Cha bề trên vừa làm một vòng đi dạo buổi chiều quanh tu viện dòng khổ tu Phranxixco vừa để thúc mấy ông thầy dòng lười biếng, vô tích sự phải làm việc cho xứng với miếng cơm hàng ngày mà ngài phải bỏ ra nuôi các ông. Ngài kiểm tra lại sản phẩm của phân xưởng mạo chế di vật của các thánh, thăm lò bánh mì đang nướng những ổ bánh lớn, giòn để bán cho thị trấn bên cạnh. Ngài cũng ghé mắt thanh sát cả những giỏ lớn đựng trái cây như cà chua, trái ô-liu và những trái nho mọng, tím đen, bóng láng. Thấy bóng ngài, các thầy dòng làm bộ bận tíu tít như một đám trẻ nít tinh nghịch, nhưng không vui vẻ bằng. Thật ra, họ là một đám người mặt mày ủ rũ. Trong đám, chẳng thấy có ai có được cái vui tươi cần thiết của những người đang phụng sự Chúa. Cha bề trên móc một điếu xì-gà gộc màu nâu đen, dài mà ngài cất dưới lớp áo dòng ngài đang mặc. Ngài vừa phì phèo vừa đi tản bộ quanh tu viện cho nó đói bụng đặng lát nữa đến bữa ăn, ăn cho thêm ngon miệng.
Vào chính lúc đó, ngài thấy Aspanu dìu Turi lết qua cổng tu viện. Ông thầy dòng già giữ cửa sổ không cho hai đứa vào, nhưng Pisciotta rút súng lục ra, gí vào đầu ông ta. Khiếp quá, ông quì thụp xuống đất và đọc kinh sám hối.
Pisciotta đặt dưới chân cha bề trên cái xác của Guiliano bê bết máu và xuội lơ hầu như chết rồi. Cha bề trên vóc người cao, nhưng gầy, cái mặt xương xương, quắt quéo như mặt khỉ. Mũi củ hành, hai mắt như hai nút áo màu nâu lúc nào cũng toát ra cái nhìn soi mói, ngờ vực. Dù đã thất tuần, nom ngài vẫn quắc thước, tinh thần sáng suốt và xảo quyệt như ngày xưa - trước thời Mussolini - lúc ngài còn được tổ chức Mafia chuyên bắt cóc người đòi tiền chuộc thuê viết những bức thư tống tiền rất lịch thiệp, nhưng cũng rất hắc ám. Nay, mặc dù mọi người - từ anh nông dân cho đến chính quyền - đều biết tu viện là “Tổng hành dinh” của bọn buôn lậu, là “đầu lậu” của chợ đen đỏ, thế mà tuyệt nhiên, ngài chẳng hề bị làm khó dễ vì các hoạt động phi tôn giáo và rất bất hợp pháp này. Đó là vì người ta tôn trọng các chức thánh của ngài cũng có, đồng thời cũng vì người ta nghĩ rằng cũng nên để cho ngài hưởng chút phần thưởng vật chất đặng đền bù cho cái công ngài phải bỏ ra để dẫn dắt linh hồn các thầy dòng.
Bởi vậy, cha bề trên Manfredi cũng chẳng hoảng hốt khi thấy hai tên du côn “miệt vườn”, mình mẩy máu me đầm đìa dắt díu nhau sấn vào lãnh địa thiêng liêng của con cháu Thánh Phranxixcô này. Thật ra, ngài đâu có lạ gì cái thằng Pisciotta kia. Trước đó, ngài đã dùng y vào một vài vụ buôn lậu và chợ đen chợ đỏ cả rồi. Cả ngài lẫn y đều giống nhau ở một điểm là cả hai đều rất xảo quyệt. Điểm chung này khiến cho cả hai vừa khoái chí vừa cảm phục nhau. Ông già thì kinh ngạc vì cái tuổi trẻ tài cao của thằng quái non này, không ngờ y còn quá trẻ mà tài năng đã phát triển gớm thế. Thằng nhỏ thì kinh ngạc vì không ngờ cha cố quyền cao chức rộng và tuổi đã cao mà vẫn ba que, xỏ lá và bợm đến thế.
Cha bề trên trấn an ông thầy dòng gác cửa, rồi nói với Pisiotta - chẳng cần giới thiệu mà ông đã réo đúng ngay tên y, chứng tỏ là ông biết y rất rõ :
- Thôi được, Pisciotta quí mến của cha, các con bị trục trặc vụ gì vậy?
Pisciotta cột chặt chiếc sơ-mi đẫm máu vào vết thương của Guiliano. Thấy nét mặt co rúm vì buồn thương của Pisciotta, ngài lấy làm ngạc nhiên vì không ngờ thằng quỷ này mà cũng có thể có được cảm xúc ấy. Nhìn vết thương to lớn của Guiliano, Aspanu Pisciotta nghĩ rằng thằng bạn, thằng anh họ sắp “đi tong” đến nơi, hay là “đi” rồi không chừng. Làm cách nào và báo tin như thế nào cho ông bà già của Guiliano bây giờ? Y sợ nhất là dì y sẽ đau khổ. Nhưng bây giờ, việc quan trọng nhất thì phải làm trước. Y phải thuyết phục thế nào để cha bề trên chịu cho giấu Guiliano vào nơi kín đáo trong tu viện.
Y nhìn thẳng vào mắt cha bề trên. Qua cái nhìn ấy, y muốn uỷ thác cho ngài một việc mà - tuy không ra mặt trực tiếp hăm he, đe dọa gì - nếu ngài từ chối thì chắc chắn sẽ có chuyện sinh tử chứ chẳng chơi. Y nói :
- Đây là người anh họ và cũng là người bạn chí cốt của con, Salvatore Guiliano. Như cha thấy đấy, nó bị xui xẻo. Và chỉ một lát sau đây thế nào lũ cớm cũng quây kín ngọn núi kia và lùng kiếm nó. Và cả con nữa. Cha là hy vọng độc nhất của tụi con. Con xin cha che giấu và che chở cho tụi con. Làm điều này cho tụi con, cha sẽ có người bạn thuỷ chung!
Y cố nhấn mạnh vào chữ “người bạn”.
Có gì thoát được đôi mắt cáo già và cái trí khôn sắc sảo của cha bề trên? Bởi vậy, dù chỉ nói sơ sơ - thậm chí không nói ra - cha cũng thừa hiểu cái ý của nó. Cha cũng có nghe nói đến Turi Guiliano, một anh chàng rất được nể trọng ở Montelepre, một tay súng và tay săn có hạng, chín chắn, khôn ngoan trước tuổi. Ngay cả tổ chức “Người anh em” cũng đã “chấm” anh chàng và coi là một thành viên tương lai đầy hứa hẹn. Chính Ông Trùm Croce, trong một cuộc viếng thăm xã giao và làm ăn với tu viện cũng có lần nhắc đến tên anh chàng này. Một người có con mắt tinh đời, nhìn xa thấy rộng, có trí khôn sắc bén và xảo quyệt như cha bề trên thì làm gì mà chẳng nhận ra ngay con phượng hoàng giữa bầy gà, làm gì mà chẳng biết câu “trồng cây đặng có ngày hái quả”.
Nhìn Guiliano nằm mê man bất tỉnh, ngài hầu như chắc chắn anh chàng này cần một cái gì quan trọng hơn là một nơi trú ẩn, cần một giáo sĩ để làm các bí tích lâm chung hơn là một bác sĩ. Đáp ứng lời yêu cầu của Pisciotta thì chẳng có gì là liều lĩnh, nguy hiểm. Bởi vì, ở cái xứ Sicily này, che giấu một tử thi thì chẳng phải là một trọng tội. Nhưng ngài muốn cho thằng quái kia hiểu rằng cái ân huệ mà ngài sắp ban cho nó không phải là nhỏ, là kém giá trị. Ngài hỏi :
- Tại sao các con lại bị truy lùng vậy?
Pisiciotta ngần ngại. Nếu ông cha bề trên này biết chúng đã “lật gọng” một thằng cớm thì có thể ông không dám chứa. Nhưng nếu ông không biết để lựa lời ăn nói khi bọn cớm đến truy lùng thì cũng kẹt. Y suy nghĩ rất nhanh và quyết định nói thật.
Cha bề trên cúi xuống nhìn, như thể buồn vì một linh hồn sắp sa địa ngục, nhưng thật ra chỉ là để nhìn cho gần hơn, đặng quan sát rõ hơn và đánh giá đúng mức tình trạng mê man của Guiliano. Máu thấm qua chiếc áo sơ-mi buộc quanh người hắn. Nếu chàng thanh niên tội nghiệp kia chết thì vấn đề càng đơn giản, càng dễ giải quyết.
Với tư cách là một thầy dòng khổ tu dòng Phranxixcô, cha bề trên cũng đầy lòng bác ái của Chúa. Nhưng, trong thời buổi khó khăn này, cha cũng phải xét tới những khía cạnh và hậu quả thực tiễn, cụ thể của việc làm bác ái của ngài. Nếu cho hắn trú ẩn và hắn chết thì ngài chỉ có lợi mà thôi. Nhà cầm quyền sẽ bằng lòng với cái thây ma và gia đình người chết thì sẽ mãi mãi mang ơn - hay mắc nợ - ngài.
Dĩ nhiên, ngài cũng có thể giao hai thằng lưu manh côn đồ này cho cảnh sát, bọn này sẽ tính gọn ngay thôi. Nhưng làm vậy thì có lợi gì cho ngài? Nhà cầm quyền cũng chẳng làm gì cho ngài nhiều hơn những gì họ đã và đang làm cho ngài. Khu vực làm ăn của ngài đã được họ giữ an ninh cho rồi, chẳng có đứa nào dám léng phéng. Tuy nhiên, trong trường kinh doanh của phi nghĩa, thì thêm bạn bớt thù vẫn là thượng sách. Phản bội những anh bạn trẻ này chỉ tổ gây thù chốc oán với bọn nhà quê và gây nợ máu - chắc chắn, không thể không được - với gia đình của hai tên cô hồn các đảng này. Cha bề trên đâu đến nỗi ngu để nghĩ rằng cái áo dòng sẽ che chở cho cha khỏi trả món nợ máu chắc chắn sẽ có nếu cha phản bội. Cha cũng dư biết thằng khốn nạn Pisciotta kia nghĩ gì trong đầu. Trước khi xuống địa ngục thì nó cũng phải quậy cho nát nước ra đã. Phải, chớ bao giờ dại dột xem thường sự thù hận của bọn nhà quê Sicilian. Là con chiên bổn đạo đến mụ cả người đi thật và chẳng bao giờ cảm thấy mắc cỡ vì tội lỗi của mình khi quì trước tượng Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary thật đó, nhưng nếu bép xép, phạm luật Omerta [1] thì dù có là đức Giáo Hoàng cũng vẫn bị chúng vặt cổ như thường. Trên đảo Sicily có vô số tượng Đức Chúa Giesu thì cũng vẫn chẳng có người dân Sicilian nào chịu tin vào lời răn dạy của Chúa: “Nếu nó tát con vào má bên phải, thì con hãy chìa nốt má bên trái cho nó tát”. Ở cái xứ sở tốt lành và rất sùng đạo này, sự tha thứ được đồng nghĩa với sự hèn nhát. Dân Sicilian chính cống không tài nào hiểu được ý nghĩa của chữ xót thương.
Trong tất cả những điều cha bề trên biết về Pisciotta, có điều này là ngài biết rõ nhất: Pisciotta sẽ không phản ngài. Bởi vì, ngài đã có dịp thử thách và kiểm chứng điều này. Trong một vụ buôn lậu cò con, ngài đã bố trí để Pisciotta bị bắt và bị điều tra. Thẩm sát viên là một tay cớm an ninh, chuyên viên có hạng - chứ đâu phải thứ cớm vườn ở Montelepre này - đã làm đủ tình đủ tội, giở đủ mánh khoé ngón nghề, cương có nhu có, ấy thế mà vẫn không cậy được răng Pisciotta lấy một lời khai nào. Y cứ câm như hến. Hoặc nếu có thì chỉ là “không biết’. Thẩm sát viên ấy thả y ra và đảm bảo với cha bề trên rằng thằng cha đó có thể dùng được trong những vụ làm ăn lớn. Từ đó, cha bề trên vẫn dành cho Aspanu Pisciotta một chỗ đặc biệt trong trái tim của ngài và hằng ngày ngài vẫn cầu nguyện cho y.
Cha bề trên đưa hai ngón tay gầy guộc trơ xương lên bóp môi dưới chúm lại và “huýt huýt” mấy tiếng. Các thầy dòng vội vã chạy lại. Ngài sai họ khiêng Guiliano vào một khu xa và khuất nẻo trong tu viện. Ngài có một khu đặc biệt trong tu viện để chứa chấp đám con cháu nhà giầu trốn quân dịch trong thời chiến. Rồi, ngài sai một thầy dòng đi mời bác sĩ ở San Giuseppe, cách đó năm dặm.
Pisciotta ngồi cạnh giường và cầm bàn tay bạn mình. Vết thương không còn rỉ máu nữa. Và Turi đã mở mắt, nhưng đôi mắt nom đã mờ rồi. Pisciotta khóc sụt sịt, không nói năng gì, y lau trán Guiliano lấm tấm mồ hôi. Da của Guiliano tái xanh, lợt lạt.
Mãi một giờ sau bác sĩ mới tới. Lúc đi tới đây, bác sĩ đã thấy cả bầy cớm lùng sục trên núi, nên ông đã chẳng ngạc nhiên khi thấy ông bạn của ông - tức cha bề trên - đang giấu giếm một người bị thương. Điều này chẳng liên can gì đến ông ta. Cha bề trên - bạn đồng hương Sicilian của ông - cần đến sự giúp đỡ của ông, thế là quá đủ. Quan tâm đến cớm, đến chính quyền làm gì cho nó mệt, mà lại chẳng ăn cái giải gì. Chính cha bề trên - Chứ chẳng phải cớm nào, chính quyền nào - cứ mỗi chủ nhật lại cho ông cả giò trứng gà, cứ mỗi lễ Giáng Sinh là một vò rượu và lễ Phục Sinh là một con cừu non béo nung núc. Dù cả năm chẳng phải chữa bệnh cho nhà dòng một lần nào, thì cha bề trên vẫn cứ lệ thường mà cho một cách hữu nghị như vậy.
Bác sĩ khám và điều trị vết thương cho Guiliano. Đạn trúng bụng và có lẽ xuyên thủng vài cơ quan nào đó nữa - Chắc chắn nhất là gan. Mất nhiều máu quá, chàng thanh niên lợt lạt, xanh xám, nom như cái thây ma, nhất là khoé miệng lợt lạt đến gần như trắng bệch ra. Bác sĩ biết đó là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Ông thở dài nói với cha bề trên :
- Còn nước thì còn tát thôi, chứ ít hy vọng lắm. Máu không rỉ ra nữa, vì nó đã mất có đến một phần ba lượng máu rồi. Và như vậy thì cứ sự thường là “xong” thôi. Cố giữ cho nó ấm, xem sao. Có thể cho nó uống chút sữa, nếu nó uống được. Và tôi để lại vài ống mooc-phin.
Ông nhìn thân thể của Guiliano và có vẻ tiếc rẻ. Pisciotta thì thầm hỏi :
- Tôi có thể nói thế nào với ông bà già nó? Liệu còn có cơ may gì không, bác sĩ?
- Anh muốn nói với họ sao thì nói, - Bác sĩ thở dài - nhưng vết thương này nặng lắm, chết người đấy. Vì là một thanh niên khoẻ mạnh, nên nó có thể kéo dài ít ngày. Nhưng tốt hơn là chẳng nên hy vọng gì.
Nhìn thấy vẻ tuyệt vọng trong đôi mắt của Pisciotta và nỗi buồn thoáng qua trên khuôn mặt cha bề trên, ông nói một cách khôi hài :
- Dĩ nhiên, một nơi thiêng liêng như ở đây thì luôn luôn có thể xảy ra phép mầu nhiệm!
Cha bề trên và ông bác sĩ đi ra ngoài. Pisciotta cúi xuống bạn để lau mồ hôi đọng trên lông mày và nó kinh ngạc vì đôi mắt ấy lộ ra cái vẻ giễu cợt. Đôi mắt màu nâu sậm, nhưng có viền trắng bạc. Pisciotta cúi sát hơn nữa. Turi Guiliano thì thào. Rõ ràng là hắn đang gắng gượng để nói :
- Nói với bà già là tao sẽ về nhà. - Turi thều thào nói. Rồi hắn làm một cử chỉ mà suốt những năm tháng về sau này, không bao giờ Pisciotta quên được. Hắn bỗng đưa hai tay lên túm chặt lấy tóc của Pisciotta. Bàn tay còn có sức sống, chứ không phải là bàn tay của người đang hấp hối. Bàn tay ấy nắm lấy tóc Pisciotta kéo sát xuống và thều thào - Mày hãy nghe lời tao!
Buổi sáng hôm sau, được ông bà già Guiliano gọi điện thoại báo cho biết, giáo sư Hector và Adonis vội vã tức tốc đi về Montelepre. Ông có nhà riêng ở Montelepre, nhưng rất ít khi ông sử dụng ngôi nhà này. Ông ghét nơi ông sinh ra và đã sống qua thời thơ ấu. Đặc biệt ông tránh trở về nơi chôn rau cắt rốn vào ngày Lễ Kính Thánh Bổn Mạng. Sự trang trí thị trấn chỉ làm cho ông buồn. Bởi vì cái vẻ hào nhoáng tạm thời ấy chỉ che giấu một cách vụng về tồi tệ sự nghèo mạt kinh niên của thị xã. Ngày lễ cũng là ngày nhục nhã của ông: bọn bợm nhậu cứ nhè cái vóc dáng thấp bé của ông mà châm chọc, chế giễu. Và ngay cả đàn bà nhìn thấy ông cũng mỉm cười vừa có vẻ rẻ rúng vừa có vẻ thương hại tội nghiệp.
Ông thông minh và hiểu biết hơn họ bội phần. Nhưng cái đó cũng chẳng giúp ích gì cho ông, chẳng làm cho ông được kính nể hơn. Chẳng hạn, dân ở đây hãnh diện ở chỗ trải qua bao đời, nhà của họ đã sơn màu nào thì cứ truyền tử lưu tôn mà sơn màu đó. Họ đâu biết rằng màu sắc ấy đã nói lên cái gốc gác, cội nguồn dòng máu mà họ đã thừa hưởng. Qua bao thế kỷ, những người có dòng máu gốc gác phương Bắc thì bao giờ cũng sơn màu trắng, người Hy Lạp màu xanh da trời, người Ả Rập thờ màu hồng và người Do Thái màu vàng. Nhưng ngày nay tất cả đều tự coi mình là người Ý nói chung, là người Sicilian nói riêng. Các dòng máu ấy từ hàng ngàn năm nay đã pha trộn với nhau đến nỗi ngày nay không thể căn cứ vào ngoại hình của một người nào để có thể đoán sắc màu ngôi nhà của họ. Nếu bây giờ có ai nói với một người Sicilian sơn nhà màu vàng rằng y có gốc gác Do Thái thì coi chừng, dao lụi không vào lưng thì bụng là cái chắc.
Aspanu Pisciotta sống trong một ngôi nhà sơn vôi màu trắng, mặc dù hình dạng của nó giống với Ả Rập hơn. Ngôi nhà của Turi Guiliano sơn màu xanh da trời, và quả thật là diện mạo của Guiliano thì như một bức tượng Hy Lạp, nhưng khung người của hắn thì lại cao và to như một người phương Bắc. Nhưng có một điểm chung giữa những người gốc gác cội nguồn khác nhau ấy là dòng máu sôi sục một cách kỳ lạ và nguy hiểm mà ta có thể gọi là “chất Sicilian”, “tính cách Sicilian”. Chính cái đó đã làm cho họ thành Sicilian chính cống. Và chính cái đó đã làm cho Hector Adonis trở về Montelepre hôm nay.
Mỗi đường phố dù lớn hay nhỏ - nhất là phố Via Bella đều có lính cảnh vệ hoặc là cớm mặt mày lầm lì dữ tợn, tay lăm lăm khẩu tiểu liên hoặc súng lục và sẵn sàng nhả đạn. Ngày thứ hai trong ba ngày lễ Kinh Thánh Bổn Mạng - theo thường lệ lẽ ra ngoài đường phải đông vui tấp nập - nhưng năm nay lại buồn thiu, vắng vẻ một cách lạ thường. Đường phố không có cả trẻ nít nô đùa. Hector Adonis cho xe hơi leo lên lề, đậu trước cửa nhà Turi Guiliano. Hai tên cảnh vệ lom lom nhìn một cách nghi ngờ cho đến khi ông ra khỏi xe, thì chúng lại mỉm cười vì cái vóc dáng thấp bé của ông.
Chính Pisciotta ra mở cửa và dẫn ông vào nhà. Ông bà già Guiliano đang đợi ông trong bếp. Bữa ăn sáng gồm bánh mì, thịt nguội và cà phê đã dọn sẵn trên bàn.
Maria Lombardo Guiliano trầm tĩnh, vì thằng cháu cưng của bà đảm bảo là thằng con trai cưng của bà chắc chắn sẽ bình phục. Bà tức giận hơn là sợ sệt. Ông bố của Guiliano thì lại kiêu hãnh hơn là buồn. Con trai ông đã chứng tỏ nó là một thằng đàn ông Sicilian thứ thiệt, con trai ông thì sống mà kẻ thù của nó thì chết.
Aspanu kể lại câu chuyện cho giáo sư Adonis nghe. Lần này có pha thêm chút hài hước so với lần đầu kể cho ông bà già của Turi. Y giảm nhẹ vết thương của Guiliano và tô đậm thêm cái chất anh hùng của y khi y dìu Guiliano vào tu viện. Nhưng Hector Adonis hiểu rằng dìu một người cao to bị thương như Turi Guiliano đã đi dặm đường sỏi đá lởm chởm, lại xuống dốc, chắc chắn là phải mệt đến đứt hơi đối với một Aspanu Pisciotta cà khẳng cà kheo lại thêm cái bệnh ho lao, đâu phải chuyện đùa. Ông cũng nhận xét thấy Pisciotta liến thoắng kể lướt qua cái vết thương. Adonis sợ tình hình thực tế chắc là tệ hại hơn. Ông lên tiếng hỏi ông bà già của Guiliano, nhưng chủ yếu là hỏi Pisciotta.
- Làm sao mà lính cảnh vệ lại biết mà đến đây tra hỏi?
Pisciotta kể lại việc Guiliano đã chìa cái căn cước ra cho thằng đội cớm. Bà mẹ Guiliano giọng rền rĩ nói chen vào :
- Sao Turi không để cho bọn chúng lấy phó-mát cho rồi, mà lại đi sinh sự, rồi lại “ghè” nó là chi cho khổ?
Ông bố Guiliano hỏi móc bà vợ :
- Thế bà bảo nó phải làm sao? Tố cáo tên người đã bán phó-mát cho nó à? Bộ muốn bôi tro trát trấu vào thanh danh nhà mình sao chứ?
Hector Adonis vừa thú vị vừa thắc mắc về sự khác biệt gần như mâu thuẫn giữa hai ý kiến của hai vợ chồng. Ông biết xưa nay bà vợ vẫn sôi nổi, táo bạo hơn ông chồng. Thế mà bây giờ bà vợ lại đưa ra ý kiến chịu lép, trong khi ông chồng thì lại ra cái giọng thách thức? Và Aspanu lại cho rằng mình đã anh hùng giải cứu được thằng bạn và dìu hắn đến trốn ở một nơi an toàn. Thế mà bây giờ y tỉnh bơ nói dối ông bà già của Guiliano về tình trạng vết thương của thằng con họ.
Ông bố Guiliano nói :
- Giá nó đừng chìa cái căn cước của nó ra thì đỡ quá. Sẽ có thiếu gì anh em bè bạn của nó sẵn sàng thề rằng lúc đó nó đang có mặt ở thị trấn này với họ.
Bà mẹ Guiliano nói :
- Thế nào trước sau thì nó cũng bị bắt. - Và bắt đầu mếu máo - Đến nước này thì nó sẽ phải lên núi ở mất thôi!
Hector Adonis nói :
- Mình phải làm cái gì, làm thế nào để chắc chắn - trong mọi trường hợp - cha bề trên không giao nộp nó cho nhà chức trách.
Pisciotta nóng nảy nói :
- Cho ăn kẹo ông ấy cũng không dám. Ông ấy dư biết là tôi sẽ treo cổ ông ấy nếu ông ấy làm như vậy.
Adonis nhìn nó chòng chọc. Cái giọng của thằng nhỏ này không phải là đe dọa suông, mà là chết người thật đó. Adonis ngẫm nghĩ trong bụng: “Làm tổn thương “cái tôi” của một thanh niên thì không phải là điều khôn ngoan. Mấy anh cớm làm sao mà hiểu được rằng nhiều khi người ta vẫn bình an vô sự khi nhục mạ một người đã lớn tuổi, nhất là khi người đó đã bị ê chề vì cuộc đời và chẳng thèm để tâm đến sự trọng, khinh của người khác. Nhưng, với đám trẻ thì chỉ một sự rẻ rúng thôi cũng đã bị coi là một sự xúc phạm không thể tha thứ được”.
Ông bà già của Guiliano đang chờ sự cứu giúp của giáo sư Hector Adonis, người trước kia đã bao phen giúp đỡ con họ. Hector Adonis trầm ngâm, rồi sau đó cất tiếng vừa như nói với mọi người vừa như nói với chính mình :
- Nếu nhà chức trách biết chắc nó đang ở đâu thì cha bề trên sẽ chẳng có cách nào khác. Chính bản thân ông ta cũng đã và đang bị nghi ngờ về một vài vấn đề. Tôi nghĩ tốt hơn hết - nếu ông bà bằng lòng - là nhờ đến người bạn của tôi. Ông Trùm Croce Malo mà đã ra tay can thiệp thì trời gầm cha bề trên cũng không thả thằng Turi ra, chứ đừng nói nhà chức trách mà đòi được Turi từ tay ông ta.
Ông bà già của Guiliano rất ngạc nhiên khi biết ông giáo sư có quen biết - mà lại là chỗ bạn bè - với “tay tổ” này. Nhưng Pisciotta mỉm cười tỏ cho ông Hector Adonis biết là y đã rõ chuyện này. Adonis quay ra nói xẵng với nó :
- Chính anh cũng sẽ bị nhận diện và bị bắt. Tụi nó đã có bản tướng mạo của anh rồi!
Pisciotta khinh khỉnh đáp :
- Nhìn thấy thằng cớm già giãy đành đạch rồi chết thẳng cẳng, thì hai thằng cớm oắt đã sợ té *** ra rồi, còn nhìn thấy gì nữa mà tướng mạo với chả tướng muội. Giá lúc đó con mụ đẻ ra nó có đứng ở đó, thì nó cũng không nhận ra được nữa là. Vả lại, tôi thiếu đếch gì người sẵn sàng làm chứng, thề rằng lúc đó tôi đang có mặt ở đó với họ. Mà chẳng cần phiền đến bè bạn làm chứng, chỉ cần thảy ra vài chục bạc cho mấy con điếm bảo nó thề rằng lúc đó tôi đang làm tình với nó, thì nó thề ngay chứ có đếch gì mà phải ồn lên cái chuyện vặt đó.
Adonis ngạc nhiên không hiểu Pisciotta học được ở đâu, học được bao giờ cái ngôn ngữ giang hồ đểu cáng ấy. Nhưng ông phải nể phục cái cung cách tỉnh bơ rất nghề nghiệp của y trước mọi nguy hiểm. Ông nói với ông bà già của Guiliano :
- Ông bà không được tìm cách thăm nom nó, không được nói với bất cứ ai, ngay cả với bạn bè thân nhất là nó đang ở đâu. Bọn cớm giăng chỉ điểm và mật thám khắp nơi. Aspanu, anh cũng chỉ đến thăm nó ban đêm. Hễ khi nào nó nhúc nhích được, tôi sẽ thu xếp để nó lẩn tránh an toàn ở một nơi khác trong thành phố cho đến khi sự việc lắng dịu xuống. Lúc đó, với chút tiền là mọi sự ổn thỏa và Turi có thể trở về nhà sống bình thường. Đừng lo lắng gì về nó, chị Maria, hãy giữ gìn sức khoẻ. Và anh, Aspanu, hãy giữ liên lạc giữa nó với tôi.
Ông ôm hôn ông bà già của Guiliano. Khi giáo sư Hector Adonis rời khỏi nhà, bà Maria vẫn khóc rấm rứt.
Hector Adonis có nhiều việc phải làm. Quan trọng nhất là phải nói với Ông Trùm và tìm cách để hiện nay Turi có thể trốn an toàn trong tu viện. Nếu trời thương thì chính quyền ở Rome sẽ không trao giải thưởng cho kẻ nào cung cấp tin tức về tên sát nhân đã giết chết một cảnh sát đang thi hành công vụ, và cái ông cha bề trên quỷ sứ kia sẽ không vội bán Turi như ông ta bán đồ mạo chế các di vật thánh.
Turi nằm liệt trên giường, không nhúc nhích cục cựa gì được. Nhưng hắn còn tỉnh và còn nghe thấy ông bác sĩ nói vết thương của hắn nặng lắm, khó qua khỏi. Tuy nhiên hắn không tin rằng mình sắp chết. Thân thể hắn như bị treo lơ lửng trong không khí. Không đau đớn mà cũng chẳng sợ hãi. Hắn chỉ biết hắn không thể nào chết được. Hắn không hiểu rằng tình trạng hưng phấn của hắn trong lúc này chỉ là hậu quả của tình trạng mất máu nhiều quá.
Trong nhiều ngày sau đó, hàng ngày có một ông thầy dòng chăm sóc, cho hắn uống sữa. Chiều chiều, cha bề trên và bác sĩ đến thăm. Ban đêm, Pisciotta đến thăm, cầm tay hắn, săn sóc hắn suốt đêm. Sau hai tuần lễ, bác sĩ phải nói rằng đúng là phép mầu nhiệm.
Turi Guiliano đã bắt buộc được thân thể phải lành vết thương, phải bù lại lượng máu đã mất, phải hàn lại những lỗ thủng do đạn gây ra. Trong cơn hưng phấn, hậu quả của tình trạng mất máu, hắn đã mơ đến cái tương lai xán lạn của hắn. Hắn cảm thấy một niềm tự do mới, rằng kể từ lúc hắn bị bắn, hắn không còn phải chịu trách nhiệm về bất cứ những gì hắn sẽ làm. Luật pháp của xã hội, luật lệ khắt khe hơn của gia đình đều không có thể ràng buộc được hắn nữa. Rằng hắn tự do phạm bất cứ tội gì rằng máu của hắn đã đổ ra sẽ rửa sạch cho hắn hết và làm cho hắn thành vô tội, và, trớ trêu thay, hắn có được tất cả những điều đó lại là do một thằng cớm khốn kiếp đã bắn hắn chỉ vì hắn buôn chui có vài ký pho-mát.
Trong những ngày dưỡng bệnh, trong đầu óc hắn cứ diễn đi diễn lại cái cảnh hắn và các bạn bè trong phố tụ tập ở quảng trường để đợi thằng cặp-rằng, tay sai của một lãnh chúa đến chọn một vài đứa trong đám đi làm công nhật và trả cho đồng lương chết đói. Nếu có ai nài nỉ xin thêm thì sẽ được nghe những lời nói kênh kiệu, mỉa mai, hách dịch: “Bấy nhiêu đó, không chịu thì thôi, cút xéo, đừng có eo sèo rác tai ông” của những thằng có đủ thứ quyền thế. Sự phân phối bất công các vụ thu hoạch khiến cho có những đứa ngồi mát ăn bát vàng, trong khi có những kẻ quanh năm suốt tháng đầu tắt mặt tối làm hùng hục, cực nhọc như lừa, mà đói vẫn hoàn đói, khổ vẫn hoàn khổ. Những kẻ có trách nhiệm cầm cân nảy mực trong xã hội thì cứ nhè thằng khố rách áo ôm mà hành, mà phạt. Trong khi đó, những thằng có của thì tha hồ muốn làm gì thì làm, muốn ức hiếp ai thì ức hiếp.
Nếu hắn lành vết thương, hắn thề rằng chính tay hắn sẽ thực thi công lý. Hắn không còn là một thằng bé bất lực trước định mệnh. Hắn tự vũ trang cả về tinh thần lẫn vật chất. Hắn chắc chắn điều này: sẽ không bao giờ hắn chịu bó tay trước kẻ khác, chẳng hạn như trước thằng Guido Quintana, chẳng hạn như thằng cớm đã bắn hắn.
Cái anh chàng thanh niên Guiliano khi xưa đã không còn nữa.
Vào cuối tháng, sau bốn tuần lễ nằm chết gí trên giường, nay theo lời khuyên của bác sĩ, Guiliano phải vận động đôi chút. Và, thế là Guiliano được trao cho một cái áo thầy dòng, mặc vào, rồi đi tà tà quanh tu viện. Cha bề trên đâm ra mến anh bạn trẻ này, thường cặp kè với anh trong lúc đi dạo và kể cho anh nghe những cuộc phiêu lưu dữ dội trong các cuộc làm ăn ở các miền đất xa xôi lúc ngài còn trai trẻ. Sự quí mến của cha bề trên chẳng giảm đi, khi giáo sư Hector Adonis gửi đến ngài món tiền đặng “xin ngài cầu nguyện cho kẻ nghèo” và chính Ông Trùm đã ngỏ ý cho cha bề trên biết là ông ta cũng quan tâm đến anh bạn trẻ này.
Về phần Guiliano, hắn cũng kinh ngạc trước lối sống của mấy ông thầy dòng. Trong lúc ở nhà quê, người ta đói khát, người ta làm lụng đến đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mà chỉ đổi lấy được 50 xu một ngày, thì các thầy dòng khổ tu Phranxixcô sống như những ông hoàng. Tu viện đúng là một lãnh địa rộng lớn và giàu có. Nào vườn chanh cam, nào những gốc ôliu có lẽ mọc từ hồi Chúa Jesus còn thò lò mũi xanh, nào đồn điền trồng tre... Rồi, còn trại chăn nuôi bò, heo, cừu, gà, vịt, gà trống, gà mái, gà tây vô vàn vô số chạy lểnh nghểnh. Ngày nào cũng như ngày nào, các thầy giòng xơi mì ống với thịt và uống rượu nho “nhà làm” từ những hầm rượu to tổ bố. Ngoài việc chăn nuôi đồng áng ra, họ còn chợ đen chợ đỏ đủ thứ, trong đó có thuốc lá, mà họ nhả khói cứ như ống khói tàu.
Nhưng họ làm việc cũng “ác liệt” lắm. Ban ngày, lúc làm việc, họ đi chân đất, áo dòng xắn lên đến tận đầu gối và mồ hôi mồ kê vã ra như tắm. Để che kín cái đầu gần như trọc lóc khỏi bị ánh mặt trời gay gắt nướng chín, họ đội những cái mũ rộng vành kỳ cục đủ màu, đen có, nâu có, kiểu như mũ của các cao bồi Mỹ mà cha bề trên đã sắm cho họ bằng cách khéo léo giao thiệp với các sĩ quan tiếp liệu của quân đội Mỹ, đổi lấy vài chai rượu “nhà làm”. Và các thầy dòng giàu sáng kiến và khiếu thẩm mỹ đã chế ra đủ kiểu mũ đội đầu. Có ông thì cho vành mũ cum cúp xuống như các cao bồi Mỹ chánh hiệu, có ông thì lại cho vểnh một bên, vểnh hai bên như cái máng xối, ở đó gài dăm điếu thuốc lá. Cha bề trên ghét mấy cái mũ ấy lắm, và cấm đội, chỉ trừ khi làm việc ngoài trời. Ghét thì ghét, nhưng ngài vẫn sắm về, vì nó rẻ mạt lại che nắng rất tốt.
Vào tháng thứ hai tại tu viện, Guiliano cũng thành một ông thầy dòng. Trước sự ngạc nhiên của cha bề trên, hắn làm việc cật lực ở ngoài đồng, giúp mấy ông thầy già bưng các giỏ trái cây và ôliu chất vào kho. Càng phục hồi sức khỏe, Guiliano càng vui vẻ làm việc, nặng nhẹ chẳng nề hà. Các thầy dòng hoặc muốn thử sức hắn hoặc muốn cho đáng đồng tiền bát gạo - miếng cơm mà hắn ăn hàng ngày, đã chất đầy giỏ của hắn. Nhưng hắn vui vẻ thi thố sức mạnh và chẳng bao giờ chùn đầu gối. Cha bề trên hãnh diện vì hắn. Không hiểu vì cảm mến hay vì muốn khai thác sức lao động của hắn, mà cha bề trên đã vui vẻ bảo hắn “muốn ở lại đây đến bao giờ thì ở. Hắn đúng là người Chúa đã chọn”.
Guiliano còn được sung sướng thêm bốn tuần lễ nữa. Hắn đã trở về từ cõi chết. Và nhân đó, người ta đã thêu dệt biết bao phép lạ và vô số những điều tào lao vớ vẩn khác. Cha bề trên khoái hắn lắm, hết lòng tin cậy hắn và tiết lộ cho hắn từ những bí mật của chính đời ngài cho đến bí mật của tu viện, Ngài đã khoe với hắn rằng tất cả những sản phẩm do tu viện làm ra, chỉ để lại một ít đủ xài, còn bao nhiêu đều được đẩy thẳng ra chợ đen, chứ không có bán cho kho nhà nước theo luật định, trừ cái khoản rượu. Tu viện làm ra được bao nhiêu rượu là các thầy dòng nốc hết ráo. Đêm đến trong tu viện có vô số các thầy dòng tụ tập đánh bài sát phạt nhau, nếu không thì nhậu nhoẹt, say, ói mửa cả đống. Và ngay cả đàn bà cũng được đưa lén vào tu viện. Trước thực trạng đó, Cha bề trên nhắm mắt cho qua.
- Họ làm lụng cực nhọc, vất vả quá mà - Cha bề trên thủ thỉ tâm sự với Guiliano - Phần thưởng thiên đường đời sau thì cũng quá xa, mà chờ thì cũng quá lâu cho nên ngay bây giờ cũng phải để cho người ta hưởng chút gọi là. Vả lại, quỷ ma thì tinh quái mà thân xác con người thì yếu hèn. Chúa chắc cũng miễn xá cho họ.
Vào một buổi chiều mưa, cha bề trên dẫn Turi đến một khu khác của tu viện được dùng làm nhà kho. Tại đây, có vô số “thánh tích” do các thầy dòng khéo tay mạo chế. Như bất cứ một tay chủ tiệm, chủ nhà máy nào khác, cha bề trên cũng than phiền thời buổi khó khăn :
- Trước kia, công việc làm ăn này phát đạt lắm. - Ngài thở dài - Lúc đó cái kho này bao giờ cũng chỉ dùng có một nửa, vì hàng sản xuất không kịp thì lấy đâu mà tồn kho. Này, nhìn cái kho tàng thiêng liêng mà ta có này. Đây, đây là cái xương cá mà Chúa đã làm phép lạ như sách thánh đã chép “từ hai cái bánh và năm con cá, Chúa đã làm phép lạ cho hóa ra nhiều, đủ cho năm ngàn người ăn no, và gom các mẩu bánh dư thừa cũng còn chất đầy năm thúng”. Con có nhớ đoạn kinh Thánh ấy không? Ấy, xương cá ấy đấy. Đây, đây là cây gậy của Moise [2] đã biến thành con rắn [3] và con rắn lại thành cây gậy. - Ngừng một lát, cha bề trên nhìn vẻ kinh ngạc của Turi với sự thích thú. Rồi cái mặt xương xương, quắt queo như mặt khỉ của cha bị nụ cười nhăn nhở, tai quái làm cho méo xệch đi. Đưa chân hất hất đống gỗ thanh, ngài vui vẻ nói - Cái này là khoản ngon lành nhất đó à con! Hàng trăm mảnh gỗ cây thánh giá mà Chúa bị đóng đinh trên đó là do đống gỗ này mà ra. Và đây là hộp đựng di cốt của bất cứ đấng thánh nào con muốn. Ở Sicily này, không có một nhà nào mà lại không có hộp đựng di cốt một vị thánh nào đó. Nhưng mà này, di cốt các thánh chớ có phải cốt bò, cốt heo đâu mà sẵn thế. Ấy thế mà vẫn có dư. Thì đây này, nó đây. Và cứ mở khóa cái kho này ra là con có ngay trên một chục cây thánh giá của thánh An Rê, ba cái xương đầu lâu của Thánh Jeanne d’Arc. Vào mùa đông, công việc đồng áng rảnh rỗi, các thầy dòng của ta chịu khó lặn lội đi xa chào hàng. Hàng này đem bán ở nước ngoài mới lại càng vớ bẫm đó à con, hốt bạc đó à con!
Turi Guiliano toét miệng cười, còn cha bề trên chỉ cười mủm mỉm. Turi nghĩ mà thấy thương mấy người nghèo mê tín bị lừa bịp biết chừng nào! Mà lại bị lừa bịp bởi chính các vị có trách nhiệm chỉ dẫn con đường giải thoát mới đau chứ?! Đó cũng là một sự kiện quan trọng mà nó cần ghi nhớ.
Cha bề trên còn khoe với nó cả một thùng phuy chứa đầy những ảnh tượng đã được chính Đức Hồng Y Giáo chủ Palermo ban phép thánh nữa. Rồi, là ba chục tấm vải liệm Chúa Jesus, hai tấm vải liệm Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary. Guiliano nói với cha bề trên về bức tượng bằng gỗ mun có hình dạng người da đen Châu Phi mà bà mẹ hắn có và quí hóa lắm. Nghe đâu bức tượng này hay ban ơn Thánh và được bà mẹ hắn quí còn hơn đồ gia bảo, được lưu truyền từ mấy đời nhà hắn. Ở đây, có thể mạo chế ra những tượng như vậy không? Cha bề trên cười hềnh hệch, thân mật vỗ vai và nói với hắn :
- Từ trên một trăm năm nay, tu viện này đã chế tạo được hàng trăm phiên bản như vậy bằng gỗ cây ô liu thứ tốt, giết ai cho ra gỗ mun bây giờ, và gỗ cây ôliu thứ tốt đã là hiếm, và giá trị một cây ôliu đâu có phải ít.
Tuy nhiên ngài cũng quả quyết dù là phiên bản, những bức tượng ấy vẫn có giá trị vì.... số lượng chế tạo rất ít.
Cha bề trên thấy là tiết lộ cho một tên sát nhân những tội lỗi độc địa của những con người thánh thiện thì cũng chẳng hại gì. Tuy nhiên, sự im lặng có vẻ không đồng ý của Turi làm cho cha bề trên hơi bối rối. Ngài nói chống chế :
- Con nên nhớ rằng ngay cả khi đã dâng mình cho Chúa thì con người vẫn phải sống bằng cái xác phàm hèn, yếu đuối của mình. Mà cái xác phàm hèn này đâu có đủ kiên nhẫn để chờ đợi cái phần thưởng đời sau trên cõi vinh phước. Mỗi chúng ta đều có gia đình bà con anh em, không ít thì nhiều ta phải lo, phải bao bọc, phải giúp đỡ. Nhiều thầy dòng của ta là những người nghèo khổ hoặc xuất thân từ những gia đình nghèo khổ. Mà, như lời sách thánh đã day: người nghèo là muối [4] của trần gian. Đức bác ái không cho phép ta được để cho người khác - ít nhất là bà con, anh em, con cháu ta - phải đói khát trong thời buổi khó khăn này. Ngay cả Hội Thánh phải tự vệ trước sự tấn công của kẻ thù, phải chống lại mấy thằng cộng sản, mấy thằng xã hội nguỵ trang dưới chiêu bài dân chủ tự do chứ? Mà, muốn chống lại bọn đó một cách hữu hiệu thì phải có điều kiện “đầu tiên” chứ. Ấy, bán mấy cái món mạo chế này là để lấy tiền làm việc là rất cần thiết và rất có ích đó. Thật an ủi cho Hội thánh, mẹ của chúng ta, khi chúng ta trung hiếu với người, giúp đỡ Người trong lúc người đang nguy khốn, đang đấu tranh trước bao nhiêu kẻ thù nham hiểm, mưu lược đang hãm hại Người. Ta phải bán những món thánh tích này đặng lấy tiền giúp Hội Thánh diệt bọn bất trung, “Những kẻ làm nghịch cùng Hội thánh”. Vả lại, bán các thánh tích, dù là các thánh tích mạo chế, cũng là để đáp ứng nhu cầu của tâm hồn các tín hữu, các con chiên bổn đạo. Nếu ta không đáp ứng những nhu cầu ấy thì họ cũng phung phí tiền bạc vào sòng bài, vào nhậu nhẹt, ** điếm, hư thân mết nết đi thôi. Con đồng ý không?
Guiliano gật đầu đồng ý, nhưng tủm tỉm cười. Hắn đã học được cái thói quen không lộ nét mặt và cử chỉ bất cứ tình cảm, cảm xúc nào, chứ thật ra trong lòng hắn kinh ngạc đến rụng rời. Đúng cái tâm trạng của một người trẻ tuổi trong trắng, lý tưởng đụng phải tay đại bịp, bậc thầy về mặt đạo đức giả.
Cha bề trên bực bội vì nụ cười tủm tỉm của hắn. Bởi vì, ngài chờ đợi ở thằng khốn sát nhân ấy một câu trả lời sao cho nghe lọt tai một người đã lôi hắn từ ngưỡng cửa tử thần trở về, đã che giấu, cưu mang, chăm sóc hắn cả tháng trời. Thế mà bây giờ nghe nói thế hắn lại cười tủm tỉm thì không ức sao được. Ừ, câu trả lời của hắn có ba xạo đi chăng nữa, thì ít ra, vì lòng tôn kính, hàm ơn, đầu môi chót lưỡi hắn cũng phải làm ra cái vẻ thành thật. Chẳng lẽ cái thằng buôn lậu sát nhân này lại “quê rít quê róng” đến nỗi không biết được cái xã giao tối thiểu đó? Cha bề trên lạnh lùng nói :
- Con nên nhớ rằng dù ta có như thế nào đi chăng nữa thì ta vẫn có lòng trung tín với Hội Thánh, mẹ của ta. Và lòng trung tín ấy đặt trên cơ sở niềm tin vào sự mầu nhiệm!
- Bẩm vâng. - Guiliano đáp - Và con cũng cảm thấy bằng tất cả trái tim con rằng bổn phận của Cha là giúp con tìm được phép mầu nhiệm ấy.
Hắn nói mà vẻ mặt không có một chút ma mãnh, giễu cợt nào làm như chỉ do cái ý muốn tốt lành và chân thành là làm đẹp lòng vị ân nhân của hắn. Nhưng hắn đã phải hết sức dằn lòng mới khỏi bò ra mà cười.
Cha bề trên mãn ý. Và ngài lại nhìn hắn âu yếm. Đây là một anh chàng dễ mến. Ngài đã lấy làm thú vị được có hắn làm bầu làm bạn, chuyện trò rỉ rả trong tháng qua. Nhưng điều làm cho ngài khoan khoái nhất là ngài biết rằng anh chàng này cảm thấy mang ơn ngài sâu xa lắm. Về khoản này, quả thật, Guiliano không phải là phường vong ân bạc nghĩa. Trái lại, hằng ngày, mỗi khi có dịp, hắn sẵn sàng tỏ lòng tôn kính và lòng nhớ ơn của hắn bằng lời nói và việc làm đối với cha bề trên. Hắn không hề cảm thấy hối hận về điều hắn đã phạm, tức là khử một thằng cớm.
Cha bề trên ngẫm nghĩ: “Cái gì có thể xảy ra cho một con người như vậy trên cái đất Sicily đầy rẫy những chỉ điểm, mật thám, nghèo đói, ăn cướp và vô vàn, vô số tội phạm “tép riu” khác! A, được, ngựa quen đường cũ. Một kẻ đã giết người được một lần thì sẽ tiếp tục giết nữa, nữa, nữa. Tội ác cứ như cái kềm càng ngày càng siết chặt lấy hắn”. Bởi thế, cha bề trên đã quyết định nói với Ông Trùm Croce Malo dẫn hắn vào con đường - mà theo ý của ngài - rất phù hợp với khả năng và khuynh hướng của hắn.
Một ngày kia, lúc đang nằm nghỉ trên giường, Guiliano thấy có một vị khách lạ được cha bề trên đưa đến thăm. Người khách đó được cha bề trên giới thiệu là cha Benjamino Malo, một người bạn thân thiết của cha. Rồi, cha để chào hai người ngồi nói chuyện riêng với nhau. Bằng giọng ân cần, niềm nở, cha Benjamino nói :
- Anh bạn trẻ, cha bề trên cho cha biết là con bị thương rất nặng, nhưng con đã bình phục như thể do phép mầu nhiệm. Cha bề trên thánh thiện ở đây khẳng định rằng chỉ có phép mầu nhiệm mới có thể làm cho vết thương của con nặng như vậy mà lành được.
Guiliano lễ phép đáp :
- Nhờ ơn Chúa rủ lòng thương.
Và cha Benjamino hơi cúi đầu như thể chính người cũng được hưởng “ké” ân sủng đó.
Guiliano chăm chú nhìn ông ta. Đây là một ông cha chưa từng phải làm lụng nắng mưa ngoài vườn, ngoài ruộng. Cái áo thụng đen của cha - cho đến tận cái gấu áo - sạch sẽ quá chừng. Mặt cha béo phúng phính, trắng nõn. Hai bàn tay mềm mại quá. Nhưng chỉ cái vẻ nghiêm trang của cha cũng đủ thánh thiện rồi. Nom cha nhu mì, hiền hậu và tưởng như cha chẳng còn thiết gì đến sự đời trần tục nữa. Và cha lại còn có vẻ khiêm nhường, hạ mình. Tiếng nói ấm áp, dịu dàng, phúc hậu của cha lại rủ rỉ bên tai Guiliano :
- Con à, cha muốn ban phép giải tội và sau đó ban Thánh Thể cho con. Con hãy xưng tội đi để con có thể ra sống ngoài đời với tấm lòng trong sạch và thanh thản.
Turi Guiliano chăm chú nhìn vị giáo sĩ vận dụng đến quyền năng siêu phàm. Hắn nói :
- Thưa cha, xin cha tha lỗi, con chưa có tâm trạng ăn năn sám hối, nếu con xưng tội mà không có tâm trạng sám hối, con e rằng tội của con không được Chúa tha mà còn mắc thêm một trọng tội nữa là làm hư phép bí tích giải tội. Đó là tội phạm thánh, phải không, thưa cha? Tuy nhiên con hết sức cảm kích vì hảo ý của cha và hết lòng cảm tạ cha.
Vị giáo sĩ gật gật nhè nhẹ cái đầu ra vẻ đồng ý và nói :
- Ừ, nếu như thế thì thêm tội nữa thật. Đúng, tội phạm thánh! Nhưng cha lại có một đề nghị khác với con. Và đề nghị này có lẽ thực tế hơn với con ở đời này. Anh của cha là Ông Trùm Croce nhờ cha đến hỏi xem con có muốn đến nương náu đằng nhà anh ấy, ở Villiba ấy mà. Với con thì anh trả lương hậu hĩ, ưu đãi, và tất nhiên - như con đã biết - chính quyền không dám đụng đến cái lông chân của con khi con được anh bao che.
Guiliano kinh ngạc vì việc mình làm đã đến tai một người như ÔngTrùm Croce. Hắn biết là từ nay hắn phải cẩn thận, hết sức cẩn thận. Hắn ghét Mafia thậm tệ, ghét cay ghét đắng. Và hắn không muốn để cho mình bị dính vào cái lưới của chúng :
- Thật là một vinh dự lớn cho con. - Hắn nói - Tạ ơn cha và tạ ơn Ông Trùm. Nhưng con còn ông bà già. Mặc áo sao qua khỏi đầu. Ông bà già con còn, thì con phải theo ý của ông bà già con. Do đó xin cha ban cho con thời gian để lãnh ý ông bà già con đã. Ngay lúc này xin cho phép con được từ chối ân huệ của cha.
Hắn thấy vị giáo sĩ ngạc nhiên. Ở Sicily này, người ta cầu cạnh không được, chớ có ai lại từ chối sự che chở của “tay tổ” Croce nhỉ? Mà dù không muốn đi chăng nữa, cũng chẳng có ai dám từ chối một khi “tay tổ” đã yêu cầu. Bởi vậy, hắn nói thêm :
- Có thể ngày mai, ngày mốt con sẽ nghĩ khác đi. Và nếu vậy con sẽ xin đến Villaba gặp cha.
Lúc bấy giờ cha Benjamino mới hết cơn choáng do sự ngạc nhiên gây ra. Ngài đưa tay ban phép lành cho Turi Guiliano.
- Con à, hãy đi theo chân Chúa. Con sẽ luôn luôn được nồng nhiệt tiếp đón ở nhà người anh của cha.
Ngài đưa tay làm dấu thánh giá, rồi đi ra.
Turi Guiliano biết rằng đã đến lúc hắn phải rời tu viện. Tối hôm đó, lúc Aspanu Pisciatta đến thăm Guiliano bảo y phải chuẩn bị sẵn các thứ cần thiết để hắn rời tu viện và dấn thân vào cõi giang hồ. Hắn biết rằng khi cuộc sống thay đổi, hắn chỉ có Pisciotta làm bầu bạn. Pisciotta cũng chẳng có vẻ ngần ngại hoặc phản đối khi nhận được lệnh mà y biết rằng sẽ làm thay đổi một cách sâu xa cuộc sống của chính bản thân y. Sau cùng, Guiliano nói :
- Aspanu, mày muốn đi theo tao hay mày cứ ở lại gia đình mày cũng được, tùy ý mày!
- Bộ mày tưởng tao lại sẵn lòng nhường để cho mày hốt hết vinh quang, hưởng hết sự thú vị chắc? Để cho mày rong chơi trên núi, còn tao ở dưới này dắt lừa đi làm quần quật, đi hái ôliu mướn hả? Thế mà cũng đòi nói tình nghĩa anh em, bầu bạn. Phần tao, tao đâu có lòng dạ nào để cho mày một mình trơ trọi trên núi, khi mà từ nhỏ đến giờ, hai đứa mình - đi chơi hay đi làm - lúc nào cũng có nhau. Chỉ khi nào mày có thể tự do, thảnh thơi trở về Montelepre thì tao cũng mới trở về đó. Bởi vậy, đừng có nói chuyện điên khùng nữa đi, “cha”! Bốn ngày nữa “con” sẽ rước “cha”. “Con” cần một thời gian ngắn để lo liệu và làm tất cả những gì mà “cha” vừa ra lệnh khi nãy đó!
Trong bốn ngày đó, Aspanu Pisciotta bận tíu tít. Y đã dò ra tung tích của thằng buôn lậu cưỡi ngựa đã đề nghị đuổi theo bắt Turi khi hắn bị thương. Thằng chó đẻ ấy tên là Marcuji. Và thằng ấy cũng là một tay đáng gờm, buôn lậu vào loại có hạng, tay em dưới trướng của Ông Trùm Croce, ông kẹ Quintana. Hắn cũng có một người chú ruột cùng tên, cũng có cỡ trong băng “Người anh em”.
Pisciotta phát hiện ra là Marcuji có những chuyến buôn lậu đều đặn giữa Castellammare và Montelepre. Y cũng dò ra tên thằng “nhà quê” đã giữ gìm bầy la của thằng buôn lậu và mỗi khi bầy la được dắt từ trên núi xuống chuồng ở gần thị trấn Montelepre thì ngày hôm sau thằng buôn lậu sẽ có chuyến đi tải hàng.
Hôm đó, lúc vừa tảng sáng, Pisciotta đứng sẵn bên lề đường mà y biết chắc thằng Marcuji lát nữa thế nào cũng đi qua. Gã có một khẩu súng. Nhiều gia đình ở Sicily đều có súng và coi như một món đồ gia dụng cần thiết. Thật ra, dân Sicilian thường xài súng để thanh toán lẫn nhau và phổ biến đến nỗi khi diệt Mafia, Mussolini đã ra lệnh phải phá tất cả các bức tường xây bằng đá, không để cho bức tường nào cao quá 3 tấc để ngừa bọn sát nhân dùng tường làm nơi ẩn núp, phục kích.
Pisciotta quyết định khử Marcuji không phải chỉ vì thằng buôn lậu ấy đã tấn công, và đề nghị giúp bọn cớm bắt Guiliano lúc hắn bị thương, mà còn vì thằng này đã huênh hoang, khoác lác kể lại với bạn của nó. Bằng cách khử thằng buôn lậu này, Pisciotta muốn cảnh cáo bất cứ kẻ nào phản, chống lại Guiliano. Vả lại, y cũng cần khẩu súng mà y biết chắc thế nào thằng đó cũng mang theo. Y không phải chờ lâu.
Marcuji đang lùa bầy la đi Castellammare tải hàng nên gã thấy không cần đề phòng, cảnh giác. Vì thế, gã đeo khẩu súng trên vai, chứ không cầm tay sẵn sàng. Khi thấy Pisciotta đứng bên lề đường trước mặt, thằng buôn lậu cũng không cảnh giác. Tất cả những gì gã thấy chỉ là một thằng lỏi ốm o, xanh xao, có hàng ria mép trai lơ đang mỉm cười, châm chọc nhìn gã. Chỉ đến khi Pisciotta rút súng ra khỏi áo vét, chĩa vào gã thì gã mới giật mình. Gã tính phủ đầu Pisciotta và áp đảo tinh thần nó bằng một câu nói vừa hách dịch cha chú, vừa đểu cáng, xỏ lá. Gã xẵng giọng nói :
- Gõ lộn cửa rồi, con ơi! Nhìn coi mấy con la đi không, chứ làm gì đã có hàng. Bố mày mới đi, chứ chưa chở hàng về. Còn mấy con la này, nói cho con hay là của mấy ông nội mày đó. Mày mà đụng vào thì mồ tổ mà cũng không yên đâu. Kiếm chỗ khác làm ăn đi, con!
Thằng buôn lậu những tưởng đem oai mấy ông kẹ Mafia hù dọa thì thằng nhỏ này “teo” ngay. Ai dè, y không “teo” thì chớ, mà còn giở giọng ba que để đối đáp trả lại :
- Ê, thằng chó đẻ, tao không thèm lấy hàng, mà chỉ muốn lấy cái mạng chó của mày. - Điểm nụ cười độc ác y nói tiếp - Mày đã có lần muốn làm anh hùng của bọn cớm. Mới cách nay hai tháng chớ có lâu la gì đâu, nhớ không, thằng khốn?
Marcuji nhớ ra. Gã trở đầu con la quay sang một bên làm như thể tình cờ con la lồng, quay như vậy. Nhưng thực ra là để che không cho Pisciotta thấy gã thò tay vào thắt lưng móc khẩu súng lục ra. Cùng lúc đó, gã giật mạnh dây cương cho con la quay một vòng cho tiện thể bắn. Điều cuối cùng mà gã nhìn thấy là nụ cười vừa nham hiểm vừa tai quái, châm chọc của Pisciotta. Phát đạn của gã chưa kịp bắn, thì phát đạn của Pisciotta đã lật gã khỏi yên con la và hất gã xuống đất.
Với sự thỏa mãn độc ác, Pisciotta đứng giạng hai chân trên xác thằng buôn lậu, thí cho gã một phát ân huệ, rồi cúi xuống nhặt khẩu súng lục còn nằm trong tay Marcuji và tháo khẩu tiểu liên còn đeo choàng qua vai gã. Y moi hết đạn trên người thằng buôn lậu bỏ vào bao đạn của mình. Rồi tuần tự, mau lẹ, có phương pháp, y “đế” cho mỗi con la một phát, như một sứ điệp chuyển lời cảnh cáo đến cho bất cứ kẻ nào có manh tâm giúp đỡ kẻ thù của Guiliano, dù là giúp gián tiếp. Y lên đường, khẩu súng lục của y trong tay, khẩu súng lục của Marcuji thì nhét vào cạp quần và khẩu tiểu liên thì đeo lủng lẳng trên vai.
Y thanh thản, chẳng cảm thấy xót thương, ái ngại hay hối hận, áy náy gì ráo. Sự độc ác làm cho y mãn nguyện. Mặc dù y rất thương Guiliano, thằng anh họ và đồng thời là bạn chí cốt của y, nhưng mỗi đứa vẫn có lối cảm nghĩ riêng và hành xử riêng. Và mặc dù coi Guiliano là sếp, y vẫn cảm thấy phải chứng tỏ y vừa can đảm, khéo léo vừa có năng lực không thua gì Turi. Bây giờ, với bàn tay dính máu, y cũng bước ra khỏi cái vòng “yêu quái” của tuổi con trai và dứt bỏ mọi cương tỏa của xã hội để cùng với Turi vùng vẫy trên chốn giang hồ. Với hành động vừa rồi, y đã vĩnh viễn đứng về phía Turi Guiliano.
Hai ngày sau khi Pisciotta khử thằng buôn lâu, đúng bữa cơm tối. Guiliano rời khỏi tu viện. Hắn ôm hôn tất cả các thầy dòng tụ tập ở phòng ăn và cám ơn lòng tốt của họ. Các thầy dòng cũng cảm thấy bùi ngùi, buồn vì sự ra đi của hắn, dù rằng chẳng bao giờ hắn dự các nghi lễ tôn giáo với họ, chẳng xưng tội và cũng chẳng hề hối hận về cái tội sát nhân hắn đã phạm. Nhưng trong số các thầy dòng cũng có một vài vị đồng cảm với hắn, vì tuổi trưởng thành của họ cũng được đánh dấu bằng những tội ác tương tự và cũng chẳng cảm thấy bị xét xử gì.
Cha bề trên tiễn Guiliano ra tận cổng tu viện, nơi Pisciotta đang chờ. Ngài đã tặng nó một món quà từ biệt. Đó là bức tượng đen Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary mà bà Maria Lambardo Guiliano cũng có một phiên bản. Pisciotta thì được tặng một chiếc ba lô màu ôliu của nhà binh Mỹ. Guiliano cất bức tượng vào ba lô ấy.
Pisciotta nhìn cảnh cha bề trên và Guiliano từ biệt nhau bằng con mắt giễu cợt. Y biết cha bề trên cũng là trùm buôn lậu, một thành viên bí mật của Mafia và ông chủ khắc nghiệt của các nô lệ tức các thầy dòng. Bởi vậy y không sao hiểu được tình cảm bịn rịn, lưu luyến lúc chia tay của cha bề trên. Pisciotta cảm thấy có tình yêu, có sự cảm mến và nể trọng đối với Turi Guiliano. Nhưng y chẳng cảm thấy những tình cảm ấy đối với ai, dù người ấy vừa già cả, vừa có uy quyền như cha bề trên.
Dù sự cảm mến của cha bề trên đối với Guiliano có chân thành đi nữa thì cũng vẫn đượm vẻ vị kỷ. Ngài biết chắc chắn anh chàng thanh niên này một ngày kia sẽ trở thành một lực lượng không thể không tính đến ở Sicily. Phải là một tay lão luyện trong nghề dao búa, đồng thời có con mắt sành sỏi bậc thầy và một bộ óc sắc sảo nhìn xa trông rộng của một chiến lược gia có tài, thì mới có thể nhìn ra con phượng hoàng vừa chui ra khỏi vỏ trứng này. Về phần Guiliano, hắn biết ơn một cách chân thành, thuần khiết cha bề trên đã cứu sống hắn, và trên hết đã mở cho hắn thấy một thế giới mới - vừa quái gở, độc ác, lại vừa thâm trầm, quyến rũ, - cho hắn hiểu nhiều điều kỳ bí của mặt trái cuộc đời và đồng thời đã là người bạn gây cho hắn nhiều hứng thú. Trong thời gian hắn lẩn trốn tại tu viện, cha bề trên lại còn có nhã ý cho hắn sử dụng cả thư viện riêng của ngài. Điều đáng ngạc nhiên là hắn cảm mến chính cái mâu thuẫn, đối chọi giữa cái tốt và cái xấu hội tụ nơi con người này. Đối với hắn, cuộc đời như vậy cũng hồi hộp, thú vị và hấp dẫn như đi trên dây: làm điều tốt công khai đồng thời làm điều xấu kín đáo. Sự thăng bằng quyền lực giữa cái thiện và cái ác sẽ làm cho cuộc đời êm ả.
Cha bề trên và Turi ôm hôn lẫn nhau. Turi nói :
- Con mang ơn Cha nhiều lắm. Cha cứ cho gọi bất cứ khi nào Cha cần đến sự giúp đỡ của con. Con không hề từ nan bất cứ một sợ giúp đỡ nào mà Cha cần đến ở nơi con. Cha bảo gì con làm nấy.
Cha bề trên thân mật vỗ vai hắn và nói :
- Đức bác ái Ki-tô giáo không cho phép đòi hỏi sự đội ơn. Con hỡi, hãy quay trở lại con đường của Chúa và hãy kính sợ Chúa.
Nói vậy, nhưng Cha cũng biết rằng chính mình nói như một con vẹt. Cha cũng dư hiểu sự ngây thơ trong anh bạn trẻ này là thứ ngây thơ nào. Nhưng ngài rất nhớ lời hứa của Guiliano.
Guiliano khoác cái ba-lô lên vai, mặc dù Pisciotta không chịu nhận. Hai đứa sóng vai nhau bước qua cổng tu viện mà không ngoái cổ lại.
[1] Nguyên văn tiếng ý: đại khái là một loạt 1 không: không biết, không nghe, không thấy, không nói, nghĩa là nín thinh trước mọi tội ác cho dù có bị tra tấn.
[2] Moise là người được Chúa Trời uỷ thác giải phóng người Do Thái bị làm nô lệ cho người Ai Cập cách đây mấy nghìn nưm (N.D).
[3] Giavê (Chúa Trời) phán với Moise: Người cầm cái gì ở tay đó? - Bẩm, cây gậy. Giavê phán - Hãy quăng nó xuống đất. Moise liệng cây gậy xuống đất. Lập tức, cây gậy biến thành con rắn bò ngo ngoe. Moise hết hồn, chạy trốn con rắn. Giavê lại phán - Hãy lấy tay chụp lấy đuôi nó. Moise làm theo, đưa tay chụp lấy đuôi con rắn. Và con rắn lại biến thành cây gậy trong tay ông (Kinh Cựu ước, sách Xuất hành, đoạn 4, câu 2 - 5).
[4] Muối để ướp thịt cá cho khỏi thối. Chuyển sang nghĩa bóng, nhờ người nghèo mà loài người bớt tội lỗi (N.D).
Từ một mỏm đá nhô ra trên đỉnh núi Ora, Turi Guiliano và Aspanu Pisciotta có thể nhìn xuống thị trấn Montelepre ở phía dưới và chỉ cách chúng vài dặm. Ánh đèn le lói từ những ngôi nhà trong thị trấn như đang cố gắng một cách tuyệt vọng để chống lại màn đêm đang từ từ buông xuống. Guiliano tưởng như mình còn nghe thấy tiếng nhạc từ máy phóng thanh ở quảng trường vọng lên, tiếng rao của người bán hàng rong trước mỗi bữa cơm chiều.
Nhưng, không khí trên núi thật khó chịu. Phải mất hai giờ để đi xuống và bốn giờ để đi lên chỗ mỏm đá ấy. Lúc nhỏ, Turi Guiliano và Pisciotta đã từng chơi đùa ở đây. Chúng biết rõ từng mỏm đá, đường hầm, khe núi, cái hang. Xa xa, phía sau mỏm đá chúng đang đứng, có một cái hang. Khi còn nhỏ, chúng rất thích hang này và tự đặt tên nó là Bianca. Hang rộng hơn bất cứ ngôi nhà nào ở Montelepre.
Aspanu đã tuân lệnh hắn, Turi nghĩ thế. Trong hang có túi ngủ, có xoong chảo, thùng đựng đạn, giỏ lương thực. Có cái thùng gỗ đựng đèn pin, đèn dầu và dao. Cũng có cả một thùng dầu hỏa. Guiliano vừa cười vừa nói với Pisciotta :
- Tụi mình có thể sống hoài ở đây được.
- Vài ngày thôi. - Aspanu nói - Đây sẽ là chỗ đầu tiên bọn cảnh vệ ập tới, nếu chúng đi lùng mình.
- Bọn thỏ đế đó chỉ dám đi ban ngày thôi. - Turi đáp - Ban đêm thì tụi mình bình an vô sự.
Bóng tối như một tấm màn lớn từ từ buông phủ trên rặng núi. Nhưng trời đầy sao đến nỗi chúng có thể nhìn thấy nhau, Pisciotta mở ba-lô, lôi vũ khí và quần áo ra. Turi cởi chiếc áo dòng mà hắn vẫn mặc từ lúc rời khỏi tu viện và mặc chiếc quần nhung, áo sơ-mi... bên ngoài khoác áo jaket da cừu, chậm rãi, trang nghiêm như ông cố đạo làm lễ, Turi mang vũ khí vào: hai khẩu súng lục lủng lẳng hai bên hông, một khẩu đeo trong bao kẹp dưới nách, một khẩu súng nhỏ nhét trong túi áo jaket, lưng thắt sợi dây nịt gần đầy đạn, bên ngoài áo jaket là sợi dây nịt khác gắn băng đạn, khẩu tiểu liên đeo lủng lẳng trên vai. Turi mỉm cười nhìn Aspanu chỉ có con dao giắt sau lưng và khẩu tiểu liên cầm tay. Ngắm nghía Turi võ trang như vậy, Pisciotta bật cười :
- Nhìn mày với bấy nhiêu thứ đồ giết người đeo chằng chịt, tao có cảm tưởng như tao ở truồng vậy. Mang bấy nhiêu thứ trên người thì làm sao mày đi được, chớ đừng nói là chạy nữa. Vả lại, lỡ khi mày té, thì với cái xác “voi” của mày, cộng với thêm bấy nhiêu thứ đó nữa thì làm sao tao đỡ mày dậy cho nổi?
Guiliano mỉm cười, nụ cười khó hiểu. Dường như đó là nụ cười của một đứa trẻ tin rằng mình đã bị đẩy vào đường cùng. Vũ khí cà lên vết thẹo làm cho hắn cảm thấy đau đau. Nhưng hắn lại khoái cái đau đó. Vì, đối với hắn, cái đau đó chính là lời miễn xá cho tất cả những tội lỗi mà hắn sẽ phạm. Vì vết thẹo đó là món nợ hắn cho xã hội vậy. Những tội lỗi mà hắn sẽ phạm chẳng qua chỉ là cách hắn đòi lại món nợ đó mà thôi. Hắn nói với Pisciotta :
- Tao đã sẵn sàng đi gặp kẻ thù.
Từ đỉnh núi Ora dưới vòm trời đầy sao lấp lánh, hai đứa lần theo con đường mòn ngoằn ngoèo dẫn xuống thị trấn Montelepre. Được vũ trang để chống lại tử thần và chống lại đồng loại độc ác, hai đứa bước đi hân hoan. Mùi hương hoa chanh và mùi hoa dại ngào ngạt trong không gian. Guiliano cảm thấy một sự bình thản mà hắn chưa từng bao giờ cảm thấy. Hắn không còn bất lực trước kẻ thù ngang tàng, càn quấy và cũng chẳng phải đối diện với kẻ nội thù khủng khiếp nhất đối với hắn là sự nghi ngờ lòng can đảm của chính hắn. Phát đạn đã kết thúc cuộc đời của tên cớm kia, cũng đã kết thúc cuộc đời của kẻ nội thù ghê gớm nhất nằm ngay trong chính nội tâm hắn. Hắn cảm thấy từ nay không còn sợ bất kỳ ai, bất kỳ cái gì. Nghênh ngang, ngạo nghễ, hiên ngang đi gặp mọi kẻ thù. Nếu đã có một lần hắn khiến được đời hắn phải sống, cho thân thể bị đạn bắn lủng phải lành, số lượng máu đã mất phải tự bù lại cho đủ.... thì hắn tin rằng, hắn sẽ còn có thể tiếp tục ra lệnh như vậy nhiều lần nữa. Hắn không hề nghi ngờ mình có số hên. Và, sẽ còn hên dài dài. Hắn tin rằng rồi ra hắn cũng sẽ như các anh hùng trong các truyện cổ tích dân gian: chỉ chết khi đã hoàn thành nhiệm vụ, chỉ chết khi đã chiến thắng vinh quang! Hắn sẽ không bao giờ từ bỏ dãy núi này, gốc ôliu này và xứ Sicily khốn khổ và nghèo đói này. Hắn chỉ có một ý tưởng mơ hồ về cái tương lai huy hoàng của hắn. Hắn không thể nào lại trở thành một chàng thanh niên quê mùa, nghèo nàn, thấy bóng thằng cớm là đã mặt mày tái mét, lấm la lấm lét, thấy bóng quan tòa là khép nép run sợ, mặc dù mình chẳng làm gì nên tội, mặc dù lũ cớm và quan tòa thực ra cũng chỉ là những thằng còn tệ hơn mình bội phần, những thằng đã làm cho luật pháp, cho xã hội trở nên ung thối.
Hai đứa đã đi xuống đến con đường dẫn vào thị trấn Montelepre. Chúng đi qua một miếu thờ bên lề đường. Bên trong miếu thờ có tượng Đức Thánh Mẫu Mary đang ẵm Đức Chúa Con. Màu áo xanh da trời của Đức Thánh Mẫu sáng lên như mặt biển dưới ánh trăng. Không khí ngạt ngào mùi hương hoa chanh làm cho Guiliano ngây ngất. Hắn thấy Pisciotta dừng lại, hái một trái lê dại ngào ngạt vì không khí mát lạnh ban đêm. Hắn cảm thấy tràn ngập lòng yêu người bạn, đồng thời là thằng em họ, đã cứu hắn thoát chết, một tình yêu đã có gốc rễ từ lúc cả hai đứa còn là những đứa trẻ thơ dại. Hắn muốn chia sẻ cho bạn mình sự bất tử của hắn. Số mệnh của chúng không phải là sẽ chết như một anh nông dân vô danh tiểu tốt sống trên sườn núi ở Sicily. Trong niềm hứng khởi đó, hắn đã la lớn tiếng :
- Aspanu, Aspanu! Tao đã tin! Tao đã tin.
Chúng đã đi tới con dốc cuối cùng và sắp đi ra khỏi những tảng đá vôi chập chờn như bóng ma quái, đi qua khỏi miếu thờ có tượng Đức Chúa Jesus và tượng các thánh tuẫn đạo. Aspanu Pisicotta chạy bên cạnh Turi Guiliano, cười giỡn, tung tăng chạy nhảy dưới ánh trăng non đang soi đường cho chúng đi tới thị trấn Montelepre...
Dưới chân núi là một dải đất trống để chăn thả súc vật, qua bãi đất trống là bức tường sau của những ngôi nhà. Đằng sau những bức tường xây bằng đá ấy là những mảnh vườn trồng cà chua, và đôi khi vài gốc chanh hoặc một gốc ôliu. Cửa sau vườn của nhà Guiliano khép hờ. Hai đứa lặng lẽ lẻn vào, thì đã thấy bà mẹ Guiliano đứng chờ. Bà lao vào vòng tay của con, trên má bà, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Bà ôm hắn thật chặt, hôn hắn thật sát và thì thầm: “Cục cưng của mẹ, cục cưng của mẹ!” Và, lần đầu tiên trong đời. Turi Guiliano thấy mình đứng trơ dưới ánh trăng, trong lòng không gợn lên một chút xúc động, không có những cử chỉ đáp ứng lại sự vồ vập của mẹ.
Lúc đó đã gần nửa đêm. Trăng hãy còn sáng. Họ vội vã đi vào trong nhà để tránh con mắt rình rập của bọn mật thám. Các cửa sổ đều đóng lại. Những người thân trong gia đình Guiliano và gia đình Pisciotta đứng rải rác ngoài đường để canh chừng và báo động, nếu có toán tuần tiễu của cảnh sát. Trong nhà, người thân và bạn bè của hai gia đình chờ đợi đón mừng chúng trở về. Một bữa ăn còn lớn hơn cả bữa tiệc lễ Phục Sinh được dọn ra. Sau bữa ăn chung vui này, Turi và Aspanu sẽ phải “cắm trại” trên núi.
Ông bố Guiliano ôm hôn và vỗ vỗ lên lưng hắn, tỏ ý tán thưởng. Hai chị hắn, giáo sư Hector Adonis và cả một chị hàng xóm tên là La Venera cũng có mặt ở đó. La Vennera là một người đàn bà góa chồng mới khoảng 35 tuổi. Chồng chị là một tên cướp khét tiếng: Candelaira - bị phản bội và bị cớm phục kích bắn chết mới cách đó khoảng hơn hai năm. Tuy chị ta là người bạn thân nhất của bà mẹ Guiliano, nhưng Turi vẫn ngạc nhiên về sự có mặt của chị ta ở đây vào lúc này. Chỉ có bà già của hắn mới dám mời chị ta vào dịp này mà thôi. Trong giây lát, hắn tự hỏi tại sao? Hắn định hỏi bà mẹ, nhưng lại thôi vì thấy không tiện.
Họ ăn, uống, đối đãi với Turi như thể hắn vừa trở về sau một thời gian dài sống ở nước ngoài. Ông bố hắn muốn xem vết thẹo. Guiliano kéo áo lên để lộ vết thẹo to tướng, đỏ lói, xung quanh có vết bầm, xanh chàm do hậu quả thịt chỗ đó không bị thủng, nhưng cũng bị viên đạn làm chấn thương. Nhìn vết thẹo, bà già bật khóc, Guiliano mỉm cười và nói :
- Bộ má muốn con ở trong tù với vết thương do đòn bastinado hơn hay sao?
Mặc dù bầu không khí gia đình có vẻ vui gấp hai những ngày vui nhất hồi hắn còn bé, Guiliano vẫn cảm thấy không hòa nhập được hoàn toàn, vẫn cảm thấy một khoảng cách nào đó giữa hắn và gia đình. Thức ăn ngon: mực ống xào với mì, nước sốt cà chua, thịt cừu non rô ti và nướng, một chén lớn dầu ôliu trong vắt béo ngậy, tinh khiết, đĩa xalat... và một vò rượu vang. Tất cả đều là sản phẩm của Sicily. Bố và mẹ Guiliano lại kể lại những ngày huy hoàng hồi còn ở bên Mỹ. Giáo sư Hector Adonis đã làm cho họ say mê với những trang sử oai hùng của đảo Sicily, của Garibaldi [1] với cái áo sơ-mi đỏ nổi tiếng của ông, của những ngày toàn dân Sicilian nổi lên chống lại bọn Pháp dưới sự lãnh đạo Vespers trước đó cả trăm năm, cũng như tất cả những chuyện về dân Sicilian bị áp bức, bóc lột, đày đọa bắt đầu từ Rôme, rồi đến Maure, người Viking phương Bắc, bọn Pháp, Đức, Tây Ban Nha... Ôi, những tai họa của Sicily! Sicily không bao giờ được tự do, hạnh phúc mà chỉ được đói, được nghèo, được khổ và được... đổ máu!
Và ngày nay, không một người dân Sicily chính cống nào còn tin vào chính phủ, vào luật pháp, vào cơ cấu tổ chức trật tự xã hội. Vì, trong quá khứ, gần cũng như xa, tất cả những thứ đó chỉ được dùng để biến họ thành những con vật kéo xe, kéo cày. Qua bao năm, Guiliano đã từng được nghe, được biết và đã nhớ như in vào óc những chuyện này. Thế mà, hôm nay nghe lại, hắn vẫn còn thấy máu căm hờn sôi lên. Và hắn nghĩ hắn sẽ làm cho tất cả những cái đó phải thay đổi.
Guiliano nhìn Pisciotta ngồi nín thinh hút thuốc và lặng lẽ nhả khói qua ly cà-phê. Đối với Pisciotta thì cuộc đời này chẳng có gì là quan trọng, là trang nghiêm. Bởi vậy ngay trong cuộc họp mặt này, y chỉ làm thinh, giữ trên môi nụ cười tủm tỉm - không phải là nó có tính ít nói, trái lại cái miệng nó tía lia, hoặc vì nó lo lắng, bẽn lẽn - nụ cười mỉa mai, chế giễu. Nhìn nụ cười ấy, Guiliano biết được nó đang nghĩ gì trong đầu. Đại khái như thế này :
“Có đếch gì đâu mà cứ bốc thơm nhắng cả lên. Ngu thấy mẹ đi nên mới để cho thằng cớm “đòm” cho một phát. Cũng may là không đi tong luôn. Và cũng hên là đã kịp “lật gọng” thằng cớm đó mà trả thù, chứ không thì lấy mã tấu đẽo mặt cả đời chưa hết nhục. Nhưng, lại bị chúng săn như săn thỏ ấy. Vậy mà ông bà già mày và mấy người kia - thối thấy mẹ - cứ làm như mày là ông thánh vừa trên thiên đường sa xuống không bằng”.
Tuy ngồi nín thinh với những ý tưởng giễu cợt, nhưng so với Turi Guiliano thì Aspasnu Pisciotta không cảm thấy khoảng cách giữ y với những người kia hoặc cảm thấy lạc lõng, trơ trọi trong khung cảnh này.
Guiliano nhìn sang La Venera. Chị đàn bà nạ dòng này, bà già mời làm gì, và tại sao chị ta lại đến? Hắn thấy chị ta không đẹp nhưng vẫn còn có nét lắm, táo bạo, nhưng hơi lẳng, ý chí kiên quyết lộ qua cặp lông mày như hai nét vẽ bạo tay và dứt khoát của một họa sĩ có tài, đôi môi đỏ xám như thể màu đỏ được nhìn qua một làn khói mỏng. Khó mà nói được khuôn mặt chị ta giống cái gì vì chị ta choàng khăn tang đen theo kiểu góa phụ Sicilian.
Turi kể lại đầu đuôi câu chuyện “tai nạn” của hắn. Ông bố của Guiliano - hơi ngà ngà - cất cái giọng lè nhè lên hoan hô vì hắn chỉ “nổ” có một phát một mà thằng cớm kia “đứt bóng” ngay. Bà mẹ hắn làm thinh. Ông bố hắn kể lại chuyện anh nông dân đến đòi lại con lừa, nhưng lão đã nói: “Anh mất có con lừa, còn tôi mất thằng con trai thì sao?”. Aspanu nói chen vào: “Thật đúng là đồ lừa lại đi tìm đồ lừa”. Mọi người cười ồ. Ông bố Guiliano cao hứng nói tiếp: “Thằng cha đó nghe chuyện thằng cớm bị “đứt bóng”, bèn sợ té đái ra. Vì nếu đòi con lừa thì sẽ bị cớm hỏi thăm, lôi thôi dám bị no đòn bastinado lắm. Vì vậy nó mới thôi, chứ dễ à?” Turi thủng thỉnh nói: “Con sẽ tìm cách trả cho ông ta con lừa khác”.
Sau cùng, giáo sư Hector Adonis phác họa kế hoạch cứu Turi. Theo ông thì sẽ bồi thường cho gia đình tên cớm bị “lật gọng” kia chút ít tiền. Vậy, ông bà già của Guiliano sẽ bán một thửa đất đi, và ông sẽ bù thêm chút ít vào đó. Nhưng, cũng phải đợi cho bên đó (gia đình tên cớm) nó nguôi ngoai đi đã. Ông Trùm sẽ làm áp lực với chánh quyền để nhận chìm vụ này và để gia đình tên cớm kia khỏi làm lôi thôi. Tóm lại là coi vụ đó như một tai nạn nghề nghiệp không hơn không kém. Làm sao để cả hai phía - chánh quyền cũng như gia đình tên cớm - đừng có bươi ra nữa, nhưng bề ngoài thì hai bên vẫn làm ra cái vẻ này nọ. Chỉ còn lại một việc phải giải quyết là cái căn cước mà Guiliano để lại hiện trường. Cái đó, trong vòng một hôm, Ông Trùm sẽ tìm cách để cho nó “thất lạc” khỏi hồ sơ phòng dự thẩm của ông biện lý. Điều quan trọng nhất là trong suốt năm nay, Turi cứ phải ẩn náu trên núi và không được lộn xộn gì.
Turi kiên nhẫn nghe, mỉm cười đầu gật gù, không lộ vẻ bực bội. Thì ra họ vẫn cứ coi Guiliano hôm nay cũng vẫn chỉ là một Guiliano của mấy tháng trước đây. Hắn cởi áo jaket, tháo vũ khí, nhưng khẩu tiểu liên thì vẫn để dưới chân bàn chỗ hắn ngồi. Tuy nhiên, những cái đó chẳng gây cho họ ấn tượng gì. Cũng như vết thẹo đỏ lói trên thân thể hắn chẳng làm cho họ ghê sợ. Họ đâu có hiểu rằng viên đạn bắn lủng thân thể hắn thì cũng lúc cũng xé nát tâm hồn hắn. Bởi vậy hắn không còn là một thanh niên như họ tưởng.
Lúc này, tại nhà, hắn còn được an toàn. Những ngừơi tin cậy vẫn còn lởn vởn canh chừng ngoài phố, đồn cảnh sát báo tin nếu có động dạng gì. Ngay chính căn nhà - tuy xây cả trăm năm - nhưng tường bằng đá, song cửa tuy bằng gỗ nhưng là gỗ tốt và lớn bản, cửa ra vào thì chắc chắn và cài then sắt kiên cố, không tia sáng lọt ra ngoài và kẻ thù cũng không dễ gì mà đột nhập bất ngờ, ấy vậy mà Turi vẫn cảm thấy thấp thỏm, phấp phỏng. Những người thân cứ muốn ép hắn vào khuôn khổ sống trước kia, khuyến khích hắn trở thành một anh nông dân cù lần, quê mùa, hạ khí giới trước kẻ thù và chịu bó tay trước pháp luật. Lúc đó, hắn hiểu rằng có thể hắn sẽ phải tàn nhẫn ngay cả với người thân của hắn. Trước kia, hắn ước mơ được yêu hơn là có quyền lực trước đã. Hắn nhẹ nhàng nói với giáo sư Adonis và những người trong nhà :
- Thưa bố, con biết là do lòng yêu thương và lo lắng cho con mà bố đã đề ra kế hoạch như vừa rồi. Nhưng con thấy là không nên để cho má con phải bán đất đi để giải quyết những chuyện rắc rối do con gây ra. Xin bố và tất cả những người thân ở đây đừng quá lo lắng cho con. Con đã lớn rồi. Và, do đó, con phải tự lo lấy, phải tự trả giá cho sự bất cẩn của mình, không thể để cho bất cứ ai phải bồi thường cái chết của thằng cớm do chính con gây ra. Nên nhớ là con chỉ buôn chui có một chút pho-mát, chẳng phải chỉ có con đi buôn chui mà cả đảo Sicily này buôn chui, thế mà nó cũng đang tâm xả súng vào con. Chắc con cũng sẽ chẳng bán hạ nó, nếu con không thấy là nó bắn con sắp chết. Và nếu vậy, con phải trả thù. Nếu không, con là một thằng hèn, con không là một thằng đáng nhìn một ai nữa. Nhưng đó là chuyện đã qua. Từ nay về sau con sẽ không nổ súng dễ dàng như vậy nữa.
Pisicotta cố làm cho bầu không khí bớt căng thẳng. Y cười cười :
- Dù sao thì sống trên núi vẫn khoái hơn là ở dưới này mà cứ phải khép na khép nép, lấm la lấm lét mỗi khi thấy bóng mấy thằng cớm chó đẻ.
Nhưng câu nói ấy cũng không làm cho cha mẹ Guiliano bớt lo lắng. Đôi mắt sáng rực của bà lộ nét hốt hoảng, sợ sệt. Bà nói, giọng tuyệt vọng :
- Đừng có làm thằng ăn cướp, đừng có cướp của người nghèo. Họ đã quá nghèo, quá khổ rồi, đừng làm cho họ khổ thêm nữa. Sống ngoài vòng pháp luật có khoái hay không thì cứ để cô La Venera đây nói cho mà nghe.
La Venera ngẩng mặt lên, nhìn thẳng vào Turi. Hắn bị xúc động không phải bởi cái vẻ buồn thảm, mà bởi cái nét khêu gợi, đắm đuối. Đôi mắt hơi lẳng của chị ta chiếu thẳng vào Guiliano như thể lôi cuốn, mời gọi vào cơn đam mê khoái lạc. Trước kia, Guiliano chỉ nghĩ đến chị ta như một người đàn bà lớn tuổi hơn nó, nhưng nay, nhìn chị ta, nó thấy lửa dục bừng bừng. Bằng giọng nói đầy xúc động, chị ta nói :
- Cũng chính trên dãy núi mà cậu muốn sống ở đó, thì nhà tôi cũng đã ở. Nhưng, như một con thú. Lúc nào cũng nơm nớp, lúc nào cũng thấp thỏm, ăn ngủ không được. Hai vợ chồng đang ân ái trên giường mà chỉ một tiếng động nhỏ cũng làm anh ấy giật mình, chồm dậy, dáo da dáo dác. Nằm ngủ tại nhà mà súng anh ấy vẫn để sát bên mình. Nhưng cũng chẳng vì thế mà bớt sợ, cho đến khi con bé cháu nó ốm, anh ấy ráng lén về thăm nó. Và bọn cớm biết anh ấy là người rất từ tâm, thương con, nên chúng phục sẵn, và chúng đã bắn chết anh ấy như bắn con chó ngoài đường. Chúng đá vào xác anh ấy rồi nhìn tôi mà cười hô hố.
Guiliano thấy trên mặt Pisciotta có thoáng nét giễu cợt. Tên cướp khét tiếng tàn bạo mà lại có lòng từ tâm? Gã đã mần thịt liền một mạch sáu mạng người, chỉ vì nghi họ là mật báo viên. Gã cướp của đám nông dân khá giả đã đành, mà còn bóp nặn cả đám dân nghèo mạt, gieo rắc khủng bố khắp vùng. Ấy vậy mà vợ gã lại nghĩ khác, cho gã là thằng từ tâm.
Chẳng để ý đến nụ cười tủm tỉm của Pisciotta, La Venera nói tiếp :
- Tôi chôn chồng xong, thì một tuần lễ sau cũng chôn luôn đứa con. Người ta nói là cháu nó bị sưng phổi. Nhưng tôi nghĩ là nó chết, bởi lòng dạ nó cũng tan nát vì buồn, vì lo. Cái làm cho tôi nhớ nhất là lúc tôi lén lên thăm anh ấy trên núi. Anh ấy bị lạnh, đói và có lúc bị ốm nữa. Nhưng anh ấy vẫn không tìm cách trở về sinh sống như một người nông dân bình thường. Tệ nhất là lòng dạ anh ấy trở nên chai đá, không còn tính người, tâm hồn không còn an tĩnh được nữa. Bởi vậy, cậu Turi, đừng có quá tự ái và kiêu hãnh. Tụi tôi sẽ giúp cậu trong lúc hoạn nạn. Đừng sống như nhà tôi trước khi chết.
Mọi người im lặng. Pisicotta không tủm tỉm cười nữa. Ông bố Guiliano thì lầm bẩm trong miệng là bán thửa đất đi ông càng khoẻ, khỏi phải làm, sáng sáng có thể ngủ đến tám chín giờ. Hector Adonis nhíu mày và cúi nhìn tấm khăn bàn. Không ai nói năng gì. Bỗng, tiếng gõ cửa dồn dập đột nhiên phá tan sự im lặng. Đó là dấu hiệu báo nguy, Pisicotta đi ra nói gì đó với người báo tin. Trở lại, y ra hiệu cho Turi mang vũ khí vào và nói :
- Đèn trong trại của bọn cớm bỗng bật sáng trưng, chắc là tụi nó đang chuẩn bị. - Im lặng một chút, y nói tiếp - Thôi, chào giã từ, rồi chuồn lẹ cho rồi.
Cái gây ấn tượng cho mọi người là cái bình tĩnh của Turi khi hắn chuẩn bị đào tẩu. Bà mẹ lao mình vào vòng tay của hắn. Tay Turi vẫn còn cầm cái áo da cừu, nhưng cũng đã sẵn sàng ôm hôn bà. Hắn chào từ giã mọi người. Cử động của hắn chẳng có gì là lýnh quýnh hấp tấp, nhưng cũng chưa đầy năm phút sau, hắn đã súng ống sẵn sàng đầy đủ trên người. Hắn cũng chẳng có vẻ gì vội vã, mà đứng đó mỉm cười với mọi người, rồi nói với Pisciotta :
- Aspanu, cứ ở lại đây rồi lên trên với tao sau, hay là đi với tao bây giờ cũng được.
Chẳng nói chẳng rằng, Pisciotta đi ra phía cửa sau và mở cửa đi ra.
Pisciotta đi trước dẫn đường. Đi qua dải đất nằm giữa chân núi và thị trấn, Guiliano khẽ huýt gió. Pisciotta dừng lại để Guiliano bắt kịp y. Vào đến gần núi, thì trời lại có vẻ sáng hơn nhờ những tảng đá vôi phản chiếu ánh trăng. Những người canh chừng cảnh sát đã cho hai đứa biết là không có cớm tuần tiễu ở hướng đó. Chúng có thể bình yên trở lại hang Bianca sau bốn tiếng đồng hồ leo núi. Nếu bọn cớm dám đuổi theo chúng ban đêm, thì phải kể đó là một ngoại lệ đòi hỏi vừa can đảm vừa điên khùng. Guiliano nói :
- Nè, Aspanu, trong đồn có bao nhiêu thằng cớm?
- Mười hai, chưa kể Maresciallo.
- Mười ba, con số xúi quẩy. - Guiliano cười - Có vài ngoe như vậy thì việc đếch gì mình phải chạy trốn? - Hắn im lặng một chút rồi nói tiếp - Theo tao.
Hai đứa quay trở lại và đi xuyên vào thị trấn. Qua đường Via Bella, chúng có thể nhìn thấy căn nhà của Guiliano nằm im lìm trong bóng tối. Hắn nấp vào một chỗ khuất, chờ.
Năm phút sau, chúng thấy tiếng xe Jeep ào ào chạy tới. Sáu thằng cớm, kể cả Maresciallo, chất trên chiếc xe ấy. Hai tên từ trên xe nhảy xuống chặn lối ra vào nhà. Còn Maresciallo và ba tên kia tiến lên đập cửa rầm rầm. Cùng lúc đó, một chiếc xe bít bùng chạy đến đậu sát đằng sau xe Jeep. Hai thằng cớm, tay lăm lăm khẩu tiểu liên từ trên xe nhảy xuống chặn hai đầu đường. Turi chăm chú nhìn quang cảnh đó và nhận xét: cuộc bố ráp được đặt trên giả thuyết là đối tượng không bao giờ phản công được, vì bọn cớm có ưu thế về quân số và võ khí. Turi luôn hành động theo nguyên tắc: khi bị săn đuổi, phải tìm cách để ở vào vị thế có thể phản công, bất kể sự chênh lệch lực lượng. Và có lẽ càng chênh lệch càng tốt.
Đây là cuộc “ra quân” đầu tiên của Guiliano. Và, hắn lấy làm ngạc nhiên là - Nếu hắn định gây cuộc đổ máu - hắn lại có thể dễ dàng chế ngự tình hình đến thế. Tất nhiên là hắn không thể bắn vào Maresciallo và ba người đang đứng trước cửa nhà hắn, vì sợ đạn lạc vào người nhà. Nhưng hắn có thể dễ dàng hạ hai thằng tài xế và bốn thằng đứng chặn ngoài đường. Nếu muốn, hắn có thể ra tay ngay khi Maesciallo và mấy thằng kia bước vào bên trong nhà. Khi súng đã nổ thì cho ăn kẹo thằng Maresciallo và mấy thằng kia cũng không dám thò đầu ra. Và lúc đó, hắn và Pisciotta tha hồ làm mưa làm gió. Còn bọn cớm ở cái xe chặn tuốt dưới cuối phố thì còn xa, do đó, đâu kịp đỡ đòn cho bọn này. Và chúng cũng chẳng dám chạy lên, nếu không có lệnh.
Nhưng, hắn không muốn gây đổ máu. Hắn vẫn còn “quân tử Tàu”. Hơn thế nữa, hắn vẫn muốn xem Maresciallo giở những trò gì nữa. Vì thằng cha này có thể sẽ là đối thủ chính của nó trong tương lai. Đúng lúc đó, chính ông già nó ra mở cửa. Và Maresciallo đã hùng hổ, thô bạo nắm cánh tay ông già nó, lôi xềnh xệch ra đường và quát: “Đứng đó”.
Một người như Maresciallo mà leo lên được cấp trung sĩ trong ngành cảnh sát quốc gia Ý thì đã là quá rồi, nhứt rồi. Và, nếu có leo lên được đến đó thì cũng chỉ được chỉ huy một tiểu đội cớm ở một cái thị trấn sơn lâm cùng cốc nào đó, như Montelepre chẳng hạn. Nhưng, ở những nơi ấy thì thầy đội cớm cũng “oách” chán, chẳng thua gì ông cha sở họ đạo, hoặc thậm chí, ông thị trưởng. Ấy vậy mà bà già Guiliano chẳng cung kính tiếp đón thì chớ, trái lại còn chặn ngang lối vào, nhổ nước miếng cái “tẹc” đặng tỏ dấu khinh bỉ. Gã và ba người của gã phải dùng sức gạt bà ra để vào nhà và lục soát, trong khi bị bà Guiliano mắng nhiếc, sỉ vả thậm tệ. Mọi người trong nhà đều bị lùa ra đường. Đàn ông, đàn bà ở các nhà bên cạnh cũng đổ xô ra ngoài để xem và la trách bọn cớm.
Lục soát không có kết quả, Maresciallo quay ra hỏi cung những người trong nhà. Ông bố Guiliano đã hỏi ngược lại Maresciallo :
- Bộ ông tưởng là tôi sẽ tố cáo con tôi hay sao chứ?
Câu hỏi làm cho mọi người ngạc nhiên, thích thú và cười ồ cả lên. Maresciallo “quê” quá, ra lệnh cho mọi người quay vào trong nhà.
Trong chỗ đang nấp, Pisciotta thì thào nói với Guiliano :
- May mà bà già mày không có võ khí, chứ nếu có bà dám....
Nhưng, Guiliano không trả lời. Máu bốc rần rần lên đầu hắn. Hắn phải hết sức tự kiềm chế. Maressciallo dùng dùi cui quất một người trong đám đông đã dám phản đối hành động thô bạo của chúng đối với người trong gia đình Guiliano. Hai tên cớm khác túm đại mấy người, vừa quất dùi cui, vừa đấm đá túi bụi và đẩy lên xe bít bùng, bất chấp tiếng kêu la, sợ hãi phản đối. Có một người đứng một mình giữa đường bỗng thình lình đá mạnh vào Marescialo. Tiếng súng nổ, người đó té lăn trên đường trải sỏi. Từ một trong những căn nhà có bắn đang quằn quại. Turi nhận ra bà ta. Đó là bạn cố hữu của mẹ hắn và thường đem bánh trái sang cho bà.
Turi vỗ vai Pisiciotta, thì thào :
- Theo tao.
Hai đứa luồn lối quanh theo con đường dẫn tới quảng trường ở đầu đàng kia phố Via Bella. Pisciotta gay gắt khẽ hỏi :
- Mày làm cái quỷ gì vậy?
Nhưng, rồi y lại im lặng. Thình lình, y hiểu ra thằng Guiliano muốn gì. Chiếc xe chở những người bị bắt nhất định phải vòng xuống đây mới quay đầu xe trở về đồn được. Khi chạy len lỏi trong bóng tối, Guiliano cảm thấy mình vô hình như bóng ma. Hắn biết là địch thủ không bao giờ tưởng tượng được hắn sắp làm gì, mà cứ nghĩ là chắc giờ này hắn đang cao chạy xa bay lên núi rồi. Hắn cảm thấy phấn khởi một cách dữ dội. Chúng sẽ phải học bài học kinh nghiệm này: không thể nào lục soát nhà của Guiliano mà lại bình yên vô sự. Để mỗi khi chúng muốn làm như vậy, chúng phải suy đi tính lại. Chúng không thể lạnh lùng nổ súng, coi mạng người như ngoé, như đồ chơi được. Hắn sẽ bắt bọn cớm phải kiêng nể những người lối xóm cũng như gia đình hắn.
Guiliano và Pisciotta đã đến phía cuối quảng trường, chỗ có ngọn đèn độc nhất và chiếc xe cảnh sát đậu chặn lối đi vào đường Via Bella. Cứ như thể chúng đang bị vây trong rọ: đầu kia là bọn Maresciallo, đầu này là xe cớm đứng trấn. Bọn chúng đang nghĩ gì? Đó có phải là một kiểu mẫu hành quân vây hãm hay không? Chúng rẽ qua phía bên kia đường và chạy tọt vào cửa hậu nhà thờ. Ngôi nhà thờ đứng sừng sững trước quảng trường. Vào bên trong, cả hai nhảy qua hàng rào chấn song chỗ cung thánh và ngừng lại chút xíu trước bàn thờ. Đây là nơi mà trước kia, lúc còn nhỏ, hắn đã từng làm tiểu lễ sinh giúp ông cha ban bánh thánh cho giáo dân vào các ngày lễ và ngày chủ nhật. Vũ khí trong tay, hắn quỳ gối, tay quơ quào làm dấu thánh giá trước ngực. Thoáng trong một giây, hình như quyền lực toát ra từ tượng Chúa Jesus trên đầu đội mão gai, bị đóng đinh trên cây thập tự, tượng của Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary mặc áo màu da trời và từ tượng các chư thánh khác đã làm cùn nhụt cái ý chí chiến đấu của chúng. Nhưng, chúng bỗng đứng phắt dậy và chạy dọc theo lối giữa nhà thờ và đi đến cánh cửa lớn bằng gỗ sồi trông ra quảng trường. Nơi đây, chút xíu nữa thôi sẽ thành chiến trường. Chúng quì xuống, chuẩn bị vũ khí.
Chiếc xe chặn lối vào phố Via Bella đã lùi lại, lấy lối cho xe bít bùng chở người bị bắt vào quảng trường để quay đầu xe. Đúng lúc đó Guiliano mở hé cửa và khẽ nói với Pisciotta :
- Bắn bổng trên đầu chúng nó thôi.
Đồng thời, hắn chĩa súng bắn vào bánh xe và thùng xăng của chiếc xe. Lập tức, bánh xe xẹp lép và bắt lửa. Hai tên cớm ngồi trên xe nhảy nhào ra ngoài nom như hai con búp bê bị đứt dây cột. Sự ngạc nhiên đã không cho chúng thì giờ để hoàn hồn! Bên cạnh Turi, Pisciotta đang bắn vào đầu chiếc xe bít bùng. Turi thấy tên tài xế nhoài người ra rồi nằm luôn. Những tên cớm có vũ trang khác nhảy ra và Pisciotta bắn tiếp. Thêm một tên cớm nữa bị “lật”. Turi quay sang phía Pisciotta định trách. Nhưng tiếng súng máy nổ giòn và kính rớt loảng xoảng mảnh vỡ bắn tứ tung. Turi hiểu rằng không thể động lòng trắc ẩn, xót thương nữa. Aspanu có lý. Hoặc giết hoặc bị giết. Có thế thôi.
Guiliano kéo tay Posciotta chạy lại chỗ bàn thờ, chuồn qua cửa hậu và lẻn ra ngoài, len lỏi quanh co trong bóng tối trên đường quay về núi. Hắn biết đêm nay hắn không hy vọng giải cứu những người bị bắt. Hai đứa đã đi tới dải đất ngăn thị xã và chân núi. Chúng chạy lúp xúp băng qua dải đất đó cho đến khi leo lên đến dốc an toàn vì có đầy những tảng đá vôi che chắn cho chúng.
Bình minh vừa chớm trên đỉnh Ora trong dãy núi Cammarata bao quanh thị trấn.
Gần hai ngàn năm trước đó, Spartacus đã cùng đạo quân nô lệ của ông trú ẩn tại đây và từ đây phóng ra những đợt tấn công vào đạo binh La Mã. Đứng trên đỉnh Ora, nhìn mặt trời đang mọc, Turi Guiliano cảm thấy tràn ngập, rộn rã niềm vui tuổi trẻ vì hắn đã thoát khỏi tay kẻ thù. Hắn đã có quyền để cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì phải chết. Trong tinh thần, hắn không còn cảm thấy hoài nghi về những gì hắn sẽ làm, không còn băn khoăn về việc có phải là hắn đã làm cho Sicily được tự do và vinh quang, hoặc việc nào là xấu, việc nào là tốt. Tất cả những gì hắn sẽ làm chỉ là chiến đấu cho công lý, là phụng sự người nghèo khổ. Hắn sẽ bách chiến bách thắng. Hắn sẽ chinh phục được lòng mến mộ, cảm phục của những người bị áp bức, bị bóc lột, bị khinh miệt.
Năm đó, Turi Guiliano mới chỉ vừa hai mươi mốt.
[1] Garibaldi (1807 - 1882): nhà ái quốc người Ý, đã cùng với Mazzini giải phóng đất nước và đấu tranh cho sự thống nhất của Ý. Ông cũng là tay giang hồ phiêu lưu, ba chìm bẩy nổi và là một “hiệp sĩ” hễ thấy sự bất công là ra tay. Chính vì vậy mà năm 1870 - 1871 ông đã đứng về phía Pháp chiến đấu chống Hoàng đế Phổ (Đức).
Ông Trùm Croce Malo sinh ra tại làng Villaba, bên một đầm lầy mà ông đã làm cho tươi tốt và nổi tiếng khắp đảo Sicily.
Ở Sicily, chẳng có gì gọi là trớ trêu khi “cha mẹ hiền lành sinh con quỷ sứ”. Ông Trùm sinh ra trong một gia đình đạo ròng. Lúc y còn nhỏ, gia đình tính cho y đi tu làm linh mục kia đấy. Chả thế mà lại đặt tên cho y là Crocefiso [1] - gọi tắt là Croce - một cái tên mà chỉ những gia đình nào sùng đạo lắm mới dùng để đặt cho con. Lúc nhỏ, y là tiểu lễ sinh ở nhà thờ để giúp lễ cho cha cố. Và đến tuần Lễ Thánh [2], nhờ thân thể mảnh khảnh, nét mặt xương xương nhu mì, hiền hậu, nên y đã được chọn để đóng vai Chúa chịu nạn [3].
Nhưng đến tuổi trưởng thành thì rõ ràng là Croce Malo rất khó chấp nhận một uy quyền nào khác ngoài chính y. Y buôn lậu, tống tiền, ăn cướp. Sau cùng, và tệ nhất, y đã tặng cho cô thôn nữ thủ vai Magdalenna [4] trong các lễ kịch Chúa chịu nạn một cái bầu, rồi quất ngựa truy phong. Y nhất định không chịu cưới cô gái kia, lấy cớ là cô ấy đã nhiễm sâu cái vai trò của cô, nên y không thể lấy làm vợ được. Gia đình của cô gái thấy lối giải thích đó nghe khó lọt tai quá, cho nên đã hạ tối hậu thư: một, cưới cô bé; hai, bị thanh toán. Croce Malo quá kiêu hãnh, không chịu cưới cô gái “mang tai tiếng” ấy, nhưng cũng không muốn bị “mần thịt”, bèn dông tuốt lên núi làm ăn cướp. Sau một năm làm nghề dao búa, y đã may mắn tiếp xúc được với các đàn anh trong nghề là tổ chức Mafia.
Mafia là một từ có nguồn gốc Ả Rập có nghĩa là “nơi tôn nghiêm”, “cung thánh”. Từ này nhập vào Sicily khi con cháu tiên tri Mahomet xâm lược đảo này vào thế kỷ thứ 10. Suốt dòng lịch sử, người dân Sicilian bị hết người La Mã đến chế độ dân quyền của Giáo hoàng, rồi đến người phương Bắc, người Pháp, Đức, Tây Ban Nha giày xéo, áp bức, bóc lột tàn nhẫn. Các chính quyền ấy không làm cho người dân Sicilian cái gì khác hơn là nô lệ hóa họ, hãm hiếp vợ con của họ, thủ tiêu các nhà lãnh đạo của họ. Ngay cả những người Sicilian khá giả cũng không thoát được những tai họa ấy. Tôn giáo pháp đình kiểu Tây Ban Nha đã vu cáo họ là dị giáo để tước đoạt tài sản của họ. Bởi vậy, Mafia được thành lập như một hội kín để trả thù. Khi nhà vua từ chối can thiệp, không chịu hành động để chống lại bọn quí tộc người Bắc đã hãm hiếp vợ con của họ, thì một nhóm nông dân Sicilian đã giết luôn tên hôn quân nhu nhược đó. Khi bọn cảnh sát dùng nhục hình cassetta [5] để trừng phạt một người Sicilian trộm cắp vặt thì người dân Sicilian tìm cách giết tên cảnh sát trưởng đó, dù tên trộm kia không phải là bà con ruột thịt gì của họ. Dần dần, nông dân và những ngoời nghèo khổ hình thành một tổ chức tự vệ. Và tổ chức này trở thành một chính quyền trong bóng tối. Nhưng người dân nghe theo, trọng nể chánh quyền trong bóng tối này hơn là chính quyền công khai, chính thức, khi giữa đám dân có sự bất hòa với nhau, họ không bao giờ cậy đến cảnh sát hay chính quyền chính thức phân xử giùm, mà nhờ đến thủ lãnh Mafia địa phương đứng làm trung gian hòa giải.
Tội lớn nhất đối với người Sicilian là cung cấp cho chính quyền bất cứ tin tức gì về bất cứ hành động nào của Mafia. Trước bất cứ hành động nào của Mafia, người dân phải tuyệt đối im lặng. Đó là luật omerta. Được thực thi qua bao nhiêu thế kỷ, luật omerta được mở rộng sang cả những trường hợp chính người thân của mình bị Mafia sát hại. Sự bất hợp tác của người dân với chính quyền công khai đã lên tới mức ngay cả những đứa con nít cũng được dạy cho biết không chỉ đường cho một người lạ khi người này hỏi thăm đường đến một làng nào hay nhà của một người nào.
Qua bao thế kỷ Mafia ngầm thống trị đảo Sicily đến nỗi không một chính quyền nào có thể ngăn chặn được quyền lực của Mafia. Cho đến tận thế chiến thứ hai, người dân cũng không bao giờ nói ra miệng cái tên “Mafia”.
Sau năm năm hành nghề dao búa trên núi, Croce Malo được coi như một tay tổ lục lâm, nghĩa là một tay “có nghề”, coi việc cắt cổ mổ bụng, thiên hạ không hơn việc cắt cổ một con gà, một chuyện vặt vãnh không đáng bận tâm. Y cũng được coi là một người “đàng hoàng”, nghĩa là một tay đáng nể, đáng gờm. Sau một vài “dàn xếp”, y an nhiên trở về sống nơi quê nhà ở Villaba, cách thủ phủ Palermo khoảng 40 dặm về phía Nam. Sự “dàn xếp” này bao gồm cả việc trả tiền cho gia đình cô thôn nữ bị hắn tặng cho cái bầu, rồi không chịu cưới, lấy cớ cô này “mang tai mang tiếng” quá. Hành động này được “bốc thơm” như một hành vi nghĩa hiệp của y. Để tránh sự nhục nhã, cô gái ấy đã phải sang Mỹ tha phương cầu thực dưới danh nghĩa một góa phụ trẻ. Bởi vậy - dù là một tên giết người không gớm tay, một tên cướp tàn nhẫn, một tay anh chị của đám “Người anh em” (tên gọi các thành viên của tổ chức Mafia - N.D) - Y - Croce vẫn không tin rằng bấy nhiêu danh hiệu là đã đủ để đảm bảo an toàn cho y trước sự trả thù của gia đình cô gái đã bị y làm nhục. Bởi vì đây là vấn đề danh dự - nếu y không bồi thường - gia đình ấy bắt buộc phải giết y, bất chấp hậu quả ra sao. Nếu không, gia đình ấy không còn mặt mũi nào mà nhìn lại. Vì, không dám trả thù, rửa nhục, ở Sicily này, được coi là một con người đê tiện, hèn mạt đáng khinh.
Bằng cách phối hợp sự hào hiệp với sự quỷ quyệt, Croce Malo đã được coi như một Ông Trùm. Dù chỉ mới vào khoảng tứ tuần mà y đã được coi là “Người anh em” có uy tín và uy thế đến nỗi được mời đến để phân giải những tranh chấp rất tế nhị và gay cấn có thể đưa đến những thanh toán giữa hai hay nhiều sếp Mafia khác. Là một con người vừa lý sự, vừa khéo léo, như thể bẩm sinh đã là nhà ngoại giao có tài, y được đám Mafia ở Sicily tôn là “Ông Trùm hòa giải”. Nhưng, quan trọng hơn hết vẫn là cái tài giết người của y: giết bất cứ ai khi thấy cần, giết rất “ngọt” tay, bình tĩnh, lạnh lùng và không hề áy náy, xót thương.
Dưới “triều” của y, đám Mafia làm ăn phất lên như diều. Những tên cứng đầu cứng cổ cách mấy cũng nhũn như con chi chi, nếu không được thì được “hóa kiếp” hết. Ông Trùm Croce ngày càng giàu có. Ngay cả em trai của y - cha Benjamino Croce - tuy là bí thư chánh văn phòng tòa Hồng y giáo chủ của Palermo, nhưng bàn tay của cha nhúng vào máu người ta nhiều hơn là nhúng vào nước thánh, trung thành với Đức Hồng y giáo chủ thì ít, mà với ông anh ruột dao búa thì nhiều.
Ông Trùm lấy vợ và có được một mụn con trai mà y cưng còn hơn trứng mỏng, đến độ tôn thờ “ông” con trai. Lúc đó, y chưa đạt đến trình độ siêu đẳng, và cáo già như sau này và cũng chưa bị các đối thủ chơi cho đòn nào đích đáng nên vẫn còn “bình” lắm, do đó y đã tính chơi một vố liều mạng. Nhưng, thời đó y nổi danh như cồn, không chỉ trên khắp đảo Sicily mà còn chấn động đến cả giới cầm quyền chóp bu ở Rome. Vố đó bắt nguồn từ một sự việc cũng rất tầm thường - một bất hòa nho nhỏ trong gia đình - mà, ngay cả những nhân vật tai to mặt lớn trong lịch sử cũng đành phải chịu.
Số là, với cái địa vị “Chúa Trùm” (Caph di capi: sếp của các sếp - N.D) trong đám anh chị Mafia, Don Croce tuy xuất thân bần hàn nhưng đã “vồ” được một em thuộc gia đình danh gia vọng tộc. Thật ra cái “vọng tộc” mà gia đình này có được chẳng phải vì tổ tiên năm đời mười đời của họ là ông hoàng bà chúa gì, mà là nhờ đã bỏ ra một món tiền lớn, nên đã biến máu đỏ thành “máu xanh” [6] chỉ ít lâu sau ngày cưới, cô vợ đâm ra ngủng nghỉnh, ỷ vào cái máu xanh “mua” của mình, cô nàng tỏ ra coi thường y, chê y đủ thứ, nào là gốc gác bần tiện quê mùa, nào là nói năng không tao nhã, mở miệng ra thì cứ như là đấm vào tai người ta, nào là chỉ quen giao thiệp với phường đầu trộm đuôi cướp, chỉ quen ra lệnh cho bọn đầu trâu mặt ngựa, nên không có những cử chỉ thanh lịch, không biết nịnh đầm. v.v. và v.v... Cô “tiểu thư vôi” ấy nhớ lại cái ngày mà những tay hào hoa phong nhã đã từng đeo đuổi mình phải dạt ra vì Ông Trùm tuyên bố xin cưới nàng. Nàng cứ tưởng như mình là nàng công chúa Bạch Tuyết, nhưng không có bảy chú lùn, mà chỉ có một bầy sát nhân ăn cướp bao quanh. Ông Trùm biết, cay lắm, nhưng không làm gì được. Vì, tuy chê bai vậy, nàng đâu có dại gì mà ra mặt rẻ rúng y. Đây là Sicily, chớ đâu phải là Paris hay Luân Đôn mà bảo là đàn ông không được đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một bông hoa. Và đàn ông Sicilian cũng không có cái kiểu nịnh đầm như mấy thằng cha hiệp sĩ dỏm chốn đế đô. Bởi vậy, y quyết định phải làm một cái gì đó khiến cho con mụ đỏng đảnh này phải biết oai để rồi kính sợ, luỵ phục cho đến trót đời đặng y còn rảnh trí mà chuyên tâm vào lo công việc làm ăn chớ. Ngày đêm, y cố vắt óc tìm cách giải quyết vấn đề. Và cái bộ óc quái quỷ của y đã giúp y đề ra được một kế hoạch “thần sầu” mà đến tổ sư bồ đề Machiavel [7] sống lại cũng phải chào thua.
Có tin đức vua sắp tuần du phương nam để xem thần dân Sicilian của ngài trung thành và tôn kích ngài đến mức nào. Tất cả mọi người dân ở Sicily đều ghét thậm tệ nhà cầm quyền ở Rome và đều sợ Mafia. Nhưng họ lại rất tôn kính đức vua vì ngài luôn mở rộng hoàng tộc bằng các liên hệ máu mủ, bằng các cuộc hôn nhân và nhận làm “bố đỡ đầu”. Và cũng giống như những người dân Sicilian, ngài được tiếng là kính sợ Chúa và sùng kính Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary.
Đảo Sicily tưng bừng tổ chức lễ nghênh đón đức vua.
Chủ nhật đầu tiên khi đặt chân đến Sicily, đức vua dự lễ Missa tại nhà thờ chánh tòa Palermo. Sau lễ Missa, sẽ có lễ báp-têm [8] cho công tử Ollorto là hoàng thân Ollorto, một danh gia vọng tộc lâu đời ở Sicily. Thật ra, đức vua đã từng đỡ đầu cho vô số con vua cháu chúa khác và cũng đã đỡ đầu cho cả hàng trăm đứa trẻ con của các ngài thống chế, quận công, hầu tước.... và cả con của các ngài tai to mặt lớn trong chính quyền phát-xít của Mussolini. Đó là một thủ đoạn chính trị nhằm liên kết chặt chẽ vương triều với chính quyền hành pháp. Khi được nhà vua nhận đỡ đầu thì cậu công tử vương tôn đó đương nhiên trở thành “Hiệp sĩ của Hoàng gia”, có giấy tờ chứng thực đàng hoàng. Về mặt vật chất cụ thể thì được đức vua ban cho một cái cúp bằng bạc.
Ông Trùm sẵn sàng hành động hớt tay trên hoàng thân Ollorto. Hôm đó, y đã cài vào buổi lễ tới 300 “tay em”. Em ruột của y - cha Benjamino Croce - hôm đó cũng là giáo sĩ trợ tế cho đức ngài Hồng y giáo chủ Palermo chủ tế.
Theo nghi thức thì lễ báp-têm bao giờ cũng bắt đầu từ ngoài cửa nhà thờ. Vì lúc chưa làm báp têm - thì chưa phải là con Chúa. Và giếng nước để làm báp - têm bao giờ cũng ở cuối nhà thờ, ngay chỗ cửa ra vào.
Sau lễ Missa trong nhà thờ, hoàng thân Ollorto hãnh diện bước ra cửa nhà thờ - tay ôm cậu công tử còn nhỏ xíu. Đám đông đứng ngoài hoan hô ầm trời, vì hoàng thân Ollorto - một người mảnh khảnh, đẹp trai - là một quí tộc ít bị dân Sicilian ghét nhất. Đúng lúc hoàng thân bước ra khỏi cửa nhà thờ thì mấy trăm “tay em” của Ông Trùm ùa vào, chặn lối ra của đức vua, bao vây và cô lập ngài khỏi giáo sĩ cử hành lễ báp-têm là Hồng y giáo chủ Palermo.
Đức vua là người có vóc dáng thấp bé với bộ râu rậm hơn mái tóc. Ngài vận binh phục kỵ binh với dây chiến thắng chằng chịt và huân chương kín ngực, xuống đến tận gần rốn, khiến ngài trông như một thằng lính chì, đồ chơi của con nít. Bề ngoài coi ngài oai vệ vậy, chứ thật ra tâm địa của ngài rất dịu dàng, nhân hậu. Bởi vậy, khi cha Benjamino giúi vào tay ngài một cái bọc có đứa con nít đỏ hỏn, thì ngài chưng hửng mất chút xíu, chứ không có cự nự gì. Cha Benjanmino vội vã đổ nước thánh lên đầu đứa nhỏ, quơ quào qua quít vài dấu thánh giá, lẩm bẩm ba xí ba tú dăm ba câu kinh, thế là xong và ẵm đứa bé từ tay đức vua trao cho Ông Trùm ăn cướp của đảo Sicily, trở thành “Hiệp sĩ của Hoàng gia”. Khóc vì cảm động và sướng quá, mụ vợ của Ông Trùm quì sụp trước mặt đức vua, tạ ơn đức vua đã nhận là “bố đỡ đầu” cho con trai mụ. Mụ chẳng ao ước gì hơn - vì tuy là cũng “máu xanh” đấy, nhưng là máu xanh “mua” - nên chẳng bao giờ mụ dám mơ tưởng một hạnh phúc bất ngờ mà lại quá lớn, quá cả sức tưởng tượng của mụ như vậy.
Ông Trùm Croce ngày càng phát tướng ra. Cái mặt xương xương của lão bây giờ sệ ra. Hai gò má rung rinh, nung núc như hai tảng thịt mông ốp vào đó. Mũi của lão trở thành một cái mỏ bự, một cái “ăng - ten” thu phát quyền lực. Mái tóc xoăn, cứng như dây kẽm gai đã ngả màu muối tiêu. Bụng phệ ra một cách oai vệ. Mắt híp lại và lúc nào cũng láo liên, loé lên những tia chớp, phóng ra những cái nhìn vừa sắc, vừa nham hiểm, độc ác. Cùng với tuổi tác, quyền lực của lão cũng tăng lên, đến cái mức trở thành một tượng đài bất khả xâm phạm. Dường như lão không có những nhược điểm mà mọi người không nhiều thì ít đều có; không khi nào lão tỏ ra giận dữ, không khi nào tỏ ra tham lam, lão tỏ ra niềm nở, lịch sự một cách khó tính toán, trìu mến một cách máy móc, vô hồn và đặc biệt không bao giờ có lòng yêu thương, trắc ẩn với một ai. Lão ý thức rất rõ hậu quả nặng nề và tình trạng nguy hiểm thường xuyên của lão, thêm vào đó, rất đa nghi, nhưng dù nằm trên giường với vợ, chớ hề bao giờ lão hé răng chia sẻ với vợ nỗi lo sợ của lão.
Lão đúng là ông vua không ngai của đảo Sicily. Nhưng, đứa con trai độc nhất của lão - vị “Hiệp sĩ của Hoàng gia”, kẻ nối nghiệp lão - lại là nỗi thất vọng ê chề. Không phải vì kẻ thừa kế này ngu si, đần độn gì, mà chỉ vì nó thấm nhiễm đến mức bệnh hoạn cái lý tưởng tôn giáo. Đến nỗi, nó mò sang tận nước Brasil - trong khi Rome là trung tâm của công giáo - để tầm sư học đạo, rồi lặn lội vào tận trong rừng sâu Amazon để truyền giáo cho mấy thằng mọi ở truồng. Thế có đau cho lão không chứ. Lão lấy làm xấu hổ về điều này lắm và chẳng bao giờ nhắc đến dù chỉ là cái tên, thằng con ngu dại đó.
Mussolini lên nắm chính quyền. Ông Trùm không thấy có gì đáng lo ngại lắm. Lão đã quan sát rất kỹ “cái thằng hề mị dân” đó và đi đến kết luận đại khái như thế này :
“Thằng ấy đếch có đởm lược mà cũng chẳng sâu hiểm gì, chỉ được cái bẻm mép. Một thằng như vậy mà còn leo lên được chóp bu quyền hành ở cái nước Ý này, thì tao thừa sức làm vua không ngai ở cái đất Sicily này!”
Nhưng, rồi tai họa giáng xuống. Mãi mấy năm sau khi nắm và củng cố xong địa vị, Missolini mới có thì giờ đưa đôi mắt hiểm độc của hắn chiếu cố đến đảo Sicily và mấy “Người anh em”. Hắn khẳng định Mafia là một tổ chức tội ác kinh khủng. Nhưng, nếu chỉ như vậy thôi thì chắc cũng không sao. Cái mà Mussolini không thể tha thứ cho Mafia là tổ chức này, dù núp trong bóng tối, nhưng đã thực sự kiểm soát và giới hạn phần nào quyền lực của hắn trong đế quốc của hắn. Hắn cũng thừa nhận là trong suốt dòng lịch sử, Mafia đã chống lại bất cứ thứ quyền hành nào ở Rome. Tất cả các nhà cai trị ở Sicily trong hàng ngàn năm qua đã trổ đủ thứ ngón nghề, mánh khoé để nắm lấy quyền hành cai trị thực sự ở Sicily mà vẫn không làm nổi. Húc đầu vào Mafia như húc đầu vào đá. Nhưng, nhà độc tài này đã thề rằng “sẽ quất cho bọn Mafia gục luôn, gục vĩnh viễn”. Chính quyền phát xít đâu có thèm coi định chế thủ tục dân chủ ra cái cóc khô gì. Nó sẵn sàng, bằng mọi cách, làm bất cứ việc gì, miễn là đạt được mục đích của mình. Cái được mệnh danh một cách lừa bịp là “lợi ích quốc gia”. Nghĩa là, nó cũng xài những biện pháp của chính Ông Trùm, có phần còn bạo hơn nữa là khác.
Mussolini đã đặc phái và trao quyền cho Caesare Mori, một tay chân tín cẩn nhất của hắn làm thống đốc toàn quyền đảo Sicily. Mori bắt tay vào việc bằng cách trước hết là dẹp cái hệ thống tòa án, pháp lý ở Sicily, dẹp luôn cả cái lực lượng bán quân sự gồm toàn người địa phương Sicilian và đưa quân đội từ miền Bắc nước Ý tới. Và bằng đạo quân này, Mori đã cho dân Sicilian tắm máu. Y bắt giữ và lưu đày cả làng, già, trẻ, lớn, bé tuốt luốt, nếu bị nghi là dính dáng xa gần với Mafia.
Trước khi có chế độ độc tài của Mussolini, nước Ý Thiên Chúa giáo không có án phạt tử hình, Điều đó gây trở ngại không ít cho việc chống lại Mafia, vì các tên Mafia ác ôn côn đồ khét tiếng lẽ ra bị tử hình, nhưng vì không có án tử hình nên chỉ bị tù chung thân. Tuy nhiên chỉ ở tù được ít lâu thì hoặc được đồng bọn tổ chức phá ngục giải cứu, hoặc “vượt ngục” một cách rất đáng nghi ngờ. Tổ chức Mafia lại coi cái án tử hình như một biện pháp chủ yếu. Nhưng với Mori thì khác. Những tên Mafia gan lì - dù bị tra tấn bằng hình phạt casetta mà vẫn không khai - thì “đọp” liền. Những kẻ được coi là a tòng, đồng đảng, âm mưu... đều bị đem đi đày ở một hoang đảo trong Địa Trung Hải và bỏ đó ở đó “cho mềm xương”. Chỉ trong một năm, đảo Sicily tả tơi, tổ chức Mafia manh mún, không còn là một lực lượng cai trị nữa. Chính quyền Rome coi như đánh lộn sòng hàng chục ngàn người dân vô tội bị “đọp”, bị bắt bớ, tra tấn, tù đày oan với bọn Mafia chính hiệu.
Ông Trùm Croce lại khoái cái trò chơi dân chủ với cái lối cai trị màu mè nhân đạo. Do đó, lão rất tức giận trước những hành động bạo ngược. Các chiến hữu của lão bị “đọp”, bị kìm kẹp, bị tra tấn, tù đày, còn lão, tuy không nhởn nhơ, nhưng vẫn sống. Lão vẫn chép miệng than thầm: “Tụi nó ngu quá, lộ liễu quá, ăn vụng mà đếch biết chùi mép”. Nhiều đứa bị tù mà chẳng được đưa ra tòa xét xử - tòa đã bị dẹp sạch rồi còn đâu - chỉ vì chính quyền của Mori chỉ cần nghe tin đồn thì cũng đã làm tới rồi. Những bọn vô lại làm chỉ điểm mà các chiến hữu không dò ra manh mối bọn này để mà diết, thì “đứt bóng” là đáng rồi. Đối với bọn phát-xít thì tòa án làm gì cho thêm tốn công, tốn của, mà lại rách việc ra. Chúng đẩy lùi lịch sử trở lại cái thời tôn giáo pháp đình, cái thời quyền năng thiên định của các bạo vương chuyên chế. Ông Trùm tuy chẳng hề tin tưởng tí ti nào vào cái gọi là dân chủ - bất kể dân chủ kiểu nào - nhưng dứt khoát, lão cũng không tin vào quyền năng thiên định. Lão còn dám quả quyết rằng chẳng ai có lý trí lành mạnh mà lại đi tin vào cái quyền năng thiên định ấy, trừ khi bị tứ mã phanh thây.
Tệ hơn nữa, bọn phát-xít lại xài cái hình phạt “tắm nắng” - tức là hình phạt cassetta - khiến cho nhiều, rất nhiều tên Mafia gan lì cũng đành phải phun hết các bí mật ra. Ông Trùm đã khoe một cách căm phẫn rằng ông không bao giờ thèm xài cái hình phạt lạc hậu và dã man ấy. Nếu cần phải giết người nào theo ý Ông Trùm - thì cũng nên cho người ấy “đi” một cách mau lẹ mát mẻ, không nên hành hạ đau đớn thể xác người ta. Đấy, “chủ nghĩa nhân đạo” của Ông Trùm đấy. Theo ông thì cứ “đọp”. Giết là đủ. Cứ giết là khối đứa sợ.
Trong lúc Mori tung ra cuộc khủng bố trắng các Mafioso [9], thì giống như một loại cá mập lặn sâu dưới bùn - Ông Trùm cũng mai danh ẩn tích. Lão không đi lưu vong nước ngoài, mà chỉ chuồn vào một tu viện dòng khổ tu Phranxixcô - dưới sự che chở của cha bề trên Manfredi. Từ lâu hai người đã có quan hệ mật thiết và thân hữu. Khi bắt đầu làm ăn theo kiểu bắt cóc đòi tiền chuộc - mặc dầu rất tự hào về sự mù chữ của mình, vì nhu cầu, Ông Trùm đã phải mướn một tay “văn chương chữ nghĩa bề bề” là cha bề trên Manfredi để viết những bức thư tống tiền. Hai người tỏ ra rất thân thiện và rất tương đắc ở chỗ cả hai cùng có “tam khoái”: một là phá trinh con gái, hai là uống rượu nho thượng hảo hạng, ba là tổ chức trộm cướp một cách tinh vi. Ông Trùm thường mời cha bề trên cùng lão vi hành sang Thuỵ Sĩ chữa bệnh, đồng thời thưởng thức “mùi đời” ở cái xứ sở xinh đẹp và hiền hòa ấy. Một sự nghỉ ngơi hợp lý và cần thiết cũng như là một phần thưởng phải có sau những tính toán căng thẳng của những vụ “làm ăn” nguy hiểm. Vả lại, ở Thuỵ Sĩ thì kín đáo hơn ở Palermo hay ở lục địa Ý.
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Mussolini không còn đủ tâm trí và thời gian để “chăm sóc” đảo Sicily nữa. Ông Trùm lập tức nắm lấy thời cơ: đặt lại các đường dây liên lạc với các chiến hữu may mắn lọt lưới của Mori, báo những tin lạc quan cho những “Người anh em” trung kiên đang bị đày ngoài hoang đảo, tỏ tình hữu nghị với các “sếp” Mafia còn bị giam trong tù, cổ vũ bọn này kiên trì chịu đựng ít lâu đợi ngày ca khúc khải hoàn.
Ông Trùm biết rằng hy vọng độc nhất và tối hậu của lão là sự thắng trận của quân đội đồng minh Tây Âu. Bởi vậy, lão dồn hết nghị lực vào mục đích ấy, chớ chẳng phải lão thân Mỹ hay xót thương gì đám dân Sicilian đang rên xiết trong kìm kẹp của Mori và chế độ phát-xít. Lão tiếp xúc với các nhóm kháng chiến, ra lệnh cho lâu la của lão giúp đỡ các phi công quân đồng minh bị bắn rơi và nhảy dù sống sót. Chính trong những giờ phút quyết liệt ấy, Ông Trùm chuẩn bị kế hoạch hậu chiến của mình.
Tháng 7 năm 1943, quân đội Mỹ đã chiếm được đảo Sicily làm đầu cầu để đổ bộ lên vùng Nam Tây Âu. Ông Trùm đã rộng tay giúp đỡ. Trong quân đội Mỹ thiếu gì con em người Sicilian di cư sang Mỹ làm ăn? Chẳng lẽ người Sicilian lại đi chống lại người Sicilian đặng bảo vệ quyền lợi của bọn Đức quốc xã? Ông Trùm xúi giục hàng ngàn lính của Mussolini đào ngũ và trốn vào một nơi mà Mafia đã chuẩn bị cho họ. Bản thân lão móc nối với nhân viên mật vụ Mỹ và dẫn đường cho quân đội Mỹ qua các khe núi để đánh thọc vào sườn binh đoàn trọng pháp của liên đoàn Đức - Ý. Trong khi quân đội Anh đổ bộ bờ phía đông đảo Sicily bị tổn thất nặng nề và tiến quân rất chậm, thì ở bờ phía Tây quân Mỹ đã hoàn thành phần đầu kế hoạch với tổn thất không đáng kể.
Chính bản thân Ông Trùm - lúc này đã gần 65 tuổi và đã sồ sề lắm rồi - dẫn một toán dân quân gồm toàn các “tay em” vào tân Palermo bắt cóc viên tướng Đức, tư lệnh lực lượng phòng ngự của Đức và giấu viên tướng tù binh này ngay tại Palermo cho đến khi quân đội Mỹ tiến vào thủ phủ này. Bộ tư lệnh tối cao quân đội Mỹ tại Nam Tây Âu thông báo cho Ông Trùm biết là họ đã báo công của lão với Washington dưới danh nghĩa “Mafia tướng quân”, và những tháng tiếp theo, Ông Trùm cũng được các sĩ quan tham mưu của Mỹ biết dưới danh hiệu đó.
Thống đốc quân quản Mỹ ở Sicily lúc đó là đại tá Alfonso La Ponto. Là một chính trị gia có thế ở New Jersey, ông ta đã được sự uỷ thác đặc biệt và trực tiếp của Wasshington. Ông ta cũng được huấn luyện để đảm nhận chức vụ đặc biệt này. Tài năng lớn nhất của ông ta là tánh lịch thiệp. Và ông ta đã biết vận dụng tài năng này vào các cuộc thương lượng chính trị. Các sĩ quan tham mưu trong guồng máy quân quản Mỹ cũng được lựa chọn kỹ cho phù hợp với vai trò này. Bộ tham mưu gồm hai mươi sĩ quan và năm mươi hạ sĩ quan và binh lính. Phần lớn bọn này là người Mỹ gốc Ý. Ông Trùm đã đối với bọn này hết sức thân tình, cứ như anh em ruột thịt, luôn tỏ ra bao dung, trìu mến. Đã thế, lão còn tỏ ra “tứ hải giai huynh đệ” vì “tất cả anh em mình đều là con cái Chúa cả”.
Nhưng Ông Trùm - theo cách gọi của người Mỹ - cũng là một nhà thầu. Đại tá La Ponto đã coi ông là cố vấn và là ông bạn hào phóng. Đại tá thường đến nhà lão dùng cơm và nức nở khen những món ăn ở nhà lão.
Vấn đề đầu tiên mà Thống đốc quân quản Mỹ phải giải quyết là chỉ định các thị trưởng cho các thị trấn trên toàn đảo Sicily. Các cựu thị trưởng dưới chế độ phát-xít của Mussolini tất nhiên phải là đảng viên phát-xít và do đó phải nếm cơm tù của Mỹ. Ông Trùm gợi ý ngài đại tá bổ nhiệm các sếp Mafia vào các chức vụ ấy. Và đó là cách Ông Trùm thi ân bố đức cho các sếp này đồng thời biến các sếp này thành tay “đệ tử” của mình. Thành tích hiển nhiên nhất của bọn này là cái “mác” nạn nhân của Mussolini, đã bị hành hạ, tù đày vì đã “phản nghịch, chống lại các mục tiêu và lợi ích của nhà nước phát-xít”. Còn những tội như cướp của giết người của bọn này, theo Ông Trùm báo cáo cho ngài La Ponto, chỉ là do bọn phát-xít chụp mũ, để làm nhục các sếp Mafia mà thôi.... Ông Trùm thường khoe món cá tuyệt hảo do đích thân vợ lão nấu, ngoài ra lão còn kể cho ngài đại tá và bộ tham mưu của ông ta nhiều đức tính cao cả, quí báu của những “Người anh em” của lão - thực ra gồm toàn một lũ sát nhân, đầu trộm đuôi cướp - trong đó cao quý nhất và sắc nét nhất là niềm tin của lũ này vào những nguyên tắc dân chủ, tự do, công lý. Ngài đại tá mừng rơn vì nhờ Ông Trùm mà ngài đã mau mắn tìm ra những con người đúng tiêu chuẩn để cai trị một dân tộc văn minh dưới sự lãnh đạo của ngài. Chỉ trong vòng một tháng hầu hết các thị trấn đã có thị trưởng. Tất cả các thị trưởng đều là những tay Mafioso trung kiên vừa được đem từ nhà tù phát-xít ra và đều được Ông trùm xác minh lý lịch và bảo lãnh là Mafioso thứ thiệt.
Bọn thị trưởng này cũng phục vụ tận tình và đắc lực cho quân đội Mỹ. Chẳng thế mà chỉ với một dúm sĩ quan và lính Mỹ mà cũng đủ để trị an cả hòn đảo Sicily rộng lớn. Chiến tranh vãn còn tiếp diễn và ngay trên đất, Mussolini vẫn còn ngự trị. Ấy thế mà chỉ với một dúm sĩ quan và lính Mỹ mà các điệp viên của Đức và Ý đành bó tay, trên đảo không hề xảy ra một vụ phá hoại nào, không một tên gián điệp nào dám hó hé. Chợ đỏ đen được giới hạn ở mức tối thiểu. Để tuyên dương thành tích ấy, Washington đã ban cho ngài đại tá huân chương đặc biệt và vinh thăng thiếu tướng.
Các thị trưởng Mafia của Ông Trùm đã tận tình, tận lực thực thi đạo luật cấm buôn lậu. Các toán cảnh vệ tuần tiễu ngày đêm, gắt gao lùng sục từ đường phố lớn cho đến ngõ hẻm, từ miền quê cho đến khe núi khuất nẻo. Tuy dưới sự cai quản của quân đội Mỹ, nhưng chế độ khẩu phần lương thực của chế độ phát-xít đặt ra do nhu cầu chiến tranh vẫn còn được áp dụng. Mọi sự vẫn như xưa, nghĩa là nhà nước vẫn thu mua lương thực của nông dân theo giá do nhà nước ấn định. Ông Trùm ra lệnh cho các thị trưởng, bọn cớm, cảnh vệ và các thanh tra nhà nước phải làm thế nào để những tên nông dân đầu bò đầu bướu phải đưa nông sản và dầu ôliu đến bán cho các kho nhà nước theo giá ấn định. Để bảo đảm việc này, Ông Trùm yêu cầu và được ngài đại tá La Ponto hoan hỉ chấp thuận cho lão mướn những xe tải của quân đội Mỹ để chở những lương thực ấy đến thủ phủ Palermo cũng như các thành phố, thị trấn khác như Monreale, Trapani, Syracuse, Catania và thậm chí cho cả thành phố Naples trên lục địa đang bị thiếu lương thực trầm trọng. Người Mỹ kinh ngạc trước tài năng tổ chức và sự hữu hiệu của Ông Trùm và đã không tiếc ban khen về việc lão đã hỗ trợ quân đội Mỹ hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp quá cả sự mong muốn.
Tuy nhiên, Ông Trùm đâu có ăn được những cái bằng khen đó. Và cũng chẳng đọc được những lời lẽ tâng bốc trong cái bằng khen đó. Bởi một lẽ đơn giản là ngay chữ Ý mà lão đã “mù” rồi, nói gì đến tiếng Mỹ! Và những cái vỗ vai khen ngợi của ngài đại tá cũng chẳng làm no được cái bụng phệ của lão. Đâu có ngây thơ đến nỗi tin vào lòng biết ơn của đám con cháu chú Sam này, hoặc tin vào những ân sủng chúa ban cho sau này trên cõi thiên đường để tưởng thưởng cho những việc lành lão đã làm “vì lòng nhân đạo và vì sùng thượng tinh thần dân chủ”. Tất nhiên, lão không chê phần thưởng - bất cứ là do ai ban cho - nhưng phải ban thưởng theo kiểu của lão, và thưởng những món lão chịu kia. Mà lão có muốn “gan rồng đào tiên” đâu. Cái lão muốn, khiêm nhường và tầm thường lắm - thì cũng chỉ là nông phẩm, là dầu ôliu thôi. Bởi vậy, những xe tải của Mỹ chở đầy cứng lương thực - với tài xế có võ trang và giấy thông thành đặc biệt do chính ngài đại tá La Ponto ký - lại chạy về những địa điểm, nhập vào những kho do chính Ông Trùm chỉ định tại những thị trấn xa xôi, hẻo lánh như Montelepro, Partinico, Villaba chẳng hạn, từ đó Ông Trùm và đồng bọn tung ra bán giá cao gấp 50 lần giá chính thức trên thị trường chợ đen mà lão nắm độc quyền. Nhờ đó, lão gắn chặt được mối liên hệ và chia sớt mối lợi của lão cho các sếp đầy quyền lực của cái tổ chức Mafia đang hồi sinh. Chẳng phải lão thương xót hoặc quí hóa hay sợ sệt gì mấy sếp này mà vì các triết lý sống của lão là sự tham lam là cái hại lớn nhất và chắc chắn nhất đưa đến sự thất bại của con người.
Lão chia sẻ mối lợi cho đám đàn em cũng rất thoải mái. Lão còn có cơ hội khác nữa để bày tỏ sự hào phóng của lão. Ngài đại tá La Ponto nhận được nhiều món quà rất vô hại về mặt pháp lý, nhưng lại rất nặng về mặt tài chính, đồng thời lại được biểu lộ khát vọng cao quí của con người là lòng khát khao cái đẹp. Đó là những bức tượng cổ, tranh cổ, và nữ trang cổ. Cho là một trong những cái thú của lão. Các sĩ quan, nhất là bọn lính trơn đối với lão, thôi thì cứ “bố bố, con con” ngậu sị cả lên. Và chúng chẳng bao giờ chê những món quà mà lão tặng cho. Do đó, lão cũng được chúng dành cho lão quyền “ưu tiên hành quân” nghĩa là ưu tiên số một. Những xe tải chở hàng cho lão là những xe tốt nhất hoặc được sửa chữa cẩn thận nhất. Ông Trùm còn bố trí cho chúng được đi dự những bữa tiệc, ở đó chúng được cặp kè với những cô gái Sicilian mơn mởn với con mắt bốc lửa dục tình và với trái tim nóng bỏng là một trong những “đặc sản” của Sicily. Phần lớn bọn này đều có gốc gác Sicilian. Được đón tiếp trong những gia đình Sicilian “thuần chủng”, được ăn những món ăn mà ông bà già ruột của chúng ở bên Mỹ - tuy cũng gốc gác Sicilian đấy, nhưng vì tha phương cầu thực đã lâu hoặc vì lý do nào đó - đã quên mất cách nấu rồi. Nhiều đứa còn thề non hẹn biển với các ả giang hồ hoặc ái nữ của các trùm ăn cướp, giết người, đâm thuê, chém mướn.
Ông Trùm đã có đủ mọi điều kiện trong tay để tái lập cái giang san của lão, để tổ chức lại mạng lưới quyền lực của lão và để tái thu hoạch các nguồn lợi trước kia lão đã hưởng. Các sếp Mafia trên khắp đảo Sicily đều là người mang ơn lão. Có làm được thị trưởng thì cũng do lão “vẽ mặt, đeo râu” cho, chớ ngoài cái tài đao búa ra thì lũ ấy, một chữ bẻ đôi cũng không biết, bình thường làm sao mà leo lên được cái chức thị trưởng vừa oai quyền mà lại vừa nhiều bổng lộc béo bở kia.
Lão kiểm soát tất cả các nguồn nước trên đảo và bán lại cho dân với giá cắt cổ. Bấy nhiêu đó cũng đã bộn bạc rồi. Lão còn chiếm độc quyền thị trường lương thực, lão nâng thuế đánh vào các tiệm trái cây, vào tất cả các lò sát sinh và các cửa hàng thịt, các tiệm cà-phê thường và cà-phê “ôm” và ngay cả mấy phường kèn đám ma cũng được lão để mắt tới. Ngay cả xăng dầu - do một nguồn độc nhứt là Mỹ - lão cũng độc quyền kiểm soát. Lão cung cấp cặp rằng cho các lãnh địa rộng lớn của các quí tộc và thỉnh thoảng - rẻ thì mua chơi - mua lại đất của các chủ đất có cơ phá sản. Với bấy nhiêu thứ quan tâm, thế mà lão vẫn còn đủ thời gian và tâm trí để phác họa kế hoạch tái lập cái “quyền lực đen”, quyền lực trong bóng tối trên toàn cõi nước Ý mà lão đã từng nắm giữa trước khi Musolini lên nắm chính quyền. Lão quyết định phải giàu, mạnh trở lại. Vì dưới thời Missolini, lão gần như trắng tay về cả tài sản lẫn quyền lực. Trong những năm sắp tới - như người ta nói - lão sẽ đặt Sicily vào cái máy ép như trái ô liu.
Chỉ có một điều là cho lão buồn phiền lắm mà không làm sao giải quyết được. Đó là thằng con trai độc nhất của lão. Cái thằng điên khùng lẽ ra theo lão mà học tập “làm ăn” đặng mai sau nối nghiệp lão thì không lo, mà cứ lo “làm việc phúc đức”. Cái cơ nghiệp đồ sộ này để cho ai đây. Ông em trai của lão - cha Benjamino - con rơi con vãi thì cả bầy đó, nhưng không được phép lập gia đình chính thức thì cũng như không. Ông Trùm không có một người nào ruột thịt máu mủ để truyền nghề và trao lại cái đế quốc của lão. Điểm lại mặt các sếp sòng Mafia hiện tại thì không có mặt nào vừa có bản lãnh lại vừa có liên hệ huyết tộc, xa gần gì cũng được, và còn trẻ để trước mắt làm cái “quả đấm sắt” một khi bàn tay bọc nhung của lão tỏ ra không đủ sức thuyết phục.
Người thân tín của Ông Trùm đã “chấm” Turi Guiliano vào vai trò đó. Tuy không phải huyết thống, nhưng chính ông em trai của ông và cả cha bề trên Manfredi cũng khẳng định với lão về năng lực và bản lãnh của hắn. Càng ngày càng có nhiều huyền thoại lan rộng trên khắp đảo Sicily về những việc làm táo bạo đến mức tưởng như thần thoại của anh chàng này, thì đủ biết rằng nhận xét của cha Benjamino và cha bề trên là “con mắt tinh đời”.
Ông Trùm đã đánh hơi được giải pháp cho vấn đề của mình.
[1] Nguyên văn tiếng Ý và có nghĩa là cây thập tự.
[2] Tuần lễ trước ngày lễ Phục Sinh.
[3] Trong tuần lễ Thánh, các nhà thờ thường tổ chức các buổi lễ kịch diễn lại tấn bi kịch Chúa Jesus bị bắt, bị đưa ra toà, bị tra tấn trước khi “bị đóng đinh trên cây thập tự”. Và y đã được hoan nghênh hết sức vì nhập vai rất có “thần”.
[4] Magdalena nguyên là một cô gái điếm, nhưng có lòng ăn năn sám hối nên được Chúa tha tội. Khi Chúa bị nạn, bị đóng đinh, Magdalena đã theo Chúa đến tận nơi Chúa bị hành hình và sau ba ngày Chúa chết, Magdalena là một trong những người đầu tiên phát hiện Chúa đã Phục Sinh (N.D)
[5] Cassetta: hình phạt đại khái như nhốt một người vào trong một thùng thiếc nhỏ, rồi đem ra phơi nắng.
[6] Máu xanh (blue blood): người âu vẫn gọi một cách chế giễu giai cấp quí tộc (high birth or high descent là có “máu xanh”. (N.D)
[7] Machiavel: tác giả cuốn “Ông Hoàng” trong đó đề cập đến các thủ đoạn bá đạo mà các nhà cầm quyền nên áp dụng để chiếm đoạt củng cố và nắm vững chính quyền. Các thủ đoạn ấy vô cùng quỷ quyệt thâm hiểm, bất nhân và tàn bạo. (N.D)
[8] Lễ báp-têm: lễ rửa tội
[9] Mafioso: thành viên của tổ chức Mafia (N.D)
Buổi sáng ngay sau đêm phục kích và trốn thoát khỏi Montelepre, Turi Guiliano và Aspanu tắm nắng ở dòng suối sau hang Bianca trên đỉnh núi Ora. Chúng dựng súng vào vách đá và trải mền ra, nằm duỗi dài để tắm nắng ban mai.
Hang Bianca dài và sâu. Ở cuối hang có tảng đá lớn đụng trần chặn ngang. Lúc nhỏ Turi và Aspanu đã tìm cách nhích được tảng đá đó ra một chút đủ cho người chui lọt. Và chúng đã thấy một lối thông sang sườn núi bên kia. Lối đó có từ thời trước Công nguyên và do đạo quân nô lệ đào để lẩn trốn và phục kích đạo quân La Mã. Xa phía dưới thị trấn Montelepre trông nhỏ bằng bàn tay. Những đường mòn dẫn đến rặng núi trông như những con giun ngoằn ngoèo bám vào vách núi. Mặt trời đang mọc nhuộm vàng rực rỡ những mảnh tường xây bằng đá màu xám và những mái nhà.
Không khí ban mai trong trẻo, trái lê dại trên mặt đất mát lạnh và ngọt. Turi bóc một trái, cẩn thận cắn để hút nước xấp giọng. Vài giờ nữa, sức nóng mặt trời sẽ làm cho những trái này khô xác như bông gòn. Những con tắc kè đầu tròn như trái banh, bốn cẳng nhỏ xíu hốt hoảng bò tới, bò lui trên tay, trên người họ. Những con vật này trông dữ tợn nhưng vô hại. Guiliano hất chúng ra.
Trong khi Aspanu lau chùi vũ khí, Turi nhìn xuống thị trấn bên dưới. Mắt hắn phân biệt được những chấm đen đen là những nông dân đang làm việc trên ruộng. Nó cố định vị nhà nó ở chỗ nào. Trước đó đã lâu - lúc chúng còn nhỏ - hắn và Aspanu đã trương hai lá cờ - một lá cờ Sicily và một lá cờ Mỹ - trên nóc nhà chúng. Tuy là những đứa trẻ ranh ma, nhưng lại thích được coi là những nhà ái quốc. Nhưng cái ý đồ thực sự của chúng khi trương cờ lên như vậy là để cho chúng leo lên những đỉnh núi cao này, chúng có thể nhìn thấy nhà của chúng.
Bỗng nhiên, chúng nhớ lại câu chuyện mười năm trước, chính quyền phát-xít trong thị trấn đã bắt chúng hạ cờ Mỹ xuống. Hai đứa tức điên, bèn hạ luôn cả hai lá cờ Sicily và Mỹ, rồi đem lên hang Bianca chôn dưới gần chỗ tảng đá ở cuối hang.
Guiliano nói với Pisciotta :
- Mày trông chừng chỗ mấy đường mòn.
Rồi nó đi vào hang. Mặc dầu đã qua mười năm, Guiliano vẫn còn nhớ chỗ đã chôn hai lá cờ. Một lớp rêu mỏng, màu xanh đen, xác xơ phủ trên chỗ chúng đã đào để chôn hai lá cờ, Guiliano lấy hòn đá làm cuốc để đào. Chỉ trong một hai phút, hai lá cờ đã lộ ra. Lá cờ Mỹ hơi bị nhàu nát và dính đất bọc ngoài lá cờ Sicily. Và cái bao hai lá cờ cũng vẫn còn. Lá cờ Sicily màu đỏ tươi và vàng vẫn còn rõ nét như hồi hắn mười tuổi và không bị thủng lỗ nào. Hắn đem ra ngoài hang, vừa cười vừa nói với Pisciotta :
- Aspanu, mày còn nhớ cái này không?
Pisciotta nhìn lá cờ và cả hai cười thích thú.
- Thật đúng là định mệnh. - Pisciotta la lên và nhảy lên giật lấy lá cờ trong tay Guiliano. Y đi lại phía mỏm núi cắm lá cờ vẫy vẫy. Rồi, cả hai đứa đứng lặng thinh chẳng nói chẳng rằng như thể mỗi đứa chìm vào trong những ý nghĩ riêng tư của mình. Guiliano bẻ một nhánh cây gần đó, cắm nhánh cây xuống và chèn mấy hòn đá cho chắc, rồi treo lá cờ vào đó. Lá cờ bay phấp phới. Từ dưới thị xã cũng có thể nhìn thấy. Và chúng ngồi xuống mỏm đá, chờ.
Cho đến tận trưa, chúng chẳng nhìn thấy gì. Nhưng, rồi chúng thấy một người cưỡi lừa đi trên đường mòn bụi bặm dẫn đến vách núi. Chúng nhìn thêm một giờ nữa cho đến khi con lừa đi vào rặng núi và bắt đầu leo dốc. Pisciotta nói :
- Mẹ kiếp, người cưỡi nhỏ hơn con lừa thì chỉ có thể là ông bố đỡ đầu của mày, chứ không ai!
Guiliano nhận ra ý khinh thường trong giọng nói của Pisciotta. Y dù ốm o, mảnh khảnh, nhưng lanh lợi, hoạt bát và trông cũng khá điển trai - nên rất tởm những người dị dạng. Bênh ho lao khiến đôi khi ho ra máu cũng làm y gớm, nhưng không phải vì y cho rằng bệnh ấy nguy đến tính mạng, mà vì sợ rằng bệnh ấy làm cho y mất đẹp trai đi. Dân Sicilian có cái khoái đểu cáng là dựa vào kỳ hình dị tướng của người ta để đặt cho những cái hỗn danh châm chọc, chế giễu, mỉa mai đến độ tàn nhẫn. Đã có lần, bị thằng bạn gọi là “ngực lép”, Pisciotta đã xỉa cho thằng đó một dao. May mà Guiliano kịp can ra, chớ không thì thằng đó cũng rồi đời.
Guiliano chạy xuống vài dặm và nấp đằng sau một tảng đá lớn. Đó là lối chơi ngày còn bé, hắn và Aspanu hay chơi. Hắn đợi cho Adonis đi qua, rồi chĩa súng phía sau lưng và thình lình quát to: “Đứng im! Cấm nhúc nhích!”. Lại một trò chơi hồi bé. Adonis từ từ quay lại để che cái tay đang rút súng lục. Đứng đằng sau tảng đá, Guiliano cười và lên tiếng :
- Turi đây mà, bố! - Và đợi cho đến khi Adonis nhét súng vào beo và cởi ba-lô ra, Guiliano mới hạ nòng súng và rời khỏi chỗ nấp. Biết là vì cặp giò quá ngắn, nên ông Adonis lên, xuống ngựa khá khó khăn, Guiliano định chạy ra đỡ ông xuống. Nhưng khi tới nơi thì ông đã tuồn được xuống đất rồi và vội vã ôm hôn hắn. Họ đi ngược lên, Guiliano dắt lừa.
- Khá đấy, nhỏ, mầy đã đốt giai đoạn rồi. - Hector Adonis nói bằng cái giọng nghề nghiệp của ông - Đêm hôm rồi, thêm hai mạng cảnh sát nữa. Không phải chuyện giỡn chơi đâu, nghe con!
Khi họ tới chỗ mỏm đá, Pisciotta chào ông.
- Nhìn ngọn cờ Sicilian, - Adonis nói - thầy biết là tụi con ở quanh quẩn đâu gần đó thôi.
Pisciotta toét miệng ra cười :
- Turi và con cùng với ngọn núi này đã tách ra khỏi nước Ý và tuyên bố độc lập.
Hector Adonis nguýt một cái và nghĩ bụng: “Thật đúng cái thói duy ngã của bọn thanh niên ngông cuồng, cứ cho mình là cái rốn của vũ trụ”.
- Tận dưới thị xã cũng còn nhìn thấy lá cờ này, kể cả Maresciallo và đám cảnh vệ. Thế nào tụi nó cũng lên đây tước lá cờ đó!
- Lúc nào cũng giở cái giọng dạy đời ra được! - Pisciotta nói một cách xấc xược - Chúng sẽ đến đây để chào cờ. Và chúng sẽ chỉ gặp lá cờ này mà thôi. Ban đêm thì tụi này hoàn toàn bình an, vô sự. Bọn cớm mà dám mò lên đây ban đêm thì có họa là trời sập.
Adonis làm như không biết đến y. Ông tháo cái túi đeo trên lưng con lừa ra và lấy từ trong túi ấy một cái ống nhòm loại tốt, nhìn xa, rồi mấy bộ quần áo, kể cả đồ lót, bộ đồ cạo râu của ông bố hắn và sáu bánh xà-phòng. Trao cho Guiliano, ông nói :
- Ở đây thì con cần mấy thứ nầy!
Guiliano khoái nhất cái ống nhòm. Chúng nó liệt kê những thứ chúng cần và nhờ ông tuần sau mang lên. Guiliano biết là mẹ hắn ưa tích trữ xà-phòng đủ xài cho cả năm.
Ở một cái túi khác, ông Adonis lôi ra một tảng phó mát có trộn tiêu, một ổ bánh mì và một ổ bánh gì đó nhồi đầy thịt heo, rồi lại phó-mát và trứng gà luộc. Chỉ tay vào cái bánh nhồi thịt, ông Adonis nói :
- Cô La Venera gửi cái bánh này cho con, nói là ngày trước, mỗi khi lên núi thăm chồng, chị ta đều làm bánh này. Với cái bánh này, anh chồng chị ăn cả tuần lễ, không bị hư.
Pisciotta nheo con mắt ra hiệu vừa thân mật vừa châm chọc và nói với Guiliano :
Càng già càng dẻo càng dai.
Bà càng kinh nghiệm, thì trai càng mòn,
Bà càng lắm phép nhiều đòn,
Vài đêm ân ái, trai còn bộ xương!
Đúng không? Guiliano? - Và, Pisciotta lăn ra cười hô hố.
Hai đứa ngồi xuống vệ cỏ, bẻ bánh ra ăn. Pisciotta lấy con dao y vẫn dùng để “lụi” người ra cắt phó mát. Đám cỏ chúng ngồi có nhiều côn trùng, nên chúng dọn lên chỗ mỏm đá. Ăn xong, chúng uống nước suối trong vắt chảy ở phía dưới chúng chừng ba chục mét. Rồi chúng lại lên chỗ mỏm đá, ngồi. Ông Adonis thở dài :
- Hai đứa tụi con cứ nhởn nhơ tự mãn. Nhưng đây đâu phải là chuyện giỡn chơi, mà là chuyện giết người. Nếu chúng bắt được tụi con là chúng “phơ” liền tại chỗ.
- Nếu tụi con bắt được tụi nó cũng vậy, - Guiliano trầm tĩnh nói - cũng “phơ” liền.
Ông Adonis rất xúc động về điều này. Vậy là hết hy vọng dàn xếp :
- Đừng có liều lĩnh. - Ông nói - Tụi con còn trẻ quá mà.
Guiliano nhìn ông thật lâu, rồi trầm tĩnh nói :
- Tụi con còn quá trẻ đối với bố, nhưng đối với tụi nó thì chắc là đủ lớn để tụi nó xả súng bắn chỉ vì buôn chui phó-mát. Tụi nó đối dãi với tụi con như vậy, bộ bố muốn tụi con phải cong đuôi chạy à? Để gia đình tụi con chết đói à? Để hàng tuần bố đem thức ăn cho tụi con, còn tụi con nhởn nhơ ở đây chơi à? Tụi nó đến đây để giết tụi con, bộ tụi con phải quỳ xuống để cho tụi nó giết à? Và thưa bố, khi con còn nhỏ, bố đã chẳng nói cho con nghe về đời sống khốn khổ, khốn nạn của người nông dân Sicilian đó sao? Họ đã bị bọn người Rome, bọn thu thuế, bọn quí tộc, bọn địa chủ áp bức, bóc lột như thế nào khi đi làm thuê làm mướn cho chúng nó, làm quần quật còn hơn con lừa mà chỉ nhận được đồng lương vừa đủ để khỏi chết đói đó sao? Bản thân con đây này, con cùng với 200 người dân ở thị trấn đến quảng trường để cho chúng mặc cả giá tiền công như thể chúng con là súc vật không bằng. “Một trăm lire công một buổi sáng, chịu thì chịu, không chịu thì thôi, cút, xéo, về nhà mà chết đói nhăn răng ra, đừng có đứng ở đó mà lải nhải xin xỏ, rác tai ông!” Đấy, chúng nó nói với chúng con như thế đấy! Chúng nó đối đãi với chúng con như thế đấy. Ấy thế mà vô số anh em chúng con biết rằng nó bóc lột mình mà vẫn phải cắn răng chấp nhận đồng lương chết đói ấy. Ai sẽ là vô địch ở Rome, nếu không phải là Guiliano?
Nghe vậy, giáo sư Adonis hết hồn vía. Là một thằng ăn cướp đã là quá mạo hiểm, nhưng là một nhà cách mạng thì lại còn mạo hiểm hơn.
- Trong văn chương thì mọi sự đều hay, đều đẹp cả. - ông Adonis nói - Nhưng trong thực tế cuộc đời thì làm vậy là mau xuống mồ lắm, con ơi! - Ông im lặng một chút, rồi ông nói - Đêm hôm qua con làm anh hùng có ích hay không thì chưa biết nhưng mấy người lối xóm của con hiện ở tù oan, cái đó thì chắc chắn.
- Con sẽ giải cứu họ. - Guiliano bình tĩnh, thản nhiên nói.
Những tưởng ông bố sẽ cổ vũ, hay ít ra cũng thông cảm thì Guiliano lại chỉ thấy sự sửng sốt đến hốt hoảng trên khuôn mặt ông ta. Hắn biết rằng trong đầu óc và tâm trí của Adonis, hắn vẫn chỉ là một thằng Guiliano, một thanh niên nhà quê tốt bụng thuở nào.
- Bố nên hiểu con hiện nay như thế nào. - Nói đến đó, hắn bỗng ngưng không nói nữa, có thể nào hắn đoán đúng ý nghĩ của ông? Có lẽ ông nghĩ là hắn kiêu căng vô lối. Nhưng rồi hắn lại nói tiếp - Con không sợ chết, con chỉ sợ sống nhục và chết nhục thôi!
Hắn mỉm cười với ông, nụ cười mà ông rất thích :
- Thật ra chính con cũng phải ngạc nhiên về những thay đổi trong lòng con nữa là ai. Nhưng, con không sợ bị giết. Vì con linh cảm con sẽ không thể bị như vậy. - Hắn cười lớn - Bọn cảnh sát dã chiến, xe bọc thép có súng đại liên... tất cả những thứ giết người đó của bọn cầm quyền ở Rome đều không làm cho con sợ. Con có thể đánh bại chúng. Trên cái rặng núi ở Sicily này, đã và đang có đầy rẫy các băng cướp. Băng này tan rã thì băng khác hình thành. Passatempo và băng của hắn. Rồi, Terranova. Chúng thách thức bọn cầm quyền ở Rome đó. Tại sao con lại không thể làm như bọn đó được nhỉ? Con thừa sức làm và con làm hay hơn bọn đó nữa kìa!
Ông Adonis cảm thấy vừa vui mừng, vừa lo lắng. Phải chăng ngoài vết thương trên người, nó còn bị thương ở não bộ? Hoặc nó lãng mạn, tưởng thời buổi này cũng giống như những ngày khởi đầu của lịch sử các anh hùng như Alexandre đại đế, như các Caesare, các hiệp sĩ kiểu Roland? Khi nào thì giấc mơ làm anh hùng khởi đầu, nếu không phải là lúc ngồi một mình, nghĩ vẩn nghĩ vơ ở một khe núi hay là lúc ngồi tán dóc với bạn bè rồi cao hứng, bốc đồng nói cho đã rồi thôi? Nhưng, ông Adonis nói một cách hững hờ :
- Thôi, bỏ cái chuyện Pasatempo với Terranova đi, chúng đã bị bắt và hiện đang bị giam ở ngay nhà lao trong trại Bellatapo kia. Vài ngày nữa chúng sẽ bị giải đi nhà lao Palermo.
- Con sẽ phải cứu họ. - Guiliano nói - Con hy vọng họ sẽ nhớ ơn con!
Cái vẻ quyết liệt, chắc ăn trong cách ăn nói của Guiliano đã thực sự làm cho Pisciotta khoái chí. Cả hai đều giật mình vì thấy rõ ràng sự thay đổi ở Guiliano tuy mỗi người thấy ở những khía cạnh khác nhau. Cả hai lý do và cái cách yêu thương, trọng nể ấy khác nhau, Guiliano luôn có cái vẻ đĩnh đạc, đàng hoàng, nói năng mực thước so với cái tuổi và cái vốn sống của hắn. Nhưng đây là lần đầu tiên cả hai thấy rõ cái xu hướng về quyền lực của nó. Ông Adonis nói :
- Họ nhớ ơn con? Thế con có biết là Passatempo đã giết người chú ruột của nó, người đã cho nó con lừa đầu tiên để làm vốn, làm kế sinh nhai không?
