn tiếp tục làm cho đời cô tươi sáng. Cô hãnh diện về anh, vì anh có can đảm theo đuổi lý tưởng của mình và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho lý tưởng mà anh theo đuổi. Thỉnh thoảng, cô nhận được thư anh. Một hôm, anh gởi cho cô một bài thơ. Và rồi khi nhận được tin anh chết, chết tan xác vì trái phá, Margaret cảm thấy đời mình như đã chấm dứt.
– Đúng ảnh hưởng xấu thật, - cô nói tiếp, giọng gay gắt. - Anh ấy đã dạy cho con biết đặt vấn đề với giáo điều không tin lời nói dối, ghét sự dốt nát và khinh bỉ sự đạo đức giả. Kết quả là con không đứng trong hàng ngũ xã hội văn minh.
Bố, mẹ và Elizabeth đều há hốc mồn một lúc vì không ai nói được; chính Percy là người lên tiếng trong giây phút im lặng đột ngột ấy:
– Về vấn đề người Do thái, tình cờ con tìm được trong hầm rượu một tấm ảnh nằm trong đáy một trong những chiếc va li mang từ Stamford đến. - Stamford là một vùng trong tiểu bang Counecticut, là nơi cư ngụ của gia đình mẹ. Percy lấy từ túi áo sơ mi ra một tấm ảnh đã nhàu nhò, màu nâu đen đã phai – Con có bà cố ngoại tên là Ruth Glenccary, phải không mẹ?
– Phải, - Mẹ đáp - Đó là bà ngoại của mẹ. Mà sao, con tìm ra cái gì đấy?
Percy đưa tấm ảnh cho bố và những người khác bu lại để xem. Tấm ảnh chụp một đường phố ở Mỹ, có lẽ là ở New York, cảnh tượng cách đây đã 60 hay 70 năm ở hàng đầu, người ta thấy một người Do thái khoảng 30 tuổi, có bộ râu đen, áo quần lôi thôi, đầu đội mũ. Anh ta đứng bên cạnh chiếc xe cút kít, trên xe để cái thớt mài dao bên cạnh chiếc xe, người ta đọc rõ ràng mấy chữ “Reuben Fishbein - thợ mài dao”. Bên cạnh người đàn ông có một cô gái khoảng 10 tuổi, mặc chiếc áo vải tồi tàn và mang đôi giày thô tháp.
– Cái gì thế này, Percy?. - Bố hỏi. - Những người gớm ghiếc này là ai thế?
– Bố nhìn ở sau thì biết, - Percy đáp.
Bố lật phía sau tấm ảnh. Ở đó có ghi hàng chữ “Ruthie Glencarry, con của Fishbein, 10 tuổi”.
Margaret nhìn bố. ông có vẻ hốt hoảng.
– Tuyệt đấy chứ, - Percy nói tiếp - Ông ngoại của mẹ đã lấy con gái của một gã thợ mài dao rong người Do thái, nhưng ở Mỹ thì hình như chuyện này bình thường thôi.
– Không thể như thế được - Bố thốt lên. Nhưng giọng của ông run run và qua thái độ của bố, Margaret cảm thấy chuyện này có vẻ thật quá.
Percy nói tiếp với vẻ say sưa:
– Dù sao đi nữa thì người ta có là dân Do thái cũng xuất phát từ đàn bà mà ra, cho nên nếu bà ngoại của mẹ là Do thái, thì con cũng là Do thái.
Mặt bố tái mét. Mẹ có vẻ rất kinh ngạc, trên trán bà hiện rõ một nếp nhăn vì lo âu sợ sệt.
– Con hy vọng người Đức không thắng được cuộc chiến này, - Percy nói tiếp.
– Chắc con sẽ không được phép đi xem xi nê và chắc mẹ phải khâu ngôi sao vàng lên tất cả các áo đi dự dạ vũ của mẹ.
Chuyện này xem ra có vẻ thật quá. Margaret bèn nhìn kỹ vào những chữ viết tay ở phía sau tấm ảnh và cô tìm ra được sự thật.
– Này Percy! - Cô nói, vẻ khoái trá ra mặt. – Nét chữ này là của em kia mà!
– Không, không phải của em đâu! - Percy đáp.
Nhưng mọi người đều nhận ra đấy là nét chữ của Percy. Margaret cười sung sướng. Percy đã tìm thấy tấm hình cũ có hình cô bé Do thái này ở đâu đó, rồi viết hàng chữ ở phía sau để đánh lừa bố. Ông đã rơi vào bẫy, cảm thấy đau đớn, và điều này chẳng có gì ngạc nhiên, vì đối với kẻ chủ trương phân biệt chủng tộc, một khi họ phát hiện ra tổ tiên họ là dân lai giống, họ khổ sở chẳng khác nào đang sống trong cơn ác mộng vậy. Thật may cho ông.
Bố “chà” một tiếng rồi ném tấm ảnh lên bàn. Mẹ nói:
– Percy, thật quá quắt, - giọng bà chán nản. Bà định nói thêm nữa, nhưng ngay lúc ấy thì cửa mở và Bates, người đầu bếp có tính tình không tốt, lên tiếng:
– Thưa bà cơm đã dọn xong.
Họ rời khỏi phòng khách nhỏ, đi qua tiền sảnh để vào phòng ăn. Thường lệ vào chủ nhật, món ăn có thịt bò hầm nhừ. Mẹ ăn rau, bà không bao giờ ăn thức ăn hầm nhừ, vì bà cho rằng thức ăn hầm nhừ sẽ mất hết chất bổ.
Bố đọc lời nguyện rồi mọi người ngồi vào bàn. Bates dọn cho mẹ cá hồi hun khói. Theo bà thì thức ăn hun khói, ngâm trong dấm hay nước mắm là thức ăn tuyệt vời nhất.
Mẹ vừa lấy thức ăn vào đĩa mình vừa nói, giọng thư thái như nói đến một chuyện hiển nhiên không ai được cãi lại:
– Bây giờ chúng ta chỉ còn một việc phải làm mà thôi. Tất cả chúng ta phải sang Mỹ ở, đợi cho đến khi hết cuộc chiến tranh ngu ngốc này.
Mọi người đều im lặng một lát sau khi nghe tin động trời này. Rồi Margaret thốt lên bằng giọng hốt hoảng:
– Không!
– Này này, - Mẹ đáp - Mẹ nghĩ chúng ta đã cãi cọ với nhau cả ngày rồi. Bây giờ ráng giữ hòa khí mà ăn đấy nhé.
– Không! - Margaret lặp lại. Giọng cô hầu như lạc đi vì quá tức giận. - Bố mẹ .... Bố mẹ không thể làm như thế, làm thế là ... là ... - Cô muốn la lên phản kháng, muốn lên án bố mẹ làm thế là phản bội, là hèn nhát, cô muốn nói lớn lên cho cả nhà nghe sự khinh bỉ của mình về việc bỏ đi này, nhưng những từ cô muốn nói không thốt ra được:
– Làm thế là sai trái.
Nhưng nói thế cũng đã nhiều rồi. Bố nạt lớn:
– Nếu mày không giữ mồm giữ miệng thì liệu hồn đấy.
Margaret áp chiếc khăn ăn vào miệng để khỏi bật ra tiếng khóc: cô xô ghế đứng dậy, chạy ra khỏi phòng ăn.
Đương nhiên là bố mẹ cô đã tổ chức việc ra đi từ nhiều tháng nay rồi.
Sau khi ăn xong, Percy đến phòng của Margaret, nói cho cô biết mọi chi tiết đã được gia đình thu xếp. Nhà phải đóng cửa lại, đậy hết đồ đạc trong nhà và sa thải gia nhân. Gia đình sẽ giao công việc thu tiền các nhà cho thuê cho người hợp tác của bố. Tiền bạc sẽ gởi vào ngân hàng: người ta không thể gởi qua Mỹ được vì chính phủ sẽ kiểm soát việc đổi tiền trong thời gian xảy ra chiến tranh.
Gia đình sẽ bán ngựa, chăn mền ướp long não và đồ đạc chất vào tủ khóa kín.
Elizabeth, Margaret và Perey mỗi người chuẩn bị một va li: đồ đạc còn lại sẽ được công ty vận tải chuyển đi. Bố đã lấy vé cho cả nhà đi trên chiếc thủy phi cơ Clipper của hãng Hàng không Mỹ Pan American, và họ phải ra đi vào thứ tư.
Percy rất nôn nóng chờ đợi ngày đi. Cậu đã đi máy bay một vài lần rồi, nhưng chiếc máy bay Clipper này không giống như các chiếc kia. Chiếc này khổng lồ và rất sang trọng: báo chí đã nói đến rất nhiều về chiếc máy bay khánh thành cách đây mấy tuần. Bay từ Anh sang New York chỉ mất 28 giờ và mọi người ngủ trên giường ban đêm trong khi máy bay bay qua Đại Tây dương.
Cái kiểu sống của bố mẹ cô là thế đấy, Margaret nghĩ, ra đi trong cảnh đầy đủ tiện nghi xa xỉ, mặc cho đồng bào của mình lâm vào cảnh thiếu thốn và trước thảm cảnh chiến tranh đang diễn ra. Percy đi khóa vali còn Margaret nằm dài trên giường, nhìn trần nhà, lòng sôi sục căm hờn, ấm ứ khóc vì thất vọng, vì bất lực trước số phận.
Cô ở miết trong phòng, suốt buổi tối không ra ngoài.
Sáng thứ hai, trong khi Margaret còn nằm trong giường thì mẹ đến. Cô ngồi dậy, nhìn bà với ánh mắt căm thù, Mẹ ngồi trước bàn trang điểm, nhìn Margaret trong gương, bà nói:
– Mẹ van con đừng gây chuyện với bố con trong chuyến ra đi này.
Margaret biết mẹ cô đang lo lắng. Trong những dịp khác, có lẽ khi thấy mẹ như thế này, chắc cô đã dịu giọng, nói nhẹ nhàng với bà; nhưng bây giờ cô quá bấn loạn, cô không thể nào nhã nhặn với mẹ cô được. Cô buông lời gay gắt nói với bà:
– Đi như thế này là quá hèn nhát!
Mẹ cô mặt mày tái mét.
– Chúng ta không hèn nhát.
– Chạy trốn khỏi đất nước khi chiến tranh bùng nổ!
– Chúng ta không còn chọn lựa nào khác. Chúng ta phải đi.
Margaret tức giận hỏi:
– Tại sao?
Mẹ quay lại nhìn thẳng vào mắt cô:
– Nếu không đi, họ sẽ bỏ tù bố con.
Margaret bàng hoàng kinh ngạc. Cô hỏi:
– Tại sao họ làm thế .Theo phát xít đâu phải có tội?
– Họ có quyền hạn đặc biệt. Cho nên có gì quan trọng đâu? Một người thân quen với bố trong bộ Nội vụ đã bảo cho chúng ta biết thế. Nếu cuối tuần này mà bố con còn ở Anh quốc thì ông sẽ bị bắt.
Margaret không tin người ta muốn bỏ tù bố cô như một tên trộm được.
– Nhưng họ không để cho chúng ta mang theo tiền bạc, - Mẹ nói tiếp, giọng hậm hực. - Thế đấy, nước Anh chơi đẹp như thế đấy.
Bỗng Margaret cảm thấy tiền bạc là vấn đề cuối cùng mà cô lo sợ. Đời cô là cả một canh bạc. Bỗng nhiên cô cảm thấy mình có can đảm, nên cô muốn nói sự thật cho mẹ nghe. Sợ chần chừ thêm nữa, cô sẽ mất hết can đảm, nên cô hít vào một hơi thật dài rồi nói với mẹ:
– Mẹ à, con không muốn đi với gia đình.
Mẹ không để lộ một chút ngạc nhiên nào cả. Thậm chí mẹ cô có vẻ như đợi cô nói lên câu ấy. Rồi bằng một giọng hết sức thản nhiên như không muốn tranh cãi với cô mẹ cô dịu dàng nói:
– Con phải đi, con ạ.
– Họ không bỏ tù con đâu. Con có thể ở nhà cô Martha, hay là nhà bà chị họ Catherine của con cũng được .Mẹ không nói với bố giúp cho con được à?
Bỗng mẹ hùng hổ nói, điệu bộ rất khác thường.
– Mẹ nuôi nấng con khổ nhọc, bây giờ nếu còn bảo vệ con, thì không đời nào mẹ để cho con lâm vào cảnh nguy hiểm đến tánh mạng cả.
Bỗng Margaret cảm thấy xúc động trước tình cảm của mẹ. Nhưng cô vẫn đáp:
– Con phải nói cho bố biết: chính bố đã quyết định hết cả đời con.
Mẹ thở dài và lấy lại dáng vẻ uể oải như thường khi.
– Con và mẹ có nói gì cũng chẳng đi đến đâu. Chúng ta có nói gì thì bố con cũng không cho phép con ở lại đâu Tính thụ động của mẹ khiến Margaret thấy tức giận, cô quyết ra tay hành động.
– Con sẽ đến hỏi thẳng bố cho mà xem.
– Mẹ mong sao con không làm thế, - Mẹ đáp, cô cảm thấy giọng bà có vẻ van lơn. - Bố con đã gặp nhiều khó khăn lắm rồi. Con biết bố con rất yêu nước Anh.Gặp hoàn cảnh khác, chắc thế nào bố con cũng điện thoại đến cho Bộ trưởng Chiến tranh để xin một nhiệm sở .Cho nên tình trạng bây giờ khiến ông khổ đau vô cùng – Còn tình trạng của con thì sao?
– Tình trạng của con không giống thế. Con còn trẻ, con còn có cả cuộc đời trước mắt. Còn đối với bố con, hết hy vọng rồi.
– Chuyện ông theo phát xít không phải lỗi của con, - đột nhiên Margaret lên tiếng nói.
Mẹ đứng dậy.
– Mẹ hy vọng con sẽ thông cảm cho bố mẹ, - bà dịu dàng nói rồi bước ra ngoài.
Margaret cảm thấy vừa có tội lại vừa tức giận. Thật quá bất công: bố cô coi thường ý kiến của cô từ khi cô đến tuổi hiểu biết, rồi bây giờ ông gặp cảnh khó khăn tồi tệ, thì ông lại yêu cầu cô có lòng thương cảm.
Cô thở dài, mẹ cô đẹp, kỳ quặc và thiếu hiểu biết. Bà sinh ra trong một gia đình giàu có và cương quyết. Những hành động kỳ quặc của bà là kết quả của một ý chí cương quyết, thiếu sự giáo dục dìu dắt: bà bám chặt vào những ý tưởng điên cuồng, vì bà không có phương tiện để phân biệt được cái gì có ý nghĩa với cái gì vô nghĩa, phi lý. Vì thiếu hiểu biết, nên bà đã chọn con đường ỷ lại vào đàn ông, để cho đàn ông sai khiến: bà không đám đứng lên chống lại chồng, cho nên phương pháp duy nhất để bà thoát khởi sự cai quản của chồng là làm ra vẻ mình không biết, không thấy sự bất công đó Margaret thương mẹ, chấp nhận những hành động kỳ dị đó của mẹ với tình thương yêu bao dung; nhưng cô quyết không sống một cuộc sống như bà, mặc dù hai mẹ con rất giống nhau về thể chất. Nếu những người khác không chịu dạy dỗ cho cô thì cô tự học vậy; và cô thích thà sống độc thân cho đến già còn hơn lấy một con heo cứ tưởng mình có quyền sai khiến cô, ra lệnh đủ thứ như ra lệnh cho một người giúp việc.
Suốt cả ngày thứ hai, cô cảm thấy không thể ăn gì được. Cô uống rất nhiều nước trong khi gia nhân bận bịu đóng cửa nhà. Sang ngày thứ ba, khi mẹ nhận ra cô không chịu chuẩn bị hành lý, bà liền sai chị giúp việc mới, chị Jenkins không biết sắp thứ gì vào va li, cho nên Margaret phải giúp chị ta một tay. Cuối cùng công việc xong xuôi tốt đẹp như lòng mong muốn của mẹ y như bao lần trước.
Margaret nói với chị giúp việc:
– Chị thật không may, mới vào làm được một tuần, chúng tôi đã phải đóng cửa để ra đi.
Jenkins đáp:
– Ồ thưa cô, bây giờ không thiếu việc làm. Bố tôi nói thời buổi chiến tranh không có ai thất nghiệp hết.
– Có phải chị sẽ xin đi làm trong nhà máy.
– Tôi sẽ tòng quân. Người ta tuyên bố trên đài phát thanh rằng hôm qua đã có ngàn phụ nữ tòng quân vào đội Nữ quân nhân để làm ở các cơ quan hậu cần.Thành phố nào cũng có phụ nữ đến xếp hàng xin đầu quân ở các tòa thị chính, tôi đã thấy báo đăng ảnh cảnh tượng này.
– Thế là chị may mắn rồi. - Margaret buồn rầu nói. - Tôi thì sắp đi xếp hàng để lên thủy phi cơ đi Mỹ.
– Cô phải làm theo lệnh của ngài hầu tước, - Jenkins đáp.
– Bố chị sẽ nghĩ sao về việc chị đầu quân?
– Tôi sẽ không nói cho ông biết, tôi tự ý đi đầu quân.
– Nhưng nếu ông ấy buộc chị phải về nhà thì sao?
– Ông không buộc được. Tôi 18 tuổi rồi. Ngay khi mình ký vào giấy tờ, là xong hết. Với điều kiện là mình đủ tuổi thì cha mẹ không làm gì được.
Margaret sửng sốt kinh ngạc.
– Chị có chắc thế không?
– Chắc chứ. Mọi người đều biết thế cả.
– Tôi thì không, - Margaret nói, vẻ trầm ngâm.
Jenkins đem va li của Margaret xuống tiền sảnh. Họ phải đi rất sớm vào sáng thứ tư. Nhìn hành lý để đống trên nền nhà, Margaret nghĩ đến chuyện cô sẽ đi lánh chiến tranh ở Counecticut, nếu cô ngoan ngoãn nghe theo lời bố cô. Mặc dù mẹ cô đã tha thiết yêu cấu cô giữ yên lặng, nhưng cô phải đương đầu với bố cô mới được.
Tuy nhiên, khi nghĩ đến chuyện này, cô lại thấy lo sợ. Cô trở về phòng để lấy lại can đảm và suy nghĩ phải nói những gì. Trước hết, điều quan trọng là phải giữ bình tĩnh. Đừng ủy mị khóc lóc, và giận dữ chỉ càng làm cho ông khinh bỉ thôi. Cô phải tỏ ra mình có lý có trách nhiệm và chín chắn. Cô đừng tranh cãi, vì tranh cãi chỉ làm cho ông tức bực, và do đó cô không thể tiến xa hơn được.
Phải bắt đầu như thế nào? “Con nghĩ con có quyền bàn đến việc có liên quan đến tương lai của con”.
Không được, nói thế không xong. Ông sẽ trả lời:
“Bố có trách nhiệm về tương lai của con, cho nên chính ba mới là người quyết định”.
Có lẽ cô phải nói:
“Con xin được bàn thảo với bố về việc đi Mỹ của chúng ta không?”.
Thế nào ông cũng trả lời:
“Không có bàn thảo gì hết”.
Cô phải bắt đầu sao cho thật hòa nhã để ông không thể đuổi khéo cô đi. Cô định hỏi:
“Con xin phép hỏi bố chuyện này được không” Nghe thế, thế nào ông cũng trà lời “được”, Rồi sau đó nói gì? Làm sao cô nêu vấn đề mà không khiến ông nổi trận lôi đình? Cô có thể nói:
“trong cuộc chiến tranh vừa qua, bố ở trong quân đội phải không”“ Cô đã biết ông bị thương ở Pháp. Thế rồi cô nói tiếp:
“Còn mẹ?” Cô biết câu trả lời sẽ ra sao:
“Mẹ là nữ y tá tình nguyện đến Luân Đôn để chăm sóc các sĩ quan Mỹ bị thương”. Cuối cùng cô nói:
“Cả bố và mẹ đều phục vụ Tổ quốc, cho nên con nghĩ chắc bố mẹ đều thông cảm cho con, bằng lòng để cho con được làm công việc như thế” Chắc là sẽ không có ai chống đối lại lời yêu cầu của cô.
Giá mà ông nhượng bộ ý kiến này, cô nghĩ cô sẽ vượt qua những khó khăn khác một cách dễ dàng. Cô sẽ đến ở nhờ nhà bà con cho đến khi cô đầu quân, việc này có lẽ chỉ trong vài ngày là xong. Cô đã 19 tuổi rồi, rất nhiều cô gái bằng tuổi cô đã đi làm việc đủ giờ từ sáu năm rồi. Cô đã đủ lớn để lấy chồng, lái xe và đi ở tù Không có lý do gì để người ta không cho phép cô ở lại Anh quốc hết.
Phải có phong thái chững chạc, cương quyết mới được. Tất cả những gì bây giờ cô cần phải có là sự can đảm Chắc bố đang ở trong phòng làm việc với người hợp tác làm ăn. Margaret ra khỏi phòng. Đến bậc thềm đầu cầu thang, bỗng cô cảm thấy mình run sợ. Bố cô thường nổi nóng mỗi khi người nào chống lại ông. Những cơn thịnh nộ của ông rất khủng khiếp và hình phạt của ông rất độc ác. Năm cô 11 tuổi ông đã bắt cô quay mặt đứng vào tường trong phòng làm việc của ông suốt ngày vì tội cô đã tỏ ra cục cằn với người khách; năm cô 7 tuổi, ông đã tịch thu con gấu lông của cô vì tội cô làm ướt giường ngủ. Một hôm, trong cơn thịnh nộ, ông đã ném con mèo qua cửa sổ từ tầng hai xuống; bây giờ nếu cô nói cho ông biết cô muốn ở lại nước Anh để chiến đấu chống bọn Quốc xã Đức, thì liệu ông sẽ làm gì,”.
Margaret miễn cưỡng đi xuống thang lầu và trong khi cô đang lo sợ đứng đợi trước cửa phòng làm việc của bố, thì bà quản lý chợt đi qua hành lang trước cửa phòng, bà ta mặc chiếc áo dài bằng lụa đen. Bà Allen điều khiển những gia nhân nữ trong nhà rất nghiêm khắc nhưng đối với trẻ em, bà thường rất khoan dung.
Bà đã gắn bó với gia đình cô rất thắm thiết, cho nên khi thấy gia đình cô ra đi, bà rất hoang mang, vì bà phải chấm dứt lối sống bà đã sống bấy lâu nay. Bà nhìn Margaret, buồn bã cười với cô.
Thấy bà ta, bỗng trong óc Margaret nảy ra một ý mới khiến cho lòng cô thắt lại.
Một kế hoạch trốn thoát thành hình trong óc cô. Cô mượn tiền của bà Allen, bỏ nhà ra đi ngay bây giờ, đáp chuyến tàu 16 giờ 55 đi Luân Đôn, ngủ lại đêm tại nhà bà chị họ Catherule, rồi sáng sớm mai sẽ đăng ký gia nhập lực lượng phục vụ hậu cần. Lúc bố tìm ra cô, thì mọi việc đã muộn rồi.
Kế hoạch quá đơn giản và quá táo bạo đến nỗi cô khó tin sẽ thực hiện thành công. Nhưng, trước khi suy nghĩ thấu đáo, cô bỗng buột miệng hỏi bà quản gia:
– Bà Allen này, bà cho tôi mượn ít tiền được không? Tôi có một ít đồ đạc cần mua vào giờ chót nhưng tôi không muốn quấy rầy ba tôi, ông đang bận khách.
Bà Allen mau mắn hỏi ngay:
– Được chứ, thưa cô. Cô cần bao nhiêu?
Margaret không biết giá vé tàu đi Luân Đôn bao nhiêu, chưa bao giờ cô mua vé. Cô bèn trả lời đại:
– Ồ, tôi mượn một bảng là đủ rồi. - Cô nghĩ: có phải mình đang thực hiện chương trình bỏ trốn đây không?
Bà Allen lấy trong ví ra hai tờ giấy bạc 10 si linh. Nếu Margaret hỏi bà ta về số tiền này, chắc có lẽ bà ta sẽ nói với cô rằng đây là số tiền bà đã chắt chiu dành dụm cả dời. Margaret đưa tay run run cầm lấy tiền. Cô tự nhủ:
có thể đây là số tiền giúp ta tìm được tự do. Và mặc dù bàng hoàng lo sợ, nhưng cô cũng cảm thấy một niềm vui lâng lâng tràn ngập trong lòng.
Bà Allen lại cứ tưởng cô bồi hồi xúc động vì sắp đi di cư, bà nắm tay cô bóp mạnh và nói:
– Cô Margaret. Hôm nay thật là một ngày buồn. Ngày buồn cho tất cả chúng ta. - Bà lắc đầu, mái tóc đã hoa râm, thái độ rầu rĩ, rồi bà đi ra phía sau nhà.
Margaret đưa mắt nhìn quanh, lòng bồi hồi lo sợ, không có ai thấy hết. Tim cô đập nhanh, hơi thở hổn hển. Cô nghĩ, nếu cô ngần ngừ, thế nào cô cũng mất hết can đảm. Cô không kịp mặc áo măng tô nữa, tay nắm chặt hai tờ giấy bạc, cô bước ra cửa trước.
Đường đến ga xe lửa dài ba cây số, nằm ở ngôi làng kế cận. Đi trên đường, cô cứ lo sợ sẽ nghe tiếng xe Rolls Royce của bố đuổi theo bắt cô lại. Nhưng làm sao ông biết được? Có lẽ không ai để ý đến sự vắng mặt của cô, ít ra cũng trước giờ ăn tối; và nếu người nhà có để ý đến việc cô vắng mặt, thì chắc người ta sẽ nghĩ là cô đi mua ít đồ dùng lặt vặt, như cô đã nói với bà Anen.
Cô đến nhà ga còn sớm, mua vé xong - số tiền còn lại khá nhiều - cô ngồi ở phòng đợi phụ nữ, nhìn kim đồng hồ trên tường, hồi hộp chờ đợi từng giây từng phút.
Tàu đến trễ.
l6 giờ 55, rồi 17 giờ 05. Margaret quá hồi hộp đến nỗi cô có ý định bỏ về để khỏi phải căng thẳng như thế này.
Tàu đến lúc 17 giờ 14 và cô không thấy bố đến.
Margaret lên tàu, lòng thắt lại.
Cô đến đứng bên cửa sổ, đưa mắt nhìn ra cổng vào sợ bố đến vào giờ chót.
Cuối cùng thu chuyển bánh.
Cô không tin được mình đã ra đi.
Tàu chạy nhanh. Cô run run, nhưng lần này run vì sung sướng, Mấy phút sau, tàu ra khỏi ga. Margaret nhìn ngôi làng xa dần và một cảm giác chiến thắng tràn ngập lòng cô. Cô đã làm nên được kỳ tích này: cô đã chạy trốn được!
Bỗng cô cảm thấy mỏi chân. Cô đưa mắt nhìn quanh để tìm chỗ ngồi và lần đầu tiên cô thấy tàu đầy cả người. Chỗ nào cũng có người ngồi, ngay cả trong toa hạng nhất này; có nhiều người lính ngồi bệt dưới sàn .Cô phải đứng.
Niềm vui vẫn không giảm sút, mặc dù chuyến đi có nhiều biểu hiện như một cơn ác mộng. Đến trạm dừng nào cũng có người lên tàu thêm, họ chen chúc nhau trên các toa. Trước khi trời tối, tàu dừng lại để người ta tháo hết các bóng đèn trong toa, vì có lệnh tắt hết đèn đuốc, cho nên sau khi trời tối tàu chạy trong bóng đêm, chỉ thỉnh thoảng mới có ánh đèn pin của người kiểm soát rọi sáng ngoài hành lang tàu. Khi Margaret không thể nào đứng được nữa, cô ngồi bệt xuống sàn tàu. Cô nghĩ, ngồi như thế này cũng chẳng có gì quan trọng nữa. Áo cô sẽ dơ, nhưng ngày mai cô sẽ có đồng phục để mặc rồi. Tất cả đều khác trước, đất nước trong tình trạng chiến tranh.
Margaret phân vân không biết bố cô biết cô đáp tàu đi Luân Đôn không, và không biết ông có lái xe đến đấy để chặn cô lại ở ga Pađington không. Có thể không mà cũng có thể có, cho nên khi tàu vào ga, lòng cô thắt lại vì lo âu Thế nhưng, khi cô xuống tàu không có ông ở đấy, nên cô cảm thấy mừng rỡ đến run cả người vì đã thành công. Rốt lại, ông không phải là người toàn năng! Cô lần mò trong bóng tối ở sân ga để tìm taxi. Chiếc xe đưa cô đến Bayswater, người tài xế dùng đèn pin để rọi đường cho cô đến tòa nhà chung cư nơi có Catherine ở.
Người ta che kín tất cả các cửa sổ, nhưng ở phòng tiếp tân có đèn sáng.
Người bảo vệ đã đóng cửa phòng để ngủ - bây giờ đã quá nửa đêm rồi - nhưng Margaret biết căn hộ của Catherine ở đâu. Cô leo lên lầu và bấm chuông.
Không có tiếng trả lời.
Lòng cô thắt lại.
Cô lại bấm chuông, nhưng cô nghĩ chỉ vô ích thôi, căn hộ nhỏ mà tiếng chuông reo thì ồn. Không có Catherine rồi.
Cô nhận ra việc không có chị ấy ở đây là điều không đáng ngạc nhiên.
Catherine ở với cha mẹ ở quận Kent, chị chỉ dùng căn phòng này làm chỗ nghỉ chân. Dĩ nhiên bây giờ cuộc sống xô bồ ở Luân Đôn đã dừng lại, cho nên Catherine không có lý do gì có mặt ở đây. Margaret đáng ra đã phải nghĩ đến điều này.
Cô thất vọng nhưng không nao núng. Cô đã tưởng tượng ra cảnh ngồi uống ca cao với Catherine và chia sẻ mềm vui với chị về chuyến phiêu lưu vĩ đại này.
Bây giờ cô phải làm gì nhỉ? Cô có nhiều bà con ở Luân Đôn, nhưng nếu cô đến tìm họ, thế nào họ cũng điện thoại báo cho bố biết. Chỉ có Catherine là người tâm đầu ý hiệp với cô, còn những người khác, cô không thể tin tưởng được.
Rồi cô nhớ nhà bà cô Martha không có điện thoại. Thực vậy đây là bà cô cục cằn, sống độc thân, tuổi chừng 70. Bà ở cách đây khoảng hơn một cây số. Giờ này chắc bà đã ngủ, và chắc bà sẽ nổi giận khi bị thức dậy, nhưng cô không có cách nào khác hơn. Điều quan trọng là bà không có phương tiện gì để báo cho bố biết hiện có mặt cô ở đây.
Margaret bước xuống cầu thang, ra ngoài đường trời tối đen kịt.
Cảnh cả thành phố tắt đèn trong thật rùng rợn khủng khiếp. Cô dừng lại trước cửa, căng mắt nhìn quanh, nhưng chẳng thấy gì hết. Cảnh tượng này gây cho cô một cảm giác kỳ lạ, như thể cô đang bị xây xẩm mặt mày.
Cô nhắm mắt để mường tượng rõ cảnh trí quen thuộc trên đường. Về phía tay trái, ở góc đường, có một ngôi nhà thờ nhỏ, dưới mái che trước nhà thờ luôn luôn có đèn sáng. Dọc theo vỉa hè có, một dãy đèn đường, mỗi ngọn như thể tỏa ra một vùng ánh sáng nhỏ, và trên đường, đèn xe đò, xe tắc xi và xe hơi thường chiếu sáng.
Cô mở mắt ra và không thấy gì hết.
Thật là hoang mang khó xử. Bỗng cô tưởng tượng ra cảnh chung quanh không có gì hết: đường sá biến mất và cô đang ở trong một trạng thái bất định, đang rơi vào khoảng không. Tự nhiên cô cảm thấy buồn nôn, rồi cô cố trấn tĩnh lại, cố suy nghĩ ra con đường để đi đến nhà bà cô Martha.
Cô tự nhủ: “Từ đây ta đi theo phía tay phải, đến ngã tư thứ hai thì rẽ trái và nhà bà Martha nằm ở cuối dãy nhà ở trên đường ấy. Việc tìm ra nhà bà không khó ngay cả lúc trời tối như thế này.”
Giá mà có cái gì hiện ra để giúp mình nhỉ, cô nghĩ, như có chiếc xe tắc xi rọi sáng đường đi, có ánh trăng, hay có người cảnh sát nào tốt bụng chẳng hạn. Một lát sau, ước nguyện của cô được đáp ứng, một chiếc xe hơi từ từ chạy tới, hai ngọn đèn phía trước như hai con mắt mèo nhìn trong bóng đêm dày đặc, rồi bỗng cô trông thấy hè phố chạy đài đến tận góc đường Cô bắt đầu bước đi.
Chiếc xe hơi vượt qua, hai ngọn đèn sau xe nhỏ dần tước mặt cô. Margaret ước chừng còn cách góc đường khoảng ba hay bốn bước gì nữa, thì bỗng cô vấp chân trên hè phố. Cô băng qua đường và tìm ra vệ đường bên kia một cách suôn sẻ. Việc này khiến cô phấn khởi, cô vững bụng đi tiếp.
Bỗng có cái gì cứng ngắc va mạnh vào mặt cô đau điếng.
Cô rên lên một tiếng đau đớn và sợ hãi. Cô hốt hoảng muốn chạy tháo lui.
Nhưng cô lấy hết can đảm để giữ cho mình bình tĩnh. Cô đưa tay lên sờ vào chỗ đau trên má. Chuyện gì xảy ra như thế này” Có cái gì trên lề đường va vào mặt cô phải không” Cô đưa tay sờ soạng mò mẫn, đụng phải cái gì đấy khiến cô thụt lùi, sợ hãi, rồi cô nghiến răng, đưa tay sờ lại. Tay cô chạm phải cái gì lạnh cứng và tròn, như cái đĩa kem khổng lồ lơ lửng trên không. Cô mò mẫn sờ tiếp, nhận ra cái gì đó tròn tròn có một lỗ hình chữ nhật và bên trên có mái che. Cô liền hiểu, thì ra cô đã va phải cái thùng thư.
Cô thận trọng tránh qua một bên và đi tiếp, hai tay đưa ra phía trước.
Một lát sau, cô vấp phải một vỉa hè khác. Khi lấy lại thăng bằng, cô thấy lòng nhẹ nhõm, cô đã đến con đường của bà cô Martha. Cô rê qua phía trái.
Bỗng cô nghĩ đến chuyện có thể bà Martha không nghe chuông reo. Bà ấy sống một mình, không có ai ra mở cửa. Nếu thế, Margaret chắc phải quay về chung cư của Catherine và ngủ ngoài hành lang. Cô có thể ngủ dưới đất, nhưng cô ngán đoạn đường trở về trong cảnh tối thui tối mò như thế này. Có lẽ cô nên nép mình vào bên cửa nhà bà Martha để đợi ngày sáng thôi.
Ngôi nhà nhỏ của bà Martha ở cuối dãy nhà trên đường này. Margaret thủng thỉnh đi. Thành phố chìm trong bóng tối, nhưng không chìm trong im lặng.
Thỉnh thoảng cô nghe tiếng xe từ xa vọng lại. Chó sủa khi cô đi qua nhà chúng, và hai con mèo kêu meo meo kéo dài, chốc chốc có tiếng nhạc vẳng đến tai cô, âm thanh vui tai trong đêm trùng. Xa hơn một chút, cô nghe có tiếng rúc rích của một cặp vợ chồng sau tấm màn che ánh sáng. Cô muốn được ở trong một ngôi nhà có đèn sáng, có lò sưởi đang cháy và có bình trà nóng.
Margaret nhớ dãy nhà đâu có xa như thế này. Nhưng cô không thể làm gì được, cô đã rẽ trái ở ngã tư thứ hai mà. Tuy nhiên, ý nghĩ cô bị lạc đường càng lúc càng chắc chắn. Cô đã mất hết ý niệm về thời gian, cô đi 5 phút, 20 phút, hai giờ, cả đêm ư. Thình lình cô nhận ra không có nhà gần bên cô nữa. Có lẽ cô đang ở giữa công viên Hyde Park, có lẽ cô đã vô tình đi vào công viên mà không hay biết. Cô có cảm giác như bầy thú đang bao quanh cô, đang giương đôi mắt sáng quắc rình cô, đợi cô trượt chân là nhảy đến vồ lấy. Cô định hét lên, nhưng cô vội lấy tay bịt miệng để khỏi thốt ra lời.
Margaret cố giữ tinh thần hưng phấn và chiến thắng như khi ngồi trên xe lửa, nhưng không được, tinh thần ấy đã biến mất, chỉ còn lại nổi cô đơn và lo sợ. Cô định dừng lại, không nhúc nhích. Chắc cô không đến được nhà bà cô rồi.
Cô đứng bất động một hồi lâu, không biết xoay xở ra sao. Cô tự nhủ, chắc cứ đứng yên như thế cho đến khi ngã quỵ hay là cho đến khi trời sáng.
Trong khi ấy, một chiếc xe hơi xuất hiện. Đèn xe đã được sơn che một nửa, nên ánh sáng chiếu ra không nhiều lắm, nhưng so với bóng tối dày đặc như đoạn đường cô vừa đi qua, thì cô có cảm giác như trời đang ban ngày. Cô nhận thấy mình đang ở giữa đường, cô vội nhanh chân chạy lên lề đường. Cô đang ở một nơi cô chỉ nhớ ra mang máng mà thôi. Chiếc xe vụt qua, rẽ vào một ngã tư, Margaret vội đi theo hướng chiếc xe chạy, hy vọng tìm thấy một điểm nào quen thuộc để xác định được mình đang ở nơi nào. Đến ngã tư, cô thấy chiếc xe ở cuối một con đường nhỏ hẹp có nhiều cửa tiệm ở hai bên, trong số này có một tiệm bán khăn mũ phụ nữ mà mẹ thường đến mua; cô nhận ra cô chỉ còn cách khu Marble Arch có vài mét thôi.
Cô mừng đến phát khóc.
Đến ngã tư tiếp theo, cô đợi có chiếc xe khác nữa chạy ngang qua để thấy rõ được đường đi; rồi cô vào khu Mayfaứ.
Mấy phút sau, cô đến khách sạn Clandge. Dĩ nhiên cả khách sạn chìm trong bóng tối, nhưng cô nhận ra được cửa và cô phân vân không biết có nên vào không.
Cô biết cô không đủ tiền để thuê phòng, nhưng cô nhớ là nhiều người vào ở khách sạn chỉ khi ra đi mới thanh toán tiền bạc. Cô có thể thuê một phòng để ở hai đêm, ngày mai cứ đi ra như thể lát nữa cô sẽ tìm về, đi đăng ký vào lực lượng phục vụ hậu cần, rồi sẽ điện thoại đến khách sạn nói với họ gởi phiếu thanh toán đến cho luật sư của bố.
Như hầu hết các tòa nhà mở cửa ban đêm, lối vào khách sạn là loại cửa hai lớp, trông như có một phòng nhỏ ở giữa hai lớp cửa, để khi có người đi vào đi ra, thì ở ngoài đường người ta không thấy được ánh sáng ở bên trong. Margaret đóng cánh cửa ngoài, rồi đến đẩy cánh cửa trong và đi vào tiền sảnh khách sạn sáng sủa vui tươi. Cô để lộ vẻ khoan khoái ra mặt. Cô thấy lại cuộc sống bình thường, cơn ác mộng đã chấm dứt.
Một thanh niên trực đêm ngủ gà ngủ gật sau quầy.
Margaret đằng hắng lên tiếng, anh ta giật mình tỉnh dậy, vẻ ngơ ngác. Cô nói:
– Tôi cần một phòng ngủ.
– Cần vào giờ này à? - Anh ta ấp úng hỏi.
– Tôi bị kẹt trong đêm tối, không về nhà được.
Anh ta đã định thần lại được bèn hỏi:
– Không có hành lý à?
– Không. - Margaret đáp, giọng nghe như có lỗi; nhưng rồi chợt cô nghĩ ra ý mới, bèn nói tiếp – Tôi không ngờ bị lạc đường.
Anh ta nhìn cô với vẻ hơi kỳ lạ. Nhưng chắc anh ta không từ chối, Margaret nghĩ. Anh ta nuốt nước bọt, vuốt mặt rồi làm ra vẻ như kiểm tra lại sổ đăng ký.
Anh ta xem cái gì thế. Bỗng anh ta gấp sổ lại một cách dứt khoát và đáp:
– Khách sạn hết phòng rồi.
– Ồ, chắc anh còn phòng ...
– Có phải cô đã gây lộn với cha mẹ ở nhà không? - Anh ta nheo mắt hỏi.
Margaret không tin được tai mình.
– Tôi không thể về nhà được, - cô lặp lại, vì chắc hồi nãy anh ta không nghe rõ lời cô.
– Tôi không thể làm gì được, - anh ta đáp. Rồi bỗng lấy giọng khôi hài, anh ta nói tiếp:
– Do lỗi của Hitler hết.
– Ông giám đốc khách sạn ở đâu? - Cô hỏi.
Anh ta có vẻ phật ý.
– Tôi chịu trách nhiệm cho đến 6 giờ.
Margaret nhìn quanh rồi bằng một giọng chán nản, cô nói:
– Thế thì tôi chỉ còn nước ngồi nhờ ở hành lang cho đến sáng thôi. . . . .
– Cô không thể ngồi đây được đâu! – chàng trực đêm hất hoảng thốt lên. Một cô, gái không có hành lý ngồi một đêm ở hành lang khách sạn à? Để cô ngồi là tôi mất việc liền.
– Tôi không phải là con gái tầm thường, - cô giận dữ nói. - Tôi là Tiểu thư Margalet Oxenford. - Cô kinh hoàng khi nghe mình dùng đến tước vị, nhưng vì cô quá thất vọng.
Thế mà vẫn không có hiệu quả gì. Anh chàng nhân viên khách sạn nhìn cô với ánh mắt xấc xược rồi hỏi:
– A, thật thế sao?
Margaret định mắng cho anh ta một trận, thì bỗng cô thấy bóng mình hiện ra trong kính cửa, trên mặt sưng một cục gần bên con mắt bầm đen. Thêm vào đó, hai tay cô dơ bẩn và chiếc áo dài bị rách. Cô nhớ cô đã va mạnh thùng thư ngoài đường, và khi đi trên tàu, cô đã ngồi bệt xuống sàn toa. Thảo nào mà anh chàng trực khách sạn này không cho cô thuê phòng. Cô nói với anh ta bằng một giọng thất vọng:
– Nhưng lẽ nào anh nỡ đuổi tôi ra ngoài trời đêm tối như thế này!
– Tôi không làm gì khác hơn được! - Anh ta đáp.
Margaret tự hỏi, nếu cô cứ ngồi lỳ xuống đây, không chịu đi thì anh ta sẽ làm gì. Cô thật muốn làm như thế. Nhưng cô đau đớn nghĩ rằng cô không đủ nghị lực để tranh chấp với anh ta. Vả lại đêm đã khuya mà chỉ có hai người với nhau: Trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ta có ý đồ làm bậy.
Chán nản, cô đành quay lưng, bỏ ra ngoài trời đêm.
Cô không biết đi đâu. Chắc cô không tìm ra được chung cư nơi Catherine ở, cô cũng không thể tìm ra được nhà bà Martha; cô không có bà con nào đáng tin cậy, và cô quá dơ dáy không làm sao thuê phòng khách sạn được. Cô chỉ còn nước đi lang thang cho đến khi trời sáng Thời tiết tốt, trời không mưa và hơi lạnh. Nếu cô cứ đi, cô sẽ không thấy lạnh nữa. Bây giờ cô thấy có nhiều ánh đèn sáng ở khu West End, và chốc chốc lại có một chiếc xe hơi chạy qua. Cô nghe có tiếng nhạc và tiếng người huyên náo trong các hộp đêm vọng ra, nơi mà thỉnh thoảng lại có những người thuộc tầng lớp như cố đi ra, phụ nữ mặc áo dạ hội lộng lẫy và đàn ông y phục chỉnh tề, họ có xe hơi đến đón về sau một đêm vui chơi đến khuya. Cô ngạc nhiên khi thấy trên một con đường có ba phụ nữ đơn độc: một cô đứng trên ngưỡng cửa một ngôi nhà, một cô khác đứng tựa vào cột đèn đường và cô thứ ba ngồi trong một chiếc xe hơi. Tất cả đều hút thuốc và có vẻ như đang đợi ai. Cô tự hỏi không biết có phải đấy là những người đàn bà mà mẹ cô thường gọi là phụ nữ sa đọa không.
Cô bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Khi trốn khỏi nhà, cô vẫn mang trên chân đôi giày nhẹ đi trong nhà, nên bây giờ chân đau buốt. Không e ngại gì hết, cô ngồi bệt xuống trên thềm một ngơi nhà, tháo giày ra và thoa hai bàn chân đau.
Ngước mắt nhìn, cô thấy lờ mờ hiện ra hình dáng nhà cửa ở phía bên kia đường. Trời sắp sáng rồi sao? Cô sắp tìm được một quán cà phê bình dân mở cửa sớm phải không? Chắc cô phải đi ăn sáng rồi mới đến phòng tuyển mộ. Đã hai ngày cô không ăn gì, nên bây giờ nghĩ đến trứng áp chảo với thịt ba chỉ cô chảy nước miếng.
Bỗng cô thấy hiện ra trước mặt cô một khuôn mặt trắng. Cô thốt lên nho nhỏ trong miệng và lo sợ. Khuôn mặt đến gần và cô nhận ra đấy là một thanh niên mặc áo quần dạ hội. Anh ta cất tiếng chào:
– Chào người đẹp.
Cô vội đứng dậy. Cô rất sợ những người say. Họ thiếu tư cách. Cô đáp lời hắn:
– Xin ông đi khỏi cho. - Cô cố nói bằng giọng chững chạc, nhưng giọng cô thốt ra run run.
Hắn ngập ngừng bước đến gần.
– Nào, cho anh cái hôn đi.
– Không được! - Cô cương quyết đáp.
Cô bước lui, trượt chân để rơi giày xuống đường. Không hiểu tại sao khi mất giày cô cảm thấy hết sức yếu đuối. Cô bèn quay lại, mò mẫn tìm giày. Hắn cười khà, rồi bỗng cô hoảng hồn khi cảm thấy tay hắn sờ vào đùi chân cô, vuốt ve thật thô bạo. Lập tức cô vùng đứng dậy, mặc dù không tìm ra giày, cô vẫn bỏ chạy rồi quay về phía hắn, cô hét lớn:
– Hãy để cho tôi yên!
Hắn lại cười và nói:
– Được đấy, anh thích kháng cự một chút như thế đấy.
Bỗng hắn nhanh như cắt tóm lấy hai vai cô rồi kéo cô vào người hắn. Hơi thở hắn nồng nặc mùi rượu, và thình lình hắn hôn lên môi cô.
Thật hết sức đau lòng, cô cảm thấy muốn nôn mửa, nhưng gã đàn ông ôm cô quá chặt đến nỗi cô hụt hơi, khó chống cự lại được. Cô vùng vằng một cách khó khăn trong khi hắn ôm riết cô vào lòng. Bỗng hắn thả một vai cô và đưa tay bóp vú cô. Hắn bóp mạnh đến nổi cô phải thét lên vì đau đớn. Nhưng vì hắn đã thả vai cô ra, nên cô quay được nửa người và cất tiếng hét lên.
Tiếng hét thật dài, thật chói tai. Cô nghe loang loáng bên tai giọng nói có vẻ ái ngại của hắn:
– Này, này, đừng làm thế, anh không muốn hại em đâu.
Nhưng cô đã quá hốt hoảng, không nghe hắn nói phải trái gì nữa, mà cứ la tiếp. Nhiều khuôn mặt xuất hiện trong bóng đêm: một người mặc áo quần công nhân đi qua, một phụ nữ sa đọa ngậm thuốc lá trên miệng cầm ví trên tay, và một bóng người hiện ra trên cửa sổ của ngôi nhà phía sau họ. Gã say rượu biến mất, Margaret không la nữa và khóc nức nở. Rồi có tiếng giày da nện thình thịch trên đường, ánh đèn pin rọi sáng quanh cô và cô thấy chiếc mũ cảnh sát hiện ra.
Người cảnh sát rọi đèn pin vào mặt Margaret.
Người phụ nữ nói nhỏ:
– Không phải người của bọn tôi Steve à.
Người cảnh sát có tên Steve hỏi cô:
– Cô tên gì, cô bé?
– Margaret Oxenford.
Người mặc áo công nhân nói:
– Anh chàng quí tộc ngỡ cô ta là gái điếm. – Anh cười rồi bỏ đi.
– Cô có phải là tiểu thư Margaret Oxenford không?
Người cảnh sát hỏi.
Margaret hít vào một hơi, vừa gật đầu.
– Tôi đã nói với ông cô ta không phải giới của chúng tôi mà, - chị đàn bà nói.
Nói xong chị ta hít một hơi thuốc lá, gãy cho tàn thuốc rót xuống, dẫm lên rồi bỏ đi.
Người cảnh sát nói:
– Bây giờ cô đi theo tôi, mọi việc sẽ ổn thỏa hết.
Margaret lấy cánh tay lau mặt. Người cảnh sát đua cánh tay anh cho cô, cô vịn vào. Ông ta rọi đèn pin trên vỉa hè trước mặt, hai người cùng đi. Đi được một lát, Margaret rùng mình nói:
– Người đâu quá khủng khiếp!
Người cảnh sát có vẻ động lòng thương xót, ông vui vẻ nói:
– Không nên trách hắn ta. Đây là con đường nổi tiếng là bết nhất ở Luân Đôn. Phụ nữ đi ban đêm một mình ở đây, ai cũng ngỡ là gái điếm hết.
Margaret nghĩ hẳn ông ta nói có lý, mặc dù đối với cô thì việc này rất bất công.
Ánh đèn xanh của đồn cảnh sát hiện ra trong bầu ánh sáng của rạng Đông.
Người cảnh sát nói:
– Cô vào uống một tách trà là người khỏe ngay.
Họ đi vào đồn. Sau cái bàn dài có hai người cảnh sát đang ngồi, một người lùn mập tuổi trung niên, còn người kia trẻ và mảnh khảnh. Hai bên cửa vào, mỗi bên kê một cái ghế dài bằng gỗ Bát tường. Trên một chiếc ghế, một người đàn bà đang ngồi đợi, mặt chị ta xanh xao, tóc buộc lại bởi một chiếc khăn và hai chân đi dép vẻ nhẫn nhục, bơ phờ.
Người cứu Margaret chỉ vào chiếc ghế kia và nói với cô:
– Cô ngồi đấy đợi một lát.
Margaret làm theo lời người cảnh sát. Ông ta đến bên chiếc bàn dài, nói với người đứng tuổi:
– Thưa trung sĩ, cô ấy là tiểu thư Margaret Oxenford. Cô ta đã gặp chuyện rắc rối với một gã say rượu ở khu BoltingLane.
– Chắc hắn tưởng cô ta là gái đứng đường.
Margaret ngạc nhiên vì có nhiều uyển ngữ để chỉ gái **. Người ta có vẻ kinh hoàng khi gọi gái **, nên họ thường hay gọi những tên khác cho nhẹ hơn. Trước đây cô ít khi nghe những từ như thế này, chỉ đêm nay cô mới thật sự nghe được.
Nhưng hành động của gã đàn ông mặc dạ phục thì rõ ràng là quá hiển nhiên chứ không còn úp mở gì nữa.
Ông trung sĩ chú ý nhìn Margaret, rồi nói nhỏ gì đấy với Steve mà cô không nghe rõ. Steve gật đầu vâng lời rồi biến mất vào phía sau.
Margaret nhận ra mình đã để mất giày ở thềm nhà đằng ấy rồi, nơi cô ngồi hồi nãy. Vớ của cô bây giờ đã thủng nhiều lỗ. Cô thấy lo lắng vô cùng, với tình trạng như thế này làm sao đến trung tâm tuyển mộ cho được? Có lẽ chờ khi trời sáng, cô phải quay lại đấy để tìm giày. Nhưng chắc gì giày còn ở đấy. Rồi cô còn phải rửa ráy sạch sẽ và kiếm cái áo dài sạch khác nữa chứ. Sau bao nhiêu cố gắng gian khổ như thế này mà không được tuyển chọn vào lực lượng hậu cần, thì thật quá thất vọng. Nhưng biết đi đâu để chuẩn bị đây. Sáng mai, ngay cả tại nhà cô Martha chắc gì đã bảo đảm, có thể bố đến tìm cô ở đấy lắm. Tuy nhiên, cô lo lắng tự hỏi, chắc kế hoạch của cô không hỏng bét vì một đôi giày?
Người cảnh sát cứu cô trở ra, mang cho cô một ly trà thật lớn. Màu nước trà nhợt nhạt và quá ngọt, nhưng Margaret vẫn hớp từng ngụm nhỏ với vẻ biết ơn.
Nước trà làm cho cô thêm quyết chí. Cô sẽ vượt qua tất cả trở ngại khó khăn.
Khi uống trà xong, cô sẽ ra đi. Cô sẽ đến một khu bình dân để tìm một cửa hàng bán áo quần rẻ: cô còn mấy si linh. Cô sẽ mua một cái áo dài, một đôi dép và đồ lót. Cô sẽ vào một phòng tắm để rửa ráy và thay áo quần. Cô quyết chí đầu quân cho được.
Trong khi cô đang suy nghĩ kế hoạch hành động, thì bỗng có tiếng ồn ào trước cửa đồn, rồi một toán thanh niên ùa vào đồn cảnh sát. Họ ăn mặc áo quần đẹp đẽ người thì áo quần dạ hội, kẻ lại com lê vét tông. Rồi cô thấy họ lôi kéo một người trong nhóm, và anh này cố vùng vẫy để thoát ra. Một người đến gặp ông trung sĩ đang ngồi sau bàn dài, thái độ hung hăng.
Ông trung sĩ ngăn anh ta lại.
– Thôi thôi, hãy bình tĩnh! - Ông ta nói lớn với giọng ra lệnh. - Các anh không phải đang ở trên sân bóng bầu dục, mà đây là đồn cảnh sát. - Tiếng ồn giảm bớt, nhưng ông trung sĩ vẫn chưa thấy vừa ý, ông nói tiếp:
– Nếu các anh không giữ trật tự, tôi sẽ tống giam hết. Bây giờ các anh có chịu im mồm hết không?
Tất cả đều im lặng, họ thả người tù ra, để cho anh ta đứng yên một chỗ, vẻ thảm não. Người trung sĩ chỉ một thanh niên có mái tóc màu nâu, tuổi chừng bằng tuổi của Margaret.
– Tốt ... bây giờ anh hãy nói rõ cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra.
Anh ta đưa tay chỉ tù nhân và nói:
– Người này đã dẫn em gái tôi đến nhà hàng ăn uống, rồi chuồn mất mà không trả tiền! - Giọng anh ta tức tối. Cách nói năng của anh ta cho thấy anh là người thuộc giai cấp thượng lưu và Margaret nhận ra khuôn mặt anh ta có vẻ quen quen. Cô mong sao anh ta không nhận ra cô. Nếu anh ta biết cô bị cảnh sát tóm lại được sau khi bỏ nhà ra đi, thì thật nhục nhã biết bao!
Một chàng trai trẻ hơn mặc bộ áo quần có sọc nới thêm:
– Hắn tên là Harry Marks, hắn phải vào tù.
Margaret lấy làm lạ, đưa mắt nhìn kỹ Harry Marks. Anh ta rất đẹp trai, tuổi khoảng 22 hay 23, có mái tóc vàng và dáng dấp hài hòa đều đặn. Mặc dù áo quần của anh ta có phần xốc xếch, nhưng bộ áo quần trên người anh rất sang, cài nút chéo, trông rất lịch sự Anh ta nhìn quanh, ánh mắt khinh bỉ rồi lên tiếng nói:
– Những người này đều say hết.
Người thanh niên mặc bộ đồ có sọc đáp lại:
– Có lẽ chúng tôi say, nhưng hắn là một thằng vô lại. và là thằng ăn trộm.
Ông hãy nhìn những thứ mà chúng tôi đã tìm thấy trong túi của hắn. - Anh ta ném cái gì đấy lên mặt bàn. - Hắn đã ăn cắp cặp nút tay áo này vào đầu hôm tại nhà ngài Simon Monkford.
– Được rồi, - ông trung sĩ nói - các anh buộc tội anh ta là lưu manh - bằng cách không trả tiền cho nhà hàng - và tội ăn trộm. Có gì nữa không”.
Cậu thanh niên mặc bộ đồ có sọc cười ngạo mạn và nói:
– Như thế chưa đủ cho ông hay sao?
Ông trung sĩ chỉ cây bút chì vào mặt anh ta:
– Này cậu, cậu phải nhớ cậu đang ở đâu đấy nhé. Có lẽ cậu sinh ra trong cảnh giàu sang, nhưng đây là đồn cảnh sát, nếu cậu ăn nói vô lễ, cậu sẽ vào ngủ đêm trong phòng giam đấy.
Người thanh niên cứng họng, không nói gì được.
Ông trưng sĩ quay qua người tố cáo đầu tiên.
– Bây giờ anh hãy cho tôi biết những chi tiết về hai vụ tố cáo ấy được không?
Tôi cần biết tên và địa chỉ của nhà hàng ăn uống, tên và địa chỉ của em gái anh, và tên cùng địa chỉ của người có cặp nút tay áo này.
– Được tôi sẽ cho ông biết những chi tiết này. Nhà hàng ăn uống ...
– Tốt. Này anh, anh phải ở lại đây, - ông trung sĩ nói, với bị cáo. - Anh ngồi xuống đấy. - Rồi ông quay qua nói với đám thanh niên kia:
– Còn các anh, các anh có thể ra về được rồi.
Họ có vẻ hoang mang bối rối. Công việc phiêu lưu vĩ đại của họ kết thúc như thế này thì quả đáng thất vọng. Cho nên họ đứng trơ ra không ai nhúc nhích động đậy một lát.
– Thôi ra về đi, tất cả đều có thể ra về được rồi.
Chưa bao giờ Margaret nghe được nhiều chuyện hấp dẫn chỉ trong một ngày như thế này, Các chàng trai ra về, càu nhàu với nhau. Người thanh niên mặc bộ đồ có sọc nói:
– Các cậu giao nộp một thằng ăn trộm cho công lý, thế mà họ đối xử với các cậu như chính các cậu là tội phạm! - Nhưng anh ta đã ra khỏi cửa đồn trước khi nói hết câu.
Ông trung sĩ giữ chàng trai tóc nâu lại để thẩm vấn, ông ghi chép lời khai vào sổ. Harry Marks ngồi yên trước mặt ông ta một lát, rồi anh ta mất hết kiên nhẫn, quay nhìn quanh trong phòng. Anh ta nhìn thấy Margaret, nhoẻn miệng cười tươi tắn với cô, rồi đến ngồi bên cạnh cô. Anh ta cất tiếng hỏi:
– Ổn cả chứ, cô em? Cái gì làm cho cô phải đến đây vào giờ này trong đêm?
Margaret rất ngỡ ngàng. Anh ta hoàn toàn thay đổi hẳn. Hết thái độ kênh kiệu và giọng nói uốn éo, anh ta nói với giọng bình dị như ông trung sĩ. Cô cảm thấy quá kinh ngạc nên không thể trả lời anh ta được.
Harry đưa mắt nhìn ra cửa như thể muốn thừa cơ hội để chạy trốn khỏi đồn, rồi anh ta quay nhìn vào bàn làm việc và thấy người cảnh sát trẻ tuổi đang chăm chú nhìn anh ta. Anh ta bèn bỏ ý định chạy trốn và quay qua hỏi Margaret.
– Ai làm mắt cô bị bầm sưng như thế, bố mẹ à?
Margaret tỉnh táo đáp:
– Tôi bị lạc đường khi trời tối và va mạnh cái thùng thư.
Bây giờ đến lượt anh ta ngạc nhiên. Anh ta tưởng cô là công nhân thợ thuyền. Bây giờ nghe giọng cô nói, anh mới thấy mình lầm. Anh ta điềm nhiên lấy lại phong độ hồi nãy.
– Trời ơi, rủi thật!
Margaret thấy vui vui. Nhân cách anh ta ra sao nhỉ. Người anh ta tỏa mùi nước hoa. Tóc cắt khéo, thậm chí còn để cho dài nữa. Anh ta mặc bộ đồ dạ phục may theo kiểu vun Edouard Đệ bát, bít, tất lụa và giày đế mỏng đánh bóng. Đồ trang sức trên người đều hảo hạng nút áo kim cương trên áo sơ mi, cặp nút tay áo tuyệt đẹp; đồng hồ vàng và vòng đeo tay có hình con cá sấu màu đen; trên ngón tay út của bàn tay trái có chiếc nhẫn. Hai bàn tay anh ta to tướng, nhưng móng tay thì rất sạch.
Cô hạ thấp giọng hỏi nhỏ:
– Có thật anh đi ăn nhà hàng mà không trả tiền không?
Anh ta nhìn cô một lát rồi trả lời xăng xái:
– Cô cứ tin là thật đi. - Giọng anh ta nghe có vẻ như hành động của anh là có ý đồ, có âm mưu.
– Tại sao lại thế?.
– Bởi vì, nếu tôi ngồi nghe cô Rebecca Maugham - Flint nói về ba con ngựa chết tiệt của cô ta thêm chút nữa, thì chắc tôi sẽ bóp cổ cô ấy cho đến chết mất.
Margaret phì cười. Cô biết Rebecca Maugham-Flint, cô ta như cây sào khổng lồ không đường nét gì hết, là con gái của một ông tướng và cô ta giống bố về thái độ kênh kiệu, có giọng nói oang oang:
– Tôi hiểu ra rồi, - cô nói – Khó mà tưởng tượng ra một người khả ái như ông Marks này lại đi ăn với cô ta được.
Người cảnh sát có tên Steve xuất hiện, ông ta lấy cái ly không nơi cô.
– Cô cảm thấy khỏe rồi chứ, tiểu thư Margaret?
Cô liếc mắt thấy Harry Marks giật mình sửng sốt khi nghe người cảnh sát gọi tước vị của cô.
– Khỏe nhiều rồi, cám ơn ông, - cô đáp.
Nãy giờ ham nói chuyện với Harry, cô quên phứt chuyện lo buồn của mình, bây giờ cô mới nhớ lại những việc cô phải làm. - Ông thật tốt, - cô nói tiếp:
– Bây giờ tôi xin phép chia tay ông để đi làm những công việc cần thiết hơn.
– Cô khỏi phải vội, - người cảnh sát đáp. - Bố cô, ngài hầu tước đang trên đường đến đây tìm cô.
Margaret cảm thấy tim mình như ngừng đập. Tại sao có thể như thế này được? Cô tin chắc hành động của cô rất bảo đảm: nhưng cô đã đánh giá thấp bố cô. Cô nghĩ chắc khi cô đi ra ga thì ông đã đi theo cô, rồi lái xe đi Luân Đôn! Cô run lẩy bẩy, hỏi ông cảnh sát, giọng căng thẳng:
– Làm sao bố tôi biết tôi ở đây?
Người cảnh sát hãnh diện đáp:
– Tối hôm qua người ta đã loan tin cô trốn nhà ra đi, và tôi có nhiệm vụ tìm cô. Người ta có miêu tả vóc dáng cô, nhưng trời tối quá, nên tôi không nhận ra, nhưng tôi nhớ tên cô. Nhiệm vụ của tôi là phải báo cho ngài hầu tước biết ngay.Vừa dẫn cô về đây là tôi gọi điện thoại báo cho ông biết liền.
Margaret đứng đậy, tim đập liên hồi. Cô nói:
– Tôi không đợi ông đến đâu. Bây giờ trời sáng rồi.
Người cảnh sát có vẻ lo lắng.
– Khoan đã, - ông ta nói một cách gay gắt.
Ông quay lại bàn làm việc và hỏi ông trung sĩ:
– Thưa trung sĩ cô ấy không muốn đợi bố cô đến.
Harry Marks nói nhỏ với Margaret:
– Họ không thể giữ cô lại được: với tuổi cô, chạy trốn khỏi nhà không phải là tội lỗi. Nếu cô muốn đi, cô chỉ việc ra đi.
Margaret tin chắc họ đang tìm cớ để giữ cô lại.
Ông trung sĩ đứng dậy, đi ra khỏi bàn làm việc, ông nói:
– Anh ta nói có lý đấy. Nếu cô muốn đi, thì cứ đi.
– Ồ, cám ơn - Margaret đáp, giọng biết ơn.
Ông trung sĩ cười:
– Nhưng cô không có giày, vớ thì thủng. Nếu cô muốn ra đi trước khi bố cô đến, cô hãy để tôi gọi cho cô một chiếc tắc xi.
Cô suy nghĩ. Họ điện thoại cho bố khi cô đến đồn cảnh sát. mà việc này chỉ mới cách đây chưa đầy một giờ. Bố không thể đến đây trước một giờ nữa. Cô bèn nói với ông cảnh sát.
– Thế thì tốt, tôi xin cám ơn ông.
Ông ta mở cánh cửa ở phòng sau và nói:
– Cô nên vào đây ngồi để đợi tắc xi. - Ông ta bật đèn.
Margaret muốn ngồi ngoài này nói chuyện phiếm với anh chàng Harry Marks có duyên này nhưng cô không muốn làm ông trung sĩ chạm tự ái, nên cô đành đáp:
– Cám ơn ông.
Cô vào trong căn phòng nhỏ. Trong phòng có hai cái ghế ọp ẹp và một cái ghế dài, trên trần có bóng đèn và cửa sổ có song sắt. Cô không hiểu tại sao ông trung sĩ cho cái phòng này dễ chịu hơn phòng ngoài. Cô quay lại để nói với ông ta.
Cánh cửa đã đóng lại. Cô có linh cảm không hay nổi lên trong lòng. Cô vội vàng đến cửa, vặn tay nắm. Bỗng cô nghe có tiếng khóa cài lại và cô thấy lo sợ.
Cô xoay mạnh nắm cửa, nhưng cửa không mở được.
Cô thất vọng ngồi phịch xuống chiếc ghế dài. Cô nghe bên ngoài có tiếng cười rúc rích, rồi có tiếng Harry cất lên nho nhỏ:
– Đồ đểu!
Rồi cô nghe giọng ông trung sĩ nói, nhưng bây giờ giọng ông kém phần nhẹ nhàng:
– Im miệng đi!
– Ông không có quyền làm thế.
– Bố cô ta là hầu tước, tôi có bổn phận làm theo lời ông ta.
Câu chuyện chấm dứt ngang đó.
Margaret biết thế là cô đã thất bại. Chuyện trốn thoát thế là hỏng bét rồi. Cô đã bị những người mà cô tưởng đến giúp cô phản bội. Chỉ trong vài giờ nữa thôi là cô sẽ được thả ra, và như thế là chấm dứt việc trốn thoát. Cô sẽ không đầu quân vào lực lượng hậu cần được cô đau đớn nghĩ, mà cô sẽ đáp chuyến thủy phi cơ Clipper của hãng hàng không Pan American để bay qua New York, trốn chiến tranh. Sau chuyến phiêu lưu mạo hiểm này, số phận của cô vẫn không thay đổi. Thật quá bất công.
Một hồi lâu, cô quay lưng lại phía cửa, đi đến cửa sổ Cô thấy cái sân sau vắng vẻ và một bức tường gạch. Cô đứng yên bên cửa sổ, chán nản thất vọng, nhìn qua chấn song thấy trời đã sáng, cô chỉ còn nước đợi bố cô đến mà thôi.
*
* *
Eddie Deakin kiểm tra lần cuối chiếc Clipper của hãng Pan American.
Bốn động cơ Wright Cyclone một ngàn năm trăm mã lực đã tra dầu mủ. Mỗi động cơ cao bằng đầu người. Người ta đã thay 56 cái bu di. Vì có tính cẩn thận, Eđđie lấy trong túi áo lao động ra cái dụng cụ đo bề dày, chuồi lưỡi đo xuống dưới sườn động cơ, giữa lớp cao su và mặt kim loại, để kiểm tra độ dính vì trong chuyến bay dài như thế này, sự rung chuyển của máy bay có thể làm cho các thứ dính vào nhau căng ra rất khủng khiếp. Nhưng cái thước đo cho thấy không có chỗ nào hở ra quá nửa ly. Sườn máy bay giữ nguyên vị trí rất tốt.
Anh đóng ô cửa hầm tàu, rồi leo thang đi xuống. Khi nào người ta hạ chiếc thủy phi cơ xuống nước, anh mới cởi đồ quần lao động ra, tắm rửa rồi mặc bộ đồng phục đen của hãng Pan American vào.
Khi anh rời khỏi bến cảng, trời nắng ráo, anh leo lên ngọn đồi để đến khách sạn nơi phi hành đoàn nghĩ ngơi trong thời gian kiểm tra tu bổ máy móc. Anh hãnh diện về chiếc máy bay và hãnh diện về nghề nghiệp của mình. Phi hành đoàn của chiếc Clipper đều là những người ưu tú, những người giỏi của công ty, vì chuyến bay xuyên đại dương mới mẻ này là chuyến hành trình nổi tiếng nhất. Rồi đây, suốt cả đời, anh sẽ tự hào anh là người đầu tiên đã bay trên chiếc Clipper qua đại tây dương.
Thế nhưng, anh định rồi đây anh sẽ thôi bay. Anh đã ba mươi tuổi, anh đã cưới vợ từ một năm nay và bây giờ Carol-Ann đã có thai. Đối với người còn độc thân thì bay là công việc rất tuyệt, nhưng người đã có vợ như anh, anh không muốn xa vợ con lâu ngày. Anh đã có tiền dành dụm, anh đã có đủ tiền để kinh doanh nhỏ được rồi. Anh đã chọn được một miếng đất ở gần Banger trong tiểu bang Maine để làm nơi đậu máy bay rất tốt. Anh sẽ sửa chữa bảo trì máy bay, bán nhiên liệu máy bay, và sẽ mua một chiếc để đưa đón khách. Anh thầm mơ ước một ngày nào đó anh sẽ có một công ty hàng không, như Juan Tippe, người tiên phong đặt nền móng Hãng Pan American.
Anh đi vào vườn khách sạn Langdown. Cũng may là phi hành đoàn thuê được phòng trong khách sạn này chỉ xa cách các cơ sở hạ tầng của Hãng hàng không Hoàng gia Anh chua đầy hai cây số. Khách sạn là một tòa nhà nông thôn kiểu Anh do một cặp vợ chồng rất dễ thương điều khiển, họ làm vừa ý mọi người và họ phục vụ trà trên bãi cỏ vào những buổi chiều trời đẹp.
Anh đi vào tiền sảnh, gặp ngay người phụ tá cho mình, Desmonđ Finn - người được mọi người đặt cho cái bí danh là Mickey vì trông anh ta lúc nào cũng phấn chấn như người vừa dùng ma túy. Mickey là một chàng trai vô tư, có nụ cười cởi mở, toe toét để lộ ca hai hàm răng và anh ta thường xem Eddie như một vị anh hùng, khiến cho Eđđie cảm thấy bối rối trước sự mến phục này của anh ta. Anh ta đang nghe điện thoại, và khi thấy Eddie, anh ta liền nói với người bên kia đầu giây:
– Ồ, đợi chút nhé, anh may rồi đấy, anh ấy vừa đến. Anh ta đưa ống nghe cho Eddie và nói:
– Anh có điện thoại đây đưa xong.
Anh ta bước lên cầu thang, lịch sự để bạn một mình nói chuyện trên điện thoại.
– A lô? - Eđđie nói trong máy.
– Có phải Edwarđ Deakin đấy không?
Eddie cảm thấy lo lo. Giọng nói lạ và không ai gọi anh bằng Edwarđ hết.
Anh đáp.
– Vâng, tôi là Eđđie Deakiil. Anh là ai?
– Đợi chút nhé, tôi chuyển điện thoại cho vợ anh đây.
Eđđie cảm thấy lòng thắt lại. Tại sao Carol-Ann gọi anh từ Hoa Kỳ nhỉ?
Chắc có chuyện gì xảy ra rồi.
Một lát sau, anh nghe giọng vợ anh trên máy.
– Eddie đấy ư?
– Chào em yêu, có chuyện gì xảy ra thế?
Chị bật khóc nức nở.
Vô số chuyên đáng sợ hiện ra trong óc anh: nhà bị cháy, có người chết, chị gặp tai nạn bị thương, chị sẩy thai.
– Carol Ann, bình tĩnh đi em, em khỏe chú?
Chị vừa khóc vừa đáp.
– Em ... không ... bị thương.
– Vậy thì chuyện gì? - Anh lo sợ hỏi. - Có chuyện gì xảy ra phải không? Nói cho anh biết đi, em yêu.
– Những người này .... đến nhà.
Eddie cảm thấy lạnh toát cả người.
– Người nào thế? Họ đến làm gì?
– Họ bắt em lên xe hơi.
– Lạy Chúa, họ là ai? - Anh giận đến nghẹt thở, phải cố sức thở mạnh.
Chúng có làm gì hại đến em không?
– Em bình an ... nhưng, Eđđie, em sợ quá.
Anh nghẹn ngào. Anh muốn hỏi nhiều chuyện một lúc. Những người đàn ông đến nhà anh, bắt Carol-Ann lên xe:
– Có chuyện gì xảy ra không? - Cuối cùng anh thốt được nên lời.
– Tại sao chúng bắt em?.
– Họ không muốn nói với em.
– Chúng có nói gì với em không?.
– Eddie, anh phải làm những chuyện, họ muốn, em chỉ biết có chừng ấy thôi.
Mặc dù rất bực tức và rất hoảng sợ nhưng Eddie vẫn nhớ lời dạy của bố anh, ông đã nói: Đừng bao giờ ký một ngân phiếu trắng, không ấn định số tiền.
Tuy nhiên, anh vẫn không ngần ngại đáp:
– Anh sẽ làm, nhưng chuyện gì?.
– Anh hứa nhé!
– Anh hứa.
– Thật ơn Chúa.
– Chuyện xảy ra khi nào?
– Cách đây hai giờ.
– Bây giờ em ở đâu?
– Em đang ở trong một ngôi nhà không xa ... Có tiếng hét làm gián đoạn câu nói của chị – Carol-Ann! Có chuyện gì thế? Em bình an chứ?
Không có tiếng trả lời. Tức giận, hoảng sợ và bất lực, Eđđie bóp chặt ống nghe đến nổi mấy khớp ngón tay trắng bệch.
Rồi giọng nói của gã đàn ông hồi nãy cất lên:
– Eđward, anh hãy nghe tôi nói cho kỹ đây.
– Không, chính anh mới nghe tôi, anh là đồ cặn bã của xã hội. Nếu anh làm hại đến cô ấy, tôi sẽ giết anh dấy. Tôi thề với Chúa chứng giám, tôi sẽ đuổi theo anh suốt đời, và khi tìm ra anh, đồ khố nạn, tôi sẽ bứt đầu anh ra, anh có nghe tôi nói không?
Bên kia đầu giây im lặng một lát như thể gã đàn ông đang nói không ngờ anh lại nói một hơi như thế.
Rồi gã nói tiếp:
– Đừng làm căng, anh ở xa đây lắm. - Anh có vẻ hơi dao động, nhưng hắn có lý: Eddie không thề làm gì được. Gã đàn ông nói tiếp. - Anh có bằng lòng nghe cho kỹ không?
Hết sức cố gắng, Eddie không nói gì nữa.
– Anh sẽ nhận những công việc phải làm với một người ở trên máy bay, người ấy có tên là Tom Luther.
– Trên máy bay? Như thế này là thế nào? Anh chàng Tom Luther này là khách đi máy bay hay là gì? - Eđđie hỏi:
– Nhưng anh muốn tôi làm gì?
– Anh hãy câm mồm lại. Luther sẽ nói cho anh biết, và nếu anh muốn gặp lại vợ anh, thì anh phải làm theo lệnh anh ta từng lời một.
– Nhưng làm sao tôi biết?.
– À, còn một việc nữa. Đừng báo cho cảnh sát biết. Báo cho cảnh sát là anh không được việc gì đâu.
– Nếu anh tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai, tôi sẽ hiếp vợ anh ngay đấy.
– Đồ khốn nạn, tao sẽ ...
Điện thoại cúp.
Harry Marks là người đàn ông may mắn nhất trên đời.
Mẹ anh ta thường nói với con rằng anh gặp nhiều may mắn. Mặc dù cha chết trong đại chiến, nhưng anh ta may mắn đã có bà mẹ xốc vác, đảm đang. Bà ta kiếm sống bằng cách giúp việc trong các văn phòng, và trong thời gian khủng hoảng kinh tế, không bao giờ bà thiếu việc làm. Hai mẹ con sống ở Battersea, trong một khu chung cư mà tầng nào cũng chỉ có vòi nước lạnh và có phòng vệ sinh nằm ngoài căn hộ, nhưng họ có những người láng giềng rất tốt, biết giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn. Harry có tài tránh khỏi được những sự buồn lo ở đời, ở trường, ông thầy giáo thường đánh học trò, nhưng khi đến phiên đánh anh thì cây roi gãy. Harry té dưới xe, và xe chạy ngang qua mà không đụng đến người anh.
Chính vì quá yêu thích đồ nữ trang mà anh trở thành kẻ trộm cắp. Khi đến tuổi trưởng thành, anh thích rong chơi trên các con đường sang trọng giàu có ở tại khu West End, và nhìn vào các tủ gương bán đồ kim hoàn. Anh say mê một cách thích thú những viên kim cương và đá quí để trên những chiếc gối nhỏ sáng long lanh dưới ánh sáng huyền ảo của cửa tiệm kim hoàn. Anh yêu chúng vì sắc đẹp của chúng rồi, mà còn yêu vì chúng biểu hiện một nếp sống mà anh đã khám phá ra qua sách vở, một nếp sống trong các ngôi nhà rộng rãi ở nông thôn, có những bãi cỏ xanh rộng lớn, nơi có những cô gái mà người ta thường gọi là tiểu thư Penelope hay Jessica Chumley, chơi ten nít suốt buổi chiều, và khi về nhà uống trà còn thở hổn hển.
Anh ta học nghề kim hoàn, nhưng công việc làm đồ nữ trang làm cho anh bực bội, nên sáu tháng sau, anh bỏ việc. Công việc sửa chữa những sợi dây đồng hồ bị gãy và nới rộng những chiếc nhẫn của các bà đã lên cân không có gì làm cho anh hứng thú hết. Nhưng nhờ thế mà anh đã học được cách phân biệt một viên hồng ngọc với một viên ngọc lựu, phân biệt được ngọc trai tự nhiên với ngọc trai nhân tạo, và phân biệt được một viên kim cương hiện đại, đẽo gọt sáng loáng với viên đá quý đẽo gọt vào thế kỷ XIX. Anh lại còn phân biệt được sự khác nhau giữa một cái khung đẹp với một cái khung giả, phân biệt được một vật trang sức đẹp có giá trị với một vật rườm rà phô trương mà thiếu mỹ thuật; và khả năng phân biệt này chỉ nung nấu thêm lòng say mê đồ kim hoàn đẹp và sở thích nếp sống cần có những thứ này nơi anh.
Cuối cùng để thỏa mãn hai sở thích này, anh tìm cách lợi dụng những cô gái như Rcheeca ở Ascot. Anh thường gặp các cô gái giàu có ở trường đua ngựa.
Nhờ khung cảnh rộng rãi và người Đông, nên anh dễ dàng lui tới giữa hai nhóm thanh niên cá độ, tạo không khí mật thiết đến độ nhóm nào cũng tưởng anh là người của nhóm mình. Rebecca là cô gái to lớn với lỗ mũi khổng lồ, cô mặc chiếc áo cởi ngựa bằng vải dệt kim có hình tổ ong trông thật kỳ dị, và đội chiếc mũ chóp có cắm lông theo kiểu Robin Rừng Rú. Tất cả thanh niên nào thuộc nhóm của cô cũng không quan tâm chú ý đến cô, cho nên cô nàng tỏ ra biết ơn Harry, vì anh đã chuyện trò thân mật với cô.
Anh không chạy theo cô ta ngay tức khắc, vì vội vã như thế xem ra không được giá trị cho lắm. Nhưng một tháng sau, anh gặp cô ta trong một phòng trưng bày nghệ thuật, cô ta niềm nở với anh như anh là người bạn cũ, và giới thiệu anh với mẹ cô.
Những cô gái như Rebecca, không được đi chơi với trai mà không có người canh giữ đi theo, dù là đi xem xi nê hay đi ăn nhà hàng; chỉ có con gái bán hàng hay thợ thuyền mới đi như thế. Cho nên họ nói với cha mẹ là họ đi cùng nhóm; và để chứng tỏ cho cha mẹ thấy, họ thường cùng nhau đi dự những tiệc rượu.
Sau đó, từng cặp sẽ lặng lẽ chuồn đi chỗ khác chơi. Làm như thế này mới thích hợp với Harry: vì anh không chính thức “tán tỉnh” Rebecca, cha mẹ cô thấy không cần thiết điều tra kỹ về lai lịch của anh, khỏi phải đặt nghi vấn về những lời dối trá vu vơ của anh về ngôi nhà ở nông thôn của anh tại Yorkshire, về việc anh theo học một trường đại học nhỏ ở Tô Cách Lan, về mẹ anh bệnh hoạn đang nghỉ dưỡng sức ở vùng miền trung nước Pháp, và anh sắp được gắn lên trung úy trong lực lượng Không quân Hoàng gia Anh.
Anh nhận thấy những chuyện láo khoét vu vơ là chuyện rất phổ biến trong xã hội thượng lưu, nơi anh thường lui tới. Người ta nghe những chuyện này từ cửa miệng của các thanh niên không muốn thú nhận mình nghèo xơ nghèo xác, không muốn cho mọi người biết cha mẹ họ là những bợm nghiện rượu thâm căn cố đế, không muốn tỏ ra mình đang ở trong một gia đình hèn hạ và thiếu tư cách. Không ai nhọc công đi điều tra một người chưa có dấu hiệu gì muốn ve vãn một cô gái con nhà quí tộc.
Cho nên, Harry đã đi chơi với Rebecca theo cái kiểu văn nghệ như thế này từ ba tuần nay rồi. Cô ta mời anh đến chơi ngày cuối tuần ở Kent một lần, ở đây anh đã chơi bài Cri-kê và ăn cắp tiền của khách đến chơi, những người này không dám kêu ca vì sợ làm mất lòng chủ nhà. Cô ta mời anh đi dự dạ vũ nhiều lần, ở đây anh đã móc túi và lục túi xách của người ta. Ngoài ra, có lần đến thăm chỗ ở của Rebecca, anh đã cuỗm một số tiền nho nhỏ, một ít đồ đạc và ba chiếc kẹp từ thời Victoria rất đẹp, mà mẹ của Rebecca chưa biết là bà đã mất các thứ này.
Theo anh ta, thì ăn cắp của những hạng người như thế này không có gì là vô đạo đức hết. Những người này không xứng được hưởng cảnh giàu sang. Hầu hết họ không làm việc gì cả. Có một số có địa vị xã hội, nhưng họ đã dùng quan hệ phe đảng để chiếm những chức vụ ngồi mát ăn bát vàng, đó là những nhà ngoại giao, những chủ tịch các công ty, các quan tòa hay đại biểu các đảng bảo thủ.
Ăn cắp của họ cũng như giết bọn Quốc xã Đức thôi, đây là công việc phục vụ nhân dân chứ không phải tội lỗi.
Anh làm như thế từ hai năm nay và anh biết công việc này không thể kéo dài mãi được. Xã hội thượng lưu nước Anh rộng mênh mông nhưng cũng giới hạn, cuối cùng thế nào người ta cũng sẽ tìm ra tông tích của anh. Ngay lúc anh đang định kiếm một công việc gì khác để làm ăn sinh sống, thì chiến tranh bùng nổ.
Tuy nhiên anh sẽ không đầu quân vào làm lính trơn. Thực phẩm đã tầm thường mà áo quần lính lại còn thô tháp, rồi đời sống trong quân ngũ khắc nghiệt, dữ dội, không thích hợp cho anh chút nào hết. Ngoài ra, đi bộ binh phải mặc ka ki, mà anh mặc ka ki trông rất tệ. Cho nên anh muốn trở thành sĩ quan Không quân Hoàng gia Anh. Anh chưa biết cách làm sao để trở thành sĩ quan không quân, nhưng thế nào anh cũng đạt được ý nguyện, vì anh là người thường gặp may mắn.
Trong lúc chờ đợi thời cơ, anh quyết định sử dụng Rebecca để giới thiệu anh lần chót với một nơi giàu sang, trước khi anh bỏ rơi cô ta.
Hai người đến tham dự buổi tiếp tân vào buổi tối tại khách sạn sang trọng ở Belgravia, nơi ngài Simon Monford đang ở, ông ta là một nhà xuất bản giàu có.
Harry nghỉ ngơi một lát với cô Lydia Moss, con gái của một bá tước Tô Cách Lan, cô ta béo phì và khả kính. Cô ta vụng về, đơn độc, nên anh trổ tài tán tỉnh cô ta không mấy khó khăn. Anh chuyện trò với cô chừng 15 hay 20 phút, thời gian đại khái như bao lần trước anh thường dùng để tán tỉnh con gái. Rồi anh đến nói chuyện với Rebecca để khỏi làm phật ý cô này. Sau đó, anh thấy đã đến lúc hành động.
Anh xin lỗi để ra khỏi phòng. Buổi tiếp tân diễn ra trong phòng khách rộng rãi ở tầng lầu một. Khi anh đi qua hầm cầu thang và lén lút đi lên thang lầu, anh thấy hồi hộp vô cùng như mỗi khi anh ra tay làm ăn. Cứ nghĩ đến chuyện đi ăn trộm của chủ nhà, lòng anh lại nôn nao sợ bị bắt tại trận và bỉ tố cáo là kẻ gian phi, anh vừa lo sợ lại vừa phấn khích.
Anh đi lên tầng trên, men theo hành lang dẫn đến phía trước nhà. Cánh cửa nằm ở cuối hành lang có lẽ là cửa mở vào phòng ngủ của chủ nhân, anh nghĩ thế Anh mở cửa ra, thấy một căn phòng rộng lớn có treo màn bằng vải hoa và một chiếc giường phủ màu hồng. Anh định vào trong phòng thì bỗng một cánh cửa khác mở ra và có tiếng hỏi xẵng:
– Kìa, làm gì thế?
Harry quay người lui, rất căng thẳng. Anh thấy một thanh niên cỡ tuổi anh đi tới trên hành lang, đưa mắt ngạc nhiên nhìn anh.
Như mọi lần khác, hễ mỗi lần anh cần nói cái gì là lời nói tuôn ra một cách rất tự nhiên.
– À có phải chỗ này không?
– Chỗ gì?
– Có phải đây là phòng vệ sinh không?
Mặt người thanh niên bỗng lộ vẻ vui tươi:
– Ồ, thì ra thế. Anh đi đến chỗ có cánh cửa màu xanh nằm ở cuối hành lang đằng kia kìa.
– Rất cám ơn.
– Không sao.
Harry đi dọc theo hành lang. Anh nói:
– Nhà đẹp quá – Đẹp ư? - Người thanh niên hỏi, rồi đi xuống cầu thang và biến mất.
Harry mỉm cười khoan khoái. Đôi lúc có người quá dễ tin.
Anh quay lại, vào căn phòng màu hồng. Phòng này trông như một căn hộ.
Màu sắc trong phòng khiến anh nghĩ là mình đang đứng trong phòng của Bà Monkford. Nhìn quanh, anh thấy có phòng để móc áo quần khăn mũ ở bên cạnh, phòng này cũng trang hoàng màu hồng, rồi anh thấy có một phòng nữa nhỏ hơn, trong phòng có kê ghế bành bọc da và trang hoàng bằng giấy có sọc tiếp theo đó là phòng móc áo quần đàn ông. Trong xã hội thượng lưu, những cặp vợ chồng thường có phòng riêng, theo chỗ Harry biết thì thế. Anh chưa dám khẳng định họ ngủ riêng là vì họ ít dâm dật hơn giới thợ thuyền, hay họ nghỉ riêng là vì họ có nhiều phòng trong nhà quá rộng lớn.
Phòng áo quần của ngài Simon gồm có một cái tủ lớn bằng gỗ gụ và một tủ con mất cân xứng. Harry mở ngăn kéo đầu tiên ở tủ con mốt. Trong ngăn kéo có một cái hộp nhỏ bằng da đựng đồ nữ trang, trong hộp đựng nút áo, kim găm cài cổ áo và nút tay áo, để lộn xộn. Hầu hết các thứ đều tầm thường, nhưng con mắt nhà nghề của Harry chú ý đến cặp nút tay áo xinh xắn bằng vàng có gắn những viên hồng ngọc nho nhỏ. Anh cho cặp nút này vào túi. Bên cạnh cái hộp, có cái ví da đựng 50 bảng bằng những tờ giấy bạc 5 bảng. Harry lấy 20 bảng, anh cảm thầy hài lòng. Thật dễ, anh ta nghĩ. Muốn có 20 bảng, nhiều người phải làm việc trong nhà máy bẩn thỉu hai tháng trời mới. có được.
Anh không bao giờ lấy hết. Lấy hết khiến người ta sinh nghi. Một ít, họ sẽ nghĩ họ đã làm mất đồ nữ trang đâu đó hay là lầm lẫn số tiền có trong ví, cho nên họ không thể thông báo bị mất cắp được.
Anh đóng ngăn kéo lại rồi đi qua phòng phu nhân Monkford. Anh đã định bỏ đi với chiến lợi phẩm vừa kiếm được, nhưng lại muốn nấn ná thêm vài phút.
Phụ nữ thường có đồ nữ trang quí giá hơn đàn ông. Phu nhân Monkford có lẽ có ngọc xa phia, mà Harry thì rất thích loại ngọc này.
Trời đẹp nên có một cánh cửa sổ mở rộng. Harry đưa mắt nhìn, anh ta thấy một ban công nhỏ có lan can uốn. Anh vội đi vào phòng để áo quần và ngồi vào bàn trang điểm. Anh mở hết các ngăn kéo ra, thấy có nhiều hộp và đĩa đựng đồ nữ trang. Anh liền vội vàng lục xem, tai cố lắng nghe tiếng động nơi cửa.
Phu nhân Monkford không sành về đồ trang sức. Bà ta đẹp nhưng vô duyên, và bà - hay chồng bà - chọn đồ nữ trang lòe loẹt nhưng ít có giá trị. Ngọc trai thì không cân xứng, trâm cài tóc thô xấu, hoa tai nặng nề và vàng đeo tay không hấp dẫn. Anh cảm thấy thất vọng.
Anh đang đắn đo trước cái mề đay xinh xắn thì bỗng anh nghe có tiếng cửa phòng mở. Anh khựng lại, ruột đau thắt, suy tính cách hành động.
Căn phòng chỉ có một cánh cửa duy nhất. Phòng có một cánh cửa sổ nhỏ, nhưng cửa đóng và có lẽ anh không thể nào mở kịp mà không gây tiếng động.
Anh phân vân tự hỏi không biết trốn vào tủ treo áo có kịp không.
Từ chỗ ngồi, anh không thấy cửa phòng. Anh nghe cửa đóng lại, rồi có tiếng đàn bà ho và tiếng bước chân nhẹ nhàng đi trên thảm. Anh cúi nhìn vào tấm gương soi trên bàn trang điểm. Với tư thế như thế này, anh thấy khắp cả phòng.
Phu nhân Monkford đi về phía phòng để áo quần. Anh không có thì giờ đóng các ngăn kéo lại nữa.
Anh hơi hồi hộp. Anh cảm thấy sợ, nhưng anh đã từng gặp hoàn cảnh nguy hiểm như thế này rồi. Anh đợi một lát, cố lấy bình tĩnh rồi quyết hành động.
Anh đứng dậy, đi nhanh qua cánh cửa vào phòng và nói:
– Thì ra là thế!
Phu nhân Monkford dừng lại giữa phòng. Bà ta lấy tay bịt miệng và thốt lên nho nhó.
Trước cánh cửa sổ mở rộng, tấm màn bằng vải hoa bay lất phất trong cơn gió nhẹ, Harry bỗng nảy ra một ý trong óc.
– Thì ra là thế, anh lặp lại, cố lấy giọng kinh ngạc.
– Tôi vừa thấy có người nhảy qua cửa sổ ở phòng bà.
Bà ta thốt ra lời:
– Anh nói cái gì? Và anh làm gì trong phòng tối?
Harry đóng kịch, anh ta chạy đến cửa sổ, nhìn ra ngoài rồi nói:
– Đi mất rồi?
– Xin anh vui lòng cho tôi biết chuyện gì thế?
Harry hít vào một hơi thật dài, như thể anh muốn có thì giờ để sắp xếp các tình tiết cho mạch lạc. Bà Monkford tuổi khoảng 40, mặc chiếc áo dài bằng lụa xanh. Nếu anh giữ được bình tĩnh, anh có thể hoàn thành được kế hoạch. Miệng nhoẻn cười tự tin, anh đóng vai trò một chú học trò khôn lớn, đầy nhiệt huyết, chơi bóng bầu dục say sưa - chắc bà rất thích nhân vật này - rồi anh bắt đầu trổ tài.
– Thật tôi chưa bao giờ thấy một việc như thế này. Tôi đang ở trong hành lang thì một anh chàng trông có vẻ kỳ lạ thò đầu ra khỏi cửa này. Hắn trông thấy tôi liền thụt đầu vào trốn trong phòng. Tôi biết đây là phòng bà, vì chính tôi đã vào đây để tìm phòng vệ sinh. Tôi tự hỏi không biết anh chàng này muốn gì.Anh ta không có vẻ là gia nhân của bà mà chắc cũng không phải là khách được mời. Cho nên tôi bước vào phòng bà để hỏi hắn. Khi tôi mở cửa, hắn nhảy qua cửa sổ Rồi để giải thích về việc các ngăn kéo ở bàn trang điểm còn để mở, anh ta nói tiếp:
– Tôi vừa đến nhìn xem trong phòng để áo quần của bà, tôi sợ hắn lấy đồ nữ trang của bà.
Tuyệt đấy, anh ta nhủ thầm, đáng phục đấy; chắc mình đóng kịch cho dài truyền thanh được rồi đấy.
Bà ta đưa tay áp lên trán.
– Ồ kinh khủng quá! - Bà nói, giọng yếu ớt.
– Bà nên ngồi xuống cho khỏe, - Harry nói với vẻ ân cần. Anh theo bà đến chiếc ghế nhỏ màu hồng.
– Tôi nghĩ, nếu anh không làm cho hắn sợ chạy trốn thì thế nào khi tôi vào đây hắn vẫn còn trong phòng: Chắc tôi xỉu mất. - Bà nắm bàn tay của Harry và bóp thật mạnh. - Tôi rất cám ơn anh.
Harry cố nén nụ cười. Một lần nữa, anh thoát nạn. Anh suy nghĩ một lát. Điều anh mong muốn là làm sao để bà ta đừng nói với ai chuyện này hết. Anh bèn nói với bà:
– Thưa bà, tôi mong sao bà đừng nói gì về chuyện này với Rebecca, được không. Cô ấy có tính hay lo, cho nên nếu cô ấy biết được chuyện này, chắc thế nào cô ấy cũng lo buồn, mất ăn mất ngủ đến hàng tuần chưa hết.
– Tôi cũng thế, - bà Monkford đáp. - Hàng tuần chưa hết lo.
Bà rất hoang mang, vẻ nghi ngại khi nghe anh ta nói cô Rebecca hộ pháp của bà yếu thần kinh như thế.
– Có lẽ bà nên mời cảnh sát đến để điều tra vụ này, nhưng như thế cuộc vui buổi tối sẽ hỏng mất, - anh nói tiếp.
– Ôi, trời ơi ... Thế thì khủng khiếp quá. Nhưng có nên mời cảnh sát đến không?
– Nên mời ... - Harry đáp, cố không để lộ sự vui mừng qua giọng nói. - Nhưng cũng còn tùy thuộc vào các thứ mà thằng vô lại kia đã lấy. Tại sao bà không đi xem coi bà đã mất gì?
– Ôi, lạy Chúa, phải rồi, phải xem thử có mất gì không ?
Harry bóp mạnh tay bà để khuyến khích, rồi đỡ bà đứng lên.
Hai người đi đến phòng để áo quần. Bỗng bà giật mình khi thấy các ngăn kéo bị mở toang ra hết. Harry kéo chiếc ghế bành đến cho bà ta ngồi. Bà ngồi xuống, nhìn xem các đồ nữ trang. Một lát bà nói:
– Hắn ta không lấy gì hết.
– Có lẽ tôi đã làm cho hắn giật mình mà không kịp lấy đấy.
Bà ta lục lọi kiểm tra các vòng đeo tay và trâm cài tóc Bà đáp:
– Phải, chắc thế. Anh thật kỳ diệu.
– Nếu bà không mất gì, bà không cần phải nói cho ai biết cả thì hơn.
– Nhưng tất nhiên là phải nói cho ngài Simon biết.
– Đương nhiên rồi, dù ông ấy không muốn thế.
– Theo tôi thì bà nên để xong buổi tiếp tân đã rồi hãy nói. Như thế, bà không làm cho buổi dạ tiệc mất vui.
– Ý kiến tuyệt vời! - Bà ta đáp với một giọng đầy biết ơn.
Mọi việc đều diễn ra rất hoàn hảo. Harry khoan khoái trong lòng, anh cảm thấy tình hình bây giờ đã tốt đẹp, thuận lợi, anh nói:
– Bây giờ tốt hơn là tôi nên xuống dưới để bà nghỉ ngơi một lát. - Anh cúi người hôn phớt lên má bà.
Bỗng anh thấy bà đỏ mặt. Anh thì thào bên tai bà:
– Tôi thấy bà thật hết sức can đảm. - Nói xong, anh đi ra khỏi phòng.
Phụ nữ vào tuổi trung niên nhiều khi còn dễ bị phỉnh phờ hơn cả con gái của họ nữa, anh tự nhủ. Khi ra ngoài hành lang vắng vẻ, anh soi bóng mình vào gương. Anh dừng lại sửa chiếc nơ bướm trên cổ và nhìn bóng mình, mỉm cười chiến thắng, thầm nhủ:
“Harold, mày là thằng quỷ sứ”.
Buổi tiếp tân kết thúc. Khi Harry trở lại phòng khách, Rebecca cau có hỏi anh:
– Anh đi đâu nãy giờ?
– Anh đi nói chuyện với bà chủ nhà chứ đi đâu.
– Bà ấy gặp chuyện đáng buồn. Chúng ta đi chứ?
Anh ra khỏi nhà với cặp nút tay áo quí và 20 bảng của chủ nhà trong túi.
Họ đón tắc xi ở Quãng trường Belglave để đến nhà hàng ăn uống ở Piccadilly. Harry rất thích các nhà hàng sang trọng: anh cảm thấy sung sướng khi được ngồi trong này, được nhìn những chiếc khăn bàn hồ cứng, được thấy ly tách sáng bóng, được xem những tờ thực đơn bằng tiếng Pháp và được những ông quản lý khách sạn tiếp cung kính. Bố anh chưa bao giờ được thấy cảnh bên trong các nhà hàng như thế này. Mẹ anh thì có lẽ có thấy, nếu bà có đến làm việc ở những nơi này. Anh gọi một chai sâm banh, xem xét rất kỹ danh sách các thứ rượu vang, rồi chọn một chai được sản xuất vào thời điểm mà anh biết rất ngon nhưng không hiếm, để giá tiền không cao quá.
Khi anh dẫn các cô vào nhà hàng, anh đã mắc phải một số sai lầm; nhưng anh ý thức được việc này liền. Mưu mẹo hữu dụng nhất là anh không mở xem thực đơn mà hỏi bồi bàn:
“Tôi muốn ăn cá bơn, nhà hàng có không”. Anh bồi bàn sẽ mở tờ thực đơn ra và chỉ cho anh thấy dãy thức ăn viết bằng tiếng Pháp:
Cá bơn tẩm bột chiên, cá nục róc xương nấu với xốt tác-ta và cá bơn nướng vĩ, rồi thấy anh ngần ngừ, anh bồi liền đưa ý kiến:
“Cá đục ngon lắm, thua ông”.
Harry rất sành các thức ăn ghi bằng tiếng Pháp trên thực đơn. Anh thấy nhiều người thường đến ăn trong các nhà hàng như thế này luôn luôn hỏi người phục vụ các món ăn viết bằng chữ Pháp, vì người Anh giàu có không cần phải biết tiếng Pháp. Cho nên, khi họ ăn trong các nhà hàng, họ cần có người dịch ra cho họ biết; và bây giờ anh có thể đọc thực đơn bằng tiếng Pháp giỏi hơn những thanh niên con nhà giàu cùng trang lứa. Rượu thì không có gì khó khăn. Những người phụ trách bán rượu trong nhà hàng thường rất sung sướng khi Được khách hỏi ý kiến, họ không ngờ anh là một thanh niên biết hết tất cả các lâu đài sản xuất rượu, biết hết tên các thứ rượu ngon và ngày sản xuất. Trong các nhà hàng cũng như trong cuộc sống, muốn mưu mẹo thành công thì phải có phong thái tự tại, thản nhiên, nhất là khi mình không phải là người giàu có.
Rượu anh chọn thật ngon, nhưng tối hôm ấy anh không được vui, và anh thừa biết điều không làm cho anh vui là Rebecca. Anh thường mong muốn được dẫn cô nào xinh đẹp vào nhà hàng sang trọng như thế này. Nhưng thường anh chỉ dẫn đi những cô không ra gì: cô thì xấu, cô thì cục cằn, cô thì mặt đầy mụn, cô thì ngu ngốc. Làm quen những cô như thế này thật dễ; rồi khi họ đã say mê anh rồi, họ chỉ yêu cầu anh một việc là phải trung thành với họ, họ bất cần tìm hiểu con người anh vì họ sợ mất anh. Đây là chiến thuật lý tưởng để anh xâm nhập vào các gia đình giàu có. Nhưng buồn thay là anh chỉ chài được các cô mà anh không vừa ý. Có lẽ một ngày nào đó ...
Tối đó Rebecca có vẻ buồn. Có nhiều lý do khiến cô ta phật ý. Có lẽ cô phân vân không biết tại sao đã đi chơi với nhau suất ba tuần rồi mà Harry không đi xa hơn, không sờ soạng gì cô hết. Sự thực thì anh ta không có vẻ ham muốn cô.
Anh có thể làm cho cô vui, có thể buông lời cợt nhã, làm cho cô cười và khiến cho cô yêu anh; nhưng anh không có vẻ ham muốn cô. Có một lần anh ở trong vựa lúa với một cô gái mảnh khảnh. Và anh đã hết sức kiềm chế mình để khỏi phải phá trinh cô ta, nhưng cơ thể anh đã hết sức rạo rực, mỗi lần nói đến chuyện ấy là anh lại cảm thấy khó chịu.
Thục ra thì chuyện tình dục của anh hầu như chỉ xảy ra với các cô gái cùng giai cấp xã hội với mình và không có cuộc tình nào bền lâu hết. Chỉ có một lần anh gian thú với một phụ nữ lớn tuổi ở Bond Street, bà ta là vợ của một luật sư, ông thì bận rộn công việc, còn bà thì vô công rồi nghề, và họ yêu nhau suốt hai năm trời. Anh học hỏi ở bà này rất nhiều về nghệ thuật làm tình, bà ta đã dạy cho anh cách thích thú với thái độ của một người thuộc xã hội thượng lưu, xã hội mà anh đã lén lút đồng hóa vào; và họ đã nằm trên giường với nhau để đọc thơ, bình thơ. Harry cảm thấy thương mến bà ta rất nhiều. Thế rồi bà ta chấm dứt mối tình với anh một cách đột ngột và không báo trước, khi chồng bà ta phát hiện ra bà có người tình ông ta không biết người đó là ai. Từ đó, Harry gặp hai người nhiều lần: bà vợ nhìn anh ta như nhìn một kẻ xa lạ. Harry thấy việc này quá độc ác. Bà ta đã quá tin vào anh và có vẻ mong anh thông cảm. Bà ta là một người có ý chí mạnh hay thiếu con tim .Có lẽ không bao giờ anh biết được.
Rượu ngon đắt tiền không làm cho Harry lẫn Rebecca hết buồn. Anh bắt đầu cảm thấy bực bội. Anh đã có ý định sau đêm nay sẽ bỏ rơi cô một cách êm thấm, nhưng bây giờ anh thấy không thể nào chịu đựng được cảnh ngồi với cô cho hết buổi như thế này. Anh ân hận việc anh phung phí tiền bạc để mời cô đi ăn tối. Anh nhìn bộ mặt quàu quạu của Rebecca, mặt cô không trang điểm trông phèn phẹt đội chiếc mũ lông nhỏ kỳ cục, anh bỗng thấy ghét cô.
Khi họ ăn xong tráng miệng, anh gọi cà phê rồi đi đến phòng vệ sinh. Phòng để áo mũ nằm gần bên phòng vệ sinh nam, gần cửa đi ra, ngồi ở bàn ăn của họ không thấy cửa này. Harry muốn bỏ về ngay tức khắc anh bèn lấy mũ, cho bà giữ phòng để áo mũ tiền bo, rồi lặng lẽ ra khỏi nhà hàng.
Trời đêm êm dịu. Vì có lệnh che hết ánh sáng nên trời tối thui, nhưng Harry rất rành khu West End và nhờ có những bảng hiệu sáng ở các ngã tư nên anh biết đường để đi, đó là chưa kể có ánh sáng yếu ớt của các xe hơi chạy qua. Anh cớ cảm giác như một người học trò bị đuổi học. Anh đã thoát khỏi được Rebecca, đã tiết kiệm được 7 hay 8 bảng và được một buổi tối thảnh thơi, tất cả chỉ nhờ một ý nghĩ bất chợt nảy ra trong óc anh hồi nãy.
Các rạp hát, rạp xi nê và vũ trường đều phải đóng cửa theo lệnh của chính quyền “cho đến khi chấm dứt sự đe dọa tấn công của quân Đức lên Anh Quốc”, người ta nói thế. Nhưng những hộp đêm vẫn thường xuyên hoạt động bất hợp pháp, cho nên nếu biết tìm kiếm thì người ta sẽ có được nhiều nơi để đến.
Chẳng bao lâu sau, Harry ngồi chễm chệ tại một chiếc bàn trong một hộp đêm ở Soho, nhấm nháp whisky, nghe một ban nhạc Jazz danh tiếng của Mỹ, vừa nghĩ cách để ve vãn cô bán thuốc lá.
Harry đang suy nghĩ thì anh trai của Rebecca bước vào.
Sáng hôm sau, khi ngồi trong phòng giam dưới tầng hầm của tòa án, lòng đau đớn và ăn năn hối hận, anh đợi giờ xuất hiện trước các quan tòa. Ruột gan anh rối bời. .
Bỏ nhà hàng ăn ra về như thế quả là một hành động ngu ngốc. Rebecca không phải là hạng người chịu bỏ lòng kiêu hãnh để lặng lẽ trả tiền bữa ăn. Cô ta đã làm to chuyện, người quản lý khách sạn báo cảnh sát, gia đình Rebecca đến ... Những chuyện như thế này cần phải tránh mới phải. Thế nhưng, nếu Harry không gặp rủi ro bất thần, là sau đó hai giờ đụng đầu phải anh trai của Rebecca, thì chắc anh đã thoát được rồi.
Anh ở trong phòng giam lớn với khoảng 15 đến 20 tù nhân khác, họ sẽ ra tòa sáng nay với những tội phạm có quả tang. Phòng không có cửa sổ và đầy khói thuốc lá. Hôm nay chắc người ta không xử Harry mà chỉ là phiên tòa hỏi cung mở đầu thôi.
Rõ ràng thế nào người ta cũng buộc tội anh. Những bằng cớ để buộc tội anh không thể nào chối cãi được. Người trưởng nhóm bồi bàn sẽ xác nhận những lời kêu ca của Rebecca, và ngài Simon Monkford sẽ nhận ra cặp nút tay áo.
Nhưng chuyện tồi tệ nhất cho anh đã diễn ra rồi. Harry đã bị một thanh tra cảnh sát hình sự thẩm vấn. Ông ta mặc bộ đồng phục của giới thanh tra cảnh sát thường mặc, bộ com lê vải xẹc dày dặn, sơ mi trắng và cà vạt đen, áo di-lê không có dây đeo đồng hồ và giày đánh láng bóng; ông ta là loại cảnh sát giàu kinh nghiệm, nhanh trí và đa nghi. Ông ta nói:
– Từ hai ba năm nay, thỉnh thoảng chúng tôi nhận được những lời báo cáo xuất phát từ những gia đình giàu có cho biết họ đã “mất” một số nữ trang. Dĩ nhiên là không phải bị ăn cắp. Chỉ biến mất thôi. Những chiếc vòng đeo tay, những đôi hoa tai, những chiếc mề đay đeo ngục, nút áo ... Những người mất các thứ này cam đoan rằng đồ nữ trang của họ không phải bị ăn trộm, vì chỉ có khách mời của họ mới có cơ hội để lấy các thứ này. Lý do khiến họ đi báo những thứ bị mất này, là họ chỉ muốn lấy lại chúng, nếu có người nào thấy chúng ở đâu đó.
Harry không nói một tiếng, nhưng anh cảm thấy rất đau khổ. Mãi cho đến bây giờ, anh cứ đinh ninh rằng nghề của anh hành thông, không một ai trông thấy. Bây giờ anh rất kinh hoàng khi biết sự thể trái ngược hẳn: thỉnh thoảng có lúc người ta đã theo dõi anh.
Ông thanh tra mở tập hồ sơ ra.
– Bá tước Dorset mất một cái hộp đựng kẹo bằng bạc có từ thế kỷ XVIII và một cái hộp đụng thuốc lá bằng sơn mài cũng từ thể kỷ 18. Bà Harry Jaspers, một chiếc vòng bằng ngọc trai có khuy bằng hồng ngọc mua tại cửa tiệm Tlffany. Bà Bá tước Malvoll, mất một mặt mề đay bằng kim cương của tiệm Art Deco gắn trên sợi dây chuyền bằng bạc. Tên nào lấy các thứ ấy có khiếu thẩm mỹ đầy chứ. Nhà thám tử dán mắt vào những hạt nút kim cương đính trên ngực áo của Harry.
Harry biết hồ sơ này ghi những thứ bí mật do anh lấy. Anh nghĩ thế nào rồi anh cũng bị buộc tội đã lấy ít ra là một số đồ trong số này. Cái lão thanh tra khôn ranh này đã thu thập những yếu tố căn bản đủ để buộc tội anh. Ông ta không khó khăn gì trong việc tìm ra những nhân chứng để người ta cũng sẽ đến lục tìm chỗ anh ở tại nhà mẹ anh. Phần nhiều đồ nữ trang này anh đã bán cho người mua đồ ăn cắp, nhưng anh vẫn còn giữ lại một vài món:
những hạt nút kim cương mà ông cảnh sát đã thấy trên người anh, thứ này anh lấy của một người say ngủ gà ngủ gật trong buổi dạ vũ ở Quãng trường Grosvener, và mẹ anh có một chiếc kim cài áo mà anh đã khéo léo xoáy trên áo của một bà công tước tại một tiệc cưới trong vườn nhà Surrey. Ngoài ra, khi họ hỏi anh sống bằng cách gì thì anh biết trả lời sao?
Chắc là anh sẽ phải ở tù một thời gian. Và khi ra khỏi tù, thế nào anh cũng bị gọi nhập ngũ, và ở trong quân ngủ thì chẳng khác gì ở tù. Nghĩ đến chuyện ấy, anh thấy lạnh cả người.
Anh ngoan cố không chịu nói một tiếng, thậm chí khi ông thanh tra thộp lấy ve áo vét tông của anh đẩy anh sát vào chân tường anh cũng không nói; nhưng sự im lặng chắc không cứu được anh. Công lý thế nào cũng buộc tội anh.
Harry chỉ còn một cách để có thể được tự do, đó là thuyết phục các quan tha cho anh đóng tiền bảo chứng để được tại ngoại, rồi biến mất. Bỗng anh tha thiết mong muốn được tự do, như thể anh đã bị tù nhiều năm chưa được ra ngoài bao giờ.
Biến đi không phải dễ dàng gì, nhưng nghĩ đến chuyện này khiến anh nôn nao trong dạ.
Khi sống bằng nghề xoáy của kẻ giàu, anh đã quen nếp sống của họ: anh ngủ dậy trước, uống cà phê bằng tách sứ, mặc áo quần đẹp, ăn tại những nhà hàng lớn. Anh lại còn thích học đòi cuộc sống trưởng giả của họ, đi uống rượu với bạn cố tri hay là dẫn mẹ đi xem hát ở nhà hát Odéon. Cho nên khi nghĩ đến nhà tù là anh không làm sao chịu nổi; sống trong tù là sẽ mặc áo quần dơ bẩn, thức ăn khổ cực, sống chung lộn, và tệ hơn hết là cứ lo sợ về một cuộc sống vô vọng.
Anh rùng mình ghê sợ, bèn tập trung tư tưởng vào việc tiến thế chân. Dĩ nhiên là cảnh sát sẽ chống đối việc này, nhưng người quyết định là các quan tòa. Harry chưa bao giờ ra tòa, nhưng anh biết rết rõ đường đi nước bước những chuyện xảy ra trong các phiên tòa như người ta biết chuyện ai có thể được vào ở trong nhà tế bần hay biết cách thông ống khói như thế nào. Tòa án chỉ không chịu cho nộp tiền bảo chứng đối với các tội sát nhân mà thời. Còn ngoài ra, việc đóng tiền tại ngoại hậu tòa này đều tùy thuộc vào các quan tòa.
Thường thường, họ làm theo lời yêu cầu của cảnh sát, nhưng không phải là luôn luôn. Thỉnh thoảng họ nghe theo lời của một luật sư khéo léo, hay nghe theo lời bị cáo khi người này viện có gì đấy nghe rất thảm thiết, như có con đau nặng chẳng hạn. Thỉnh thoảng gặp một quan tòa kiêu ngạo, cũng chấp nhận cho bị cáo được tại ngoại hậu tra, bởi lẽ họ muốn chứng tỏ họ độc lập, không lệ thuộc vào công tố viên. Anh phải tìm một ít tiền mới được, có lẽ 25 hay 50 bảng. Việc này không khó khăn với anh. Anh có nhiều tiền. Họ đã cho phép anh gọi điện thoại, anh đã gọi người bán báo ở góc đường nơi mẹ anh ở, và anh đã nhờ Berlùe, người chủ sạp báo, cho một nhân viên đi tìm mẹ anh. Khi mẹ anh đến, anh sẽ chỉ cho bà biết chỗ để lấy tiền.
Anh đã nói chắc nịch với mẹ:
– Họ bằng lòng cho con đóng tiền thế chân để được tại ngoại hầu tra.
– Mẹ biết, con à, - mẹ anh đáp. - Con luôn luôn gặp may mắn.
– Và nếu không thì ...
Mình thường vượt qua được nhiều hoàn cảnh rất khó khăn, - anh tự nhủ với lòng tràn đầy tin tưởng. Chuyện này xét ra cũng chẳng khó khăn gì. Người cai ngục gọi lớn:
– Marks!
Harry đứng dậy. Anh chưa chuẩn bị được những điều anh định nói:
anh thích ứng khẩu. Nhưng anh vẫn ân hận đã không nghĩ đến cách biện hộ. Phải thực hiện cho được việc này, anh lo lắng tự nhủ. Anh gài nút áo vét sửa lại cái nơ và kéo vuông vải phin trong túi áo trên ngực cho ngay ngắn. Anh thoa cằm và ân hận là họ không cho phép anh cạo râu. Đến giờ phút chót, kế hoạch hành động mới nảy sinh trong óc anh, anh tháo cặp nút tay áo sơ mi ra, cất vào túi.
Người ta mở cửa song sắt và anh bước ra.
Họ dẫn anh lên chiếc cầu thang đúc bê tông, chỉ cho anh ngồi vào ghế bị cáo ở giữa phòng xử án. Trước mặt anh, chiếc ghế dành cho luật sư không có người ngồi, ông thư ký tòa án ngồi ở bàn và tòa gồm có ba ông quan tòa không chuyên nghiệp.
Hany tự nhủ:
- Lạy Chúa, mình hy vọng những thằng khốn nạn này sẽ để cho mình được ra về.
Ở bàn báo chí kế bên phòng xử, anh thấy một phóng viên còn trẻ cầm sẵn sổ ghi chép trên tay. Harry quay lui nhìn xuống cuối phòng, nơi dành cho công chúng. Anh thấy mẹ anh, bà mặc chiếc măng tô đẹp nhất và đội một cái mũ mới.
Bà vỗ vào túi áo với vẻ như muốn báo cho anh biết đã có mang theo tiền:
Harry biết bà đã mang theo tiền cho anh nộp tiền thế chân. Anh hoảng sợ khi thấy bà mang chiếc kim cài áo mà anh đã ăn cắp ở nhà bà công tước Eyer.
Anh quay lại phía các quan tòa, hai tay vịn vào lan can để khỏi run. Công tố viên là một cảnh sát có đầu hói với cái mũ bự, ông ta nói:
– Thưa quí ngài, tội nhân số ba: Ăn cắp hai mươi bảng tiền mặt và một cặp nút tay áo bằng vàng giá trị đến 15 ghi nê, chủ nhân là ngài Simon MonkFord; và bị bắt quả tang về tội ăn quịt tại nhà hàng Saint Raphael ở khu Piccadilly.
Bên cảnh sát yêu cầu tòa tạm giam tội nhân, vì chúng tôi đang điếu tra những tang chứng có trị giá rất lớn.
Harry quan sát thật kỹ các ông quan tòa: một bên là một ông già có hai chòm râu bạc hai bên má, chiếc cổ áo hồ cứng, người bên kia có vẻ là một cựu quân nhân vì ông ta đeo chiếc cà vạt có màu cờ của trung đoàn mình:
cả hai nhìn xuống anh với ánh mắt như muốn nói rằng tất cả những ai bị đưa ra trước mặt họ, đều đã có phạm tội gì đó. Anh cảm thấy hoàn toàn thất vọng. Rồi anh tự nhủ rằng người có thành kiến ngu ngốc là người có thể thay đổi một cách dễ dàng từ chỗ có thành kiến đến chỗ dễ tin. Nếu anh muốn lừa được họ, tốt hơn hết là mong sao họ đừng tinh quái quá Ông chánh án, ngồi ở giữa, là người đáng kể nhất. Ông ta ở vào tuổi trung niên, chòm râu mép lốm đốm bạc, ông mặc bộ đồ màu xám, thái độ uể oải, khiến cho người ta nghĩ rằng từ nãy đến giờ ông đã nghe nhiều chuyện láo khoét và nhiều nguyên do biện bạch quá, đến nỗi ông không muốn nhớ nữa. Harry lo lắng nghĩ thầm:
- Chính ông này mới là người ta phải để ý dè chừng.
Ông ta hỏi Harry:
– Có phải anh yêu cầu được đóng tiền thế chân để được tại ngoại hậu tra không?
Harry làm ra vẻ bối rối.
– Ôi! Lạy Chúa lòng lành: Tôi muốn thế. Phải ... Tôi yêu cầu như thế.
Ba vị quan tòa ngồi thẳng người lên, ra vẻ hết sức lưu tâm khi nghe anh nói với một giọng mạch lạc như thế Harry mừng vì thấy kết quả khả quan. Anh có tài làm cho người ta bối rối, anh hãnh diện về cái tài này. Phản ứng của tòa làm anh yên tầm, mừng thầm. Mình đã thuyết phục được họ, anh nghĩ chắc mình sẽ thuyết phục được họ.
Ông chánh án nói tiếp:
– Thôi được rồi, anh có gì nói để tự biện hộ không?
Harry chăm chú nghe giọng nói của ông chánh án, cố sức để xác định vị trí của ông ta trong nấc thang xã hội. Anh tin chắc ông ta thuộc giai cấp tiểu tư sản.
Có lẽ là một dược sĩ, hay là giám đốc ngân hàng. Hẳn là ông ta có tài đấy, nhưng chắc đã có thói quen kính trọng những kẻ thuộc giai cấp thượng lưu.
Harry làm ra vẻ luống cuống rồi bắt chước giọng nói của cậu học trò nói với thầy hiệu trưởng, anh trả lời:
– Thưa ông chánh án, tôi e chuyện này quá mơ hồ.
Các vị quan tòa có vẻ quan tâm thêm lên, họ cựa mình trong ghế bành và chồm người tới trước với vẻ bị kích thích. Họ cảm thấy anh sắp nói điều gì đặc sắc, và họ vui sướng khi được thoát ra khỏi thủ tục thường lệ của họ. Harry nói tiếp:
– Xin thú thực với quý vị là có vài người bạn của tôi đã uống rum vang đỏ quá nhiều ở câu lạc bộ Carlton vào tối hôm qua, chính vì thế mới sinh ra chuyện như thế này. - Anh dừng lại một lát, như thể đấy là chính điều anh phải nói, anh đưa mắt nhìn tòa với vẻ hy vọng.
Ông quan tòa có vẻ là một cựu quân nhân lặp lại:
– Câu lạc bộ Carlton à? - Thái độ của ông ta rõ ràng cho thấy là ông chưa bao giờ gặp trường hợp các thành viên trong tổ chức đáng kính này phải ra trước tòa án hết.
Harry phân vân không biết anh nói như thế đã đủ chưa .Có lẽ người ta chưa chịu tin anh là thành viên của câu lạc bộ này. Anh bèn nói tiếp:
– Thật quá sức phiền phức, nhưng sau đó tôi liền xin lỗi quí vị trong câu lạc bộ ngay tức khắc và làm sáng tỏ vấn đề cho họ thấy ... - Anh làm ra vẻ như bỗng nhiên anh nhớ ra là mình đang mặc dạ phục, - tôi làm sáng tỏ vấn đề ngay sau khi tôi vừa thay áo quần xong.
Ông già hỏi:
– Anh muốn nói anh không có ý định lấy 20 bảng và cặp nút tay áo à?
Giọng ông ta có vẻ không tin, nhưng dù sao, được người ta đặt câu hỏi cũng là một dấu hiệu tốt. Có hỏi, tức là họ không loại bỏ những chuyện anh vừa kể ngay lập tức Nếu họ không tin lời anh vừa kể, chắc họ không thèm nhọc công hỏi thêm các chi tiết về việc này làm gì. Anh cảm thấy lòng nôn nao hy vọng có lẽ người ta sẽ thả anh ra.
Anh nói tiếp:
– Tôi đã mượn cặp nút áo vì tôi không mang theo nút tay áo. - Anh đưa hai cánh tay lên cho họ thấy hai ống tay áo sơ mi thòi ra ngoài tay áo vét không có cài nút.
Người già lại hỏi:
– Thế còn hai chục bảng?
Đây mới là chuyện khó nói, Harry lo lắng nghĩ thầm. Anh không nghĩ ra được sự giải thích nào nghe cho lọt tai. Người ta có thể quên nút măng sét và mượn đại cặp nút của ai đấy, nhưng mượn tiền mà không nói, tức là xem như ăn cắp rồi. Anh đang hoang mang bối rối thì tự nhiên trong óc anh lại nảy ra ý kiến mới.
– Tôi nghĩ là ngài Simon có thể đã nhầm lẫn số tiền ông ta đã có từ đầu ở trong ví. - Harry hạ thấp giọng, như tâm sự với các quan tòa để những người khác ngồi trong phòng không nghe được. - Thưa ông chánh án ông ta rất giàu mà.
Ông chánh án trả lời:
– Ông ta chắc không giàu được nếu quên mình có bao nhiêu tiền trong ví - Nhiều tiếng cười vang lên trong phòng. Không khí vui vẻ là một dấu hiệu đáng mừng cho anh, nhưng ông chánh án vẫn không cười: ông không có ý định nói chuyện khôi hài. Đúng ông ta là chủ ngân hàng rồi, Harry nghĩ:
người như ông ta không đùa bỡn với tiền bạc. Ông chánh án lại hỏi:
– Và tại sao anh không trả tiền ăn cho nhà hàng?
– Xin thú thực tôi hết sức đau đớn về chuyện này. Tôi đã cãi nhau rất kịch liệt với người ... với cô gái cùng đi ăn với tôi.
Harry làm ra vẻ cố kiềm hãm không nói tên người cùng đi ăn với mình: vì người cựu học sinh một trường trung học lớn không làm hại thanh danh một phụ nữ, và chắc các quan tòa đều biết ý đồ của anh. - Tôi đau đớn nhớ lại tôi đã bỏ ra ngoài mà quên thanh toán tiền ăn.
Ông chánh án nhìn anh qua cặp kính, ánh mắt đăm đăm, nghiêm khắc. Harry cảm thấy như có cái gì sai sót trong những điều anh vừa nói. Lòng anh thắt lại.
Anh đã nói gì thế nhỉ? Anh nhớ lại cách anh không trả tiền nhà hàng như thế là khiếm nhã. Trong giới thượng lưu, việc mắc nợ nhà hàng như thế này là bình thường, nhưng dưới mắt một giám đốc ngân hàng thì là một trọng tội. Anh hoảng hốt, anh có cảm giác như anh sắp thua cuộc vì một sai lầm nhỏ trong phán đoán. Anh vội vàng lắp bắp nói:
– Thưa ông chánh án, thật tôi hết sức vô trách nhiệm, và dĩ nhiên tôi phải đến đấy vào giờ ăn sáng để thanh toán cho nhà hàng. Nghĩa là nếu ông bằng lòng để cho tôi đi.
Không thể nói được ông chánh án có bằng lòng hay không.
– Theo chỗ tôi hiểu thì chắc anh nghĩ rằng khi anh đã giải thích xong những lời buộc tội, anh coi như đã dẹp bỏ phải không?
Harry thấy anh phải coi chừng, đừng có hấp tấp trả lời mỗi khi ông ta hỏi.
Anh cúi đầu làm ra vẻ bối rối.
– Tôi nghĩ lại, nếu quí tòa từ chối không dẹp bỏ lời tố cáo thì hẳn đây là một bài học cho tôi.
– Có lẽ thế đấy - ông chánh án nghiêm khắc nói.
Lão già khùng, Harry nhủ thầm; nhưng anh nghĩ tình hình như thế này, thậm chí họ có làm nhục anh đi nữa thì vẫn có thể có lợi cho anh hơn. Họ la mắng anh càng nhiều, khả năng bỏ tù anh càng ít.
– Anh muốn nói. thêm điều gì nữa không? – Ông chánh án hỏi.
Harry đáp, giọng nghẹn ngào:
– Thưa ông chánh án, tôi chỉ còn biết nói là tôi rất xấu hổ.
– Hừ. - Ông chánh án càu nhàu, vẻ hoài nghi, nhưng người có tác phong quân nhân thì gật đầu ra vẻ hài lòng.
Ba ông quan tòa hội ý nhau một lát, giọng nho nhỏ . Harry hồi hộp. Cứ nghĩ đến chuyện tương lai của mình nằm trong tay ba lão già này, anh cảm thấy khó chịu vô cùng. Anh mong sao họ bàn bạc nhanh và quyết định cho rồi. Khi anh thấy họ gật gù với nhau, anh bắt đầu hy vọng, anh biết chắc họ sắp công bố kết quả.
Ông chánh án ngước mắt lên nhìn anh rồi nói:
– Tôi hy vọng một đêm trong tù đã cho anh một bài học rồi.
Ôi, lạy Chúa, chắc họ sẽ thả mình ra, Harry nghĩ. Anh nuốt nước bọt rồi đáp:
– Đúng thế, thưa ông chánh án. Bất cứ giá nào tôi cũng không muốn trở lại đó.
– Hãy coi chừng đấy.
Im lặng một lát, rồi ông chánh án quay mắt khỏi Harry để nói lời trước tòa.
– Tôi không tuyên bố là chúng tôi tin vào những lời chúng tôi vừa nghe, nhưng chúng tôi nghĩ trường hợp này không cần phải tạm giam bị cáo.
Harry nhẹ nhõm cả người, anh cảm thấy như không đứng vững trên hai chân.
Ông chánh án công bố.
– Trường hợp này hoãn lại một tuần. Đóng tiền thế chân tại ngoại hậu tra là bảng.
Thế là Harry được tự do.
Anh nhìn đường sá với con mắt mới, như thể anh đã ở tù một năm rồi chứ không phải vài giờ. Luân Đôn đang chuẩn bị chiến tranh. Hàng chục quả bóng mạ bạc khổng lồ bay cao trên bầu trời để làm chướng ngại vật cho máy bay Đức. Các nhà máy và các công sở đều được chồng bao cát chung quanh để tránh thiệt hại do bom gây ra. Trong các công viên đều có những hầm trú máy bay mới và người nào người nấy đều mang bên hông mặt nạ ngừa hơi độc. Cứ nghĩ đến chuyện có thể chết bất thình lình khiến cho mọi người bỏ tính dè dặt, bảo thủ, mà hòa nhã nói chuyện với nhau thân thiện.
Harry không biết gì về Trận Đại chiến hết, khi chiến tranh chấm dứt thì anh mới được hai tuổi. Khi còn nhỏ, anh cứ tưởng Chiến tranh là một địa danh, vì anh thường nghe người ta nói “bố cháu chết ở chiến tranh”, cũng như anh thường nghe họ nói “ra chơi ở công viên đi, coi chừng kẻo té xuống sông đấy, má đi đến quán rượu rồi”. Sau này, khi đã khôn lớn anh mới biết bố anh đã chết như thế nào, và từ đó anh cảm thấy ngán chiến tranh. Khi gian thú với Mariolie, vợ của ông luật sư, suốt hai năm trời anh thường đọc những thi phẩm viết về trận Đại chiến, và bỗng nhiên anh tự nguyện làm kẻ chủ trương hòa bình. Rồi anh thấy những kẻ mặc áo sơ mi đen đi diễu hành trong thành phố Luân Đôn, và thấy những khuôn mặt hốt hoảng của dân Do thái khi nhìn họ đi, anh bèn nghĩ rằng có lẽ chiến tranh như thế này không đáng công cho anh phải tham gia.
Cách đây mấy năm, anh đau đớn khi thấy chính quyền Anh quay mặt làm ngơ trước những việc diễn ra ở Đức, chỉ vì người ta hy vọng rằng Hitler sẽ tiêu diệt được Liên bang Xô Viết. Nhưng bây giờ chiến tranh đã xảy ra khốc liệt rồi, anh chỉ nghĩ đến những em bé rồi đây sẽ sống cuộc đời không có cha như anh.
Nhưng máy bay oanh tạc chưa thấy đến, ngày vẫn còn nắng ấm đẹp đẽ.
Harry quyết định không quay về chỗ ở của mình. Cảnh sát thế nào cũng tức giận vì thấy anh được đóng tiền bảo chứng để được tại ngoại hậu tra, họ sẽ chực có dịp anh sơ sót là thộp cổ ngay. Tốt hơn hết là nên lánh mặt đâu đó một thời gian. Nhưng anh phải sống trong cảnh canh chừng cho đến khi nào?
Anh lên xe đò với mẹ. Trước mắt, anh phải về nhà của bà ở Battersea đã.
Mẹ anh có vẻ buồn. Bà biết anh kiếm sống như thế nào rồi, mặc dù không bao giờ hai mẹ con đả động đến việc này. Bà nói với giọng trầm ngâm:
– Mẹ không thể cho con cái gì được.
– Mẹ đã cho con nhiều rồi, mẹ à, anh cãi lại.
– Nếu thế thì tại sao con còn đi ăn cắp?
Anh không trả lời được.
Khi xuống xe đò, anh vào sạp bán báo, cám ơn Bemle đã báo cho mẹ anh biết ngay khi nghe anh điện thoại đến, rồi mua tờ Daily Express. Tin quan trọng ở trang đầu thông báo:
BA LAN DỘI BOM BERLIN.
Vừa ra khỏi sạp báo, anh gặp một người cảnh sát đạp xe đi qua, bỗng anh hoảng hốt một cách ngu ngốc.
Anh quay gót chuồn nhanh không kịp trấn tĩnh để nhớ ra là thường muốn bắt ai người tà phải phái đi hai cảnh sát.
Mình không muốn sống như thế này, anh nghĩ.
Đến nhà mẹ, Harry vào phòng, lôi cái va li của anh dưới giường ra, đếm tiền.
Sau hai năm hoạt động sai trái, anh có được hai trăm bốn mươi bảy bảng.
Chắc mình đã chôm được ít ra cũng gấp bốn lần như thế này, anh nhủ thầm; không biết mình đã tiêu gì hết mà chỉ còn chừng này?
Anh lại còn xoáy được một tấm hộ chiếu Mỹ.
Anh lật tấm hộ chiếu ra xem, vẻ trầm ngâm. Anh nhớ đã thấy tấm hộ chiếu này trên bàn làm việc tại nhà một nhà ngoại giao ở Kensington. Anh chú ý thấy người mang hộ chiếu có tên Haroid, và nhìn tấm ảnh, anh thấy hao hao giống anh, cho nên anh liền cho vào túi.
Nước Mỹ, anh ngẫm nghĩ.
Anh có thể bắt chước giọng Mỹ. Anh biết những điểm khác nhau giữa hai giọng nói mà phần đông người Anh không lưu tâm đến: trong giọng Mỹ cũng có những điểm khác nhau, giọng nơi này nghe lịch sự hơn giọng nơi khác. Thí dụ chữ Boston chẳng hạn. Người dân ở Boston nói Bahston. Người ở New York thì nói, Baoston. ở Mỹ mà càng có vẻ dân Anh lại càng được người ta trọng vọng. Có hàng triệu người Mỹ giàu có chỉ đợi người Anh tán tỉnh.
Anh đã có hộ chiếu, có một ít tiền và có bộ đồ vía treo trong tủ của mẹ. Anh chỉ cần mua vài cái sơ mi và cái va li thôi. Cảng Southampton chỉ cách xa 120 mi vây số. Không có gì ngăn cản anh ra đi vào hôm nay được.
Thật như một giấc mơ.
Bỗng mẹ anh từ bếp gọi lên làm anh tỉnh mộng:
– Harry ... con muốn ăn bánh xăng uých nhân thịt heo không?
– Dạ ăn, cám ơn mẹ.
Anh vào nhà bếp, ngồi vào bàn ăn. Mẹ anh dọn bánh lên bàn cho anh, nhưng anh không đụng đến. Anh nói:
– Mẹ à, chúng ta đi Mỹ đi.
Bà cười, đáp:
– Mẹ mà đi Mỹ à? Con điên rồi.
– Con nói thật đấy. Con đi thôi.
Bà nghiêm mặt, trả lời:
– Mẹ thì không được, con à. Mẹ quá già rồi không thể đi di cư được.
– Nhưng chiến tranh đang xảy ra.
– Mẹ đã sống ở đây qua một cuộc chiến tranh, một cuộc tổng đình công và một trận khủng hoảng kinh tế. - Bà đưa mắt nhìn quanh căn nhà bếp nhỏ. - Chẳng sao hết, mẹ đã nếm mùi chiến tranh rồi.
Thục ra Harry không mong bà nhận lời, nhưng bây giờ bỗng anh cảm thấy thất vọng. Anh chỉ có mỗi mình mẹ anh.
– Ngoài ra, - bà nói - con sẽ làm gì ở bên ấy?
– Mẹ sợ con đi ăn trộm nữa à?
– Nghề ăn trộm thường có kết quả giống nhau thôi con à. Mẹ chưa bao giờ nghe nói, không có kẻ trộm nào cuối cùng không bị bắt.
– Con thích đầu quân vào ngành không quân. - Harry nói - và học lái máy bay.
– Người ta có để cho con làm việc ấy không?
– Ở bên ấy, dù mình là giai cấp lao động mà nếu có trí óc thì làm được .
Bỗng bà có vẻ vui. Hai mẹ con lặng lẽ uống trà. Khi Harry uống xong, anh đếm tiền rồi đưa cho bà 50 bảng.
– Để làm gì thế? - Bà hỏi. Hai năm làm việc lau dọn trong các văn phòng, bà không kiếm được số tiền nhiều hơn thế.
– Để mẹ dùng sau này. Cất đi, mẹ. Con muốn mẹ cất đi .
Bà lấy số tiền.
– Vậy là con nhất quyết ra đi.
– Con sẽ mượn chiếc môtô của Sid Breunan đi Southampton ngay bây giờ để tìm một chiếc tàu.
Bà với tay qua bàn, nắm tay anh.
– Chúc con may mắn.
Anh bóp nhẹ bàn tay bà.
– Con sẽ gởi tiền từ Mỹ về cho mẹ.
– Không cần thiết, trừ phi con có quá nhiều. Mẹ chỉ mong thoang thoảng con gửi thư về để mẹ biết tin là được
– Con hứa con sẽ gửi.
Mắt mẹ anh đẫm lệ.
– Rồi có ngày con sẽ về thăm mẹ già chứ, hả?
– Đương nhiên rồi, mẹ à, con sẽ về.
Harry nhìn mình trong gương của tiệm hớt tóc. Bộ đồ màu xanh giá 13 bảng mua ở Savilie Row rất đẹp trên người anh và rất hợp với màu mắt xanh của anh. Chiếc cổ áo sơ mi mới may kiểu rất Mỹ. Người thợ hớt tóc lấy bàn chải chải đôi vai độn cao của chiếc áo vét tông cài nút chéo, Hany cho anh ta tiền bo rồi đi ra.
Anh đi lên khỏi tầng hầm, đến phòng khách của khách sạn South Westem, phòng khách trang hoàng quá rườm rà. Người Đông nghẹt. Bây giờ đã đến giờ các chuyến thu vượt đại dương khởi hành, hàng ngàn người đáp tàu rời khỏi nước Anh.
Hatry không thể nào mua được vé tàu. Vé đã được mua trước mấy tuần rồi.
Một số cổng ty hàng hải đã đóng cửa để khỏi trả lương cho nhân viên mất công trả lời khách hàng. Trong lúc anh đang thấy việc đi Mỹ không thể nào thực hiện được, anh định bỏ cuộc và tìm một kế hoạch khác thì bỗng nhiên người nhân viên hàng hải nói cho anh biết có chiếc thủy phi cơ Clipper của hãng Pan American sắp cất cánh.
Anh đã đọc báo viết về chiếc Clipper này rồi. Chiếc thủy phi cơ này bắt đầu phục vụ vào mùa hè này. Người ta có thể đến New York bằng đường hàng không chưa đầy 30 giờ, trong khi đi thu thủy phải mất bốn hay năm ngày.
Nhưng một chuyến đi như thế mất hết 90 bảng. Chín mươi bảng:
với số tiền này, người ta mua được một chiếc xe hơi mới.
Harry đã mua được vé. Thật điên, nhưng anh đã quyết ra đi, anh bằng lòng trả với bất cứ giá nào để có thể rời khỏi xứ sở. Và cảnh xa hoa trên máy bay khiến cho anh mê mẩn: có rượu sâm banh suốt cả chuyến bay đến New York.
Anh không giật mình mỗi khi thấy cảnh sát nữa, cảnh sát ở Southampton chắc sẽ không còn nghe nói đến anh. Thế nhưng anh chưa bao giờ đi máy bay, cho nên nghĩ đến chuyện này là anh bồi hồi lo lắng.
Anh xem đồng hồ, chiếc đồng hồ Patek Philippe anh đã lấy cắp của quan Giám mã của nhà vua. Anh còn thì giờ để uống một tách cà phê. Anh vào quán.
Anh đang uống cà phê từng hớp nhỏ thì có một phụ nữ thật đẹp đi vào. Đây là một phụ nữ tóc vàng đẹp lộng lẫy, bà ta mặc chiếc áo dài bằng xoa màu kem có lốm đốm hồng, chiếc lưng ong mảnh mai. Bà ta khoảng 30 tuổi, lớn hơn Harry gần 10 rưỡi, nhưng không vì thế mà anh không cười chào khi bà ta nhìn anh.
Bà ta ngồi vào bàn bên cạnh bàn anh, anh nhìn lớp vải xoa bó sát trên ngực bà và phủ xuống hai đầu gối. Bà mang đôi giày màu kem, đội mũ rơm và để cái xắc tay trên bàn.
Một lát sau, một người đàn ông mặc áo vét mỏng đến ngồi với bà ta. Nghe họ nói chuyện, Harry biết bà ta là người Anh, còn ông ta là người Mỹ. Bà ta tên Diana, còn ông là Marks. Ông ta sờ vào cánh tay bà, bà cúi người vào gần ông.
Họ rất tình tứ với nhau, xem như không có ai cả ngoài họ: căn phòng như không có người.
Harry cảm thấy ghen tỵ với họ.
Anh quay mặt nhìn đi chỗ khác. Anh cảm thấy kỳ dị vô cùng. Anh sẽ vượt qua Đại Tây dương bằng đường hàng không: một đoạn đường rất dài lơ lửng trên không, không có đất dính chân. Dù sao, anh cũng không hiểu nguyên lý của việc bay trong không trung: những cánh quạt quay không ngừng, làm sao máy bay bay lên được?
Nghe Mark và Diana nói chuyện, anh cố làm ra vẻ thờ ơ. Anh không muốn để cho hành khách trên chiếc Clipper thấy anh đang lo lắng hồi hộp.
- Tôi là Harry Vandenpost, anh lặp lui lặp tới với mình như là một thanh niên Mỹ con nhà giàu quay về nước, vì ở châu Âu đang có chiến tranh. Hiện tại chưa có việc làm, nhưng tôi nghĩ là rồi đây tôi phải kiếm công việc để làm. Bố tôi đầu tư nhiều việc. Mẹ tôi, thật ơn Chúa, là người Anh, và tôi đã học hành ở đây. Tôi không vào đại học, tôi không thích học gạo (không biết người Mỹ có dùng từ “học gạo” này không” Anh không biết rõ). Tôi đã ở tại Anh quá lâu, đến nỗi tôi nói năng như người địa phương ở đây. Dĩ nhiên là tôi đã đi máy bay nhiều lần rồi, nhưng đây là lần đầu tiên tôi đi máy bay qua Đại Tây dương, chắc ông bà đoán biết như thế. Cho nên tôi rất bị kích thích!
Khi anh uống xong cà phê, anh không còn sợ sệt gì nữa.
*
* *
Eddie Deakin gác máy. Anh nhìn quanh: tiền sảnh vắng hoe. Không ai lưu tâm đến cuộc điện đàm của anh. Anh nhìn máy điện thoại, cái máy đã lôi anh vào chuyện khủng khiếp này, anh tự hỏi, không biết đập tan cái máy đi anh có chấm đút được cơn ác mộng này không. Rồi từ từ anh quay gót.
Bọn này là ai? Chúng dẫn Carol-Ann đi đâu? Tại sao chúng bắt cóc nàng?
Chúng cần gì anh? Những câu hỏi vang lên ù ù bên tai anh như tiếng ruồi kêu trong cái tô đo bân. Anh cố suy nghĩ. Anh cố tập trung vào từng câu hỏi một.
Chúng là ai? Anh có thề hành động liều lĩnh được không? Không. Chúng là bọn có tổ chức chặt chẽ: có thể chúng là bọn điên đã thực hiện cuộc bắt cóc, nhưng chúng đã tổ chức chu đáo mới tìm ra được Eđđie ở đâu sau khi đã bắt cóc vợ anh, và để cho anh tiếp xúc với Carol-Ann bằng điện thoại rất đúng lúc.
Cho nên chúng là bọn có lý trí, nhưng sẵn sàng vi phạm luật pháp.
Nói tóm lại, chúng là bọn vô chính phủ, và có khả năng chúng là bọn găng tơ.
Chúng dẫn Carol-Ann đi đâu? Nàng đã nói nàng ở trong một ngôi nhà. Ngôi nhà này có lẽ là nhà của một thằng bắt cóc, nhưng cũng có thể chúng tìm thấy hay thuê một căn nhà bỏ hoang ở một nơi vắng vẻ. Carol-Ann có nói, chuyên đã xảy ra khoảng hai giờ rồi, thế thì ngôi nhà này không thề ở xa Bangor quá một trăm hay một trăm hai mươi cây số được.
Tại sao chúng bắt cóc nàng? Hẳn là chúng muốn anh làm gì đây, muốn anh làm cái gì mà anh không sẵn lòng làm theo ý chúng, làm cái gì mà anh không làm để lấy tiền; làm cái gì, anh nghĩ, mà anh cương quyết từ chối chúng. Nhưng cái gì? Anh không có tiền của, anh không biết chuyện bí mật gì hết và anh không có khả năng tác động lên một nhân vật quan trọng nào cả.
Chắc anh phải báo cáo cho chỉ huy tàu Clipper thôi.
Thế nào anh cũng được ban chỉ huy của máy bay giải quyết cho anh, và thằng cha tên Tom Luther nào đấy chắc sẽ nói cho họ biết hắn muốn gì. Có phải anh chàng Luther này làm việc cho ai đấy, muốn biết cơ cấu và hoạt động của chiếc thủy phi cơ này. Chắc hắn làm cho một công ty nào đấy, hay cho một nước nào đấy chứ gì? Có thể lắm. Bọn Đức hay bọn Nhật có lẽ đang muốn sản xuất một loại phi cơ khổng lồ như thế này để đi đội bom. Nhưng chắc hắn có những phương tiện đơn giản hơn để cung cấp cho chúng các tin tức, kế hoạch.
Có hàng trăm người, có lẽ hàng ngàn người có khả năng cung cấp cho chúng những tin tức về việc này: các chuyên viên của hãng American, của hãng Boeing, các kỹ sư cơ khí của hãng Hàng không Hoàng gia Anh đang phụ trách bảo trì Động cơ ở đây, tại Hythe. Không cần thiết phải bắt cóc vợ anh như thế này. Người ta đã đăng đầy đủ các chi tiết về kỹ thuật trên các tạp chí rồi.
Có lẽ có kẻ nào muốn cướp máy bay. Thật khó mà tưởng tượng nổi.
Chỉ có điều khả dĩ nghe được, là chúng muốn Eddie hợp tác với chúng để lén lút đưa vào Mỹ cái gì đấy hay người nào đấy thôi.
Có thể có chuyện như thế này lắm. Anh sẽ làm gì nhỉ?
Anh là công dân tôn trọng pháp luật, là nạn nhân của một hành động phạm pháp, anh rất muốn báo cho cảnh sát. Nhưng anh quá sợ. Anh chưa bao giờ sợ như thế này. Khi còn nhỏ, anh chỉ sợ ma, nhưng từ khi hiểu biết đến giờ, anh chưa bao giờ lo sợ như thế này. Anh khiếp sợ đến nỗi không nhấc chân lên nổi để đi khỏi chỗ anh đang đứng.
Anh nghĩ đến cảnh sát.
Trên cái đất nước Anh chết tiệt này, việc báo cho mấy ông cảnh sát đi xe đạp thử hỏi có ích gì? Nhưng anh có thể gọi thử cho ông cảnh sát trưởng ở quận anh hay là cho cảnh sát ở bang Maine, hay cho cơ quan FBI để họ có thể tìm một ngôi nhà bỏ hoang vừa mới có người đến thuê .Đừng gọi cảnh sát. Giọng nói trên điện thoại đã dặn anh “Báo cảnh sát chẳng được việc gì đâu. Nếu anh báo cho cảnh sát, tôi sẽ hiếp vợ anh ngay”.
Eddie tin chuyện này sẽ xảy ra như thế. Anh thấy giọng hắn có vẻ khinh khỉnh, như có dấu hiệu đang chờ đợi, như thể hắn đợi có cớ là hiếp Carol-Ann liền. Với cái bụng tròn trịa và cặp vú căng phồng, nàng có về nẩy nở.
Anh bậm tay lại, nhưng anh thấy chẳng có gì để đấm ngoài bức tường. Thốt lên tiếng càu nhàu thất vọng, anh bước ra khỏi cửa tiền sảnh. Không nhìn đâu hết, anh đi qua bãi cỏ. Anh đến một đám cây, rồi dừng lại và tựa trán vào thân cây sồi có vỏ cây xù xì.
Eđđie là người giản dị. Anh chào đời trong một nông trại cách thành phố Bangor vài cây số, ở đấy, bố anh có vài mẫu đất trồng khoai, nuôi gà, một con bò cái và một vườn rau. Vùng Nouvelle Angleterre nay là nơi tồi tệ đối với người nghèo: mùa Đông dài và lạnh buốt. Bố mẹ anh tin rằng tất cả đều do ý Chúa. Ngay cả khi đứa em gái của Eđđie chết vì bị sưng phổi, mà bố anh cũng nói rằng đấy là ý muốn của Chúa, rất sâu sắc chúng ta không hiểu nổi đâu?
Trong khi ấy, Eddie mơ tìm thấy trong rừng một kho tàng: một hòm da của bọn cướp biển chôn giấu, đầy vàng và đá quí như trong tiểu thuyết. Anh mơ tưởng đến chuyện anh mang một thẻ vàng đến Bangor, mua những chiếc giường nệm rộng rãi êm ái để về thay những chiếc giường gỗ, mua đồ sành sứ đẹp đẽ về cho mẹ, mua áo măng tô bằng da cừu cho cả nhà, mua những miếng thịt bò to tướng như cánh tay, mua tủ lạnh có nhiều nước trái cây và đưa ướp lạnh. Nông trại buồn tẻ này sẽ biến thành một nơi tiện nghi và sung sướng.
Nhưng anh không tìm ra kho tàng chôn giấu, mà anh băng đồng chỉ đi học ở một ngôi trường cách nhà anh 10 cây số. Anh thích đi học, vì trường ấm áp hơn nhà anh và vì bà Maple thương mến anh, bởi lẽ anh thường hỏi bà về những việc diễn ra trong cuộc sống.
Mấy năm sau, chính bà Maple viết thư cho vị đại biểu xứ Nouvelle Angletene nhờ ông ta giúp Eddie có dịp tham dự kỳ thi sát hạch vào trường Hàng hải Annapolis.
Trường đại học hàng hải này là một thiên đàng đối với anh. Anh có chăn mền và áo quần đẹp, có thức ăn đầy đủ, anh không bao giờ tưởng tượng ra được anh có những thứ sang trọng như thế. Việc lao động cực nhọc về thể xác đối với anh chẳng nghĩa lý gì; những chuyện bố láo ta kể cho anh nghe chẳng thấm vào đâu so với chuyện anh nghe trong nhà thờ, và lễ thu nạp sinh viên mới là kết qua một phần nào do các trận đòn của bố anh mà ra.
Chính ở trường Annapolis này mà lần đầu tiên anh hiểu anh đã gây ấn tượng mạnh cho nhiều người khác. Anh biết anh là người có nghị lực, cứng đầu, dẻo dai và tháo vát. Mặc dù anh gầy ốm, nhưng những kẻ thô bạo ít khi dám bắt nạt anh: trong ánh mắt của anh đã lộ ra về gì đấy làm cho họ sơ. Người ta thường mến anh vì anh biết giữ lời hứa, nhưng không có ai đến khóc trên vai anh.
Anh rất ngạc nhiên khi nghe người ta đề cao nhiệt tình lao động của anh. Bố anh cũng như bà Maple đã dạy anh là ở đời muốn đạt được những gì mình muốn có, thì phải chịu khó làm việc, cho nên Eddie không bao giờ nghĩ đến phương pháp nào khác hơn ngoài làm việc .Nhưng dù sao, lời khen ngợi cũng làm cho anh thích thú.
Anh ra trường với cấp bậc trung úy hải quân và được chuyền sang huấn luyện về thủy phi cơ. Annapolis có vẻ thuận lợi cho anh hơn là ở gần nhà anh, còn hải quân Mỹ đã đem lại cho anh cuộc sống sung túc. Anh gửi tiền về cho bố mẹ để sửa sang lại nông trại và xây một ngôi nhà bếp mới.
Anh ở trong hải quân được bốn năm thì mẹ anh mất. Và bố anh theo bà đúng năm tháng sau. Ngôi nông trại bên cạnh thu hồi mấy mẫu đất, nhưng anh mua được ngôi nhà và cánh rừng từ một số tiền nhỏ.
Anh giải ngũ ra khỏi hải quân, tìm được việc làm ở công ty Hàng không Hoa Kỳ Pan American với lương cao.
Giữa hai chuyến bay, anh làm việc trong ngôi nhà cũ, đặt ống nước, bắt điện và ráp nước máy. Anh mua máy sưởi điện lắp vào các phòng, mua đài thu thanh và thậm chí gắn máy điện thoại. Rồi anh gặp Carol-Ann. Anh tự nhủ:
chẳng bao lâu nữa, ngôi nhà sẽ vang lên tiếng cười con trẻ, và thế là giấc mộng của anh thành hiện thực.
Thay vì giấc mộng thành hiện thực, thì bỗng chốc nó trở thành ác mộng.
Lời nói đầu tiên Mark Alder đã nói với Diana Lovesey là:
“Lạy Chúa lòng lành, cả ngày anh chỉ thấy em là người đẹp nhất mà thôi”.
Lúc nào anh cũng nói với cô như thế. Quả thật cô đẹp, đầy sức sống, và thích mặc áo quần đẹp. Tối hôm đó, cô mặc cái rốp dài màu xanh lam, cái áo lật ngược một tí, chiếc áo lót tay cụt lật lai bó sát hai cùi tay. Diana thấy mình đẹp tuyệt vời.
Cô tham dự buổi dạ tiệc tại khách sạn Midland ở Manchester. Cô không biết rõ ai tổ chức buổi tiệc, của phòng thương mại, hội Tam điểm hay là của Hội Hồng Thập tự trong các buổi dạ tiệc như thế này, người ta thường gặp những người trong các tổ chức ấy. Cô khiêu vũ với phần đông những người có quan hệ làm ăn với Mervyn chồng cô, họ ôm cô quá chặt và đạp lên chân cô; còn các bà vợ của họ thì nhìn cô với ánh mắt hằn học. Diana nhủ thầm:
thật kỳ lạ là khi những ông chồng tán tỉnh cô, luôn luôn tán tỉnh cô, thì các bà vợ lại ghét cô,chứ không ghét chồng. Ngoài ra, không phải Diana có ý định ve vãn bất cứ ông chồng nào của họ hết, những ông chồng khoa trương và nốc wishky như hũ chìm. Cô giận họ và đã làm cho chồng cô bối rối khi có thái độ không đẹp với ông phó thị trưởng. Rồi tuyên bố cô cần nghỉ một lát, cô đi đến quầy rượu của khách sạn, lấy cớ mua thuốc lá.
Anh ta ngồi đó một mình, nhấm nháp rượu cô nhắc, và ngước mắt nhìn Diana như thể cô đã mang mặt trời vào trong phòng.
Anh ta có thân mình nhỏ nhắn, chải chuốt, nụ cười son trẻ và giọng nói Mỹ.
Anh ta chú ý cô ngay tức khắc, thái độ rất duyên dáng, và cô cũng mỉm cười chào lại anh, nụ cười tươi tắn, nhưng không nói gì. Cô mua thuốc lá, uống ly nước chanh rồi quay về phòng khiêu vũ. Chắc anh đã hỏi người bán rượu về cô và đã biết địa chỉ của cô, vì hôm sau cô nhận được lá thư của anh gởi đến cho mình, thư viết trên giấy viết thư của khách sạn Midland.
Thực ra thì đấy là một bài thơ.
Bài thơ như thế này:
Nụ cười mới tuyệt làm sao Khắc sâu vào óc, ngấm sâu vào lòng Dù cho năm tháng long đong Đớn đau mấy nữa, đừng hòng nhạt phai.
Bài thơ đã làm Diana khóc. Diana khóc vì những điều cô hy vọng không bao giờ thành hiện thực. Cô khóc vì cô sống trong một thành phố kỹ nghệ với người chồng coi việc đi nghỉ hè là điều khủng khiếp. Cô khóc vì bài thơ là dấu hiệu lãng mạn duy nhất và là nét tình tứ đầm ấm của đời cô từ năm năm nay. Và Diana khóc là vì cô không yêu Mervyn.
Sau đó, mọi việc xảy ra rất nhanh.
Ngày nhận thư là ngày chủ nhật. Sang thứ hai, Diana ra phố. Thường khi, thế nào cô cũng đến khu Boots để đổi cuốn sách nơi thư viện lưu động, rồi sẽ lấy hai si linh sáu xu để mua cái vé xi nê ở rạp Paramount trên phố Oxford, cái vé xem suốt sáng và ăn trưa. Xem phim xong, cô sẽ đi một vòng đến tiệm buôn lớn Lewis và tiệm buôn Fiunegan để mua vải, khăn lau, hay là mua quà cho các con của người chị. Có lẽ Diana sẽ vào một tiệm buôn nhỏ ở khu Shambles, nếu cô muốn mua pho mát nước ngoài hay là mua thịt giăm bông loại ngon nhất. Rồi cô sẽ đáp tàu điện đi Altrincham, vùng ngoại ô nơi cô ở, để về đúng giờ ăn tối.
Nhưng lần này, Diana uống cà phê ở quầy giải khát của khách sạn Midland, ăn sáng tại nhà hàng ăn của Đức ở dưới tầng hầm khách sạn, và uống trà ở phòng khách của khách sạn này. Nhưng cô không thấy dấu vết gì của người đàn ông dễ thương có giọng Mỹ ấy.
Diana về nhà chết điếng cả tâm hồn. Kỳ cục thật, cô nhủ thầm. Cô chưa thấy anh ta lâu đến một phút, chưa nói với anh một lời! Anh ta có cái nét tượng trưng cho những gì mà Diana cảm thấy thiếu vắng trong đời cô. Nhưng nếu cô thấy lại anh ta, chắc chắn cô sẽ khám phá ra anh ta là một người vụng về thô lỗ, tinh thần lệch lạc, bệnh hoạn xấu xa hay là tất cả những thứ ấy.
Diana xuống xe lửa, đi trên con đường về nhà cô, con đường có nhiều biệt thự đồ sộ kiểu nhà ở ngoại ô. Khi đến gần nhà, bỗng cô giật mình kinh ngạc thấy anh đang đi đến phía cô, mắt nhìn ngôi nhà ra vẻ hiếu kỳ.
Diana đỏ mặt, và tim đập thình thịch. Anh cũng tỏ vẻ ngạc nhiên. Anh dừng lại, nhưng Diana cứ bước đều rồi khi đi ngang qua bên anh, cô nói:
– Hẹn anh sáng mai ở thư viện trung tâm!
Diana không dừng lại để đợi nghe anh trả lời, nhưng anh ta thật nhanh trí và mau miệng - cô khám phá ra đều này liền sau đó - nên anh hỏi ngay tức khắc:
– Khu nào?
Thư viện này rất lớn, nhưng không phải vì thế mà hai người không thể tìm được nhau; cho nên Diana nói ngay nơi chợt hiện ra trong óc cô:
– Phòng sinh học.
Và anh cười.
Khi Diana về nhà, tiếng cười của người khách lạ kia cứ vọng mãi bên tai cô:
nụ cười nồng nhiệt, cởi mở, khiến cho cô say mê, nụ cười của một con người yêu đời thoải mái.
Ngôi nhà vắng vẻ. Bà RoUins, người giúp việc, đã ra về rồi, còn Mervyn chưa về. Diana ngồi trong căn nhà bếp hiện đại, sạch sẽ, cô nghĩ đến tư tưởng trong bài thơ của nhà thơ Mỹ, ý tưởng ủy mị không hợp thời.
Sáng hôm sau, Diana thấy anh ngồi nơi chiếc bàn dưới tấm biển có chữ “im lặng”. Khi Diana nói:
“Xin chào”, anh đưa ngón tay áp lên môi, chỉ cái ghế rồi viết lên giấy hàng chữ. Cô đọc thấy:
"Tôi thích cái mũ của cô."
Diana đội chiếc mũ nhỏ trông như cái chậu hoa lật ngược, vành mũ lộn lên trên, chiếc mũ nằm nghiêng trên đầu cô gần che khuất con mắt trái: đây là kiểu đội mũ thời thượng, mặc dù ít phụ nữ ở Manchester có can đảm đội mũ như thế này.
Diana lấy cây bút nhỏ trong xách ra, rồi hí hoáy viết:
"Chắc không hợp với anh” “Rất hợp, chẳng khác gì cây cảnh của tôi”
Diana bật cười và anh nói:
– Im lặng!
Diana nghĩ, anh ta điên hay chỉ khôi hài chơi. Cô viết: "Tôi thích bài thơ của anh”.
Anh viết trả lời: "Tôi yêu cô."
Anh điên rồi, cô tự nhủ: nhưng nước mắt lưng tròng.
Cô viết: "Tôi chưa biết tên anh kia mà!"
Anh đưa cho cô tấm danh thiếp. Anh tên Mark Alder, anh ở tại Los Angeles, bang California!
Họ đi ăn trưa thật sớm trong một nhà hàng bán đồ chay, vì Diana nghĩ ở đây sẽ không gặp chồng cô: không bao giờ ông ấy đi ăn chay. Rồi vì là thứ ba, cô dẫn anh đi xem hòa nhạc buổi chiều ở sảnh đường Houldsworth tại Deansgate, có dàn nhạc nổi tiếng của thành phố với nhạc trưởng mới, ông Malcolm Sargent trình diễn. Diana rất hãnh diện với khách về việc thành phố của cô đã cống hiến cho khán giả một nền văn hóa đài các như thế.
Hôm đó Diana biết Mark viết hài kịch cho đài phát thanh. Cô chưa bao giờ nghe đến các nhân vật do anh viết, nhưng anh cho cô biết họ là những nhân vật nổi tiếng: Lack Beuny, Fred Al1en, Amos và Andy. Anh cũng có một đài phát thanh. Anh mặc chiếc áo vét bằng vải Casơlnia. Anh đang đi nghỉ hè, vừa đi tìm lại gốc gác của tổ tiên: gia đình anh gốc ở Liverpool, thành phố cảng cách Manchester vài cây số về phía Tây. Anh không lớn hơn Diana nhiều, suýt soát tuổi cô, cặp mắt đen và mặt lấm tấm một ít tàn nhang.
Anh thật dễ thương.
Anh thông minh, dí dỏm, duyên dáng. Phong thái dịu dàng, móng tay chăm sóc cẩn thận và phục sức thật đàng hoàng. Anh yêu Mozart, biết Louls Arulstrong, và nhất là anh yêu Diana. Thật kỳ lạ là ít có đàn ông thực tình yêu đàn bà, Diana nghĩ. Đàn ông cô quen biết thường tán tỉnh cô, cố mơn trớn cô, đề nghị lén gặp nhau khi Mervyn không để ý, và thỉnh thoảng khi họ say, họ nói họ yêu cô; nhưng thực ra họ không yêu: họ chỉ nói đùa cho vui, họ không bao giờ nghe cô và không biết gì về cô hết.
Mark hoàn tàn khác hẳn, cô thấy như thế trong những ngày và những tuần sau đó.
Anh có thuê một căn phòng ở Midland, nhưng họ không đám gặp nhau ở đấy, vì có nhiều người ở đấy biết Diana. Nếu sau giờ ăn trưa, vào giờ uống trà, mà họ thấy cô lên phòng anh, tức là cả thành phố đều biết.
Nhưng Mark là người có trí sáng tạo, nên anh tìm ra giải pháp ngay. Họ ra bờ biển, đến tận thị trấn Lytham Saint Anne, xách theo chiếc va li, vào đăng ký thuê phòng khách sạn với tên ông bà Alder. Họ ăn trưa rồi cùng nhau đi nằm.
Làm tình với Mark rất thú vị.
Lần đầu tiên, anh lặng lẽ cởi áo quần như một màn trình diễn khỏa thân khiến Diana bật cười, cô cười ngắc ngoẻo đến nỗi cảm thấy không còn e dè khi cởi áo quần mình ra. Cô không lo sợ về việc cô có làm cho anh vừa lòng không, rõ ràng anh thương yêu cô.
Họ nằm với nhau trên giường suốt buổi chiều, rồi họ ra đi, viện cớ họ đã thay đổi ý kiến, không ở lại khách sạn nữa. Mark điều đình với khách sạn để bồi dưỡng cho họ ít tiền, khỏi trả tiền phòng cả ngày. Anh chia tay Diana tại một nhà ga trước khi đến Altrinchanl, cô lên xe lửa về nhà như thể cô ở Manchester chơi suốt cả buổi chiều.
Họ đã sống hạnh phúc với nhau như thế suốt cả mùa hè.
Đáng ra anh phải về Hoa Kỳ vào đầu tháng Tám để thực hiện một vở kịch mới, nhưng anh đã ở lại để viết một vở kịch nhiều kỳ về một người Mỹ đi nghỉ hè ở Anh, hàng tuần gởi bản thảo về nhà qua chuyến bay mới thiết lập của hãng Pan American.
Mặc dù cuộc sống tính hàng tuần, nhắc cho họ nhớ rằng thời gian giới hạn, nhưng Diana vẫn không thèm nghĩ đến tương lai. Dĩ nhiên có ngày Mark sẽ về lại Mỹ, nhưng anh còn ngày mai, và cô không muốn nhìn xa hơn. Chẳng khác nào chiến tranh: mọi người đều biết chiến tranh rất khốc liệt, nhưng không ai nói được khi nào thì nó bùng nổ, và trong lúc chờ đợi, người ta không có gì khác hơn để làm, ngoài việc tiếp tục thụ hưởng cuộc đời khi còn cách để thụ hưởng.
Hôm sau ngày công bố chiến tranh, anh nói cho Diana biết anh phải về Mỹ.
Cô ngồi trên giường, kéo chăn lên dưới ngực, để lộ cặp vú ra ngoài, Mark rất thích thấy cô ngồi kiểu như thế. Anh thấy cô có cặp vú rất đẹp, mặc dù Diana cho cặp vú của cô là to quá.
Họ nói chuyện với nhau thật nghiêm trang. Nước Anh đã tuyên chiến với Đức, ngay cả những người tình được hạnh phúc cùng phải bàn đến. Diana đã theo dõi tình hình chiến sự ở Trung Hoa cả năm nay, chiến tranh đã tàn phá nước này rất khủng khiếp. Giống như bọn phát xít ở Tây Ban Nha, người Nhật đã dội bom lên đàn bà và trẻ em không thương tiếc; cuộc tàn sát ở Trùng Khánh và Tràng An rất thảm khốc.
Diana hỏi Mark câu hỏi mà bất kỳ ai cũng đều hỏi:
– Anh nghĩ tình hình sẽ ra sao?
Lần này thì anh không trả lời bỡn cợt nữa. Anh đáp với giọng trang nghiêm:
– Theo anh, tình hình sẽ rất khủng khiếp. Anh nghĩ rồi ra châu Âu sẽ bị tàn phá nặng nề. Có thể nước Anh sẽ qua khỏi, vì đây là hòn đào: Anh hy vọng thế
– Ồ! - Diana đáp.
Bỗng nhiên cô sợ. Người Anh không nói như thế. Báo chí viết bài nghe rất hiếu chiến, còn Mervyn thì rất nôn nóng chờ đợi chiến tranh.
Nhưng Mark là người ngoại quốc, nên nhận xét của anh có vẻ chung chung của những người ngoài cuộc, giọng anh dửng dưng như bao người Mỹ khác. Người ta có dội bom xuống Manchester không?
Diana nhớ lời của Mervyn đã thường nói với cô, cô lặp lại:
– Sớm muộn gì người Mỹ cũng phải tham chiến.
Mark trả lời làm cô sửng sốt:
– Lạy Chúa, anh không bao giờ nghĩ thế. Đây là cuộc chiến của những người ở châu Âu, không mắc mớ gì đến chúng tôi. Anh hiểu lý do tại sao người Anh tuyên chiến, nhưng không có lý do gì khiến người Mỹ phải bỏ mạng để bảo vệ nước Ba Lan.
Diana đau đớn khi nghe anh nói thế, nhưng cô hiểu rõ quan điểm của anh.
Tại sao người Mỹ tham chiến để bảo vệ Ba Lan, hay thậm chí bảo vệ châu Âu?
– Nhưng còn em thì sao? - Cô hỏi. Cô cố lấy giọng nhẹ nhàng hơn. - Anh không muốn em bị bọn Đức Quốc xã tóc vàng mang ủng láng bóng hãm hiếp em chứ, phải không? - Chuyện không đáng khôi hài tí nào hết, nên nói xong là cô thấy ân hận liền.
Nghe nói thế, anh vội lấy trong va li ra một chiếc phong bì để đưa cho cô.
Cô rút từ trong phóng bì ra một cái vé máy bay, nhìn anh.
– Anh về Mỹ à! - Cô thốt lên. Chẳng khác nào sắp đến ngày tận thế.
Với thái độ trang nghiêm, anh nói gọn lỏn:
– Có hai vé.
Diana cảm thấy tim mình như sắp ngừng đập.
– Hai vé, - cô lặp lại, giọng tỉnh táo.
Anh ngồi xuống giường bên cạnh Diana, nắm tay cô .Cô biết anh sắp nói gì và cô vừa phấn khích lại vừa hoảng sợ
– Đi với anh, Diana, - anh nói. - Đáp máy bay với anh qua New York, rồi đến Reno để ly dị. Sau đó chúng ta đến California sẽ làm đám cưới. Anh yêu em.
Đáp máy bay cô không tưởng tượng ra được cô sẽ bay qua Đại Tây dương:
chuyện như thế này chỉ có trong cảnh thần tiên mà thôi. Đi New York? New York là giấc mơ đến nhà chọc trời, đến các hộp đêm, về bọn găng tơ, các nhà triệu phú, những người thừa hưởng gia tài giàu có và về kỹ thuật xe hơi khổng lồ.
– Ly dị. Và thoát khỏi Mervyn!
– Sau đó chúng ta sẽ đi California. Nơi người ta quay phim, nơi cam mọc trên cát và nơi ngày nào cũng có mặt trời.
Chúng ta làm đám cưới. Và có Mark mãi mãi, suốt ngày suốt đêm.
Diana không thể nào nói được nên lời.
– Chúng ta sẽ có con, - Mark nói.
Cô muốn khóc.
– Hỏi em nữa đi, - cô thì thào nói.
– Anh yêu em, - anh nói - Em có muốn lấy anh và có con với anh không?
– Ồ muốn, - Diana đáp, cảm thấy như mình đã bay trên trời rồi. - Muốn, muốn, muốn?
*
* *
Cô phải báo cho Mervyn biết chuyện này ngay tối nay mới được.
Hôm nay thứ hai. Mai thứ ba cô sẽ đi Southampton với Mark. Chiếc Clipper sẽ cất cánh lúc hai giờ chiều ngày thứ tư.
Khi về nhà vào chiều thứ hai, Diana bay bổng trên chín tầng mây, nhưng khi vào nhà, niềm hân hoan của cô biến mất.
Làm sao cô cho anh ấy biết chuyện này được đây. Ngôi nhà đẹp đẽ, một cái biệt thự thật lớn, sơn màu trắng, ngói đỏ. Nhà có bốn phòng, mà hết ba phòng không bao giờ có ai dùng đến, một phòng tắm hiện đại và một nhà bếp có đầy đủ đồ dùng tối tân. Bây giờ cô ra đi, cô nhìn ngôi nhà, lòng cảm thấy nhớ nhung luyến tiếc: đây là nhà cô từ 5 năm nay.
Diana đích thân chuẩn bị bữa ăn cho Mervyn. Bà Rolhns chỉ có việc dọn dẹp lau chùi nhà cửa, giặt ủi, và nếu Diana không nấu nước, thì cô sẽ không có gì để làm hết. Vả lại, Mervyn bảo thủ những thói quen thông thường của mình, ông thích vợ mình phải phục vụ bữa ăn khi ông về nhà. Ông gọi bữa ăn là “dùng trà”, và ông uống trà khi đang ăn, mặc dù thường ông chỉ ăn những thứ như xúc xích, thịt bít tết, bánh ngọt.
Đối với Mervyn “bữa tối” là bữa ăn trong khách sạn. Còn ở nhà, chỉ là bữa trà thôi. Cô sẽ nói với ông ấy cái gì?
Hôm nay ông ấy sẽ ăn thịt đông lạnh, số thịt còn lại từ hôm chủ nhật. Diana quàng cái tạp đề vào người và gọt khoai để làm khoai chiên. Khi nghĩ đến chuyện cô sẽ nói, Diana chắc thế nào ông ấy cũng nổi giận, bỗng hai tay cô run run và cắt phải dao vào tay.
Cô cố giữ bình tĩnh trở lại, đưa tay dưới vòi nước lạnh để rửa ngón tay bị cắt, rồi lau khô và băng lại. Mình sợ cái gì nhỉ? Diana tự hỏi. Anh ấy có giết mình đâu mà sợ. Anh không thể bắt giữ mình được, mình đang sống trong một đất nước tự do.
Nghĩ thế nhưng Diana vẫn không giữ bình tĩnh được Cô dọn bàn, lau chùi sạch sẽ. Mặc dù Mervyn làm việc nhiều, nhưng hầu như tối nào ông cũng về đúng giờ .Ông nói:
- Nếu anh ở lại làm việc trong khi những người khác về, thì làm chủ để làm quái gì?
Ông học ra kỹ sư, có nhà máy sản xuất đủ loại động cơ, từ các máy quạt nhỏ trong tủ lạnh cho đến các cánh chong chóng khổng lồ trong tàu thủy. Mervyn thường thành công - ông là người có tài kinh doanh - nhưng ông thật sự thành công khi ông sản xuất chong chóng máy bay. Lái máy bay là trò giải trí ông thích nhất, ông có một chiếc máy bay nhỏ, chiếc Tiger Moth, đậu trên một bãi đáp máy bay nằm ngoài thành phố. Cách đây mấy năm, khi nhà nước tổ chức không lực, thì có ít người biết chế tạo động cơ quay với độ chính xác cao, và chính Mervyn là người có khả năng đó. Từ khi ấy, công việc kinh doanh của ông phát triển mạnh.
Diana là vợ thứ hai của ông. Người vợ đầu đã bỏ ông tước đây bảy năm để theo một người khác, và bà ta dẫn theo hai đứa con của họ. Mervyn vội vã ly dị ngay và khi tòa cho phép ly dị, ông liền cầu hôn với Diana. Khi ấy Diana 28 tuổi, còn ông thì 38. Ông có duyên, cường tráng và giàu có; và ông yêu cô. Ông ta đã tặng cho cô cái vòng cổ bằng kim cương để làm quà cưới.
Đúng dịp kỷ niệm ngày cưới lần thứ năm, mới cách đây mấy tuần, ông tặng cô cái máy may.
Nhìn món quà, Diana cảm thấy cái máy may chẳng khác nào giọt nước nhỏ vào ly nước đã đầy. Cô mong có được chiếc xe hơi. Cô biết lái xe và Mervyn dư súc để tặng xe hơi. Khi Diana thấy cái máy may, cô có cảm giác hết chịu đựng nổi. Họ đã chung sống với nhau 5 năm mà ông ta không nhận ra cô không bao giờ may vá gì hết.
Cô biết Mervyn yêu cô, nhưng ông ta không thấy cô dưới mắt ông ta, Diana chỉ đơn thuần là người mang nhản hiệu “vợ” mà thôi. Cô đẹp và biết cách cư xử, cô phục vụ bữa ăn chu đáo và luôn luôn chiều ý ông trên giường: thử hỏi đàn bà như thế còn đòi hỏi gì nữa. Không bao giờ ông hỏi ý kiến cô về vấn đề gì hết. Vì cô không phải là một nhà doanh nghiệp mà cũng không phải là kỹ sư, cho nên Mervyn không cho cô là người có tri thức. Theo ông thì trên đời này chỉ có đàn ông mới cần xã hội, còn đàn bà chỉ cần máy may thôi.
Tuy nhiên, ông ta không phải đồ ngu ngốc. Con của một thợ tiện, sau khi học hết trung học ở Manchester, ông theo học vật lý. Ông có khả năng đến Cambridge để học tiến sĩ, nhưng ông không phải loại người ham khoa bảng, cho nên ông vào làm ở phòng kế hoạch của một công ty cơ khí lớn. Ông tiếp tục theo dõi sự tiến triển của khoa vật lý và luôn luôn nói chuyện với bố ông đương nhiên là không nói với Diana - về nguyên tử, về bức xạ và về sự phân hạch hạt nhân.
Khổ thay là Diana không hiểu gì hết về vật lý. Cô rất rành về âm nhạc, văn chương và một ít về lịch sử, nhưng Mervyn không quan tâm đến văn hóa, mặc dù ông thích xi nê, và vũ nhạc. Cho nên hai người không có vấn đề gì để thảo luận với nhau.
Nếu họ có con, thì chắc tình trạng sẽ khác đi. Nhưng Mervyn đã có hai dứa con với bà vợ đầu rồi, ông ta không muốn có thêm nữa. Diana sẵn sàng thương yêu chúng, nhưng không bao giờ cô có cơ hội để tỏ lòng thương yêu chúng được mẹ chúng xúi chúng chống lại Diana, vì bà ta cho rằng chính Diana là nguyên nhân gây ra cuộc đổ vỡ hôn nhân giữa bà ta với bố chúng. Bà chị của Diana sống ở Liverpool có cặp con sinh đôi còn nhỏ rất dễ thương, và Diana đã dành hết tình mẫu tử của mình cho chúng.
Diana nhớ cặp sinh đôi.
Mervyn thích đi gặp khách khứa bạn bè, và Diana thấy khoan khoái thoải mái trong những lúc đóng vai chủ nhà đón tiếp các nhân vật quan trọng như giới thương gia và các thân hào nhân sĩ trong thành phố. Cô thường thích chưng diện và mặc áo quần đẹp. Nhưng cô thấy phải có cái gì hơn thế nữa. Cô muốn đóng vai trò của người cấp tiến trong xã hội ở Manchester: hút xì gà, ăn mặc khác đời, bàn đến tự do luyến ái và chủ nghĩa Cộng sản. Diana thích thú khi chọc tức các bà có tinh thần thủ cựu, nhưng Manchester không phải là thành phố bảo thủ lắm. Mervyn và bạn bè của ông ta là những người có đầu óc cấp tiến, cho nên cô không nhọc công cổ xúy tư tưởng này.
Diana bất mãn, còn phân vân không biết có nên như thế không. Phần đông phụ nữ đều nghĩ rằng cô là người may mắn. Cô còn có được một người chồng nghiêm túc, đáng tin, rộng lượng, có ngôi nhà đẹp đẽ và đông bạn bè. Diana chắc có hạnh phúc. Nhưng thực ra cô không được thế - và trong lúc như thế này thì Mark xuất hiện.
Diana nghe tiếng xe của Mervyn dừng lại trước nhà .Tiếng xe quen thuộc, nhưng đêm nay cô nghe sao như tiếng đe dọa, tiếng gầm gừ của một con thú dữ.
Tay run run, cô bác cái chảo lên lò ga.
Mervyn đi vào nhà bếp.
Ông ta rất đẹp. Bây giờ mái tóc nâu đã ngả bạc, nhưng nhờ thế trông ông càng có vẻ như đẹp thêm ông to cao nhưng không mập phì như các bạn bè. Ông không có tính cao đạo, nhưng Diana bắt ông mặc áo quần màu sẫm đen cắt may thật khéo, áo sơ mi trắng đắt tiền, vì cô thích phong thái của ông là phong thái của một con người thành đạt.
Diana hoảng sợ khi nghĩ chắc ông ta đọc được hết tội lỗi trên mặt cô và chắc sẽ hỏi cô có chuyện gì đã xảy ra.
Ông hôn lên môi cô. Cô hôn lại mà lòng thấy xấu hổ. Đôi lúc ông ôm siết cô vào lòng, áp tay dưới vú cô, cả hai đều ham muốn, họ vội dẫn nhau vào phòng ngủ để thức ăn trên lò bị cháy hết. Nhưng chuyện như thế này hiếm dần, và tối nay cũng thế, thật ơn Chúa. Ông hôn cô chiếu lệ rồi quay đi. Ông cởi áo vét tông, cởi ghi lê tháo cà vạt, xắn hai tay áo sơ mi; rồi ông đến rủa tay ở bồn rủa của nhà bếp. Hai vai ông rộng và hai cánh tay rắn chắc.
Ông không thấy có chuyện gì đáng ngờ hết. Chẳng đáng ngạc nhiên: Ông không thấy được cô. Lo làm chi vô ích, ông không nghi ngờ gì hết trước khi cô nói cho ông biết.
Rồi sẽ nói, Diana tự nhủ.
Trong khi khoai tây rán bắt đầu vàng, cô phết bơ vào bánh mì rồi chuẩn bị bình trà. Tay cô vẫn run run, nhưng cô cố giữ bình tĩnh. Mervyn đọc tờ Manchester Evening News, không nhìn vợ.
Khi Diana để cái đĩa trước mặt ông, ông nói:
– Hôm nay anh đã đụng độ với một thằng cha phá rối thật sự ở nhà máy.
Tôi cóc cần, Diana thầm nghĩ, lòng ngao ngán. Tôi không có gì để bàn bạc với anh nữa đâu. Vậy tại sao mình pha trà cho anh?
– Thằng cha ấy dân Luân Đôn, ở tại Battersea, anh tin là mọi người đều biết hắn. Nói tóm lại, hắn yêu cầu tăng lương để làm việc trong tình hình mới này.
Thực ra thì đề nghị không phải không có lý, anh đã thiết lập bảng lương dựa trên thang lương cũ, cho nên chắc thế nào cũng phải chấp nhận đề nghị của hắn thôi.
Diana thu hết can đảm, ấp úng nói:
– Em có chuyện này muốn nói với anh.
Nói xong. Cô thấy ân hận vì đã nói ra những lời này, nhưng quá muộn rồi.
– Ngón tay của em sao thế? - Ông ta hỏi khi nhìn thấy có miếng băng trên ngón tay cô.
Câu hỏi lạc đề làm Diana bối rối. Cô ngồi xuống ghế và đáp:
– Không có gì. Em gọt khoai bị đứt tay. - Cô lấy dao nĩa lên.
Mervyn ăn rất ngon lành. Vừa ăn ông vừa nói:
– Chắc anh phải quan tâm nhiều hơn nữa đến những người anh thuê mướn, nhưng buồn thay là bây giờ tìm cho ra thợ giỏi rất khó.
Ông không mong gì nghe cô đáp lại khi ông nói về công việc làm ăn. Nếu Diana có ý kiến gì, ông liền nhìn cô với ánh mắt tức tối, như thể cô đã đưa ra đề nghị sai trái. Cô ngồi yên để nghe mà thôi.
Trong khi ông nói về tình hình làm việc mới và về phong trào người Cộng sản ở Battersea thì Diana nhớ lại ngày đám cưới của họ. Khi ấy mẹ cô còn sống.
Lễ cưới tổ chức ở Manchester và tiếp khách ở khách sạn Midland. Mervyn mặc lễ phục là người đẹp nhất nước Anh. Diana tin tưởng rằng sẽ mãi mãi như thế.
Không bao giờ cô nghĩ cuộc hôn nhân của họ lại có thể tan vỡ chóng vánh được. Trước Mervyn chưa bao giờ Diana gặp người đã ly dị vợ. Nhớ lại chuyện xảy ra lúc ấy bỗng cô muốn khóc.
Diana biết khi cô đi rồi, thế nào Mervyn cũng đau khổ. Ông không biết gì về chuyện cô chuẩn bị ra đi hết. Chuyến ra đi này của cô thế nào cũng làm cho ông hết sức tức giận. Vì người vợ đầu của ông đã bỏ ông ra đi, bây giờ đến phiên cô, làm sao ông không tức?
Ông ăn hết phần thịt bò và tự rót cho mình tách trà thứ hai. Ông nói:
– Em ăn ít quá.
Thật vậy, Diana không ăn gì cả.
– Em ăn trưa nhiều rồi, - cô đáp.
– Em đã đi đâu?
Câu hỏi thật thà đã làm cho Diana hoảng sợ. Cô ăn bánh xăng uých với Mark trên giường trong một khách sạn ở Blackpoll, cô thấy khó mà nói láo cho hợp lý quá. Tên những nhà hàng lớn ở Mancllester hiện ra trong óc cô, nhưng có thể Mervyn đã ăn trưa ở một trong các nhà hàng đó. Sau một hồi im lặng nặng nề, cô đáp:
– Ở Waldorf - Có rất nhiều quán ăn ở Waldorf. Ở đây có cả dãy quán ăn rẻ tiền, nơi người ta có thể ăn thịt bò bít tết với giá chỉ 1 si linh 9 xu.
Menryn không hỏi quán nào.
Cô thu dọn dĩa rồi đứng lên. Hai đầu gối cô mỏi nhừ không đứng nổi, nhưng cô cố đến chậu nỉa. Cô hỏi:
– Anh có ăn tráng miệng không?
– Ăn chứ.
Diana vào phòng để các hộp lê và sữa, Cô mở hộp lê rồi đem ra bàn cho ông.
Cô nhìn ông ăn lê, lòng lại sợ nghĩ đến chuyện mình sắp làm. Việc này làm cô cảm thấy mình là một kẻ phá hoại không thể nào tha thứ được. Như chiến tranh đang đến, nó sẽ tàn phá tất cả. Bỗng cô nhận thấy không thể nào cô bỏ ra đi được.
Mervyn để muỗng xuống, nhìn đồng hồ.
– Bảy giờ rưỡi rồi, ta đi nghe tin tức thôi.
– Em không nghe được, - Diana, nói lớn.
– Tại sao thế?
– Em không nghe được, - cô lặp lại. Cô sẻ hủy bỏ hết. Cô sẽ đi gặp Mark ngay và nói cho anh biết cô đã thay đổi ý kiến, cô sẽ không bỏ trốn theo anh nữa.
– Tại sao em không nghe rađiô được? – Mervyn bực bội hỏi .
Diana nhìn vào mặt chồng:
– Em phải đi, - cô đáp, cố hết sức nghĩ ra lý do - Doris Williams đang nằm bệnh viện, em phải đi thăm chị ấy.
– Trời đất, Doris Winiams là ai thế?.
Làm gì có tên ấy, nhưng Diana ứng khẩu đáp liền:
– Anh đã gặp chị ấy rồi. Người ta sắp sửa giải phẫu cho chị ấy.
– Anh không nhớ đã gặp chị ấy, - ông đáp, nhưng ông không trách mình, ông không nhớ nỗi tên người khác.
Bỗng Diana nảy ra một ý bất thần, cô hỏi chồng:
– Anh đi với em được không?
– Lạy Chúa, không được đâu - Ông đáp, đúng như lòng mong đợi của cô.
– Vậy thì em mượn xe để đi.
– Trời tối đấy, đừng chạy nhanh quá. - Ông đứng dậy, đi qua phòng khách nơi có máy thu thanh.
Diana nhìn theo ông một lát. Cô buồn bã nhủ thầm: ảnh không. biết mình định bỏ ảnh mà đi chút nào hết.
Diana đội mũ, lấy áo mông tô. Ơn Chúa, xe mở máy thì nổ liền. Cô chạy ra đường đi Manchester.
Đoạn đường đi thật khủng khiếp. Dù hấp tấp, nhưng cô vẫn phải lái xe chạy chậm, vì đèn xe đã bị che bớt ánh sáng, cô chỉ thấy trước mặt mấy mét thôi; ngoài ra, mắt cô nhòa cả lệ, cố mấy nước mắt vẫn cứ chảy ra. Nếu cô không biết đường, chắc thế nào cũng xảy ra tai nạn.
Đoạn đường chỉ có 15 cây số mà Diana phải đi mất hơn một giờ. Khi dừng lại tại khách sạn Midland, cô mệt nhoài, phải ngồi nghỉ- một lát, để lấy lại tinh thần. Cô trang điểm lại mặt mày để xóa tan hết dấu vết nước mắt trên mặt.
Diana nghĩ thế nào Mark cũng đau khổ; nhưng anh ấy là kiểu người chịu đựng được đau khổ. Rồi ra anh phải xem việc này chỉ là một mối tình lãng mạn mùa hè. Chấm dứt một mối tình ngắn ngủi, cuồng nhiệt, là ít tàn bạo hơn là cắt đứt, cuộc hôn nhân 5 năm. Mark cô sẽ nhớ mãi cái mùa hè 1939 này.
Cô lại bật khóc nức nở.
Khóc một lát, cô quyết định vào tìm anh và chấm dứt mối tình, vì cứ ngồi đây mà nghĩ quanh nghĩ quẩn chẳng ích lợi gì. Cô trang điểm lại, rồi bước xuống xe.
Cô đi qua tiền sảnh khách sạn và lên thang lầu, chứ không dừng lại ở bàn tiếp tân. Cô đã biết số phòng của Mark. Phụ nữ đi thẳng lên phòng đàn ông.
Trong khách sạn như thế này, dĩ nhiên là sẽ mang tiếng rồi; nhưng Diana cương quyết chống lại các quy ước của xã hội. Nếu không lên như thế này, cô chỉ còn là nước gặp Mark ở phòng khách hay ở quày rượu mà thôi và như thế, cô không thể nào nói cho anh biết chuyện này trước mắt mọi người.
Diana gõ cửa. Cô cầu trời anh có trong phòng. Không biết ảnh có đi ăn nhà hàng hay đi xem xi nê không? Không có tiếng trả lời, cô gõ cửa lại, to hơn. Làm sao anh có thể đi xem xi nê trong hoàn cảnh như thế này.
Cuối cùng có tiếng hỏi:
– Ai đấy?
Cô gõ cửa nữa và đáp:
– Em đây!
Diana nghe tiếng chân bước nhanh. Cửa mở rộng, Mark hiện ra, vẻ kinh ngạc. Anh cười sung sướng, kéo Diana vào trong, đóng cửa lại và ôm cô vào lòng.
Bây giờ Diana cảm thấy thiếu chung thủy với anh như hồi này cô cảm thấy thiếu chung thủy với Mervyn vậy. Cô hôn anh với cảm giác có tội, rồi dục tình quen thuộc nổi lên trong đôi vú; nhưng cô vội nhích ra và nói:
– Em không thể đi với anh được.
Anh tái mặt.
– Đừng nói bậy.
Cô nhìn quanh. Anh đã chuẩn bị xong hành lý. Tủ treo áo quần và các ngăn kéo đều mở toang, các va li để dưới đất, áo sơ mi đã xếp gọn gàng, khăn, vải để thành chồng bít tất đã cho vào túi xách. Anh rất cẩn thận. Cô lặp lại:
– Em không thể đi được.
Anh nắm tay cô, kéo vào phòng. Họ ngồi xuống giường. Anh có vẻ chán nản. Anh nói:
– Em nói đùa phải không”.
– Mervyn yêu em, anh ấy và em đã sống chung 5 năm. Em không thể bỏ anh ấy mà đi được.
– Thế còn anh thì sao?
Cô nhìn anh. Anh mặc chiếc áo len cũ màu hồng, thắt nơ bướm, quần nỉ màu xanh xám và đi giày thấp không buộc giây. Anh có vẻ rầu rĩ. Cô đáp:
– Cả hai người đều yêu em. Nhưng anh ta là chồng em.
– Cả hai yêu em, nhưng anh thì em hài lòng hơn.
– Anh không tin em cũng hài lòng anh ấy sao?
– Anh không tin anh ấy hiểu em. Này nhé, anh 35 tuổi. Anh đã từng yêu.
Trước đây anh có người yêu, mối tình kéo dài 6 năm. Anh không lấy vợ, nhưng anh đã sống với người tình. Anh nghĩ chuyện này rất nghiêm trọng. Chưa bao giờ có chuyện gì nghiêm trọng như thế này. Em đẹp, em lạc quan yêu đời, em không nệ cổ, em rực rỡ và em thích làm tình. Anh không tệ, anh lạc quan yêu đời, anh không nệ cổ, anh thông minh, và anh muốn làm tình với em ngay tức khắc.
– Không, - Diana chống lại, nhưng cô không nghĩ thế.
Anh nhẹ nhàng kéo cô vào lòng và hai người hôn nhau.
– Chúng ta rất giống nhau, - anh thì thào nói. - Chắc em còn nhớ cái ngày chúng ta bút đàm dưới tấm biển “im lặng” chứ? Em đã hiểu ngay trò chơi, không giải thích. Những phụ nữ khác cho là anh điên, nhưng em lại yêu anh vì trò chơi ấy.
Thực vậy, Diana nghĩ; khi cô có những hành động kỳ quặc như hút ống vố, không mặc quần lót hay tham gia các cuộc hội họp của người phát xít rồi báo động hỏa hoạn, Mervyn sẽ rất bực mình, còn Mark lại cười vang.
Anh vuốt ve tóc cô rồi thoa má. Dần dần, cô bình tĩnh hết hoảng sợ. Cô tựa đầu lên vai Mark, hôn cổ anh. Cô cảm thấy tay anh sờ lên chân cô, luồn dưới váy thoa lên phía trong đùi, nơi cuối cùng của chiếc vớ dài. Chắc không có chuyện gì xảy ra chứ, Diana tự hỏi mà lòng không mấy tin tưởng.
Anh nhẹ nhàng đè cô nằm ngửa trên giường, chiếc mũ của cô rơi xuống.
– Thế không tốt đâu - cô nói một cách yếu ớt.
Anh hôn lên môi cô, cắn nhẹ hai môi cô. Tay anh luồn dưới quần lót bằng xoa của cô, cồm rên lên khoái cảm. Một lát sau, tay anh trượt vào trong .Anh sành sỏi đấy chứ.
– Diana, anh yêu em, anh yêu biết bao!
Khi xong rồi, cô ôm cứng anh vào lòng, thở hổn hển, run run vì quá xúc động, muốn không bao giờ thả anh ra. Đáng ra Diana khóc nữa, nhưng cô không còn nước mắt để khóc.
Cô không đả động gì đến Mervyn hết.
Với tình thần sáng tạo, Mark. đã tìm ra giải pháp và cô làm theo như thế khi về nhà, bình tĩnh và quả quyết Mervyn mặc pyjama và quàng áo ngủ, đang ngồi hút thuốc, nghe nhạc trong rađiô. Ông càu nhàu:
– Đi thăm gì mà lâu quá thế?
Hơi bực bội, Diana đáp:
– Em phải lái xe thật chậm. - Cô nuốt nước bọt, hít vào một hơi thật dài rồi nói tiếp:
– Ngày mai em không đến đấy nữa.
Ông có vẻ ngạc nhiên, hỏi cô:
– Em sẽ đi đâu?
– Em muốn đi thăm chị Thea và thăm cặp song sinh. Em muốn biết chắc chị ấy có khỏe không và ngoài ra em còn có lý do khác nữa: tàu hỏa bắt đầu chạy thất thường và với phần xăng cung cấp hạn chế, thế nào tuần sau cũng có ảnh hưởng đến việc đi lại của tàu bè.
Ông gật đầu đồng ý:
– Em nói phải. Tốt hơn là em nên đi thăm khi còn có thể đi được.
– Em lên lầu chuẩn bị va li hành lý.
– Chuẩn bị va li cho anh luôn thể, được không?
Diana giật mình lo sợ, cô sợ ông ta đi theo cô. Cô hỏi:
– Chuẩn bị va li cho anh làm gì?
– Anh không thể ngủ một mình trong ngôi nhà trống vắng được. Tối mai anh sẽ ở lại tại câu lạc bộ cải cách. Em sẽ về vào thứ tư chứ?
– Phải, - cô trơ tráo đáp - thứ tư.
– Rất tốt.
Diana lên tầng một. Vừa cho vào va li của chồng áo quần và bít tất, cô vừa nghĩ: mình làm việc này lần cuối cho anh ấy. Cô mừng vì ông ta tin vào câu chuyện cô bịa ra, nhưng đồng thời cô cũng thất vọng, vì còn có chuyện cô không thực hiện được. Cô nghĩ là đáng ra cô phải nói cho ông ta biết lý do tại sao cô bỏ ông ta, mặc dù chuyện cô nói ra sẽ làm cho ông ta nổi cơn thịnh nộ.
Cô muốn nói cho ông ta biết ông ta đã làm cô thất vọng ông ta là người chuyên quyền, không còn thương yêu chiều chuộng cô như trước nữa. Nhưng cô không nói được những điều ấy, do đó cô cảm thấy hết sức thất vọng .Diana đóng va li của ông lại rồi bỏ đồ vào va li mình, cho vào túi xách các thứ dùng trang điểm và quần áo. Cô thấy thật buồn cười khi cho vào va li bít tất kem đánh răng và kem lót mặt để chấm dứt cuộc hôn nhân 5 năm.
Một lát sau, Mervyn đi lên. Diana đang ngồi trước bàn trang điểm để tháo các trang sức trên mặt ra, trên người cô chỉ còn chiếc sơ mi ngủ xoàng xĩnh.
Ông đứng phía sau lưng cô, đưa tay sờ hai vú cô.
– Ôi đừng, Diana nhủ thầm. Tối nay đừng, đừng nhé!
Mặc dù cô hoảng hất lo sợ, nhưng cơ thể cô phản ứng lại ngay lập tức, và cô đỏ mặt ra vẻ người có tội.
Tay Mervyn véo vào hai dầu núm vú căng tròn, bỗng Diana cảm thấy vừa khoái vừa thất vọng. Ông nắm tay cô đỡ cô đứng lên. Khi ông dìu cô đi vào giường, cô ngoan ngoãn theo ông. Ông tắt đèn và hai người nằm trong bóng tối.
Ông leo lên liền, làm tình với thái độ hết sức buồn bã như thể ông biết cô sắp rời bỏ ông, mà ông không thể làm gì được để ngăn cản. Cô cảm thấy cơ thể mình phản bội mình, vì cô rên lên vì khoái cảm, và cô thấy xấu hổ. Cô rất đau đớn khi nghĩ chỉ trong vòng hai giờ mà cô cực khoái với hai người đàn ông khác nhau, cô cố dừng lại, nhưng làm sao được. Cô bật khóc trong khi đang hưởng lạc thú.
May thay, Menryn không hay biết gì hết.
Sáng thứ tư, Mark và Diana ngồi trong phòng khách sang trọng của khách sạn South Westem đợi tắc xi chở họ đến bến tàu số 108 tại cảng Southampton để đáp chiếc thủy phi cơ Clipper của hãng Pan American. Diana cảm thấy thắng lợi và tự do.
Trong phòng, mọi người nhìn cô hay là cố để không nhìn cô. Một thanh niên đẹp trai mặc bộ đồ xanh nhìn Diana đăm đăm với vẻ rất say mê, anh ta chắc nhỏ hơn cô cũng đến 10 tuổi. Nhưng cô đã quen với cảnh như thế này rồi. Khi cô chưng diện vào là mọi người đều không rời mắt khỏi cô và hôm nay cô đẹp thật lộng lẫy. Cái áo dài màu kem nhạt có vẻ tươi mát, hợp với mùa hè. Đôi giày màu kem trông rất hài hòa và cái mũ rơm làm cho Diana càng thêm tuyệt vời.
Cô rất thích đi du lịch: thu xếp hành lý vào va li rồi lấy ra, gặp được nhiều người, được nuông chiều, âu yếm, được uống sâm banh đã đời và ăn đồ ngun ngút cổ vừa được ngắm xem những nơi mới lạ. Cô hơi thấy sợ khi nghĩ đến chuyện đi máy bay, nhưng vượt Đại Tây dương quả là một chuyến hành trình rết đặc biệt, vì qua bên kia là nước Mỹ. Diana mong chóng sang bên kia. Cô tưởng tượng ra cảnh nước Mỹ qua những gì cô đã thấy trong xi nê:
cô thấy mình ở trong một căn hộ trang hoàng mỹ thuật, phòng nhiều cửa sổ và lắp nhiều gương soi có người hầu gái giúp cô mặc áo măng tô lông thú trắng toát; chiếc xe hơi dài màu đen đang nổ máy đậu ngoài đường với anh tài xế người da đen, đợi để đưa đến hộp đêm, ở đây cô gọi rượu Martini không pha loãng, và khiêu vũ theo điệu nhạc Jazz, ban nhạc có Bing Crosby tham gia. Diana nghĩ đây chỉ là giấc mơ, nhưng cô rất nôn nóng muốn chóng tìm sự thật ở bên ấy ra sao.
Tuy nhiên, Diana vẫn cảm thấy buồn bã khi rời nước Anh đang lâm chiến như thế này. Cô quen biết rất nhiều người Do thái. Manchester là nơi có cộng đồng dân Do thái đáng kể. Họ đã giúp dân Israel trồng được một ngàn cây ở Nazareth. Số bạn bè Do thái thân quen với Diana lấy làm khủng khiếp và lo sợ khi họ theo dõi các biến cố ở châu Âu. Ngoài họ ra còn có nhiều người khác nữa lâm vào cảnh khốn khổ: những người phe phát xít rất ghét dân da màu, người di-gan, giới đồng tính luyến ái và tất cả những ai bất đồng chủ nghĩa phát xít.
Diana có ông chú đồng tính luyến ái, chú ấy rất tử tế, dịu dàng với cô, xem cô như con gái của mình.
Diana đã quá tuổi nhập ngũ, nhưng nếu cô còn ở Manchester, chắc cô sẽ tình nguyện tham gia lực lượng hậu cần, cuốn băng cho Hội Chữ thập Đỏ.
Nhưng chuyện này thật khó tin, còn khó tin hơn cả chuyện cô khiêu vũ, vừa nghe Bing Crosby chơi nhạc. Vì Diana không phải là loại người cuốn băng.
Cuộc sống khắc khổ và bộ đồng phục không phải là những thứ làm ra để dành cho cô.
Nhưng mọi thứ đều vô nghĩa đối với Diana. Điều đáng kể duy nhất là cô đang yêu và được yêu. Cô sẽ đi đến bất cứ nơi nào Mark đến: Cô sẽ theo anh ra tận chiến trường nếu cần thiết. Họ sẽ cưới nhau và sẽ có con.
Nghĩ đến chuyện bay trên chiếc Clipper của hãng Pan American, là Diana run lên vì sung sướng. Cố đã đọc bài viết về chiếc máy bay này trên tờ Manchester Guarđian, không bao giờ Diana tưởng tượng ra được cảnh có ngày cô đi trên chiếc máy bay này. Đến New York chỉ hơn một ngày một chút quả là một phép lạ.
Diana đã viết giấy để lại cho Mervyn. Cô không nói gì những chuyện mà đáng ra cô đã nối với ông; cô không viện cớ ông ta đã vô tình, thờ ở lãnh đạm, nên đã đánh mất tình yêu của cô; cô không nói đến lý do vì Mark quá tuyệt vời.
Cô đã viết:
Mervyn thân mến, tôi bỏ anh ra đi vì thấy anh đã lạnh lùng với tôi, và tôi đã yêu người khác. Khi anh nhận được thư này thì chúng tôi đã ở Mỹ. Tôi rất buồn vì làm cho anh đau khổ, nhưng chuyện này là do anh mà ra. Cô không biết kết thúc bức thư ra sao: tuy nhiên cô không thể viết: Chúc anh khỏe hay là thương mến ... Cho nên cô thấy chỉ viết gọn lỏn:
Diana.
Ban đầu Diana định để bức thư trên bàn ăn nơi nhà bếp. Nhưng rồi cô sợ có thể ông ta thay đổi kế hoạch, nghĩa là thay vì ở lại tối tại Câu lạc bộ của ông thì ông, về nhà, và như thế sẽ sinh ra lắm chuyện rắc rối cho Mark trước khi anh rời khỏi nước Anh.
Cuối cùng, cô gởi bức thư đến nhà máy qua đường bưu điện vào hôm nay.
Diana nhìn đồng hồ (quà của Mervyn, ông ta thích nhất cô đúng giờ). Cô biết rõ ràng việc thường nhật của ông: buổi sáng ông bận bịu công việc ở xưởng máy, rồi gần trưa ông lên văn phòng làm việc, xem giấy tờ thư từ trước khi ăn trưa. Cô đã viết thư riêng trên phong bì để cô thư ký khỏi mở ra đọc. Ông sẽ tìm thấy bức thư trong đống hóa đơn, phiếu đặt hàng, các thư tín và chắc bây giờ ông đang đọc bức thư. Nghĩ thế, Diana cảm thấy ân hận, thầm buồn, nhưng đồng thời cô mừng vì đang ở một nơi cách xa ông đến ba trăm cây số.
– Xe tắc xi đón chúng ta đến kìa, - Mark nói. - Đến giờ đi rồi.
Cố xua đuổi hết lo sợ, Diana để tách cà phê xuống bàn, đứng lên và nhìn anh, duyên dáng mỉm cười.
– Phải, - cô nói với giọng vui vẻ. - Đến giờ bay rồi.
*
* *
Eddie thường rất rụt rè trước mặt bọn con gái. Tốt nghiệp trường Annapolis rồi mà anh vẫn còn trinh. Khi anh vào quân đội, đóng Pearl Harbor, anh thường lui tới với gái điếm, và việc này đã làm cho anh não lòng. Sau khi rời khỏi hải quân, anh sống thật cô đơn, mỗi lần cần có người cho vui, anh phải đến quán rượu cách chỗ mình ở mấy cây số. Carol-Ann làm tiếp viên dưới đất cùng công ty với anh cảng Washington, LongIsland, trạm đến cuối cùng của thủy phi cơ ở New York. Cô có mái tóc vàng, người luôn luôn rám nắng, mắt xanh như màu của hãng Pan American - chưa bao giờ Eddie dám mời cô đi chơi. Nhưng một hôm, người nhân viên điều phối máy thu thanh cho anh hai cái vé đi xem vở “Lifewith Father” ở Broadway, và khi nghe anh nói anh không có ai để mời đi, anh điều phối viên thông tin bèn quay qua bàn bên cạnh hỏi Carol-Ann có muốn đi xem không.
– Đi chứ! - Cô đáp, và thế là Eddie nghĩ rằng nàng tiên này cùng thế giới với mình.
Sau đó, anh khám phá ra Carol-Ann rất cô độc. Nàng lớn lên ở nông thôn, nên rất khó chịu trước cuộc sống xô bồ của dân New York. Nàng có tình cảm nhưng không khéo xử thế khi có đàn ông suồng sã với nàng cho nên trong lúc bối rối nàng thường tức tối từ chối những lời mời mọc của họ. Tính tình nóng nảy đã biến nàng thành người lạnh lùng, nên không ai mời nàng đi chơi cả.
Nhưng nào Eddie có biết gì đến chuyện này. Cho nên khi kẹp tay nàng trong tay mình, anh cảm thấy mình như vua. Anh dẫn nàng đi ăn tối rồi thuê tắc xi đưa nàng về tận nhà. Trên ngưỡng cửa, anh cảm ơn nàng đã cho anh một buổi tối tuyệt vời, rồi anh hôn lên má nàng, khi anh hôn, bỗng nàng òa khóc, nói với anh rằng anh là người đầu tiên phù hợp với nàng ở cái đất New York này.
Trước khi anh kịp thổ lộ tâm tình, nàng đã mời anh đi chơi lần nữa.
Vào dịp đi chơi lần hai, anh yêu nàng. Hôm ấy là ngày thứ tư trời nóng vào tháng 7, họ đi đến Coney Island, nàng mặc quần trắng với áo tay cụt màu xanh da trời. Anh sững sốt khi nhận ra nàng đẹp và rất hãnh diện khi đi với anh trước mặt mọi người. Họ uống nước đá giải khát, leo núi đi chơi, cặp tay nhau và thổ lộ tâm tình. Khi đưa nàng về nhà, anh thành “thật tuyên bố chưa bao giờ anh được sung sướng như hôm ấy, và nàng làm cho anh ngạc nhiên thêm lần nữa khi trả lời anh rằng nàng cũng sung sướng không kém.
Chẳng bao lâu sau, anh bỏ bê nông trại, khi nào nghĩ là anh đến New York, ngủ trên ghế nệm dài của một anh bạn kỹ sư, anh này ngạc nhiên nhưng rồi thúc anh cứ thế mà tiến. Carol-Ann đưa anh đến Bristol, bang New Hampshire, để giới thiệu anh với gia đình nàng. Bố mẹ nàng người nhỏ con, tuổi trung niên, nghèo và cần cù lao động. Họ khiến anh nghĩ đến cha mẹ mình, nhưng anh không nghĩ đến tôn giáo cuồng tín của họ. Chắc họ không tin là họ đã sinh được một cô gái xinh đẹp như thế, và anh biết họ nghĩ gì vì chính anh cũng không tin là một cô gái như thế lại đi yêu anh.
Đứng như trời trồng trong khu vườn của khách sạn Langdown Lawn, nhìn vỏ cây sên xù xì, anh nghĩ đến nguyên do khi anh yêu nàng. Anh đã sống trong con ác mộng, giấc mộng hãi hùng thường thấy, thoạt tiên người ta cảm thấy được sống hạnh phúc và an toàn, nhưng rồi người ta mơ hồ cảm thấy điều tệ hại có thể xảy đến cho mình, và rồi bất ngờ nó xảy đến thật sự, nó đang đến mà mình lại bất lực, không làm gì được .Điều làm cho cơn ác mộng khủng khiếp thêm là ngay trước khi anh đi làm, hai người đã cãi vã nhau, hai người chia tay nhau mà không làm lành với nhau.
Hôm ấy, Carol-Ann ngồi trên chiếc ghế nêm dài, mặc áo lao động, ngoài ra không có gì hết, hai chân dài rám nắng duỗi ra phía trước, mái tóc đẹp xõa xuống hai vai như chiếc khăn quàng. Nàng đang đọc tạp chí. Cặp vú, trước đây nhỏ nhưng nay đã căng tròn. Anh cảm thấy muốn sờ, anh tự nhủ, tại sao không.
Anh bèn luồn tay dưới áo, mân mê núm vú của nàng. Nàng ngước mắt, dịu dàng nhìn anh, cười, nàng cúi xuống đọc tiếp .Anh hôn lên đầu nàng rồi ngồi xuống bên cạnh. Ngay từ đầu, Carol-Ann đã làm cho anh ngạc nhiên. Mới đầu, hai người cùng tỏ ra rụt rè, nhưng sau khi đi hưởng tuần trăng mật về một thời gian ngắn, khi đã cư ngụ ở trang trại cũ, bỗng nhiên nàng trở nên hung hăng dữ dội.
Thoạt tiên, nàng muốn làm tình dưới đèn sáng trưng. Eddie cảm thấy hơi bối rối, nhưng rồi anh nhượng bộ, và tự thâm tâm anh cũng thích thế. Rồi anh nhận thấy khi nàng tắm, nàng không khóa cửa. Sau đó, anh tự nhủ, nếu khi anh tắm mà khóa của phòng tắm thì trông có về kỳ cục, nên anh không khóa, và rồi một hôm nàng trần truồng vào phòng tắm để cùng tắm chung với anh. Cả đời chưa bao giờ Eddie thấy khó chịu như thế.
Nàng có thói quen mặc áo quần mỏng manh đi khắp trong trang trại. Có thề nói hôm ấy nàng mặc kín đáo hơn, cái áo chỉ để lộ mảnh vải trắng nhỏ có hình tam giác ở trên háng. Thường khi nàng mặc rất sơ sài. Anh pha cà phê trong nhà bếp thì nàng xuất hiện, chỉ mặc đồ lót, nàng đến nướng bánh mì, hay là anh đang cạo râu thì nàng hiện ra trên người chỉ có cái quần cụt, không có nịt vú, nàng đến đánh răng, hay là nàng mang khay điểm tâm vào phòng, người trần truồng như nhộng. Anh tự hỏi không biết nàng có hâm không. Nhưng anh cũng thích nàng như thế. Anh chưa bao giữ nghĩ đến chuyện anh sẽ có người vợ đẹp rực rỡ trần truồng đi trong nhà như thế. Anh thấy anh có nhiều may mắn.
Một năm sống chung đã thay đổi nếp sống của anh. Bây giờ anh đã quen cảnh ở truồng ấy từ phòng ngủ sang phòng tắm. Thỉnh thoảng anh chẳng thèm mặc pyjama khi đi ngủ, một hôm anh làm tình với nàng trên ghế trường kỷ trong phòng khách.
Anh phân vân tự hỏi mãi, không biết sống như thế có gì bất thường không, nhưng rồi anh nghĩ rằng chăng quan trọng gì mấy, vì Carol-Ann và anh cứ sống theo kiểu mình thích là được. Khi đã chấp nhận nguyên tắc này rồi, anh có cảm giác như con chim thoát khỏi lồng. Thật không tin nổi, thật kỳ diệu; y như ở trên thiên đàng.
Anh ngồi bên cạnh Carol-Ann không nói gì hết, tận hưởng lạc thú được bên cạnh vợ và thưởng thức ngọn gió mát từ rừng cây thổi vào qua những cánh cửa sổ rộng mở. Cái xách đi đường đã khóa rồi, chỉ còn vài phút nữa thôi là anh đến cảng Washington. Carol-Ann đã thôi làm việc cho hãng Pan American - Nàng không thể sống ở bang Maine và làm việc ở New York – và nàng đã kiếm việc trong một nhà hàng ở Bangor. Eddie muốn nói chuyện với vợ trước khi đi.
Carol-Ann ngước mắt khỏi tờ Life, hỏi:
– Chuyện gì thế?
– Anh có nói gì đâu.
– Nhưng anh muốn nói gì đấy, phải không?
Anh cười:
– Làm sao em đoán ra?
– Eddie, anh biết em có thể nghe óc anh hoạt động mà. Có việc gì phải không?
Anh để bàn tay to lớn vuông vức lên bụng vợ, anh cảm thấy bụng nàng nhúc nhích nhè nhẹ – Anh muốn em nghỉ việc.
– Còn sớm quá!
– Làm việc chẳng thêm được gì. Đời sống chúng ta dư dã rồi. Anh muốn em phải giữ gìn sức khỏe.
– Em sẽ giữ gìn sức khỏe. Khi nào cần nghỉ thì em sẽ nghỉ việc.
Anh cảm thấy bị chạm tự ái.
– Anh nghĩ em có vẻ khoái làm việc. Tại sao em muốn tiếp tục làm việc?
– Vì chúng ta cần làm việc, và em cũng phải làm cái gì chứ.
– Anh đã nói rồi, chúng ta dư súc để sống.
– Không làm việc em sẽ buồn lắm.
– Phần đông phụ nữ có chồng, không làm việc.
Nàng cao giọng nói:
– Eddie, tại sao anh cứ muốn trói tay trói chân em lại như thế?
Anh không muốn trói tay trói chân vợ, cho nên nghe nói như thế anh bỗng giận. Anh đáp:
– Tại sao em muốn chống lại anh như vậy?
– Em không chống đối anh. Em chỉ không muốn ngồi một chỗ, như một người vô dụng mà thôi.
– Bộ em không có việc gì làm à?
– Việc gì – Đan áo cho em bé, chế biến thức ăn, ngủ trưa ...
– Ôi lạy Chúa ... Nàng thốt lên với giọng khinh bỉ – Trời ơi, những việc như thế có gì sai trái sao?
Anh hỏi, giọng tức tối:
– Em có đủ thì giờ để làm các thứ ấy khi con chúng ta ra đời. Em muốn tranh thủ những tuần cuối cùng được tự do.
Eddie cảm thấy bất bình nhưng anh không biết tại sao họ lại phải cãi nhau như thế này. Anh muốn đi Anh nhìn đồng hồ.
– Anh phải đi cho kịp tàu.
Carol-Ann có về buồn bã.
– Anh đừng giận em, - nàng nói, giọng hòa giải.
– Nhưng anh vẫn giận.
Anh đáp lại bằng một giọng giận dữ.
– Thật anh không chịu nồi em!
– Em rất sợ cuộc sống tù túng.
– Anh đã cố để em sống thoải mái kia mà.
Anh đứng lên, đi vào nhà bếp, đến lấy cái áo khoác của bộ đồng phục móc trên giá. Anh muốn tỏ thái độ rộng lượng, còn vợ anh thì cho đấy là chuyện anh muốn áp đặt nàng.
Khi anh mặt áo khoác vào, nàng mang va li đưa cho anh. Nàng ngẩng mặt nhìn anh, hôn nhẹ lên môi anh.
– Đừng ra đi với vẻ giận dữ như thế - Carol-Ann nói.
Nhưng anh đã ra đi với lòng ấm ức giận dữ.
Và bây giờ trong khu vườn này, ở nơi xứ lạ quê người này, xa cách Carol- Ann hàng ngàn cây số, Eddie phân vân không biết rồi anh có gặp lại được nàng hay không.
Bây giờ là lần đầu tiên trong đời, Nancy Lenehan tăng cân. Bà đúng thẳng người để soi gương trong căn phòng khách sạn Adelphi ở Liverpool, bên cạnh đống hành lý đợi chuyển đến tàu Orania, vẻ mặt hoảng hốt.
Bà ta không đẹp không xấu, nét mặt đều đặn - sống mũi thẳng, tóc đen và cứng, cằm phẳng phiu – và khi bà ăn mặc cẩn thận, trông bà hấp dẫn, mà việc ăn mặc cẩn thận là việc thường thấy nơi bà. Hôm nay bà mặc bộ áo quần hàng len thật nhẹ may ở nhà hàng Paquin, vải có màu đỏ tươi, chiếc áo lót bằng xoa màu xám. Chiếc áo vét bó sát eo theo kiểu thời trang, và chính cái áo quá bó sát vào người báo cho bà biết bà đã tăng cân. Khi cài áo, nút áo kéo khuy căng ra.
Việc này chỉ có một cách giải thích: eo của chiếc áo vét nhỏ hơn eo của bà Lenehan.
Việc tăng cân của bà là vì những bữa ăn trưa và ăn tối ngon lành trong các nhà hàng ăn uống sang trọng ở Pans trong suốt tháng Tám vừa qua. Bà thở dài.
Chắc bà phải kiêng ăn trong chuyến trở về mới được. Hy vọng khi trở về New York, bà sẽ lấy lại vóc dáng như trước.
Trước đây chưa bao giờ bà phải kiêng ăn kiêng uống. Nghĩ đến chuyện kiêng ăn, bà thấy bực mình: bà thích ăn ngon, nhưng không dám ăn nhiều, thật là chuyện không vui chút nào hết. Chắc đây là dấu hiệu cho thấy bà đã già.
Hiện bà đã 40 tuổi.
Bà thường đặt may đo áo quần cho mình. Nhờ thân hình mảnh khảnh nên bà mặc áo quần dễ đẹp. Bà ghét mặc kiểu áo phủ quá mông của thập kỷ 20, và bà thích kiểu áo dài thắt ở eo. Bà bỏ nhiều thì giờ và vàng bạc để mua sắm áo quần.
Thỉnh thoảng bà dùng cách ăn mặc hợp thời trang, lịch sự, để gây ảnh hưởng trong nghề nghiệp, nhưng thực ra, bà chỉ là người thích ăn mặc đẹp đẽ.
Bố bà đã xây dựng một xưởng giày ở Brockton cạnh Boston bang Massachusetts, vào năm Nancy ra đời, năm 1899. Ông làm thêm mẫu giày hảo hạng của Luân Đôn, nhưng bán giá rẻ hơn; rồi ông bắt chước cách rao hàng của thiên hạ:
– “Quí vị có thấy khác nhau không”. Người ta đọc quảng cáo thấy một đôi giày ở Luân Đôn bán 29 đô la, còn một đôi giày sao chép của xưởng giày Black chỉ có 10 đô la. ông làm việc cật lực, công việc làm ăn phát đạt, rồi trong trận đại chiến, ông ký hợp đồng đóng giày cho quân đội, việc này đã tăng thu nhập cho gia đình rất nhiều.
Trong những năm của thập niên 20, ông mở thêm một loạt các cửa hàng bán giày, hầu hết ở vùng Nòuvene Angletaue. Khi tình hình kinh tế suy thoái, ông cho giảm tỷ lệ sản xuất xuống còn năm phần trăm thôi, và bán giá đồng hạng chỉ có 6 đô la một đời, bất kỳ mẫu mã giày như thế nào. Sự mạnh dạn của ông đã đem lại kết quả tốt, cho nên trong khi mọi người bị phá sản thì xưởng giày Black của ông giàu lên.
Ông thường nói rằng, làm giày xấu giá nhân công cũng đắt như làm giày tốt, và thiên hạ làm việc cực nhọc không nên để cho họ đi giày xấu. Trong lúc người mua giày đóng đế bằng giấy bìa chỉ đi được trong vài ngày, thì nhà máy đóng giày Black sản xuất giày giá không đắt hơn mấy mà lại đi lâu. Bố bà rất hãnh diện về việc này, cũng như Nancy. Chất lượng giày của gia đình bà sản xuất đã minh chứng cho mọi người thấy qua ngôi nhà lộng lẫy của họ ở Black Bay, chiếc xe Packard có tài xế lái, những đêm dạ vũ, những áo quần đẹp đẽ và số gia nhân Đông Đức. Bà không phải như những tiểu thư con nhà giàu đã thừa hưởng gia tài với mặc cảm tội lỗi trong lòng.
Bà ước chi có thể nói rõ điều này cho em trai bà biết.
Peter đã 38 tuổi. Khi bố họ mất, cách đây năm năm, ông để lại tài sản trong công ty cho Peter và Nancy với tỷ lệ bằng nhau, mỗi người bốn mươi phần trăm. Em gái của ông, cô Tilly, được hưởng mười phần trăm, mười phần trăm còn lại dành cho Danny Riley, lão luật sư già bất lương.
Nancy thường cho rằng thế nào bà cũng nắm quyền điều khiển công ty khi bố bà mất. Nhưng ông lại thích để cho Peter điều hành. Phụ nữ điều hành công ty ít có hiệu quả hơn, nhưng việc này đã chứng minh ngược lại nhất là trong lĩnh vực áo quần.
Bố bà có người phụ tá, Nat Ridgeway, ông ta là người có năng lực, và mọi người đều biết ông ta rất muốn giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Giày Black.
Nhưng chức vụ này Peter cũng thích và anh ta là con trai. Nancy thường nghĩ mình là con cưng của bố. Nhưng nếu Peter không thừa hưởng quyền của cha, thì thế nào anh ta cũng thất bại nhục nhã. Nancy không muốn đẩy em trai vào con đường thất bại, nhưng bà đã chấp thuận để cho anh ta quyền điều khiển công ty. Hai chị em có đến 80 phần trăm cổ phần, cho nên khi họ nhất trí với nhau thì họ muốn làm gì cũng được.
Nat Ridgeway đã từ nhiệm và đến làm cho Tổng công ty Dệt ở New York.
Đây là sự mất mát cho công ty, đồng thời cũng là sự mất mát cho Nancy. Ngay trước khi bố bà mất, bà và Nat bắt đầu cặp kè đi với nhau.
Chuyện này xảy ra đã năm năm rồi, từ ngày Sean chồng bà mất đi, thì Nat là người đàn ông đầu tiên bà bằng lòng đi chơi với ông ta chỉ vì bà bắt đầu ngán cuộc sống bù đầu công việc, và cũng có cảm tình với ông ta nữa. Họ thường đi ăn tối với. nhau, thỉnh thoảng cùng nhau đi xem hát và mỗi khi ông đưa bà về nhà, bà hôn ông rất tình tứ nhưng khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra họ không vượt qua được sự khó khăn, và khi Nat rời khỏi công ty Black thì mối tình giữa họ cũng chấm dứt., để Nancy ngậm ngùi thất vọng Kể từ đấy, Nat đã gây dựng cho mình một sự nghiệp vững vàng ở Tổng công ty dệt, và bây giờ ông ta là chủ tịch công ty. Ông ta cũng đã lấy vợ, vợ ông ta là một cô gái tóc vàng xinh đẹp nhỏ hơn Nancy đến 10 tuổi.
Trái lại, Peter không thành công. Thực vậy, anh ta không có khả năng làm chủ tịch. Từ ngày anh đảm nhiệm chức vụ đến nay đã năm năm, công việc làm ăn tiếp tục thua lỗ. Các cửa hàng không mang lại gì hết, lợi tức chỉ đủ bù chi phí. Peter đã mở một cửa hàng sàng trọng trên đại lộ Năm ở New York, anh bán áo quần phụ nữ loại đắt tiền; anh đầu tư công sức và thì giờ vào đây rất nhiều, nhưng vẫn thua lỗ.
Chỉ có nhà máy do Nancy điều khiển làm ăn phát đạt .Đến giữa thập niên 30, khi nước Mỹ thoát khỏi cuộc suy thoái kinh tế, bà bèn cho sản xuất loại dép phụ nữ bán với giá rẻ và mẫu mã rất bình dân. Bà tin rằng đối với giày dép phụ nữ, nếu hàng sản xuất nhẹ nhàng, có màu sắc đẹp và rẻ tiền thì thế nào cũng bán rất chạy.
Bà nghĩ bà có thể tăng số bán lên gấp đôi, và nhà máy gia tăng sản xuất.
Nhưng lợi nhuận của nhà máy chỉ đủ đem sang bù vào số tiền thua lỗ của Peter, vì anh ta không làm cho công ty phát triển lên được.
Cho nên chỉ còn một giải pháp bán dãy cửa hàng đi có lẽ bán cho người đang quản lý, để có được số tiền mặt. Số tiền bán này đem dùng vào việc hiện đại hóa nhà máy, trang bị cho nhà máy bằng hệ thống sản xuất theo dây chuyền, hệ thống mà các nhà máy sản xuất giày hiện đại đang dùng. Peter phải giao cho bà quyền điều khiển và anh ta chỉ điều khiển cửa hàng ở New York thời, nhưng phải chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt khi chi tiêu tiền của cửa hàng. Bà muốn cứ để cho anh ta nhận chức chủ tịch công ty và có quyền ưu tiên dành cho anh, nhưng anh phải từ bỏ hết quyền năng mà anh hiện có.
Bà đã đưa ý kiến này vào trong tờ trình đặc biệt nới về vai trò của Peter. Anh hứa sẽ suy nghĩ về vấn đề này. Nancy nhẹ nhàng nói với Peter rằng anh không thể để cho công ty tiếp tục xuống dốc, và nếu anh không bằng lòng kế hoạch của bà, buộc lòng bà phải đưa vấn đề này ra trước hội đồng quản trị - như thế có nghĩa là anh sẽ bị truất quyền và bà làm chủ tịch công ty. Bà rất hy vọng anh ta sẽ thông cảm. Nếu anh ta ương ngạnh không chịu chấp nhận, bà sẽ nêu rõ việc làm ăn thất bại tồi tệ của anh, và như thế tình ruột thịt sẽ tan vỡ, không bao giờ hàn gắn lại được. Mãi cho đến bây giờ anh ta vẫn chưa có phản ứng gì. Anh ta có vẻ bình tĩnh, trầm ngâm, và hòa nhã với bà. Hai chị em thỏa thuận cùng đi Pans, Peter thì để mua các mẫu mã áo quần tân thời cho cửa hàng của mình, còn Nancy thì đi xem hàng hóa vừa kiểm tra việc chi tiêu cửa em. Nancy rất thích châu Âu, nhất là Pans, và bà rất mong đến Luân Đôn nhưng khi đến đây thì chiến tranh bùng nổ.
Họ quyết định quay về Hoa Kỳ ngay tức khắc, nhưng mọi người đều cùng làm như thế, dĩ nhiên, nên họ rất khó khăn trong việc tìm ra phương tiện để về. Cuối cùng Nancy mua được vé tàu thủy, tàu sẽ khởi hành ở Liverpool. Sau một chuyến đi dài bằng tàu hỏa và bằng phà, họ đến được cảng vào hôm qua và hôm nay họ sẽ lên tàu.
Việc chuẩn bị chiến tranh ở Anh đã làm cho bà sốt ruột.Chiều hôm qua một nhân viên trong khách sạn đến phòng bà để thiết lập trên cửa sổ một hệ thống màn che ánh sáng. Tối đến, tất cả các cửa sổ phải tuyệt đối tối để tư trên không, máy bay không thấy được thành phố. Người ta dán băng vải vào kính để phòng khi bị dội bom, kính vỡ sẽ không văng xa có thể gây thương tích cho người.
Người ta chất những bao cát trước khách sạn, và phía sau khách sạn có hầm trú ẩn.
Điều bà sợ nhất là Hoa Kỳ tham gia chiến tranh, vì như thế hai cậu con trai của bà, Liam và Hugh, sẽ bị động viên. Bà nhớ khi Hitler lên nắm quyền, bố bà nói rằng người Đức Quốc xã ngăn cấm nước Đức trở thành Cộng sản; và đấy là quyết định sau cùng của Hitler. Bà có quá nhiều việc phải làm, không cần phải bận tâm đến châu Âu. Bà không quan tâm đến nền chính trị quốc tế, không quan tâm đến cán cân quyền lực, cũng không quan tâm đến việc lớn mạnh của chủ nghĩa phát xít:những diều viển vông xa vời như thế hoàn toàn vô nghĩa so với đời sống của các con bà. Người Ba Lan, người Áo, người Do thái và người Slavơ phải tự lo cho mình. Công việc của bà là lo cho Liam và Hugh.
Thực ra các cậu con trai của bà không cần bà lo lắng. Nancy lấy chồng sớm và bà có con liền, nên hai con của bà bây giờ đã trưởng thành. Liam đã có vợ, hiện ở tại Houston, còn Hugh vừa học hết năm cuối cùng ở Yale. Hugh không học hết mình, và bà kinh ngạc khi biết cậu ta đã mua chiếc xe thể thao, nhưng cậu đã qua tuổi nghe lời khuyên của mẹ.
Bà nghĩ, chiến tranh sẽ làm cho công việc làm ăn phát đạt, và thế nào cũng có sự bùng nổ kinh tế ở nước Mỹ. Cho dù Hoa Kỳ có tham chiến hay không, thì quân đội cũng phải phát triển, và như thế sẽ có sự gia tăng về đơn đặt hàng của chính phủ - thêm nguyên do để nhà máy hiện đại hóa.
Nhưng khi bà nghĩ đến chuyện các con bà có thể bị gọi vào quân đội, bà thấy tất cả đều không . có gì quan trọng nữa, vì con bà sẽ đi chiến đấu tại một chiến trường xa xôi, và có thể chết ở đấy. Người phu mang hành lý bước vào, cắt đứt dòng suy nghĩ vẫn vơ của bà. Bà hỏi anh ta để biết Peter đã cho người mang hành lý đi chưa. Bằng giọng địa phương nặng trịch khiến bà phải hết sức cố gắng mới hiểu, anh ta nói rằng em trai bà đã cho mang hành lý xuống thu từ tối hôm qua.
Muốn biết chắc Peter đã đi chưa, bà đến gõ cửa phòng của anh ta. Người đàn bà giúp việc mở cửa, và cũng với giọng địa phương khó nghe, chị cho biết Peter đã rời khách sạn từ đêm qua.
Nancy quá sửng sốt. Đêm qua bà ăn tối trong phòng để ngủ cho sớm, và Peter cũng nói anh sẽ làm như bà. Nếu anh ta đổi ý, thì đêm qua anh ta ở đâu Bà đi xuống tiến sảnh để điện thoại, nhưng bà không biết gọi ai. Cả bà và Peter đều không quen biết ai ở Anh hết. Liverpod nằm đối diện với Dublin.
Phải chăng Peter sang Ailen để thăm gốc gác của gia đình Black Từ đầu, hai chị em đã có ý định ấy. Nhưng Peter cho rằng, nếu đi thì anh ta sẽ không về kịp để lên tàu.
Bỗng bà nảy ra trong óc một ý, bà yêu cầu cô phụ trách điện thoại gọi số điện thoại của cô Tilly ở Hoa Kỳ. Điện thoại từ châu Âu sang Mỹ là một việc rất phiêu lưu. Đường dây thường bận và người ta phải đợi, có thể đợi thật lâu mà cũng có thể trong vài phút. Đường dây lại thường bị nhiễu, người nói phải la lên đầu giây bên kia mới nghe.
Ở Boston giờ này chắc chưa được 7 giờ sáng, nhưng cô Tilly chắc đã dậy rồi. Như bao nhiêu người có tuổi, bà ngủ ít và dậy sớm. Bà rất tỉnh ngủ.
Vì trời còn sáng sớm nên công việc kinh doanh buôn. bán ở Hoa Kỳ chưa bắt đầu cho nên chỉ khoảng 5 phút sau, chuông vang lên trong buồng. điện thoại.
Nancy nhấc ống nghe và nghe tiếng nói quen thuộc vang lên. trong máy. Bà mường tượng cô Tilly đang mặc áo ngủ bằng xoa, mang giày vải lót lông thú, bước nhanh trên sàn nhà bếp bóng loáng để đến nhấc máy điện thoại màu ở tiền sảnh.
– Alô?
– Cô Tiny hả, Nancy đây.
– Lạy Chúa, cháu khỏe không đấy?
– Rất khỏe. Chiến tranh bùng nổ rồi, nhưng người ta chưa bắt đầu bắn nhau, ít ra chưa ở Anh. Cô có tin tức gì về mấy thằng con của cháu không?
– Cả hai đều mạnh khỏe. Cô vừa nhận tấm bưu ảnh của Liam:nó ở Palm Beach và nó nói Jacqueline có nước da rám nắng rất đẹp, chưa bao giờ đẹp như thế Hugh có chở cô đi một vòng trên chiếc xe mới của nó, chiếc xe rất đẹp.
– Nó lái có nhanh không?
– Cô thấy nó lái cẩn thận lắm, nó từ chối không uống rượu, nó nói rằng uống rượu thì không được lái xe.
– Cháu thấy yên tâm rồi.
– Chúc cháu sinh nhật vui vẻ! Cháu làm gì bên Anh thế?
– Cháu đang ở tại Liverpool, chuẩn bị đáp tàu về Hoa Kỳ, nhưng cháu không thấy Peter đâu hết. Không biết cô có tin tức gì về cậu ấy không?
– Có cháu à! Nó đã triệu tập Hội đồng quản trị họp vào ngày mốt vào đầu giờ.
Nancy sững sờ.
– Cô nói họp vào sáng thứ sáu à?
– Phải, cháu à, thứ sáu, tức là ngày mốt, - cô Tilly trả lời với giọng hơi gay gắt. Giọng cô như muốn nói:tao chưa già đến độ lẩm cẩm không như ngày tháng trong tuần.
Nancy chẳng hiểu ất giáp gì hết. Tại sao triệu tập Hội đồng quản trị khi không có bà mà cũng không có Peter. Hai người còn lại trong ban quản trị là Tilly và Danny Riley, họ không đủ tư cách để quyết định công việc.
– Có lẽ có một âm mưu gì rồi đây. Phải chăng Peter có ý đồ gì đen tối?
– Buổi họp vào ngày mốt sẽ bàn về chuyện gì, thưa cô?
– Để cô đọc lệnh họ cho cháu nghe, - Tilly đọc to:
“Biểu quyết việc bán công ty giày Black cho Tổng công ty dệt với những điều kiện đã được chủ tịch công ty thương lượng”.
– Lạy Chúa lòng lành! - Nancy nghẹn ngào. Bà cảm thấy bủn rủn. Cả người như muốn xỉu. Peter bán công ty sau lưng bà. Cố hết sức giữ bình tĩnh, bà nói, giọng run run:
– Cô làm ơn đọc lại lệnh họp.
– Làm sao Peter làm được chuyện này nhỉ? Anh ta thương lượng khi nào?
Chắc anh ta đã làm việc này từ khi bà đưa cho anh ta tường trình bí mật của mình.
Anh ta đã làm ra vẻ suy nghĩ về những lời đề nghị của bà, nhưng thực ra anh ta đã lén âm mưu sắp đặt việc này sau lưng bà.
Bà thường nghĩ Peter là con người yếu đuối, nhưng bà không ngờ anh ta đã hành động phản bội như thế này.
– Nancy, cháu còn ở đấy chứ?
Bà nuốt nước bọt, đáp:
– Vâng, còn. Nhưng cháu quá sửng sốt. Peter không nói gì với cháu về chuyện này hết.
– Thế sao? Làm thế là sai rồi.
– Rõ ràng cậu ta muốn thông qua việc này trong lúc cháu vắng mặt ... nhưng chắc cậu ta không về kịp để dự phiên họp được. Hôm nay chúng cháu mời lên tàu thủy chúng cháu không về nhà được trước 5 ngày.
– Thế nhưng, bà nghĩ, Peter đã biến mất rồi.
– Không có máy bay à?
– Chiếc Clipper - Nancy bỗng nhớ ra. Bà đã đọc trong báo. Người ta có thể vượt Đại Tây dương trong một ngày.
– Đúng rồi, chiếc Clipper. - Tilly đáp. – Danny Riley đã nói Peter sẽ về bằng chiếc Clipper, nó sẽ có mặt ở đây đúng vào giờ họp hội đồng quản trị.
Nancy nghĩ đến chuyện Peter đã nói láo với bà, ta đi với bà đến Liverpool để cho bà tin rằng anh ta sẽ đi tàu thủy. Chắc anh ta đã ra đi ngay sau khi hai chị em chia tay ở trên hành lang khách sạn, và đi suốt đêm để đến Southampton đúng giờ. Và có thể nói rằng trong lúc hai người nói chuyện, ăn trưa, ăn tối với nhau ở Pans, thì anh ta đã lừa gạt bà rồi.
Cô Tilly hỏi:
– Tại sao cháu không cùng đi chiếc Clipper?
– Đã trễ quá chưa nhỉ.Hẳn là Peter đã trừ tính sao cho khi bà biết anh ta ở đâu, thì bà không còn có đủ thì giờ đuổi kịp anh nữa. Nhưng biết đâu.
– Cháu sẽ cố thử, - bỗng Nancy đáp với giọng quả quyết – Chào cô. - Nói xong, bà móc máy.
Bà suy nghĩ một lát. Hôm nay chiếc Clipper sẽ rời Southanlpton để đến New York vào ngày mai, như thế là Peter sẽ có mặt ở Boston để họp vào thứ sáu.
Lòng buồn rầu, bà đến bàn tiếp tân hỏi người trực nhật chiếc Clipper sẽ cất cánh ở Southampton lúc mấy giờ?.
– Bà đi không kịp đâu, thưa bà, - anh ta đáp.
– Anh vui lòng xem lại thời biểu xem sao? – Bà nói, cố giữ bình tĩnh.
Anh ta lấy tờ giấy thông báo giờ tàu bay đi và đến, mở ra xem rồi đáp:
– Máy bay cất cánh lúc 2 giờ.
Bà xem đồng hồ, đúng 12 giờ trưa.
– Bà không thể đến Southampton đúng giờ được đâu - người trực nhật nói. - Cho dù bà đi máy bay tư nhân.
– Không có máy bay à? - Bà khăng khăng hỏi.
Mặt người nhân viên tỏ vẻ kiên nhẫn, sự kiên nhẫn của nhân viên khách sạn chiều chuộng khách nước ngoài ngốc nghếch. Anh ta đáp:
– Có một bãi đáp máy bay cách đây khoảng 15 cây số.Thường khi, người ta có thể tìm gặp ở đấy người phi công sẵn sàng chở khách đến bất kỳ nơi đâu để lấy tiền. Nhưng phải đến tận bãi đáp, tìm gặp phi công, thỏa thuận lộ trình, đáp xuống gần Southampton, rồi phải đi từ bãi đáp đến bến tàu. Chắc bà không thể đi được trong vòng 2 giờ.
Bà bỏ đi, lòng thất vọng ghê gớm.
Từ lâu bà đã có kinh nghiệm rằng sự tức giận chẳng ích gì cho công việc.
Khi gặp chuyện xấu thì nên tìm cách để lật ngược tình hình. Bà tự nhủ:mình không thể về Boston được thì mình có thể từ đây ngăn cản việc bán công ty cũng được.
Bà quay lại buồng điện thoại. Bây giờ ở Boston mới quá 7 giờ. Thế nào luật sư của bà, ông Patrick Machride, cũng có mặt ở nhà. Bà nói số cần gọi cho tổng đài viên điện thoại.
Mac là người mà em bà lo ngại. Khi Sean chết, Mac đứng ra lo liệu hết mọi việc:kiểm tra, chôn cất, di chúc và tài chánh riêng của Nancy. Ông ta đối xử với các con bà rất tuyệt, dẫn chúng đi xem bóng đá, đến dự các buổi trình diễn của chúng tổ chức ở trường, rồi khuyên chúng nên chọn trường đại học nào và chọn nghề gì. Khi có dịp, ông ta chuyện trò thân mật với các cậu về việc đời Khi bố Nancy mất, ông khuyên bà không nên để cho Peter làm chủ tịch Công ty. Bà không chịu nghe và bây giờ bà mới thấy Mac nói đúng. Bà biết ông ta đem lòng yêu thương bà, nhưng tình yêu này không đi đến đâu được: Mac là người theo Thiên chúa giáo ngoan đạo, rất trung thành với người vợ nhỏ nhắn tròn trịa, không có sắc đẹp. Nancy thương mến ông ta nhưng ông ta không phải loại người làm cho bà yêu say đắm:ông ta dịu dàng, tròn trịa, cử chỉ khoan thai, cái đầu hơi hói, mà bà thì chỉ thích những người mạnh mẽ, nhiều tóc - những người như Nat Ridgeway. Chính anh chàng này đã âm mưu với Peter, muốn nắm quyền kiểm soát công ty Giày Black.
Mặc dù bà không gặp Nat, nhưng bà biết ông ta có đến Pans để thu thập mẫu hàng may mặc. Peter và ông ta chắc đã lợi dụng cơ hội này để bàn chuyện lập kế hoạch phản bội bà.
Khi bà nghĩ đến chuyện họ âm mưu lừa gạt mình, bà rất giận. Điện thoại reo, bà nhấc máy, may là đường dây không bận.
Mac trả lời điện thoại, miệng ngồm ngoàm thức ăn chắc ông ta đang ăn sáng.
– Hứ?
– Mac đấy à, Nancy đây.
Ông ta vội nuốt nhanh rồi đáp:
– Thật ơn Chúa, bà đã gọi về! Tôi tìm bà mãi ở châu Âu Peter muốn ...
– Tôi biết rồi, tôi nghe nói, - bà cắt ngang lời ông ta. - Điều kiện thỏa thuận như thế nào?
– Cứ một cổ phần của Tổng công ty Dệt ăn 5 cổ phần của công ty Black, mỗi cổ phần của công ty Dệt là hơn 2700 tiền mặt.
– Lạy Chúa, như thế chẳng khác nào quà tặng.
– Tính cả lợi túc của phần bà, giá này không thấp quá – Nhưng tài sản của chúng tôi giá trị nhiều hơn thế!
– Ấy! Tôi không có ý chống lại bà dâu, - ông ta cãi lại
– Xin lỗi, Mac, tôi quá tức.
– Tôi hiểu. .
Bà nghe có tiếng con nít gây gổ nhau lần đâu đấy.Ông ta có 5 đứa con, toàn con gái. Bà còn nghe có tiếng rađiô, và tiếng nước sôi kêu phì phì.
Một lát sau, ông ta nới tiếp:
– Tôi đồng ý đề nghị đưa ra là quá thấp. Đề nghị phản ảnh mức thu hiện thời của công ty, đúng thế, nhưng người ta không nghĩ đến giá trà của tài sản và tiềm năng của nó.
– Tôi cũng nghĩ thế.
– Chuyện chưa hết đâu.
– Còn gì nữa?
– Peter sẽ tiếp tục điều khiển công ty Black trong thời gian 5 năm sau khi nằm dưới quyền kiểm soát của bên kia:Nhưng không dành gì cho bà hết.
Nancy nhắm mắt lại. Đây là đòn ác độc nhất. Bà cảm thấy buồn nôn.
– Cái thằng Peter lười biếng, vô tích sự, kẻ đã được bà che chở bao bọc, sẽ ngồi yên vị trí; còn bà, người gây dựng duy trì công ty, thì sẽ phải ra đi, – Tại sao em trai tôi lại làm như thế với tôi?
– Tôi rất thất vọng, Nancy à.
– Cám ơn.
– Tôi không bao giờ tin tưởng Peter hết.
– Bố tôi đã gây dựng cơ đồ này, - bà nói lớn - không thể để cho Peter phá hủy đi được.
– Bà muốn tôi phải làm gì?
– Ông không ngăn cản hắn lại được à?
– Nếu bà về kịp tham dự buổi họp, tôi tin chắc bà sẽ thuyết phục được bà cô của bà và ông Dauny Riley từ chối lời đề nghị ....
– Tôi không làm sao về kịp. Ông không thuyết phục họ được sao?
– Có thể được nhưng chẳng ích lợi gì:Peter có cổ phần nhiều hơn. Hai người ấy chỉ có mỗi người 10 phần trăm, còn anh ta có đến 40.
– Ông không biểu quyết thay tôi được à?
– Tôi không có giấy ủy quyền.
– Tôi biểu quyết qua điện thoại được không?
– Ý kiến rất hay ... Nhưng tôi nghĩ còn tùy thuộc vào hội đồng quản trị, và Peter sẽ dùng đa số để bác bỏ.
Hai người im lặng để suy nghĩ tìm ra phương kế.
Bỗng bà nhớ đến thái độ hòa nhã của ông ta, bà hỏi:
– Gia đình ông bình an chứ?
– Chưa ai rửa ráy, chưa mặc áo quần và không nghe lời. Betty có thai.
Bỗng Nancy quên hết buồn phiền. Bà kêu lên:
– Không đùa đấy chứ? - Bà nghĩ họ thường không muốn có nhiều con. Đứa út đã 5 tuổi rồi. - Nghỉ lâu rồi mà có còn lại sao?
– Chắc là vì hoàn cảnh cần phải có thêm.
Naney bật cười – Chúc mừng ông!
– Cám ơn. Nhưng bà xã tôi hơi ... quá tải.
– Thế sao?
– Cám ơn. Chị ấy trẻ hơn tôi mà.
– Nhưng sáu đứa con, thế là nhiều quá.
– Ông có thể lo chu toàn mà.
– Đúng. Bà không thể đi chiếc máy bay ấy được sao?
Nancy thở dài.
– Tôi đang ở Liverpool, cách xa Southampton đến 300 cây số, mà máy bay thì sẽ cất cánh trong vòng chưa đầy hai giờ nữa. Không thể nào đi được.
– Liverpool à? Không xa Ailen.
– Đừng khuyên tôi đi du lịch nữa ông ơi.
– Chiếc Clipper sẽ tạm dừng ở Ailen mà!
Bỗng Nancy cảm thấy hồi hộp. Bà hỏi:
– Ông chắc không đấy?
– Tôi đọc trên báo như thế.
Thế là tình hình thay đổi rồi, bà tự nhủ, lòng lại cảm thấy hy vọng. Có thể bà đi phi cơ được lắm chứ.Bà hỏi tiếp:
– Máy bay tạm dừng ở đâu ... ở Dublin à?
– Không chỗ nào đấy ở bờ phía tây, tôi –không nhớ tên. Nhưng bà có thể đến kịp để đáp phi cơ.
– Để tôi hỏi xem và sẽ gọi cho ông sau. Tạm biệt.
– Này, Nancy!
– Cái gì?
– Chúc sinh nhật vui vẻ.
Bà nhìn bức tường, nhoẻn miệng cười.
– Mac, anh thật tuyệt.
– Chúc may mắn.
– Chào anh. - Bà móc điện thoại, quay lại bàn tiếp tân. Người nhân viên trực cười với bà, nụ cười chiếu cố. Bà cố làm ngơ tỏ thái độ khiếm nhã của anh ta; căng quá sẽ làm cho anh ta bớt hợp tác. Bà bèn lấy giọng hòa nhã nói với anh ta:
– Theo chỗ tôi biết thì chiếc Clipper sẽ tạm dừng ở Ailen. . .
–Đúng thế thưa bà, dừng ở Foynes, trong cửa sông Shannon.
Bà muốn hỏi: Thế thì sao hồi nãy anh không nói, thằng khờ phách lối kia. Nhưng bà chỉ cười và nói:
– Nghỉ ở đấy lúc mấy giờ?
Anh ta lấy bảng thông báo giờ lên xem và đáp:
– Máy bay sẽ đáp xuống lúc 3 giờ 30 và cất cánh lại lúc 4 giờ 30.
– Tôi có thể đến đấy kịp không?
Nụ cười rộng lượng biến mất trên môi, anh ta nhìn bà với ánh mắt khiển trách, rồi nói:
– Tôi nghĩ là không kịp đâu. Muốn đến đấy bà phải đi trên chiếc máy bay nhỏ hai giờ. Nếu tìm ra được phi công, bà mới có thể đến đấy kịp.
Sự căng thẳng gia tăng thêm. Bà thấy tình thế có vẻ thực hiện được.
– Ông vui lòng gọi cho tôi chiếc tắc xi để đưa tôi ra bãi đáp phi cơ, được không?
Anh ta búng ngón tay, gọi người nhân viên khách sạn.
– Gọi tắc xi cho bà! - Anh ta quay qua Nancy.
– Còn hành lý của bà? - Hành lý đã được mang xuống để ở tiền sảnh. - Bà không thể chất hành lý này trong một chiếc máy bay nhỏ được đâu.
– Ông cho chuyển giúp đến tàu thủy được không?
– Được. . .
– Ông gửi tiền giúp tôi nhanh lên.
– Có liền.
Nancy mở vali lấy ra cái túi xách du lịch nhỏ.
Túi xách đựng các thứ dùng trang điểm, áo quần để thay lúc đi đường. Bà mở vali lấy ra cái áo tay cụt bằng xoa màu xanh nước biển để dùng vào sáng mai, cái áo ngủ và áo khoác ngoài để ngủ. Bà đã mang sẵn trên tay chiếc măng tô ca sơ mia xám mà bà định mặc khi lên boong tàu cho khỏi lạnh. Bây giờ bà mang theo luôn. Có thể dùng mặc cho ấm khi ngồi trên máy bay. Bà đóng vali lại.
– Thưa bà Lenehan, phiếu tính tiền của bà đây.
Bà viết ngân phiếu rồi biếu anh ta ít tiền boa.
– Xin cám ơn, thưa bà Lenehan. Tắc xi đang đợi bà. - Bà bước nhanh ra ngoài, leo lên chiếc tắc xi kiểu Anh nhỏ nhắn. Người nhân viên khách sạn mang túi xách ra để bên cạnh bà trên xe, rồi dặn dò người tài xế.
Nancy nói thêm:
– Và xin anh lái nhanh cho.
Chiếc tắc xi chạy qua trung tâm thành phố với tốc độ rì rì thật chán. Bà nóng lòng, dí đầu mũi giày da hoẵng xuống thảm lót xe. Xe chạy chậm là vì có nhiều người đang sơn những vạch trắng ở giữa đường, trên lề đường và quanh các gốc cây. Bà tự hỏi không biết họ sơn như thế để làm gì, rồi bà đoán có lẽ họ vẽ những đường trắng ấy là để giúp những người lái xe hơi trong đêm tối.
Khi ra ngoại ô xe chạy nhanh hơn và khi vào vùng quê xe mời phóng nhanh được. Ra đến đây, bà không thấy có dấu hiệu gì chuẩn bị chiến tranh hết.
Người Đức sẽ không dội bom ở vùng quê, nếu không có lý do. Bà xem đồng hồ mãi. Đã 12 giờ 30. Giả sử bà tìm được máy bay và phi công, yêu cầu được chở bà đi sau khi đã ngã giá, công việc nếu, diễn ra nhanh chóng, thì chắc máy bay sẽ cất cánh lúc 1 giờ. Người nhân viên khách sạn nói máy bay sẽ bay trong vòng 2 giờ.Bà sẽ hạ cánh lúc 3 giờ. Sau đó, đương nhiên bà sẽ tìm cách để đi từ bãi đậu máy bay đến Foynes.
Nhưng chắc đường sẽ không xa. Có xe hơi chở bà đến tận bến tàu không. Mà lo nghĩ nhiều làm chi, vô ích.
Rồi bà lo chiếc Clipper đã đủ người rồi. Tất cả tàu bè đều đủ người hết.
Bà cố xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi tâm trí. Bà định hỏi tài xế đường còn bao xa, thì bỗng bà thở phào nhẹ nhõm khi người tài xế quẹo xe, chạy vào một cánh đồng. Khi chiếc xe chạy gập ghềnh trên cỏ, Nancy thấy hiện ra trước mắt một nhà kho. Những chiếc máy bay nhỏ có màu sắc rực rỡ đậu trên bãi cỏ trông như bộ sưu tập bướm trên tấm vải nhưng. Không thiếu máy bay, bà vui mừng nghĩ thế. Nhưng bà phải có phi công, và có vẻ như không có bóng dáng phi công nào quanh đấy hết.
Tài xế đưa bà đến tận cánh cửa lớn của nhà kho.
– Anh vui lòng đợi tôi một lát, - bà nói rồi nhảy xuống xe. Bà không muốn bị kẹt lại ở đây:Bà đi nhanh vào trong nhà kho. Bên trong có ba chiếc máy bay, nhưng không có người. Bà quay ra lại ngoài trời nắng. Chắc phải có ai chứ, nếu không thì cửa kho đã đóng rồi, bà thầy có ba người đàn ông đang đứng quanh một chiếc máy bay. Chiếc máy bay thật đẹp:Màu vàng nghệ, hai bánh xe nhỏ màu vàng tươi, chiếc máy bay khiến Nancy nhớ đến những chiếc xe trẻ con chơi.
Máy bay có hai bánh, các cánh nối với nhau bằng những thanh ngang, một động cơ duy nhất gắn ở trên mũi máy bay. Vì thế mà cái chong chóng phải chĩa lên trời, nên trông nó giống như con chó con năn nỉ xin người ta dẫn nó đi chơi.
Người ta đang đổ nhiên liệu vào máy bay. Một người mặc quần áo có dây dai màu xanh lấm dây vết dầu, đội mũ liêu trai đang ngồi tót trên đầu chiếc thang, chăm chú đổ xăng từ trong thùng vào chỗ phình ra trên cánh máy bay nằm phía trên chỗ ngồi ở phía trước.
Bên cạnh đấy, một người đàn ông to cao, đẹp, tuổi cỡ tuổi Nancy, đầu đội mủ phi công, mặc áo khoác bằng da. Ông ta đang nói chuyện với một ông mặc bộ com lê bằng vải tuýt.
Nancy đằng hắng giọng và nói:
– Xin lỗi quí vị.
Hai người đàn ông quay mặt nhìn bà, nhưng người lớn nhất vẫn tiếp tục nói, không quan tâm chú ý đến bà. Tình hình có vẻ không ra chi, Nancy nói:
– Tôi xin lỗi làm phiền quí ông. Tôi muốn thuê một chiếc máy bay.
Người đàn ông to con ngừng nói chuyện một giây để trả lời bà:
– Tôi không thể giúp bà được.
– Tôi có việc khẩn cấp. - Nancy năn nỉ nói.
– Bà xem tôi là đồ lái tắc xi sao? - Ông ta lại quay sang trả lời bà.
Nancy nổi giận, bà đáp lại:
– Tại sao cục cằn thế?
Ông ta ngạc nhiên, nhìn bà, và bà nhìn thấy cặp lông mày đen của ông ta có hình dấu mũ. Ông ta bèn dịu dàng nói:
– Tôi không muốn cục cằn, nhưng máy bay của tôi không cho thuê và tôi cũng không làm thuê.
Bà thất vọng, nói tiếp:
– Xin ông đừng giận, đây là chuyện tiền bạc sòng phẳng, tôi sẽ trả với giá ...
Lần này ông ta nổi giận, mặt ông đanh lại, ông quay người sang phía khác.
Nancy nhận thấy dưới chiếc áo khoác bằng da là bộ com lê màu xám đậm có sọc màu nhạt hơn, ông ta đi đôi giày đen đóng tại Oxford chính hiệu, chứ không phải loại sao chép rẻ tiền như hãng của Nancy chế tạo. Ông ta đúng là một doanh gia giàu có, lái máy bay riêng để giải trí – Vậy không có ai cho thuê máy bay hết à? -Bà hỏi.
Người thợ máy ngẩng mặt lên khỏi thùng đựng xăng, lắc đầu nói:
– Hôm nay không có ai hết.
Người đàn ông mặc áo khoác nói với người kia:
– Tôi không làm công việc gì để phải mất tiền hết. Ông hãy nói với Seward rằng số tiền người ta trả cho ông ấy chỉ là giá bình thường thôi.
– Tiếc thật, - người mặc bộ comlê tuýt đáp lại, - đây là bảng giá anh ta đã bàn bạc rồi.
– Tôi biết. Ông nói với ông ta lần sau chúng ta sẽ thương thảo một giá cao hơn. À,Như thế chắc anh ta không bằng lòng đâu.
– Vậy thì thôi, anh ta cứ làm một mình đi.
Nancy muốn hét lên vì thất vọng. Bà thấy tức tối khi đứng trước một chiếc máy bay tốt đẹp, có phi công, và bà đã nói hết lời mà vẫn không làm cho ông ta xiêu lòng. Gần như muốn khóc, bà ta buột miệng nói lớn:
– Tôi phải đi đến Foynes mới được.
Người đàn ông cao lớn quay lại, ông ta hỏi:
– Bà nói bà đến Foynes à?
– Phải.
– Tại sao?
Bà đã làm cho ông ta chịu nói chuyện rồi đấy.Bà đáp:
– Tôi đến cho kịp để đáp chiếc Clipper của hãng Pan American.
– Thật là lạ.Chính tôi cũng thế.
Bà bắt đầu hy vọng trở lại. Bà thốt lên:
– Ôi lạy Chúa. Ông đi đến Foynes à?
– Đúng thế. - ông ta có vẻ đau khổ. - Tôi đuổi theo cô vợ tôi.
Nói gì mà tức cười thế không biết, bà nghĩ, thật không hợp với thái độ hùng hổ của ông ta mới rồi tí nào:một người có khả năng thú nhận một việc động trời như thế này quả là người hoặc rất yếu đuối, hoặc rất tự tin. Bà nhìn chiếc máy bay. Máy bay có hai chỗ ngồi, một trước một sau.
Máy bay của ông có hai chỗ ngồi phải không?– Bà hỏi, giọng run run.
Ông ta nhìn bà từ đầu đến chân. Ông đáp:
– Phải, có hai chỗ.
– Tôi van ông, xin ông cho tôi đi với.
Ông ta ngần ngừ một lát rồi nhún vai.
– Tại sao không?
Bà gần như ngất xỉu vì mừng rỡ.
– Ôi thật ơn Chúa. Tôi hết sức cám ơn ông.
– Vui mừng được biết bà. - ông đưa bàn tay to tướng ra cho bà bắt. - Tôi là Mervyn Lovesey.
Bà bắt tay ông ta.
– Tôi là Nancy Lenchan, - bà đáp. - Tôi hết sức sung sướng được gặp ông.
*
* *
Cuối cùng, Eddie nhận ra anh cần phải nói chuyện với ai đấy.
Với người mà anh hoàn toàn tin cậy, người có thể giữ được tuyệt đối chuyện bí mật này.
Người duy nhất mà anh có thể thảo luận được những việc như việc này thì chỉ có Carol-Ann mà thôi.
Nàng mới là người đáng tin cậy. Thậm chí anh cũng không thể thảo luận với bố anh về việc này:anh không muốn thổ lộ sự yếu đuối của mình cho bố thấy.
Vậy bây giờ anh có thể tâm sự với ai đây.
Anh nghĩ đến Baker, Cơ trưởng máy bay. Martin Baker là loại phi công thương mến hành khách:Ông ta đẹp mã, hàm vuông, về tự tin. Eddie nể trọng ông và thương mến ông. Nhưng ông ta là người yêu quí máy bay, trong sinh mạng của khách và rất nguyên tắc. Thế nào ông ta cũng đem chuyện này báo cho cảnh sát biết. Không nên nói với ông ta làm gì.
Người khác là ai nhỉ?
Phải, Steve Appleby.
Steve là con trai một tiểu phu ở Oregon, anh ta to con, thịt rắn chắc như gỗ.Gia đình anh theo Thiên Chúa giáo, nghèo như ông Job vậy. Hai người quen biết nhau khi họ mới bước chân vào trường Annapolis. Họ trở thành bạn bè ngay từ ngày đầu gặp nhau trong phòng ăn tập thể, căn phòng rộng sơn màu trắng. Hôm ấy, trong lúc mọi người chê bai món ra gu đỡ ẹc, thì Eddie đã rửa xong dĩa ăn của mình. Ngẩng mặt lên nhìn, anh thấy một sinh viên sĩ quan khác cũng nghèo, có vẻ thỏa mãn thức ăn đó là Steve.Bốn mắt gặp nhau, thông cảm nhau sâu sắc.
Hai người chơi với nhau thân thiết suốt thời gian học ở trường, rồi sau đó gặp lại nhau ở Pearl Harbor. Khi Steve cưới Nella, Eddie làm phụ rể, hai người cùng phục vụ tại một nhiệm sở. Steve vẫn ở trong hải quân, tại căn cứ hải quân Portsmouth, bang New Hampshin. Bây giờ thì hai người không gặp nhau luôn, nhưng chuyện này không quan trọng, vì tình bạn của họ đã sống mãi với thời gian, dù không gặp nhau. Họ không viết thư cho nhau, vì chẳng có gì quan trọng để viết. Thỉnh thoảng họ gặp nhau ở New York, cùng đi ăn với nhau, hay là đi xem đá bóng, và họ cảm thấy gần gũi như mới gặp nhau hôm qua. Eddie nên tâm sự với Steve.
Rồi bỗng Steve trở thành người xoay xở rất tài. Một giấy phép đi nghỉ cuối tuần, một chai rượu ngon, hai vé ngồi xem trận đấu quan trọng, anh kiếm được hết trong khi những người khác bó tay.
Eddie phải tiếp xúc với Steve mới được. Anh chạy vào khách sạn.Anh đến phòng điện thoại, đưa số của căn cứ hải quân cho người phụ trách điện thoại, rồi anh lên phòng mình. Khi cô phụ trách điện thoại nối được đường dây, cô ta sẽ báo cho anh biết. - Anh cởi áo quần lao động ra, không dám mở nước tắm, vì anh sợ đang tắm thì điện thoại ở dưới reo. Cho nên anh đành rửa tay rửa mặt trong bồn rửa, rồi mặc cái sơ mi trắng sạch và chiếc quần của bộ đồng phục.
Công việc này làm cho anh bình tĩnh lại đôi chút. Anh không biết Steve sẽ nói gì, nhưng chắc anh sẽ thấy dễ chịu khi có người san sẻ khó khăn với anh.
Anh đang thắt cà vạt thì người phụ trách điện thoại đến gõ cửa. Anh chạy xuống thang lầu, nhấc ống nói lên nghe. Đường dây liên lạc được với tổng đài viên của căn cứ.
– Cô làm ơn cho tôi gặp Steve Appleby được không?
– Trung úy Appleby đang bận, không thể nối đường đây đến ông ta được, - cô tổng đài viên đáp. Eddie cảm thấy tim mình thắt lại. Cô ta nói thêm:
– Tôi chuyển tin lại cho ông ấy được không?
Eddie rất thất vọng. Anh biết Steve không làm sao cứu Carol-Ann được nhưng có thể có một ý gì đấy nảy sinh khi họ nói chuyện.
– Thưa cô, chuyện này khẩn cấp lắm. Ông ấy ở đâu?
– Tôi xin phép hỏi ông là ai được không, thưa ông?
– Tôi là Eddie Deakin.
Cô phụ trách điện thoại liền bỏ giọng quan trọng, vui vẻ ,nói.
– Ô, chào Eddie! ông là phụ rể cho ông ấy phải không. Tôi là Laura Gros chúng ta gặp nhau rồi mà. Rồi cô ta nói tiếp bằng giọng bao che:
– Ông ta vắng mặt không chính thức. Đêm qua, ông ra ngoài căn cứ.
Eddie cố nén tiếng càu nhàu. Steve chọn đúng lúc đấy chứ.
– Theo cô thì khi nào mới gặp lại anh ta?
– Đúng ra là ông ấy phải có mặt trước bình minh, nhưng chưa thấy ổng đến.
Vậy là không những Steve vắng mặt mà thôi, anh ta lại còn có nguy cơ gặp chuyện không hay nữa.
Cô nhân viên tổng đài nói tiếp.
– Tôi có thể chuyển đường dây đến cho Nella, chị ấy hiện trong phòng đánh máy.
– Tốt, cám ơn. - Dĩ nhiên anh không thể tâm sự với Nella, nhưng có thể chị ta biết Steve hiện ở đâu.
Trong lúc chờ nối đường dây, anh nhớ đến Nella chị ta là người nồng nhiệt, mặt tròn vạnh, tóc dài uốn cong lên.
Cuối cùng anh nghe giọng của Nella cất lên:
– A lô.Nella, Eddie Deakin đây.
– Xin chào Eddie, anh ở đâu đấy?
– Tôi đang gọi từ nước Anh. Nella, Steve ở đâu?
– Anh gọi từ nước Anh à? Xa nhỉ Steve, ờ không liên lạc được. - Chị ta có vẻ bồn chồn khi hỏi tiếp:
– Có chuyện gì không ổn hay sao?
– Phải. Chị biết khi nào thì Steve về không?
– Trong sáng nay, có lẽ một hay hai giờ nữa anh ấy sẽ có mặt ở đây. Eddie anh có vẻ bị dao động. Có chuyện gì thế? Anh gặp chuyện khó xử phải không?
– Nếu Steve về trong khoảng thời gian ấy, làm ơn nói anh ấy gọi đến đây cho tôi nhé.
Anh đọc số điện thoại ở Langdawn Lawn cho chị ta.
Chị lặp lại:
– Eddie, anh không nói cho tôi nghe được có chuyện gì xảy ra à?
– Tôi không nói được. Chỉ nhờ chị nói anh ấy gọi cho tôi thôi. Tôi còn ở đây thêm một giờ nữa. Sau đó, tôi phải lên máy bay. Hôm nay chúng tồi bay về New York.
– Tùy anh, - Nella đáp, giọng miễn cưỡng – Carol-Ann có khỏe không?
– Tôi phải đi có việc bây giờ, - anh đáp. – Chào Nella. - Anh móc máy không đợi chị trả lời. Anh nhận ra mình mất lịch sự, nhưng anh quá bối rối không lưu tâm đến điều đó được.
Không biết làm gì, anh lên lầu, về phòng. Anh để cửa phòng mở rộng để có thể nghe được tiếng chuông điện thoại dưới sảnh reo, anh đến ngồi ở mép giường.
Từ bé đến giờ, bây giờ là lần đầu tiên anh cảm thấy muốn khóc. Anh ôm đầu, nói nhỏ với mình:
– Ta phải làm gì nhỉ? Anh nhớ lại vụ bắt cóc cậu con trai của Lindberg cách đây bảy năm, khi ấy anh đang phục vụ ở Annapolis. Đứa bé bị giết chết. Anh cầu nguyện:
“Ôi lạy Chúa, xin Ngài cho Carol-Ann bình an vô sự”.
Thời gian gần đây, anh thường không cầu nguyện. Cầu nguyện chẳng giúp gì được cho mẹ anh. Tốt hơn hết là nên tự mình giúp mình. Anh lắc đầu. Bây giờ không phải lúc trở về với tôn giáo. Cần suy nghĩ phải làm gì.
Nhũng kẻ bắt cóc Carol-Ann muốn Eddie phải đi trên chiếc thủy phi cơ. Ít ra đây là điều rõ ràng. Có lẽ anh không nên lên phi cơ, nhưng như thế thì anh sẽ không gặp Tom Luther, và sẽ không biết chúng đòi hỏi cái gì.Có lẽ anh nên phá hỏng kế hoạch của chúng, nhưng sợ anh không có cơ may làm chủ được tình hình.
Anh đứng đậy, mở chiếc va li nhỏ ra. Anh cứ nghĩ đến Carol-Ann, nhưng tay anh tự nhiên sắp xếp các thứ cần dùng:dao cạo, pijama, áo quần.
Khi anh ngồi xuống lại, chuông điện thoại reo. Ba chân bốn cẳng anh chạy ra hành lang, xuống cầu thang, nhưng đã có người trả lời điện thoại nói.
Khi đi qua tiền sảnh, anh nghe ông chả khách sạn nói:
– Mồng 4 tháng 10 à? Để tôi xem thử chúng tôi còn phòng trống không đã.
Bực mình, anh quay bước đi lui. Anh nghĩ là Steve chắc không thể làm gì được. Không ai có thể làm gì được.Có kẻ đã bắt cóc Carol-Ann, và Eddie phải thực hiện những gì bọn chúng ra lệnh, có thể anh mới tìm ra được nàng. Không ai có thể giải quyết được khó khăn anh đang gặp phải.
Lòng nặng trĩu, anh nhớ lại cảnh hai vợ chồng cãi nhau trước khi anh ra đi Không bao giờ anh tha thứ cho mình được. Anh thề là anh sẽ không bao giờ gây gổ với vợ nữa, chỉ mong sao anh tìm được nàng bình an vô sự. Có tiếng gõ cửa, Mickey bước vào, anh ta mặc đồng phục bay, xách va li trên tay. Anh ta hăng hái hỏi Eddie:
– Chuẩn bị đi rồi chứ?
Eddie hốt hoảng.
– Chưa đến giờ mà!
– Đến rồi!
– Mẹ kiếp ...
– Có chuyện gì xảy ra à? Anh thích ở đây luôn sao? Anh muốn ở lại để đánh bọn Đức phải không?
Eddie muốn ở lại vài phút nữa để đợi tin Steve.
Anh đáp:
– Anh đi trước đi, tôi sẽ theo kịp anh sau.
Mickey hơi phật ý. Anh ta nhún vai, nói:
– Hẹn lát nữa gặp nhau, - nói xong, anh ta đi ra.
Steve Appleby, ở đâu nhỉ?
Eddie ngồi xuống lại, nhìn đăm đăm bức tranh treo trên tường suốt 15 phút tiếp theo.
Cuối cùng anh xách va li đi xuống cầu thang, nhìn cái điện thoại tiền sảnh như con rắn rung chuông chuẩn bị cắn. Anh dừng lại trong tiền sảnh, chuông reo.
Cơ trưởng Baker đi xuống, ông nhìn Eddie, ngạc nhiên.
– Anh trễ rồi! - ông nói. - Anh nên đi tacxi với tôi - Cơ trưởng có quyền ưu tiên đi tacxi đến tàu.
– Tôi đợi cuộc điện thoại, - Eddie trả lời .
Vẻ mặt ông Cơ trưởng tỏ ra bất bình.
– Thôi, anh không thể đợi thêm nữa được đâu. Đi cho rồi!
Eddie không nhúc nhích một lát. Rồi anh nghĩ:làm thế là ngốc. Chắc Steve không gọi rồi, và anh phải lên máy bay nếu anh muốn làm cái gì. Anh buộc lòng phải xách va li và đi ra cửa.
Chiếc tắc xi đợi sẵn, hai người lên xe.
Eddie cảm thấy mình có lỗi với thượng cấp, anh nói:
– Xin ông tha lỗi. Tôi đang đợi cuộc điện thoại gọi từ Mỹ.
Ông Cơ trưởng mỉm cười khoan dung, vui vẻ đáp:
– Được rồi, ngày mai là anh có mặt đấy rồi.
– Đúng thế -Eddie đáp, vẻ buồn rầu.
Anh lại thấy mình cô đơn.