Hằng năm cứ đến ngày 16-3 âm lịch, người Đà Nẵng tổ chức lễ tế các “Tướng sĩ trận vong” tại nghĩa trủng Hòa Vang. Trong ảnh: cảnh thắp đèn trên các nấm mộ vô danh - Ảnh: Đăng Nam
TT - Ngày 1-9-1858, Pháp nổ tiếng súng đầu tiên tấn công vào cửa sông Hàn - vịnh Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược VN. Trận đầu chống Pháp của những nghĩa quân "động làm binh, tĩnh làm dân" chỉ bằng trái mù u, sọt đan tre... song đã ngăn được bước chân quân Pháp nơi vùng cửa biển.
Quốc gia đầu tiên với hàng nghìn ngôi mộ nối dài tít tắp, lác đác những khẩu thần công vừa được tìm thấy ngay dưới chân thành xưa cổ... Tất cả đều gợi nhớ về một quá khứ bi hùng của dân Việt trong trận đầu chống Pháp tại cửa sông Hàn - vịnh Đà Nẵng, vào ngày 1-9-1858.
Đã 150 năm trôi qua, không ít người vẫn đau đáu một nỗi lo về số phận của những thành quách, nghĩa trủng... đang còn sót lại. Liệu tất cả những dấu xưa bi hùng có còn để con cháu mai sau biết đến?
Kỳ 1: Đắp thành dựng lũy kháng chiến
Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của trung tướng Rigault de Genouilly đã có mặt tại cửa Hàn (Đà Nẵng) chuẩn bị tấn công - Ảnh tư liệu
TT - Theo sách Việt Nam thế kỷ 19 của Nguyễn Phan Quang, sau nhiều ngày nhổ neo rời cảng Yulikan (cực nam đảo Hải Nam, Trung Quốc), ngày 31-8-1858, đoàn chiến hạm 14 chiếc với 2.500 quân viễn chinh gồm liên quân Pháp - Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của trung tướng Rigault de Genouilly đã cập cảng Đà Nẵng.
Sáng sớm hôm sau, ngày 1-9, tướng Genouilly lập tức gửi tối hậu thư cho viên trấn thủ Đà Nẵng, hẹn trong hai giờ phải nộp ngay các pháo đài cho liên quân Pháp - Tây Ban Nha. Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng có trong tay 3.000 quân án binh bất động. Rigault lệnh cho 14 chiến thuyền chia làm hai cánh đồng loạt tiến vào cửa Hàn.
Cầm chân quân Pháp
Sau hơn nửa giờ bắn phá, tất cả pháo đài, thành lũy của quan quân triều Nguyễn nằm dọc cửa Hàn gần như tê liệt. Quân Pháp bắt đầu đổ bộ lên bờ đánh chiếm thành Điện Hải (nay thuộc Q.Hải Châu, TP Đà Nẵng) và các đồn phụ cận. Trong khi chiến sự đang diễn ra phía trong vịnh Đà Nẵng, phía thành An Hải - nơi án ngữ cửa sông Hàn (nay là P.An Hải Bắc, Q.Sơn Trà), ba chiến hạm khác của liên quân cũng đồng loạt nã pháo. Chỉ sau một giờ oanh tạc bằng tàu đồng đạn sắt, thành An Hải nhanh chóng rơi vào tay quân Pháp. Các pháo đài phòng hải nằm dọc bán đảo Sơn Trà lần lượt bị đánh chiếm. Chớp lấy thời cơ, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nhanh chóng đổ bộ chiếm lấy toàn bộ bán đảo Sơn Trà.
Vua Tự Đức liền cử đô thống Lê Đình Lý và tham tri Phan Khắc Thận đem 2.000 cấm binh tăng cường cho Đà Nẵng. Quân Pháp thực hiện chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, cố chiếm Đà Nẵng để đánh Huế. Sáng 2-9-1858, quân Pháp dùng sáu tàu và pháo thuyền bắn phá tập trung vào thành Điện Hải. Sau nửa giờ bị bắn phá, thành Điện Hải hư hại nặng. Tổng đốc Trần Hoằng do để mất thành An Hải và thành Điện Hải đã bị vua Tự Đức bãi chức và ông Đào Trí lên thay. Ông đặt chỉ huy sở tại làng Nghi An (nay thuộc P.Hòa Phát, Q.Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng). Quân Pháp khống chế vịnh Đà Nẵng và sông Hàn, Genouilly tuyên bố chiếm Đà Nẵng.
