--Quân đội chính quy của nước Việt Nam ngày nay có tên là Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐNDVN). Ngày truyền thống là ngày 22 tháng 12 hàng năm.
I. Vì sao tên là "Quân đội nhân dân"?
--Chữ "nhân dân" xuất phát ngay từ mục tiêu của Quân đội nhân dân: "Quân đội Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, sẵn sàng một lòng với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, tuyệt đối trung thành với nhà nước, với dân tộc"
--Mục tiêu của các nước xã hội chủ nghĩa là xây dựng nhà nước do dân, vì dân nên họ cũng đặt chữ nhân dân vào tên quân đội của mình. Ví dụ như: quân đội nhân dân Nam Tư (LB Nam Tư cũ), quân đội nhân dân Ba Lan (Ba Lan XHCN).
--Chữ "nhân dân" cũng phản ánh 1 thực tế là quân đội Việt Nam từ thời dựng nước đều từ nhân dân mà ra cả. Lính lấy từ nhân dân, đồ ăn từ nhân dân, thời bình thì "ngụ binh ư nông" (gửi lính về làm nông với nhân dân) tự túc sản xuất.
II. Quá trình phát triển:
--Tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam là đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, được thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo,Cao Bằng. ban đầu gồm 34 chiến sỹ do Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
(34 đội viên của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân)
--Ngày 15/4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa hợp nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với Bắc Giang cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chỉ huy, đổi tên thành Giải phóng quân.
--Ngày 16/8/1945, khi tiến đánh Thái Nguyên, quân số Giải phóng quân đã khoảng 450 người, biên chế thành một chi đội (tiểu đoàn), do Lâm Cẩm Như làm chi đội trưởng. Sau 7 ngày quân Nhật ở Thái Nguyên mới chịu chấp nhận giao nộp vũ khí cho Giải phóng quân.
--Từ năm 1945, Giải phóng quân của Việt Minh là lực lượng nòng cốt quân đội quốc gia của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Giải phóng quân được sự trợ giúp về vũ khí và huấn luyện của 1 số sĩ quan, binh lính Nhật đầu hàng và k0 về Nhật sau chiến tranh thế giới thứ 2. Đây rõ ràng là 1 sự giúp đỡ cần thiết bởi Giải phóng quân cần chính quy hóa mới đọ được với quân viễn chinh Pháp.(Xin xem lại phần 1 của loạt bài Những chiến binh quốc tế trong hàng ngũ quân đội nhân dân Việt Nam).
--Tháng 11 năm 1945 Việt Nam giải phóng quân đổi tên thành Vệ Quốc Đoàn, còn gọi là Vệ quốc quân. Lúc này quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc và Trung Bộ. Một số chi đội "Nam tiến" để giúp quân dân miền Nam chống lại quân Pháp đang tấn công Nam Bộ.
--Ngày 22/5/1946, theo Sắc lệnh 7/SL của Chủ tịch nước, Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.
--Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam.
--Năm 1954, với thắng lợi của trận Điện Biên Phủ, đây là đội quân đầu tiên của một dân tộc thuộc địa đánh bại một quân đội đế quốc phương Tây trong lịch sử thế giới của thế kỉ 20.
(Cờ Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng Pháp Christian de Castries (đờ Cát) )
--Sau năm 1954, đại bộ phận Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kết về miền bắc Việt Nam, và được chính quy hóa.
--Ngày 15/2/1961, tại Chiến khu Đ, Quân giải phóng miền Nam, gọi tắt là Giải phóng quân, được thành lập trên cơ sở thống nhất các lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam. Thực chất, đây là lực lượng Vệ quốc đoàn còn ở lại nam Việt Nam, kết hợp bộ phận tăng viện của Quân đội Nhân dân của miền Bắc và lực lượng chiêu mộ tại chỗ, thành lực lượng quân sự của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
(Chiến sĩ của mặt trận dân tộc giải phóng)
--Năm 1976, nước Việt Nam thống nhất ra đời, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam thống nhất thành Quân đội Nhân dân Việt Nam.
III. Vài số liệu cơ bản:
1. Bộ binh:
--Tổng số quân: 9,564,000, đông thứ 2 thế giới sau Iran (kể cả dân quân, chứ quân chính quy của ta không đông hơn ông Trung Quốc 484000 so với 2,225,000). --Bộ binh chia thành 3 cấp: dân quân, quân địa phương, quân chủ lực. Dân quân là lực lượng bán quân sự, 2 cấp còn lại là quân chính quy.
--Quân chính quy có 2 loại: quân đồn trú (bộ đội địa phương) và quân cơ động (bộ đội chủ lực)
a. Quân cơ động: 4 quân đoàn
Quân đoàn 1 (binh đoàn Quyết thắng): thành lập ngày 24/10/1953 ở Ninh Bình
Quân đoàn 2 (binh đoàn Hương Giang): thành lập ngày 17/5/1974 ở Thừa Thiên-Huế
Quân đoàn 3 (binh đoàn Tây Nguyên): thành lập ngày 26/3/1974 ở Tây Nguyên
Quân đoàn 4 (binh đoàn Cửu Long): thành lập ngày 20/7/1974 ở Đông Nam Bộ
b. Quân đồn trú: đơn vị địa lý quân sự cao nhất là quân khu. Có tất cả 8 quân khu
Quân khu 1: vùng Việt Bắc
Quân khu 2: vùng Tây Bắc
Quân khu 3: vùng đồng bằng Bắc Bộ
Quân khu 4: các tỉnh Bắc Trung Bộ
Quân khu 5: Tây Nguyên
Quân khu 6: các tỉnh Nam Trung Bộ
Quân khu 7: Đông Nam Bộ
Quân khu Thủ Đô: Hà Nội và các vùng phụ cận
Quân khu 9: Tây Nam Bộ
2. Hải quân:
--Được trang bị tàu của Liên Xô trong kháng chiến. Sau chiến tranh, hải quân nhân dân thu được 1 số tàu của chính quyền Sài Gòn: 2 tàu khu trục, hơn 100 tàu tuần tra nhỏ, khoảng 50 tàu đổ bộ.
