Một ngày đầu tháng 7, chúng tôi về thăm Bà mẹ Việt Nam anh hùng Võ Thị Năm, có ba người chồng và một con trai duy nhất là liệt sĩ, ở số nhà 147/3 đường Tân Kỳ Tân Quý, phường Tân Sơn Nhì, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Vừa đến cổng, chị Hồ Thị Dung, Chủ tịch Hội phụ nữ Nhà máy A41 đã cất tiếng gọi: “Mẹ ơi!...”. Từ trong nhà mẹ chầm chậm bước ra đón và nhắc tên từng đứa thân thiết như những đứa con của mẹ.
Mồ côi từ năm 7 tuổi, cả quãng đời thơ ấu của mẹ gắn liền với cuộc sống làm thuê, chăn trâu, cắt cỏ. 21 tuổi, mẹ lấy chồng. Ông là Nguyễn Văn Lủm, thầy giáo dạy tiếng Pháp cho con nhà chủ nơi mẹ đi ở đợ. Chỉ sau khi cưới, mẹ mới biết ông là một “Việt minh”. Chính ông là người đầu tiên giảng cho mẹ biết thế nào là cách mạng, là con người cộng sản... Nhưng lấy nhau mới 6 tháng, thì ông bị địch bắn chết trong một lần đi công tác.
Căm thù giặc và muốn trả thù cho chồng, mẹ lên chiến khu, làm liên lạc ở Ban công tác 2 thuộc Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Đầu năm 1950, khi Ban thành lập “Tiểu đoàn quyết tử”, mẹ là một trong những người xung phong đầu tiên. Công việc của mẹ là vận chuyển vũ khí từ chiến khu vào thành và mang tài liệu từ thành ra. Với ngoại hình xinh xắn, lại nhanh nhẹn, mưu trí, mẹ hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc. Cuối năm 1950, mẹ phải mang gấp một tài liệu mật vào thành. Mẹ cho tài liệu vào trong một quả bầu và đã vượt qua nhiều bốt gác của địch. Nhưng gần đến vị trí giao tài liệu, một tên phản bội đã phát hiện ra mẹ. Chiếc giỏ xách có tài liệu được mẹ nhanh trí bí mật để lên một chiếc xe ngựa chạy thoát, nhưng mẹ thì bị chúng bắt. Sau bao lần tra tấn dã man mà không khai thác được gì, đến đầu năm 1952, do không có chứng cứ chúng buộc phải thả mẹ. Trở về, mẹ được tổ chức bố trí vào trung đội 115, đại đội 71, Ban công tác thành và tiếp tục làm nhiệm vụ liên lạc.
Cũng trong thời gian này, cảm phục tinh thần gan dạ, thông minh của mẹ, ông Trần Ngọc Dân, Trung đội trưởng đã đem lòng thương yêu mẹ. Mẹ kể lại với chúng tôi những kỷ niệm về người chồng, người chỉ huy yêu quý với tình cảm trân trọng. Mẹ nói: Mẹ thương ông cùng cảnh mồ côi, ở đợ như mẹ ngày xưa. Ông cao ráo, đẹp trai, ít nói, nhưng sống rất tình cảm. Biết mẹ mới ở tù về, ông chăm sóc cho mẹ từng miếng ăn, giấc ngủ.
Mẹ nhớ mãi trận chống càn ngày 1-7-1952. Lúc đó vào khoảng 15 giờ, khi du kích nhận được tin báo thì địch đã đến rất gần. Chúng đông nhung nhúc, bắn không tiếc đạn. Du kích chiến đấu dũng cảm, nhưng do lực lượng mỏng, phải tứ tán mỗi người một nơi. Đến cuối chiều mẹ quay trở lại thì thấy chồng nằm gục bên mương nước, tay vẫn cầm chắc khẩu súng đã hết đạn. Mẹ âm thầm mai táng cho ông, gạt nước mắt, trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Tháng 11-1953, do một tên chỉ điểm, mẹ bị địch bắt lần thứ hai. Năm 1954, chúng lại phải thả mẹ trong đợt trao trả tù binh đầu tiên tại tỉnh Hậu Giang bây giờ. Trở về, mẹ tiếp tục cùng đồng đội chiến đấu. Trong thời gian này ông Trần Văn Thiềng, người bạn cùng đơn vị cảm thông với hoàn cảnh của mẹ đã ngỏ lời thương mẹ. Hạnh phúc tưởng đã mỉm cười, nhưng năm 1955, khi mẹ đang mang thai anh Võ Văn Sao được 2 tháng thì ông Thiềng hy sinh trong một trận chiến đấu không cân sức với kẻ thù. Anh Sao ra đời không được mang họ cha.