Tình hình Đà Nẵng ngày càng khó khăn, vua Tự Đức quyết định cử thống chế Nguyễn Tri Phương làm thống chế quân vụ. Sử sách ghi lại cho biết vào các ngày 21 và 22-12-1858, quân Pháp đưa tàu ngược sông Hàn sâu hơn để đánh các đồn Nại Hiên và Hóa Khuê, nhưng đã bị đẩy lui. Rút kinh nghiệm từ các trận Nại Hiên và Hóa Khuê, thống chế cho xây thành đắp lũy kiên cố, chính nhờ vậy mà quân Pháp nhiều lần tấn công các đồn Nại Hiên, Hóa Khuê, Thạc Gián đều bị đánh lui. Để yên tâm, thống chế Nguyễn Tri Phương cho xây thêm một đồn mới ở Liên Trì vào tháng 1-1859.
Dấu tích Nguyễn Tri Phương
Đình Mân Quang (Thọ Quang, Sơn Trà, Đà Nẵng) là một trong những nơi tiếp lương thực cho binh lính triều đình đánh Pháp. Trong ảnh là bia ghi công - Ảnh: Đăng Nam
Trở lại làng Nghi An, nơi Lê Đình Lý cùng Phan Khắc Thận chọn làm đại bản doanh đóng quân sau khi vượt Hải Vân quan, dấu tích còn lại của những thành lũy hay pháo đài Nghi An vốn lưu trong sử sách nay hầu như không còn gì nữa.
Ông Nguyễn Văn Thiêm (Sáu Thiêm) - người làng Nghi An, năm nay đã hơn 80 tuổi - móm mém bảo: "Trước năm 1990, những đoạn lũy dài làm bằng đất ở làng Nghi An này vẫn còn, nhưng rồi người ta đã phá nó đi để lấy đất làm nhà. Giờ thì làm gì tìm thấy nữa.
Pháo đài Nghi An chỉ là một trong số những công sự thuộc hệ thống thành lũy mà tướng Nguyễn Tri Phương xây dựng nhằm ngăn không cho quân Pháp tràn lên phía trên này. Thành lũy này chạy dài từ dưới biển lên Nghi An rồi kéo dài lên đến tận khu Dốc Võng (Hòa Cầm). Nghe đâu phía trên Hòa Cầm ngày nay vẫn còn những ụ đất cao lắm. Nếu tui không nhầm thì đó chính là điểm đầu của hệ thống thành lũy được xây dựng từ cuối năm 1858".
Khu Vườn Đình, Vườn Bá (nay thuộc khối phố Bình Hòa, P.Khuê Trung, Q.Cẩm Lệ) được xem là kho dự trữ lương thực chính yếu trong cuộc kháng chiến chống Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương.
Ông Huỳnh Ngọc Tế - một trong số những lão làng ở Khuê Trung - nhớ lại: "Vào những năm 1930, nhiều người vẫn còn thấy các dãy nhà "lục khố" (sáu kho) của triều đình đổ nát và xiêu vẹo trên nền đất xưa. Sau này, nhiều gia đình khi đào đất lên làm móng nhà cũng đã phát hiện rất nhiều hạt lúa mục đen xếp thành từng lớp dày. Đó chính là dấu tích còn lại của kho thóc ngày xưa". Cũng như Nghi An, Bình Hòa, vùng đất thấp trũng ở làng Mân Quang (Thọ Quang, Sơn Trà) vốn có lợi thế vì nằm sát cửa Hàn cũng đã được quan quân triều Nguyễn chọn làm căn cứ tiếp viện lương thực trong những ngày đầu đánh Pháp. "Ngày xưa nơi đây có một lũy đất chạy dài từ vịnh Mân Quang đến chân núi Sơn Trà.
Sau này thiên địa đổi dời nên lũy đất ấy không còn nữa - lão làng Mân Quang 1, ông Lê Đức Khá, trầm ngâm nhớ lại - Bây giờ nếu nói về dấu tích thời ông Nguyễn Tri Phương còn lại thì đó chính là gốc mù u".
Nói rồi ông dẫn chúng tôi ra đình Mân Quang, một ngôi đình quay mặt ra cửa Hàn với nhiều nhà thờ trang nghiêm. Ngay chính giữa đình làng là một tấm bia ghi công. Cạnh đó là một gốc cây cháy đen mà theo lời ông Khá đó chính là "gốc mù u năm xưa". "Cây mù u này lớn lắm, khi tui còn nhỏ cây đã sừng sững cả một góc trời rồi. Sau năm 1980, bão lớn quá khiến cây bị trốc gốc rồi chết. Mới rồi tui phải đi kiếm một cây mù u con khác đưa về trồng". Cây mù u con mà ông Khá trồng giờ đây đã bén rễ lên xanh um...