--Quân số: khoảng 42000 người (kể cả lính thủy đánh bộ lẫn thủy thủ)
--Hạm đội hiện nay:
12 tàu phóng tên lửa
6 tàu khu trục loại Petya (Nga)
1 tàu hộ tống
2 tàu ngầm loại nhỏ (mua của CHDCND Triều Tiên)
Và nhiều tàu quét thủy lôi, tàu phóng lôi, tàu rải ngư lôi khác
--Các vùng hải quân:
Vùng 1: vịnh Bắc Bộ
Vùng 2: quần đảo Hoàng Sa
Vùng 3: biển đoạn giữa miền Trung
Vùng 4: quần đảo Trường Sa và biển phía Nam miền Trung
Vùng 5: Nam biển Đông và vịnh Thái Lan
3. Không quân:
--Phần lớn máy bay nhận tiếp viện từ Liên Xô và Trung Quốc. Hiện nay Việt Nam mua máy bay chủ yếu là của Nga. Ngoài ra còn 1 số máy bay của Mĩ quân đội ta thu được từ chính quyền Sài Gòn.
a. Máy bay chiến đấu:
223 Mig-21(hơn 100 chiếc được nâng cấp lên Mig-21 Bis)
53 Su-22
12 Su-27
4 Su-30
12 il-28
b. Máy bay vận tải:
4 Be-12
12 An-26
2 An-28
c. Trực thăng:
3 Ka-25
10 Ka-28
2 Ka-32
6 Mi-6
30 Mi-8
26 Mi-24
d. Máy bay luyện tập: 24 Aero L-39
e. Máy bay sản xuất tại Việt Nam:
--Máy bay hạng nhẹ đa năng VNS-41.
--Máy bay không người lái M-400 UAV.
4. Phòng không:
--Chủ yếu dùng tên lửa SA-2 (SAM 2) đã cải tiến. Loại này được dùng để bảo vệ miền Bắc trong suốt cuộc kháng chiến chống Mĩ.
(dàn phóng SAM 2)
--Ngoài ra còn có tên lửa vác vai SA-7 (Strela 2) và SA-18 (Igla).
IV. Chiến thuật và chiến lược:
1. Hiện nay:
--Bây giờ là thời bình nên mục đích quân đội nhà ta là phòng thủ. Chiến lược vẫn là chiến tranh nhân dân (bám vào dân). Công tác tư tưởng (tuyên truyền) được chú trọng để tránh các hoạt động phá hoại của "các thế lực thù địch"
--Chiến thuật thì có học hỏi kiểu đánh của Mĩ, Nga, Trung Quốc. Ngoài ra vẫn kết hợp với chiến thuật chiến tranh du kích.
2. Trong thời chiến:
--Nếu bây giờ các bác nhà ta xâm lược ai đó (mong điều này k0 xảy ra ) thì chả biết sẽ có chiến lược gì nhỉ.
--Còn nếu là chiến tranh phòng thủ như với Pháp, Mĩ, Trung Quốc thì chiến lược được tóm gọn bằng 2 chữ : "thời cơ" và "đấu tranh"
--1. Thời cơ tức là cơ hội để chiến thắng. Mục tiêu sau cùng là quét sạch bọn xâm lược ra khỏi đất nước. Mỗi cuộc nổi dậy của dân là 1 thời cơ. Thời gian k0 phải là vấn đề trong chiến lược này. Chiến lược này có thể kéo dài "10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa" miễn là đạt được mục tiêu. Dù 1 đội quân kháng chiến bị tiêu diệt thì nếu tiếp tục đấu tranh, thời cơ sẽ xuất hiện tiếp (Kiểu như bọn Trung Quốc có oánh tan QĐND nhà mình thì dân ta vẫn tiếp tục thành lập quân đội khác mà ). Để "thời cơ" liên tục xuất hiện thì phải liên tục "đấu tranh".
--2. Đấu tranh được tóm tắt như sau:
--Chiến tranh du kích cách mạng: rút vào rừng cài bẫy quân thù, kết hợp với tuyên truyền để nhân dân hiểu được mục đích của cuộc đấu tranh cách mạng.
--Địch vận: Hoạt động tuyên truyền trong hậu phương địch để thanh niên ở vùng chiếm đóng k0 gia nhập lực lượng quân thù.
--Binh vận: Hoạt động trong hàng ngũ quân địch (lính viễn chinh nước ngoài hoặc người Việt trong hàng ngũ lính nước ngoài) để họ bỏ vũ khí và (hoặc) gia nhập quân cách mạng.
--Dân vận: Vận động nhân dân đi theo cách mạng.
Các chủ đề khác cùng chuyên mục này: