* Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Văn Thắng, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835 tại quê ngoại -- làng Văn Khê, xã Hoàng Xá, huyện í Yên, tỉnh Nam Hà.
* Quê nội của cụ ở làng Và, xã Yên Ðổ, huyện Bình Lục, tỉnh Nam Hà.
* Cha là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi cụ Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học.
* Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), con cụ Trần Công Trạc, từng đỗ sinh đồ (tú tài) thời Lê Mạt.
* Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng Giáp Phạm Văn Nghị. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Hương Nguyên) trường Hà Nội. Năm sau ông trượt thi Hội, thi Ðình nên phẩn chí ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Ðến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Ðình Nguyên. Từ đó Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Ðổ.
* Năm 1873, ông được bổ làm Ðốc Học, rồi thăng án Sát tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán.
* Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Ðổ vào mùa thu 1884 và qua đời tại đấy ngày 5 tháng 2 năm 1909.
* Ông để lại các tập thơ văn Quế Sơn thi tập, Yên Ðổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối... truyền miệng.
* Nguyễn Khuyến có biệt tài về thơ văn chữ Nôm. Ông viết nhiều, bao gồm nhiều thể loại khác nhau. Ông thích tự vịnh, tự trào, phong cách thường ung dung, phóng khoáng, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Ðông Phương. Một số lớn thơ văn ông cũng có khuynh hướng trào phúng, giễu cợt thế thái nhân tình và những thói hư tật xấu của người đời.
Tác phẩm chọn lọc:
Thu Vịnh -- Thu Ðiếu -- Thu ẩm
Xuân Nhật Thị Chư Nhi
Về Hay
Tự Trào -- Tự Thuật
Duyên Nợ
Lên Lão
Ông Phỗng Ðá
Giả Cách Ðiếc
Mẹ Mốc
Vịnh Tiến Sĩ Giấy
Khóc Bạn
Ðêm Mùa Hạ
Hội Tây
Vịnh Kiều
Văn Tế Ngạc-Nhi
Bạn Ðến Chơi Nhà
Nước Lụt Hỏi Thăm Bạn
Quốc Kêu Cảm Hứng
Chơi Núi An Lão
Các câu đối
Tài liệu tham khảo
* Thơ Nguyễn Khuyến, Kiều Văn & Nam Tuấn tuyển chọn.
* Thi Hào Nguyễn Khuyến, Ðời Và Thơ, Nguyễn Huệ Chi chủ biên.
* A Vietnamese Scholar in Anguish -- Nguyễn Khuyến and the Decline of the Confucian Order, 1884-1909, Trần Mỹ Vân.
* Việt Văn Ðộc Bản, Ðàm Xuân Thiều & Trần Trọng San.
* Việt Nam Thi Văn Giảng Luận, Hà Như Chi.
* Việt Nam Ca Trù Biên Khảo, Ðỗ Bằng Ðoàn & Ðỗ Trọng Huề.
* Nghệ Thuật Trào Phúng Và Nụ Cười Trong Thi Văn Việt Nam, Hoàng Trọng Thược.
* Văn Học Việt Nam Nửa Cuối Thế Kỷ XIX, Nguyễn Lộc.
* Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm.
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc ánh trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào ?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Ðào. (1)
* (1) Ông Ðào: tức Ðào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn, nổi tiếng thanh cao.
Thu Ðiếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo,
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được.
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,
Ðộ năm ba chén đã say nhè.
Tuổi thêm thêm được tóc râu phờ
Nay đã năm mươi có lẻ ba !
Sách vở ích gì cho buổi ấy ?
áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn còn lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng ?
Sao con đàn hát vẩn say sưa.
Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe;
Lặng đi kẻo động khách lòng quê.
Nước non có tớ càng vui vẻ,
Hoa nguyệt nào ai đã đắm mê ?
Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gà từng gáy sáng tẻ tè te.
Lại còn giục giã về hay ở ?
Ðôi gót phong trần vẩn khỏe khoe.
Last edited by ♥huytuandc♥; 07-08-2008 at 11:34 AM.
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Tự Thuật
Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay,
Ông ngẩm mình ông, nghĩ cũng hay.
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ ?
Răng long ngày trước hãy còn đây.
Câu thơ được chửa, thưa rằng được,
Chén rượu say rồi, nói chửa say.
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông này.
Last edited by ♥huytuandc♥; 07-08-2008 at 11:35 AM.