Quốc sử quán 1 Đại Nam thực lục chí biên, tập 28, cho biết nhờ kế sách lập phòng tuyến Liên Trì dài 3km chạy từ bờ biển Đà Nẵng đến các xã Phước Ninh, Thạc Gián, Nghi An... bên ngoài lũy đào hố chữ phẩm cắm chông, che cỏ, phủ cát lên trên mà Nguyễn Tri Phương đã cầm được chân quân Pháp. Nhiều trận hành quân của Pháp đã bị quân triều đình đánh tơi tả. Tin vui loan về kinh, vua Tự Đức liền ban cho Nguyễn Tri Phương một thanh "thượng phương bảo kiếm, năm chỉ nhân sâm, phái thầy thuốc đến điều trị và xuống dụ an ủi". Thế nhưng điều oái oăm đã xảy ra: trong khi ở mặt trận hàng nghìn binh sĩ đang ngày đêm đối mặt với "tàu đồng đạn sắt", thì tại triều đình rất nhiều quan quân lại có ý kiến xin được "hòa" với Pháp.
LƯU ANH RÔ - ĐĂNG NAM
---------
Trong khi nội bộ Nam triều kẻ "chiến" người "hòa", tại nhiều nơi trên vùng đất Đà Nẵng, nhiều chí sĩ tập hợp nghĩa quân đứng lên kháng Pháp với những lối đánh đầy sáng tạo.
TT - Đó là những đội quân "động làm binh, tĩnh làm dân". Rất nhiều trận đánh của họ đã khiến quân Pháp nhiều phen khiếp đảm. Trong chính sử, những câu chuyện, hình ảnh đó ít được lưu lại, nhưng được lưu truyền rộng rãi trong dân gian với những trận đánh, cách đánh ly kỳ, hấp dẫn.
Đánh trận bằng trái mù u, vỏ dừa khô và đôi gióng
Về làng Phong Lệ (nay thuộc P.Hòa Thọ Đông, Q.Cẩm Lệ, Đà Nẵng), chúng tôi tìm gặp bác Ông Ích Trưng, hậu duệ bốn đời của vị tướng Ông Ích Khiêm. Trong căn nhà nhỏ nằm sâu trong con hẻm nhỏ bên chân cầu Đỏ, bác Trưng đã 71 tuổi, ngồi trầm ngâm bên cốc trà vừa rót: "Ông cố tôi là người chỉ huy trận mù u". Nói rồi bác say sưa đọc hai câu thơ: Đà Nẵng - Sơn Trà - Miếu Bông - Cẩm Lệ/Chuyện trăm năm còn kể trận mù u.
Theo gia phả họ Ông, năm 16 tuổi Ông Ích Khiêm đã đỗ cử nhân, sau đó được bổ làm tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Nhưng vì tính khí khẳng khái, không chịu nổi cảnh một chánh tổng hà hiếp dân đen nên đã có lần ông đánh viên chánh tổng. Ngay sau đó ông bị cách chức về quê. Đúng lúc ấy Pháp tấn công Đà Nẵng, nghe lời kêu gọi của Nam triều, Ông Ích Khiêm tập hợp nghĩa binh quanh làng Phong Lệ đứng lên cùng với quân triều đình kháng Pháp dưới sự chỉ huy của tướng Nguyễn Tri Phương.
"Khi lớn lên tôi được ông nội kể rằng ngày ấy vùng Hóa Khuê (Khuê Trung ngày nay) có nhiều cây mù u lắm. Vào năm ấy cha của ông nội tôi - danh tướng Ông Ích Khiêm - đã đánh quân Pháp một trận tơi bời mà vũ khí chỉ vỏn vẹn là những trái mù u" - bác Trưng tự hào kể. Cũng giống như bác Trưng, khi hỏi về trận mù u, nhiều người làng Phong Lệ kể rằng vào tháng 10-1859, khi trái mù u bắt đầu chín rộ khắp nơi, họ Ông ngầm lệnh cho bà con quanh vùng hái trái thật nhiều để chuẩn bị một trận đánh lớn.
Cơ hội đã đến khi một tốp lính Pháp theo đường 14 tiến lên Phong Lệ, Ông Ích Khiêm cho quân ra chặn đánh rồi giả vờ tháo chạy. Lính Pháp đuổi theo nhưng chân mang giày đinh ống cao lại giẫm phải trái mù u khiến quan quân ngã nhào. Chỉ chờ có vậy, phục binh bất ngờ đổ ra đánh, lính Pháp một phen kinh hồn bạt vía, máu nhuộm đỏ đường. Người làng Phong Lệ còn truyền rằng trong một lần ngồi bên sông, Ông Ích Khiêm đã nghĩ ra kế đánh giặc đầy mưu trí.
Đó là vào một đêm đen, ông cho lính lấy vỏ dừa khô đổ dầu chai vào đốt rồi thả đầy mặt sông để chúng trôi từ sông Cẩm Lệ đến Nại Hiên rồi đổ ra cửa Hàn. Quân Pháp trong đồn thấy vậy tưởng quân nhà Nguyễn tấn công nên ra sức xả súng. Chờ chúng hết đạn, Ông Ích Khiêm chỉ huy ba quân hè vào đồn đánh giáp lá cà khiến quân Pháp thất kinh hồn vía.
Người làng Phong Lệ còn lưu truyền những trận đánh bằng gióng nổi tiếng của Ông Ích Khiêm. Sau khi tính đường đi của lính Pháp, cứ mờ sáng ông lại cho quân đem những đôi gióng rải khắp lối đi. Khi lính Pháp đi qua, ông xua quân khua chiêng gõ mõ khiến chúng bất ngờ bỏ chạy, gặp phải dây gióng nên ngã nhào, cứ thế quân Nam triều tha hồ tấn tới. "Cố tôi là người mưu cơ, vũ dũng nên ai cũng nể vì” - bác Ông Ích Trưng nhớ lại.
Đan sọt tre ngăn sông
Theo cuốn sách Đà Nẵng buổi đầu đánh Pháp (Nhà xuất bản Đà Nẵng) của Lưu Anh Rô, cũng như Ông Ích Khiêm, Lâm Hữu Chánh (người làng Cẩm Toại, xã Hòa Phong, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng) đang ở quê dùi mài kinh sử chờ ngày lai kinh ứng thí thì nghe tin vua ban chỉ dụ kêu gọi thân hào, sĩ phu trong cả nước chiêu binh mãi mã, nghĩ cách chống Tây để phò vua giúp nước. Lập tức ông dẹp bút nghiên đứng ra chiêu mộ nghĩa quân trong tổng Châu An Thượng rồi dẫn đến ra mắt tướng quân Nguyễn Tri Phương xin được ra trấn giữ tiền đồn. Quá cảm kích trước tấm lòng yêu nước của ông, Nguyễn Tri Phương đã phong chức bá hộ và cử làm quản cơ chuyên lo việc chỉ huy quân dân đắp lũy ngăn giặc ngoài bờ biển, rồi giữ đồn Cẩm Khê.
Dù đã bước qua tuổi 86, nhưng với ông Lâm Quang Minh - người gọi ông Lâm Hữu Chánh là cố nội - vẫn nhớ như in những gì gia phả họ Lâm lưu lại cho hậu thế, trong đó có chuyện ông Lâm Hữu Chánh chống quân Pháp ngày ấy. Trong một lần tìm kế ngăn chặn tàu Pháp ngược sông Hàn và sông Nại Hiên, quản cơ Lâm Hữu Chánh đã nghĩ ra cách ngăn sông ở thượng nguồn để hạ bớt mực nước phía hạ lưu, như thế "tàu ghe của ta vẫn đi được nhưng tàu chiến của Pháp thì không".
Kế sách này được chấp thuận, lập tức ông đốc thúc binh sĩ đóng thùng gỗ và đan sọt tre chứa đất thả xuống ngăn một phần nước hai sông Yên và Lạc Thành. Đúng như dự tính, mực nước tại cửa Hàn hạ thấp hẳn khiến các chiến hạm của liên quân chỉ còn cách đứng từ xa nhìn tới. Tàu Pháp không vào sâu theo cửa Hàn được, quân Nam triều chỉ còn lo việc chặn đánh trên bộ mà thôi.
Sau hơn năm tháng bị cầm chân tại bán đảo Sơn Trà, tháng 2-1859, quân Pháp dưới sự chỉ huy của viên tướng Genouilly đã quyết định rời Đà Nẵng vào đánh chiếm Gia Định. Ngay khi đó, Lâm Hữu Chánh cùng nhiều nghĩa quân lập tức theo tiến sĩ Đỗ Thúc Tịnh vào Gia Định ứng cứu. Nhưng trước sức mạnh của "tàu đồng đạn sắt", cả thành Gia Định lẫn ba tỉnh miền đông Nam kỳ lần lượt rơi vào tay Pháp. Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) với những điều khoản nặng nề, trong đó có việc mở cảng biển Đà Nẵng cho Pháp, đã được triều đình nhà Nguyễn đặt bút ký.
Năm Ất Sửu (1865), quá uất ức lại gặp gia cảnh có tang mẹ nên Lâm Hữu Chánh quyết định từ quan về quê, năm năm sau thì ông mất, khi ấy mới 53 tuổi. "Mộ của ngài hiện được cư táng ở xứ Cồn Biền, Túy Loan Bắc" - ông Lâm Quang Minh bảo.
Thạc sĩ sử học Lưu Anh Rô cho biết cùng với Ông Ích Khiêm, Lâm Hữu Chánh... nghĩa khí ngất trời, Phan Gia Vĩnh là người đầu tiên ở Quảng Nam đứng ra lập đoàn quân nghĩa dũng cùng với quân Nam triều tham gia kháng Pháp với những trận đánh vô cùng hiển hách được chính sử nhà Nguyễn hết lời khen ngợi.
Vốn là đốc học huyện Hà Đông, khi nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng, ông liền chiêu mộ hơn 1.000 nghĩa quân phần lớn là người ở các xã Tiên Cảnh, Tiên Lộc, Tiên Châu... thuộc huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam ngày nay cùng xung trận chống Pháp lập nhiều công đầu, trong đó trận đánh ngày 7-2-1859 đã buộc đại tá hải quân Faucon cùng mấy trăm quân viễn chinh phải lùi bước.
ĐĂNG NAM
___________________________________
Trong suốt 18 tháng giao tranh đẫm máu, hàng vạn binh sĩ Nam triều đã ngã xuống vì làn tên mũi đạn. Xót thương các tướng sĩ trận vong, năm 1866 một nghĩa trủng được lập để lo việc cúng tế các vong linh.
TT - Con đường nhựa phẳng lì dẫn vào nghĩa trủng Hòa Vang. Nằm lọt thỏm giữa khu dân cư mới ở P. Khuê Trung, Q.Cẩm Lệ (Đà Nẵng), bốn bề nhà cao khuất, nghĩa trủng Hòa Vang là nơi yên nghỉ của hơn 1.200 chiến sĩ yêu nước ngã xuống trong trận đầu đánh Pháp vẫn sum sê hoa lá. Đang vào mùa đơm hoa nên hương từ gốc mù u cổ thụ nằm cạnh khu nghĩa trủng tỏa ra ngào ngạt.
"Chiến sĩ đài"
Ngày trước ở làng Khuê Trung, người biết rõ gốc tích nghĩa trủng này nhất không ai khác ngoài cụ Hương Mưu, nhưng rồi ông cũng như trái mù u chín, đến lúc phải lìa cành. "Bây giờ người biết rõ nhất chỉ còn ông Tế mà thôi", một cán bộ phụ trách văn hóa ở quận Cẩm Lệ bảo. Năm nay đã bước qua tuổi 80 nhưng xem ra ông Huỳnh Ngọc Tế vẫn còn minh mẫn lắm. "Đây là cây mù u duy nhất còn sót lại ở làng Hóa Khuê. Một minh chứng cho lòng trung kiên", ông Tế chỉ vào gốc mù u tỏa bóng một góc nghĩa trủng bồi hồi nhớ lại.
Lòng can đảm và sự hi sinh của các tướng sĩ ta đã chiến thắng vẻ vang quân Tây dương. Lợi dụng những chiến thắng đó để làm quân địch vô phương, ngõ hầu đem lại thái bình và an ninh cho xứ sở, vì phúc lợi tối thượng của thần dân trung thành của trẫm. Đó là niềm mong mỏi thiết tha nhất của trẫm.
Năm 1866, tức tám năm sau khi Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng, xét thấy cảnh nhiều mồ mả của các tử sĩ mình chôn cất quá tạm bợ, lại rải rác khắp muôn nơi, vua Tự Đức liền ra chiếu dụ và cấp tiền cho xây dựng "Hòa Vang nghĩa trủng". Theo ông Huỳnh Ngọc Tế, ban đầu nghĩa trủng Hòa Vang được lập ngay tại xứ Trũng Bò thuộc làng Nghi An, vốn là nơi hạ trại của đại quân triều Nguyễn trước đó (nay là P.Hòa Phát, Q.Cẩm Lệ).
Nhưng đến năm 1920 Pháp mở rộng sân bay Đà Nẵng, người dân đã di dời các phần mộ của tướng sĩ trận vong về làng Hóa Khuê (Khuê Trung). Đến đầu năm 1965, sân bay Đà Nẵng một lần nữa mở rộng về phía nam, người làng Hóa Khuê lại di dời các huyệt mộ về khu Bình Hòa 1 (P.Khuê Trung ngày nay). Nghĩa trủng Hòa Vang tồn tại từ đó cho đến nay.
Ngoài 1.200 ngôi mộ được đúc bằng bêtông vuông vức, thẳng tắp, hiện bên trong khuôn viên nghĩa trủng còn có một ngôi mộ lớn được cho là mộ của tướng Nguyễn Ân (tử trận khi trấn giữ đồn Hóa Khuê). "Sau khi nghĩa trủng di dời lần 2, chính tôi là người đứng ra quyên góp tiền của của dân để tiến hành tu sửa (năm 1965, ông Tế là xã trưởng xã Hòa Cường), nhưng cũng phải gần sáu năm sau việc trùng tu mới hoàn tất. Ngày ấy khi dời mộ tướng Nguyễn Ân lên, người ta còn tìm thấy cả đuôi kiếm, áo mão cân đai, đặc biệt có năm hạt nút áo giáp bằng vàng của ngài nữa" - ông Tế kể.
Cũng theo ông Tế: "Để các vong hồn tử sĩ không bị cô quạnh, ngày trước người làng Khuê Trung đã dành tiền thu tô của hai mẫu ruộng tại Đồng Cừa phục vụ cúng tế. Việc cúng tế diễn ra vào ngày 17-11 âm lịch. Bây giờ người ta lấy ngày 16-3 âm lịch hằng năm để cúng nghĩa trủng kết hợp với lễ tế tiền hiền trong làng. Trang trọng và hoành tráng lắm".
Cũng như Hòa Vang nghĩa trủng, năm 1876 viên trấn thủ Đà Nẵng lúc bấy giờ là Nguyễn Quý Linh thấy cảnh dập vùi những nắm xương lạc loài sau trận chiến cửa Hàn bèn động lòng kêu gọi thân hào, nhân sĩ trong vùng quy tập hài cốt lập lên nghĩa trủng Phước Ninh (P.Phước Ninh, Q.Hải Châu). Nhưng nghĩa trủng này sau nhiều lần di dời bây giờ chỉ còn lại vài tấm bia sa thạch màu xanh đen nằm cạnh gốc sung già. Trong khuôn viên này hiện chỉ còn lại hai ngôi mộ của hai vị là chánh lãnh binh Nguyễn Viết Nhâm và phó lãnh binh Lưu Trận Sum. Cả hai ông đều hi sinh trong trận Pháp tấn công vào trận tuyến Liên Trì do Nguyễn Tri Phương xây dựng.
"Đồi hài cốt" lính Tây
Nằm cuối con đường ra cảng biển Tiên Sa ngày nay, khuất trên một triền đồi cao, xung quanh được bao bọc bởi những gốc dương liễu già cỗi cùng một bức tường rêu phong cao không quá gối người là khu mộ Tây (hay còn gọi là "đồi hài cốt") - nơi chôn cất của hơn 1.500 lính liên quân Pháp - Tây Ban Nha tử trận thuộc hạm đội của tướng Rigault de Genouilly.
Trong khuôn viên khá xinh xắn nằm sát bãi biển Tiên Sa, ngoài ngôi nhà nguyện mà bên trong có gắn dòng chữ "À la mémoire des combattants Franc5ais et Espagnols de lExpédition Rigault de Genouilly. Mort en 1858 - 59 - 60 et ensevelissement en lieux" (Để tưởng niệm những chiến binh Pháp và Tây Ban Nha của cuộc viễn chinh Rigault de Genouilly. Chết những năm 1858 - 59 - 60 và được an táng ở đây) là 32 ngôi mộ có gắn thánh giá xếp chồng lên nhau. Không một dấu tích nào để lại cho thấy có người thường xuyên lui tới khu mộ Tây, mà xung quanh chỉ có những đám cỏ dại cao ngút như muốn lấp cả dòng chữ "Ossuaire" (đồi hài cốt) chạm nổi khá lớn dưới cây thánh giá mặt trước của ngôi nhà nguyện.
Dù đây là khu mộ Tây thuộc hàng độc nhất vô nhị, thế nhưng trên thực tế có rất ít tài liệu nói về số phận của những người lính viễn chinh bỏ xác ở quê người cũng như lai lịch của "đồi hài cốt". Theo thạc sĩ sử học Lưu Anh Rô - tác giả cuốn Đà Nẵng buổi đầu đánh Pháp (NXB Đà Nẵng), thư của hiệu trưởng Trường Viễn Đông Bác Cổ gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 25-5-1921 có đề nghị cho tu sửa khu nghĩa địa này: "Tôi xin lưu ý ngài về tình trạng hư hỏng của nghĩa trang ở bán đảo Tiên Sa, bắc Tourane (tức Đà Nẵng ngày nay), nơi chôn cất những binh sĩ bộ binh và hải quân của người Pháp và người Tây Ban Nha thuộc hạm đội của đô đốc Rigault de Genouilly.
Khoảng 1.500 hài cốt đã khai quật và tập trung vào một hốc công cộng có dựng một nhà thờ. Nhà thờ này đã bị đổ nát, cửa ra vào đã hư hỏng. Xung quanh nhà thờ có một số ngôi mộ của các sĩ quan Pháp và Tây Ban Nha, trong đó có mộ của trung tá Duppré Déroulède bị giết trên chiến hạm Némésis vào ngày 18-11-1859...". Vỏn vẹn chỉ có vậy. Khi được hỏi, nhiều người dân địa phương sống quanh khu "đồi hài cốt" cho biết thi thoảng cũng có một vài khách du lịch là người Pháp hoặc Tây Ban Nha viếng thăm và cầu nguyện cho những người còn nằm lại trên bán đảo này.
ĐĂNG NAM
______________________
Đã 150 năm trôi qua, nhiều dấu tích còn lại của cả một hệ thống phòng thủ Đà Nẵng trong buổi đầu đánh Pháp cũng dần mai một. Có rất nhiều kế hoạch nhằm trùng tu, tôn tạo những dấu xưa bi hùng nhưng tất cả vẫn còn... tranh cãi.
TT - Đã 150 năm trôi qua, nhiều dấu tích còn lại của cả một hệ thống phòng thủ Đà Nẵng trong buổi đầu đánh Pháp dần mai một. Có rất nhiều ý kiến, kế hoạch nhằm trùng tu, tôn tạo những dấu xưa bi hùng đó, nhưng tất cả vẫn còn trong dự án!
Dấu xưa sót lại
Tọa lạc tại khuôn viên 24 Trần Phú (phường Thạch Thang, quận Hải Châu), thành Điện Hải trước là đồn Điện Hải được xây dựng từ đời Gia Long thứ 12 (1813) nằm sát mép cửa Hàn. Mười năm sau (1823), đồn Điện Hải được di dời vào sâu bên trong, trên một đồi cao (vị trí hiện nay). Năm Minh Mạng thứ 15 (1835), đồn Điện Hải chính thức được đổi tên thành Điện Hải.
Sử sách xưa ghi lại rằng thời ấy thành Điện Hải có chu vi 139 trượng, được thiết kế theo dáng hình vuông với bốn góc lồi được bao bọc bởi hai lớp tường, ở giữa có hào sâu 7 thước, muốn vào thành phải đi qua chiếc cầu bằng gạch bắc ngang qua hào. Trong thành có một kỳ đài cùng 28 ụ súng thần công lớn nhỏ cài cắm bốn phương. Ngoài ra trong thành có hàng cung, các kho chứa lương thực, súng đạn, xưởng đúc súng và nhà nghỉ cho quan, quân...
Thế nhưng chỉ sau ba đợt tấn công liên tiếp của liên quân Pháp - Tây Ban Nha trong những ngày đầu 1858 cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử, giờ đây thành Điện Hải chỉ còn lại là những bức tường rêu loang lổ dấu xưa.
Theo phó giám đốc Sở Văn hóa - thể thao - du lịch Đà Nẵng Trần Quang Thanh, một dự án trùng tu tôn tạo thành Điện Hải bao gồm gia cố hệ thống tường, cửa thành, nạo vét lòng hồ, đồng thời phục dựng bốn tháp canh đặt bốn góc đang được tiến hành. “Trong quá trình thi công, công nhân nhiều lần khai quật được những khẩu thần công bị vùi sâu dưới chân thành đến 2m. Những khẩu thần công này được xác định có niên đại từ thời Thiệu Trị thứ 7 (1847)”, ông Thanh cho biết.
Tuy nhiên, điều nhiều người hết sức quan tâm, lo ngại là việc Đà Nẵng đang chuẩn bị xây dựng trung tâm hành chính cao 33 tầng nằm ngay sát chân di tích thành Điện Hải, đó là chưa nói đến khối nhà cao đồ sộ Softech Đà Nẵng đã xây dựng hoàn tất chắn hẳn cửa nam của thành. Ngoài ra, theo ông Thanh, hiện phần tường thành phía tây đang bị một số hộ dân xâm phạm nghiêm trọng bằng việc xây dựng nhà ở ngay cạnh vành đai di tích. “Thành phố đã đồng ý chi hơn 16 tỉ đồng cho việc di dời các hộ dân nơi đây ra khỏi vành đai di tích, nhưng đến nay công việc vẫn chưa thể hoàn tất” - một cán bộ ngành văn hóa cho biết.
Cũng như thành Điện Hải, sau năm 1980, để xây dựng nhà thi đấu Nguyễn Tri Phương, toàn bộ hơn 1.200 phần mộ tại nghĩa trủng Phước Ninh được di dời lên nghĩa trang Gò Cà (Hòa Vang). Sau lần di dời ấy, nghĩa trủng Phước Ninh chỉ còn lại một nhà bia cùng hai phần mộ của hai vị tướng.
Mới đây, chính quyền TP Đà Nẵng lại tiếp tục cho mở tuyến đường mới băng ngang qua hai phần mộ này. “Việc di dời sẽ phải tiến hành trong nay mai, trước mắt cấp lại khoảng 400m2 đất ngay trong khuôn viên nghĩa trủng để di dời hai phần mộ từ chân đường Hoàng Diệu (hiện tại) về nằm cạnh nhà bia bên dưới chân gốc đa. Việc di dời là ngoài ý muốn”, ông Thanh nói.
Bảo tàng ngoài trời
Thạc sĩ sử học Lưu Anh Rô từng lặn lội hai năm để lần tìm lại những dấu tích của cuộc chiến tranh Mậu Ngọ (1858) còn sót lại trong dân gian. Ông tỏ ra xót xa khi tận mắt nhìn thấy những khẩu thần công vừa được nhóm công nhân khai quật nhưng bị vứt lăn lóc khắp nơi trong khuôn viên thành Điện Hải.
Cũng như thạc sĩ Lưu Anh Rô, tiến sĩ sử học Ngô Văn Minh (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phân viện Đà Nẵng) cũng buồn lòng khi nói về những dấu xưa may mắn còn sót lại: “Đáng ra nên phục dựng nguyên trạng thành Điện Hải để con cháu về sau biết đó là một thành lũy kháng chiến thứ hai ở miền Trung còn lại sau cố đô Huế. Nhưng chúng ta chưa làm được điều đó. Thật đáng tiếc”.
Thạc sĩ xã hội học Bùi Văn Tiếng đề xuất hướng bảo tồn: “Việc khôi phục nguyên trạng thành Điện Hải trong bối cảnh hiện tại là điều khó có thể thực hiện. Nhưng vẫn có một cách làm khác để trả lại “tên tuổi” cho thành Điện Hải, đó là biến những đoạn tường thành, những khẩu thần công vừa tìm thấy trở thành một bảo tàng sống ngoài trời đầy hấp dẫn. Khi ấy lịch sử mới có thể đi vào lòng người được”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Sinh Duy cho rằng: “Điều quan trọng nhất của thành Điện Hải bây giờ là làm sao cho mọi người tận mắt thấy được thành. Phải mắt thấy tay sờ những hiện vật mà 150 năm về trước ông cha ta đã dùng để đối đầu với “tàu đồng đạn sắt”. Còn nếu cứ để thành Điện Hải mãi lẩn khuất sau những tòa tháp cao tầng kia e sẽ khó lòng để người dân nhận ra. Điều đó sẽ đồng nghĩa với sự lãng quên quá khứ và như vậy quả là có tội với tiền nhân”.
Cả ông Duy và ông Tiếng đều cho rằng nghĩa trủng Hòa Vang là nghĩa trủng đầu tiên được xây dựng bằng chính tiền của triều đình cấp phát, để chôn cất những người đã hi sinh vì nghĩa lớn. Vậy nên có thể coi đây là nghĩa trang quốc gia đầu tiên của nước Việt, cần phải được tôn tạo, chỉnh sửa để con cháu sau này biết và nhớ đến.
Sau 150 năm, câu chuyện tưởng nhớ những người xả thân trong trận đầu chống Pháp ngày ấy bây giờ vẫn còn dở dang…