Tôi sợ!
Chẳng phải một sự đe dọa trực tiếp đến cơ thể đang khiến tôi sợ hãi, mà là tình huống. Mọi vật hôm nay sao đều khác lạ - im lặng hơn ngày thường rất nhiều, mặc dù thành phố Paris những ngày tháng Năm vốn được coi là đất thánh của dân du lịch trên toàn thế giới. Không một dấu vết của vẻ nhộn nhịp hàng ngày. Cũng có thể cảm giác bất thường đã xuất hiện, bởi mọi giác quan của tôi bây giờ chỉ tập trung duy nhất vào ngôi nhà nhỏ bé với cái mặt tiền màu xám, nhà của bà ấy.
Bà ấy, đó là Tanith, bà thầy bói!
Tanith là một người bạn thân của tôi, bà đã một vài lần giúp đỡ tôi thoát hiểm. Nhìn trên một phương diện nào đó, Tanith là người phụ nữ có một không hai. Suy nghĩ về bà là việc chẳng mấy ích lợi, bởi đằng nào thì người ta cũng không bao giờ rút ra được một kết luận cụ thể.
Tanith là người hay gây bất ngờ, và giọng nói của bà khi gọi điện đến cho tôi nghe như một lời kêu cứu.
– Anh phải đến đây ngay, John! Tôi vừa phát hiện ra một bí mật khủng khiếp!
Một bí mật ...
Điều đó có nghĩa là? Dĩ nhiên tôi đã hỏi, nhưng bà không muốn nói cho tôi biết điều đó qua điện thoại. Bà ra lệnh cho tôi đến Paris cành nhanh càng tốt.
Vậy là bây giờ tôi đang đứng trước căn nhà của bà, lòng thoắt nhớ lại vụ án đã xãy ra tại New York. Vụ án xoay quanh Gatanor Galgenhand. Ngày đó cũng chính Tanith đã gọi điện cho tôi, gióng lên một hồi chuông báo động vô cùng khẩn thiết.
Có phải vụ này cũng thế?
Phủ trên thành phố Paris bây giờ là bầu trời hoàng hôn. Nó như một tấm khăn choàng khổng lồ, bóp méo những âm thanh vốn bình thường theo một cung cách lạ kỳ, tôi có cảm giác nó nuốt chửng mọi âm thanh, để rồi trả lại chỉ một phần rất nhỏ.
Tôi nghe loáng thoáng tiếng âm nhạc đang vẳng ra từ một bar rượu gần đó, nhưng đồng thời cũng không thật cảm nhận ra nó. Cả tiếng nói của khách bộ hành, tiếng cười của những người phụ nữ cũng lao xao bay xa lắc, xa lơ, tôi chỉ quan tâm đến ngôi nhà.
Không nhìn thấy chiếc Tenault nhỏ xinh của Tanith đâu. Chắc bà thầy bói đã đặt nó ở một nơi nào khác rồi. Tới trước cánh cửa ra vào rất quen thuộc, tôi giơ tay bấm chuông.
Tiếng chuông vang lên rất rõ trong nhà. Nhưng cửa vẫn không mở.
Tôi ngạc nhiên, cảm giác sợ hãi dần dần có hình dạng rõ ràng. Nếu Tanith không động đậy, điều này chắc chắn phải có nguyên nhân, một nguyên nhân mà tôi phải tìm cho ra. Mặc dù tôi biết rất rõ bên trong ngôi nhà, nhưng những chi tiết khu phía sau nhà thì không. Hơn thế nữa, hiện tôi vẫn chưa biết làm cách nào để vào được phía sau.
Cửa khóa. Chỉ cần thoáng nhìn lên ổ khóa, tôi đã biết mở nó ra không phải chuyện khó khăn. Trong người tôi hiện nay đang có sẵn một số công cụ thích hợp.
Chẳng muốn để người khác nhìn mình làm việc này, tôi đưa mắt nhìn quanh, xem không khí có “sạch” hay không.
Dù trên phố đang có vài người đi lại, nhưng họ hoàn toàn chẳng chú ý gì tới tôi. Người ta đang bận rộn với chính bản thân mình, họ cười và đùa với nhau.
Chìa khóa của tôi lọt vào. Nó trôi ngọt ngào vào bên trong như được bôi dầu, tôi thận trọng xoay sang phải, rồi sang trái. Té ra sự việc khó hơn tôi tưởng. Ổ khóa tỏ ra chống đối, nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Sau đó tôi mở được nó ra.
Cánh cửa hơi run rẩy một chút khi bị tôi ấn vai tới, đẩy vào trong.
Hành lang nằm trong bóng tối.
Đã biết rất chính xác mình phải đi về đâu, tôi lẻn người vào hẳn hành lang, khóa cửa. Rồi tôi dừng lại và nghe ngóng.
Một bầu không khí tĩnh lặng đến khó hiểu tràn ngập không gian trong ngôi nhà. Nó khiến tôi băn khoăn bởi chẳng có vật thể nào động đậy. Tất cả như đã hóa đá một cách kỳ lạ, tựa hồ được bọc một lớp bông thật dày bên ngoài. Cả âm thanh từ con đường ngoài kia cũng bị những bức tường nuốt chửng.
Chả lẽ Tanith không có nhà?
Nếu thế, thật trái với cách ứng xử thường lệ của bà. Bà đã nói sẽ chờ tôi, vậy mà bây giờ để tôi đứng giữa một ngôi nhà tăm tối và câm lặng.
Dù đã tới đây thăm Tanith rất nhiều lần, nhưng tôi vẫn không muốn chuyển động trong bóng tối và giơ tay lên bật đèn lên.
Đúng theo nghề nghiệp của mình, bà thầy bói Tanith đã cố gắng rất nhiều trong việc bày biện, trang hoàng. Bà rất có ý thức hành nghề và hiểu rõ khách hàng muốn gì.
Ánh điện trong nhà bà không đột ngột chói lòa lên, mà từ từ sáng dần từng chút.
Tôi có cảm giác mình đang lạc vào một rạp chiếu phim. Nhiều ngọn đèn dần cháy, đẩy hành lang chìm vào một luồng sáng bí hiểm.
Cho đến lúc này tôi vẫn không rũ bỏ được cảm giác mình là kẻ đột nhập.
– Tanith? - Tôi gọi to lên, một phần cũng để xua đi sự ngượng ngùng.
Không có tiếng trả lời!
Chỉ có tiếng rù rì của một con ruồi, tôi giơ tay chộp và suýt nữa tóm được nó. Bản thân tôi là người dị ứng với côn trùng. Vụ án với nhưng con ong giết người mà tôi đã trải qua một lần cũng đủ cho tôi căm thù bọn chúng đến cuối đời.
Phía bên phải là phòng làm việc, một căn phong bí hiểm chìm ngập trong một bầu không khí riêng biệt, khác hẳn với những căn phòng bình thường khác.
Một bầu không khí mà khách hàng thường yêu mến, thích thú. Một vẽ ngoài hơi có phần u tối, nhưng đồng thời bí hiểm, gọi mời.
Tôi mở cửa ra.
Bên trong kia là bóng tối. Rèm đã được kéo kín lạ. Không một tia sáng nhỏ nào lọt được vào trong.
“ Tanith?” Khi hỏi điều đó, tôi đã đứng sát ngưỡng cửa, và cơ thể tôi chắc chắn phải hiện ra thành một bóng tối trên nền không gian của căn phòng phía sau.
Vẫn im lặng. Tôi thậm chí không thấy ngạc nhiên nữa, và giơ tay tìm công tắc.
Kể cả trong căn phòng này, đèn cũng chỉ sáng dần lên từng chút.
Một chiếc bàn tròn trơ trọi. Tôi nhìn những tấm rèm màu tím thẫm phủ tới tận đất, chiếc ghế sofa thật dài thường giành làm nơi khách nằm để Tanith dẫn họ vào những trường không gian khác.
Tôi tiến hai bước vào bên trong.
Tầm nhìn bây giờ đã thuận tiện hơn. Tôi bước tiếp va suýt vấp phải đôi chân đó, đôi chân mà tôi chỉ kịp nhận ra trong tích tắc cuối cùng vì nó thò chênh chếch từ sau ghế sofa.
Một đôi chân phụ nữ!
Đột ngột, dạ dày tôi quặn thắt. Cảm giác ấp đến nhanh như chớp, mồ hôi túa ra từ tất cả các lỗ chân lông.
Tôi linh cảm về một chuyện khủng khiếp. Không, nói cho đúng hơn, tôi hầu như biết chắc, mà vẫn cúi nhìn, kiểm tra lại như bị một sức ép vô hình.
Tanith nằm ngữa bên cạnh chiếc ghế sofa.
Lưỡi một con dao găm cắm ngập vào cổ họng bà!
Tôi nhìn vũng máu thật lớn đã phần nào thấm xuống thảm trải phòng, khiến khuôn mặt bạn tôi càng gây ấn tượng nhợt nhạt hơn,. Hai con mắt trong suốt như hai viên bi băng thủy tinh, mở lớn, trống rỗng và chết chóc.
Giống như mọi khi, những ngón tay của Tanith được sơn mày xanh lá cây.
Bà thầy bói còn khoác biểu tượng của mình kể cả trong giờ chết.
– Tanith ... - Tôi thì thào tên bà mặc dù biết mình đang làm chuyện vô nghĩa.
Bà sẽ không trả lời tôi. Bà không thể trả lời được. Có kẻ nào đó mạnh mẽ hơn tất cả chúng tôi đã khép làn môi Tanith lại, khép mãi mãi.
Không nói nên lời, tôi đứng đó và nhìn trân trối. Thời gian đã mất ý nghĩa.
Hai con mắt tôi cay xè, dạ dày như có một tảng đá kéo trĩu xuống, tôi run rẩy toàn thân, từng tế bào trong cơ thể gào lên cho tôi biết, cái chết mang tính chung cuộc biết nhường nào.
Làn tóc đỏ của bà bung tóe ra xung quanh đầu. Nó nằm đó như một lớp thảm tuyệt vời. Khuôn miệng bà hé mở như muốn kêu tiếng kêu cuối cùng, và một vài tian máu nhỏ dính trên cằm lấm tấm như những hạt tàn nhang màu đỏ.
Tanith không còn sống nữa!
Thêm một lần nữa, Tử Thần đã chứng minh cho tôi biết gã có thể ra tay tàn nhẫn tới mức nào. Sẽ không bao giờ tôi còn được nghe giọng nói của Tanith, không bao giờ còn được nhìn nét cười bí hiểm trên làn môi dịu dàng kia.
Cái chết xóa đi mọi dấu vết! Câu nói đó vang lên trong đầu khi tôi dựa cằm lên trên bàn tay mình, nhìn xuống khoảng đất trước mặt. Tôi đã tới quá muộn!
Rất có thể tôi sẽ cứu được mang Tanith, nhưng tôi đã bỏ lỡ cơ hội.
Một kẻ khác đã tới nhanh hơn tôi, và ra tay.
Tôi ngồi đó, ngập chìm trong bầu không khí tĩnh lặng của cái chết. Một tình huống hoàn toàn nằm ngoài dự kiến, cũng chính vì thế mà sự kiện ập đến đột ngột như đập thẳng vào giữa mặt tôi và kẻ bị bất ngờ ngồi đó nghe tim mình đập rộn lên.
Tên sát nhân là ai?