Sinh con ra, hai mẹ con đắp đổi nuôi nhau, dù khó khăn nhưng mẹ vẫn công tác, làm liên lạc. Cuối năm 1958 do một tên phản bội khai ra, chúng lại bắt mẹ. Thế là anh Sao mới 3 tuổi đã phải theo mẹ vào sống trong tù. Một thời gian sau, mẹ tìm cách gửi được con về nhờ người em gái chăm sóc. Lần này chúng đưa mẹ ra nhà tù Côn Đảo, nhốt vào chuồng cọp. Mẹ bảo: So với những lần trước, lần này cơ cực hơn nhiều. Đến tận bây giờ mẹ cũng không quên được cảnh chuồng cọp sâu hun hút dưới đất, tối thui như địa ngục, bên trên là những song sắt cùng những tên lính cầm súng lăm lăm đứng gác, thỉnh thoảng chúng lại đổ xuống một vài thùng vôi bột, lâu lắm chúng mới giội cho một thùng nước xuống gọi là tắm tù. Đàn bà con gái đến ngày có kinh mới cực, không có nước tắm rửa họ chỉ có cách cởi quần áo đội lên đầu cho khô... Dùi cui, roi điện, đi “máy bay”, “tàu ngầm”... mẹ đều nếm trải. Cũng do một lòng kiên trung với cách mạng, kiên quyết không khai báo mà đến năm 1962, chúng phải đưa mẹ về đất liền rồi thả một cách âm thầm...
Kể chuyện đời mình nhưng điều mẹ nhớ nhất là hình ảnh người con trai duy nhất của mình. Mẹ thương anh mới 3 tuổi đã phải theo mẹ đi ở tù. Và khi mẹ ra tù anh đã được 7 tuổi. Cả một năm trời sau khi ở Côn Đảo về, mẹ tưởng mình vĩnh viễn không bao giờ đi lại được nhưng anh Sao đã liên tục động viên, giúp đỡ mẹ. Mặc dù tuổi còn nhỏ nhưng anh đã biết đi làm mướn kiếm tiền về nuôi mẹ. Mẹ bảo với chúng tôi: Anh Sao khỏe mạnh, đẹp trai, trắng trẻo... Mắt mẹ ngấn nước khi kể cho chúng tôi một lần rầy la anh vì ham chơi mà không tưới cải. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng mẹ nặng lời với con.
Những ngày tháng tư năm 1975, tin chiến thắng từ mặt trận nhanh chóng truyền về. Anh Sao lúc này cũng đã giấu mẹ đi theo cách mạng. Đêm 12-4, trong một lần đi công tác với đồng chí Đặng Văn Cường (nay là Bí thư Quận ủy Gò Vấp) anh đã hy sinh khi mới tròn 20 tuổi.
Tay mẹ run run cắm những nén nhang lên bàn thờ, những ngón tay gầy xoa mãi lên chiếc bát nhang đã nhẵn thín và đôi mắt mẹ cứ dõi nhìn lên tấm hình anh Sao với sự mong đợi mỏi mòn. Từ trên bàn thờ người con trai tươi cười nhìn mẹ bằng ánh mắt vời vợi xa xăm... Tất cả chúng tôi đều lặng đi...
TRẦN HUY BÌNH
Các chủ đề khác cùng chuyên mục này: