Ngô Đình Diệm xem rất kỹ chiếc ví mà Lansdale [1] và Fishiel đã trao cho. Lansdale nói :
- Tất nhiên chúng tôi đã xem rồi. Bây giờ xin mời ông xem, sau đó, ông hoàn lại cho chúng tôi. Vài ngày nữa Sở Cảnh sát Nữu Ước sẽ điện cho chủ nhân nó, báo tin đã tìm được và trả lại cho chủ nhân của nó.
Chiếc ví bằng loại da cừu mềm đắt tiền, sản xuất ở Pháp. Trong ví có một số đôla, một số phơrăng Pháp, mấy cái danh thiếp in kiểu chữ nhã mà đẹp :
PHAN THÚC ĐỊNH
Tiến sĩ luật
Diệm lẩm bẩm :
- À, ra anh chàng đã đỗ tiến sĩ luật.
Một cái hộ chiếu của Định được cấp từ Pháp cho phép nhập cảnh nước Mỹ. Một cái ảnh Định đứng dưới chân tháp Eiffel. Tất cả những thứ ấy, Diệm không chú ý tới, chỉ xem qua. Nhưng có hai vật, Diệm cứ bâng khuâng ngắm nghía, cầm mãi trên tay. Một là bức bưu ảnh in hình Đức bà Maria màu sắc, đề in rõ tại nhà in riêng của Vatican. Đức Bà bồng đức Chúa Hài Đồng trên tay, mặt phúc hậu, đẹp dịu dàng, cặp mắt hơi buồn đầy vẻ thương yêu, chung quanh người tỏa hào quang. Nét vẽ trau chuốt, sinh động đến nỗi người ta nhớ những bức họa của Leonard de Vinci. Đây không phải là bức bưu ảnh thường. Vừa nhìn thấy, Diệm biết ngay đây là của Đức Cha anh, Ngô Đình Thục. Người cầm bức ảnh ấy - chỉ anh em Diệm mới hiểu riêng với nhau thôi - là người đã được Ngô Đình Thục thẩm tra rồi và tin cẩn được. Ngô Đình Diệm là người rất tin ở CIA, nhưng lại tin anh em ruột mình hơn cả CIA. Diệm biết anh mình là Ngô Đình Thục có cả một màng lưới tai mắt tay chân riêng rộng lớn mà nhiều lần Phòng Nhì của Pháp ở Việt Nam đã phải nhờ vả. Đức chúa Giê-su dạy các tông đồ rằng: “Được cả và thiên hạ làm gì nếu mà mất nước thiên đàng?”. Ở Giám mục Ngô Đình Thục thì “nước thiên đàng” không trọng bằng “nước hạ giới” nên người “tinh thạo” việc đời lắm. Người đã giao cho Định cầm bức bưu ảnh Đức bà Maria này.
Vật thứ hai là một cái thẻ ngà. Khi đưa ví cho Diêm, cả Lansdale và Fishiel cũng không hiểu vật đó là gì. Diệm phải giải thích cho hai tên Mỹ hiểu: Đây là cái thẻ của Nam Triều ban cho các quan lại, trên ghi chức tước phẩm ngạch để treo ở ngực bên trái ngoài chiếc áo dài. Lansdale gật gù :
- À... như trong quân đội Mỹ khâu vải ghi tên và cấp bực của mình ở ngực đây. Có cái khác là chúng tôi đeo ngực bên phải.
Chiếc thẻ ngà có mấy hàng chữ nhỏ. Chiếc thẻ ngà của người đồng liêu Phan Thúc Ngân đã quá cố đây. Phan Thúc Định vẫn giữ những di vật kỷ niệm một thời làm quan của bố. Anh ta thật là một người con chí hiếu. Những người như thế này làm sao quên được mối thù của Cộng sản đối với gia đình mình? Những người như thế này sẽ là những người rất đắc lực cho ta đây. Bức bưu ảnh của Đức Cha anh Ngô Đình Thục và cái thẻ ngà của bố mà anh ta còn trân trọng như một báu vật này đủ cho ta hiểu con người ấy như thế nào rồi. Các ông CIA nhiều khi cũng khá cẩn thận. Người Mỹ làm thế nào lại có thể hiểu được người Việt Nam bằng người Việt Nam, bằng ta.
Cái thẻ ngà bâng khuâng trên bàn tay dày thô và ngắn ngủn của Diệm. Ở giữa cái nước Mỹ xa xôi toàn những con người chỉ biết có thực tại, cái vật lạc loài này tự dưng đến càng làm hắn xót xa nhớ tới dĩ vãng bạc vàng. Nhìn cái thẻ ngà, hắn như nhìn thấy cả quá khứ sống lại. Cái vật thân thuộc và nhiều kỷ niệm... Chỉ riêng việc Phan Thúc Định trân trọng giữ gìn cái thẻ ngà này đủ làm cho Diệm ưu ái Định hơn lên.
* * * * *
Có tiếng chuông reo khe khẽ ở đầu buồng. Tiếng chuông ấy nối thẳng từ phòng thường trực của trường vào, báo hiệu có người đến hỏi Diệm, Diệm xếp tất cả các vật vào chiếc ví như cũ, mở khóa tủ áo của mình cất chiếc ví đi. Trường đại học Michigan dành riêng cho Diệm hai buồng rộng. Một buồng ngủ có kê giường, tủ gương đựng quần áo. Một buồng làm việc và tiếp khách, có kê tủ sách, một bàn giấy, một bộ ghế bành và bàn uống nước.
Diệm vào ngồi ở sau bàn giấy chờ đợi. Trên bàn giấy, một quyển “Mein Kampf” của Hitler mở rộng. Diệm đang đọc dở quyển đó. Thường thường Diệm có hai cách tiếp khách, một là đối với khách người Mỹ thì Diệm thường ngồi ở ghế bành nói chuyện tự nhiên. Hai là đối với khách người Việt Nam - dù Diệm hầu như không có khách người Việt, ngoài mấy gã mà CIA đưa sang học như Trần Kim Tuyến, Phạm Xuân Phòng... - Diệm bao giờ cũng bố trí cách ngồi của mình sao cho có uy thế của bề trên, nói năng sao cho đường bệ, khẩu khí, hách dịch.
Năm phút sau có tiếng gõ cửa. Diệm đáp :
- Cứ vào!
Một nhân viên nhà trường mở rộng cửa, cúi chào và đưa tay mời một thanh niên người Việt dong dỏng cao, nhanh nhẹn trong bộ quần áo xám nhạt sang trọng, bước vào. Người thanh niên cúi đầu chào Diệm :
- Bẩm cụ lớn, con kính chào cụ lớn. Chẳng biết cụ lớn còn nhớ con không?
Gã nhân viên nhà trường đã im lặng bước ra, sau khi khép cửa buồng lại.
Diệm không trả lời người thanh niên ngay, giữ thái độ im lặng, vờ nheo mắt nhìn anh chăm chú. Người thanh niên vẫn lịch sự, mỉm cười nhìn thẳng vào mặt Diệm, lễ độ :
- Kính thưa cụ lớn, con là Phan Thúc Định. Thầy con là Phan Thúc Ngân, năm 1945 đã cùng cụ lớn đi Tân-gia-ba. Năm 1946, con đã có dịp gặp cụ lớn...
Diệm lúc ấy mới như chợt nhớ ra.
- A! Anh là Định, con cụ Ngân. Bảy, tám năm qua rồi, anh có hơi khác đôi chút và diện quá làm tôi không nhận ra được ngay.
Diệm đưa tay chỉ chiếc ghế trước bàn giấy :
- Anh ngồi xuống đây. Nào, ta nói chuyện!
Người thanh niên cảm ơn và ngồi xuống ghế.
- Tôi vẫn... vẫn nhớ cụ Tuần Ngân. - Diệm nói - tội nghiệp cụ, chẳng may...
Câu nói của Diệm như khơi dậy nỗi đau thương sâu kín trong tim Phan Thúc Định.
Anh cúi xuống, buồn bã, bậm môi lại. Diệm vẫn nhìn vào mặt anh soi mói :
- Bọn Cộng sản đã giết thầy anh, đã làm gia đình anh tan nát.
Phan Thúc Định vẫn cúi gục đầu xuống. Mắt anh chớp mau. Môi anh vẫn mím chặt. Anh rút vội khăn tay chậm mắt. lm lặng nặng nề. Diệm vẫn chăm chú nhìn từng nét thay đổi trên mặt anh.
Mấy giây sau, Định ngửng lên, mắt anh đỏ hoe và anh nói như nói qua hàm răng nghiến chặt :
- Con không bao giờ quên mối thù đó. Con ghi vào xương tủy.
Nét mặt Diệm vui hẳn lên. Hắn đổi giọng :
- Cháu nghĩ thế là phải. Cháu thật là người con có hiếu. Thầy cháu cũng là một người tử vì đạo. Bổn phận của những người sống là phải trả thù cho thầy cháu. Không phải chỉ mình cháu đâu, còn nhiều người nữa cũng muốn trả thù. Bác cũng sẽ làm tất cả mọi việc để trả thù cho thầy cháu. Chắc cháu biết rằng lúc sinh thời thầy cháu và bác đã kết giao thân thiết. Thầy cháu đã gởi gắm cháu cho bác.
Giọng nói của Định vẫn chưa hết xúc động :
- Vãng, thầy con có kể cho con nghe những ngày theo hầu cụ lớn bôn ba nơi hải ngoại. Thấy cụ lớn, con lại nhớ đến thầy con. Con chỉ mong nối được chí thầy con, được đi theo cụ lớn, nghe lời cụ lớn chỉ bảo.
Diệm gật đầu :
- Bác cũng thấy có trách nhiệm với cháu. Nhưng bác muốn hỏi cháu: sao cháu biết bác ở đây mà tìm đến được?
- Con vẫn nhớ thầy con dặn phải nương tựa cụ lớn. Con vẫn cố tìm cụ lớn. Đầu năm nay, sau khi tốt nghiệp ở Pháp, con về Huế, gặp được cha Cras [2]. Nhắc đến cụ lớn Cha Cras giới thiệu con vào thăm Đức Cha Thục ở Vĩnh Long. Thật là may mắn cho con được gặp Đức Cha Thục. Đức Cha cho con biết cụ lớn đang ở Mỹ. Lúc ấy, Người nói Người đang mắc bận. hẹn con nửa tháng sau đến. Người mới có thời gian nói chuyện được nhiều (Diệm hơi mỉm cười). Y hẹn, con đến, Người chỉ cho con sang bên này gặp đức Giáo chủ Spellman ở tu viện Mary Knoll. Người có viết cho con hai bức thư, một bức Người bảo trình đức giáo chủ, một bức Người bảo phải chuyển đến tận tay cụ lớn nếu được gặp cụ lớn...
Định móc trong túi một phong bì dán kín, lễ phép đưa cho Diệm. Diệm cầm chiếc phong bì không mở ra xem ngay. Định ngập ngừng :
- ... Còn điều này con không dám giấu cụ lớn...
Diệm vẫn chăm chú nghe Định :
- Sao? Cháu cứ nói, đừng e ngại gì cả...
- Con thật có lỗi với cụ lớn. Ngoài bức thư này ra, Đức Cha Thục còn gởi cho con chuyển đến cụ lớn một bức ảnh Đức bà Maria để lấy phước lành. Bức ảnh ấy con để trong ví, chẳng may cách đây vài hôm đi dạo phố bị kẻ cắp móc mất. Con không ngờ ở Mỹ này cũng nhiều kẻ cắp thế... May mà lá thư này con để trong cặp, không mang theo trong người hôm đó.
- Cháu bị mất cắp ví ư? Có mất nhiều thứ không?
Định xót xa :
- Trong ví con có hộ chiếu, tiền. Hộ chiếu con xin lại được. Tiền con không tiếc. Con chỉ ân hận để mất chiếc ảnh đức Bà của Đức Cha Thục ban phước lành cho cụ lớn và một kỷ vật của thầy con, con vẫn mang theo mình hàng chục năm nay.
- Cháu đã trình Sở Cảnh sát chưa?
- Con đã đi báo với sở Cảnh sát Nữu Ước rồi. Người ta hứa sẽ tìm hộ con, nhưng con không tin sẽ tìm thấy, vì qua báo chí, con thấy hằng ngày ở thành phố Nữu Ước xảy ra hàng nghìn vụ phạm pháp: giết người, ăn cắp xe hơi, cướp của có vũ khí cũng hàng trăm vụ mà nhiều vụ không thể tìm ra được thủ phạm thì việc mất chiếc ví nhỏ bé của con, họ quan tâm gì đến.
- Cháu không được nói về Hoa Kỳ như vậy! Cháu mới ở Pháp sang, chưa hiểu Hoa Kỳ đấy thôi. Báo chí hay làm to chuyện giật gân để gợi tò mò của độc giả. Đây là đất nước của tự do. Cháu hãy tin ở cảnh sát Hoa Kỳ. Họ nhiều và được đào tạo cẩn thận lắm. Họ hứa tìm hộ cháu thì biết đâu họ chẳng tìm ra cho cháu.
Diệm vẫn soi mói nhìn Định nói tiếp :
- À... thế sau cái dạo bác gặp cháu năm 1946, rồi cháu làm những gì? Cháu kể chuyện cho bác nghe với.
Định thản nhiên :
- Hồi năm 1946, sau khi gặp cụ lớn ở Hà Nội, đưa cụ lớn vào thành rồi, con vẫn liên lạc với người Pháp và ông Nhu. Ít lâu sau, người Pháp cho biết cụ lớn đã qua Hồng Kông và sẽ đi Pháp, nhờ Pháp đưa thêm viện binh sang đánh Việt Minh, con muốn đi theo cụ lớn quá mà không được. Ông Nhu cử con trở lại Huế mang theo bức thư của ông gởi đức Khâm mạng Drapier [3], triệu tập một hội nghị thành lập liên đoàn công giáo chống Cộng dưới sự bảo trợ của người Pháp. Con phải gian khổ lắm mới gặp được đức Khâm mạng và trình bức thư lên ngài. Con được dự cuộc họp bí mật đó tại Phú Cam. Đức Khâm mạng Drapier sơ hở thế nào để lọt một nữ công an Việt Minh vào trong đám đại biểu họp kín. Thế là toàn bộ tổ chức và mưu đồ của đức Khâm mạng với ông Nhu bị bại lộ. Nhiều người của ta bị bắt ngay chưa kịp hành động gì cả. Con sợ quá, chạy trốn vào khu Pháp kiều, nương nhờ tướng Lebris [4] lúc bấy giờ có mặt ở Huế. Tướng Lebris cho máy bay đưa con vào Sài Gòn. Thấy con còn trẻ, có học ít nhiều, con một gia đình đã từng có công với chính phủ Bảo hộ trước đây, tướng Lebris giúp đỡ con tiếp tục học tập, để thâu nhận nền văn hóa tốt đẹp của nước Pháp. Năm 1947, con đỗ tú tài ở Sài Gòn. Sau đó, con được học bổng sang Pháp học. Năm vừa qua, con tốt nghiệp luật khoa tiến sĩ. Mấy trường đại học ở Pháp mời con giảng dạy nhưng nghĩ đến thù nhà chưa trả, vận mệnh đất nước đang nghiêng ngửa, con không thể an tâm ở nước ngoài được. Đầu năm nay con về nước thăm nhà và như đã thưa với cụ lớn, con may mắn được gặp cha Cras...
Cái nhìn của Diệm dịu xuống. Hắn có vẻ vui lòng :
- Cháu lặn lội tìm bác như vậy, hẳn có ý định?
Giọng Định tha thiết :
- Thầy con xưa kia đã theo hầu cụ lớn. Con còn trẻ tuổi, mang nặng thù nhà, nhưng không biết phải làm gì. Con thật bơ vơ như người đứng giữa ngã ba đường, nếu không gặp được cụ lớn. Con quyết tâm nối chí thầy con, một lòng một dạ trung thành với cụ lớn. Con chỉ mong gặp được cụ lớn, xin cụ lớn chỉ cho con, con phải làm gì. Con xin làm bất cứ việc gì cụ lớn sai khiến. Từ bao năm nay, con vẫn tâm niệm rằng chỉ có đi theo cụ lớn, con mới có thể trả được mối thù nhà.
- Cháu nghĩ thế là phải lắm. Bác rất sung sướng được gặp lại cháu. Bác cháu ta có rất nhiều việc phải làm, rất nhiều việc phải làm.
Hắn đứng dậy, giơ một nắm tay về phía xa, đe dọa :
- Bác còn sống đây thì bọn Việt Minh đừng hòng yên ổn với bác. Bác sẽ lập lại tôn ti trật tự. Bác sẽ trở về nước, sẽ xử bắn tất cả những đứa nào đã giết thầy cháu, sẽ xử bắn tất cả những đứa nào chống đối. Người Mỹ sẽ giúp chúng ta. Chúng ta sẽ không thiếu súng đạn, tiền bạc. Chúng ta sẽ bắn hàng loạt.
Hắn chỉ tay về phía quyển sách của Hitler như để dẫn chứng :
- Bất độc bất anh hùng. Muốn làm được việc lớn thì phải biết tàn nhẫn, phải có bàn tay sắt. Cháu phải nhớ lấy điều đó.
Định im lặng nghe Ngô Đình Diệm nói với thái độ thành khẩn. Ngô Đình Diệm trở về bàn ngồi, vẫy tay cho Định kéo ghế nhích lại phía hắn, nói :
- Bắt đầu từ hôm nay cháu là người của Bác. Cháu có định ở lại nước Mỹ lâu không?
- Bẩm cụ lớn, con không có ý định ở lại đây lâu. Thù cha chưa trả, con không thể nào an tâm ở lại đất nước phồn hoa này được.
Diệm gật gù :
- Đúng. Cháu nên trở về Việt Nam ngay. Cháu muốn trả thù cho thầy cháu, muốn tuổi trẻ của cháu sớm thành đạt hưởng vinh hoa phú quý, cháu hãy nghe lời bác, làm tất cả những việc gì bác trao cho cháu.
Định ngoan ngoãn :
- Con xin tuân theo lời dạy của cụ lớn.