Câu hỏi tự động bật ra. Kẻ nào lại muốn giết chết Tanith? Không cần cân nhắc lâu, tôi biết số lượng những kẻ đáng tình nghi là không ít, bởi nhờ vào những khả năng của mình, Tanith đã đặt chân được vào một số miền đất tuân theo quy luật của Pháp Thuật Đen. Chỉ có điều bà đã không đủ thời gian va sức lực nắm bắt một cái nhìn toàn cảnh, để kịp thời né tránh, và vì thế mà đã phải trả một cái giá quá đắt.
Tôi cảm nhận những giọt lệ trong mắt mình, cảm nhận sự đau đớn tràn ngập trong cơ thể và xua đuổi mọi suy nghĩ rành mạch. Tôi nhìn xuống cơ thể người bạn mình một cách vô thức.
Tanith mặc một chiếc váy dài. Ba chiếc cúc đầu tiên bên dưới cổ để mở, hai bàn tay xòe ra đặt trên nền đất vơí những móng tay sơn màu xanh óng ánh.
Một lúc lâu, tôi đứng dậy. Phải báo cho cảnh sát. Thanh tra Fleuvee sẽ quan tâm tới án mạng này. Tôi biết anh ta. Đã có một vài lần chúng tôi cộng tác với nhau. Lần cuối cùng là vụ án chống tay phù thủy Belphégor, kẻ luôn tân dụng ngọn roi bằng lửa để gây tội ác. Belphégor ngày đó đã tìm cách ném cả thành phố Paris vào trong vòng ảnh hưởng của hắn.
Tôi đứng dậy mà không nhận ra là mình đã làm điều đó. Rồi tôi đi đi lại lại trong căn phòng, không thật sự ý thức được mình đang tìm gì.
Có lẽ là dấu vết, những chứng cứ, những lời mách bảo có thể dẫn đến kẻ sát nhân. Tôi tin Tanith đã không sa vào một cái chết bình thường. Tội ác này có những nguyên nhân của nó, những nguyên nhân cũng khiến cho tay thám tử trừ ma diệt quỷ trong tôi quan tâm đến.
Pháp thuật đen!
Tôi đứng lại bên chiếc ghế sofa. Tôi đã nhìn thấy nhiều thứ, mặc dù vậy vẫn chưa bao quát được tình hình. Tôi thấy mình ngu ngốc, sức suy nghĩ giảm đến mức tột cùng. Tôi không nhận biết được gì, và lại từ từ hạ mình xuống ghế sofa.
Nếu bây giờ có Suko ở đây, có lẽ anh sẽ giúp đỡ được tôi, nhưng hiện thời bạn tôi đang ở London. Chuyến bay đến Paris này là chuyến bay riêng, nên bây giờ tôi chỉ có một mình ở đây, phải cô độc đối chọi với mọi vấn đề.
Có cái gì đó lướt qua mắt tôi!
Một làn hơi lành lạnh, thổi vào phòng. Tôi bất giác giật mình. Ánh mắt tôi hướng dọc lớp rèm rất dày, những nếp gấp của nó đang chuyển động như có một bàn tay vô hình vuốt lên trên.
Có kẻ nào đó đã tới đây chăng? Có phải trong phòng này không chỉ có một mình tôi? Suy nghĩ thúc tôi đứng dậy, cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng.
Căng người lên, tôi nhìn chăm chăm nhìn vào tấm rèm.
Đột nhiên, trong đầu tôi xuất hiện ấn tượng có kẻ đang rình mò phía sau tấm rèm kia. Có thể đó là kẻ giết người, đã bị khuấy đảo giữa chừng khi tôi bước chân vào đây.
May mà tôi có mang theo vũ khí bên mình. Nếu có kẻ muốn giết tôi, gã phải vượt qua sức phản kháng của khẩu Beratta trước đã. Tôi bước ngang về hướng tấm rèm treo, nhìn nó chăm chú. Chuyển động của những nếp gấp bây giờ đã yếu đi, nhưng chưa ngưng hẳn.
Đáng tiếc là hai mép rèm rất dày và lại phủ chồng lên nhau, chìm vào trong những nếp gấp, vì vậy tôi không nhận ra mép vải nằm ở đâu để có thể thốc tung cả hai mảnh rèm ra. Muốn mở, chỉ còn cách từ từ kéo dây. Tôi quyết định thử vận may của mình.
Tôi bước tới thật sát tấm rèm, xoay ngang người rồi bước song song với nó.
Ánh mắt tôi quan sát rất kỹ những nếp gấp. Thật may! Bởi ngay bên cạnh tôi có một nếp gấp đột ngột chuyển động mạnh hơn. Tôi dừng lại nghe thấy một tiếng xẹt nhẹ.
Trong tích tắc sau, tôi nhìn thấy mũi dao!
Một con dao được đâm từ hướng ngoài rèm vào trong phòng, chạy song song với thắt lưng tôi, cách đích chỉ khoảng hai mươi phân.
Tôi không nhìn thấy bàn tay, chỉ nhìn thấy mũi dao, chắc chắn phải có kẻ đứng đằng sau tấm rèm kia.
Tôi lấy đà, nắm tay thành nắm đấm và ra đòn. Tôi đấm thẳng vào tấm rèm ở độ cao ngang đầu người, và trúng đích.
Có lực kháng cự đằng sau lần vải dày, mũi dao rút về. Tôi đấm thêm lần nữa.
Lần này chỉ có vải mềm cản tay tôi, không có đối thủ.
Một tiếng kêu trầm đục.
Nó đã được giảm đi phần nào qua làn vải. Chắc chắn là tôi đã ra đòn trúng kẻ kia.Ý nghĩ này chấp cánh cho hành động. Có lẽ tôi còn kịp tóm kẻ sát nhân.
Giờ thì tôi đã tin chắc rằng tôi đang chiến đấu với kẻ đã giết Tanith.
Những giây phút quý báu qua đi, trước khi tôi tìm được cách lọt qua tấm màn dày. Kể cả đắng sau tấm rèm che cũng có đèn điện. Lẽ ra tôi phải tìm thấy tên giết người, thế nhưng mắt tôi bây giờ đang trân trối hướng vào một khoảng trống!
Nó đã biến mất.
Tôi nhìn xuống đất, giơ tay dụi mắt, lắc đầu mà không thể tin là sự thật.
Không thể hiểu nổi, tôi đã đâm trúng nó, vậy mà nó trốn thoát. Sao lại như thế được?
Không còn dao, không còn tên giết người. Có thể tôi tin là mình đã tưởng tượng ra mọi chuyện, nếu trên tấm vải kia không có vết rạch do lưỡi dao để lại.
Mọi việc đã kết thúc ...
Tôi lắc đầu, nổi cơn giận dữ, săm soi thật kỹ phần cuối căn phòng phía sau tấm rèm che. Nó cũng có một mảng tường. Một mảng tường lớn được quét màu đen. Trên màu đen nổi óng ánh những hình ảnh của bầu trời đầy sao. Những cụm sao nổi lên rất rõ, nhưng cả chúng cũng không nói cho tôi biết kẻ nào vừa tấn công tôi.
Thật muốn phát điên!
Tôi quyết định quay trở lại với khu phòng chính. Thận trọng vạch tấm rèm ra, tỉnh táo hết mức, nhưng vẫn không nhìn thấy tên giết người bí hiểm. Gã lẫn tránh thật giỏi, cũng có thể gã tan ra thành không khí, tùy theo cái thế lực bí hiểm đang làm chủ nơi này.
Dần dần, tôi đã vượt qua được cơn sốc. Hình ảnh Tanith vẫn đập thẳng vào đầu óc, xuyên vào xương tủy, nhưng tôi đã ý thức được rằng mình không có quyền để tình cảm sai khiến lúc này. Tôi phải làm những gì thật sự cần thiết.
Điều tra dấu vết!
Tôi hiện thời đang nắm một ưu thế lớn bởi có mặt ở hiện trường trước cảnh sát và có thể thoải mái xem xét mọi ngóc ngách.
Tanith là một người đàn bà đặc biệt. Một thầy bói, một phù thủy, một người cảnh báo. Mối quan hệ với những quyền lực khác đã được bà tạo dựng qua một quả cầu bí hiểm, quả cầu trùng khít với chiếc đế đựng hình đài hoa của Thần Lửa đã mang về từ Scotland về và tặng bà từ một ngày xa lắc.
Quả cầu ...
Đột ngột, những suy nghĩ của tôi dừng phắt lại. Giờ thì tôi biết yếu tố nào đã khiến tôi băn khoăn suốt thời gian qua.
Quả cầu đã biến mất!
Trời đất! Tại sao tôi không nhận ra dấu vết này sớm hơn! Nhưng cuộc đời là như vậy, người ta chỉ trở nên thật sự thông minh và thấu hiểu khi mọi việc đã qua đi. Cũng có lẽ cái chết của người bạn quý đã ập đến quá đột ngột và khiến tôi sốc nặng, mất khả năng suy nghĩ tỉnh táo.
Quả cầu pha lê đã biến mất. Và chắc chắn kể cả cái chiếc đế đựng của Thần Lửa. Vật mà tôi đã trao tặng cho Tanith.
Có phải vì nó mà bà đã bị giết?
Hiện tôi vẫn chưa hết hy vọng tìm dấu vết. Tôi săm soi ngôi nhà, thậm chí lục lọi cả trong phòng bếp, mở tất cả các cánh cửa tủ. Nhìn vào từng góc giá gỗ đựng đồ, và tìm thấy mọi vật, chỉ trừ quả cầu pha lê cùng với chiếc đế đựng của Thần Lửa.
Tôi tiếp tục lục lọi, tìm kiếm. Lần này, tôi để thời gian và sức lức săm soi thật kỹ không gian riêng tư của người đã chết. Tôi lật từng góc phòng ngủ của Tanith lên và cuối cùng tìm được một vật. Nó nằm trong ngăn kéo của chiếc bàn trang điểm. Một quyển sách nhỏ màu đen. Cầm nó lên, những ngón tay tôi vuốt trên lần vải dày bọc bên ngoài. Tôi xoay ngược quyển sách và tìm thấy ở phía bên kia một chiếc nhãn dán có ghi “Nhật ký”.
Tôi nuốt khan. Đột ngột, tay tôi run rẩy.
Có phải tôi đang cầm giải pháp của câu đố hóc búa?
Cho tới nay, Tanith chưa hề kể cho tôi biết răng bà có ghi nhật ký, mà nếu bà có kể chắc tôi cũng chẳng quan tâm. Chỉ sau khi bà ra đi, cuốn nhật ký mới đột ngột mang một ý nghĩa khác hẳn.
Tôi ngồi xuống mép, xoay đèn để ánh sáng của nó hắt đến bên cạnh mình và mở cuốn sách ra.
Nỗi thất vọng kéo đến ngay từ nhưng trang đầu. Chẳng có chuyện gì được nói có liên quan đến cái chết của người đàn bà. Tất cả những dòng chữ ghi ở đây đều chỉ xoay quanh sức khỏe và cuộc sống hằng ngày của Tanith.
Tôi lật tiếp.
Thế rồi, tôi thấy nó.
“Chuyến đi của tôi về miền Bretangne”.
Tanith không hề kể cho tôi nghe chuyện này. Nhưng có lẽ chuyến đi rất thú vị, bởi bà đã viết và miêu tả rất nhiều về phong cảnh cũng như những con người ở đó. Tôi đọc lướt qua những hàng chữ, rồi bất chợt dừng sững.
Trên trang giấy có ghi một tên người.
“Fedora?”.
Đằng sau đó là một dấu hỏi rất lớn, được tô hai lần. Tôi hạ quyển sách xuống, cân nhắc. Tanith đã bao giờ nhắc với tôi cái tên này chưa?
Chưa, tôi chưa nghe thấy. Vậy là chắc Tanith mới gặp người đàn bà này trong thời gian gần đây, có lẽ trong chuyến đi của bà về Bretagne.
Nhanh tay, tôi lật tiếp những trang giấy sau.
Tanith viết đi viết lại nhiều cái tên Fedora là một nữ họa sĩ.
“Những bức tranh của chị ấy thật bí hiểm. Nó thể hiện một cái gì đó, rất khó giải thích. Nhưng nỗi buồn đau, mong nhớ, xa xôi, mặc dù vậy vẫn rất hấp dẫn”.
Một vài trang sau, đến câu văn mà tôi cho là quan trọng nhất.
“Tại sao chị ấy không muốn chỉ cho tôi xem bức tranh đó?”.
Tôi lại hạ quyển sách xuống. Một bức tranh mà Tanith không nhìn thấy.
Người ta không muốn chỉ cho bà xem, chắn chắn phải có nguyên nhân.
Nguyên nhân nào đây?
Người đàn bà bí hiểm có tên là Fedora đó muốn gì? Tôi đứng dậy, tiếp tục lật sách. Chỉ những trang giấy trắng. Quyển nhật ký của Tanith kết thúc bằng câu hỏi này.
Theo ý tôi, bức tranh đó, người đàn bà có tên là Fedora và cái chết của Tanith có liên quan trực tiếp đến nhau. Tôi chỉ cần tìm ra những đường dây nối kết trong hình tam giác này.
Tôi tự hỏi:
“Phải chăng mọi việc đơn giản đến thế?”. Thật ra, trong lòng tôi không muốn tin. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi biết, chính những vụ án nhìn bề ngoài tưởng đơn giản, lại thường là những vụ án khó khăn nhất. Cả trong trường hợp này, tôi tin là mình đã sa vào một mâu thuẫn. Tôi không nhét cuốn sổ vào người mà chỉ ghi lại thông tin quan trọng nhất, rồi rời khỏi phòng ngủ, bước lại căn phòng nơi Tanith đang nằm. Moi vật không hề thay đổi. Tanith vẫn nằm dưới đất. Con dao vẫn cắm trong cổ họng bà.
Cả tôi lần này cũng không bị tấn công, và vì vậy mà tôi quyết định làm một việc cần thiết nhất lúc này.
Tôi gọi điện cho anh bạn đồng nghiệp người Pháp.
– Anh đúng là số phận của tôi, Singlair. – Thanh tra Fleuvee cằn nhằn, nhìn tôi bằng đôi mắt hằn rõ những tia máu rồi lắc đầu khiến cho bộ râu hỗn độn của anh chuyển động theo. – Cứ bao giờ anh đến Paris là có chuyện bực mình!
Anh ấy đã nói hoàn toàn đúng với sự thật, tôi không cãi nổi một nửa lời.
Sự kiện cũng đã giáng một đòn chí mạng vào Fleuvee. Anh cũng quen biết với Tanith từ lâu, từ cuộc chiến chung chống lại Belphégor. Thoạt đầu anh cũng đã nghi ngờ bà. Nhưng rồi với thời gian, Fleuvee đã có một nhận định khác hẳn về Tanith.
Giờ đây sự kiện bất thình lình nổ ra như một tia chớp giữa trời quang.
Một tên giết người tàn nhẫn cắt ngang cuộc sống của người phụ nữ mà cả hai chúng tôi cùng quý mến, viên thanh tra đặt ra câu hỏi mà tôi đã chờ đợi từ lâu.
– Đây là một vụ án cho anh hay là cho chúng tôi?
Lúc đó chúng tôi đang đứng trong bếp. Tôi thả người rơi xuống một chiếc ghế, và nhún vai:
– Thật ra thì cho tôi!
– Thế thì tốt.
– Tại sao?
– Anh có biết hiện chúng tôi đang bận đến mức độ nào không? Tôi không còn lấy một giây đồng hồ để mà mở mắt ra. Tất cả những vụ án bình thường đã quá nhiều, tôi thật không có hơi sức đâu để mà chiến đấu với ma quỷ.
– Dể hiểu thôi, Fleuvee. – Tôi đáp và trầm ngâm suy nghĩ. - Ở thành phố Paris này, tôi hầu như không có cơ hội lần theo dấu vết. Điều đầu tiên là phải tìm bằng được người họa sĩ bí ẩn kia.
– Anh đang nghĩ gì vậy? – Fleuvee hỏi.
Tôi nhún vai:
– Anh có thể xếp vụ án này vào phòng lưu trữ hồ sơ được rồi đấy! Chắc chắn anh sẽ không tìm được lời giải ở thành phố Paris đâu!
– Anh biết nhiều hơn tôi hả?
– Không, nhưng tôi đang có một linh cảm nhất định. Tôi đang phải chờ một thời gian đã. Có thể dấu vết này cũng chỉ là một dấu vết câm.
– Chuyện cụ thể là gì?
– Quả cầu pha lê.
Fleuvee đưa tay đập lên trán.
– Khốn khiếp, thế mà tôi quên. Rồi sao?
– Nó biến mất rồi!
Fleuvee chĩa ngón tay trỏ ám vàng khói thuốc lá về hướng tôi.
– Thì ra anh muốn tìm nó?
– Nếu có thể .
– Anh biết cách tìm chưa?
Thật ra tôi có thể nói cho anh ta biết, nhưng tôi quyết định nghĩ chuyện né tránh, lòng thầm hy vọng điều đó không quá tệ.
– Tôi sẽ nhờ cây thánh giá của tôi trợ giúp. Rất có thể sẽ tìm được một dấu vết về quả cầu pha lê.
– Và cả tên giết người.
– Hy vọng vậy!
Fleuvee đưa bàn tay phải vẩy ngang.
– Anh biết không, John, chúng ta quen nhau đã một thời gian dài Lúc đầu, tôi cho anh là một tên khoe khoang khoác lác, nhưng bậy giờ tôi rất tôn trọng nhận xét của anh. Vì thế tôi hỏi thật, có mối nguy hiểm nào đang đe dọa thành phố này không?
– Không!
Anh ta thở ra nhẹ nhõm.
– Thế thì tốt. Một tên Belphégor và đám tay chân của hắn đã là quá đủ đối với tôi. – Thanh tra Fleuvee quay người, mở vòi cho nước chảy vào một chiếc cốc, rồi uống từng ngụm dài. Khuôn mặt anh ta bớt nhợt nhạt. Dể hiểu thôi, chàng thanh tra tốt bụng này đang có quá nhiều lo lắng, ở địa vị anh chắc tôi cũng sẽ không xử sự khác.
– Ta quay ra đi! – Anh đề nghị.
Khi người ta trở lại căn phòng xảy ra vụ giết người, vẻ tàn nhẫn thực tại lại một lần nữa đập thẳng vào xương tủy. Tôi phải nhìn cảnh người ta đặt Tanith nằm vào một chiếc hộp dài bằng thiếc, rồi đậy nắp lên. Đó là lần cuối cùng tôi được nhìn thấy người đàn bà bí hiểm, xinh đẹp và cũng rất thông minh, dễ mến.
– Anh còn muốn ở lại đây không? – Fleuvee hỏi.
Tôi lắc đầu.
– Chẳng còn gì giữ tôi ở lại Paris nữa!
Fleuvee mỉm cười.
– Lạ thật, sao anh đi vội vàng vậy? Tôi biết anh đang che dấu tôi điều gì đó, nhưng chẳng giận anh đâu. – Chàng thanh tra giơ tay ra cho tôi. – Chúc anh gặp may mắn, và chừng nào giải quyết xong vụ án, nhớ báo tin cho tôi biết!
Không khí trong nhà rất ấm. Ra tới ngoài, tôi được chào đón ngay bởi ngọn gió lành lạnh của buổi chiều, nó thổi khô lớp mồ hôi trên khuôn mặt nóng bỏng.
Tôi đưa mắt nhìn lên bầu trời đang thẫm lại.
– Tanith! – Tôi thì thào. – Tôi sẽ giải cho được vụ án này, tôi xin hứa ...
Giọng nói khàn xuống, cổ họng chợt nóng rẫy lên, thế là tôi xoay người và bước những bước chân hối hả ...
– Hello, chào quý bà yêu mến! – Cô gái nhỏ cười vui, ném cặp sách bay xuyên qua căn bếp.
Người đàn bà đang đứng bếp xoay người lại, ngạc nhiên.
– Con đã về rồi ư, Lisa?
– Vâng hôm nay con hết tiền rồi.
– Sao hết sớm vậy?
Lisa nhón lấy hai quả dâu tây rất lớn từ đĩa, đút chúng vào miệng rồi phồng má lên nhai. Cô bé muốn vừa nhai vừa trả lời, nhưng không nói thành lời, chỉ đưa ra được những âm thanh kỳ cục. Cuối cùng, khi đã nuốt hai quả dâu tay xuống, cô học trò giải thích:
– Các thầy cô giáo của con hôm nay bận họp.
– Thế bây giờ con làm gì? – Mẹ cô hỏi.
– Con không làm bài đâu. Hôm nay chẳng có ai ra bài về nhà làm cả. Con sẽ ra bãi biển.
Fedora Golon gật đầu.
– Ừ, con yêu, đi tắm đi! Còn khoảng một tiếng nữa mẹ mới nấu xong bữa ăn.
– Hôm nay có món gì vậy mẹ? – Lisa hỏi.
– Một món súp cá rất ngon.
– Nghe được đấy! Chào mẹ , hẹn gặp lại sau ...
Cô gái nhanh chân ra khỏi bếp, bước ra hàng hiên trước nhà. Từ đây chỉ chạy vài bước chân là cô đã ra tới bãi biển có những núi đá vôi khổng lồ mọc dựng lên giữa mặt nước.
Fedora Golon nhìn theo cô con gái mười lăm tuổi của mình. Gió đang thổi mái tóc dài bay ngược về phia sau. Lisa có mái tóc giống hệt như mẹ mình. Một màu nâu, óng ánh, một mái tóc khỏe mạnh và dày dặn. Cô gái rồi sẽ trở thành một người phụ nữ xinh đẹp, ngay từ bây giờ người ta đã nhận thấy rõ như vậy.
Bóng cô bé mỗi lúc một nhỏ hơn.
Dáng vẻ Lisa gây cảm giác cô muốn chạy thẳng vào những đợt sóng đang tràn lên bãi cát. Nhưng rồi tới mép nước, cô học trò suy nghĩ lại, cô dừng chân rồi giơ tay cởi chiếc áo thun ra khỏi đầu. Sau đó, cô rút đôi chân ra khỏi chiếc quần Jean và chỉ mọt tích tắc sau, cả chiếc quần trong cũng bay sang bên. Lisa trần truồng chạy thẳng vào những làn sóng biển.
Cả gia đình Golon chẳng bao giờ mặt quần áo khi tắm. Cái vịnh rất nhỏ này thật hẻo lánh, hầu như chẳng có ai qua lại. Hơn thế nữa, cả gia đình Golon quan niệm việc tự do thân thể chẳng phải là chuyện phản đạo đức.
Raymond, chồng của Fedora và cha của Lisa, hôm nay đang có việc phải đi xa. Mãi tới chiều tối anh ta mới quay trở lại, và chắc chắn anh sẽ lại đã bán được một vài khu đất nào đó, anh là người buôn bán bất động sản.
Fedora hoàn toàn chẳng thông cảm với nghề nghiệp của chồng. Chị thấy khó chịu và ghê tởm những chuyện làm ăn đó. Chị chỉ thích thể hiện những suy nghĩ và tình cảm của mình bằng màu sắc lên trên nền vải. Vẽ đối với chị là tất cả. Nó là cuộc sống của chị, nó là khoảng không gian cho chị nở hoa, nó là thứ thu hút hồn chị. Mỗi giây phút rảnh rỗi đều được Fedora dành trọn cho những bức tranh, và kể cả bây giờ người đàn bà cũng đang nghĩ về chúng, tâm trí của chị đã chìm vào công việc đó. Lisa tắm, và Fedora biết rõ con gái mình, cô bé chắc chắn sẽ ở ngoài bãi biển cả tiếng đồng hồ. Chị có thể tận dụng khoảng thời gian đó. Cứ để cho nồi súp sôi liu riu trên bếp lửa.
Fedora bước chân khỏi căn bếp. Người đàn bà đi qua khoảng hành lang rất rộng rồi quan sát mình trong gương với vẻ hài lòng.
Năm nay chị ba mươi lăm tuổi, nhưng người ta hoàn toàn không nhìn thấy điều đó trong ngoại hình của chị. Fedora vẫn còn là người đàn bà rất đẹp và rất trẻ, đang trong tuổi nở hoa. Bên dưới làn váy rộng, những đường nét của thân hình chị chỉ thể hiện lên thấp thoáng, người đàn bà biết rất rõ thân hình mình vẫn còn thu hút vô vàn những cặp mắt đàn ông.
Một lúc sau đó, hơi hé đôi làn môi đầy đặn, hai con măt nheo nhỏ, người đàn bà cảm nhận một đợt sóng khoái cảm đang chảy qua làn da mình. Đột ngột máu chảy thật nhanh trong huyết quản, có vẽ như nó đã được đun nóng lên, ánh mắt chị mờ đi.
Chị phải làm điều đó.
Chị muốn làm điều đó.
Ngay bây giờ!
Người đàn bà lấy hơi thật sâu. Khuôn mặt đột ngột hiện lên một vẻ bối rối lạ kỳ, khi chị đưa bàn tay thọc sâu xuống túi của chiếc tạp dề làm bếp, những ngón tay bao quanh vòng kim loại lành lạnh của một chiếc chìa khóa. Fedora hài lòng gật đầu, bước về phía trước vài bước rồi xoay mình sang phải, nơi có một cánh cửa nhỏ được xây ẩn trong hốc tường.
Cửa không khóa. Mọi thành viên trong gia đình đều có thể xuống tầng hầm.
Ngôi nhà mới đã được gia đình Golon xây lên trên một tầng hầm kĩ. Vì vậy, nó vẫn còn nguyên những bậc thang bằng đá, còn nguyên những bức tường xù xì, phủ muôn vàn những mạng nhện nho nhỏ.
Chồng chị đã đổ biết bao nhiêu công sức vào đây để biến tầng hầm này thành một hầm chứa rượu vang tuyêt vời. Mỗi chai rượu đều được đặt trong một chiếc ống bằng sành, chỉ có cổ chai ló ra.
Tầng hầm có một vòm trần cong, nó thu nhỏ lại ở khúc đuôi và gây ấn tượng dẫn vào một miền tối tăm bí hiểm. Đó chính là mục tiêu của Fedora.
Từ bóng tối dần dần hiện ra những đường nét lờ mờ của một cánh cửa. Một cánh cửa đặc biệt. Khi Fedora muốn mở, nó tự động bật vào phía bên trong.
Người đàn bà dừng chân. Tim đột ngột đập dồn dập. Việc cánh cửa tự động mở ra mang một ý nghĩa nhất định. Anh ấy ở đây, anh ấy đang chờ chị. Vì vậy mà chị có cảm giác đó, và chị biết, lại một lần nữa đã đến thời điểm của hai người.
Người đàn bà bước tới trao gửi toàn bộ tâm hồn và thể xác vào bàn tay kẻ kia!
Fedora thở dồn dập. Làn da dợn lên những đợt sóng, cảm giác hồi hộp râm ran trong từng tế bào, một cảm xúc ngọt ngào, sự khoái cảm mà những thành viên còn lại trong gia đình không hề ngờ tới. Nếu họ biết điều đó, có lẽ ở đây sẽ nổ ra một cơn bão điên cuồng.
– Em không muốn vào sao, Fedora? – Một giọng nói trầm ấm cất lên. Giọng nói nhắc cho Fedora nhớ lại người cha đã qua đời từ lâu của mình. Những người đàn ông đang chờ chị kia là một người khác hẳn.
– Vâng, em vào đây! – Người đàn bà khẽ đáp, bước qua ngưỡng cửa và chìm vào trong gian phòng bí hiểm. Cánh cửa ngay lập tức khép lại.
Vậy chị đã trao toàn thân vào bàn tay của kẻ thứ hai. Người đàn bà biết điều đó, và cũng không hề có ý định kháng cự.
Quầng ánh sáng màu đỏ phủ lấy chị như một tấm mạng nhện vô hình. Trong góc phòng có một chiếc ghế dài mềm mại, đã rất nhiều sự kiện bí hiểm và êm ái xảy ra trên đó. Nhưng phía trước chiếc ghế dài mới là yếu tố quan trọng nhất, đó chính là bức tranh.
Một khung vẽ khổng lồ được phủ khăn, rộng gần bằng chiều ngang của căn phòng. Khung được đặt trên một giá vẽ rất rộng, phia trước đó là những hộp màu, tuýp màu, cùng vô số những chiếc lọ nhỏ và không biết bao nhiêu bút vẽ.
– Em hôm nay ra sao?
– Fedora nghe giọng nói đó vang lên sau lưng mình. Người đàn bà ngửa đầu ra sau gáy rồi mới trả lời.
– Em rất khỏe!
– Thế thì ta rất vui. Người thân thuộc của ta bao giờ cũng phải được cảm thấy thoải mải dễ chịu ...
Bấy giờ, Fedora quay đầu lại. Từ bóng tối bên cạnh cửa ra vào hiện ra một dáng người.
Đó là một người đàn ông to lớn, tóc đen. Anh ta có một bộ râu màu đen, phủ kín hầu như toàn bộ khuôn mặt, chỉ nổi lên vầng trán.
Fedora không nhận ra chính xác trang phục của người đàn ông, kể cả làn môi cũng không, mặc dù vậy chị tin rằng anh ta đang mỉm cười.
Người đàn ông bước tới sau lưng chị. Thân hình Fedora cứng lại khi cảm nhận đôi bàn tay anh ta đặt lên vai mình, và thính giác của người đàn bà nhận ngay ra mùi cơ thể của anh ta.
Anh ta là một người rất lạ. Anh ta có mùi cơ thể khác tất cả những người bình thường. Nó vừa xắc xói vừa cay nồng, thoang thoảng mùi cháy khét. Cho tới nay, Fedora vẫn chưa thể định nghĩa nó một cách rõ ràng.
Mà cũng thật lạ, cái mùi kỳ quặc đó đánh rất mạnh vào giác quan của Fedora, chị cảm nhận nó rất rõ.
Người đàn bà đứng yên, ngã thân hình ra sau để đón nhận sự ấm áp đang tỏa ra từ thân hình của người đàn ông, nhưng suy nghĩ của chị quay trở lại với thời điểm bắt đầu.
Anh ta bất ngờ xuất hiện vào một ngày nọ. Lisa lúc đó ở trường, chồng chị có việc đi xa. Chị không nghe thấy tiếng bước chân anh ta đi tới, chỉ thình lình thấy anh ta đứng ngay trong căn bếp. Fedora đã muốn kêu lên thì ánh mắt của người đàn ông đã phủ xuống người chị. Lúc đó, tiếng kêu nghẽn lại trong cuống họng. Anh ta bước về phía chị, cởi quần áo chị ra và dẫn chị vào phòng ngủ. Cả hai người đã chìm xuống chiếc giường và Fedora trải qua những giây phút sau đó như trong một giấc mơ.
Khi mọi việc đã qua đi, chị thấy mình nằm lại trên giường, không nhìn thấy người đàn ông đâu nữa.
Anh ta xuất hiện bí hiểm ra sao, thì cũng đã rút lui thần bí như vậy.
Trong những ngày sau đó, Fedora tột cùng bối rối. Raymond, chồng chị, đã hành hạ chị bằng biết bao câu hỏi, nhưng chị không thể đưa ra một câu trả lời cụ thể. Mặc dù chính chị cũng muốn nói về chuyện đó, nhưng không thốt nổi một lời. Chị vừa đau khổ, vừa chờ đợi, bởi chị chắc chắn rằng người đàn ông kia sẽ quay trở lại.
Và anh ta đã trở lại thật ...
Lại thêm một ngày nữa, anh ta đột ngột xuất hiện. Anh ta đứng trước mặt chị như vừa hiện ra từ cõi hư không, nhưng lần này anh ta không dẫn chị vào phòng ngủ, mà dẫn xuống tầng hầm, vào trong một căn phòng cổ xưa nhất trong các căn phòng ở đây. Ở đó anh ta chỉ cho chị thấy tất cả. Anh ta biết nỗi đam mê hội họa của chị, và anh ta giải thích rằng chị cần phải vẽ những gì mà anh ta ra lệnh.
Fedora đồng ý. Người đàn bà sa vào ảnh hưởng của người đàn ông lạ mặt, quyền uy vô hình của anh ta đóng đinh chị, xoa tan đi mọi mong muốn và suy nghĩ riêng tư của chị. Cứ lúc nào giơ tay cầm bút vẽ là chị lại tạo nên đường nét và màu sắc về nhân vật mà thật ra bản thân chị không hề biết. Cứ như thế, một bức tranh dần dần xuất hiện. Nó cần phải trở thành tác phẩm đẹp nhất và tốt nhất của cuộc đời chị, và nó chỉ thuộc về một mình người đàn ông đó.
Khi bàn tay người đàn ông chuyển động, Fedora như tỉnh lại từ một giấc mơ sâu.
– Còn bây giờ? – Chị nghe tiếng thì thào sát tai mình. – Em có muốn nhìn nó không?
– Em ... Em biết nó mà.
– Không hẳn vậy đâu, nàng Fedora xinh đẹp. Đã có thêm một yếu tố nữa, và bức tranh cuối cùng đã hoàn tất.
Fedora giật mình. Người đàn bà đột nhiên thấy chóng mặt. Nếu người đàn ông không giữ lại, có lẽ chị đã ngã lăn xuống đất rồi.
– Anh làm được rồi ư? – Chị thì thào.
– Dĩ nhiên.
– Vậy là ...Vậy là họ sống?
– Em nhìn mà xem.
– Không, em không muốn! – Fedora lắc đầu. Làn tóc chị chắc phải chạm vào mặt người đàn ông đứng sau, nhưng anh ta không tỏ ra khó chịu. Dịu dàng nhưng rất cương quyết khống chế, người đàn ông đẩy chị đến trước chiếc giá vẽ phủ vải.
Fedora có cảm giác như đang trôi bồng bềnh trên những đám mây. Căn phòng trong tầng hầm với những bức tường xù xì của nó đột ngột chứa đầy sự sống. Đã có điều gì đó xảy ra ở đây, một chuyện mà chị không hiểu nổi, và chị biết chị đang tới gần mục tiêu.
Nếu người đàn ông quả thật giữ lời hứa, thì ngay tới đây chị sẽ được chứng kiến một sự việc nằm ngoài tất cả những suy nghĩ logic bình thường.
Người đàn ông nhận ra vẻ chần chừ của chị.
– Để ta làm nhé? – Anh ta hỏi.
– Vâng, anh làm đi ...
Hai bàn tay biến khỏi đôi vai người đàn bà. Người đàn ông bước sang phía trái Fedora, đến bên cạnh khung vẽ, duỗi dài cánh tay ra và cầm lấy một mép vải phủ.
Chỉ một cú giật duy nhất, anh ta rút lần khăn phủ ra.
Fedora nhìn trân trối lên bức tranh.
Hai, ba giây đồng hồ liền, người đàn bà đứng bất động. Thế rồi chị đập cả hai bàn tay lên mặt mình và bắt đầu nức nở.
Những gì hiện ra trước mắt chị, thật nằm ngoài sức tưởng tượng của một con người!.
Tất cả những bạn bè ở London của tôi đều bị sốc trước cái chết của Tanith.
Tôi gọi điện báo cho họ biết, và dĩ nhiên câu hỏi đặt ra là liệu tôi có cần giúp đỡ gì không.
Tôi muốn tự mình xem xét trong giai đoạn đầu, nhưng cũng thông báo địa chỉ để bạn bè biết cần phải tìm tôi ở đâu khi cần thiết.
Vùng quê mà người dân Pháp gọi là Bretangne có một bãi biển rất dốc ở phía Tây. Người ta gặp ở đây những vệt đá kỳ lạ, nhiều vách núi hùng vĩ, mọc thẳng đứng như những bức tường chống giữ những con sóng tràn vào từ ngoài khơi. Tôi đã biết những tảng đá tương tự như vậy ở miền Cornwalll, mà dân cư ở Bretangne cũng thưa thớt y như vùng đất anh em của nó tại nước Anh. Có những bãi biển rất dài hoàn toàn chẳng có một ngôi làng nào, chỉ lâu lắm mới có một trang trại cô đơn, hoặc nhô lên một thành lũy rất cổ. Một mảnh đất tuyệt vời với những người yêu thiên nhiên, cô độc mang đạm dấu ấn của ngọn gió tây.
Một mảnh đất thấm đẫm những huyền thoại bí ẩn.
Từ Paris, tôi thuê một chiếc xe và cùng nó đi về hướng Tây.
Trước mắt tôi là một bài toán khó. Tôi phải tìm cho ra ngôi nhà nơi người họa sĩ đó đang sinh sống. Nó không nằm trong một ngôi làng, mà cũng chẳng nằm trong thị trấn. Chắc chắn người đàn bà này sống trong một ngôi nhà hẻo lánh bên cạnh những vách đá, để có thể toàn tâm toàn lực phục vụ cho công việc của mình.
Chiếc Ranault ngoan ngoãn thực thi nhiệm vụ, nhưng tôi bỗng thấy mệt mỏi và sau một vài tiếng đồng hồ đi đường, tôi quyết định nghỉ đêm trong một ngôi làng bên đường.
Chắc nó phải nằm ở giữa khoảng đường từ Paris xuống Bretangne. Đêm đó tôi ngủ không yên. Cái chết của Tanith là một đòn quá mạnh, và đến ngày hôm sau, tôi tiếp tục lên đường với một cơ thể và trí óc mệt mỏi.
Thời tiết tỏ ra hiền hòa. Thật ra tôi đã tính là trời sẽ mưa, nhưng thay vào đó, tôi càng đi về phía tây bao nhiêu thì trời càng sáng ra bấy nhiêu.
Khung cảnh hai bên đường trở nên hẻo lánh, cô đơn hơn. Những ngôi làng nhỏ hay những nhóm nhà mỗi lúc một trở nên thưa thớt, những khu đất bằng và trống trải nhiều khi trải rộng tới tận chân trời.
Ngang bên đường, tôi nhìn thấy những con cừu, những đàn bò và những cánh đồng trồng lương thực rất lớn, chúng chuyển động trong gió như một bãi biển khổng lồ. Mặt trời bây giờ ló ra, lộng lẫy sáng rỡ giữa không trung. Những tia nắng chiếu thẳng vào bên trong chiếc Renault nho nhỏ.
Ngôi làng có tên là Pont-Even. Nó là địa phương nằm gần mục tiêu của tôi nhất. Tôi địng dừng xe lại ở đó để hỏi đường đi.
Qua một cây cầu cổ lỗ bằng đá và sau đó là những đoạn đường lót gạch, tôi lăn bánh vào thôn Pont-Even.
Người dân ở đây có vẻ thô kệch và kín đáo. Tôi nhận ngay ra điều đó khi bước vào một quán rượu. Khách ngồi chẳng đáp lại câu chào hỏi của tôi, chỉ chăm chăm chú ý đến món ăn và thức uống của họ.
Tôi gọi một tách cà phê lớn. Phải hỏi đến lần thứ ba, tôi mới được người ta chỉ đường đi.
Câu trả lời của người bồi bàn nghe thấp thoáng màu sắc cấu kỉnh, khó chịu.
Hình như người họa sĩ đó không được ai yêu mến.
Tôi hỏi nguyên nhân.
– Đó là người lạ. – Người ta chỉ trả lời đơn giản như vậy thôi. Ngồi thêm một chốc, tôi trả tiền rồi đi tiếp.
– Tôi không gặp khu cư dân nào nữa. Con đường nằm như một mảnh vải mỏng manh giữa một khung trời xanh tươi, mỗi đoạn một thấm đẫm nhiều hơn những màu sắc của biển cả.
Cỏ không còn mơn mởn nữa. Trông chúng đã ngả màu rơm.
Con đường dốc nhẹ lên trên. Tôi đã mở một cửa sổ xe. Không khí bên ngoài bây giờ có mùi vị khác lạ. Nó vừa tươi hơn, thoáng đãng hơn vừa đậm mùi muối. Thấp thoáng xa xa đã vang lên tiếng gào của sóng biển.
Chiếc Renault nhảy chồm chồm qua một con đường đất. Nhựa đường ở đây là thứ hàng cao cấp mà người dân không biết tới. Thích thoảng đã hiện ra một vài tảng đá khổng lồ. Những khối đá sáng màu, to bằng cả một ngôi nhà, tựa như được bàn tay của kẻ khổng lồ thuở trước vung tung tóe xuống mảnh đất này.
Chiếc xe lăn bánh về hướng một khoảng đất bằng phẳng.
Mặt trời mùa hè phủ xuống vạn vật làn ánh sáng mờ. Ánh phản quang của nó phủ lên lớp cỏ mỏng màu nâu xanh trông như mái tóc vàng và dài của một cô gái trẻ, mái tóc đang được chải không phải bằng lược mà bởi những ngọn gió.
Chẳng bao lâu sau, việc lái xe trở thành khó khăn. Đất bây giờ lẫn lộn quá nhiều cát, khiến bánh xe rất khó quay. Nhưng máy xe đã cặm cụi làm nhiệm vụ của nó và cuối cùng tôi cũng đến được khoảng đất bằng phẳng nọ.
Khoảng đất bằng phẳng này có độ rộng của một sân bóng đá. Không thể đi tiếp được, tôi dừng lại và bước ra khỏi xe. Ngay lập tức, làn gió tới đón tiếp tôi.
Nó thổi từ phía trước, hất ngược mái tóc và mang theo vô vàn những hạt cát nhỏ li ti, phủ lên mặt, bám vào da vị khách mới tới.
Tôi ngửi thật rõ mùi vị của mảnh đất xung quanh, hít nó vào phổi, và bước đến bên rìa vách đá.
Sau mỗi bước chân, tiếng gầm gừ và vật vã của những ngọn sóng lại mạnh hơn lên. Khi đã đến bên rìa đất và nhìn xuống dưới, tôi thấy những con sóng đang nổi bọt. Chúng lồng lộn đập vào vách núi như một con thú dữ luôn luôn tìm cách tấn công trở lại, mặc dù lần nào cũng bị chặn ngang. Những tia nước bắn vọt lên thật cao, và khi ánh nắng mặt trời chiếu qua đó, chúng tạo thành những vệt cầu vồng yếu ớt.
Một khung cảnh giành cho các nhiếp ảnh gia. Đằng xa kia là Đại Tây Dương. Một sa mạc nước dài vô tận. Xám xịt, dập dềnh, thỉnh thoảng có gài những chiến lược bằng bọt trắng.
Ngôi nhà ở đâu?
Khi nhìn về bên phải, tôi thấy một cái vịnh nhỏ. Hai vách đá nhô về phía trước, che chở ngôi nhà trước tính khí cuồng nộ của biển, và lấy đi ba phần sự hung hãn của sóng bể, chỉ còn lại những làn nước tương đối yên tĩnh chạy hiền hòa lên một bải cát.
Nhìn từ vị thế này, tôi trông thấy một dáng người trông chỉ như một chấm nhỏ vô cùng tận. Tôi nhìn thấy nó chạy ra khỏi những cơn sóng, rồi nằm xuống làn cát. Chỉ khi nheo mắt nhìn thật kỹ, tôi mới phát hiện ra một mái tóc thật dài và biết đây là một cô gái.
Có phải đó là Fedora?
Có lẽ. Tôi tìm đường leo thẳng xuống, nhưng gò đất quá dốc. Vì vậy, tôi quyết định quay trở lại xe, tin rằng mình đã đi lầm đường. Tôi cho xe lùi một đoạn, rồi quả thật tìm thấy con đường thứ hai, nối vào con đường thứ nhất.
Theo cái nhìn dự đoán đầu tiên, con đường mới này có lẽ sẽ hướng về nơi tôi đã nhìn thấy con vịnh nhỏ và một bãi cát mịn.
Quả tôi đã không lầm. Con đường không dẫn lên một tầng đất cao hơn, mà chạy thoai thoải xuống dưới. Nó uốn vòng như một con rắn về hướng biển, rồi cuối cùng đổ vào cái vịnh nhỏ mở ra trước mặt tôi một hình bán nguyệt.
Ngay lập tức, tôi cũng nhìn thấy ngôi nhà. Trước khi tới đây, tôi cứ nghĩ là mình sẽ gặp một ngôi nhà cũ, cổ lỗ. Nhưng bây giờ tôi bất ngờ trước hình dáng hiện đại của nó. Người ta đã sử dụng gỗ làm chất liệu xây dựng chính. Trước mắt tôi bây giờ, tức là phía đằng sau ngôi nhà, là một nửa mái nhà lợp ngói rất dốc. Lên tới đỉnh, mái gập về phía bên kia một chút, có hình dáng gần giống như một chiếc Bungalow. Tôi nhận ra điều đó khi lái xe đi ngang ngôi nhà, qua một khoảng vườn nhỏ.
Con đường dẫn xuống bãi biển hòa vào một nền cát mịn. Tôi cho xe lăn bánh đến vách đá cao chắn gió rồi tắt máy. Bước khỏi xe, tôi tiến lại gần ngôi nhà.
