Ông Trùm được báo cáo đầy đủ chi tiết về Turi Guiliano và lão phục “thằng nhỏ ấy” sát đất. Lão phải thốt lên: “Thế mới đúng là Mafioso thứ rặt nòi”. Lão có ý muốn nói đến những Mafioso theo truyền thống: một tay giang hồ hành hiệp, “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”, chớ không cần phải bị khiêu khích hay chính mình bị ức hiếp.
Ông Trùm ao ước có chàng thanh niên này làm “quả đấm sắt” cho lão, làm thủ lãnh cánh quân sự của lão. Mặc dù hiện nay Guiliano đang là cái gai đâm vào sườn lão, nhưng lão vẫn bỏ qua được. Hai tên cướp bị giam ở Montelepre - Passatempo tàn bạo và Terranova tinh quái - đã bị bắt với sự thỏa thuận và âm mưu của lão. Nhưng, tất cả những cái đó, lão vẫn có thể tha thứ cho Guiliano được - “Cái gì đã qua thì hãy để cho nó qua luôn, nhắc lại làm gì và nhất là lưu giữ trong tâm trí làm gì cho nó bận trí” - Ông Trùm không có thói quen thâm thù, ác cảm khi những tình cảm này không có ảnh hưởng bất lợi cho lợi ích, tương lai của lão. Lão theo dõi Guiliano rất sát.
Ẩn sâu trong núi, Guiliano đâu có biết là trên khắp nước Ý, tên tuổi hắn nổi như cồn. Hắn đang bận tâm phác họa kế hoạch phát triển quyền lực của mình. Vấn đề đầu tiên của hắn là hai tên cướp khét tiếng Terranova và Passatempo. Hắn hỏi rất kỹ về trường hợp chúng bị bắt và đi đến kết luận là chúng bị phản bội, bị mật báo. Chúng thề rằng tay chân, bộ hạ của chúng rất trung thành. Và nhiều đứa đã bỏ mạng trong cuộc bao vây đó. Guiliano đã suy nghĩ, cân nhắc rất kỹ các yếu tố, nhưng vẫn đi đến kết luận là Mafia đã cài người vào trong đám bộ hạ của chúng và chính bọn “điệp viên hai mang” này đã tiết lộ, đã báo hành tung của chúng để bọn cớm cài bẫy. Guiliano nói điều này cho chúng nghe, nhưng chúng vẫn không tin. Chúng vẫn tin tưởng rằng đã là “Người anh em” - dù có đốn mạt cách mấy đi chăng nữa - cũng không bao giờ phạm luật omerta. Chúng có thể, và dễ dàng phạm luật, giới điều của Chúa, nhưng luật omerta thì không bao giờ. Vì đó là luật sinh tử. Guiliano không muốn nhấn mạnh để chúng tin lập luận của mình. Guiliano chấp thuận cho chúng gia nhập băng của mình.
Hắn giải thích cho chúng hiểu mục tiêu của hắn không phải là sự sống còn của bản thân hắn mà là trở thành một lực lượng chính trị. Hắn nhấn mạnh là tuyệt đối không được hãm hiếp đàn bà con gái, không được cướp bóc người nghèo. Trái lại, một nửa số thu hoạch của băng kiếm được sẽ đem phân phát cho người nghèo trong các thị trấn “khu vực ảnh hưởng” của hắn, từ Montelepre cho đến tận ngoại ô của thủ phủ Palermo. Terranova và Passatempo vẫn có thể giữ lại các “tay em” cũng của mình, nhưng phải chịu sự chỉ huy chung của Guiliano. Những nhóm này không được xé lẻ làm ăn riêng bất cứ vụ nào dù lớn hay nhỏ mà không được sự đồng ý trước của Guiliano. Tất cả bọn chúng đều có quyền cai trị “tuyệt đối” trên khắp các thị trấn lớn nhỏ và ngay cả Palermo. Hắn nhấn mạnh là không được tấn công trước lực lượng cảnh vệ, không phải vì hắn sợ, mà vì hắn không muốn những cuộc tàn sát không cần thiết. Chính bọn cảnh sát dã chiến phải lo sợ cho mạng sống của mình, chứ không phải là băng của Guiliano.
Passatempo, một tên cướp mạt hạng chỉ nghĩ đến cướp bóc, hãm hiếp, tống tiền cò con, giết cả người chăn cừu... nghe Guiliano nói vậy, đã nghĩ thầm trong bung: “Vậy thì đi với thằng này đếch có lợi gì nhiều, có chia chác thì cũng chẳng được bao nhiêu, mà lại gò bó đủ thứ...”. Còn Terranova - tâm địa phần nào cũng giống với Guiliano và nhớ ơn nó đã giải thoát mình - thì tự hỏi: “Làm thế nào mà một tên cướp trẻ, dù có tài lại có thể lèo lái cả băng đi theo con đường khôn ngoan và cao quý đó được?” Như đọc được ý nghĩ trong đầu của chúng, Guiliano mỉm cười, thấy vui vui vì các ý nghĩ ấy.
Chơi với Turi từ tấm bé, Aspanu còn lạ gì những “tư tưởng lớn” của Guiliano. Nhưng, dù những tư tưởng lớn ấy, có vẻ thơ mộng, lý tưởng, thậm chí điên khùng, thì Aspanu vẫn tin. Bởi vì chính nó đã được chứng nghiệm nhiều lần: một khi Turi nói sẽ làm điều gì thì y như rằng hắn sẽ làm điều ấy. Bởi vậy, khi Turi muốn biến băng cướp thành một lực lượng chính trị, Aspanu không hề thắc mắc, không hề hỏi để làm gì, làm được không.
Trong ánh nắng vàng rực rỡ ban mai chiếu rọi trên núi, cả ba - Pisciotta, Terranova và Passatempo - lắng nghe Guiliano giải thích: hắn sẽ lãnh đạo chúng đấu tranh cho tự do của Sicily, nâng cao mức sống của dân nghèo, hủy diệt quyền lực của bon Mafia, của bọn quý tộc và của ngay cả chính quyền ở Rome. Chúng có thể cười mà cho rằng hắn nói huyên thuyên những vấn đề trên mây trên gió gì đó. Và chúng sẵn sàng, dễ dàng quên những gì hắn nói. Nhưng mà chúng không thể nào quên là hình ảnh tên hạ sĩ cảnh sát chĩa súng bắn vào đầu hắn mà hắn vẫn bình tĩnh, tuyệt đối tự tin và tin rằng mình không thể chết. Hắn nhìn vào họng súng như thể hắn chờ đợi tên cớm lảy cò. Và, nhất là sự tha thứ cho tên cớm đã bắn hụt hắn. Đó chỉ có thể là hành vi của một người tuyệt đối tin vào sự bất tử của mình. Và, hắn đã chia sẻ niềm tin ấy cho người khác. Và, bây giờ, ba đứa đăm đăm nhìn vào khuôn mặt đẹp trai của hắn, chúng lại bị thu hút bởi vẻ đẹp, sự can đảm, sự ngây thơ trong trắng toát ra từ khuôn mặt hắn.
Sáng hôm sau, Guiliano dẫn ba người của mình xuống núi và đi theo con đường mòn dẫn tới cánh đồng gần thị trấn Castelvetrano. Hắn đến rất sớm để dò đường. Cả bọn đều ăn mặc giả nông dân.
Hắn biết các đoàn xe chở lương thực đến các chợ Palermo đều sẽ phải đi qua đây. Vấn đề là làm thế nào chặn được đoàn xe này lại. Chúng phải rảo bước để ngừa những bọ lục lâm khác ra tay trước và đối phó với những tài xế có võ trang.
Guiliano bảo người của mình nấp ở các bụi rậm, tảng đá bên lề đường bên ngoài thị xã Castelvetrano, còn chính hắn ngồi nghênh ngang, khơi khơi trên mỏm tảng đá vôi trơ trụi. Những người đi làm ruộng rẫy nhìn thấy hắn, người nào người nấy sợ tái xanh tái xám. Họ nhìn thấy hắn lăm lăm khẩu súng máy. Guiliano tự hỏi trong số ấy có ai nhận ra hắn không?
Rồi, nó nhận thấy chiếc xe sơn màu sặc sỡ như truyền thống, do một lừa kéo. Guiliano nhận ra lão đánh xe. Lão là một trong những tay đánh xe chuyên nghiệp kiếm ăn đầy ra ở Montelepre cũng như ở tất cả các thị trấn và đồng quê ở Sicily. Lão chở mướn những thanh trẻ từ các ấp bên ngoài thị trấn về các xí nghiệp trong thị trấn. Lão cư ngụ đã lâu tại Montelepre và nhiều lần chở đồ cho ông bố của Guiliano. Guiliano bước xuống giữa đường, tay đong đưa khẩu súng. Dù khuôn mặt không lộ ra, nhưng trong trí lão đã nhận ra hắn ngay trong nháy mắt. Guiliano chào lão lễ độ và thân mật như lúc hắn còn là đứa trẻ nít, và gọi lão là “dượng”.
- Dượng Peppino, - Hắn nói - con hên lắm nên người đầu tiên con gặp hôm nay là dượng. Bữa nay con “làm ăn” ở đây. Dượng ở đây chờ chút đặng giúp con chở đồ về giúp cho bà con nghèo.
Hắn ranh mãnh nhìn ông lão ngơ ngác và hắn cười thích thú. Ông lão chẳng trả lời. Lão nhìn chòng chọc vào Guiliano, nét mặt lộ vẻ sợ hãi. Hắn đặt một khẩu súng lên thùng xe và lại cười như nắc nẻ. Bởi vậy, hắn nghĩ rằng người đầu tiên hắn gặp hôm đó là dượng Peppino thì nhất định phải là một ngày may mắn.
Guiliano thưởng thức cái mát lạnh của thời tiết cuối thu, thưởng thức vẻ đẹp của rặng núi xa xa phía chân trời và biết rằng người - theo lệnh hắn - đang núp ở mấy bụi rậm kia với súng máy sẵn sàng yểm trợ. Hắn giải thích cho ông Peppino nghe kế hoạch của hắn. Ông lão nghe, chẳng nói chẳng rằng, nét mặt cũng không đổi. Mãi cho đến khi Guiliano nói cho lão biết là hắn sẽ thưởng cho lão một xe chất đầy lương thực, lão mới lúng túng trong miệng :
- Turi, lúc nào cháu cũng tốt bụng, hào hiệp và tử tế. Ngay từ lúc còn nhỏ, cháu đã vậy. Bây giờ thành người lớn, cháu vẫn vậy, chẳng thay đổi gì cả. Vẫn rộng rãi, từ tâm, dễ thương.
Bây giờ, Guiliano mới nhớ lại là dượng Peppino là người Sicilian theo “trường phái cổ điển”, nghĩa là ưa ăn nói văn hoa.
- Cháu cứ tin ở dượng. - Lão nói tiếp - Lần này cũng như những lần khác. Dượng thèm được như ông già cháu, có thằng con khá quá hà!
Đến khoảng trưa thì một đoàn ba chiếc xe tải xuất hiện. Chưa qua khỏi khúc quẹo để rẽ về Partinico, thì chúng phải dừng lại. Một dãy xe lừa kéo đậu chình ình giữa đường, choán hết lối đi. Đó là theo kế của Peppino, một người rất được các tay đánh xe trong vùng nể vì.
Tên lái xe đi đầu bóp còi inh ỏi và cứ cho xe từ từ tiến tới, suýt nữa đụng phải chiếc xe lừa cuối dãy. Người đánh xe quay lại lườm gã một cái khiến gã phải tắt máy xe, và kiên nhẫn chờ, Gã biết rõ mấy cha đánh xe này lắm. Tuy chỉ làm cái nghề coi bộ mạt hạng này, nhưng họ rất hãnh diện, tự ái, sẵn sàng “ăn thua đủ” để bảo vệ cái quyền lưu thông của họ đối với các loại xe cơ giới, lơ mơ là “chơi đến cùng, chết bỏ”, rồi bình thản ra đi, miệng còn u ử ngâm khúc dân ca như không có gì xảy ra vậy.
Hai chiếc xe kia cũng ngừng lại. Các tài xế xuống xe. Một trong hai người cũng là người Sicilian nhưng ở miền đông, người kia “ngoại quốc” dù y chỉ là người Bắc (nước Ý). Anh chàng lái xe người Bắc lại gần mấy tay đánh xe, banh cúc áo ngực ra, giận dữ, la hét om sòm về mấy con lừa thổ tả, yêu cầu mấy người đánh xe dẹp đường cho y đi. Y thò tay vào túi. Guiliano nhảy ra khỏi một chiếc xe kéo, hắn cũng chẳng thèm rút khẩu súng tiểu liên của hắn để trên xe mà cũng chẳng thèm rút súng lục ở thắt lưng ra, mà chỉ ra hiệu cho mấy người của hắn nấp ở các bụi rậm, tay cầm vũ khí, chạy tới. Terranova lấy đá chèn bánh chiếc xe thứ nhất để chiếc xe này khỏi nhúc nhích gì được Pisciotta thì lướt qua đường và nhìn trừng trừng vào tên lái xe người Bắc đang nổi giận. Trong khi đó, Pasatempo - nóng nảy hơn Pisciotta và Terranova - lôi người lái xe thứ nhất ra khỏi ca - bin và ném gã xuống dưới chân Guiliano. Guiliano đưa tay đỡ gã dậy, trong khi Pisciotta lùa tên lái xe lên đứng chung với hai đứa kia. Tên người Bắc rút tay không ra khỏi túi nét mặt giận dữ biến thành sợ hãi. Guiliano mỉm cười có vẻ thành thật và vô hại :
- Bữa nay là ngày hên cho cả ba anh. Ba anh khỏi phải đi Palermo nữa. Mấy người đánh xe này sẽ dỡ hàng để phân phát cho mấy người nghèo trong khu vực này, tất nhiên là dưới sự giám sát của tôi. Cho phép tôi được tự giới thiệu, tôi là Guiliano.
Ba anh tài xế lập tức tỏ ra hối tiếc về sự nóng nảy vừa qua của minh,và họ cũng tỏ ra niềm nở, ít ra là bề ngoài. Họ nói họ cũng chẳng vội vã gì, họ còn dư chán thì giờ, và thực ra thì cũng đã đến giờ ăn trưa của họ. Xe của họ cũng tiện nghi lắm. Thật đúng là họ hên, gặp “thần thiện”.
Thấy họ nói vậy, nhưng coi bộ còn có vẻ sợ sệt, Guiliano nói :
- Đừng sợ, tôi không bao giờ giết những ai đổ mồ hôi mình ra để kiếm miếng ăn. Tôi mời các anh dùng cơm trưa với tôi, trong khi chờ đợi người của tôi dỡ hàng, rồi các anh về nhà bình yên với vợ con. Và nói với họ về sự may mắn của các anh hôm nay. Khi bọn cớm có hỏi các anh thì các anh giúp đỡ chúng càng ít càng tốt, như vậy, các anh sẽ được chúng tôi nhớ ơn.
Guiliano ngừng nói. Đối với hắn, điều quan trọng là đừng làm cho họ phải hổ thẹn vì bị khinh ghét. Phải làm sao để cho họ về kể lại cho mọi người quen biết của họ rằng họ đã được đối xử đàng hoàng, tôn trọng, lịch sự. Bởi vì, sau những người này sẽ còn những người khác nữa.
Họ được đưa vào tránh nắng dưới bóng một tảng đá bên lề đường. Họ tự ý đưa súng lục của họ cho Guiliano, chớ không cần phải chờ khám xét, họ bình thản ngồi nhìn những người đánh xe dỡ hàng. Khi những người đánh xe đã chất đầy cứng các xe lừa kéo, mà vẫn còn là một xe tải chưa đụng tới, Guiliano bảo Pisciotta và Passatempo cùng với người tài xế đi phân phát cho những người làm ruộng ở Montelepre. Chính Guiliano và Terranova trông coi việc phân phát thực phẩm trong hạt Castelvetrano và Partinico. Mãi tới tối chúng mới về đến sào huyệt trên núi.
Việc làm đó, Guilino đang trên đường chinh phục được sự ủng hộ của toàn thể những người dân trong vùng, kể cả những người vì lý do nào đó không nhận được lương thực hôm đó. Có đám cướp nào phân phát lại những thứ mà chúng đã cướp được cho dân bao giờ. Ngay hôm sau, báo chí ở Sicily lại rùm beng về chuyện đám anh hùng “Lương Sơn Bạc” này. Chỉ có Passatempo lầm bầm trong bụng là “mệt nhọc cả ngày mà chẳng nước non mẹ gì, chỉ được cái danh hão”. Nhưng Pisciotta và Terranova hiểu rằng băng của chúng có thêm hàng chục ngàn người ủng hộ để chống lại chính quyền ở Rome.
Có một điều mà tất cả chúng không biết, đó là những xe thực phẩm đó được chở tới kho của Ông Trùm Croce Malo.
Chỉ trong một tháng, những mật báo viên của Guiliano đã cho nó biết là những tay làm giàu nhờ chợ đen chợ đỏ sắp đi đâu, lúc nào, qua tuyến đường nào. Rồi, nào là thói quen của các phú ông, địa chủ các nhà quyền quí và lai lịch của những thằng mạt hạng vẫn thì thọt với các thầy cớm gộc. Nó cũng được nghe bàn tán về những món nữ trang quí giá mà công tước phu nhân Alcamo thường đem ra khoe. Người ta nói là gần như suốt năm, những món nữ trang đó nằm trong két của nhà băng ở Palermo. Và bà ta chỉ lấy ra đeo để khoe của trong những dịp đi dự yến tiệc. Để biết rõ hơn về những món nữ trang ấy - mà Guiliano dự đoán là rất đắt giá - hắn đã phái Aspanu Pisciotta đến lãnh địa Alcamo.
Nằm cách thị trấn Montelepre khoảng 20 dặm về phía tây nam, lãnh địa của công tước Alcamo có vòng tường cao bao bọc, cổng có lính võ trang canh gác. Ngài công tước đã “thuê bao” đám “Người anh em” của Ông Trùm để được đảm bảo rằng bầy gia súc của ngài không bị tỉa dần, lâu đài của ngài không bị bọn trộm cướp thăm viếng và không có bất cứ thân nhân nào của ngài bị bắt cóc. Trong thời buổi bình thường, thì cái giá “thuê bao” đó giúp ngài sống an toàn còn hơn cả Đức Giáo hoàng sống trong điện Vatican.
Khoảng đầu tháng mười một là mùa hái nho của các lãnh địa Sicicly. Vì vậy, các lãnh địa này phải thuê mướn thêm những người ở vùng khác đến. Pisciotta cũng đến xin việc và cũng được mướn làm ở lãnh địa Alcamo. Có đến hơn hai trăm người đàn ông, đàn bà và cả con nít - làm việc trong vườn nho, vừa hái nho vừa ca hát om sòm. Đến trưa thì mọi người được cho bữa cơm, ăn ở giữa trời.
Qua một ngày làm việc mệt muốn đứt hơi vì những giỏ chứa đầy trái nho đen chín mọng, buổi trưa hôm sau Pisciotta ngồi một mình nhìn những người khác tíu tít ăn nói cười đùa. Y chú ý đến một em bưng khay bánh mì từ trong lâu đài đi ra. Em bé này trông kháu đáo để, phải cái hơi xanh, có lẽ do quanh năm chỉ làm việc trong nhà, ít ra ngòai nắng. Em bé ăn mặc nom cũng tươm tất hơn những cô gái nông thôn khác. Nhưng, cái làm cho Pisciotta bực là cái mặt em cứ vác lên, vênh vênh váo váo, ra vẻ ta đây, kênh kiệu không thèm tiếp xúc với ngay cả những đàn bà con gái khác. Pisciotta dò hỏi và được biết em là đứa hầu gái của công tước phu nhân.
Pisciotta thấy ngay em bé này là đối tượng có thể giúp cho y thực hiện mục tiêu hơn bất cứ ai khác. Quá biết cái “máu” của Pisciotta, nên trước khi y ra đi, Guiliano cấm ngặt y không được bờm xơm, chọc ghẹo lỗ mãng, làm nhục đàn bà con gái địa phương. Nhưng, Pisciotta cho rằng Guiliano quá ư lý tưởng, quá ư ngây ngô, đếch biết sự đời. Nữ trang quí và đắt quá! Đồng ý. Nhưng em này cũng kháu quá chứ, bỏ qua rất uổng!
Khi con bé trở lại với một khay bánh mì khác, Pisciotaa đứng dậy, làm điệu tài tử giằng lấy khay bánh bưng giùm em. Thoạt tiên, em giật mình, rồi cự nự. Khi Pisciotta hỏi tên, em nguýt một cái, kèm theo tiếng “xí” đầy khinh miệt và ngoe nguẩy quay đi. Pisciotta đâu phải tay vừa. Y đặt khay bánh xuống, túm chặt hai cổ tay em, nhìn chòng chọc vào hai mắt em, mỉm cười ranh mãnh :
- Khi anh hỏi thì cưng phải trả lời, nếu không, anh quẳng vào cái núi nho kia cho mà chết ngộp.
Rồi nó cười lớn để tỏ cho em biết là nó giỡn. Sau đó, mỉm cười rất duyên dáng - nụ cười duyên của Pisciotta làm cho bao nhiêu con tim thổn thức rồi - và bằng giọng nói duyên dáng nhất y nói :
- Em là cô gái đẹp nhất ở Sicily mà anh được thấy, anh phải nói chuyện với em mới được.
Con bé vừa sợ lại vừa khoái. Vả lại, nó cũng chú ý đến con dao Pisciotta cài ở thắt lưng. Nó cũng thấy cái cách xử sự của Pisciotta cứ như thể là một ông công tước thứ hai, nghĩa là vừa thân mật vừa oai nghiêm. Bấy giờ con bé mới thấy Pisciotta trông cũng ngồ ngộ. Và, nó nói cho y biết tên mình là Graziela.
Đến lúc hết giờ làm việc, Pisciotta liều lĩnh gõ đại phía cửa của nhà bếp lâu đài. Một mụ sồn sồn mở cửa ra, nghe y hỏi Graziela, mụ nói cộc lốc :
- Đầy tớ nhà này không được phép tiếp khách - rồi mụ đóng sầm cửa vào mặt y.
Ngày hôm sau, Pisciotta lại bưng khay bánh cho Graziela và nói nhỏ với em bé là y gặp em sau giờ làm việc. Vừa vuốt cổ tay em, y vừa luồn vào đó một chiếc lắc vàng. Em hứa sẽ chuồn ra gặp y vào lúc tối tại vườn nho, sau khi sửa soạn giường cho bà công tước xong.
Đến tối, Aspanu diện áo sơ-mi lụa may thật khéo tại Palermo. Khi Graziela tới, y ôm chặt lấy em. Khi em ngửa mặt lên nhìn, đôi môi he hé cười, thì Pisciotta gắn chặt đôi môi của mình vào. Và một tay ép sát Graziela vào người, tay kia “soạng” ngay bắp vế em. Con bé hơi nhổng mông ra để khỏi sát vào nó, nhưng tay nó cứ ép chặt. Trong khi đó môi nó vẫn không rời môi em. Hai đứa hôn nhau thật lâu, thật mùi mẫn. Và thằng láu cá ấy đốt giai đoạn. Nó ngạc nhiên vì thấy em mặc silíp bằng lụa. Pisciotta nghĩ bụng: “Con quái non này gớm thật, dám lấy đồ lót của công tước phu nhân để mặc đặng khoe với mình đây. Con quái non này nhí nhảnh, táo tợn và cũng từng trải gớm”.
Pisciotta đỡ em xuống tấm mền y đã trải sẵn ở đó. Hai đứa nằm xuống. Em chủ động hôn nó như điên trong khi hai tay nó sờ soạng tới tấp trên ngực và bắp vế em. Y cảm thấy ngực và bụng em phập phồng, giục giã dưới làn áo lụa mỏng. Hai đứa vẫn cứ gắn chặt đôi môi vào nhau, nhưng Pisciotta đã lăn lên trên người em. Y cảm thấy thân thể em như sóng gợn dưới thân thể của y, và y cũng cảm thấy bồng bềnh. Pisicotta thầm nghĩ “Mục đích chính của y là moi tin tức về món nữ trang của bà công tước. Nhưng kết quả tức thời không phải là không “đã”.”
Hai đứa quấn mền và ôm nhau chặt cứng. Pisciotta ba hoa với em: y đi làm thế này vừa để vận động tay chân, vừa để có tiền đi học đại học, rằng gia đình y muốn y học luật nhưng y lại thích học khoa học. Y muốn em tưởng là đã vớ được món bở. Rồi y gạ gẫm về chính em, chẳng hạn như em có thích việc làm hiện nay của em không, ai trong đám gia nhân là người bạn thân nhất của em. Và Pisciotta khéo léo hướng em đến chỗ nói về công tước phu nhân. Em đã tả bà công tước mặc quần áo, đeo nữ trang vào, nom bà đẹp như thế nào, em đã được bà chủ cưng như thế nào và bà đã cho em những đồ lót của bà thải ra như thế nào. Vừa nói em vừa lấy bàn tay của Pisciotta đặt vào giữa hai bắp vế của em rồi kẹp chặt lấy. Được thể, nó lấy tay day day. Nhột quá, em cười rú lên.
- Bà bá tước có cho em đeo nữ trang của bà không? - Pisciotta thủ thỉ bên tai em - Giá anh mà được nhìn thấy em đeo nữ trang của bà, thì chắc anh phải tưởng em là tiên giáng trần mất.
- Có chứ, - Graziela kiêu hãnh đáp - buổi chiều hôm trước lễ Giáng Sinh là bà cho em mang sợi dây chuyền của bà suốt cả buổi.
Vậy là đúng như Guiliano dự đoán, nữ trang được đem về nhà vào những dịp lễ tết. Pisciotta cũng muốn biết thêm vài chi tiết nữa, nhưng thình lình em nhỏm dậy, ngồi chồm hỗm lên người nó, rồi cứ thế day tới day lui. Nhột quá, Pisciotta nhỏm dậy, em vùng lên chạy. Hai đứa đuổi giỡn nhau đến chỗ đống nho thì cả hai đều té nhào vào đống nho.
- Không khí mát mẻ này thật dễ chịu. - Pisciotta nói. - Nhưng khi nào anh đến phòng em được thì mới thoải mái!
- Trong lúc ngài công tước ở nhà thì không thể được, - Graziela đáp, - Chỉ khi nào ngài công tước đi vắng, thì kỷ cương trong nhà mới hơi nới ra chút. Tháng sau, trước lễ Giáng Sinh ngài sẽ đi chừng vài tuần.
Aspanu mỉm cười. Bây giờ thì nó đã có đủ tin tức cần thiết. Nó rất chú ý đến công việc sắp tới của nó. Nhưng, thình lình nó lại ôm chầm lấy Graziela...
Năm ngày trước lễ Giáng Sinh, Guiliano, Pisciotta, Passatempo và Terranova chen chúc nhau trên một chiếc xe lừa kéo đến cổng lãnh địa Alcamo. Chúng ăn mặc như những nông dân khá giả đi săn. Tên gác cổng lãnh địa chặn chúng lại. Vì là giữa ban ngày ban mặt nên lính gác cũng lơ là, không cảnh giác, có súng nhưng đeo toòng teng trên vai.
Guiliano mau lẹ rảo bước đi về phía hai tên gác cổng. Hắn không võ trang, ngoại trừ khẩu súng lục cài trong người, bên ngoài phủ áo. Hắn mỉm cười làm thân với hai tên lính gác và trịnh trọng nói :
- Thưa quí huynh, tôi tên là Guiliano. Hôm nay tôi đến xin công tước phu nhân tiếp kiến và ban cho ít phẩm vật cứu trợ dân nghèo để họ ăn mừng lễ Giáng Sinh.
Nghe tên Guiliano, hai tên lính gác vừa kinh ngạc vừa sợ, cứ đứng ngây người ra. Ngay lúc đó, Pisciotta và Terranova chĩa súng lục vào chúng, Pisciotta tước súng và đẩy chúng lên thùng xe đóng chặt cửa lại. Teranova và Passatempo được để lại canh hai tên lính gác và canh chừng động tĩnh bên ngoài.
Để đi tới tòa lâu đài, phải đi qua một sân rộng có lát đá, ở một góc sân, có một bầy gà con tíu tít bên một mụ già đang rắc lúa cho chúng. Cách đó có mấy đứa con nhỏ của công tước đang chơi dưới sự trông coi của một bà bảo mẫu già. Phía bên kia vườn là một khoảng đất trống, rộng, trồng cây ăn trái và cây ôliu. Trong vườn có sáu người đang làm việc. Guiliano có Pisciotta đi bên cạnh, rảo bước đi về phía lâu đài. Những tin tức mà hắn nhận được thật chính xác. Guiliano rung chuông, nhưng không đợi người ra mở cửa. Hắn mở cửa vào đúng lúc người đầy tớ gái ra mở cửa. Graziela giật mình vì sự xuất hiện của Pisciotta ở ngay trước cửa. Guiliano nói nhỏ nhẹ :
- Đừng có báo động. Vào bẩm với lệnh bà chúng tôi là người được đức ngài công tước sai về đây có chút việc. Tôi có điều muốn bẩm với lệnh bà.
Hãy còn bối rối, nhưng Graziela cũng dẫn hai người tới phòng khách, ở đó, công tước phu nhân đang đọc sách. Ra hiệu cho đứa tớ gái lui, phu nhân có vẻ hơi bực vì nó đã dẫn khách vào mà không bẩm cho bà trước. Bà nghiệm giọng nói :
- Quan lớn đi vắng, các người muốn gì đây?
Như thể bàng hoàng trước vẻ đẹp sang trọng và lộng lẫy của phu nhân và của cả căn phòng, Guiliano đã không trả lời bà ta được. Đó là căn phòng rộng lớn mà hắn chưa từng thấy bao giờ và quái lạ hơn đối với hắn, là căn phòng này lại hình tròn và rộng hơn cả một quảng trường nữa. Cửa sổ kiểu Pháp treo màn thêu kim tuyến. Trên trần có hình nổi hoa văn và các thiên thần. Nơi nào cũng la liệt những sách: trên các kệ sách đã đành mà cả trên bàn cà phê, trên ghế tràng kỷ... Những bức họa sơn dầu khổ lớn treo trên tường. Những hình hoa lớn khắp nơi. Những hộp mạ vàng, mạ bạc rải rác trên mặt bàn chân quì đặt trước những ghế bành lớn. Phòng có thể chứa trên trăm người. Ấy thế mà trong lúc này lại chỉ có một người đàn bà đẹp. Bà ta mặc đồ bằng lụa. Ánh sáng mặt trời, không khí và tiếng cười trong trẻo thơ ngây của các cậu ấm cô chiêu lọt vào qua cửa sổ. Lần đầu tiên Guiliano mới hiểu thế nào là sức quyến rũ của sự giàu sang, mới hiểu rằng thế lực của kim tiền lại có thể làm ra nhiều thứ đẹp đẽ sang trọng như thế này. Và hắn lại tự nhủ phải chống lại bất cứ kẻ thô lỗ, tàn bạo nào đang tay phá hủy cái đẹp, cái sang trọng này, dù không phải là của hắn. Hắn sẵn lòng làm bất cứ điều gì hắn có thể làm được, để khung cảnh đẹp đẽ này không bị sứt mẻ.
Kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời, công tước phu nhân cũng xúc động trước vẻ đẹp hùng tráng của người thanh niên này. Bà thấy rõ sự xúc động của hắn trước vẻ đẹp và sự sang trọng của căn phòng. Bà nghĩ thật đáng tiếc hắn lại tỏ ra quá sức quê mùa, vụng về. Cũng phải thôi, bởi vì từ thuở cha mẹ sinh đẻ đến giờ chưa có lần nào hắn được đặt chân đến những nơi như thế này, được giao tiếp với giai cấp thượng lưu, mà trong những trường hợp như thế này, sự vuốt ve, tán tỉnh chẳng những không bị coi là khiếm nhã, mà còn được coi là một tác phong phải có. Nhìn cái vẻ ngơ ngác của Guiliano lộ qua khuôn mặt đẹp trai của hắn, công tước phu nhân vừa buồn cười vừa thấy tội nghiệp cho hắn. Bà đổi giọng bà lớn thành giọng dịu dàng, thân mật, gia đình :
- Này, cậu em, tôi xin lỗi, nếu cậu em đến đây để bàn chuyện làm ăn trong lãnh địa thì để khi khác nhé. Lúc này, ông nhà tôi không có nhà.
Guiliano nhìn vào bà ta. Hắn cảm thấy sâu sắc sự đối nghịch mà một thằng đàn ông nghèo cảm thấy, khi đối diện với một người đàn bà giàu có, mà bằng một cách nào đó, chỉ cảm thấy chứ không thể diễn tả bằng lời sự khẳng định của bà ta hơn hẳn về mặt tài sản và địa vị xã hội. Hắn lễ phép cúi đầu, chú ý đến cái chuông nhỏ (để gọi người hầu) kế bên tay bà ta, rồi cười thầm trong bụng và bắt đầu nói bằng một giọng vừa chế giễu vừa phục tùng :
- Kính bẩm lệnh bà, tôi có điều muốn thưa với chính lệnh bà, tôi là Guiliano.
Nhưng cái dáng bộ khúm núm tuy có vẻ giễu cợt của hắn chẳng có nghĩa lý gì đối với công tước phu nhân. Vì bà ta đã quá quen với những cử chỉ khúm núm, lụy phục của đám gia nhân đầy tớ. Bà ta coi cử chỉ khúm núm của người khác trước mặt bà ta là hòan toàn tự nhiên. Bà là một người có văn hóa cao, có học thức, thích âm nhạc, ham đọc sách và hòan tòan dửng dưng với những việc hàng ngày ở Sicily, vì bà coi nó như đồ mọi rợ. Cũng rất ít khi bà đọc báo của ngay cả Rôme. Bà đọc báo của London, của Paris. Bởi thế, khi nghe Guiliano xưng danh, theo phép lịch sự, bà cũng đáp lại :
- Rất hân hạnh được biết cậu. Ta đã gặp nhau ở Palermo phải không nhỉ? - Bà không nói gặp nhau ở London hay Paris và ngay cả ở Rome bởi vì bà nghĩ bụng: “Cái ngữ này thì Palermo đã là thiên đường của nó rồi” - Hay là ta đã gặp nhau ở nhà hát nào nhỉ?
Nhìn và nghe đối đáp giữa Guiliano và công tước phu nhân, Pisciotta đã cố bấm bụng, nhưng không thể nín được nữa, nó phá ra cười hô hố và đi ra phía cửa sổ giả bộ nhìn xuống sân, nhưng thực ra là để xem có đứa gia nhân đầy tớ nào chạy tới không.
Guiliano bực mình vì tiếng cười của Pisciotta, còn công tước phu nhân thì ngạc nhiên. Nhưng Guiliano lại lấy làm thích thú vì phu nhân không biết hắn là ai. Hắn nói một cách nghiêm chỉnh :
- Kính bẩm lệnh bà, ta chưa hề gặp nhau bao giờ. Tôi là một tên cướp. Tên đầy đủ của tôi là Salvatore Guiliano. Tôi cứ đinh ninh mình là tay vô địch ở Sicily này và ai cũng biết tiếng kia đấy. Mục đích của tôi đến xin yết kiến lệnh bà hôm nay là xin lệnh bà mớ nữ trang của lệnh bà đặng cho người nghèo để họ có cái ăn mừng lễ kỷ niệm Chúa Giáng Sinh.
Công tước phu nhân mỉm cười trong bụng khen hắn đóng kịch có “thần”, vì bà vẫn không tin hắn là tên cướp. Phu nhân còn trẻ, rất trẻ. Khuôn mặt đẹp trai và thân thể cường tráng của chàng trai này đã khiến cho công tước phu nhân cảm thấy con tim xao xuyến, cơ thể rạo rực, thèm khát một cách mãnh liệt khác thường. Sự liên tưởng tới những khoái cảm xác thịt mà phu nhân hình dung ra khi được cùng chàng trai này ân ái đã khiến cho mạch máu trên đầu phu nhân nảy tưng tưng và làm cho ngực phu nhân thở dồn dập, phập phồng. Phu nhân liếc nhìn Pisciotta, rồi liếc nhìn Guiliano và tiếc rẻ: giá không có cái thằng ria mép mắc dịch kia thì có lẽ phu nhân đã không kìm hãm nổi lòng xuân phơi phới của mình. Công tước phu nhân chợt tỉnh cơn mơ khóai lạc vì cái ý tưởng tên cướp đã trở lại đầu óc bà. Không, bà thầm nghĩ, thằng thanh niên có bộ ria mép thô lỗ kia thì có thể, chớ chàng thanh niên tuấn tú xưng danh là Guiliano này không thể là mối nguy của bà. Và bà cũng thoáng cảm thấy bóng dáng của sự nguy hiểm pha lẫn sự ngạc nhiên và hiếu kỳ. Bà nghĩ: “Lại có một chuyện vui và hồi hộp để kể trong một bữa tiệc nào đó ở Palermo”. Bởi vậy, bà mỉm cười ngây thơ và nói :
- Tiếc quá, nữ trang tôi để cả ở Palermo rồi. Tại két trong nhà hiện nay, cậu muốn lấy gì thì lấy, tôi sẵn lòng.
Trong đời, chưa có ai nghi ngờ lời nói của bà. Ngay từ lúc còn nhỏ, bà cũng đã không hề nói dối bao giờ. Đây là lần đầu tiên. Thế mà bà nói cũng khá tự nhiên. Nhưng, cũng không qua được con mắt của Guiliano. Hắn nhìn chuỗi kim cương đang đeo ở cổ bà. Hắn biết là bà nói dối, nhưng hắn cũng đang phân vân chưa biết phải làm gì. Hắn gật đầu ra hiệu cho Pisciotta. Thằng này đưa hai ngón tay lên, bóp chúm môi dưới lại và “hoét hoét” lên mấy tiếng. Một hai phút sau đã thấy Pasatempo thập thò ngoài cửa sổ. Cái vóc dáng mập lùn và thô kệch, cái mặt đầy thẹo ngang dọc nom dữ dằn gớm ghiếc, cả khuôn mặt bành bạch như cái thớt, nhưng lại hầu như không có trán, nom rất cổ quá, dị dạng mà ngay cả mặt nạ búp bê cũng không có, mái tóc đen, cứng tua tủa. Lởm chởm, cặp lông mày chổi sể trùm bên trên đôi mắt ốc nhồi khiến hắn giống như con khỉ đột.
Sự xuất hiện của tên cướp thứ ba với hình dạng kinh khủng gớm ghiếc như vậy đã khiến cho công tước phu nhân khiếp đảm. Bà run run tháo sợi dây chuyền cẩn kim cương đang đeo ở cổ ra và trao cho Guiliano :
- Đây, cậu đã bằng lòng chưa?
- Kính bẩm lệnh bà, chưa. - Guiliano vẫn nhỏ nhẹ - Nhưng tôi cũng xin bẩm để lệnh bà rõ: tôi là người có từ tâm. Tuy nhiên mấy “Người anh em” của tôi đây thì khác. Anh Aspanu của tôi đây, coi đẹp trai vậy đó nhưng ác không thua gì bộ ria mép của anh ta. Bộ ria ấy đã làm cho biết bao con tim tan nát rồi đấy. Và cái tên đang đứng ngoài cửa sổ kia, tuy là bộ hạ của tôi thật, nhưng nó cũng làm cho ngay cả tôi đây nhiều phen cũng hết hồn và đem lại nhiều cơn ác mộng. Lệnh bà đừng để tôi thả lỏng chúng nó. Chúng sẽ nhào vô vườn của lệnh bà như bầy diều hâu vồ gà con để mời mấy công tử lên núi nghỉ mát chơi ít ngày. Thôi, xin lệnh bà vui lòng đem tất cả hộp nữ trang của lệnh bà ra đây.
Công tước phu nhân chạy như bay vào phòng ngủ và chỉ ít phút sau trở lại với hộp nữ trang trên tay. Phu nhân cũng nhanh trí khôn và nhanh tay giấu vội vài món đắt giá nhất trước khi bưng cả hộp ra ngoài. Phu nhân trao hộp đó cho Guiliano. Hắn nhận một cách hết sức lịch sự, và quay về phía Aspanu, nói :
- Aspanu, có lẽ trong lúc vội vã, lệnh bà còn làm rớt hoặc bỏ sót một vài món chăng. Xin lệnh bà cho phép nó vào phòng xem lại chút cho chắc chắn.
Hầu như ngay lập tức Pisciotta đã tìm được mấy món nữ trang mà công tước phu nhẫn đã giấu.
Trong khi đó, Guiliano mở hộp nữ trang ra. Tim hắn muốn nhảy ra ngoài khi nhìn thấy những viên ngọc quí. Hắn biết là giá trị của cái hộp này đủ nuôi tất cả dân thị trấn Montelepre trong cả năm ròng chưa hết. Một nguồn vui lớn khác nữa là đức ngài công tước đã sắm được những món nữ trang này bằng cách bóc lột công sức, mồ hôi của biết bao nông dân trong bao năm trời. Nhìn thấy công tước phu nhân thu thu hai bàn tay vào nhau như có vẻ e lệ, Guiliano đã chú ý đến chiếc cà rá ở ngón tay đeo nhẫn của bà :
- Kính bẩm lệnh bà, - Hắn vẫn giữ giọng vừa giễu cợt, vừa khúm núm, e dè - tại sao lệnh bà lại dại dột đi giấu mấy món kia? Kẻ hèn này tưởng là chỉ có mấy thằng khố rách áo ôm, mấy tên nông dân ngu muội mới làm nô lệ cho tài sản của mình chứ? Thế mà sao lệnh bà lại liều tấm thân ngọc ngà của mình và thí mạng cả mấy công tử chỉ vì mấy món nữ trang vô tri này. Có mất mấy cái của này thì lệnh bà cũng chẳng thiệt hại nhiều hơn đức ngài công tước làm mất một cái mũ đội trên đâu. Thôi, đừng có lôi thôi, om sòm lên làm gì, xin lệnh bà vui lòng trao nốt cho tôi chiếc cà rá đang đeo trên tay lệnh bà kia kìa.
- Xin các cậu hãy thương tôi, - Bà sụt sùi khóc - hãy để lại cho tôi cái cà rá này. Nó chẳng đáng giá gì nhiều, nhưng là vật kỷ niệm đính hôn của vợ chồng tôi. Tôi xin bù lại bằng một món tiền. Tôi không thể nào chịu nổi nếu không có nó. Lòng tôi tan nát, nếu không có nó.
Pisciotta cười khẩy. Y cố ý cười như vậy, vì y sợ Turi có thể động lòng trắc ẩn, mềm lòng vì nước mắt đàn bà để cho bà ta giữ lại cái cà rá hiển nhiên là rất có giá ấy.
Nhưng Guiliano đâu có mủi lòng kiểu ấy. Pisciotta nhớ mãi ánh mắt của Turi khi hắn nắm lấy bàn tay run rẩy của công tước phu nhân và tháo cái cà rá ra. Khi quay trở lại hắn liền đeo chiếc cà rá ấy vào ngón tay út bàn tay trái của hắn.
Turi nhìn thấy công tước đỏ mặt lên vì tức giận và đôi mắt ngấn lệ của bà ta. Cung cách của hắn lại trở nên khúm núm e dè một cách giễu cợt. Giơ bàn tay có đeo chiếc cà rá lên, hắn nói :
- Để luôn tưởng nhớ đến lệnh bà, tôi xin long trọng hứa với lệnh bà rằng tôi sẽ không bao giờ bán cái cà rá này trong bất cứ trường hợp nào, và cũng không cho bất cứ ai. Tôi sẽ luôn mang nó trong tay tôi.
Công tước phu nhân muốn thấy cái vẻ châm biếm, chế nhạo trên khuôn mặt hắn. Nhưng không, hắn rất trang trọng.
Nhưng, đó là giây phút thần kỳ đối với Turi. Bởi vì khi đeo chiếc cà rá ấy vào ngón tay, hắn cũng thấy quyền lực qua đó mà ùa tràn, thâm nhập vào hắn. Với chiếc cà rá ấy, hắn có cảm tưởng đã kết hôn với chính thần số mệnh. Đó là biểu tượng của quyền lực mà hắn đã thâu đoạt được từ thế giới của bọn nhà giàu. Viên ngọc xanh đậm viền vàng ấy hãy còn vương mùi thơm của người đàn bà ngọc ngà đã mang nó luôn trong mình từ bao năm qua chính là lời tuyên bố rõ ràng và dứt khoát rằng hắn, Turi Guiliano đã nắm được cái tinh túy của đời sống mà trước đó hắn chưa từng được biết, và cái đời sống ấy là của chính hắn hiện nay và sau này.
Ông Trùm Croce lẳng lặng ngồi nghe.
Ngài công tước Alcamo đang phàn nàn ra ý phiền trách chính bản thân Ông Trùm. Ngài đã chẳng phải trả tiền “thuê bao” hàng năm cho đám “Người anh em” để chúng đảm bảo không đụng chạm đến tài sản của ngài đó sao? Thế mà bọn đó lại chẳng đảm bảo được? Tại sao sự thể lại xảy ra như vậy? Thời xưa ấy hả, đố thằng nào dám vuốt râu cọp. Và bây giờ, liệu Ông Trùm có đủ sức để truy tìm cho ra và thâu hồi trả ngài mớ nữ trang kia không? Ngài công tước đã báo vụ cướp này cho nhà cầm quyền, mặc dầu ngài biết là vô ích và còn có thể làm cho Ông Trùm phiền lòng. Nhưng, chẳng thà làm vậy mà còn có chút ít hy vọng may ra vớt vát được chút gì chăng. Vả lại, có như vậy thì may ra chính quyền ở Rome mới để tâm đến cái “họa” Guiliano này một cách thích đáng hơn, đúng mức hơn.
Ông Trùm cũng nghĩ rằng đã đến lúc phải coi Guiliano là một vấn đề nghiêm trọng. Lão thủng thỉnh nói với ngài công tước :
- Nếu tôi lấy lại được những món nữ trang đó thì ngài có vui lòng chi một khoản tiền bằng giá trị một phần tư những món ấy không?
Ngài công tước trợn tròn đôi mắt, ngạc nhiên, rồi nổi xung la lớn :
- Trước hết, ta đã trả đủ cho các người số tiền “thuê bao” để đảm bảo an toàn tánh mạng và tài sản của gia đình ta. Thế mà mấy người đã không đảm bảo được. Đúng ra mấy người phải bồi thường thiệt hại cho ta, chứ lẽ nào còn dám mở miệng đòi ta tiền chuộc là làm sao? Trong công việc kinh doanh, làm ăn mà mấy người ăn nói đảo điên như vậy thì liệu mấy người dám hy vọng có được sự tín nhiệm của khách hàng nữa hay không?
- Tôi phải công nhận ngài có lý. - Ông Trùm gật gù đồng ý - Nhưng ngài nên coi Salvatore Guiliano như một thiên tai. Chắc chắn ngài sẽ không trông đợi “Người anh em” bảo vệ ngài khỏi các thiên tai như động đất, núi lửa, lụt lội... Nếu có ai dám đảm bảo kiểm soát, kiềm chế được thiên tai thì tôi cũng dám bảo đảm với ngài là sẽ kiểm soát, kiềm chế được Salvatore Guiliano. Nhưng thôi cứ gạt chuyện thiên tai đó đã, cho đến khi nào kiểm soát, kiểm chế được thì sẽ tính. Bây giờ hãy tính chuyện thực tiễn trước mắt đây. Xin ngài nghĩ coi: nếu ngài chịu chi số tiền đó thì tôi mới có phương tiện để thương lượng dàn xếp. Và tôi cũng đành phải chịu thiệt thòi để chia sẻ cái xui xẻo của ngài bằng cách ngài khỏi trả tiền “thuê bao” cho năm năm tới mà tôi vẫn phải đảm bảo an toàn chongài như từ trước đến nay. Đồng thời tôi cũng phải thương lượng để trong khoảng thời gian đó, Guiliano cũng đồng ý không làm phiền ngài nữa. Vả lại sau vố này, hắn sẽ chẳng làm gì nữa, nếu ngài đủ khôn ngoan để cất giữ những món nữ trang quí giá ấy trong két của nhà băng ở Palermo? Các bà thì cứ ngây thơ lắm kia, họ đâu có biết rằng cái thói dâm đãng và lòng tham lam là những động lực mạnh - đến nỗi hầu như không thể cưỡng lại được - đã thúc đẩy bọn đàn ông lăn xả vào chém giết nhau để giành giật lấy của cải vật chất đời này? - Lão ngừng một chút, nhếch mép cười khi thấy vẻ thất vọng lộ trên khuôn mặt ngài công tước, rồi lão tiếp tục thủ thỉ - Nếu ngài tính số tiền “thuê bao” để bảo vệ lãnh địa này cho năm năm sắp tới trong lúc mỗi ngày mỗi thêm nhiễu nhương thì ngài sẽ thấy, qua cái rủi ro này, ngài thiệt hại cũng chẳng đáng là bao.