Diệm nói thong thả :
- Cháu hãy trở về Việt Nam. Chúng ta muốn làm việc lớn thì phải có lực lượng. Đằng sau chúng ta đã có người Mỹ rồi, nhưng người Mỹ không muốn xuất đầu lộ diện. Người Mỹ chỉ muốn đưa cố vấn và vũ khí sang giúp chúng ta thôi, chúng ta phải làm lấy. Việc của chúng ta thật là nặng nề. Chúng ta vừa phải chống lại bọn Cộng sản, vừa phải gạt bỏ những người Pháp đi. Cho nên ngay từ bây giờ chúng ta phải có nhiều người của chúng ta ở trong nước, ở cả vùng người Pháp lẫn vùng Việt Minh kiểm soát. Từ cuối năm 1951, bác có phái Lê Mậu Thành. (Phan Thúc Định cau mày, cố nhớ lại một điều gì. Cái tên Lê Mậu Thành anh đã nghe thấy ở đâu một lần rồi), giáo sư nổi tiếng ở Huế, vờ theo Cộng sản, vào chiến khu Việt Minh ở miền Trung Trung phần, để lập “nhóm kháng chiến quốc gia” nằm phục sẵn ở đó, đợi thời cơ, làm đảo chính. Không hiểu anh ta đã gây được lực lượng của ta ở trong đó chưa mà từ hai năm nay, bác chưa nhận được liên lạc gì của anh ta. Tin tức báo về, chưa chính xác cho lắm, cho biết anh ta vẫn còn sống và hình như đã lọt vào làm việc ở một cơ quan của Việt Minh. Bác giao cho cháu việc thứ nhứt là tìm mọi cách liên lạc được với anh ta, xem anh ta đã mở rộng được màng lưới đến đâu rồi, đã sẵn sàng hoạt động chưa.
Thấy Ngô Đình Diệm ngưng lại, Định hỏi :
- Thưa cụ lớn, con xin hỏi một điều: Lê Mậu Thành có đáng tin cậy không? Vì con sợ khoảng thời gian hai năm không có liên lạc ấy, lòng con người có thể có những đổi thay, ai mà đoán trước được.
Diêm xua cái bàn tay ngắn ngủn :
- Cháu đa nghi như thế là tốt nhưng bác tin ở Lê Mậu Thành. Cũng như bác tin ở cháu đây. Đấy cháu xem, bác có cần phải mở thư của Đức Cha Vĩnh Long ra đâu, mà bác vẫn tin cháu. Vì giáo sư Lê Mậu Thành cũng có mối thù không đội trời chung với bọn Việt Minh như cháu. Bố Lê Mậu Thành là cụ Hàn Dục trước đây là một đại điền chủ có hàng nghìn mẫu ruộng đất, dinh cơ đồ sộ thế mà mất hết. Lê Mậu Thành lại là người có mang một lý tưởng quốc gia sâu sắc, anh ta là một người đáng tin cậy của chúng ta.
- Nếu tìm được Lê Mậu Thành thì con làm thế nào để anh ta biết con là người của cụ lớn phái về?
Diệm mỉm cười :
- Bác sẽ viết thư riêng trả lời Đức Cha Vĩnh Long. Cháu về yết kiến Đức Cha, Người sẽ dặn dò cháu mật khẩu để liên lạc với Lê Mậu Thành. Việc thứ hai là cháu nhân danh một nhà trí thức quốc gia, tiếp xúc với các tổ chức công khai, các giáo phái trong vùng người Pháp kiểm soát thăm dò thái độ của họ ra sao để bác dễ xử sự với họ sau này. Cháu tìm hết cách lôi kéo một số người trong bọn họ về với chúng ta.
Mấy đảng phái công khai như Việt Nam quốc dân đảng, Đại Việt quốc gia liên minh đang múa máy, thì chắc cũng dễ nói chuyện với bọn chúng thôi, vì bọn chúng gió chiều nào che chiều ấy, ai mạnh thì chúng theo. Còn các giáo phái thì bác hơi e ngại vì Đức Cha Vĩnh Long có cho biết người Pháp nắm họ khá chặt. Công việc này cháu sẽ gặp khó khăn đấy, nhưng Đức Cha cũng sẽ giúp cháu được nhiều.
Diệm ngưng lại nhìn Phan Thúc Định có ý chờ đợi. Định cúi đầu :
- Con xin đem hết sức con ra làm việc, để đền ơn sự tín nhiệm của cụ lớn, xứng đáng với sự ủy thác của cụ lớn.
Ngô Đình Diệm xoa hai tay vào nhau :
- Việc của chúng ta thật nặng nề. Cùng một lúc vừa phải có người của chúng ta ở vùng Việt Minh, vừa phải có người của chúng ta ở vùng Pháp kiểm soát. Cần bao nhiêu tiền, người Mỹ sẽ giúp chúng ta. Nhưng kẻ thù của chúng ta là bọn Việt Minh Cộng sản. Dù sao, chúng ta cũng phải thừa nhận là chúng có lý tưởng và lý tưởng ấy đã thu hút được nhiều người. Để đối chọi với Việt Minh cho có kết quả, chúng ta phải có một lý tưởng có sức thu hút mọi người theo chúng ta. Bác đang giao cho chú Nhu, với sự giúp đỡ của các giáo sư Mỹ ở trường này, xây dựng một học thuyết, một lý tưởng , một nền triết học riêng khả dĩ có thể chống lại được Cộng sản. Một học thuyết làm người ta mê tín tuân theo, tuân theo như tuân theo một đạo giáo...
Ngô Đình Diệm cười thỏa mãn làm những thớ thịt vốn bì bì trên mặt hắn nở ra :
- Việc thành công, bác về nước, cháu sẽ là người thân cận của bác, cháu có công lớn, tuổi trẻ của cháu sẽ muôn vàn vinh quang sung sướng.
Phan Thúc Định kính cẩn ngồi nghe những lời vừa làm nhiệm vụ vừa là bài học, vừa là lời hứa hẹn động viên của Diệm.
- Cháu ở đây ăn cơm với bác. - Diệm lại nói.
- Thưa cụ lớn, con xin phép cụ lớn cho con về khách sạn thu xếp. Con nóng lòng muốn về nước. Con gặp cụ lớn ở đây, được cụ lớn chỉ bảo cho tham gia vào việc lớn là con mãn nguyện rồi. Con không muốn để thời gian trôi phí...
- Được, bác cũng không giữ cháu. Bác cũng rất nóng ruột. Vậy ngày mai cháu lại đây, bác viết thư cho cháu về trình với Đức Cha Vĩnh Long. Ở nước Mỹ này, cháu cần tiền tiêu, cứ bảo bác. Còn về nước, nếu cháu cần bao nhiêu, cháu cứ xin Đức Cha Vĩnh Long.
Phan Thúc Định đứng lên lễ phép :
- Con xin phép cụ lớn. Con kính chào cụ lớn.
Diệm vẫn ngồi yên sau bàn giấy, chìa bàn tay ngắn ra. Phan Thúc Định đỡ lấy, hơi cúi đầu.
Cánh cửa khép lại sau lưng Phan Thúc Định chưa được bao lâu thì lại có tiếng gõ cửa. Diệm dõng dạc :
- Cứ vào.
Cánh cửa mở rộng, Fishiel và Lansdale hiện ra. Thái độ Diệm thay đổi. Hắn niềm nở đứng dậy đón hai tên Mỹ.
- Gút-mo-ninh! [5]
Fishiel hỏi ngay :
- Phan Thúc Định vừa ở đây ra?
- Vâng.
Hai tên Mỹ ngồi xuống ghế bành, vắt chéo chân, rút thuốc lá ra hút. Lansdale hỏi :
- Ông thấy anh ta thế nào?
- Chúng ta dùng được. Chắc chắc là Đức Cha anh tôi cũng đã thẩm tra về anh ta rồi, đây có cả thư của anh tôi.
Lúc ấy, Diệm mới xé phong bì bức thư của Ngô Đình Thục, vừa đọc vừa dịch lại cho hai tên Mỹ nghe.
“Chú Diệm,
Nhân dịp anh Phan Thúc Định sang Mỹ, tôi viết thư này nhờ anh mang cho chú.
(Diệm giải thích: Khi anh tôi nhờ ai cầm thư tay mang sang cho tôi như thế này, tức là đã ngầm giới thiệu người đó với tôi là tôi có thể sử dụng được).
Anh Định là con trai cụ tuần Phan Thúc Ngân, bạn đồng liêu của chú chắc chú còn nhớ. Anh đến tôi từ lâu nhưng tôi bận việc, nên bây giờ mới giới thiệu anh sang gặp chú được. (Ý anh tôi muốn nói: Anh tôi đã để thời gian điều tra về Định rồi). Anh Định là một thanh niên có nhiệt huyết, muốn phụng sự đạo cả. Chú hãy nói con đường tuân theo ý Chúa để anh Định rõ. (Ý anh tôi muốn nói: Có thể giao nhiệm vu cho Định hoạt động được).
Tiện đây, tôi báo tin gia đình ta để chú rõ: Gia đình ta mọi người đều mạnh khỏe, các cháu mỗi ngày một thêm đông. Riêng “bên ngoại” vẫn gặp nhiều khó khăn. tôi chẳng được tin gì cả. (Ý anh tôi muốn nói: Tổ chức của chúng ta ở trong vùng người Pháp kiểm soát tốt, có thêm nhiều người tham gia. Còn riêng vùng Việt Minh kiểm soát như thế này là không thể làm ăn gì được).
Chúc chú mạnh khỏe,
Chúa sẽ ban phước lành cho chúng ta.
Ngô Đình Thục”.
Hai tên Mỹ nghe Diệm vừa đọc thư, vừa giải thích những ý ngầm trong thư, dáng trầm ngâm. Khi Diệm đọc xong, Fishiel nói :
- Ồ, chỗ nào chúng ta cũng vào được, chỉ riêng vùng Việt Minh kiểm soát vẫn là một vùng rất bí mật đối với chúng ta.
Như để chứng minh thêm lời của Fishiel, Lansdale ngậm ngùi :
- Nghiên cứu các báo cáo từ Việt Nam gởi về, tôi cũng lấy làm lạ. Đầu năm 1950, cơ quan tình báo của ta có giao cho phòng Nhì Pháp một nhân viên tên là Hồ Minh vào chiến khu Việt Minh ở Thừa Thiên để tổ chức “Chiến khu quốc gia” nhưng bị bại lộ [6]. Ông Diệm phái Lê Mậu Thành vào vùng chiến khu Việt Minh ở miền Trung Trung phần từ năm 1951 đến nay cũng không làm ăn được gì. Những tổ chức Đại Việt quốc gia liên minh, Việt Nam quốc dân Đảng ở mấy tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên sẵn sàng theo ta thì cũng như rắn nằm tịt trong hang, không dám thò đầu ra. Phía Bắc Việt Nam, những nhóm “Liên hiệp quốc gia” “Liên tôn chống Cộng” ở ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đều tan rã cả. Cả một nhóm người của Phòng Nhì Pháp giới thiệu với ta định đưa vào Thanh Hóa lập “Chiến khu quốc gia” cũng bị Việt Minh lừa cho bắt gọn [7]. Những điệp viên được huấn luyện rất công phu của Phòng Nhì Pháp như Hải Đường, Trà Mi, Nguyễn Phước... được phái ra vùng Khu 4 của Việt Minh đến nay vẫn chưa có tin tức gì [8]. Người Pháp đã mất vào đây bao nhiêu của, bao nhiêu người... Thế là thế nào? Chúng ta phải tìm hiểu cho ra. Vì khi ông Diệm về nước thì không phải thông qua Phòng Nhì của Pháp nữa, mà chính chúng ta phải đấu trực diện với tình báo Việt Minh.
Fishiel quả quyết :
- Không. Nhất định chúng ta phải hơn bọn Phòng Nhì Pháp. Với những kỹ thuật tiên tiến, với đôla, với những phương tiện đầy đủ, với những người được chúng ta đào tạo kỹ lưỡng, với một kế hoạch hành động tỉ mỉ, chu đáo, nhất định chúng ta phải hơn người Pháp.
Ngô Đình Diệm gật đầu :
- Tôi cũng đồng ý với giáo sư.
Lansdale hỏi Diệm :
- Thế ông đã giao nhiệm vụ hoạt động cho Định?
- Tôi đã giao cho anh ta một vài việc rồi. Tất nhiên mới chỉ là những việc thử thách bước đầu. Anh ta không thể nắm được điều gì quan trọng của chúng ta cả.
Diệm quay về mở tủ, lấy chiếc ví của Phan Thúc Định. Hắn kéo ở ví ra chiếc ảnh Đức bà Maria :
- Mặc dù anh tôi cũng đã gởi cho tôi vật này.
Hắn cất chiếc ảnh vào chiếc ví, trả lại cho Lansdale :
- Phan Thúc Định đã nói cho tôi rõ việc “mất cắp” chiếc ví này. Người của chúng ta làm rất giỏi. Định không biết mất vào lúc nào khi dạo chơi trên phố. Anh ta nói tất cả những gì có trong ví không giấu một thứ gì. Bây giờ, tôi xin trả lại đại tá.
Lansdale cầm lấy chiếc ví :
- Chiều nay, tôi sẽ cho Sở Cảnh sát Nữu Ước gọi điện báo cho anh ta biết đã tìm ra chiếc ví và mời anh ta đến nhận.
- Đại tá trả Định tất cả những thứ có trong ví này? - Diệm hỏi.
Lansdale mỉm cười :
- Trả lại tất cả, trừ đô la trong ví, để cho nó hợp lý.
Và hắn hỏi Ngô Đình Diệm :
- Bao giờ anh ta về nước?
- Anh ta định ngày mai. - Diệm đáp.
Lansdale nói :
- Trong giai đoạn này, chúng ta phải cử một người bí mật giám sát những hoạt động của anh ta. Nguyên tắc của chúng ta là như thế.
- Cử ai? - Diệm hỏi.
Lansdale suy nghĩ một lát rồi thong thả nói :
- Theo ý tôi, không nên cử người ở Việt Nam theo dõi Định, bởi vì hầu hết những người của ta ở Việt Nam trước đây, bọn SEDCE [9] và bọn Phòng Nhì Pháp đều biết. Nếu Định là người của SEDCE thì anh ta biết ngay. Tôi muốn cho một người của ta mà tình báo Pháp và Định chưa hề biết về làm việc đó. Tôi đề nghị cho Phạm Xuân Phòng bí mật về Việt Nam vừa làm những việc ta định giao cho Phòng, vừa theo dõi Phan Thúc Định.
[1] Edward Lansdale, đại tá, chỉ huy tình báo Mỹ (CIA) ở Việt Nam.
[2] Père Cras, một linh mục Pháp thuộc dòng Rédemptorist hoạt động tình báo cho SEDCE (cơ quan gián điệp và phản gián Pháp) ở Huế, trong những năm trước và sau thế giới đại chiến thứ hai.
[3] Drapier, Khâm mạng tòa thánh Huế.
[4] Lebris, tướng Pháp chỉ huy lực lượng Pháp đóng tại Huế sau ngày hiệp định sơ bộ được ký kết, năm 1945.
[5] Good morning (tiếng Anh): Chào buổi sáng.
[6] Vụ này đã bị Công an Thừa Thiên khám phá, hồi ấy Đài tiếng nói Việt Nam đã vạch trần âm mưu và thủ đoạn của địch trước dư luận thế giới.
[7] Vụ này xảy ra ở Thanh Hóa, bị công an bắt gọn vào năm 1950.
[8] Xem truyện phản gián “Cất vó” - NXB Quân đội Nhân dân (1967), NXB Thuận Hóa (tái bản - 1987), cùng một tác giả.
[9] SEDCE: Service d’étude et documentation de contre-espionnage (Sở Nghiên cứu và Tư liệu phản gián)..
Sân bay Tân Sơn Nhất - một sân bay lớn ở ngoại thành Sài Gòn - đầy máy bay quân sự và máy bay dân dụng. Những đường băng rộng thênh thang. Có những đường băng bê tông nhẵn lì. Có những đường băng rải lưới thép. Đây là đầu não của con đường hàng không tỏa đi khắp Đông Dương, đi châu Âu, châu Á, châu Mỹ...
Cách 5 phút lại có một chiếc máy bay hoặc cất cánh, hoặc hạ cánh. Những người lính không quân, thợ máy, lính thông tin, quần áo ka ki, mũ calô xanh nước biển hoặc mũ lưỡi trai đen bọc vải trắng, những cô chiêu đãi viên hàng không váy hẹp màu xanh nước biển, sơmi trắng, mũ calô xanh đi lại tấp nập.
Phan Thúc Định, vẫn chiếc cặp du lịch trên tay, vẫn bộ quần áo đúng thời trang, bước vào phòng khách của sân bay. Phòng khách như lắp toàn bằng kính, người đông ồn ào. Chỗ này vài ba viên sĩ quan người Pháp đang đứng nói chuyện gẫu. Chỗ kia, mấy hành khách đang quây quanh quầy giải khát uống nước, ăn bánh ngọt. Có hành khách tay chắp sau lưng đi bước một quanh phòng, vẻ chờ đợi. Có hành khách ngồi thản nhiên trên ghế, mở báo xem, phì phèo điếu thuốc lá trên môi. Theo thói quen, bao giờ Phan Thúc Định cũng quan sát khắp gian phòng, đặc biệt chú ý đến những người hành khách ngồi có vẻ ung dung xem báo.
Trong những người cầm tờ báo che lấp mặt hoặc đang chăm chú xem sách kia, có người nào cần phải đề phòng không? Kinh nghiệm cho biết những người ấy mới là những người anh phải quan tâm đến. Hình như không có gì đặc biệt cả. Anh đến sát giờ. Có tiếng loa mời những hành khách đi Huế ra máy bay. Mọi người theo cô chiêu đãi viên thân hình dong dỏng, xinh xắn, luôn luôn có nụ cười duyên dáng trên cặp môi tô son màu phớt tím, ra máy bay. Chiếc thang máy bay đã để sẵn ở cửa một chiếc máy bay Constellation bốn động cơ của hãng “Pháp Quốc Hàng Không”. Cô chiêu đãi viên dừng bước, đứng sững cạnh thang, giơ tay nghiêng đầu rất kiểu cách, nói bằng tiếng Pháp :
- Xin mời quý vị lên máy bay.
Hành khách lần lượt bước lên thang, lần lượt vào chỗ ngồi của mình.
Phan Thúc Định bước vào khoang máy bay, đưa mắt nhìn một lượt các hành khách. Nhanh như chớp, anh thu vào đôi mắt sắc sảo của mình những đặc điểm biểu lộ trên nét mặt đám hành khách cùng đi. Mấy sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp người thì ngồi trầm tư, người thì nói chuyện nhỏ với nhau. Mấy ông người Việt cỡ trung niên mà Phan Thúc Định chia làm hai loại: người nào láu táu, mặt lộ vẻ sốt ruột chắc là nhà buôn đi giao dịch; người nào có quần áo phẳng phiu, đầu mượt bóng, nét mặt đăm chiêu thì chắc là công chức cao cấp của chính phủ Bảo Đại hoặc là một thứ “chính khách” chưa kiếm chác được gì, đi Huế để vận động một ghế ngồi nào đó có thể hốt bạc được. Một bà già - hay nói đúng hơn một “mệ” Huế - búi tóc bằng trâm ngà, cổ đeo “kiềng” vàng, lên máy bay vẫn cầm hộp trầu trên tay. Cuối khoang máy bay có một người đàn ông khoảng gần năm mươi tuổi, chải chuốt, đeo kính mát gọng to, ngồi bên cạnh một cô gái mười sáu, mười bảy tuổi.
Người đàn ông ít nói, chỉ gật đầu hoặc lắc đầu trả lời rất hà tiện lời, trong khi cô gái hay nhí nhảnh hỏi chuyện. Cô gái tóc buông xõa kiểu tóc các nữ sinh trung học, mặc một chiếc áo dài trắng điểm hoa nhỏ và thưa màu xanh. Trán rộng, lông mày thanh, đôi mắt đen láy thông minh, mũi dọc dừa, đôi môi gọn nhỏ. Cô gái nói chuyện đôi lúc pha một câu tiếng Pháp. Qua câu chuyện loáng thoáng, Phan Thúc Định biết đấy là hai bố con.
Anh ngồi xuống ghế, ghế bên cạnh anh vẫn còn trống. Anh tự hỏi trong đám hành khách này ai là người của CIA? Ai là người của SEDCE? Ai là người của Việt Minh? Có ai theo dõi mình không? Lại còn có thể có những gián điệp của các nước khác nữa. Bởi vì, từ sau cuộc chiến tranh Nga - Nhật và từ đầu thế kỷ 20 này, tất cả các nước trên thế giới đều thấy rõ vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tình báo. Nó có thể góp một phần quyết định vào cuộc chiến thắng hoặc chiến bại của mỗi bên. Trước cuộc chiến tranh Nga - Nhật 1905, hàng nghìn gián điệp Nhật Bản đóng vai thợ giày, thợ cắt tóc đã lọt vào đất Nga làm cho tất cả những cuộc vận chuyển, kế hoạch tác chiến của quân đội Nga Hoàng bị Bộ Tổng Tham mưu quân đội Nhật Bản nắm vững. Rồi trong hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhứt và thứ hai, diễn ra bao nhiêu cuộc đấu trí giữa các cơ quan tình báo Gestapo của Đức, Hắc Long của Nhật với Phòng Nhì của Pháp, lntelligence Service của Anh, Ghê-pi-iu của Nga... Riêng ở Đông Dương này, trước khi Nhật đổ bộ vào, đã có hàng trăm, hàng nghìn gián điệp Nhật đóng vai bán kem, bán sâm cao-ly, nhà buôn, du học sinh, sang sục sạo khắp nơi. Trong cuộc chiến tranh Việt - Pháp năm 1949, vụ tình báo Việt Minh lấy được bản báo cáo của tướng Rơ-ve chẳng làm chấn động thế giới đấy ư? Đã làm cho kế hoạch hành quân của Pháp bị thất bại ngay từ bước đầu, làm cho chánh phủ Pháp suýt bị đổ và nhiều nhân viên chỉ huy SEDCE phải bị cách chức. Những nơi nóng bỏng trên thế giới đều là nơi thu hút, tập trung những gián điệp quốc tế. Việt Nam đang là một trong những nơi nóng bỏng nhất của thế giới. Pháp đang muốn chèo chống giữ cho con thuyền tả tơi của mình trước cơn bão táp tấn công của Việt Minh. Mỹ đang muốn thay chân Pháp. Nhật đang muốn đục nước béo cò. Tưởng đang muốn nắm số Hoa kiều đông đảo ở đây. Anh muốn dò la để giữ vững ảnh hưởng của mình ở Mã Lai, Tân Gia Ba, Miến Điện...
Việc anh về nước với nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm giao cho ấy, liệu có cơ quan tình báo nào biết mà theo dõi? Anh cứ phải đề phòng. Một điều làm anh phải suy nghĩ nữa là làm thế nào liên lạc được với Lê Mậu Thành? Làm thế nào biết được hoạt động và thái độ của Lê Mậu Thành?
Từ Mỹ về Paris về Sài Gòn, Định hy vọng lần gặp Giám mục Ngô Đình Thục này, Ngô Đình Thục sẽ giúp đỡ anh dễ dàng trong việc hoàn tất nhiệm vụ của Ngô Đình Diệm giao cho. Nhưng khi đến Vĩnh Long, gặp Ngô Đình Thục, Định thấy tự mình phải xoay xở lấy là chính.
- Từ mùa thu năm 1951 đến nay - Ngô Đình Thục nói - Tôi chưa nhận được báo cáo của Lê Mậu Thành, nhưng nguồn tin riêng cho tôi biết Lê Mậu Thành vẫn còn sống và đang ở một cơ quan của Việt Minh. Còn lòng trung thành của anh ta đối với cụ Thượng (chỉ Ngô Đình Diệm) thế nào thì chưa có bằng chứng gì bảo đảm. Cụ Thượng ở xa không rõ đấy thôi chứ chưa nối được trạm liên lạc nào giữa Lê Mậu Thành với chúng tôi. Có thể anh ta phải phục xuống tạm thời cắt đứt mọi mối liên lạc để giữ mình, cũng có thể anh ta không còn là người của chúng ta nữa.
Phan Thúc Định không biết những lời của Ngô Đình Thục là thực hay giả. Vì trong ngôi nhà uy nghi của Tòa giám mục Vĩnh Long, Ngô Đình Thục đã điều khiển nhiều việc bí mật, ngoài việc lên bục giảng đạo, ngồi buồng kín rửa tội, hắn đã từng phản bội người ta và bị người ta phản bội nhiều lần cho nên hắn rất già dặn công việc tiếp xúc với mọi người.
Ngô Đình Thục hạ giọng nói tiếp :
- Cụ Thượng đã giao trách nhiệm cho anh, thì anh nên cố gắng làm cho xong. Anh nên tìm mọi cách liên lạc được với Lê Mậu Thành. Nếu anh làm thế nào gặp được Thành thì càng tốt, nói cho Thành rõ những điều cụ Thượng đã dặn.
- Nhưng thưa Đức Cha, làm thế nào con có thể bắt liên lạc được với Thành? Cha có cách nào giúp con được không?
Ngô Đình Thục nheo mắt cười tinh quái, bộ mặt hắn khác hẳn lúc hắn giảng đạo :
- Cái đó tùy thuộc vào trí thông minh và tài tháo vát của anh. Tôi chỉ giúp được anh mật khẩu để liên lạc với Thành mà thôi.
Ngô Đình Thục mở khóa chiếc tủ lim lớn đàng sau hắn. Phan Thúc Định liếc nhanh vào trong tủ, thấy tủ chia làm nhiều ngăn nhỏ đánh số như tủ đựng hồ sơ. Ngô Đình Thục tìm một ngăn, lấy ra một phong bì dán kín đưa cho Định, rồi lặng lẽ đứng dậy, bắt tay Định.
Bước chân ra khỏi Tòa giám mục Vĩnh Long, Phan Thúc Định băn khoăn: “Có phải anh em họ Ngô thử mình chăng?”. Nếu gặp được Lê Mậu Thành, anh em họ Ngô sẽ đặt câu hỏi: làm thế nào mà một người như mình, vừa ở Pháp về, con một kẻ tử thù của Việt Minh, lại có thể gặp được Lê Mậu Thành ở vùng chiến khu Việt Minh một cách dễ dàng? Còn nếu Định không gặp, không liên lạc được với Lê Mậu Thành thì nhiệm vụ của Diệm giao cho sẽ không hoàn thành. Mới chỉ có một việc bình thường, bước đầu đã không hoàn thành được thì về sau ra sao?
Phan Thúc Định tự nhủ: “Mình phải tìm cho ra đáp số của con toán rắc rối đó... giải quyết thế nào bây giờ? Lê Mậu Thành... Lê Mậu Thành... cái tên mình đã nghe thấy một lần rồi...”.
Phan Thúc Định ngã người trên ghế suy nghĩ miên man. Bề ngoài trông anh có vẻ lơ đãng, thản nhiên nhưng thật ra tất cả những việc gì xảy ra quanh anh, trong khoang máy bay, vẫn không lọt khỏi mắt anh. Ở anh đã thành hình cái nếp: trong bất cứ một môi trường xa lạ nào, bao giờ anh cũng chỉ để một nửa tâm trí suy nghĩ, còn một nửa tâm trí thì theo dõi quan sát chung quanh.
Có một cô gái bước lên máy bay, đến ngồi ghế bỏ trống bên anh. Anh quay lại... vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ :
- Ô... Vân Anh!
Cô gái cũng nhận ra anh, ngạc nhiên không kém anh :
- Anh Định. Ôi, thật là một sự may mắn kỳ diệu!
Với mái tóc uốn chải công phu, cắt cao, để lộ chiếc cổ trắng ngần, với cặp mắt hơi buồn ẩn sau hàng mi dài vuốt thuốc, với đôi môi tô son cầu kỳ, thỉnh thoảng hơi nhếch lên một cách kênh kiệu, và chiếc áo dài màu xanh nước biển có thêu nổi một bông hồng trắng trên ngực trái, Vân Anh hiện ra trước mắt Phan Thúc Định vẫn diễm lệ, vẫn quyến rũ, vẫn lộng lẫy như hai năm trước...
... Hai năm trước, trong một **** chiều bước vào mùa đông, trời Paris đầy hoa tuyết đầu mùa. Hoa tuyết bay như bông nõn ai tung ra khắp bầu trời. Chàng sinh viên xóm Latinh nghèo Phan Thúc Định đang chuẩn bị luận án tiến sĩ luật khoa đã gặp cô gái đồng bào Vân Anh ở một thư viện. Xa quê hương, người cùng nước gặp nhau, hai người làm quen với nhau một cách dễ dàng và mau chóng trở thành đôi bạn. Những buổi gặp nhau ở thư viện, những buổi sóng đôi đưa nhau về một quãng đường, những buổi rủ nhau vào một quán cà phê ấm cúng ngồi tâm sự, Vân Anh đã kể cho Phan Thúc Định nghe về cuộc đời riêng của mình.
Vân Anh là con một viên án sát ở một tỉnh lẻ miền Nam Trung Bộ tên là Cao Xuân Thọ. Vì có nợ máu với nhân dân nên hồi Cách mạng tháng Tám 1945, Thọ đã bị Tòa án Nhân dân xử tử hình. Vân Anh phải về ở với chú ruột là Cao Xuân Đăng, trước cách mạng vốn là tham tá Tòa sứ của Pháp, lúc đó chuyển sang làm công chức cho chánh quyền cách mạng. Lúc thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam năm 1946, Cao Xuân Đăng ở lại Huế, nhảy ra làm tay sai cho Pháp và được thực dân Pháp cho làm tỉnh trưởng ở một tỉnh Trung phần. Đăng nuôi Vân Anh ăn học và cho sang Pháp học ở trường đại học Sorbonne.
Một buổi đẹp trời, Phan Thức Định và Vân Anh sánh vai nhau đi dọc bờ sông Seine. Họ đi qua những quán sách cũ có những ông chủ quán để râu thủy thủ, ngồi lim dim như ngủ giữa đống sách dày mỏng về đủ các mặt: khoa học, văn học, lịch sử... Họ đi qua những người Pháp đội mũ nồi, ngậm ống tẩu ngồi câu bên bờ sông có những con chó ngoan ngoãn nằm bên cạnh.
- Chú em chiều em lắm, không để em thiếu thốn gì cả - Vân Anh nói - nhưng em vẫn hay buồn. Cái buồn ấy, các bạn em bảo, hiện lên đôi mắt em. Người Pháp vẫn thường bảo đấy là cửa sổ của tâm hồn. Có lẽ đúng. Bởi vì dù sao em cũng là một cô gái mồ côi. Bố em đã chết bất đắc kỳ tử...
- Em có oán hận gì những người đã giết bố em không?
- Oán hận thì em có thể làm gì được nữa. Lịch sử đã chuyển qua trang khác rồi... Vả lại, em chỉ là một người phụ nữ yếu đuối cô đơn.
- Em thiếu tình cảm gia đình nhưng em có thể có những tình cảm đẹp đẽ khác động viên em, an ủi em. Chẳng hạn... tình bạn... tình yêu.
Vân Anh giương cặp mắt có hàng mi dài và cong, nhìn thăm thẳm vào mắt Phan Thúc Định, hình như muốn ngăn không để Định nói rồi tiếp tục :
- Em không muốn giấu anh làm gì, em có người yêu rồi.
Hai người im lặng. Cái sắc da trên tay Vân Anh buông thõng, đung đưa theo nhịp bước chân chậm rãi của họ. Lại mấy cửa hàng sách cũ... Lại mấy người ngồi câu... Có thêm vài anh họa sĩ dựng giá khung đang nheo mắt bôi màu trên vải... Một lát sau, Vân Anh thở dài :
- Người yêu em ở xa lắm.
- Ở Việt Nam.
- Vâng. Còn xa hơn nữa, vì... ở bên kia chiến tuyến.
Lại một phút im lặng.
- Xin lỗi. Em không nói nên anh không dám hỏi, em đã nói thì cho phép anh hỏi nhé: em có thể cho anh biết người ấy là ai được không? - Phan Thúc Định hỏi.
- Đối với anh thì được chứ. Anh Lê Mậu Thành, giáo sư trường trung học Khải Định - Huế.
- Em vừa nói, người ấy ở bên kia chiến tuyến?
- Vâng. Mùa hè năm ngoái, lúc em vừa đỗ xong tú tài phần thứ hai, cũng chính là lúc chúng em xa nhau.
Giọng nói của Vân Anh nhỏ xuống trầm trầm xúc động :
- Chúng em yêu nhau tha thiết, nhưng anh Thành lại yêu lý tưởng của anh ấy hơn cả người yêu. Anh ấy tự nhiên bỏ thành phố Huế lên chiến khu Việt Minh. Anh ấy để lại cho em một bức thư vỏn vẹn có mấy dòng. Em còn nhớ thuộc lòng bức thư đó: “Anh ra đi vì tiếng gọi của Tổ quốc, vì nhiệm vụ thiêng liêng đối với đất nước. Anh biết rằng em không thể đi theo anh được nhưng anh vẫn hy vọng một ngày nào đó, chúng ta sẽ gặp nhau ở chiến khu”. Sau đó, em không được tin gì của anh ấy nữa, rồi chú em nhất định bắt em sang đây du học.
Em viết thư cho mấy người bạn cũ của anh Thành, ghi rõ địa chỉ của em bên này, mong mỏi nhận được một lá thư hoặc một tin tức nào đó của anh Thành cũng được nhưng suốt từ đó đến nay, vẫn đằng đẵng tuyệt vô âm tín. Linh cảm em sợ một sự tan vỡ vì anh biết đấy, em không bao giờ đi con đường của anh Thành được. Em với anh Thành ở hai trận tuyến khác nhau. Anh Thành đã theo Việt Minh còn em và Việt Minh có một mối thù không đội trời chung. Chao ôi, khoảng cách về không gian không sợ bằng khoảng cách về tư tưởng.
- Trước đó, em có thấy anh Thành nói chuyện gì với em về kháng chiến không?
Đôi lông mày kẻ chì của Vân Anh hơi cau như cố nhớ lại chuyện cũ :
- Anh Thành là một người rất kín đáo. Khi nói chuyện về văn học, nghệ thuật, anh ấy tỏ ra hiểu biết nhiều và nói sôi nổi. Nhưng đối với các vấn đề chính trị, thời cuộc thì anh ấy thường không phát biểu gì.
- Xin lỗi em nhé, em đừng trách anh là quá tò mò, cho anh hỏi thêm một điều: Em vẫn còn yêu anh Thành?
- Tình cảm của em đối với anh Thành vẫn nguyên vẹn. Tình yêu của người phụ nữ không phải dễ thay đổi. Sự đổi thay trong tình yêu là một điều không đẹp đẽ. Huống chi, từ trước đến sau, anh Thành đối với em vẫn rất tốt. Giữa hai chúng em, yêu nhau mấy năm trời, vẫn giữ nguyên được lòng tôn trọng nhau. Chỉ trừ việc anh Thành bỏ đi một cách đột ngột, bất ngờ... Em vẫn mong gặp anh Thành, vẫn chờ đợi anh ấy.
Dòng sông Seine lững lờ trôi. Thỉnh thoảng một chiếc ca nô chở khách lướt sóng để lại một vệt trắng dài ngầu bọt.
Sau buổi ấy, Phan Thúc Định không gặp lại Vân Anh nữa. Có người nói Vân Anh bỏ học, qua Luân Đôn, thủ đô sương mù ảm đạm. Hình ảnh diễm lệ của Vân Anh với đôi mắt buồn sau hàng lông mi dài và cong, hình ảnh những ngày ngồi bên cốc càphê thơm phức ở khu xóm Latinh, hình ảnh những ngày đón nhau ở thư viện về, đi dưới những cây sên mùa đông trụi hết lá, hình ảnh một cuộc dạo chơi bên bờ sông Seine váng vất một tiếng còi canh... lùi dần vào dĩ vãng.
Hai năm qua rồi...
Phan Thúc Định nắm lấy bàn tay mềm mại của Vân Anh mà như thấy dĩ vãng sống lại.
Câu chuyện cũ hiện ra, đồng thời cái tên Lê Mậu Thành nổi bật lên rõ rệt trong óc Phan Thúc Định: “À, Lê Mậu Thành đây rồi. Thế mà mình cứ cố nhớ mãi. Đáp số của bài toán đố anh em họ Ngô ra cho mình ở đây rồi”.
Chiếc máy bay đóng cửa, từ từ cất cánh. Sau khi chạy một quãng dài trên đường băng, nó nhấc mình lên, rời khỏi mặt đất. Những căn nhà, lùm cây, những con đường tấp nập người và xe cộ lùi xa, bé dần lại. Rồi đến những cánh đồng, những dòng sông... Rồi nhìn thấy màu nước biển xanh ngắt... Rồi mây trắng bồng bềnh trôi bên ngoài khung cửa, trôi dưới thân máy bay...
Trong lúc Phan Thúc Định và Vân Anh vui mừng gặp lại nhau, họ không ngờ tất cả thái độ, cử chỉ của họ đều được thu gọn, đầy đủ vào cặp mắt của người đàn ông chải chuốt đeo kính mát ngồi cạnh cô con gái. Cô nữ sinh vẫn hồn nhiên, không hay biết gì, vẫn ríu rít trò chuyện.
- Con không thích Sài Gòn bằng Huế, ba ạ. - Cô gái nói - Bởi vì Huế có gia đình ta, sao ba cứ bắt con ở Sài Gòn, ít cho con về thăm Huế?
Người đàn ông đeo kính mát trả lời :
- Tố Loan ạ, lúc này việc học tập của con là trên hết. Con cần để thời gian vào học tập.
- Nhưng con nhớ biệt thự của nhà ta, nhớ dòng sông Hương lắm.