- Nếu vậy thì con sẽ dạy cho hắn biết thế nào là lòng biết ơn. - Ngưng một lát, Guiliano nói tiếp - Bây giờ, con xin bố một ân huệ. Bố suy nghĩ cho kỹ đi, rồi hãy trả lời. Nhưng, dù bố cho con cái ân huệ ấy hay không thì con cũng vẫn là đứa con đỡ đầu hiếu thảo và kính trọng bố. Bố đừng quên rằng bố là bạn thân của cha mẹ con, và cũng đừng quên lòng trìu mến mà con dành cho bố, con cũng xin nói rõ: con xin bố ân huệ này không phải cho lợi ích cá nhân con, mà là cho xứ sở Sicily mà bố dạy con phải yêu nó. Ân huệ đó là: bố hãy là tai, là mắt của con ở Palermo.
- Điều mà con xin bố, - Adonis nói - có nghĩa là một giáo sư đại học Palermo phải trở thành một thành viên một “băng” gồm những tên sống ngoài vòng pháp luật?
- Điều đó thì có lạ gì ở cái xứ Sicily này kia chớ. - Pisciotta nóng nảy nói chen vào - Ở đây, ai mà chẳng dính dáng xa gần đến cái lũ “Người anh em” chó đẻ ấy. Và có ở đâu mà một giáo sư đại học lại có súng lục nhét cạp quần như ở Sicily này không?
- Hector Adonis chăm chú nhìn cả hai đứa trong khi ông suy nghĩ câu trả lời. Ông có thể dễ dàng hứa rồi quên hay lờ đi không thực hiện lời hứa ấy. Ông cũng có thể từ chối hoặc chỉ hứa lâu lâu giúp đỡ một lần như một người bạn có thể giúp đỡ một người bạn, kiểu như ông làm ngay hôm nay. Sau cùng, nếu có hứa như hắn yêu cầu thì cái vở kịch này cũng không kéo dài vì Guiliano có thể bị giết trong lúc chiến đấu hay bị phản bội. Hắn cũng có thể di cư sang Mỹ, và thế là vấn đề được giải quyết. Ông suy nghĩ một cách buồn bã.
Hector Adonis nhớ lại một ngày hè cách đó đã lâu lắm rồi, một ngày hè cũng như ngày hôm nay, lúc đó Turi và Aspanu mới chừng tám tuổi, chúng đang chơi trên mảnh đất phía sau nhà để đợi bữa ăn chiều. Ông Hector Adonis đem về cho Turi một ít sách ấy là thiên anh hùng ca “Hiệp sĩ Roland”. Ông đã đọc cho chúng nó nghe.
Ông Adonis hầu như thuộc lòng cả thiên anh hùng ca đó. Và cuốn đó được những người Sicilian có học thức mê say đã đành mà ngay cả những người vô học cũng mê nữa. Cuốn đó là trụ cột, là cái đinh của các gánh hát múa rối búp bê lưu diễn khắp thành thị, thôn quê. Và các tích truyện của cuốn đó được chuyển thành hình vẽ trên các bánh xe lừa kéo ngược xuôi trên khắp xứ Sicily. Hoàng đế Charlemagne có hai hiệp sĩ - Roland và Oliver - tử thủ để chặn hậu cho cuộc rút lui của mình. Adonis đã kể lại trận đánh ở đèo Ronceveaux, hai hiệp sĩ đó đã chết như thế nào, Oliver đã ba lần năn nỉ Roland thổi tù và để gọi quân của Charlemagne trở lại như thế nào, và Roland đã hiên ngang từ chối ra sao. Và rồi quân Hồi đã áp đảo, đã tràn ngập. Đến lúc đó, Roland mới thổi tù và. Nhưng, đã quá trễ. Khi hoàng đế Charlemagne quay lại cứu hai hiệp sĩ, ngài chỉ thấy thi thể của họ lẫn lộn trong đám hàng ngàn xác chết của quân Hồi giáo. Và ngài đã bứt tóc, bứt râu, vật vã trách mình và than tiếc hai người tôi trung thành đã anh dũng hy sinh. Adonis nhớ những giọt nước mắt long lanh của Guiliano khi nghe kể chuyện. Nhưng cũng khá kỳ cục là trong khi Guliano cảm động, khóc, thì trên vẻ mặt của Pisciotta lại lộ ra cái vẻ khinh thường, giễu cợt. Đối với đứa này thì đó là giờ phút đáng sống nhất của một con người, đối với đứa kia thì đó là một cái chết nhục nhã của những người bất trung và ngu xuẩn.
Hai đứa trẻ đứng dậy chạy vào nhà để ăn cơm. Turi khoác tay Pisciotta. Ông Adonis mỉm cười nhìn cử chỉ đó. Chính Roland đã đỡ Oliver đứng dậy để cả hai cùng chết đứng trước cuộc tấn công của quân Hồi. Khi chết, Roland đã chĩa thẳng mũi giáo của mình lên trời xanh. Và một thiên thần đã lượm lấy mũi giáo đó. Thiên anh hùng ca và các huyền thoại dân gian đều kết thúc như vậy.
Cách nay cả ngàn năm rồi, nhưng Sicily vẫn triền miên bị đau khổ trong cái khung cảnh tàn bạo của một cái máy ép dầu ôliu, của những cánh đồng cháy sém, của những miếu thờ bên đường xây từ hồi những người Siciclian đầu tiên theo Thiên Chúa giáo, của vô vàn những cây thập tự được dựng lên để đóng đinh đoàn quân gồm những người nô lệ nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Spartacuss. Và đứa con đỡ đầu của ông có thể là một anh hùng khác nữa thêm vào số những anh hùng đã quá nhiều ở cái xứ Sicily này. Nhưng nó không hiểu rằng, để có thể cho Sicily thay đổi thì cần phải có ngọn núi lửa tinh thần phun lên, thiêu trụi hòn đảo này.
Bây giờ, mười mấy năm sau, nhìn ngắm chúng trên mỏm đá trên đỉnh núi Ora, Guiliano đang chiếu đôi mắt màu nâu đậm vào ông Adonis, miệng mỉm cười như thể muốn nói hắn biết rõ ông bố đang nghĩ gì trong đầu, ông Adonis thấy một sự thay đổi kỳ lạ đang diễn ra, Ông thấy chúng như những bức tượng chạm nổi trên cẩm thạch, nhưng thân thể chúng bị đánh văng ra khỏi cuộc sống bình thường. Giữa Guiliano và Pisciotta có cái dáng dấp của một con người hiểm độc hung ác chỉ chuyên gieo rắc trên thế giới dao găm và chất độc. Trong khi đó, Guiliano - thân hình cao lớn của một người Mỹ, khuôn mặt có vẻ đẹp của tượng thần Apollo Hy Lạp - tỏa ra cái vẻ thơ ngây, chân chất của một anh hùng huyền sử.
Ngay từ lúc còn nhỏ, Pisiotta đã tự ra thực tiễn. Xảo quyệt, lạnh lùng, tàn nhẫn, coi thường mọi sự. Guiliano, trái lại sẵn sàng tin vào thiện tâm của con người và kiêu hãnh vì sự thành thật của mình. Ngay từ những ngày đó, Hector Adonis đã nghĩ rằng rồi ra Pisciotta sẽ là người lãnh đạo và Guiliano chỉ là kẻ thực hiện. Nhưng, ông cũng chỉ biết đến thế và dự đoán đến thế chứ không biết gì hơn.
Nhưng, một người tin vào đức hạnh của mình thì có thể nguy hiểm và tàn bạo hơn một người tin vào sự xảo quyệt của mình. Bởi vì cơn cám dỗ của điều thiện đã cho ta sức mạnh và an tâm lao vào sự tàn bạo mà vẫn tưởng mình là hiệp sĩ của cái thiện. Lịch sử đã có nhiều tấm gương như vậy mà Robespierre chỉ là một.
Cái giọng chế giễu, châm chọc, xấc xược của Pisciotta đã phá vỡ cơn mơ màng của Adonis.
- Thôi, giáo sư cứ ừ đại đi cho rồi! Tôi sẽ làm phó tướng trong cái băng cướp của Guiliano. Nhưng, dưới tôi, không có thằng nào để ra lệnh. - Y toét miệng cười, nói tiếp - Tuy nhiên, tôi muốn khởi nghiệp một cách khiêm nhường.
Mặc dầu không bị khiêu khích, đôi mắt của Guiliano vẫn lóe lên ngọn lửa tức giận. Nhưng, hắn lại điềm tĩnh nói :
- Câu trả lời của bố là thế nào?
Hector Adonis đáp :
- Được.
Một ông bố đỡ đầu có thể nào trả lời khác trong trường hợp này?
Rồi Guiliano dặn ông Adonis làm gì khi ông trở về, và phác họa kế hoạch hành động cho ngày hôm sau. Một lần nữa, ông Adonis lại sửng sốt về sự liều lĩnh và táo bạo trong kế hoạch của hai chàng thanh niên này. Nhưng, khi Guiliano đỡ ông lên lưng lừa, ông đã tự vào đứa con đỡ đầu của mình và hôn nó.
Pisciotta và Guiliano đứng nhìn ông lần theo đường mòn đi xuống để trở về Montelepre.
- Người gì đâu mà nhỏ thó! - Pisciotta nói - Vóc dáng như vậy chơi trò ăn cướp với tụi mình lúc bé là vừa.
Guiliano quay về phía y, nói một cách nhẹ nhàng :
- Còn mày thì từ nay nên ăn nói đứng đắn, đàng hoàng chút. Lúc nào giỡn thì giỡn, lúc nào cần bàn những chuyện nghiêm túc thì phải nghiêm túc chứ. Lúc nào cũng cái giọng chớt nhả, xấc xược.
Nhưng, nói gì thì nói, chúng vẫn ôm hôn nhau trước khi đi ngủ và Guiliano thủ thỉ với Pisciotta :
- Mày là em tao, nhớ điều đó!
Chúng quấn mền nằm ngủ đêm cuối cùng với cuộc sống vô danh của chúng. Ngày mai, cùng với mặt trời lên, bóng tối vô danh đó vĩnh viễn chấm dứt.
Turi và Aspanu thức dậy trước lúc bình minh, dù chẳng muốn dậy. Nhưng, vì bọn cảnh vệ cũng có thể khởi hành sớm để bất ngờ chộp hai đứa lúc đang tắm nắng ban mai. Lúc sẩm tối hôm qua, chúng đã nhìn thấy một chiếc xe võ trang liên thanh hạng nặng cùng với hai xe Jeep nữa chạy vào trại Bellampo để tăng cường. Ban đêm, Guiliano tuần khám phía bên kia sườn núi và lắng nghe xem có tiếng động gì khác thường không. Pisciotta châm chọc sự đề phòng đó :
- Lúc tụi mình còn nhỏ thì may ra tụi mình mới dám liều mạng vậy. Bộ mày tưởng bọn cớm lười như hủi, nhát như thỏ đế ấy lại chịu liều mạng đi rình mò trong đêm tối hơn là quấn mền nằm trên giường nệm đánh một giấc cho đến sáng bảnh mắt ra, rồi lại còn khệnh khạng cà-phê cà pháo hay sao?
- Mình phải tập có thói quen tốt, và nhất là cảnh giác thì không bao giờ thừa! - Turi đáp.
Hắn biết rằng sẽ có ngày nó phải đối đầu với kẻ thù khá hơn bọn này.
Turi và Aspanu lại miệt mài kiểm tra lại vũ khí, từng món và từng chi tiết. Nó ăn vài miếng bánh bằng hớp rượu nho do Hector Adonis để lại cho chúng. Miếng bánh, với những gia vị cay, nóng, đã làm cho chúng cảm thấy ấm bao tử, tăng thêm sức lực để dựng chướng ngại vật và ngụy trang cành lá chỗ mép bìa mỏm đá. Đứng đằng sau chướng ngại vật, chúng chiếu ống nhòm xuống thành phố. Guiliano khoác tiểu liên lên vai, từ tốn nhét đạn vào đầy các túi áo. Hắn cũng cẩn thận chôn tất cả các thứ khác rồi phủ đất lên, bên trên chèn một tảng đá lớn. Hắn có thói quen tự mình kiểm tra lại các chi tiết, chứ không hoàn toàn tin một ai. Qua ống nhòm, Pisciotta nhìn thấy chiếc xe có võ trang đại liên ra khỏi trại.
- Mày có lý. - Pisciotta nói - Chiếc xe đi vòng xuống thung lũng Castellammarra để đánh bọc hậu tụi mình.
Chúng toét miệng cười với nhau, Guiliano cảm thấy một niềm vui phơi phới. Pisciotta nói tiếp :
- “Chơi” lại bọn cớm, nói cho cùng, đếch có gì là khó! Chỉ là trò trẻ nít chơi lại bọn trẻ nít quỷ quyệt hơn một chút vậy thôi. Chắc tụi nó cũng biết cái hang này có đường hầm thông qua sườn núi bên kia, và chắc tụi nó nghĩ là mình sẽ chuồn qua đó khi bị chúng nó lùa đuổi bên này, cho nên, chúng nó cho xe gắn súng đại liên phục sẵn để “đón tiếp” tụi mình.
Một giờ đồng hồ nữa có thể sẽ có một đơn vị cảnh vệ đến phía dưới chân núi, chỗ đỉnh Ora, tấn công trực diện. Nếu giết được chúng ta càng hay, nếu không thì lùa qua sườn núi bên kia cho súng đại liên. Bọn cớm nghĩ chúng ta chỉ là lũ con nít mới lớn ngông cuồng mà lại nông nổi, dại dột, tập sự làm ăn cướp, khờ khạo ít kinh nghiệm. Chính lá cờ Sicilian treo đó là một bằng chứng “lạy ông tôi ở bụi này”. Hớ hênh, ngây ngô, ngu dại.
Y như rằng, một giờ đồng hồ sau, một chiếc xe tải chở cớm và một chiếc xe Jeep chở Marseciallo vượt qua cổng trại Bellampo. Hai chiếc xe tà tà đến chân núi, ngừng lại và đổ quân xuống. Mười hai tên cớm đeo tiểu liên dò dẫm, lò mò theo đường mòn lên dốc. Maresciallo gỡ cái mũ đen viền trắng và chỉ tay về phía lá cờ cắm trên mỏm đá.
Turi Guiliano đứng đằng sau chướng ngại vật, chiếu ống nhòm quan sát. Bỗng hắn chợt nhớ đến chiếc xe có súng đại liên ở phía bên kia núi, không biết ở bên đó có bao nhiêu thằng. Nhưng rồi hắn lại an tâm, vì lúc đó có leo lên được đến nơi thì cũng mất cả nửa giờ nữa, cho nên, không sợ bị đánh tập hậu, không quan tâm đến bọn bên kia sườn núi nữa, hắn quay ra nói với Pisicotta :
- Nếu tụi mình không thực hiện khéo, đúng với kế hoạch thì chắc sẽ khỏi về nhà ăn tô mì nóng tối nay như lúc mình còn bé đi chơi trên núi về vậy, đúng không?
- Nhưng, mày nhớ không? - Pisciotta nói - Tụi mình vẫn không thích về nhà. Tuy nhiên, phải công nhận, chơi lần này vui hơn, thú vị hơn. Mình phải hóa kiếp cho một vài thằng chứ?
- Đừng. - Guiliano nói. Nghĩ đến chuyện đêm hôm trước, Pisciotta đã không nghe lời nó, nên Guiliano nói chẳng có ích gì cho mục tiêu của tụi mình trong giai đoạn này.
Hai đứa kiên nhẫn chờ thêm một giờ nữa. Guiliano chĩa khẩu súng ra ngoài chướng ngại vật, bắn hai phát. Bọn lính đang đi thành hàng, bỗng chạy tán loạn và mau lẹ tản ra, nấp và các tảng đá và bụi rậm như những con kiến chui và đám cỏ. Pisciotta bắn bốn phát, khói bay lên ở những chỗ khác nhau. Bọn cảnh vệ nổ súng như mưa, nhưng nổ cầu may chứ có nhìn thấy chúng đâu.
Guiliano bỏ súng xuống, đưa ống nhòm lên, nhìn. Hắn thấy Maresciallo và tên lính đang mở máy truyền tin, chúng tiếp xúc với chiếc xe ở sườn núi bên kia, chắc là để báo tin cho bọn kia chuẩn bị, chúng có thể sắp chuồn qua bên đó. Guiliano cầm súng lên, bắn hai phát nữa, rồi nói với Pisciotta :
- Đã đến lúc tụi mình chuồn được rồi đó!
Hai đứa lủi qua phía bên kia mỏm đá, khuất tầm nhìn của bọn cớm đang tiến lên, rồi tuồn xuống một mỏm đá dốc và lăn xuống dốc cách đó khoảng năm chục mét rồi đứng dậy, súng ống sẵn sàng. Chúng lom khom chạy luồn phía dưới và chỉ ngừng lại để Guiliano chiếu ống nhòm quan sát bọn cớm. Đến một chỗ dốc khác, chúng lại lăn xuống hai cái dốc như vậy nữa và thế là chúng đã ở phía dưới bọn Maresciallo.
Phía trên chỗ Pisciotta và Guiliano đang đứng, qua ống nhòm, chúng thấy Maresciallo vừa đì đụp bắn bâng quơ vừa rón rén bò lên. Chúng cứ thi nhau bắn vào chỗ lá cờ, mà đâu ngờ rằng hai thằng ranh đang đứng ở cạnh sườn chúng. Hai đứa, khi thì lom khom luồn lỏi, khi thì lúp xúp chạy qua các tảng đá lớn che khuất phía dưới và đi vào vạt rừng nhỏ. Đứng nghỉ một chút, chúng lại rón rén lần theo đường mòn chạy xuống. Khoảng một giờ sau chúng đã đến dải đất tiếp giáp chân núi và thị xã. Chúng giấu vũ khí dưới lớp áo khoác và bình thản đi qua dải đất như thể nông dân đi làm về. Chúng vào thị xã qua chỗ cuối đường Via Bella chỉ cách trại Bellampo chừng hơn trăm mét.
Cũng trong thời gian đó, Maresciallo ra lệnh cho đám lính của gã tiếp tục tiến lên chỗ mỏm đá có cắm cờ. Nhưng không thấy súng bắn trả, gã tin rằng hai thằng ranh con đã chuồn theo đường hầm qua phía sườn núi bên kia. Gã muốn bao vây để sập bẫy. Gã ra lệnh cho lính mon men bò lên tiếp. Mất cả tiếng đồng hồ sau gã mới lên đến chỗ mỏm đá và xé lá cờ. Maresciallo chui vào hang, đẩy tảng đá chặn ở cuối hang qua sườn núi bên kia. Gã chưng hửng khi thấy con mồi của gã đã chuồn đâu mất. Tức điên lên, gã cứ đinh ninh con mồi của gã không thể thoát được, mà chỉ là ẩn nấp đâu đó. Bởi vậy gã đốc thúc đám lính hì hục lục soát khắp hai bên sườn núi và từng tảng đá, quyết lùa cho được con mồi ra khỏi nơi ẩn náu.
Hector Adonis đã theo đúng chỉ dẫn của Guiliano. Ở đầu đường Via Bella đã có một cái xe lừa đậu sẵn ở đó. Cái xe đúng kiểu mẫu truyền thống, sơn lòe loẹt, sặc sỡ với các tấm tranh kể các tích truyện anh hùng hiệp sĩ. Xe sơn lòe loẹt từ trước ra sau từ trên xuống dưới, từ càng xe cho đến những nan hoa bánh xe. Cái xe trông loang lổ sặc sỡ như hình xăm trên thân thể một tay anh chị, chỉ khác là xăm kín hết không để hở lấy một phân vuông. Đứng giữa càng xe là một con lừa đang hình như ngủ gà ngủ gật. Guiliano nhảy lên ngồi vào chỗ người lái và nhìn vào bên trong xe xếp đầy những vò rượu. Hắn đưa mắt thoáng nhìn về phía đường đi Castellammare xem chiếc xe gắn súng đại liên có quay về không, nhưng không thấy tăm dạng. Thoáng liếc mắt lên phía ngọn núi: chẳng thấy gì hết ngoài ngọn cờ vẫn phất phới tung bay. Hắn toét miệng cười với Pisciotta :
- Đúng y kế hoạch, đầy đủ phương tiên, đúng vị trí. Thôi, đi “múa” chút, coi!
Pisciotta đưa tay phác chào vừa có vẻ trang nghiêm vừa có vẻ giỡn giỡn. Y đóng nút áo lại để che kín khẩu súng lục gài bên hông và chệnh choạng đi về phía trại Bellampo.
Ngồi trên chỗ người đánh xe, Turi nhìn Pisciotta chậm chạp lướt qua thửa đất trống dẫn tới con đường mòn có đá dẫn vào cổng trại. Cũng từ đó, hắn nhìn về phía cuối đường phía nhà hắn. Không thấy ai ra đứng ngoài cửa. Hắn mong được thoáng thấy bóng bà mẹ hắn. Trước cửa của một trong những căn nhà gần đó có một vài “bợm nhậu” đang khề khà quanh một cái bàn trên có vò rượu. Chỗ cái bàn được bóng của một ban công che nắng. Bỗng hắn giật mình sực nhớ ra cái ống nhòm vẫn lủng lẳng đeo trước ngực, cũng may, quãng đường chỗ đó không có ai qua lại. Hắn vội vã tháo ra và nhét vào khe mấy vò rượu.
Một chú cớm đang đứng gác ở cổng. Đó là một cớm oắt mặt non choẹt chưa thể nào quá 18 tuổi. Hai má hồng hào, nhẵn thín, chứng tỏ chú là người ở các tỉnh phía Bắc nước Ý. Bộ đồng phục màu đen viền trắng, túi trên, túi dưới, may vừa dối vừa vụng. Cái mũ lính mỏ vịt chụp hờ hững trên đầu làm cho chú vừa có vẻ một búp - bê vừa có vẻ một anh hề. Trái với quân kỳ, điếu thuốc phì phèo trên cặp môi dày, trông có dáng vừa tham lam vừa dâm dục. Bước lại gần, Pisciotta bỗng cảm thấy trong lòng nổi lên một cái cảm tưởng khinh lờn và cái ý muốn trêu trọc, bỡn cợt và vờn chú cớm oắt như mèo vờn chuột. Chỉ mới cách đây có vài ngày, đám cớm ở đây bị một vố như vậy mà chú cớm oắt cũng chẳng có tí gì gọi là cảnh giác, đề phòng, khẩu súng tiểu liên vẫn đeo lủng lẳng ngang lưng.
Cớm oắt thấy một tên nhà quê ăn mặc xốc xếch thế mà dám ngạo ngược để bộ ria mép rậm rì trông không xứng tí nào. Chú ta quát lên :
- Ê, thằng kia, đồ cà chớn, xớ xa xớn xác đi đâu vậy? Bộ không biết đây là đâu sao chớ?
Quát ngậu xị lên như vậy, nhưng chú ta cũng chẳng buồn hạ khẩu súng và giữ tư thế sẵn sàng tác chiến. Pisciotta ta có thể cắt họng chú trong nháy mắt. Nhưng thay vì thế, y lại làm ra vẻ rụt rè, khúm núm. Y phải cố nén để khỏi bật cười trước cái vẻ vênh váo con nít và ra cái điều ta đây oai vệ của cớm oắt.
- Cậu Hai. - Y rụt rè nói - Cậu làm ơn cho tôi gặp ông sếp, tôi có một cái tin quan trọng muốn báo cho sếp.
- Cứ nói cho tao cũng được. - Cớm oắt nói.
Không nén được cơn tức trước câu nói xấc của cớm oắt, Pisciotta bèn giở giọng cha chú liền :
- Bộ mày tưởng mày có đủ tiền đặng trả cho cái tin này sao chớ? Cho mày hay, mười năm lương của mày cũng không đủ đâu!
Chưng hửng trước cái giọng thay đổi xấc láo một cách đột ngột của thằng nhà quê, cớm oắt hơi chột dạ, nhưng vẫn đáp lại bằng cái giọng khinh khỉnh, tuy đã có chút e dè :
- Bây giờ chú có nói cho tôi trời sập chỗ nào thì tôi cũng đếch có tiền trả cho chú!
- Còn hơn trời sập nữa kìa. - Pisciotta toét miệng cười, đổi mặt làm vui - Cho cậu Hai hay, tôi biết chỗ thằng Guiliano đang trốn né, cái thằng mà mới cách đây mấy bữa đã cho mấy cậu ở đây “lỗ mũi ăn trầu” đó. Cậu Hai không cho tôi vô gặp sếp gấp, nó đi mất, cậu Hai chịu trách nhiệm đó.
Cớm oắt nói một cách ngờ vực :
- Đời thuở nào mà ở cái đất trời đánh này lại có một thằng Sicilian cộng tác, báo tin cho chính quyền thế này. Hôm nay đúng là trời sập chỗ nào rồi.
Pisciotta tiến lại gần hơn chút nữa :
- Nhưng tôi có ý đồ. Tôi định xin đăng lính cảnh vệ như chú vậy đó. Tháng sau tôi đi Palermo xin khám sức khỏe nên tôi nghĩ là phải có một cái lễ gì đó ra mắt. Nhưng, vì nghèo quá nên lấy cái tin này đề làm lễ ra mắt đặng “sếp” ở đây chiếu cố. Ai biết đâu đấy, không chừng tôi và cậu Hai có ngày cùng mặc bộ đồ cảnh phục này.
Cớm oắt nhìn Pisciotta vừa có chút thích thú, cảm tình lại vừa có chút thương hại tội nghiệp. Thật ra thì có thiếu gì thằng dân Sicilian muốn xin đăng lính cảnh vệ. Đó là một lối để thoát khỏi cái cảnh nghèo kinh niên, sạch gạch mà lại có tí ti quyền hành, quát nạt, làm phách với bọn nhà quê, cũng oai chán và ít nhất cũng được no cái bụng. Bữa nào trúng mối, gặp được thằng cù lần buôn chui thì cũng được đấm cho tí tiền còm, nếu không thì “tóm” cái tang vật về chia chác với nhau hoặc đớp thả ga miễn phí. Trong truyện tiếu lâm bình dân của người Bắc nước Ý mà ai cũng biết, tất cả những thằng đàn ông con trai nào cũng thế - tất nhiên, phải loại từ những thằng “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” ra - cũng chỉ có thể hoặc là làm ăn cướp, hoặc là làm cớm. Và ở phía nào thì chúng cũng làm hại ngang nhau.
Pisciotta cười thầm trong bụng với cái ý nghĩ có ngày mình xin làm cớm. Là một tay ưa ăn diện, chẳng thế mà quần áo Pisciotta phải đặt may tại thủ phủ Palermo chứ không chịu mấy anh thợ may “vườn” ở cái thị trấn Montelpre này. Chỉ có mấy thằng khùng mới cho bộ cảnh phục đen viền trắng và cái mũ mỏ vịt là đẹp, chớ cỡ Pisciotta thì còn lâu.
Có lẽ trong thâm tâm cớm oắt có lòng ái ngại thật sự hay là không muốn cho ai cũng “đi lên” bằng mình, nên chú ta nói :
- Chú suy nghĩ cho kỹ chưa mà xin đăng lính cảnh vệ? Lương bổng cảnh vệ “yếu” lắm. Tụi này có ngày phải trễ miệng, nếu không kiếm chác được ở mấy thằng buôn chui. Và cũng nguy hiểm lắm. Đó, mấy hôm nay, ngay ở thị trấn này, hai tay trong trại này - trong đó có một đứa là bạn tôi - bị cái thằng trời đánh khốn kiếp “lật gọng” chết ngay đứ đừ.
Pisciotta đáp lại, giọng giỡn giỡn :
- Mẹ kiếp, bắt được tụi nó, trước khi “phơ”, phải cho tụi nó no đòn bastinado..., để cho tất cả những thằng khác trông thấy sợ té đái ra quần, thì chúng mới biết cách ăn ở cho phải phép, phải không cậu Hai.
Rồi, bằng cái giọng thân mật như thể tự hồi nào tới giờ, y với cớm oắt đã là anh em hay đồng đội thân thích, Pisciotta chép chép cái miệng, háy háy bộ ria, rồi nói :
- Đằng ấy có thuốc lá không, cho xin điếu?
Để đáp lại cái vẻ phởn chí, được đằng chân, lân đằng đầu của Pisciotta, cớm oắt thấy thân mật với thằng nhà quê này coi bộ không ổn, nó bèn sửng cồ với Pisciotta :
- Cho mày thuốc lá? - Vừa có vẻ xấc láo vừa có vẻ ngờ vực, nó nói tiếp - Mẹ kiếp, một thằng Sicilian trời đánh nào đó mà nó dám há cái mõm thối tha của nó ra xin thuốc lá tôi chớ. Thiên địa, trời đất ơi!
Và nó gỡ súng ra khỏi vai. Lập tức, Pisciotta cảm thấy như có một sức thúc đẩy phải chồm lên lìa cho nó một nhát vào cổ họng để nó câm cái mõm chó của nó lại. Nhưng, Pisciotta dằn lại, nói bả lả :
- Bởi vì tôi có thể chỉ chỗ cho mà bắt thằng Guiliano. Mấy cha kia ngu thấy mẹ, giờ này lên núi có mà tìm tắc kè ở trên ấy. Mà này, cậu Hai không đưa tôi vào gặp “sếp” gấp, chậm trễ, nó đi mất, cậu Hai chịu à, nghe chưa!
Cớm oắt ngó sững. Câu nói xấc láo của nó vừa rồi khiến cho nó bối rối. Loại tin tức mà thằng nhà quê không chừng thuộc loại có cỡ đối với thượng cấp của nó. Và cái vẻ câng câng, xấc xấc của thằng cha này có thể làm cho nó bị thượng cấp sờ gáy nếu thằng cha này “tâu rỗi” là nó đã xấc với hắn. Nghĩ vậy, cớm oắt lặng lẳng ra mở cửa và lấy mũi súng ra hiệu cho Pisciotta đi vào. Tên cớm oắt và Pisciotta vừa quay lưng lại, thì lập tức Guiliano ra roi quất con lừa cho chạy về phía cổng trại.
Doanh trại Bellampo rộng đến 4.000 mét vuông. Trên có một dãy nhà lớn hình chữ L. Cách sau là nhà giam. Phía sau nữa là nhà ở tập thể của cớm, rộng có thể chứa cả trăm người. Có cả khu đặc biệt dành làm nơi ở cho Maresciallo. Phía bên phải là nhà để xe. Thật ra, trước kia nhà để xe vốn là cái chuồng ngựa và hiện vẫn còn dành một phần để nhốt mấy con lừa và la cho cớm dùng trong trường hợp phải lên núi hoặc đến những nơi xe hơi không tới được. Phía xa đằng sau nữa là kho quân trang, vũ khí, kho này có cửa sắt. Quanh doanh trại là hàng rào kẽm gai chằng chịt cao có đến ba mét. Có mấy tháp canh, nhưng từ mấy tháng nay tháp canh không có lính gác nữa vì trại giảm quân số chỉ còn có một tiểu đội. Doanh trại được xây dưới thời Musolini và được mở rộng trong chiến dịch càn quét Mafia. Lúc đó, các tháp canh có lính gác ngày đêm rất cẩn mật.
Khi qua cổng trại. Pisciotta đã để ý xem có dấu hiệu gì nguy hiểm không. Không có tiếng nô đùa ồn ào của bọn cớm. Doanh trại im lặng như một trang trại bỏ hoang. Trong nhà xe, không có xe và cũng không có một cái xe nào đậu ở bất cứ chỗ nào. Đó là điều làm cho y ngạc nhiên và hơi lo, vì có thể có một cái xe nào đó về bất chợt. Y không thể nào quan niệm được Maresciallo mà lại ngu đến mức để doanh trại trống không như vậy, và không có một cái xe nào để trực. Y sẽ phải tìm cách báo cho Turi biết tình hình, rất có thể chúng gặp những vị khách bất ngờ.
Cớm oắt đang gác cửa đã bỏ vọng gác, dẫn Pisciotta đi qua một cửa lớn để vào phòng làm việc. Đây là căn phòng rộng mênh mông, có quạt trần. Nhưng cái quạt cũng chẳng làm cho căn phòng mát đi được là bao. Có một cái bàn lớn, cao như thể muốn chế ngự căn phòng. Hai bên bàn lớn có hai dãy bàn nhỏ, chắc là cho các thư ký. Tất cả các bàn đều trống, trừ chỗ bàn lớn. Ngồi phía sau bàn ấy là thầy cai cảnh vệ. Trông thầy cai thật khác hẳn với cớm oắt vừa dẫn Pisciotta vào. Trước bàn thầy cai ngồi có tấm bảng ghi chữ “Hạ sĩ Canio Silvestro”. Phần thân của thầy cai nhô lên khỏi mặt bàn trông thật dễ sợ: vai rộng cái đầu to như một tảng đá đè trên một cái cổ có ngấn nần nẫn. Vết thẹo đỏ sậm - gần như đen - chạy dài suốt từ mang tai xuống tận cái cằm bạnh. Bộ ria mép rậm, vểnh lên trông như cặp cánh đại bàng gắn trên miệng của hắn. Hắn mặc cảnh phục, cánh tay trái gần via gắn cái lon hạ sĩ, khẩu súng lục trong bao đeo lủng lẳng ở thắt lưng. Khi nghe tên lính gác báo cáo hắn nhìn Pisciotta với vẻ ngạc nhiên, rồi nghi ngờ và không tin. Khi thầy cai mở miệng nói, thì biết ngay là dân Sicilian chánh gốc.
- Đồ ba xạo. - Hắn nói với Pisciotta.
Nhưng hắn chưa kịp nói gì thêm, thì từ ngoài cổng, tiếng của Guiliano ong óng vọng vào đến tận văn phòng.
- Ê nè, mấy ông lính, có ra mà lấy rượu cho không! Có hay không thì biểu!
Pisciotta rất phục cái giọng nói của Guiliano, cái giọng khàn khàn đặc sệt âm sắc thổ ngữ, đến nỗi nếu không phải là người địa phương thì khó mà hiểu nó nói gì. Thêm vào đó là cái lối nói gàn gàn, hách hách của mấy anh trọc phú nhà quê. Thầy cai cũng từ trong phòng la lớn lên :
- Thằng quỷ nào làm cái gì ở ngoài đó mà rống lên như bò vậy?
Và thầy cai hùng hổ đứng lên, đi ra. Pisciotta và cớm oắt cũng theo ra. Chiếc xe sơn sặc sỡ, lòe loẹt và con lừa trắng đứng chặn ngay cổng doanh trại. Áo mở banh hết cúc, mồ hôi nhễ nhại, Turi ngồi vắt vẻo ôm vò rượu. Hắn toét miệng cười giả bộ khờ khờ, quê mùa. Toàn thân hắn trông có vẻ ngây ngô. Nhìn mặt hắn, không ai có thể nghi ngờ gì. Trên người không có vũ khí, lại có vẻ ngà ngà say, giọng nói đặc sệt âm sắc thổ ngữ. Thầy cai rời tay khỏi bao súng và cớm oắt cũng đeo súng vào vai. Pisciotta lùi lại đằng sau, trong tư thế sẵn sàng rút súng ra tác chiến.
- Tôi có cả một xe rượu nho cho mấy ông nè.
Guiliano cất giọng oang oang. Rồi nó đưa tay lên mũi, hỉ cái ‘ret” và chùi tay vào ngay cánh cổng doanh trại.
- Ai bảo đem đến? - Thầy cai vừa hỏi vừa bước tới.
Guiliano biết thầy cai sẽ mở tung thùng xe đặng nhìn vào.
- Ba tôi bảo tôi mang đến cho ông đội Maresciallo. - Guiliano vừa nói vừa nháy mắt ra hiệu cho thầy cai.
Thầy cai nhìn chòng chọc vào hắn. Thật ra thì mấy tay buôn lậu - ngoài món tiền lót tay - vẫn thường hay “vi thiềng” các sản phẩm, nhất là rượu, đặng cớm thông cảm nhắm mắt làm ngơ. Nhưng thầy cai cũng thắc mắc là thường thì chính cái lão già buôn lậu ấy đích thân đem rượu hay đồ biếu xén đến để thầy chú biết mặt mà thông cảm cho lúc bắt gặp tại trận, chứ ai hơi sức đâu mà nhớ tên mấy thằng chó chết ấy làm gì cho bận trí. Nhưng thầy cai cũng quá hiểu cái “nết” của thầy đội Maresciallo, nên thầy cũng nhún vai, ra lệnh :
- Để mấy vò đó xuống, rồi mang vào trong kia!
- Tôi để xuống? Tôi mang vào trong? Xí, xin kiếu đi!
Một lần nữa thầy cai lại thoáng gợn một chút nghi ngờ, như có một thứ linh cảm mơ hồ gì đó chẳng lành. Hiểu được điều đó, Guiliano giả bộ nhảy xuống khỏi chỗ ngồi, giả bộ lôi vò rượu để có thể dễ dàng rút khẩu tiểu liên ra. Hắn nâng một vò lên và nói :
- Tôi có tới hai chục vò như thế này cho mấy ông! Hai chục!
Thầy cai quay ra phía doanh trại kêu lớn :
- Mấy thằng ở trong kia, ra tao bảo!
Có hai tên chạy ra, áo banh cúc, đầu trần, chẳng có đứa nào mang vũ khí. Guiliano đưa hai vò cho hai tên mới ra và một vò cho thằng gác tay còn cầm khẩu súng. Tên này định không đỡ lấy, nhưng Guiliano đã nói và giỡn :
- Chừng này rượu ông đội nhậu gì hết, thế nào mấy chú chẳng được nhậu ké, vậy thì hãy đỡ lấy đi.
Ba tên cớm ôm ba vò rượu. Nhìn cảnh ấy, Guiliano mỉm cười: đúng như hắn muốn. Pisciotta đứng ngay phía sau lưng thầy cai, tên cớm duy nhất hai tay chưa ôm vò rượu. Guiliano liếc nhanh về phía dốc hướng đi Castellammare: không thấy dấu hiệu chiếc xe có gắn súng đại liên trở về. Nhìn về phía dốc núi: cũng không có dấu hiệu toán tuần tiễu của Maresciallo. Phía cuối đường Via bella chỉ thấy mấy đứa con nít đang chơi. Hắn quay vào thùng xe, rút khẩu tiểu liên, chĩa ngay vào mặt thầy cai. Ngay lúc đó, Pisciotta cũng thọc tay vào trong áo rút khẩu súng lục của mình, ra lệnh cho thầy cai quay vào :
- Đừng có nhúc nhích nghe cha, nếu không, tôi lấy đạn hớt bộ ria thì cha đừng trách!
Guiliano chĩa súng vào ba cớm oắt đang sợ quá đứng ngây người ra :
- Ba đứa cứ ôm ba vò rượu. - Guiliano nói - Anh kia bỏ cây súng xuống. Tất cả quay trở lại văn phòng.
Tên gác thả súng xuống đất. Lúc đi ngang, Pisciotta cúi xuống lượm khẩu súng ấy. Vào đến văn phòng, Guiliano cầm lấy tấm biển tên của thầy cai, gật gù ngắm nghía, rồi quay nhìn thầy cai và ra lệnh :
- Hạ sĩ Canio Silvestro, làm ơn đưa chìa khóa, tất cả chìa khóa!
Tay của thầy cai đặt trên bao súng, mắt nhìn chòng chọc vào Guiliano. Pisciotta hất tay hắn ra và thò tay móc khẩu súng lục hắn ra. Hắn nhìn y, lườm lườm như muốn xé xác y ra. Pisciotta nở nụ cười tủm tỉm, chế giễu :
- Xin lỗi nhé!
Thầy cai quay về phía Guiliano, và nói :
- Này lỏi, hãy chạy đi và tìm gánh hát nào đó mà xin làm diễn viên. Trông mày đẹp trai, hy vọng ăn khách đấy. Nhưng, đi thì chớ có mang theo những thứ giết người đó. Tụi bay không thoát đâu. Maresciallo và lính của ông sắp về. Ông sẽ săn đuổi tụi bay cho đến tận cùng trời đất. Nghĩ kỹ đi, con. Chơi cái trò kẻ cướp làm gì để cái đầu bị treo giải thưởng. Chính tao cũng sẽ săn đuổi tụi bay và sẽ không bao giờ quên cái bản mặt tụi bay. Tao sẽ tìm ra tên tụi bay, dù tụi bay có chui xuống địa ngục tao cũng sẽ moi tụi bay ra cho bằng được.
Guiliano mỉm cười với thầy cai. Vì một lý do nào đó, hắn lại thấy có cảm tình với con người này. Hắn nói :
- Muốn biết tên tụi này, sao không hỏi?
Thầy cai nhìn chòng chọc vào nó, giọng khinh bỉ :
- Đời nào tụi bay dám nói, hay nếu có thì cũng bịa ra một cái tên vớ vẩn nào đó.
- Tôi không bao giờ nói dối. - Guiliano nói - Tên tôi là Guiliano.
Thầy cai quên mất là súng đã bị tước mất rồi, nên vẫn đưa tay lên bao súng. Nhưng đưa tay lên rồi mới nhớ ra và bỏ tay xuống. Guiliano lại càng thấy thích con người này hơn vì cái phản ứng tự nhiên ấy. Hắn đánh giá thầy cai là người can đảm vì có ý thức bổn phận rất cao. Ba cớm oắt sợ, mặt mày tái xanh tái xám, run run đứng không muốn vững. Đây là Guiliano, người đã hắn hạ ba đồng đội của chúng. Không có lý do gì để tin rằng hắn sẽ để cho chúng sống.
Thầy cai nhìn kỹ vào mặt Guiliano và Pisciotta như để ghi sâu vào trí nhớ cái bản mặt của chúng, rồi từ từ, rụt rè lấy chùm chìa khóa trong ngăn kéo ra. Hắn phải làm vậy, vì Guiliano đã gí súng vào lưng hắn. Guiliano cầm lấy chùm chìa khóa, ném cho Pisciotta và nói :
- Thả tù ra.
Trong nhà tù, có nhiều người bị bắt đêm hôm Guiliano trốn thoát khỏi Montelepre. Trong một xà lim nhỏ, có hai tên cướp khét tiếng trong vùng là Passtempo và Teranova. Pisciotta mở luôn cửa xà lim này và chúng hớn hở theo Pisciotta đến các phòng khác.
Những thị dân Montelepre bị bắt, tất cả đều là người hàng xóm của Guiliano. Họ đổ dồn vào phòng và ôm hôn Guiliano, tỏ lòng biết ơn. Guiliano để họ ôm hôn, nhưng vẫn cảnh giác, mắt vẫn nhìn về phía mấy tên cớm. Những người hàng xóm rất sung sướng và rất phục cách hành động của Guiliano. Làm như vậy, nó đã hạ nhục mấy tên cớm đáng ghét. Trước mặt họ, Guiliano là vô địch. Họ nói với Guiliano là tên Marsciallo đã ra lệnh cho họ ăn đòn bastinado. Nhưng, ông hạ sĩ đã ngăn lại kịp. Do tánh ngay thẳng và bằng lập luận vững chắc, hạ sĩ đã cho Maresciallo thấy là làm vậy sẽ chỉ gây tình hình nguy hiểm và bất lợi cho an ninh doanh trại. Bởi vậy, thay vì tra tấn bằng đòn bastinado thì sáng hôm sau, họ sẽ bị giải đi Palermo để dự thẩm lấy cung.
Guiliano chĩa súng xuống đất, vì sợ lỡ ra trúng phải người những người hàng xóm. Những người này đều lớn tuổi hơn hắn, họ biết hắn từ lúc còn nhỏ xíu. Bây giờ cũng như trước kia, với họ, hắn đều nói năng lễ độ, có ý có tứ.
- Các chú, các bác có thể lên núi theo tôi, - Hắn nói - hay là đi ẩn náu ở một người bà con nào đó càng xa Montelepre càng tốt, đợi cho nhà cầm quyền tỉnh trí, không còn bắt giam ẩu nữa thì hãy về.
Hắn đợi. Nhưng mọi người im lặng. Hai tên cướp - Passatempo va Teranova - đứng cạnh nhau. Chúng rất cảnh giác, lúc nào cũng như cái lò xo sẵn sàng bung ra. Passatempo là một người mập, lùn, xấu xí, mặt bự, rỗ huê, môi dày và méo mó. Nông dân trong vùng gọi là “đồ tể”. Teranova vóc dáng nhỏ nhắn, săn gọn như con chồn sương, tuy nhiên, dáng dấp dễ nhìn, đôi môi lúc nào cũng he hé như đang mỉm cười. Passatempo là điển hình cho một tên cướp Sicilian tham lam, chỉ chuyên cướp của giết người vì tiền. Terranova nguyên là một nông dân cần cù. Y trở thành ăn cướp chỉ vì hai thằng thu thuế đã tịch thu mất của y hai con heo có giá trị lớn. Y giết luôn hai tên đó, kế đó, giết luôn hai con heo, mời tất cả bà con lối xóm đến nhậu một bữa tơi bời, còn dư, ai muốn đem về xin cũng cứ tự nhiên. Sau bữa đó, y lên núi làm kẻ cướp. Terranova và Passatempo liên kết lực lượng với nhau. Nhưng chúng bị phản bội và bị bắt khi đang lẩn trốn tại một nhà kho bỏ hoang ngoài cánh đồng thị trấn Corleone.
Guiliano nói với hai tên cướp :
- Hai anh thì chắc đâu còn cách nào khác. Tôi đồng ý cho các anh theo lên núi. Và ở đó, nếu chịu ở dưới sự chỉ huy của tôi thì ở. Hay là lại muốn ra đi làm ăn riêng thì tùy ý. Nhưng hôm nay, tôi cần hai anh giúp tôi một tay, ít ra cũng là để trả cái ơn mà tôi đã giải thoát các anh hôm nay. Đồng ý chứ?
Hắn mỉm cười với chúng như thể muốn làm dịu cái đòi hỏi chúng phải tuân lệnh hắn.
Trước khi hai tên cướp kịp trả lời, thầy cai đã hành động khinh suất một cách tai hại. Hành động đó có thể do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như lòng kiêu hãnh của một người Sicilian bị tổn thương, hoặc do lòng lang dạ thú ác đôc bẩm sinh, hoặc tức giận vì hai tên cướp khét tiếng đang bị giam dưới sự canh giữ của hắn được thả ra khiến cho hắn phải chịu trách nhiệm hoặc nghĩ rằng hai tên cướp được thả sẽ lại tiếp tục cướp bóc giết chóc người dân...
Đứng trước mặt Guiliano và chỉ cách vài bước, hắn bất ngờ tiến lên, tay rút lẹ khẩu súng lục nhỏ giấu trong người chĩa thẳng vào Guiliano. Guiliano kịp nâng khẩu súng của mình lên nhưng cũng quá trễ, thầy cai đã lảy cò, viên đạn bay xẹt qua đầu Guiliano chỉ cách đầu chừng một, hai xăng ti met. Mặt thầy cai đỏ lên vì tức giận, các bắp thịt trên mặt hắn xoắn, vặn cuồn cuộn như những con rắn uốn khúc. Nhưng rồi khẩu súng trở nên lờ đờ, chậm chạp, từ từ rớt xuống trong cơn ác mộng của hắn. Và rớt xuống đất luôn, vì hắn đã nhận ra cuồng vọng của mình. Hắn cảm thấy như đất dưới chân hắn sụp xuống và hắn rớt xuống một cái hang không đáy. Một nhấp nháy trước khi thầy cai lảy cò, Guiliano nhìn thấy họng súng của thầy cai chĩa vào mặt mình mà ý thức được những gì có thể xảy ra, nhưng hắn vẫn cảm thấy lòng mình bình thản một cách lạ thường. Không cảm thấy sợ hãi gì. Hắn không chớp mắt khi thầy cai lẩy cò và còn tiến lên thêm một bước. Sau tiếng nổ là tiếng “tách” khô khan của òc súng “suông”. Và cũng chỉ trong nhấp nháy, thầy cai bị Terranova vặn ngược tay hắn lên, giật lấy khẩu súng. Passatempo nắm tóc giật ngửa mặt hắn lên, đưa ngón tay định móc mắt. Pisciotta rút dao định lụi vào ngực hắn. Nhưng, Guiliano kịp thời cản lại. Hắn lôi thầy cai ra khỏi ba người và bình thản nói :
- Đừng giết ông ta!
Thầy cai cúi mặt xuống đất, mất hết tinh thần khi ý thức được những tai họa xảy ra cho mình do đám người giận dữ kia gây ra, nếu không có sự can thiệp kịp thời của Guiliano. Trong lúc xo xát, lỗ tai của hắn bị tét, mí mắt cũng bị tét, máu chảy ròng ròng, cánh tay bị vặn tréo ra sau một cách thô bại khiến cho hắn cảm thấy đau. Tuy nhiên, hắn vẫn giữ được dáng vẻ không sợ hãi, không hốt hoảng và bình tĩnh chờ chết. Trong khi ấy, Guiliano cảm thấy lòng mình tràn ngập lòng trìu mến và cảm phục đối với thầy cai. Guiliano cho rằng con người này đúng là một thử thách, một trắc nghiệm, một bằng chứng chứng tỏ sự bất kha tử của hắn, củng cố cái niềm tin của hắn rằng hắn không thể chết. Guiliano kéo thầy cai lại phía mình. Và trước sự kinh ngạc cảu mọi người, hắn đã ôm hôn thầy cai. Lúc đó, hắn có cảm tưởng hắn phải đỡ cho thầy cai thì hắn mới đứng vững.
Terranova xem xét khẩu súng lục mà thầy cai đã dùng để bắn Guiliano, và nói :
- Anh thật là hên! Trong băng đạn chỉ còn đúng có một viên đó thôi!
Guiliano đưa tay cầm khẩu súng. Terranova hơi do dự, nhưng cũng trao cho hắn. Guiliano quay lại phía thầy cai trao cho y khẩu súng lục và nói :
- Ông cứ giữ lấy. Ông và mấy người của ông sẽ không sao đâu. Tôi đảm bảo điều đó.
Đờ người ra vì kinh ngạc, thầy cai ú ớ không nói nên lời và cũng chẳng biết nói gì. Passatempo ghé vào tai Pisciotta nói nhỏ :
- Đưa tao con dao, tao cho nó vài nhát cho rồi.
- Ở đây, Guiliano là người ra lệnh, - Pisciotta đáp - và mọi người có mặt ở đây phải tuân lệnh.
Pisciotta nói, thực tế là để cảnh cáo Passatempo rằng chính y cũng có thể giết chết ngay Passatempo nếu gã có manh tâm vọng động.
Những thị dân Montelepre vội vã rời khỏi doanh trại, một phần vì họ sợ Maresciallo và bọn kia có thể trở về bất chợt, một phần vì họ không muốn chứng kiến cuộc tàn sát những tên cớm có thể xảy ra. Guiliano bảo Pisciotta đưa thầy cai và ba tên cớm oắt vào giam trong xà lim, khóa cửa lại. Sau đó, hắn, Pisciotta, Passatempo và Terranova lùng sục khắp các phòng trong doanh trại. Đến kho vũ khí, chúng thấy nào súng trường, súng lục, tiẻu liên... và đạn dược. Chúng lấy hết súng chia nhau đeo lên người và khiêng đạn chất lên xe. Qua phòng ngủ, chúng lấy thêm mấy cái mền và túi ngủ. Pisciotta còn quơ thêm hai bộ cảnh phục ném lên xe, miệng nói: “Để lấy hên”. Guiliano ngồi lên chỗ đánh xe, ba người lăm lăm vũ khí, hộ tống sẵn sàng khai hỏa chống lại bất cứ cuộc tấn công nào. Họ đi nhanh về hướng Castellammare. Phải mất một giờ sau họ mới tới nhà của người nông dân mà ông Hector Adonis đã mướn xe. Họ chôn giấu chiến lợi phẩm dưới chuồng heo.
Mãi đến giờ cơm tối Marescillo và toán cảnh vệ tuần tiễu mới trở về. Tuy mặt trời đã khuất bóng, nhưng nếu còn thì ánh mặt trời cũng không thể nóng hơn cơn tức giận điên cuồng của Maresciallo khi thấy tù thì sổng, mà người trong tù lại là Silvestro và ba cớm oắt. Gã điên cuồng lồng lộn ra lệnh cho xe và lính truy kích. Nhưng lúc đó, Guiliano và đồng bọn đã an toàn trên núi rồi.
Báo chí Ý làm rùm beng vụ này. Mới chỉ ba ngày trước kẻ đã giết thêm hai cảnh vệ sau hai tháng giết chết một cớm sếp, đã chiếm những hàng tít lớn và những cột báo trên trang nhất của tất cả các tờ báo ở Sicily và trên toàn nước Ý. Nhưng lúc đó, Guiliano chỉ được mô tả như một tên cướp xứ Sicilian chỉ muốn được nổi tiếng bằng sự tàn bạo, độc ác của mình. Nhưng, đến vụ này thì lại khác, Guiliano được mô tả như một người anh hùng đầy đảm lược và mưu trí, đã thắng lực lượng cảnh sát Ý một cách oanh liệt bằng chiến thuật vừa táo bạo vừa khôn ngoan, tài tình. Hắn đã giữ lời hứa giải thoát những người hàng xóm bị chính quyền giam ẩu và bất công. Các phóng viên từ Palermo, Naples, Rome và cả thành phố Milan tít phía bắc nước Ý. Cũng đổ xô nhau đến Montelepre, phỏng vấn gia đình và bè bạn của Turi Guiliano. Bà mẹ của Guiliano được chụp ảnh tay đang cầm tấm hình Guiliano gảy đàn ghi ta mà theo lời bà “nó chơi hay không thua gì các thiên thần” (thật ra, do cao hứng mà bà bốc thơm lên vậy, chớ nó mới chỉ biết chơi gọi là). Ông thầy cũ của nó nói nó là người say mê đọc sách đến nỗi bạn bè tặng cho cái biệt danh là “mọt sách”. Báo chí vồ ngay lấy những chi tiết ấy, phóng đại lên với những hàng tít giật gân đại khái như một tên cướp “học giả”, một tên cướp “nghệ sĩ”. Pisciotta cũng được báo chí đề cập đến là em họ và là chiến hữu trung thành với Guiliano. Với tấm hình chụp năm nó 17 tuổi, với dáng đẹp trai, đúng kiểu mẫy lý tưởng Địa Trung Hải, Guiliano đã khiên scho những gì mà giới báo chí đã nói trở thành một sự thật không thể phủ nhận được đối với độc giả. Nưhng trong số tất cả những câu chuyện đó thì câu chuyện Guiliano đã tha mạng cho Canio Silvestro, một người đã cố ý giết hắn, là câu chuyện làm cho cả nước Ý cảm phuc. Đối với họ, câu chuyện đó còn hơn anh hùng ca, còn hơn kịch rối àm dân nước Ý rất mê. Khuôn mặt bằng gỗ trong kịch rối làm soa sánh được với “người thật, việc thật”, con người bằng xương bằng thịt, việc diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật... Trong kịch làm gì có đạn thật bay sướt ngang đầu, làm gì có vết thương toác hoác, làm gì có vết thẹo đỏ lói?
Báo chí chỉ hơi phàn nàn việc Guiliano thả luôn cả hai tên cướp khét tiếng độc ác và tàn bạo là Terranova và Passatempo, đồng thời ngụ ý hành động này đã phần nào làm lu mờ cái hình ảnh hiệp sĩ chói sáng của Guiliano. Chỉ có một tờ báo ở Milan nhấn mạnh, Salvatore “Turi” Guiliano đã sát hại ba nhân viên cảnh sát đang lúc thi hành công vụ và gợi ý phải áp dụng những biện pháp đặc biệt để bắt hắn cho bằng được. Bởi vì tội sát nhân của hắn không thể được miễn xá chỉ vì nó đẹp trai, mê đọc sách và biết chơi đàn.