Hiên nhà hướng về phía biển, cửa đang mở. Tôi nhìn vào trong và phát hiện ra một căn bếp cùng một phòng khách rất rộng, được trang hoàng trông ấm cúng và có vẻ vững chãi.
Không một bóng người.
Tôi nhớ lại cô gái mà tôi đã nhìn thấy từ gò đất trên cao. Chắc chắn cô ta vẫn còn ở bãi biển kia. Tôi quyết định tới gặp và hỏi thăm cô ta bởi không thể tự nhiên bước chân vào một ngôi nhà lạ.
Tôi bước đi chầm chậm qua bãi cát, rồi phát hiện cạnh một túp lều hình nấm bằng khung gỗ lợp rơm một vài phần trang phục. Vẫn không thấy bóng dáng của cô gái.
Chỉ tới khi những làn sóng trào tới đã gần chạm vào người, tôi mới dừng chân lại. Ánh nhìn lướt qua mặt nước, những làn sóng của nó phản chiếu ánh mặt trời và khiến tôi lóa mắt. Cánh tay người vẫy thật khó nhận ra.
– Này ông, ông muốn đi đâu vậy? – Giọng nói ném câu hỏi về phía tôi còn rất trẻ, trong vắt, và chỉ sau đó một thoáng, một cô gái rất trẻ bước lên từ mặt nước, có vẻ như cô chẳng quan tâm tới chuyện một người lạ đang nhìn cô lõa thể.
– Thở dồn dập, cô bé dừng lại trước mặt tôi và giơ tay vắt tóc.
– Ông muốn đến thăm chúng tôi hay sao?
– Vâng, tôi tìm Fedora ...
– Đó là mẹ tôi. – cô gái nhanh nhảu nói và đưa bàn tay còn ướt cho tôi bắt. – Tôi là Lisa Golon, con gái Fedora.
– Tôi tên là John.
– Nghe như tên của người Anh.
– Đúng vậy. – Tôi nhìn thấy làn da cô bé đang dợn lên vì lạnh. – Cháu không muốn mặc quần áo vào sao?
– Thế thì tốt hơn. – Cô bé cười và chạy ngang người tôi, hướng về túp lều bằng nấm, cầm lấy chiếc khăn bông và lau khô tóc. Sau đó, cô mặc quần áo vào.
– Chú muốn gặp mẹ cháu làm gì? – Cô bé hỏi khi nhìn thấy tôi bước vào dưới mái che.
– Chú muốn nói chuyện với bà ấy.
– Về chuyện gì? - Cô bé đột ngột cười vang. – Nhưng cháu nghĩ ra rồi, chắc chú quan tâm đến những bức tranh của mẹ cháu. Đúng không nào?
– Có lẽ thế!
Cô bé nhún đôi vai mỏng manh.
– Nhưng cũng có thể chú muốn bàn chuyện làm ăn với ba cháu? Nếu thế thì chú phải chờ lâu đấy. Tối nay ba cháu mới về.
– Không, không, chú chỉ muốn nói chuyện với mẹ cháu thôi. Kể cả về Paris!
– Tôi thêm vào câu cuối cùng.
– Ô! Hay quá, thành phố đó rất đẹp. Mẹ cháu vừa ở Paris về đấy.
– Chú biết!
– Chú có gặp mẹ cháu ở đó không?
– Không, nhưng cả hai chúng tôi cùng quen một người. Bà ấy tên là Tanith.
Cháu đã nghe thấy cái tên này chưa?
Lisa không mang giày. Cô bé thò ngón nhân cái sục cát lên, suy nghĩ.
– Chưa, cháu không quen bà nào tên Tanith cả. Bà ấy sống ở đâu ạ? Có phải ở Pont-Even?
– Không, ở Paris.
– Ra thế. – Cô bé cười. – Chú biết không, chú John, cháu chẳng mấy quan tâm đến việc làm của mẹ cháu đâu. Cháu không thích những bức tranh đó.
– Tại sao cháu lại không thich chúng?
Cô bé tiếp tục thò ngón chân xoay xoay trong cát.
– Sao cháu thấy chúng u ám và bi quan quá.
– Có phải mẹ cháu cũng vậy không?
– Mẹ cháu có thể thuộc loại người hướng nội, ít nhất là khi bà vẽ tranh.
Nhưng lúc khác thì và rất bình thường. – Lisa cười. – Chú đã vào nhà chưa? – Cô bé hỏi tôi.
– Chưa, tại chú không nhìn thấy mẹ cháu.
Cô bé xoay người.
– Kỳ thật. Mẹ nói là sẽ ngồi đó chờ và nấu ăn cho cháu.
– Nhưng chú cũng chỉ mới nhìn qua hàng hiên thôi.
– Thế thì chắc mẹ đang ở phòng khác. Đi nào, chú John, ta vào nhà thôi! – Cô bé giơ tay vẫy tôi và đi trước.
Tôi nhìn sau lưng cô bé. Hai cánh tay cô chuyển động nhịp nhàng cùng với mỗi bước đi, thế rồi đột nhiên, tôi nhìn thấy một vệt thẫm màu trên hai bàn tay đó. Cái thứ thẫm màu ấy chảy dọc theo những ngón tay, tụ lại nặng lên, và chỉ một nửa tích tắc sau, nó nhỏ những giọt đầu tiên xuống cát.
Để lại những vệt màu đỏ.
Máu!
– Lisa! – Tiếng gọi gắt gao của tôi khiến cô bé dừng phắt lại.
Đột ngột, tôi cảm nhận được một sự thay đổi kỳ lạ. Mặc dù tôi vẫn đứng trên bãi biển, nhưng mọi chuyển động tại sao đều chậm hẳn lại một cách bí ẩn.
Tôi nhận ra điều đó khi Lisa xoay người lại phía tôi. Toàn bộ chuyển động như bị khuấy đảo. Tôi có cảm giác cô bé như một vũ công balet đang trôi bồng bềnh trên một đám mây, giơ hai tay ra và máu phủ trên hai bàn tay cô đã bị lực ly tâm xoay rộng ra ngoài. Những giọt máu tiếp tục vẩy xuống cát.
Thế rồi chỉ một tích tắc sau đó, mọi việc trở lại bình thường. Lisa nhìn tôi.
Cả khuôn mặt cô bé bây giờ là một câu hỏi lớn, cô nói:
– Tại sao chú lại gọi cháu?
– Tôi giơ tay chỉ xuống hai bàn tay cô, muốn nói một câu gì đó nhưng rồi kịp nuốt những lời đó xuống họng. Thật vô lý. Hai bàn tay nhìn rất bình thường.
Suýt nữa thì tôi đã bị bẽ mặt.
– Thôi được rồi! – Tôi khẽ nói.
– Không mà, hình như đã có chuyện gì xảy ra!
– Chú nhìn nhầm thôi. Thôi quên đi, cô bé.
– Thôi, tùy ý chú. Nhưng mà kỳ lạ thật!
– Ừ chú cũng thấy thế. – Câu trả lời thật ra tôi dành nhiều hơn cho bản thân mình, bởi tôi biết rất chính xác là mình không nhìn lầm. Rõ ràng lớp máu kia đã tồn tại và pháp thuật từ phía đối chọi thậm chí khiến cho cây thánh giá thần đeo trên ngực tôi nóng lên. Vậy là một nguồn điện pháp thuật đã chạm vào nó. Nó quá đủ là một bằng chứng, cho biết chuyến đi của tôi về đây không hoài phí.
Hai chúng tôi bước lên hàng hiên. Hàng hiên có che mái để gia đình kể cả khi trời mưa vẫn có thể ngồi được ngoài này. Nó được bao bọc bằng một hàng rào lửng tạo bằng những mảnh gỗ sơn trắng. Hai chiếc ghế dài được mở ra cũng như một chiếc ghế bành, cho thấy gia đình Golon khi đi mua sắm hoàn toàn chẳng cần quan tâm đến giá cả.
Gió đã mang cát lên tận hàng hiên. Nó kêu sào sạo dưới những bước chân của chúng tôi.
Cô bé là người đầu tiên bước vào nhà. Cô bé dừng lại trong căn bếp hoàn hảo và cất tiếng gọi mẹ.
Lisa gọi rất lớn, chắc chắn người ta phải nghe rõ, kể cả người đứng ở tầng trên.
Nhưng không có câu trả lời. Cô bé quay về phía tôi, nhún vai:
– Cháu không biết chuyện gì đã xảy ra. - Lisa nhìn về hướng bếp. – Nồi súp vẫn còn sôi đây này. – Cô nói và đi tới bếp, tắt lửa. – Có lẽ mẹ cháu lại vẽ nữa rồi.
– Nhưng cháu gọi rất lớn mà.
Lisa phẩy tay.
– Lúc vẽ mẹ cháu quên cả trời lẫn đất. Để cháu đi xem nhé?
– Được thế thì rất tốt!
Đúng vào lúc cô bé muốn quay người đi thì cả hai chúng tôi cùng nhận thấy chấn động. Nó đến thật đột ngột. Đất dưới chân chúng tôi rung chuyển. Những cơn địa chấn nối tiếp nhau như từng đợt sóng cuộn đến khiến cho bát đĩa kêu lên loảng xoảng trong tủ bếp. Lisa thét lớn lên, lao mình vào tay tôi.
Tôi ôm lấy cô bé và giữ chặt lấy cho tới khi cơn chấn động qua đi.
Lisa đứng thẳng người dậy.
– Cháu xin lỗi chú. – Cô bé thì thào. – Nhưng cháu không hiểu được. Có cái gì kỳ lạ quá!
– Chuyện này có xảy ra thường xuyên không? – Tôi hỏi.
– Không chưa bao giờ cả!
– Thế thì theo chú, tốt nhất là ta nên đi tìm mẹ cháu đi. Có vẻ như ở đây đang có một vài chuyện hỗn độn.
– Cháu cũng tin như vậy. – Cô bé thành thật thú nhận với tôi rồi nuốt khan một vài lần.
Tôi đã quan sát cô bé rất kỹ. Qua phản ứng của cô, tôi biết cô hoàn toàn chẳng biết gì cả. Cô cũng chẳng nhận ra được vệt máu trên tay. Còn bản thân tôi thì có cảm giác mình đang từ từ chìm vào một vòng xoáy nguy hiểm của Pháp Thuật Đen – Đi nào. – Tôi nói. – Dẫn chú vào phòng mẹ cháu đi!
Lisa gật đầu và bước đi trước. Tôi nhìn rõ hai cánh tay cô bé đang nổi da gà.
Nét vui vẻ hồn nhiên của tuổi thiếu nữ đã bỏ ra đi.
Chúng tôi ra khỏi căn bếp, đi dọc theo một khúc hành lang hẹp, và cuối hành lang hiện ra một cầu thang bằng gỗ. Cầu thang dẫn lên tầng trên. Lisa đi rất nhanh. Đôi bàn chân trần của cô bé dẫm lên những bậc thang, tôi chậm rãi bước theo cô.
Nếu mẹ cô ở trên này, tôi nên để Lisa có thời gian báo cho bà biết, để người phụ nữ có thể chuẩn bị cho vị khách mới tới.
Điều đó không xảy ra.
Cô bé bước vào một căn phòng, rồi lên tiếng gọi tôi:
– Chú vào đây, chú John.
Có một cánh cửa mở toang. Đó là cửa dẫn vào phòng vẽ. Nó nằm ở phía sau của ngôi nhà. Một khung cửa sổ rất rộng mở thẳng ra hướng biển và tạo thành một góc vuông với mái nhà bằng. Những ai đứng trước khung cửa rất rộng này có thể quan sát bao quát toàn bộ bãi biển và nhìn ra rất xa trong vịnh.