Người đàn ông im lặng, trầm tư như đang mải suy nghĩ làm cô gái không dám hỏi thêm nữa. Sau cặp kính mát hướng thẳng về phía trước mặt, cặp mắt người ấy vẫn thỉnh thoảng nhanh chóng liếc nhìn về phía Phan Thúc Định và Vân Anh.
- Không ngờ lại gặp Vân Anh ở đây. - Phan Thúc Định nói.
- Em cũng vậy. Đúng là quả đất tròn thật.
- Sau buổi em nói chuyện với anh ở bên sông Seine, em đi đâu mà anh không nhận được tin tức gì của em cả?
- Hồi ấy, em mê những bi kịch của Sếch-spia lắm... Em nảy ra ý định muốn đi sâu vào ngôn ngữ Anh. Được chú đồng ý, em qua Anh và xin vào học trường đại học Cambridge [1]. Mải học nên cũng không viết thư từ cho ai cả, anh tha lỗi cho. Còn anh, đã bảo vệ xong luận án rồi chứ?
- Cảm ơn em, xong rồi.
- Xin có lời chúc mừng anh.
Một cô chiêu đãi viên người Pháp dong dỏng, duyên dáng bưng khay kẹo, bánh ngọt và nước hoa quả đến mời hành khách. Cặp dưới khay bánh kẹo cô ta cầm một bản quảng cáo các đường bay của hãng “Pháp Quốc Hàng Không” in màu sắc sặc sỡ. Đến chỗ Phan Thúc Định, Định nhặt mấy chiếc kẹo sôcôla sữa, rồi lịch sự hỏi cô chiêu đãi viên :
- Xin lỗi, cô có thể cho tôi xin tờ quảng cáo này được không?
Cô chiêu đãi viên nhìn Định, mỉm cười, đưa tờ quảng cáo cho Định :
- Rất vui lòng biếu ông...
Mắt người đàn ông đeo kính mát nhìn quanh tờ quảng cáo. Tờ quảng cáo gấp nếp lại thành nhiều trang nhỏ, ở trang đầu tiên có in hình huy hiệu hãng “Pháp Quốc Hàng Không” nửa mình một con ngựa trắng có cánh bay lên và ảnh cổng khải hoàn môn của thủ đô nước Pháp.
Phan Thúc Định hỏi thêm cô chiêu đãi viên :
- Ở Huế, tôi muốn đặt trước vé máy bay thì gọi điện theo số bao nhiêu?
Cô chiêu đãi viên vẫn duyên dáng :
- Thưa ông số điện thoại 377. Lúc nào chúng tôi cũng mong được hầu ông.
- Cảm ơn cô.
Cô chiêu đãi viên đi sang hàng ghế khác. Phan Thúc Định cất tờ quảng cáo vào trong túi áo nói với Vân Anh :
- Anh thích có những kỷ niệm nho nhỏ trong mỗi chuyến đi. Em về nhà ai ở Huế? - Định hỏi.
- Chú em hiện nay làm việc ở Huế. Em về nhà chú em. Chú đã hẹn ra đón em ở sân bay.
- Em về thăm nhà thôi chứ? Có dự định làm gì nữa không?
Vân Anh nói nho nhỏ như một hơi gió thoảng bên tai Định :
- Em định tìm gặp cho được anh Lê Mậu Thành.
Phan Thúc Định nhìn vào mắt Vân Anh. Anh thấy đôi mắt đượm buồn ấy sâu như biển thẳm.
Óc anh nảy ra một ý nghĩ rất nhanh khi nghe Vân Anh nhắc đến tên Lê Mậu Thành. Sự gặp gỡ tình cờ với người con gái này biết đâu chẳng giúp anh giải được con toán hắc búa do anh em họ Ngô ra cho anh. Gặp Lê Mậu Thành bây giờ thì không nên, nhưng vẫn phải bắt được liên lạc với Lê Mậu Thành cho Ngô Đình Diệm. Hay nhất là qua một người khác để có thể chắp được đường dây với Lê Mậu Thành. Có thể qua Vân Anh.
Phan Thúc Định cũng nói nhỏ :
- Em làm thế nào tìm gặp được anh ấy?
Giọng Vân Anh có vẻ bí mật :
- Em sẽ nói chuyện với anh sau.
Những khu rừng màu xanh bát ngát, con đường số 1 như một sợi chỉ, rồi lại đến làng mạc ruộng nương nhỏ xíu hiện ra dưới thân máy bay.
Máy bay hạ cánh xuống sân bay Phú Bài. Hành khách lục tục bước xuống. Người đàn ông đeo kính mát dần dà bước xuống sau Phan Thúc Định và Vân Anh.
Ở phòng khách đã có một người đàn ông cao to, mặt bèn bẹt, đầu vuốt mượt, y phục sang trọng và diêm dúa một cách quá đáng, bước ra đón Vân Anh. Vân Anh chào :
- Chú ạ! Chú bận thế mà cũng ra đón cháu.
Rồi cô quay sang giới thiệu với Phan Thúc Định :
- Đây là chú em, em đã nói chuyện với anh. Xin giới thiệu với chú đây là anh Phan Thúc Định, tiến sĩ luật khoa, bạn của con từ hồi ở bên Pháp.
- Hân hạnh!
- Hân hạnh!
Cao Xuân Đăng hỏi Định :
- Có ai đi đón anh không?
- Thưa ông, không ạ.
- Anh về phố nào? Tôi có xe, xin mời anh về cùng một thể.
- Cảm ơn ông, tôi ở khách sạn. Tôi có một số việc mua bán ở ngoài phố nữa. Xin ông cho phép vài hôm nữa tôi được đến thăm ông và Vân Anh. Xin mời ông và Vân Anh cứ về trước.
Cao Xuân Đăng không mời thêm câu nào nữa, mở ví rút ra một cái danh thiếp ghi địa chỉ mình, chìa tay ra bắt tay Định :
- Đây là địa chỉ của tôi, lúc nào rảnh, mời anh đến chơi.
Vân Anh cũng chìa bàn tay nuột nà, móng bôi thuốc đỏ chót ra :
- Thế nào anh cũng lại thăm em nhé! Tạm biệt!
Hai chú cháu bước (tới chiếc) Xitrôen 15 màu đen. Cao Xuân Đăng cầm lái, mở máy. Bên trong cửa xe, Vân Anh còn thò bàn tay trắng muốt ra vẫy Định.
Định cũng vẫy tắc xi về khách sạn Thuận Hóa
Người đàn ông đeo kính mát, lúc ấy mới cùng con gái bước ra đường. Miệng gã lẩm bẩm một con số :
- 377.
Trên cái cặp du lịch gã xách, có một cái thiếp nhỏ ghi tên: Phạm Xuân Phòng.
* * * * *
Ba ngày sau, Phan Thúc Định theo địa chỉ trên tấm danh thiếp tìm đến nhà Cao Xuân Đăng thăm Vân Anh.
Cao Xuân Đãng đì vắng. Vân Anh tiếp Định ở phòng khách. Trong phòng bày toàn đồ đạc cổ kính: xa lông kiểu Trung Quốc bằng gỗ lim mặt đá vân, một chiếc tủ chạm trổ rồng phượng cầu kỳ, những bức tứ bình vẽ điển tích với đầy chữ Hán.
Sau những chuyện xã giao bình thường, Phan Thúc Định dẫn dần câu chuyện vào vấn đề ý định của Vân Anh đi gặp Lê Mậu Thành. Vân Anh nhìn Định như dò hỏi nhưng cũng thong thả nói :
- Cách đây ba tháng em ở Luân Đôn về Sài Gòn. Em gặp một người bạn trai trước cùng học ở Huế cho em biết chắc chắn là giáo sư Lê Mậu Thành hiện đang ở chiến khu Việt Minh trong tỉnh Thừa Thiên - Người bạn đó cũng đã bỏ học ra đi theo Việt Minh. Hắn có gặp giáo sư Lê Mậu Thành ở ngoài đó. Hắn không thể lầm được, vì trước hắn đã nghe anh Thành giảng. Ít lâu sau, hắn không chịu được gian khổ nên lại trốn về đầu hàng nhà đương cuộc Pháp. Được biết tin anh Thành, em nảy ra ý định quyết đi tìm anh ấy. Em biết nhiều phụ nữ trong này có chồng ngoài kia vẫn ra thăm chồng được...
Phan Thúc Định nhìn sự trang điểm lúc nào cũng cầu kỳ chải chuốt của Vân Anh, hỏi :
- Em làm thế nào để ra được ngoài ấy?
- Hoặc là em sẽ đi theo một bà nào đó ra thăm chồng ở ngoài ấy, hoặc là em đến một người cậu có con đi theo Việt Minh, em sẽ nhờ cậu ấy bắn tin là em muốn bỏ vùng quốc gia lên chiến khu.
Chắc Việt Minh sẽ không từ chối một người trí thức muốn theo họ. Hoặc là em sẽ viết đơn hẳn hoi xin phép Việt Minh ra gặp anh Lê Mậu Thành.
- Em làm như viết đơn gửi Việt Minh dễ lắm.
- Em được biết hiện ở Huế đây, có một trạm liên lạc của Việt Minh, gọi là “Trạm 14 Nội thành”.
- Em giỏi thật. Em vừa ở nước ngoài về được mấy tháng sao đã biết được trạm liên lạc của Việt Minh?
Vân Anh ngước nhìn Phan Thúc Định, môi trên đỏ chót hơi nhếch lên :
- Anh tò mò quá nhỉ.
Phan Thúc Định cảm thấy ở Vân Anh có một điều gì bí ẩn mà anh chưa rõ “Tại sao cô ta lại biết được? Cô ta tìm gặp Lê Mậu Thành có phải do tiếng gọi của tình yêu không? Chắc không phải chỉ có thế. Còn có cái gì nữa chứ?”. Nhưng bắt người thiếu nữ này nói rõ sự thật không phải là chuyện dễ. Phan Thúc Định đành phải dùng một đòn táo bạo hơn :
- Vân Anh ạ, có một điều trước đây anh chưa nói cho em rõ là anh có quen anh Thành từ xưa. Nếu Vân Anh gặp anh Thành, thì nói hộ anh rằng: Người bạn cũ của Thành nhà ở bên núi Ngự Bình có lời hỏi thăm và muốn biết anh Thành đã làm xong sự nghiệp lớn chưa?
Vân Anh mỉm cười :
- Vâng, em sẽ nhắc đúng như lời anh dặn: “Người bạn cũ của Thành nhà ở bên núi Ngự Bình có lời hỏi thăm...”.
- Vân Anh cố nói với anh Thành viết thư cho người bạn ở bên núi Ngự nhé.
- Viết nói gì?
- Điều ấy tùy anh Thành thôi.
Nụ cười trên môi Vân Anh trở nên bí mật :
- Hay là giữa anh và anh Thành có âm mưu gì?
Rồi Vân Anh nhún vai :
- Phải. Biết đâu đấy. Đời bây giờ chỗ nào chẳng có âm mưu và âm mưu, bí mật và bí mật.
Phan Thúc Định cười to :
- Em bắt nọn giỏi thật.
Vân Anh khẽ đập tay vào Phan Thúc Định, giọng đổi khác :
- Ông Tiến sĩ Luật ơi, ông hãy nói thật với tôi đi: có phải người ta đã giao cho ông nhiệm vụ bắt mối liên lạc với Lê Mậu Thành đó không? Nếu không, tại sao lại có mật khẩu “núi Ngự Bình”?... Nhưng thôi, đó là công việc của các anh. Còn tôi, tôi chỉ cần gặp anh Thành là đủ rồi. Và, anh yên chí, tôi hứa khi gặp anh Thành, tôi sẽ nói lại lời anh dặn...
- Thế... cô là ai?
- Em là em... là Vân Anh!
Đồng chí Vũ Long - trưởng ban công tác đặc biệt Trị Thiên - đặt tập hồ sơ trên tay xuống, hỏi đồng chí Trần Mai - đội trưởng một đội công tác nội thành của thành phố Huế - ngồi trước mặt mình :
- Đồng chí vừa nói trong đơn xin phép vào chiến khu của Cao thị Vân Anh ghi là xin vào thăm ai?
- Báo cáo anh, cô ta xin vào thăm Lê Mậu Thành và nói là chồng chưa cưới.
- Đồng chí cho tôi biết rõ hơn về Vân Anh.
Trần Mai mở chiếc sắc-cốt đặt bên mình, lấy ra quyển sổ tay, anh tìm một trang có ghi về điều Vũ Long hỏi, nói :
- Như anh đã biết sơ qua đấy: Vân Anh, năm nay hai mươi nhăm tuổi, con án sát Cao Xuân Thọ. Thọ bề ngoài là một quan lại của triều đình bù nhìn Huế, hắn còn là một chỉ điểm riêng của tên khâm sứ cáo già Pháp Gơ-ráp-phơi. Hắn đã cài một số tay chân xuống tận các xã, thôn để dò la những hoạt động của nhân dân. Hắn đã xử rất nặng những người đấu tranh cho độc lập tự do. Ngay cả những viên quan lại của Nam triều, người nào liêm khiết, dễ dãi với nhân dân cũng bị hắn báo cáo ngầm cho Pháp biết. Hắn đã nhận nhiều ân huệ về tiền nong, ruộng đất của thực dân Pháp ban thưởng cho công lao đó. Thực dân Pháp đang dự định thăng hắn lên tổng đốc thì cách mạng tháng Tám bùng nổ. Hắn đã chống đối lại cách mạng, hô lính bắn vào đoàn nhân dân biểu tình thị uy cướp chính quyền.
Trước khí thế của nhân dân, bọn lính không theo lệnh hắn đã tan chạy hết. Hắn bị bắt và bị tòa án nhân dân kết án tử hình. Vợ hắn đem Vân Anh về ở với người em ruột của hắn là tham tá Cao Xuân Đăng. Ít lâu sau, vợ hắn cũng chết, Vân Anh ở với Cao Xuân Đăng. Đăng ra làm tay sai cho Pháp, khi Pháp quay trở lại. Do công lao của tên anh ruột trước đây, do thái độ trung thành với đế quốc, Đăng được bọn thực dân cho làm tỉnh trưởng. Hắn đang có âm mưu muốn leo nữa, thường thì thọt đi lại nhà riêng tên Nguyễn Đệ, Đổng lý văn phòng của Bảo Đại, định làm một ghế bộ trưởng, thứ trưởng gì đó của chính phủ bù nhìn. Hắn nuôi Vân Anh cũng có dụng ý riêng. Hắn muốn dựa vào công lao đối với thực dân và cái chết của tên Thọ để được tín nhiệm với Pháp. Tuy mang tiếng là nuôi Vân Anh nhưng thực ra tất cả tiền ăn học của Vân Anh hồi ở Huế cũng như học bổng sang Pháp du học của Vân Anh đều do Pháp trợ cấp hết.
Hình như chính Vân Anh cũng không biết điều đó, bởi mọi việc đơn từ xin xỏ, kể công với thực dân Pháp đều do tên Đăng làm, mọi giấy tờ chứng nhận cũ của tên Thọ, Đăng còn giữ được cả. Riêng về Vân Anh thì hồi còn đi học ở Huế thường ít nói, hay buồn, hay tránh những cuộc tụ họp đông đảo của học sinh, thanh niên. Trong thời kỳ này, Vân Anh gặp Lê Mậu Thành và yêu Thành, sau đó Lê Mậu Thành ra vùng ta thì Vân Anh cũng sang Pháp. Theo sự điều tra của ta thì thời kỳ Vân Anh ở Pháp, chủ yếu là cô ả đi học chứ chưa có hoạt động gì cho bọn đế quốc cả. Lúc sang học ở Cambridge thì có hiện tượng hay vào phòng thông tin Mỹ mượn sách báo. Mùa hè năm nay trước khi về nước, cô ả có sang Mỹ một tháng dưới danh nghĩa ở trong đoàn đi du lịch tìm hiểu nước Mỹ, do phòng thông tin Mỹ ở Anh tổ chức.
Việc sang Mỹ này Vân Anh không cho ai biết cả. Về nước cô ta có đến phòng thông tin Mỹ ở Sài Gòn vài lần. Theo phán đoán của tôi thì có thể là Vân Anh đã bị bọn tình báo nước ngoài mua chuộc trong thời kỳ ở Anh. Việc cô ta đến phòng thông tin Mỹ ở Sài Gòn chắc không phải chỉ là để mượn sách đọc báo, mà có thể là để nhận chỉ thị gì của bọn địch. Bởi vì rất nhiều tên gián điệp của Mỹ không bao giờ đến tiếp xúc trực tiếp với Tòa đại sứ Mỹ mà chỉ qua bọn đội lốt nhân viên phòng thông tin.
Đồng chí Vũ Long lắng nghe Trần Mai nói rất chăm chú. Mái tóc sớm hoa râm, trên khuôn mặt hãy còn trẻ của anh, hơi nghiêng nghiêng. Đôi lúc lông mày anh hơi cau lại như phân tích những sự việc Trần Mai kể, anh cầm bút ghi một vài chữ vào giấy. Khi Trần Mai nói xong, anh mỉm cười :
- Không phải có thể nữa đâu mà chính Vân Anh đã là người của tình báo nước ngoài rồi đấy.
Tài liệu của đỏng chí thu thập được và sự phán đoán của đồng chí về Vân Anh rất phù hợp với những điều đồng chí X.30 báo cáo về. Việc Vân Anh xin ra vùng ta nhờ đồng chí X.30, chúng ta cũng đã được biết trước. Nhưng cô ta ra đây mục đích gì là chúng ta chưa rõ. Việc xin phép ra này cũng là cách cô ta đánh một ván bài cao tay với ta đây. Vân Anh xin phép công khai chứ không lẻn ra bí mật vì biết rằng với sự kiểm soát chặt chẽ của ta, cô đi bí mật thì ta cũng biết và có thể ta sẽ vin vào cớ đó mà giữ cô ta lại, gây thêm nhiều rắc rối cho cô ta. Còn một điều nữa, nếu Vân Anh lẻn ra bí mật tiếp xúc với Lê Mậu Thành thì sẽ gây thêm cho ta mối nghi ngờ lớn đối với Thành - nếu chúng ta chưa hiểu biết gì về Thành. Cô ta xin phép công khai như thế này để dễ đánh lạc hướng chúng ta, làm chúng ta tin rằng một khi đi đàng hoàng như thế là không có ẩn ý gì như trăm nghìn người khác vẫn ra thăm người thân ngoài vùng ta. Nếu chúng ta không cho phép Vân Anh ra, Vân Anh vin vào cớ đó nói rằng chúng ta ngăn cản sự đi lại, chia cắt tình cảm gia đình, buông “bức màn sắt” - như bọn địch vẫn thường rêu rao một cách khả ố. Vả lại, như thế chẳng khác gì báo cho địch rằng ta đã biết cô ta là ai rồi và làm cho Lê Mậu Thành thấy động.
Trần Mai nhìn người thủ trưởng của mình và nhận xét thấy gần đây tóc Vũ Long lại thêm nhiều sợi bạc nữa. Anh nghĩ thầm: “Làm gì mà không sớm bạc đầu. Ngũ Tử Tư chỉ một đêm suy nghĩ, tóc đã trắng xóa hết, huống chi đằng này phải đối phó với những kẻ địch vô cùng nham hiểm độc ác, nhiều mưu sâu kế hiểm, len lỏi cài vào khắp nơi. Làm sao phân biệt được người ngay với kẻ gian?
Người ngay thì phải bênh vực, bảo vệ. Kẻ gian thì phải trừng trị, nhưng không phải đối phó với kẻ gian nào cũng giống với kẻ gian nào. Người làm công tác đặc biệt này phải hàng ngày hàng giờ luôn suy nghĩ, nhận xét, phán đoán, phân tích, tổng hợp đề ra biện pháp, kế hoạch... Mình đến năm bốn mươi tuổi cũng bạc đầu sớm mất”. Anh lại có thêm một nhận xét nữa về thủ trưởng của mình: “Mỗi lúc Vũ Long suy nghĩ thì nét mặt anh thật nghiêm nghị, già hẳn đi, nhưng khi anh cười lại thấy anh như trẻ hắn lại, niềm lạc quan, yêu đời ánh lên trong cặp mắt đen thông minh, với hàm răng trắng bóng của anh”. Trần Mai tự nhủ: “Công tác này làm người ta già trước tuổi nhưng mình lúc nào cũng phải giữ được lạc quan như anh ấy. Điều ấy thật là khó, tuy vậy đấy cũng mới chỉ là một nét của con người cách mạng”.
Thấy Vũ Long trở lại vấn đề Lê Mậu Thành, Trần Mai hỏi :
- Anh đã xác minh được vấn đề Lê Mậu Thành chưa?
- Vấn đề Lê Mậu Thành đã rõ rồi. Lê Mậu Thành tên thật là Lê Hùng. Bố hắn là Lê Dục, thường gọi là Hàn Dục, có đồn điền trồng cà phê ở Kon-tum và có nhiều ruộng đất ở Quảng Ngãi. Lê Mậu Thành là con thứ hai của Hàn Dục. Vào đảng Đại Việt Quốc xã khi Nhật sang, sau khi Nhật đầu hàng, hắn cùng đồng bọn tìm cách lẩn trốn. Hùng đổi tên là Lê Mậu Thành, giấu kín quá khứ, đi dạy học ở trường Khải Định. Hắn nổi tiếng nói chuyện hay, nên đã lôi kéo được một số thanh niên học sinh. Năm 1951, hắn bắt liên lạc với ta, bỏ dạy học, từ giã bạn bè ra vùng giải phóng xin tham gia kháng chiến.
Chúng ta đã đón tiếp hắn niềm nở, theo nguyện vọng muốn tham gia công tác của hắn, xếp hắn công tác ở cơ quan giáo dục. Hai năm nay, ở co quan hắn làm việc rất tích cực, chứng tỏ có nhiều khả năng, hay đi lại thăm hỏi săn sóc anh em, được anh em trong cơ quan tín nhiệm. Nhưng nghiên cứu lý lịch tự khai của hắn, ta thấy hắn giấu cái quá khứ tham gia Đảng Đại Việt mà hắn tưởng ta không biết. Đồng thời bảo vệ cơ quan cho biết hắn thường xuyên lân la tiếp xúc với nhiều người trong đó có một số phần tử có nghi vấn về thái độ chính trị. Những điều ấy làm chúng ta phải nghiên cứu. Một thời gian chúng ta chưa kết luận được gì về Lê Mậu Thành vì thấy hắn hoàn toàn không liên hệ gì với tay chân của bọn Phòng Nhì Pháp cả, trong khi hầu hết bọn Đại Việt khác đều chuyển sang làm tay sai cho Pháp. Gần đây theo bản báo cáo của đồng chí X.30, thì ra hắn là người của Ngô Đình Diệm cài vào hàng ngũ ta...
Sở dĩ ta vẫn để Lê Mậu Thành ở đây vì muốn theo dõi thêm hoạt động của hắn, để có những chứng cứ cụ thể mà hắn không chối cãi được và xem đồng bọn của hắn như thế nào? Ta phải phán đoán xem mục đích của Vân Anh gặp hắn để làm gì? Có phải là vì tình yêu hay đây chỉ là mối dây liên lạc đầu tiên giữa bọn gián điệp.
Hai người cùng im lặng. Từ bên ngoài một tiếng chim hót lảnh lót bay vào.
Trần Mai hỏi :
- Bên ủy ban hỏi chúng ta có cho phép Vân Anh vào thăm Lê Mậu Thành không? Chúng ta sẽ trả lời ủy ban như thế nào?
Giọng Vũ Long cương quyết :
- Chúng ta sẽ cho phép Vân Anh vào gặp Lê Mậu Thành. Chúng ta làm cho chúng tưởng rằng chúng ta không nghi ngờ gì cả. Quyết định như thế này: Tôi sẽ báo cho ủy ban biết ý kiến của chúng ta, đề nghị ủy ban cứ cho phép Vân Anh vào chiến khu thăm Thành. Còn đồng chí trực tiếp đến cơ quan Lê Mậu Thành đang công tác, hoàn toàn giữ bí mật chuyện Vân Anh vào thăm Thành, đề nghị cơ quan chuyển ngay bộ phận của Thành làm việc ra một chỗ khác thật xa nơi cơ quan đang đóng, lấy cớ vì lý do an ninh. Sau khi chuyển xong độ một tuần lễ thì ta cho Vân Anh vào. Đồng chí sẽ đến chỗ Thành vừa đến đóng vai... (Vũ Long nói nhỏ vào tai Trần Mai). Đồng chí đề nghị với cơ quan giáo dục đón tiếp Vân Anh thật tốt. Sau đó, kế hoạch cụ thể sẽ như thế này.
* * * * *
Vừa bước chân ra khỏi dãy lán tập thể, Vân Anh kêu lên ngạc nhiên, như phát hiện ra một điều kỳ lạ :
- Trời ơi, trăng đẹp quá!
Cô đứng sững lại, Lê Mậu Thành cũng đứng lại.
Trăng đẹp thật. Trăng mười sáu vừa mới lên, tròn vành vạnh. Trời xanh ngắt, rộng mênh mông, những vì sao mờ đi nhấp nháy lảng ra xa.
Ánh trăng phủ một màu sáng xanh huyền ảo lên cảnh vật như trong mơ. Bóng tối nấp vương vất trong các lùm cây càng làm tăng thêm nửa mộng, nửa thực. Mỗi lúc gió thổi qua các lùm cây, những chiếc lá xao động run rẩy, ánh trăng ùa vào vờn nhau với bóng tối, rồi sau đó trăng lại bát ngát, bao la.
Vân Anh nói :
- Bao nhiêu năm rồi sống ở thành phố, nhất là các thành phố châu Âu toàn ánh đèn nê-ông, em chưa bao giờ được nhìn cảnh trăng sáng đẹp như thế này. Anh có thấy đẹp không?
Lê Mậu Thành đáp :
- Đối với anh có lẽ quen rồi, anh không thấy nó đẹp như em. Anh chỉ thấy ở chiến khu này đêm nào không có trăng khổ lắm, đi lại phải mò mẫm. Những đêm có trăng, sinh hoạt được thuận lợi hơn nhiều.
Hai người qua một khoảng đất trống, đi trên con đường dẫn ra ngoài cánh đồng mênh mang ánh trăng. Trăng vương lên mái tóc, vai áo họ. Trăng vương lên mỗi bước chân của họ.
Vân Anh đã viết đơn gửi Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Thừa Thiên xin vào vùng giải phóng thăm Lê Mậu Thành. Hàng ngày có nhiều người ở quê ngoại Vân Anh thuộc xã Nguyên Thủy lên Huế bán thực phẩm. Vân Anh nhờ bà dì ở xã lên chuyển hộ lá đơn ấy thông qua Ủy ban Hành chính Kháng chiến Hương Thủy đến Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh.
Khi nhận được giấy phép do Ủy ban Hành chính Kháng chiến tỉnh Thừa Thiên cấp, cũng là do bà dì đưa lại, Vân Anh liền thay đổi quần áo, mặc một chiếc áo tím sẫm, một chiếc quần đen, tóc cặp sát mái đầu như hầu hết những phụ nữ lao động ở nội ngoại thành phố Huế, theo bà dì về làng. Ở lại nhà bà dì một buổi chiều, đợi lúc gà vào chuồng, cô mới lên đường theo một người du kích đến đón.
Đường đi lên xuống gập ghềnh, khúc khuỷu. Trời tối. Trong đời Vân Anh chưa bao giờ cô vất vả khó nhọc như thế. Nghĩ đến việc sắp được gặp Lê Mậu Thành, Vân Anh cố theo kịp người du kích dẫn đường. Người này thoăn thoắt bước đều, thỉnh thoảng đứng lại chờ cô. Vấp mấy cái suýt ngã, Vân Anh không dám bật lên tiếng xuýt xoa. Một tràng đạn liên thanh nghe như từ ven nội thành Huế vọng lại. Ánh pháo sáng run rẩy trên đồn xa xa.
Thỉnh thoảng đi gần một làng nào đó, hai người gặp một người du kích như từ trong bóng tối tách ra chặn lại hỏi giấy, rồi người du kích đó biến mất vào trong bóng tối. Một đoàn hơn chục người, có mang súng và lựu đạn lặng lẽ như những cái bóng đi ngược về phía Vân Anh và người du kích dẫn đường. Không có một tiếng chó sủa. Một nỗi lo sợ bâng quơ, một sự hồi hộp trước những điều mới lạ choáng ngập tâm hồn Vân Anh.
Vào khoảng hơn ba giờ sáng, Vân Anh đến chiến khu Dương Hòa [1]. Cô gặp các đồng chí công an ở trạm tiền tiêu. Sự tò mò kích thích Vân Anh cao độ. Đây là những người kháng chiến! Đây là những người Cộng sản.
Đây là những người xuất quỷ nhập thần đã làm tan rã sự thống trị của người Pháp trên đất này. Đây là những người mà báo chí sách vở Pháp và nước ngoài, tùy theo quan điểm của người viết, mỗi người nói một cách khác nhau. Đây là những người mà cô coi là kẻ thù... Vân Anh chăm chú quan sát những người kháng chiến đầu tiên mà cô gặp. Họ đều mặc quần áo may bằng thứ vải sita [2]. Người nào cũng sạm nắng gió nhưng họ luôn tươi cười. Cô hơi ngỡ ngàng ngạc nhiên. Các đồng chí công an đưa cô vào nghỉ tại nhà tiếp khách và báo tin cho Lê Mậu Thành biết. Khoảng 9 giờ sáng, Lê Mậu Thành ra đón Vân Anh.
Họ gặp nhau trong phòng tiếp khách của trạm công an. Nói là phòng tiếp khách cho đúng nghĩa thôi chứ thật ra là một cái phòng nhỏ dựng bằng tre, lợp lá. Trên vách có treo một bức ảnh Hồ chủ tịch. Đồ đạc giản dị nhưng sạch sẽ. Một bộ bàn ghế gỗ mộc trên có ấm chén và phích nước.
Vừa trông thấy Vân Anh, Lê Mậu Thành rất kinh ngạc kêu lên :
- Trời ơi, em!
Vân Anh cũng nghẹn ngào :
- Anh!
Cô ngắm Thành từ đầu đến chân. Cô thấy Thành gầy và đen đi nhiều so với hồi ở Huế nhưng rắn rỏi, nhanh nhẹn hơn trong bộ quần áo nâu sẫm, đi dép lốp như tất cả các bộ đội kháng chiến khác.
Lê Mậu Thành đón Vân Anh về nơi cơ quan mình đóng.
Những người trong cơ quan Thành đón Vân Anh với thái độ nồng nhiệt. Mọi người trong cơ quan quý Vân Anh như người nhà của họ ra thăm họ chứ không phải coi Vân Anh chỉ ra thăm riêng Thành. Họ nhất định bắt Thành phải nghỉ công tác ngày hôm đó để tiếp Vân Anh. Họ thu xếp chỗ nghỉ ngơi cho cô. Ai cũng lưu cô ở lại chơi mấy ngày. Tất cả những điều phỏng đoán của Vân Anh trước khi ra đây và những tính toán đối phó của Vân Anh đều bị lật nhào. Vân Anh rơi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vân Anh trở nên bị động, lúng túng. Vân Anh lúng túng nhiều khi mọi người, rất tự nhiên, hỏi thăm tình hình sức khỏe gia đình Vân Anh. Vân Anh đã phải nói dối và một điều ngạc nhiên đối với Vân Anh nữa là trước đây cô cứ tưởng cán bộ Việt Minh đều là những người vô học thì bây giờ Vân Anh thấy ngược lại. Họ đều là những người biết khá sâu về mọi vấn đề. Trong đám người ấy, Lê Mậu Thành “của mình” không phải là người trí thức nổi bật như cô vẫn hình dung. Tất nhiên cô vẫn không lúc nào quên đây là những kẻ thù của cô, nhưng Vân Anh cảm thấy lo sợ, một nỗi lo sợ cô đơn của bất cứ ai đứng trước một kẻ thù vững vàng, mạnh mẽ hơn mình tưởng.
Bữa cơm chiếu hôm đó, vì cô là khách nên mâm cơm của cô có thêm một bát canh cá. Ăn cơm xong. sau khi quây quần bên ấm nước chè, nói chuyện vui, mọi người kiếu từ về nơi mình làm việc, để Lê Mậu Thành và Vân Anh tự do nói chuyện. Hai người rời khỏi lán đi chơi giữa lúc trăng đang lên.
Suốt ngày, vì mới gặp nhau, vì hoàn cảnh khách quan không tiện, vì phải tiếp các cán bộ trong cơ quan đến hỏi thăm, hai người giữ ý chưa nói chuyện nhiều với nhau, tuy vẫn thấy có những điều muốn nói với nhau ngay.
Bây giờ chỉ còn có trăng với họ.
Họ bước trong ánh trăng như trong một làn sương mờ. Lán cơ quan đã lùi xa về phía sau. Sự tĩnh mịch càng làm tăng thêm vẻ huyền ảo.
Lê Mậu Thành có vẻ trầm ngâm trong khi Vân Anh không nén nổi sự hồi hộp. Có người thiếu nữ nào đi bên cạnh người yêu trong một đêm trăng mà không hồi hộp.
- Chắc anh không ngờ em ra gặp anh phải không?
Vân Anh hỏi.
Thành gật đầu :
- Anh cứ tưởng em vẫn còn ở bên Pháp. Anh không ngờ em đã về nước rồi, trong khi anh đã ở một trận tuyến khác.
- Anh ạ. Khi tình yêu đã lên tiếng gọi thì người ta có thể đi đến chân trời góc biển tìm nhau.
- Cảm ơn em. Anh sẽ xứng đáng với tình yêu của em.
- Suốt thời gian em ở nước ngoài, em nhớ anh vô cùng. Em chỉ giận anh khi bỏ ra đây, anh không nói gì cho em biết trước, thậm chí không cho em được gặp một lần cuối cùng.
- Em hiểu cho anh, lúc ấy anh đi vội quá. Có liên lạc anh phải lên đường ngay. Vả lại, việc anh đi theo kháng chiến, sợ em không đồng ý... Anh xin lỗi em.
Vân Anh im lặng. Cô đi sát vào Lê Mậu Thành. Trăng đã lên cao hơn.
- Bây giờ thì em quên rồi. - Vân Anh nói. - Em quên hết những gì đã qua rồi. Bây giờ, em chỉ biết em đang ở bên anh. Khoảng cách về không gian và thời gian giữa hai chúng ta không còn nữa. Em vẫn yêu anh. Em muốn chung sống với anh. Cho nên vừa ở nước ngoài về, em đi tìm anh ngay.
- Anh cũng rất yêu em. Nếu không được chung sống với em thì cuộc đời anh sẽ không bao giờ biết thế nào là hạnh phúc cả. Nhưng em biết đấy, anh đang là người kháng chiến mà em thì chắc không thể ra ngoài này ở với anh được...
Vân Anh lắc đầu :
- Anh nói đúng. Em ra ngoài này ở thế nào được. Mọi cái ở đây đều không hợp với em. Từ cách sống đến nếp suy nghĩ, những người ở đây khác xa em. Chẳng lẽ em quên mối thù của gia đình em hay sao? Anh Thành, anh hãy về Huế cùng em. Chúng ta yêu nhau, chúng ta đừng nên để tuổi trẻ chúng ta qua đi. Anh hãy về cùng em. Ở đây gian khổ lắm, anh gầy đi nhiều quá. Anh hãy về cùng em. Chúng ta sẽ xây dựng gia đình. Chú em có thể bảo đảm cho anh, nếu anh muốn đi làm. Chắc chắn anh sẽ có một cương vị xứng đáng với tài năng của anh. Nếu anh không muốn ở trong nước, chúng ta đi ra nước ngoài, chúng ta sẽ sống trọn đời hạnh phúc.
Lê Mậu Thành hơi cúi đầu xuống :
- Em xui anh về thành theo Pháp ư. Không. Anh không thể trở về được. Trước sau Pháp sẽ thua. Anh rất yêu em nhưng anh không thể vì yêu em mà phản bội lý tưởng của anh. Nếu em yêu anh, em hãy cố gắng đợi anh cho đến khi nào anh làm xong sự nghiệp lớn. Ngày ấy, không còn bao lâu nữa. Ngày ấy chúng ta chung sống với nhau mới hoàn toàn hạnh phúc.
Vân Anh chớp chớp mắt. Cô khẽ thở dài. Câu nói của Lê Mậu Thành làm cô nảy ra một ý định mới. Cô ngước mắt nhìn Thành hỏi :
- Anh có quen Phan Phúc Định không?
Lê Mậu Thành ngạc nhiên nhìn vào mắt Vân Anh thăm dò. Hắn chỉ thấy đôi mắt cô đọng ánh trăng long lanh. Hắn hỏi lại :
- Nhưng tại sao tự nhiên em lại hỏi anh như thế?
- Em chợt nhớ ra.
- Em nhớ ra cái gì? - Lê Mậu Thành căn vặn.
- Em chợt nhớ ra khi anh nói đến “làm xong sự nghiệp lớn”. Nhưng anh hãy trả lời em đi: Anh có quen Phan Thúc Định không đã.
Lê Mậu Thành cau mày, cố suy nghĩ :
- Em hỏi để làm gì đã?
Vân Anh vừa nói vừa nhìn Thành :
- Trước khi ra đây, em có gặp Phan Thúc Định. Định nói có quen anh và nhắn em nói hộ với anh rằng: “Người bạn cũ của Thành nhà ở bên núi Ngự Bình có lời hỏi thăm và muốn biết anh Thành đã làm xong sự nghiệp lớn chưa?”.
Nét mặt Lê Mậu Thành hiện rõ nét vui vẻ :
- À, à... Phan Thúc Định là bạn rất thân với anh. Thế bây giờ anh ấy ra sao? Làm gì rồi?
- Anh ấy vừa tốt nghiệp luật khoa tiến sĩ và cũng mới về nước. Hiện nay anh ấy chưa nhận được chức vụ gì của chính phủ Bảo Đại. Anh ấy nói còn tiếp tục đi nghiên cứu thêm luật pháp ở một số nước...
- Em về nói với anh Phan Thúc Định hộ anh là anh cảm ơn anh ấy hãy còn nhớ đến anh. Em nói hộ: “Anh không bao giờ từ bỏ sự nghiệp anh đang theo đuổi cả. Sự nghiệp lớn nằm trong tay những người quyết tâm. Sự nghiệp lớn của anh sắp hoàn thành rồi”. Anh sẽ đi theo kháng chiến đến cùng.
Thành ngừng lại một lúc, thấy Vân Anh không tỏ thái độ cũng như không hỏi gì, hắn thong thả nói tiếp :
- Anh rất cảm động thấy Phan Thúc Định hỏi thăm anh.
[1] Một chiến khu nổi tiếng nằm về phía tây Thừa Thiên có chợ và hàng quán.
[2] Một loại vải nội hóa phổ biến trong vùng giải phóng Bình Trị Thiên và Liên khu V thời chống Pháp.
Xem tiếp chương 4
Last edited by khungcodangcap; 05-10-2008 at 04:52 PM.
Lê Mậu Thành cầm một gói giấy nhỏ bước vào phòng làm việc của đồng chí Nguyễn Phong - thủ trưởng cơ quan - đang lúi húi ghi chép trên quyển vở. Nghe tiếng gõ cửa, đồng chí Nguyễn Phong đứng lên. Thấy Thành, anh đứng dậy, niềm nở :
- Mời anh vào chơi. Chị Vân Anh về rồi phải không anh. Mời anh ngồi.
Lê Mậu Thành gật đầu :
- Vâng, cô ấy đi đêm hôm qua. Vì khuya không dám làm phiền anh nên cô ấy nhờ tôi sáng nay chuyển đến anh lời cảm ơn anh và các anh, các chị trong cơ quan đã đón tiếp cô ấy niềm nở trong mấy ngày vừa qua.
Vẫn giọng cởi mở, Nguyễn Phong nói :
- Có gì đâu mà phải cảm ơn. Chiều hôm qua chị ấy cũng có đến đây gặp tôi gởi lời chào trước. Tôi có nói chuyện với chị ấy và nhờ chị ấy chuyển hộ lời chúc sức khỏe của chúng tôi đến gia đình chị ấy. Tôi cũng xin lỗi chị ấy vì hoàn cảnh kháng chiến còn đang gian khổ, khó khăn, chúng tôi lại bận quá, nên việc đón tiếp chị ấy thế nào cũng có điều sơ xuất.
Lê Mậu Thành dè dặt :
- Cô ấy có nói chuyện gì với anh không?
- Chị ấy nói với tôi là rất sung sướng được gặp anh, thấy anh mạnh khỏe. Hồi ở nước ngoài, chị ấy thú thực không tưởng tượng nổi cuộc sống kháng chiến của chúng ta vẫn ung dung, lạc quan như thế này. Nhiều điều làm chị ngạc nhiên. Chị ấy nói: rất tự hào vì anh đã đi theo kháng chiến.
Thành hơi nhếch miệng cười :
- Vâng, cô ấy cũng nói với tôi như vậy.
Hắn đặt cái gói nhỏ trên góc bàn giấy của Nguyễn Phong, móc túi lấy ra một bao thuốc lá Philips, đưa cho anh :
- Đây là quà cô ấy mang ra.
Nguyễn Phong không cầm bao thuốc nói :
- Cảm ơn anh, tôi có nghiện đâu. Thỉnh thoảng, vui anh em thì tôi hút một điếu thôi. Anh giữ mà hút. Hôm trước chị Vân Anh cũng mang cho tôi mấy bao, tôi chia đều cho anh em cả.
- Tôi hãy còn anh ạ. Đây là phần riêng của tôi để dành biếu anh.
Nguyễn Phong đỡ lấy bao thuốc, nhẹ nhàng bóc một đầu bao, rút ra một điếu.
- Tôi xin anh một điếu vậy. Dứt khoát tôi không nhận đâu. Không hút để nó mốc thì phí đi.
Anh trao lại bao thuốc cho Thành. Không biết làm thế nào hơn, Thành đành phải nhận lấy nó. Hắn mở bọc giấy trên bàn :
- Tôi thấy có bổn phận phải báo cáo với anh: Vân Anh đã mang ra làm quà cho tôi một số thứ. Ngoài thuốc lá, đường sữa ra, cô ấy tặng tôi một chiếc đồng hồ Movado, một đôi bút máy Parker 51, một cái bật lửa Flammarion. Tôi từ chối nhưng cô ấy không nghe. Tôi không muốn giấu cơ quan điều gì và xin mang nộp lại toàn bộ những vật ấy cho cơ quan. Anh nhận hộ.
Nguyễn Phong chăm chú nghe. Cặp mắt anh thờ ơ nhìn chiếc đồng hồ đeo tay, hộp bút máy, chiếc bật lửa sáng óng ánh trên tờ giấy Lê Mậu Thành vừa giở ra. Anh mỉm cười bảo Thành.
- Không. Những vật này là của Vân Anh tặng anh, là thuộc quyền sở hữu của riêng anh, anh cứ việc giữ lấy mà dùng. Anh báo cáo lại chúng tôi biết thế này là tốt rồi.
Lê Mậu Thành cũng cười :
- Tôi vẫn thấy phải báo cáo đầy đủ với anh. Vì những đồ ăn, thức uống không sao, nhưng những đồ dùng loại này tôi không dám giữ, sợ một vài anh em nào đó trong cơ quan không hiểu rõ lại thắc mắc.
Nguyễn Phong gạt đi :
- Không. Anh không phải lo gì điều ấy. Anh cứ giữ mà dùng. Anh em ở đây đều hiểu anh cả.
- Vâng. tôi cũng biết anh em trong cơ quan của ta phần lớn là trí thức - Thành đưa đà theo câu nói của Nguyễn Phong.
Có tiếng lao xao ở ngoài hè nhà, ai hỏi và ai trả lời một câu gì đó rồi một người ngoài ba mươi tuổi, tầm thước, da ngăm đen, mất sáng và tươi, mặc bộ quần áo nâu, đeo sắc-cốt hiện ra trước khung cửa làm việc của Nguyễn Phong. Thành gói mấy đồ vật của Vân Anh tặng vào tờ giấy, định đứng dậy. Nguyễn Phong giữ hắn lại :
- Anh cứ ngồi chơi. Đây là Lê Quang, cán bộ ủy ban về kiểm tra tình hình và bàn phương hướng phát triển các ngành trong khu vực chúng ta.
Lê Quang bước vào với nụ cười cởi mở trên khuôn mặt nắng gió :
- Xin lỗi, các anh có nói chuyện gì riêng không?
Nguyễn Phong nắm chặt tay Lê Quang rồi giơ tay giới thiệu Thành :
- Chúng tôi nói chuyện xong rồi. Mời anh vào. Xin giới thiệu với anh: giáo sư Lê Mậu Thành, một trí thức nổi tiếng ở Huế trước đây.
Lê Quang niềm nở bắt tay Thành :
- Tôi nghe tiếng anh đã lâu, hôm nay mới được gặp mặt. Tôi cũng là người sinh trưởng ở Huế.
- Tôi cũng rất sung sướng được quen biết anh. - Lê Mậu Thành đáp.
Nguyễn Phong nói đùa :
- Hai anh ở cùng một thành phố, lại cùng họ Lê cả, có khi có họ hàng với nhau mà không biết đấy. Anh Quang sẽ ở lại công tác trong cơ quan ta vài ngày. Hay là trong thời gian ở đây, anh Quang ở cùng phòng với anh Thành cho vui. Đồng chí Đông, người ở cùng phòng với anh Thành, đi công tác hơn tuần nay chưa về.
Quang gật đầu :
- Nếu thế thì còn gì bằng nữa. Tôi có bạn để nói chuyện rồi. Tôi nhớ những kỷ niệm về Huế lắm.
Tối hôm đó, cơ quan tổ chức nói chuyện thời sự. Mọi người trong cơ quan đều tập trung ở hội trường. Lê Quang không tham dự buổi nói chuyện đó, ở nhà làm việc.
Chín giờ rưỡi, buổi nói chuyện kết thúc. Lê Mậu Thành về đến phòng mình vẫn thấy Quang một mình, một ngọn đèn, hí húi đọc và ghi chép. Liếc nhanh mặt trên đầu mấy tài liệu đánh máy Lê Quang đặt trước mắt, Thành thấy rõ có dấu chữ nhật đóng đỏ chói hai từ “Tối mật”. Làm như không đến ý đến, Thành hỏi :
- Anh chưa đi nghỉ?
Quang vừa trả lời Thành, vừa xếp những giấy tờ cẩn thận cho vào sắc-cốt :
- Chưa anh ạ, tôi thường quen làm việc khuya.
- Anh cứ làm việc tự nhiên.
Quang treo sắc-cốt lên một chiếc đinh ở trên đầu.
- Thôi, anh ạ. Hôm nay đi nhiều tôi hơi mệt. Tôi có mang theo ít chè ngon, pha một ấm, vừa uống, vừa đợi anh đây.
Thành hưởng ứng :
- Tôi cũng có ít thuốc lá ngon đặc biệt. Mọi tối, không có sinh hoạt, học hành gì, anh em cũng thường quây quần nhau quanh ấm chè nói chuyện.
Thành đặt lên bàn bao thuốc lá Philips. Quang ngạc nhiên :
- À, thuốc lá đặc biệt thật. Ở đâu ra thế này?
- Của người yêu cho - Thành đáp.
Quang cầm phích đổ thêm nước sôi vào ấm chè. Anh tráng hai cái chén con :
- Chắc chị ấy ở trong nội thành gửi ra.
- Không, cô ấy vừa mới ra thăm tôi.
Quang rót nước chè ra chén :
- Xin mừng anh. Chị ấy lại về ngay rồi à?
- Vâng, cô ấy vừa mới đi đêm qua.
Quang nâng một chén nước đưa cho Thành :
- Anh uống thử xem chè này có ngon không? Tôi thích uống chè từ hồi ông thân sinh ra tôi còn sống, hay bắt tôi đứng hầu chè. Uống chè ngon và được đọc thơ hay là sở thích duy nhất của cụ...
Câu chuyện của hai người trở về những phong tục, tập quán cổ của Huế, những món quà đặc biệt của chợ Đông Ba, những buổi chiều mùa hè hóng mát trên cầu Tràng Tiền, những tiếng hò buồn bã mênh mông chạy dài trên dòng sông Hương, những bức tường thành cổ rêu phong đứng trầm tư chứng kiến sự diệt vong của triều đại phong kiến cuối cùng, những con đường lấp loáng nắng, rì rào tiếng gió thở than trên vòm cây thông của các lăng tẩm vua Nguyễn, những buổi tan học đường phố chao đảo bởi những cái nón bài thơ và sáng rực màu tím áo dài của các cô nữ sinh trung học.
Lê Mậu Thành rất thích giọng nói về Huế say sưa chứng tỏ một tình cảm yêu mến đặc biệt đối với thành phố mình sinh ấy của Lê Quang. Càng nói chuyện, Thành càng thích Quang vì thấy Quang có một tâm hồn văn học, một trí thức về lịch sử khá sâu sắc mà Thành có thể nói chuyện tương đắc cả đêm không biết chán.
Câu chuyện dẫn dần đến tình cảm riêng tư, Thành hỏi về gia đình Lê Quang và được biết Quang chưa lập gia đình riêng. Trước khi đi theo kháng chiến, anh có yêu một cô gái thuộc dòng tôn thất. Hai người quen nhau từ hồi cùng học trường Quốc học. Kháng chiến bùng nổ, mỗi người đi theo một con đường.
- Cô ta là Công Tằng Tôn Nữ - Quang nói - tâm hồn rất lãng mạn, khi trước yêu nhau, chúng tôi tưởng không bao giờ có thể xa nhau được và chỉ cần sống với tình yêu thôi. Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra trước mặt tôi một chân trời mới. Tôi thấy có cái còn cao đẹp hơn, tôn quý hơn tình yêu rất nhiều. Đó là Tổ quốc, là dân tộc.
Đang tuổi thanh niên, nhiệt tình hăng hái, tôi lao vào những hoạt động xã hội. Tất nhiên chúng tôi ít có thời gian đi chơi, gặp gỡ nhau hơn trước. Điều ấy, làm cô ta không bằng lòng. Nhưng làm thế nào được? Cách mạng vừa thành công, công việc bề bộn sôi nổi, việc gì cũng cần thiết, việc gì cũng quan trọng, việc gì cũng đòi hỏi phải làm ngay, ai có thể ngồi im được. Muốn gần nhau luôn, chỉ có một cách là cô ta cũng phải lao vào công tác như tôi. Tôi đã nghĩ đến điều đó. Anh bảo còn gì gần gũi đẹp đẽ bằng đi hoạt động cũng có nhau, đi họp hành cũng có nhau. Nhưng tôi không thể nào đưa cô ta ra khỏi được cái nhà đầy đồ đồng, tủ chè, sập gụ khảm xà cừ với những tập quán phong kiến nặng nề, với ông bố và bà mẹ luôn luôn tự hào về dòng giống tôn thất của mình, để tham gia những hoạt động xã hội được. Những lúc gặp nhau, tôi sôi nổi kể lại những hoạt động của tôi và lứa bạn trẻ cùng tuổi cho cô ta nghe thì cảm thấy những điều ấy không hấp dẫn đối với cô ta. Dần dân, tôi phát hiện rằng: nếu Cách mạng tháng Tám mở ra cho tôi một cuộc sống mới say sưa, tự hào, đầy ý nghĩa thì đối với gia đình cô ta, với bản thân cô ta như có cái gì mất mát, sứt mẻ. Trong khi tôi sôi nổi thì cô ta dè dặt. Trong khi tôi muốn hát thật to ca ngợi độc lập tự do thì cô ta im lặng nghe ngóng. Đến ngày toàn quốc kháng chiến thì tôi lên đường đi theo kháng chiến, còn gia đình cô ta ở lại thành. Con đường đến đây chia làm hai. Gần đây, tôi được tin cô ta lấy một viên sĩ quan ngự lâm quân của Bảo Đại và đã có hai con...
Lê Mậu Thành im lặng nghe. Thấy Lê Quang ngừng lại, hắn hỏi :
- Anh có buồn không?
Một nụ cười thoáng qua trên đôi môi Lê Quang :
- Cái gì tan vỡ mà chẳng buồn, huống chi là chuyện tình yêu. Nhưng tôi cũng rút ra được một kết luận cho bản thân tôi, xin lỗi anh hơi có vẻ triết lý một chút, là người ta chỉ có thể thực yêu nhau, thực sống với nhau có hạnh phúc được khi mà thế giới quan, nhân sinh quan hợp nhau. Tư tưởng đã không hợp nhau thì trước sau cũng sẽ tan vỡ.
Câu chuyện riêng của Quang hình như tác động mạnh đến Lê Mậu Thành. Hắn trầm ngâm suy nghĩ rồi thong thả nói :
- Cái kết luận của anh đúng đấy. Tôi cũng ở trường hợp tương tự như anh. Bây giờ chưa tan vỡ, nhưng sợ sau này cũng tan vỡ mất.
Hắn chậm rãi kể cho Quang nghe câu chuyện tình duyên giữa hắn với Vân Anh. Chuyện những ngày yêu nhau thơ mộng ở Huế. Chuyện Thành cương quyết gạt bỏ tình riêng, gạt bỏ cuộc đời danh vọng, xe hơi, nhà lầu đi theo kháng chiến. Chuyện Vân Anh được chú cho sang Pháp học và mới đây tốt nghiệp, trở về đã ra chiến khu tìm Thành.
- Cô ấy vẫn đẹp như xưa, vẫn yêu tôi như xưa - Thành nói - Phải có một tình yêu chung thủy lắm, cô ấy mới vượt được tất cả cám dỗ của cuộc sống phồn hoa ở nước ngoài, mới vượt bao nhiêu khó khăn ra đây tìm gặp tôi. Nhưng giá cô ấy ra đây để đi theo kháng chiến cùng với tôi thì đáng quý biết bao nhiêu. Tôi sẽ yêu cô ấy hơn biết bao nhiêu lần. Đằng này, không thế. Tôi thú thực riêng với anh điều này: cô ấy lại rủ tôi bỏ kháng chiến về nội thành sống với cô ấy.
Cô ấy nói đến tháng trăng mật ở Ni-xơ, nói đến một căn biệt thự xinh xắn bên bờ sông Hương, một chiếc xe hơi du lịch kiểu mới cho hai vợ chồng, nói đến cái bục giảng dạy ở một trường đại học nào đó với số lương hơn chục ngàn đồng. Những cái ấy tôi biết cả rồi và tôi đã bỏ tất cả để đi theo kháng chiến vì tôi nghĩ như một nhà thơ đã nói: “Ôi, nhà lầu vợ đẹp làm chi? Khi dạ vẫn ngậm sầu hồn đất nước”. Những cái ấy không thể làm xóa mờ được lý tưởng tôi đã theo. Trước đây, ở Huế, đã sống giữa cảnh nhà cao, cửa rộng đầy đủ tiện nghi như thế, tôi có thấy sung sướng hạnh phúc đâu khi quanh tôi bọn cướp nước ngang nhiên giày xéo tổ quốc tôi, đồng bào tôi đang vùng dậy đấu tranh. Cô ấy mang cho tôi nhiều quà, đồng hồ, bút máy... Nhưng tôi dửng dưng vì tôi đã bỏ những thứ quý gấp hàng vạn lần mấy cái đồ lặt vặt đó để đi theo kháng chiến. Chẳng lẽ bây giờ tôi lại đi tham mấy thứ đó, coi chúng hơn nhân phẩm, danh dự của tôi? Tôi có nói nhiều với Vân Anh. Cô ấy không dám nói gì về việc tôi đã bỏ tất cả để đi theo kháng chiến nhưng vẫn khăng khăng là cô ấy không chịu được khổ; không thể theo tôi ra ngoài này sống được; lấy nhau, cô ấy muốn cuộc sống của hai người phải đầy đủ về vật chất, sống đầy đủ tiện nghi và cuộc sống ấy chỉ có thể có ở trong nội thành. Cô ấy nói với tôi: “Chúng ta xa nhau lâu rồi. Tuổi trẻ của người ta rất chóng qua. Em chỉ muốn từ nay về sau, chúng ta sống hoàn toàn bên nhau, bao nhiêu thời gian chúng ta đều để dành cho nhau. Chúng ta phải được hưởng sung sướng trong tuổi trẻ. Bao nhiêu người ở nội thành nhưng tâm hồn vẫn hướng về kháng chiến thì sao? Anh không muốn nhìn thấy bọn Pháp đốt phá đất nước thì chúng ta đi ra nước ngoài sống...”.
Lê Mậu Thành ngả người trên giường, bỏ lửng câu chuyện, kéo một hơi thuốc lá dài, mắt đăm đăm nhìn lên mái nhà. Quang hỏi :
- Anh trả lời chị Vân Anh sao?
Thành ném mẩu thuốc lá còn khá dài ra cửa, đáp :
- Tôi trả lời cô ấy: như thế là ngụy biện. Đã vào thành là theo địch rồi. Đi nước ngoài lúc này là trốn đấu tranh, trốn trách nhiệm đối với đất nước. Tôi không thể sống như thế được. Cuối cùng, cô ấy giận dỗi trở về.
Thành nói xong im lặng, mắt nhìn bâng quơ lên mái nhà. Quang cũng im lặng như thông cảm với sự đấu tranh dữ dội, sự dằn vặt ghê gớm đang diễn ra trong tâm tư Thành. Tiếng con mối chặc lưỡi trên xà nhà nghe rõ mồm một. Lát sau, Thành thở dài :
- Chưa ai trong hai chúng tôi, nói đến sự tan vỡ, mà tôi cảm thấy sự tan vỡ đã bắt đầu. Người ở một phương, người ở một phía, mỗi người đi theo một con đường, rồi mỗi người sẽ có một cuộc sống khác nhau. Nhưng tôi không thể nghe theo cô ấy được. Tôi không thể phản bội lại lý tưởng của tôi, không thể phản bội lại Tổ quốc để mong sống một cuộc sống sung sướng cá nhân.
Chung quanh vắng lặng, không có một tiếng động. Trời đã về khuya. Lê Quang bảo Thành :
- Tôi chắc anh sẽ buồn một thời gian nhưng tôi tin rằng cũng như tôi, anh sẽ tìm thấy niềm an ủi lớn trong công tác, trong tập thể. Tuy vậy, chuyện riêng tư của anh cũng có điều khác tôi.
Cô Công Tằng Tôn Nữ của tôi thì đi lấy chồng, có con chắc quên hết chuyện cũ rồi; còn chị Vân Anh thì vẫn yêu anh, vẫn chờ đợi anh. Nếu chị ấy tìm ra gặp anh lần nữa, anh thử cố gắng thuyết phục xem... Khuya rồi, chúng ta tắt đèn đi nằm nhé.
Thành như chợt nhớ ra :
- Vâng, xin lỗi anh, tôi quên mất hôm nay anh đi nhiều đã mệt rồi.
- Có gì đâu. Tôi cũng thích được nói chuyện với anh. Anh có tin tôi thì anh mới kể cho tôi nghe chứ. Mong sao được về công tác đây luôn để nói chuyện với anh.
Thành ngồi dậy buông màn chiếc giường cá nhân của mình. Quang cũng tắt đèn, lên giường mình buông màn.
Ánh trăng cuối tuần bị mây che làm cho nhợt nhạt hắt qua song cửa sổ tre vào một thứ ánh sáng mờ mờ ảo ảo. Đêm càng về khuya, sự im lặng càng mênh mông bao la, có lẽ đã quá hai giờ sáng. Tiếng thở của Lê Quang đều đều chứng tỏ anh đã ngủ say. Có tiếng động khẽ bên giường Lê Mậu Thành. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều, Lê Mậu Thành ngồi dậy. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Lê Mậu Thành vén màn, đặt chân xuống đất. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Lê Mậu Thành rón rén đứng dậy. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều, nhưng từ trong màn, mắt Quang hơi hé ra nhìn như dán chặt vào cái bóng mờ mờ của Lê Mậu Thành và chiếc sắc-cốt treo đầu giường. Lê Mậu Thành xỏ chân vào dép, rón rén... mở cửa đi ra ngoài. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều. Mấy phút sau, Thành từ bên ngoài vào. Tiếng cửa tre nhè nhẹ cót két. Tiếng chiếc then ngang lạch cạch cũng nhè nhẹ. Mắt Quang hết sức tập trung theo dõi cái bóng mờ mờ của Lê Mậu Thành. Nhưng cái bóng ấy rón rén đi về phía giường mình, chui vào trong màn, nằm xuống. Tiếng thở của Quang vẫn đều đều như ngủ say. Đêm hoàn toàn yên tĩnh.
* * * * *
Người thanh niên tên Lê Quang đang ngồi trước mặt Vũ Long. Vũ Long mỉm cười :
- Đồng chí Trần Mai, tiếp tục cho biết ý kiến đi chứ?
Trần Mai (vì chính người ấy là Trần Mai) đưa mấy bản báo cáo cho Vũ Long :
- Đây là những báo cáo của cơ quan Lê Mậu Thành. Đồng chí bảo vệ cơ quan không phát hiện thấy ở hắn điều gì khả nghi. Đồng chí Nguyễn Phong, thủ trưởng cơ quan nhận xét về tinh thần, thái độ công tác của hắn tốt. Anh em trong cơ quan đều có cảm tình với hắn. Việc Vân Anh ra thăm, hắn có báo cáo đầy đủ với cơ quan. Vân Anh mang ra tặng đồ vật gì, hắn đều báo cáo lại với đồng chí Nguyễn Phong và định nộp cho cơ quan giữ tất. Qua tiếp xúc trực tiếp, hắn tỏ ra phần nào là con người đứng đắn, có nhiều tình cảm, không tò mò gì về nội dung công việc của tôi, về những “tài liệu mật” tôi đọc. Thậm chí, việc Vân Anh rủ rê hắn về thành, việc ấy nói ra hoàn toàn không có lợi cho người yêu của hắn, hắn cũng không giấu giếm.
Vũ Long cau mày, suy nghĩ. Anh gõ nhẹ cái bút chì trên mấy tờ giấy báo cáo :
- Những vấn đề mà đồng chí vừa báo cáo đó chúng ta phải phân tích suy nghĩ thêm. Nhưng, tôi cần nhắc lại để đồng chí lưu ý với một người như Lê Mậu Thành, một người đã tôn sùng Ngô Đình Diệm và đã có một quá trình như hắn, thì không cho phép chúng ta suy nghĩ một cách đơn giản về hắn.
Sáng mai, đồng chí sẽ đến đây, chúng ta sẽ tiếp tục bàn thêm vấn đề này.
Xem tiếp chương 5
Last edited by khungcodangcap; 05-10-2008 at 04:55 PM.
Phan Thúc Định đi dọc từ khách sạn về phía cầu Tràng Tiền. Buổi sáng, gió sông Hương nhè nhẹ thổi mát rượi.
Sông Hương chia Huế ra làm hai khu rõ rệt. Bên kia là khu cung điện cũ của bọn vua chúa phong kiến với những bức tường cao, những mái nhà cong có rồng chầu, phượng múa, những gác vọng lâu cổ kính. Đi vào khu thành cũ, người ta có cảm tưởng sống lùi lại hàng thế kỷ, thơ đấy, vàng son của dĩ vãng đấy, nhưng mới nặng nề, tù túng làm sao. Những tòa cung điện, những bức tường thành rêu phong như đè trĩu mảnh đất xuống
Bên này sông là những công trình hiện đại, những cơ quan của bọn Pháp xây dựng như khách sạn, nhà bưu điện, nhà băng, sở lục lộ, tòa sứ, viện dân biểu, và các trường học như trường Đồng Khánh, trường Khải Định [1], trường kỹ nghệ... Nổi bật là một số đồn bót, trại lính mới.
Cầu Tràng Tiền nối liền hai khu với nhau. Phan Thúc Định nhìn những người qua cầu: người đi làm, người đi chợ, các em thiếu niên đi học. Phong cách chung của người Huế là ung dung, từ các bà mệ điếu thuốc lá phì phào trên môi cắp rổ đi chợ, đến các cô nữ sinh mặc áo dài màu tím Huế cắp cặp đến trường, không một ai lộ vẻ gì vội vã. Phan Thúc Định hít một hơi dài không khí trong sạch, dịu ngọt buổi sáng vào lồng ngực, bồi hồi nhìn hình ảnh cái thành phố quen thuộc đã gắn bó với anh bao nhiêu kỷ niệm từ thời thơ ấu, quen sống với cái không khí vội vã, tấp nập, khẩn trương, náo động những âm thanh của các thành phố châu Âu, châu Mỹ nên lúc mới trở về, anh hơi ngỡ ngàng với cái không khí hơi trầm lặng của Huế - mặc dầu thuở nhỏ, anh đã sống ở đây - cái ngỡ ngàng ấy anh không có khi về đến Sài Gòn. Sài Gòn là một thành phố gần với những thành phố châu Âu. Cũng không khí vội vã, khẩn trương. Cũng những tiếng động ầm ì cả ngày, cả đêm. Cũng những xe tắc xi đi lại như những con thoi. Cũng những ngôi nhà nhiều tầng. Cũng những ánh đèn nê-ông và nhạc nhảy điên dại ở các khu ăn chơi. Tất nhiên có vẻ lộn xộn hơn, nhiều nét lam lũ hơn.
Cái không khí hơi trầm lặng - với con người, với tiếng nói nhẹ, dáng đi khoan thai đến cảnh sinh hoạt cùng mang nhiều nét cũ của dân tộc - anh chỉ tìm thấy ở Huế. Cái ngỡ ngàng của anh mất đi nhanh chóng. Chỉ mấy ngày sau, anh cảm thấy tất cả tình cảm thân thuộc, sâu sắc đối với Huế trong con người anh trỗi dậy.
Và không khí trầm lặng của Huế đã đem lại cho anh những phút nghỉ ngơi đáng quý sau những ngày giờ sống căng thẳng ở các thành phố xa lạ, xa lạ cả người, xa lạ cả cảnh.
Đến cầu Tràng Tiền, anh ngừng lại. Anh ngắm trìu mến chiếc cầu sắt bắc qua dòng sông Hương êm đềm. Chiếc cầu là hình ảnh của Huế trong lòng bất cứ người Huế nào phải xa nơi sinh trưởng của mình như hình ảnh Tháp Rùa trong lòng người Hà Nội, như hình ảnh chợ Bến Thành trong lòng người Sài Gòn. Bao nhiêu chiếc cầu đẹp đẽ, to lớn khác anh đã nhìn thấy trên quãng đường phiêu lưu của anh vẫn không xóa mờ được hình ảnh chiếc cầu này, không để lại trong tâm hồn anh một ấn tượng không thể phai mờ, một niềm nhớ nhung da diết như chiếc cầu này. Vì chiếc cầu này là chiếc cầu quê hương.
Hai bên bờ sông Hương lác đác có những con đò nằm ngủ muộn, sau một đêm sa đọa. Những con đò biến thành những hộp đêm nổi mỗi khi bóng tối phủ trên mặt sông và trở thành trơ trẽn, lạc lõng, ngượng ngập mỗi khi mặt trời lên. Đó là nỗi xót xa cho những con người của thành phố Huế. Mấy cô nữ sinh trung học cắp cặp đi học qua trước mặt Phan Thúc Định. Những chiếc nón bài thơ, những tà áo dài, những dáng đi thướt tha như đem lại cho cảnh Huế buổi sáng một sức sống tươi mát. Sức sống hiện trên những đôi mắt thông minh, những nụ cười hàm răng trắng bóng của các cô. Qua câu chuyện ríu rít, thoáng nghe được, Phan Thúc Định thấy các cô đang nói về những tờ truyền đơn kháng chiến mà bàn tay bí mật nào đã dán trên các đường phố đêm qua. Các cô nói đến điều đó với một giọng vừa khâm phục, vừa say sưa. Phan Thúc Định mỉm cười. Bên trong cái vẻ trầm lặng bề ngoài của Huế, còn có một cuộc sống khác - một cuộc sống sôi sục như bên trong một núi lửa chưa có dịp phụt tung ra ngoài. Cái mạch ruột núi lửa ấy như đang chạy khắp vùng người Pháp còn chiếm đóng. Cho đến những ngày đầu năm 1954 này, mọi người đều cảm thấy những đồn bót của người Pháp đã rung rinh trên cái núi lửa khổng lồ đó.
Tiếng động cơ rầm rầm làm Phan Thúc Định quay lại. Một đoàn xe nhà binh Pháp chạy về phía An Cựu. Mở đầu là mấy xe thiết giáp chĩa lăm lăm trọng liên ra phía trước, xích sắt nặng nề nghiến xuống đường nhựa để lại những vết như dao băm. Theo sau là hơn hai chục chiếc xe vận tải GMC, xe nào cũng đầy bọn lính Pháp đội mũ sắt, quần áo dã chiến, trang bị đến tận răng, mắt như mắt những con thú dại. Cuối cùng là mấy chiếc háp-trắc lừ lừ vươn nòng pháo ra phía trước, ngất nghểu chiếc cầu thông tin dài ngoằng, bụi cuốn mù mịt. Một cuộc hành quân đi tiếp viện đâu đây? Chúng định đi bịt miệng núi lửa? Nhiều người đi đường dừng lại nhìn bọn chúng. Mọi người đều im lặng. Một sự im lặng đầy ý nghĩa.
Bất giác, Phan Thúc Định nhớ đến thời kỳ bọn thực dân Pháp mới trở lại năm 1946 mà anh đã được chứng kiến. Lúc ấy, cũng trên những chiếc xe nhà binh này còn nguyên màu sơn mới vừa ở nhà máy sản xuất của Mỹ ra, bọn lính Pháp mới vênh vang, đắc chí làm sao. Chúng ngồi trên xe đi duyệt binh và chúng tưởng tất cả đất nước này ở trong tay chúng. Tám năm qua, bao nhiêu những chiếc xe ấy đã biến thành thép rỉ, những chiếc còn lại bạc màu, lấm lem, ì ạch. Bao nhiêu tên lính ngồi trên xe vênh vang lúc đó đã biến thành xương mục, cỏ mọc xanh mồ. Những tên còn lại ngồi trên xe kia bơ phờ, hốc hác. Những chiếc xe chở chúng đi tiếp viện như chở chúng xuống địa ngục.
Bây giờ đến lượt người Mỹ...
Phan Thúc Định đi thẳng đến nhà bưu điện. Anh trả tiền rồi vào buồng thuê điện thoại (ở khách sạn anh trú cũng có điện thoại nhưng anh không muốn dùng). Khi có một mình ở trong buồng điện thoại, anh gọi số 377. Anh hỏi bằng tiếng Pháp :
- A lô. Có phải bàn giấy hãng “Pháp Quốc Hàng Không” không?
Tiếng một người phụ nữ Pháp ở bên kia đầu dây :
- Vâng, tôi nghe đây.
- Xin vui lòng cho tôi gặp ông phụ trách chi nhánh của hãng.
- Ông đợi một chút nhé.
Im lặng. Phan Thúc Định cầm ống nghe chờ. Hai phút sau, trong ống nghe có tiếng động. Tiếng một người Pháp hỏi :
- Alô, ai đấy?
- Có phải ông Rơ-nê đấy không?
- Vâng, tôi đây.
- Chào ông. Tôi là Phan Thúc Định đây.
- A... chào ông.
- Tôi xin báo để cho ông biết tôi chưa sử dụng được chiếc vé khứ hồi về Sài Gòn. Tôi có việc cần phải ở lại Huế mấy ngày nữa. Khi nào xong việc, tôi sẽ gọi dây nói báo ông chuẩn bị chỗ cho về Pháp ngay nhé!
- Vâng, có thế thôi ư? Ông có căn dặn gì thêm không?
- Vâng, có thế thôi. Xin cảm ơn ông và chào ông.
- Xin chào ông và chúc ông may mắn.
Phan Thúc Định rời nhà bưu điện. Anh quan sát một lượt những người xung quanh rồi lững thững đi qua nhà thờ Sainte Marie, xuôi xuống phía cầu An Cựu, đến một biệt thự hai tầng, có hàng rào sắt sơn đỏ lại có tôn che kín chung quanh, anh bấm chuông. Một người đầy tớ gái mở cửa. Lúc ấy, anh mới nhìn thấy Cao Xuân Đăng đang đứng thọc tay vào hai túi quần trên sân sỏi nói chuyện với một gã mặc quân phục rất thẳng nếp, vai đeo hai gạch vàng. Hai gã nhìn ra. Phan Thúc Định gật đầu chào, rồi hỏi người đầy tớ :
- Cho tôi hỏi cô Vân Anh có nhà không?
Người đầy tớ chưa kịp trả lời thì Cao Xuân Đăng đã nói vọng ra :
- Chào anh Định. Có phải anh hỏi cháu Vân Anh không? Cháu đi vắng, chưa về. Mời anh vào chơi đã.
Phan Thúc Định bước vào. Chiếc cổng sắt khép lại. Cao Xuân Đăng chìa tay bắt tay anh và giới thiệu :
- Đây là trung úy Thiệu, một người bạn của tôi. Đây là anh Phan Thúc Định, bạn của cháu Vân Anh, tiến sĩ luật ở Pháp về.
Định và gã trung úy bắt tay nhau. Đó là một gã ngoài ba mươi tuổi, mặt nhỏ và nhẵn nhụi, tóc đen mượt ép vào hai bên sọ, mắt bé có vẻ gian xảo, thâm hiểm. Cao Xuân Đăng giơ tay :
- Xin mời hai anh vào trong nhà chơi.
Phan Thúc Định hỏi :
- Tôi có làm phiền gì hai ông không?
- Không. Chúng tôi đang nói chuyện thời thế. Không có chuyện gì riêng tư đâu.
Vẫn cái phòng khách bày toàn đồ đạc cổ kính mà Phan Thúc Định đã nói chuyện với Vân Anh ở đây một lần. Cao Xuân Đăng bảo người đầy tớ gái pha trà. Ba người ngồi xuống ghế xa lông gỗ lát có phủ đệm bông. Trên bàn là bộ đồ trà, đĩa mứt sen và hộp thuốc lá “555”.
Tên trung úy nhón ngay hột mứt sen bỏ vào miệng :
- Anh Đăng có biết “maitre” [2] Phúc Sơn không? Người xem tướng và bói bài tây nổi tiếng từ hai mươi năm nay ấy mà. Hôm trước ghé qua Sài Gòn, vợ chồng tôi có nhờ lão coi tướng giùm.
- Hắn bảo anh sao?
- Chà chà, thằng cha nói giỏi thật.
Hắn giơ chiếc bàn tay trắng trẻo ra trước mặt mọi người :
- Hắn coi chỉ tay kết hợp với tướng mặt, tính tôi năm trăm đồng. Vợ tôi mất năm trăm đồng nữa là một ngàn. Mất một ngàn cũng đáng. Hắn nói rất đúng. Hắn bảo xưa nay số tôi rất an nhàn, có quý nhân phù trợ. Đúng vậy. Anh xem bao nhiêu lần chúng nó định đẩy tôi ra trận mà tôi cứ ngồi đàng hoàng chỗ tốt nhất trong cái đệ nhị quân khu này thôi. Các vị tướng Pháp đều quý hóa, yêu mến tôi. Trước đây, tướng Salan định giúp tôi vào quốc tịch Pháp. “Ma-phăm” [3] cứ xui tôi nhận lời. Tôi nghĩ kể ra nhập quốc tịch Pháp cũng có nhiều cái lợi, trước hết là người Pháp sẽ tín nhiệm hơn nhưng sau nghĩ mình còn là sĩ quan trong quân đội quốc gia thì chưa nên vào vội. Mình phải khôn khéo, tính sâu hơn đàn bà một chút chứ.
Cao Xuân Đăng mời trà. Tên trung úy vẫn say sưa ngắm bàn tay của mình và nói về mình :
- Phúc Sơn nói về tương lai của tôi mà tôi giật mình. Mới đầu, hắn tưởng hắn lầm không dám nói ra ngay. Về sau, hắn cứ chặc chặc lưỡi, dùng thước đo đi tính lại trên bàn tay của tôi, gặng mãi hắn mới nói số tôi về sau này giàu sang không biết thể nào mà kể hết, uy danh lừng lẫy. Không hiểu có nên tin hắn không nhưng về quá khứ hắn nói như thế rất là đúng. Vợ tôi cũng rất phục hắn. Sau khi co tướng cho vợ tôi rồi, hắn khẳng định lời tiên đoán của hắn về hậu vận tôi là đúng, vì số báo trước về hậu vận vợ tôi cũng rất phù hợp với tôi, hắn còn khoe với tôi là trước đây hắn đã từng coi tướng cho cả Quốc trưởng Bảo Đại, cả toàn quyền Brê-vi-ê và được hậu thưởng rất nhiều.
Tên trung úy có vẻ không thích uống trà, chỉ nhón mứt sen ăn, cũng như có vẻ không thích nói chuyện gì khác, chỉ thích nói về mình :
- Hắn có nói nhỏ với tôi một điều mà tôi suy nghĩ mãi. Hắn bảo lần này thì quý nhân phù trợ tôi không phải từ phương tây mà từ một phương trời xa hơn nữa đến. Khi gặp quý nhân thì phải biết lợi dụng ngay kẻo dịp may nhiều khi chỉ đến với người ta một lần thôi. Hắn có xin tôi ngày sinh tháng đẻ để lấy một lá số tử vi thì rõ ràng hơn và hẹn lần sau nếu tôi đến một mình, hắn có thể nói nhiều điều chi tiết hơn. Mất với hắn ngàn rưỡi đồng một lá số tử vi nữa, biết rõ quý nhân từ phương trời xa đến là ai?
Cao Xuân Đăng đưa đẩy :
- Có điều chắc chắn là: Với cái tài của anh, tôi tin rằng anh sẽ còn được thăng cấp nhiều.
Tên trung úy cười tự mãn :
- Thời thế này, người Pháp đang cần đến bọn mình. Anh xem đấy, khối thằng cha vô học chỉ là lính khố đỏ, cai đội khố xanh như mình bây giờ đã lên cấp tá, cấp tướng ầm ầm. Thật đúng là “thời thế tạo anh hùng”.
Cao Xuân Đăng rót thêm trà vào chén của Phan Thúc Định :
- Nhưng thời thế gần đây tôi lo lắm. Mấy mũi tấn công của tướng Na-va vào vùng địch đã không... thành công. Bọn lính đào ngũ nhiều lắm phải không?
Tên trung úy nhún vai :
- Ô, bao giờ chúng tôi chẳng đánh xong rồi lại rút. Những địa điểm nào không có lợi về chiến lược thì giữ làm gì. Còn bọn lính đào ngũ bao nhiêu thì bắt bọn khác thay vào. Chỉ càng giàu cho bọn OD [4] thôi.
À, hôm nọ có một phái đoàn quân sự Hoa Kỳ đến thăm bộ tham mưu đệ nhị quân khu chúng tôi, có lộ vẻ ngạc nhiên hỏi chúng tôi tại sao đi toàn xe “díp” cũ, vì họ giúp cho người Pháp toàn xe mới cả. Chúng tôi trả lời không biết... Mấy ngày hôm sau thấy người Pháp cho thêm năm xe “díp” mới nguyên.
Thấy câu chuyện như hết chỗ để khoe về cái tôi rồi, tên trung úy đứng dậy vuốt cái đầu mượt, cầm lấy cái mũ bình thiên có gắn huy hiệu hai con rồng châu vào một miếng ba vạch, đứng dậy :
- Thôi, xin phép, tôi phải về xem việc giải quyết cho mấy đứa cháu vào học trường Đalat xong chưa.
Hắn chìa tay bắt tay Cao Xuân Đăng và Phan Thúc Định.
- Ô-rơ-voa [5].
Cao Xuân Đãng tiễn hắn ra đến cửa. Lúc quay vào, Đăng nói như thanh minh với Phan Thúc Định :
- Trung úy Nguyễn văn Thiệu này là người nhiều thủ đoạn thâm hiểm lắm. Tuy giao thiệp tôi cũng chỉ quan hệ có mức độ thôi. Anh nghe nói chuyện thì biết tính nết anh ta đấy. Bọn sĩ quan quốc gia đều như thế cả.
Rồi Cao Xuân Đăng nói sang chuyện khác :
- Tôi sốt ruột về cháu Vân Anh quá. Cháu bảo đi chơi với mấy người bạn gái ở Đà Nẵng, hẹn hôm nay về mà chưa thấy về. Nếu mai chưa thấy cháu về, tôi phải đánh điện vào anh bạn quen ở Đà Nẵng nhờ anh ta hỏi hộ xem.
Phan Thúc Định lịch sự :
- Chắc Vân Anh vui bạn chưa kịp về. Ông cứ an tâm, vùng Đà Nẵng cũng an ninh.
Cao Xuân Đăng lắc đầu :
- Anh mới về nước chưa hiểu biết tình hình đấy. Có vùng nào là an ninh tuyệt đối đâu. Ban ngày là quốc gia, ban đêm là Việt Minh rồi. Ngay giữa những vùng người Pháp coi là an ninh tuyệt đối, Việt Minh vẫn hoạt động nhiều lúc công khai. Nguy hiểm cho chúng ta là dân lại che chở, giúp đỡ họ.
Hắn đưa thuốc lá mời Phan Thúc Định, hỏi :
- Rất nhiều người tính đến chuyện rút ra nước ngoài. Theo ý anh, tôi có nên sang Pháp không? Anh ở bên ấy về, anh thấy tình hình bên ấy như thể nào? Có thể sống yên ổn và làm ăn được không?
Phan Thúc Định châm điếu thuốc lá. đáp :
- Thưa ông, suốt thời gian ở Pháp tôi bận học nên không chú ý gì đến chính trị cả.
Cao Xuân Đăng nói như nói với chính mình :
- Bọn họ có tiền, có quyền nên dễ hơn mình anh ạ. Ông Nguyễn Đệ, Đổng lý văn phòng của quốc trưởng, đã góp cổ phần với hãng dệt Đoóc-mơi, lại có cổ phần ở hãng dầu xăng. Ông Phan văn Giáo, thủ hiến Trung Phần này thì mua rất nhiều cổ phần của hãng rượu Martini, lại khối tiền gởi nhà băng Pháp. Ai cũng vơ cho thật nhanh để chuẩn bị đường rút cả rồi. Tôi thì mới làm việc được ít lâu, phải thù tạc chạy chọt nhiều, dành dụm mãi mới mua được cái biệt thự này và cái xe hơi. Bây giờ chẳng lẽ lại bỏ đi. Sang bên ấy, mình là người tay trắng thì sống ra làm sao? Thực khó nghĩ quá.
Hắn ghé cái mặt bè bè phì nộn vào sát Phan Thúc Định đến nỗi cả mùi sáp bóng hắn bôi đầu cũng bay vào mũi anh, hỏi :
- Nghe cháu Vân Anh nói anh cũng qua Mỹ một thời gian phải không?
Phan Thúc Định nhìn thẳng vào mắt hắn :
- Vâng. Tôi có sang đó trong một chuyến du lịch.
Giọng hắn nhỏ xuống :
- Tôi hỏi thực anh nhé: anh có gặp cụ Ngô không?
Phan Thúc Định tỏ vẻ ngạc nhiên :
- Xin lỗi ông, cụ nào ạ?
- Cụ Thượng Ngô Đình Diệm ấy mà. Nghe nói cụ ấy đang ở Mỹ và người Mỹ chuẩn bị đưa cụ ấy về nước.Ông sang Mỹ mà không biết gì ư?
Phan Thúc Định lắc đầu :
- Không. Tôi không được biết gì cả. Vì đi du lịch nên tôi chỉ thăm phong cảnh mấy thành phố lớn. Vả lại, như tôi đã nói với ông, tôi mải học nên chẳng còn tâm trạng nào để ý đến chính trị cả.
Cao Xuân Đăng thất vọng nhìn về phía chiếc lọ cổ để góc phòng :
- Rất tiếc anh không biết mà tìm gặp cụ Ngô xem ý kiến cụ ấy ra sao. Tôi cảm thấy thời thế sắp đổi thay. Anh bảo anh không biết gì đến chính trị, ấy là lúc đi học. Chứ bây giờ đã học xong rồi, ra làm việc thì muốn hay không, anh cũng phải để ý đến. Vì nó liên quan ngay đến chỗ đứng của anh, chức vị của anh, nguồn sống của anh, đồng tiền anh kiếm được. Tôi nhiều tuổi hơn anh, tôi khuyên anh thực: Sống phải biết theo thời thế anh ạ. Cây gỗ cứng thường hay gãy. Cây mềm gió chiều nào, uốn theo chiều ấy thì chẳng bao giờ gãy cả.
- Xin cảm ơn ông...
- Dạo này ở Huế nhiều người nhắc đến cụ Ngô. Có người đã bí mật đến thăm cậu Cẩn rồi. Thiên hạ lắm anh bợm thật.
- Thưa ông, họ nhắc đến cụ Ngô như thế nào?
Cao Xuân Đăng quay lại nhìn Phan Thúc Định :
- Sao anh vừa nói anh không quan tâm gì đến chính trị?
Phan Thúc Định thản nhiên :
- Ông chẳng vừa nói: tôi sắp ra làm việc, cần phải hiểu biết thời thế là gl. Tôi nghe lời khuyên của ông muốn hỏi để biết đôi chút thôi; hướng sau này của tôi là mở phòng luật sư hoặc đi dạy học chứ không muốn làm một công chức.
Cao Xuân Đăng cười :
- Tất nhiên họ sẵn sàng theo cụ Ngô nếu cụ Ngô vẫn giữ nguyên được cho họ những cái gì họ có được trong mấy năm nay.
Uống cạn chén trà, Phan Thúc Định đứng dậy cáo từ :
- Xin phép ông, tôi về. Hôm khác, mong lại đến hầu chuyện ông. Nếu Vân Anh có về, ông làm ơn nói hộ tôi đến thăm và Vân Anh gọi điện báo cho tôi biết. Tôi ở khách sạn Thuận Hóa, số điện thoại 1203...
Cao Xuân Đăng tiễn Phan Thúc Định ra đến cổng sắt, chìa tay ra :
- Tôi sẽ nói lại với cháu. Lúc nào rảnh rỗi, mời anh lại chơi. Tôi cũng đang mong cháu.
Phan Thúc Định lững thững đi về phía khách sạn mình ở.
Anh nghĩ miên man: bọn này đã cảm thấy sự thất bại của Pháp, đang đi tìm quan thầy mới. Nhưng từ đâu đã tung ra những tin đồn về Ngô Đình Diệm? Tại sao những tin đồn ấy loan ra nhanh vậy! Việc về của Ngô Đình Diệm đã được chuẩn bị như thế nào?
Anh không biết rằng trong một khoang thuyền đậu bên bờ sông An Cựu, có một người đàn ông đeo kính đen nhìn theo anh. Anh đi được một quãng, người ấy cũng rời thuyền, lên bờ. Trên thuyền chỉ còn một gã Hoa kiều thản nhiên bắc bếp nấu cơm...
Huế vẫn trầm lặng, vẫn thơ, vẫn mộng...
* * * * *
Khi nhận được điện thoại của Vân Anh báo tin, Phan Thúc Định lại đến ngay nhà Cao Xuân Đăng.
Vân Anh đã đợi anh ở phòng tiếp khách. Cô mặc quần áo lụa trắng. Người trau chuốt như vừa tắm gội xong, nhưng cặp mắt có quầng và dáng điệu mệt mỏi chứng tỏ cô đã mất ngủ vì suy nghĩ. Cô chìa bàn tay mềm mại cho anh :
- Chắc anh mong em lắm.
Phan Thúc Định đỡ lấy bàn tay đã được tô màu lại từng cái móng rất cầu kỳ :
- Ở Huế này chỉ có em là người quen biết cũ nên em đi vắng cũng nhớ. Em đi về có khỏe không?
Vân Anh uể oải :
- Không được khỏe, anh ạ. Có nhiều cái ngoài sức chịu đựng của em.
- Sao vậy?
- Ăn uống kham khổ, đi bộ nhiều, luôn luôn lo lắng, suy nghĩ, anh bảo em khỏe làm sao được.
- Em kể chuyện vùng Việt Minh cho anh nghe với. Anh không hình dung được ở ngoài đó họ sống ra sao.
Vân Anh đưa tay hất tóc xòa xuống một bên mắt, lắc đầu :
- Em chẳng còn lòng dạ nào kể chuyện cho anh nghe bây giờ. Tâm trí em đang rối loạn...
Phan Thúc Định nhìn Vân Anh dò hỏi :
- Chắc vì chuyện Lê Mậu Thành? Em có gặp Thành không?
Vân Anh thở dài :
- Anh ấy bây giờ đổi khác. Việt Minh đã nhuộm đỏ anh ấy rồi. Em thấy anh ấy gầy và đen đi nhiều quá! Anh ấy khăng khăng không chịu về. Tình yêu của em không lay chuyển được quyết tâm của anh ấy. Giữa em và anh Thành đã có một hố sâu ngăn cách. Em và anh Thành đã đi theo hai con đường khác nhau rồi. Thế là không hàn gắn nổi. Thế là tan vỡ. Anh khuyên em nên làm gì bây giờ?
Phan Thúc Định an ủi :
- Em hãy cố gắng chờ đợi.
Đám mây buồn cố hữu lại che rợp hàng mi dài và đẹp của Vân Anh :
- Khi người ta đã khác nhau về lý tưởng , người ta làm gì còn hi vọng gần nhau trong cuộc sống?
Một lát sau, cô ta chợt nhớ ra :
- Xin lỗi anh, em mải nói chuyện riêng của em nên quên mất chuyện của anh. Em có chuyển lời hỏi thăm của anh đến anh Thành. Anh ấy cảm ơn anh và nhờ em nói hộ với anh là anh ấy không bao giờ từ bỏ sự nghiệp anh ấy đang theo đuổi cả. Anh ấy nói thêm: “Sự nghiệp lớn nằm trong tay những người quyết tâm và sự nghiệp lớn của anh ấy sắp hoàn thành rồi”.
Đầu óc Phan Thúc Định ghi nhớ rất nhanh những lời Vân Anh nói, anh mỉm cười :
- Anh Thành thực là một người kiên định. Chắc xong sự nghiệp rồi anh ấy sẽ tìm em.
- Nhưng anh quên rằng sự nghiệp của anh ấy không có chỗ dung em.
* * * * *
Chiều hôm ấy, Phan Thúc Định sang bên kia cầu, vào mấy hiệu tạp hóa mua vài thứ lặt vặt, rồi đến một hiệu sách nằm giữa phố Trần Hưng Đạo. Lúc đó, hiệu sách không có khách. Chủ tiệm là một người đàn ông trung niên, tóc lốm đốm bạc, đeo kính trắng, đang ngồi mải mê đọc sách. Phan Thúc Định đứng nhìn một lượt những kệ sách, rồi hỏi :
- Ngoài những sách bày đây, ông còn những tiểu thuyết cũ bán không?
Người chủ hiệu đặt quyển sách đang đọc xuống, hỏi lại Phan Thúc Định :
- Ông cần mua những loại tiểu thuyết nào?
Phan Thúc Định đáp :
- Tôi muốn mua những tiểu thuyết lịch sử xuất bản thời kỳ 1930 đến 1945.
Người chủ quán sách niềm nở :
- Chúng tôi còn có tiểu thuyết tâm lý xã hội từ 1945 đến nay thôi. Nếu ông cần, chúng tôi sẵn sàng để lại.
Hai người nhìn nhau cười. Phan Thúc Định chỉ mấy quyển sách bày trên giá, nhờ người chủ gói hộ. Lúc móc tiền ở ví trả, anh kẹp ở giữa hai tờ giấy bạc một tờ giấy mỏng anh đã viết sẵn rồi chào người chủ, quay ra.
Người chủ hiệu sách im lặng, nhìn theo anh.
Sau đó, Phan Thúc Định trở về bưu điện gọi số điện thoại 377.
- A lô, cho tôi gặp ông Rơ-nê.
Lúc Rơ-nê ra cầm máy, Phan Thúc Định nói :
- A lô, ông Rơ-nê đấy phải không? Chào ông. Tôi là Phan Thúc Định đây. Xin báo ông biết, công việc của tôi ở Huế xong rồi. Ngày mai ông giữ cho tôi một chỗ đi Sài Gòn và một chỗ đi Pháp trong chuyến bay sắp tới của hãng nhé. Xin cảm ơn ông...
[1] Nay là trường Quốc học.
[2] Maitre: người coi tay, coi bói.
[3] Ma femme: nhà tôi.
[4] OD: chữ tắt tiếng Pháp Officier de détail: sĩ quan hậu cần
[5] Chào tạm biệt.
Xem tiếp chương 6
Last edited by khungcodangcap; 05-10-2008 at 04:56 PM.