Chẳng thấy một dấu vết nào của Fedora Golon. Thay vào đó, tôi được ngắm những bức tranh của chị ta. Chúng được treo dọc theo hai bức tường không cửa sổ. Một số được dựng bên dưới, sat nền phòng. Tôi đi chậm chậm dọc những bức tranh, quan sát.
Lisa đã nói rất đúng. Đây không phải là thứ giành cho những con người lạc quan, vui vẻ, Fedora Golon làm việc với những tông màu u ám. Chị ta thường vẽ phong cảnh, tĩnh vật mang đậm sắc mùa thu. Những thân cây quằn quại trong bão, những cành cây xương xẩu đang uốn mình trong gió, những núi mây dày cộm đang tấn công bầu trời.
Còn những bức tranh khác lại gây ấn tượng như những hình ảnh được lấy từ những chuyện cổ tích u ám. Có những con người đang chạy trốn trong nỗi sợ hãi tột cùng trước những thế lực ma quỷ nào đó, hoặc bay thẳng vào những địa ngục lửa, và bị thiêu sống. Một bức tranh nhắc nhở tới những chiều thời gian lạ đã có lần tôi lạc vào. Nhắc tới một mảnh đất lẽ ra không được tồn tại. Những con chim vẽ trong tranh thật giống với những thứ mà tôi đã chứng kiến nơi đó; những vật thể hình dạng rồng, đang uốn lượn trên một bầu trời tăm tối.
Lisa nhìn tôi.
– Chú có thích chúng không, chú John?
– Không, thật ra thì ... - Những từ ngữ tiếp nối bị giật vụt ra khỏi đôi môi tôi bởi một tiếng động rất mạnh và đột ngột. Cả hai chúng tôi giật nảy người lên.
Thế nhưng không có hiểm họa. Chỉ cánh cửa bị gió đập sập vào ổ khóa.
Lisa giơ một bàn tay áp lên ngực.
– Trời đất, cháu sợ quá! Hôm nay sao cháu hay hoảng hốt đến thế nhỉ?
– Tôi chuyển đề tài.
– Mẹ cháu bây giờ có thể ở đâu nhỉ?
– Có lẽ dưới tầng hầm.
– Bà ấy vẽ ở dưới đó sao?
– Không, cháu nghĩ là không. Nhưng nếu hai chú cháu không thấy mẹ cháu ở tầng trệt cũng như ở trên lầu này thì chỉ còn lại tầng hầm thôi.
Thật ra cô bé có lý.
– Cháu sợ cái tầng hầm đó lắm. – Lisa khe khẽ nói cho tôi biết.
– Cháu mà sợ à?
– Vâng, tầng hầm đó rất là khác. Nó rất kỳ lạ. Chú có biết không, thật ra nó chẳng thuộc về nhà cháu, mà đã có từ rất lâu rồi. Ít nhất thì cũng là những bức tường. Khi tạo ngôi nhà này, ba mẹ đã để nguyên như vậy mà xây lên trên.
– Thế còn bây giờ?
– Nó được dùng làm nơi chứa rượu vang.
Đầu lưỡi tôi cháy lên trong câu hỏi, liệu bà họa sĩ có phải là một đệ tử ma men không lộ mặt. Nhưng may mà tôi kịp thời nuốt câu hỏi xuống.
– Vậy thì ta xuống tầng hầm xem thử đi! Hay là cháu sợ cả chú nữa?
– Không đâu!
– Sao chú lại vinh dự vậy?
Mặt Lisa đỏ lên.
– Chú biết không, chú John, cháu thường nhận ra điều đó trong ánh mắt của người khác. Lúc ban nãy ở bãi biển, cách chú nhìn cháu bước ra khỏi mặt nước thật khác với kiểu nhìn của đám con trai hoặc của những người đàn ông ở đây.
Nó rất ... - Cô bé nhún vai. – Ánh mắt rất đàng hoàng.
– Tôi bật cười.
Cháu tinh mắt thật đấy, Lisa. – Vừa nói, tôi vừa cố ném một cái nhìn cuối cùng về hướng những bức tranh.
Chính trong tích tắc đó, tiếng hét của cô bé như giật chuông báo động!
Một bức tranh khủng khiếp.
Thật hiện thực, mà bí hiểm, u ám và cũng tàn nhẫn độc ác trong một phương cách nào đó.
Vậy mà nó đã do chính tay chị vẽ nên.
Fedora Golon không hiểu được. Hai đầu gối chị mềm ra, người đàn bà đứng đó và run rẩy. Hai mắt đẫm lệ. Chị không biết liệu nên khóc hay nên la hét, chị chỉ nhìn thấy bức tranh mà người đàn ông kia vừa phơi bày ra trước mặt mình.
Nền tranh được vẽ trong màu tối. Bức tranh thể hiện một cánh cổng mở, một khung cửa màu xám được đỡ bằng hai cây cột lớn.
Đằng sau cánh cửa bắt đầu một hành lang u ám. Fedora đã rất cố gắng để thể hiện chiều sâu của hành lang lên nền tranh. Người xem có cảm giác như hành lang dẫn mãi về nơi vô tận hoặc xuống địa ngục.
Phần trước bức tranh chỉ ra những nhân vật đóng vai trò chính ở đây.
Các thầy tu!
Tất cả có năm thầy tu. Họ đều mặc những chiếc áo dài trùm đầu màu xám, tay cầm tay họ tạo thành một vòng tròn. Tư thế của họ giống như đang nhảy quanh chiếc bàn hình oval. Trên bàn tay có phủ một lớp khăn màu đỏ sậm.
Nhưng đó không phải là thứ khiến cho người đàn bà vừa cảm thấy thu hút vừa kinh hãi. Nỗi sợ của chị bắt nguồn từ những đồ vật đứng trên mặt bàn kia, những đồ vật mà chị hoàn toàn không vẽ.
Đó là một chiếc đế đựng và quả cầu bằng pha lê đỏ.
Chị biết cả hai thứ này. Chính vì chúng mà chị đã đi tới thành phố Paris. Chị đã đánh cắp những đồ vật này ở đó. Chiếc đế đựng và quả cầu pha lê là nguyên nhân chuyến đi và cũng là lý do khiến chị làm quen với một người đàn bà bí hiểm có tên là Tanith.
Chị đã mang cả hai thứ đó về đây, đã đưa chúng xuống tầng hầm này, và bây giờ thì chúng nhảy vào đứng giữa bức tranh.
Một hiện thực bí hiểm ...
Bức tranh bây giờ trông thật sống động đến độ người đứng trước nó phải tính đến khả năng những thầy tu kia cũng sẽ bắt đầu chuyển động bất cứ lúc nào, họ chỉ tạm thời bị đờ ra trong một khoảng thời gian ngắn mà thôi. Chỉ riêng dáng người của năm thầy tu đã cho thấy người vẽ chúng là một họa sĩ tài ba tới mức nào.
Không hề khoe khoang, Fedora quả thật có thể tự gọi mình là một nghệ sĩ tầm cỡ.
– Thế nào? – Chị nghe thấy giọng của người đàn ông râu rậm. – Em có thấy thích bức tranh không?
Fedora không nói thành lời. Người đàn bà lấy một hơi vài lần thật sâu, lắc đầu, rồi nhún vai.
– Em ... em không rõ!
– Tất cả những thứ này là đồ thật.
– Anh đang nói về chuyện chiếc đế đựng và quả cầu pha lê? – Fedora hỏi lại.
– Chính xác!
– Nhưng tại sao lại như thế được? Em đâu có vẽ chúng. Làm sao chúng có thể nhảy vào bức tranh được?
– Chính ta đã làm chuyện đó!
Nữ họa sĩ đã chờ đợi câu trả lời này. Nhưng mặc dù vậy chị vẫn bị sốc, chị lắc đầu bởi không muốn tin.
– Đúng, em nghe đúng rồi đấy. – Gã đàn ông thì thào. – Đó là những vật thể thật mà em đã mang từ Paris về đây. Chúng rất hợp với bức tranh.
– Em không hiểu. – Nữ họa sĩ thì thào. – Em thật không hiểu được ...
– Thôi, chấp nhận đi!
“Mình chẳng còn con đường nào khác hơn là phải chấp nhận”. – Fedora thầm nghĩ và khuôn mặt chị hằn lên một nếp nhăn đau khổ. Mọi việc đột ngột trở nên trầm trọng, xa lạ. Chị vẫn còn đứng trong ngôi nhà của mình, vậy mà đã mang cảm giác tồn tại trong một khoảng chân không. Nếu suy nghĩ ra đều thật điên khùng. Chị vẽ một bức tranh, một bức tranh mà thật ra chị không hề muốn vẽ. Thế rồi có những vật thể hết sức bình thường đột ngột nhảy vào trong tranh, những vật thể mà chính chị đã mang từ Paris về đây.
Bên cạnh tất cả những chuyện đó là một người đàn ông bí hiểm, người đã đột ngột nhảy vào cuộc đời chị, chiếm một vị trí mà lẽ ra chỉ dành riêng cho chồng chị. Người đàn ông và bức tranh này chắc phải có một mối liên quan trực tiếp với nhau. Chị đã trao thân cho người đàn ông đó, và mãi tới bây giờ Fedora mới ý thức được rằng thậm chí chị chưa hề biết tên anh ta.
Thêm một lần nữa, chị cảm nhận đôi bàn tay của người kia và bất chợt rùng mình. Những ngón tay không còn dừng lại trên đôi vai, chúng bây giờ đang ôm trọn lấy cánh tay chị, gây nên cảm giác chiếc váy chị đang mặc trên người hoàn toàn không tồn tại. Những ngón tay đang sờ soạng trên làn da trần.
Fedora không thể hướng khỏi bức tranh. Chị đã vẽ rất nhiều, nhưng không một bức tranh nào đẹp và hiện thực như bức tranh này. Nó nhắc cho người ta nhớ đến nét vẽ tài ba của những họa sĩ cổ thế kỷ thứ XVI, XVII, những người mà ngày hôm nay được các chuyên gia khẳng định rằng họ đã lột tả được phần hồn của sự vật, khiến các nhân vật trong tranh trông như đang sống.
– Giờ thì tác phẩm nghệ thuật của em đã hoàn haỏ! – Gã đàn ông thì thào vào vành tai bên phải của Fedora. – Em đã làm rất tốt.
– Điều đó có nghĩa là ...?
– Ồ, rồi em sẽ thấy. Em đã lập nên công lớn. Nhất là việc em đã đi Paris và đưa những vật đó về đây, những thứ mà anh rất cần và cả họ cũng rất cần. Chiếc đế đựng và quả cầu pha lê.
– Ai cần những thứ đó? Họ là ai?
– Những thầy tu!
Fedora lắc đầu.
– Họ đâu có thể sử dụng chúng, kể cả chiếc đế đựng lẫn quả cầu. Đó không phải là người, đó chỉ là những hình được vẽ lên trên tranh ...
– Đúng thế, người tình của ta. Nhưng em có chắc đó không phải là người không?
– Tại sao? Chính em ...
Người đàn ông chỉ cười, nhưng trong một tích tắc sau đó, gã giật nảy người lên.
– Sao thế? – Fedora hỏi.
– Có kẻ thù!
– Tại sao?
Người đàn ông bước tách ra khỏi chị.
– Ta cảm nhận thấy như vậy! – Gã thì thào. – Ta cảm nhận rất rõ ...
– Nhưng ai đến đây mới được chứ?
Kẻ kia cười lớn.
– Ai hả? Ta có thể nói rõ cho em biết, người tình của ta, nhưng thôi. Vụ giết người tại thành phố Paris đã bị chú ý. Người ta sẽ tìm ra dấu vết của em, và chính hắn đã tìm đến đây. Nhưng việc này chẳng giúp được gì cho hắn đâụ. – Fedora ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu người đàn ông nói gì. Chị đưa ánh mắt ra khỏi bức tranh và nhìn về phía con người mà chị thuần phục.
Gã đang đứng bên cánh cửa.
Chỉ trong một giây đồng hồ, thân hình gã đã biến đổi hoàn toàn. Đột ngột, có vô vàn ngọn lửa xanh nho nhỏ bốc lên trên cơ thể gã, vẽ lại thật rõ ràng từng đường nét. Thế rồi Fedora phát hiện ra một yếu tố khác. Một thân hình thứ hai.
Thân hình thứ hai này đặt chồng lên thân hình thứ nhất, nhưng không tồn tại thật sự, mà chỉ là một bóng mờ.
Nó nhảy nhót trên thân hình thứ nhất và là một bức tranh thật tởm lợm. Một khuôn mặt hình tam giác như khuôn mặt một con dê già, thêm vào đó là hai con mắt bốc lửa và một cái miệng rất rộng với hai hàm răng nhọn hoắt nhô ra.
Bộ mặt của quỷ Satan?
Người đàn bà rùng mình và sa ngay vào một cơn sốc thứ hai khi hình ảnh của đứa con gái chị đột ngột hiện lên. Bức tranh đó đè chồng lên bức tranh năm tên thầy tu, Fedora nhìn thấy rất rõ cô con gái của chị đang ở trên bãi biển và máu chảy ra từ hai tay nó.
Thế rồi hình ảnh đó biến đi. Cả người đàn ông trông cũng thoắt bình thường trở lại khi anh ta nhìn vào mặt chị.
Người đàn bà lùi một bước về sau. Hai chân run rẩy, đầu gối như đã biến thành cao su, và khi đưa tay lên mặt, chị nhận thấy da mình ướt đẫm mồ hôi.
– Chuyện gì ... Chuyện gì vậy? – Vất vả lắm chị mới lắp bắp nên lời.
– Gã đàn ông râu ria xồm xoàm cười lớn, đôi mắt gã sáng lên một cách kỳ dị.
– Pháp thuật. – Gã thở ra. – Pháp Thuật Đen ...
Fedora không hiểu. Chị đứng đó, nắm chặt hại bàn tay thành nấm đấm.
Thêm một lần nữa, chị cố nhớ lại những gì mình vừa nhìn thấy. Chính là đứa con gái ruột của chị, một phần của gia đình chị, cái gia đình mà thật ra chị vẫn yêu thương. Trong giây phút này, người đàn bà thấy mình như một con hổ mẹ, sẵn sàng nhảy lên bảo vệ con mình. Chị lắc đầu dữ dội.
– Để cho nó yên! – Chị gào vào mặt người đàn ông. – Như thế là đủ rồi, anh hớp hồn tôi là đủ rồi! Lisa không dính dáng gì tới chuyện này. Việc này chỉ liên quan tới hai chúng ta!
– Ngu ngốc! – Gã đàn ông râu xồm lạnh lùng đáp lại. – Ngu ngốc! Cô tưởng là những kẻ khác đứng ngoài cuộc được sao? Không đâu, cô nhầm rồi! Nhầm một cách trầm trọng. Những gì ta đã định làm ta sẽ làm cho bằng được. Cô phải chấp nhận và phải hiểu điều đó. Ta không tự nguyện lùi bước đâu, không lùi một bước. Vòng tròn đã khép lại rồi, bởi chính cô đã mang hai vật thể kia từ Paris về đây, hai thứ ma ta còn thiếu.
– Nhưng tôi đâu có làm gì chị ấy ...
– Cô không làm gì sao? – Kẻ kia chế giễu.
Fedora phẩy tay.
– Thôi được rồi, bỏ đi. Nói tiếp cũng chẳng có ích gì.
– Gã đàn ông không nghe lời chị nữa. Cơ thể gã đã căng lên, gã nhìn lên trên cao. Ánh mắt gã như đang khoan xoáy vào trần phòng.
– Anh sao vậy? – Fedora hỏi.
Câu trả lời được đưa ra bằng một kiểu cách mà người đàn bà không bao giờ lường tới. Đột ngột, mảnh đất dưới chân chị rung lên. Những chấn động lan truyền khắp ngôi nhà, làm rung chuyển cả những bức tường lẫn nền nhà. Nó giống như một cơn động đất nhỏ, và người đàn bà lảo đảo bước tới gần bức tường ...
Đột ngột như khi nó xuất hiện, những chấn động thoắt biến đi.
Mọi vật trở lại binh thường.
Người đàn bà nhẹ nhõm thở ra, đồng thời lắng tai hướng lên trên, muốn xác định xem phía trên nhà có gì đổ vỡ hay không.
Bên trên yên tĩnh.
– Giờ thì chắc chúng đã ngạc nhiên đủ rồi. – Gã đàn ông nói, giơ hai tay xoa vào nhau.
– Ngạc nhiên về chuyện gì?
– Ngạc nhiên về những phản ứng mà việc chúng xuất hiện đã gây ra. – Gã giải thích. – Nhưng bây giờ thì em có thể đi lên trên, người tình của ta. Đi lên gặp con gái em và gặp gã đàn ông đó. Ném hắn ra ngoài! Nói với hắn rằng ở đây chẳng có ai chịu được hắn cả. Cứ tin vào anh. Lúc nào anh cũng sẵn sàng giúp em, Fedora. Anh luôn đứng bên cạnh em. Đừng bao giờ quên điều đó!
– Anh để cho em đi hả?
– Đúng!
– Thế còn bức tranh? Em muốn vẽ tiếp!
– Không! – Gã râu xồm đáp lại. – Em không cần vẽ tiếp!. Nó xong rồi!
Fedora ngạc nhiên.
– Chẳng lẽ từ giờ anh sẽ thôi không ra lệnh cho em vẽ tiếp nữa sao?
– Nếu anh đã nói là em không cần vẽ tiếp, thì có nghĩa là em không cần.
Fedora gật đầu. Người đàn ông vừa ám chỉ đến bức tranh của chị. Nghĩ tới đó, người đàn bà lại thoắt quên đi tất cả những chuyện khác và thì thào:
– Nó đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật thật sự.
– Đúng thế, một tác phẩm rất đặc biệt. – Gã râu xồm đáp.
Một nụ cười lướt qua đôi môi người đàn bà, nhưng nó đóng băng lại ngay trong tích tắc sau đó. Với vẻ kinh ngạc tột cùng, Fedora đứng sững nhìn bức tranh, giơ tay dụi mắt, nhưng hình ảnh không thay đổi.
Chị không nhìn lầm.
Những người thầy tu mà chị vẽ nên bây giờ không đứng yên nữa. Họ chuyển động, họ đang nhảy xung quanh chiếc bàn hình oval, tạo thành một vòng tròn ma quỷ.
Fedora thật không tin vào mắt mình. Chị đã tính đến nhiều khả năng, nhưng những gì đang nhìn thấy thật sự vượt khỏi giới hạn của trí tưởng tượng.
Người đàn bà thật sự không thể hiểu nổi, đã bao giờ những hình vẽ trong tranh trở thành người sống chưa?
Không thể được ...
Năm thầy tu thật sự không đứng yên nữa. Họ nhảy xoay quanh về một hướng xung quanh cái bàn, giơ tay lên cao, hạ xuống thấp rồi mở miệng ra. Họ tiếp tục chuyển động trong câm lặng, nhưng theo một nhịp điệu nhất định, do một người nào đó ấn định.
Họ đang nhảy đúng điệu nhảy của dân Do Thái xoay quanh con bò vàng. Chỉ có điều ở đây các thầy tu nhảy xung quanh một chiếc bàn, trên có để chiếc đế đựng và một quả cầu pha lê màu đỏ, họ nhảy như thể đang tôn thờ những đồ vật kia.
– Họ sống! – Nữ họa sĩ thì thào. – Họ sống ...- Một làn hơi băng giá vuốt dọc sống lưng chị. Người đàn bà hơi còng người xuống, nhìn trân trối vào bức tranh mà mình đã tạo nên và vẫn không thể tin rằng chuyện này lại có thể xảy ra.
– Đúng, họ đang sống, - Gã đàn ông râu xồm đáp. – Và họ sống là nhờ em.
Fedora xoay lại.
– Em?
– Dĩ nhiên rồi!
– Không thể thế được, ...
– Chẳng phải chính em đã vì anh mà đi Paris đất ư?
– Có chứ, nhưng mà ...
– Không nhưng mà gì cả. – Người đàn ông chỉ vào bức tranh. – Nguyên nhân cho chuyến đi là điệu nhảy của nhóm năm thầy tu này. Chúng đang nhảy và chúng còn làm được nhiều điều hơn nữa. Cứ tin như vậy đi.
– Làm gì kia?
– Chờ đã, người tình của ta! – Gã đàn ông giễu cợt cúi mình xuống. – Dù sao thì ta cũng phải cảm ơn em vì những việc mà em đã làm. Thật đáng khen, thật ngoan ngoãn ... - Gã mỉm cười thêm một lần nữa, rồi xoay người bỏ đi.
Đó không phải là những bước đi bình thường của một con người, mà là sự biến mất đột ngột. Chỉ trong tích tắc, Fedora không nhìn thấy gã nữa. Tên râu xồm đã tan vào không khí.
Còn lại một mình Fedora trong hầm. Người đàn bà đứng im, đầu tiên nhìn trân trối vào khoảng không gian trống rỗng trước mặt, rồi xoay đầu và lại nhìn bức tranh.
Mọi vật đứng im.
Bức tranh trông giống như lúc trước. Chẳng có thầy tu nào nhảy. Chiếc đế đựng và quả cầu pha lê đứng im trên bàn. Những hình chị đã vẽ vẫn giữ nguyên tư thế ban đầu.
Nữ họa sĩ đưa tay dụi mắt. Dần dần, chị tự hỏi liệu có phải tất cả những chuyện này đó chỉ là do mình nằm mơ không? Có phải điệu nhảy của những hình vẽ kia chỉ là ảo ảnh chăng?
Không đâu, không! Nếu như thế thì người đàn ông râu xồm kia sẽ không hề tồn tại. Nhưng chính anh ta đã có thật, anh ta luôn luôn quay trở lại với chị ....
Người đàn bà không thể suy nghĩ tiếp được nữa. Chị lắc đầu, nuốt khan rồi đi về phía cánh cửa. Dần dần chị hiểu ra rằng, chị đang sa vào một vòng tròn quỷ quái, chẳng dể gì thoát ra. Những xiềng xích vô hình đang giữ chặt lấy và thay đổi nhân cách chị.
Tất cả những chuyện này rồi sẽ dẫn về đâu?
Người đàn bà tự hỏi nhưng không tìm được câu trả lời. Nhưng ông ta đã ấn định chị phải làm gì, vì thế mà chị mở cửa và bước ra ngoài.
Bây giờ yếu tố hơn cả là con gái của chị.