Ngài công tước suy nghĩ, đã thấy Ông Trùm hòan toàn có lý về cái thời gian nhiễu nhương sắp tới đây. Hậu chiến mà. Nhà máy, xí nghiệp bị chiến tranh tàn phá, hàng triệu lính giải ngũ về, công ăn việc làm không có, mà thằng nào cũng quen bắn súng rồi, có thằng chết hụt đã dăm phen rồi, thì cái gì mà chúng chẳng dám liều. Như vậy, cái món tiền chuộc nữ trang so với tiền “thuê bao” năm năm sắp tới... tính coi... ngài công tước thấy cũng khá lớn chớ đâu phải ít. Vả lại, ai dám đảm bảo Ông Trùm sẽ sống được hết năm năm đó. Nửa chừng lão “đứt bóng” thì sao? Hoặc giả ai dám đảm bảo là Guiliano sẽ không quay trở lại làm vài ba vố nữa? Nhưng chẳng thà mất vậy còn hơn mất hết. Cái điều kiện Ông Trùm đưa ra dù sao cũng là cuộc mặc cả có lợi nhất trong hòan cảnh này. Và cái đó cũng khiến cho công tước phu nhân giảm bớt cái thói nhí nhảnh, đòi đem nữ trang vào lãnh địa để khoe mẽ với mấy đứa đầy tớ. Nhưng cái lợi lớn hơn là ngài công tước sẽ vin vào cái cớ an toàn để phu nhân không dám mè nheo đòi mua sắm thêm nữ trang. Như vậy đỡ tốn khối tiền. Có lẽ ngài công tước phải bấm bụng bán đi vài ba mảnh đất. Nhưng, từ bao đời nay rồi, tổ tiên của ngài cũng đã từng bán đi như vậy để trả giá cho những sự điên rồ của họ. Ấy vậy mà các cụ còn để lại cho ngài cả mấy ngàn mẫu.
Ngài gật đầu chấp thuận.
Ông Trùm cho mời giáo sư Hector Adonis tới. Ngày hôm sau cuộc hội kiến với Ông Trùm, gái sư làm một chuyến thăm thằng con đỡ đầu. Ông giải thích cho hắn cái sứ mạng của ông. Ông hết sức thành thật :
- Con sẽ không được cái giá cao hơn đâu, ngay cả nếu con đem bán cho bọn chuyên mua đồ gian ở Palermo. Và rồi con cũng phải mất một thời gian, chắc chắn là con không thể có tiền trước lễ Giáng sinh, nếu con đem bán cho bọn mua đồ gian. Ngoài ra, cho chuộc lại, con sẽ chinh phục được cảm tình của lão Croce. Cái đó rất quan trọng đối với con. Sau cùng, con đã làm lão ta mất mặt ít nhiều vì lão ta nhận “thuê bao” cho gia đình Alcamo mà. Nhưng, nếu con giúp lão ta giải quyết việc này, thì lão ta cũng sẵn sàng bỏ qua hết.
Guiliano mỉm cười nhìn ông bố đỡ đầu của mình. Hắn có coi cái ý muốn, ước nguyện và ngay cả sự đe dọa của Ông Trùm ra gì đâu. Sau cùng, ước mơ của chính hắn là diệt được con quái vật Mafia ở Sicily này. Ngoài ra, hắn cũng đã cho người đi Palermo dò hỏi giá cả mấy món nữ trang đã cướp được. Và hắn cũng thấy giá cả cũng không hơn giá cả mà Ông Trùm đề nghị, hơn nữa còn thêm rắc rối, nhiêu khê, lâu lắc lắm, chắc chắn không kịp trước lễ Giáng Sinh. Bởi vậy hắn đồng ý thương lượng, nhưng nhất định không trả lại chiếc cà rá ngọc.
Trước khi từ giã, Adonis cũng tuyên bố với hắn xin thôi luôn cái vai trò làm thầy dạy cho hắn những thiên anh hùng ca và văn học lý tưởng cách mạng, bởi vì hắn là hiện thân bằng xương bằng thịt những cái đó. Lần đầu tiên, ông nói với hắn về thực tế đời sống của người Sicilian :
- Con à, không có ai cảm mến những đức tính của con hơn thầy. Thầy cảm phục cái khát vọng hào hùng của con mà thấy hy vọng được góp phần của mình vào sự thực hiện khát vọng ấy. Tuy nhiên, bây giờ ta cũng phải xét đến sự sống còn, bởi vì sự sống còn là điều kiện tiên quyết, cơ bản của mọi hiện thực. Sự sống mà tắt thì khát vọng dù có hào hùng, cao cả cách mấy cũng tắt theo. Cũng như lửa tắt thì ánh sáng cũng phải tắt. Chưa nói đến sự thực hiện. Con không có hy vọng gì thắng được bọn “Người anh em” đâu. Từ hàng ngàn năm nay chúng cũng như hàng triệu con nhện dăng lưới dày đặc, phủ kín khắp Sicily, khắp mọi người và mọi mặt của đời sống, của xã hội. Ông Trùm Croce đang đứng giữa cái lưới nhện đó. Lão ta rất cảm phục con và rất muốn giữ tình hữu nghị với con. Lão ta muốn con và lão cùng làm giàu. Nhưng có đôi lúc, con phải chiều ý lão một chút. Thầy không nói con phải nhượng bộ, phải mất thể diện ở một khía cạnh nào đó. Con vẫn có giang sơn riêng của con, nhưng giang sơn của con phải nằm trong cái lưới nhện ấy. Có điều chắc chắn là con không thể trực tiếp đương đầu với lão ta được đâu. Nếu con cứ quyết tâm làm như vậy thì chính lịch sử sẽ giúp lão tiêu diệt con.
Vậy là “Châu về Hợp Phố” với món tiền chuộc của ngài công tước. Guiliano chia một nửa số tiền cho Pisciotta, Terranova và Passatempo. Chúng nhìn nhìn cái cà rá đeo ở ngón tay út của Guiliano, nhưng không thằng nào dám hó hé nói năng gì. Bởi vì, Guiliano tuyên bố không thèm đụng đến một xu trong khoản tiền đó. Một nửa số tiền còn lại, Guiliano quyết định phân phát cho đám chăn cừu, cho những cô nhi, quả phụ và những người nghèo khổ trong vùng.
Hắn luôn luôn trao tiền qua trung gian. Nhưng, có một hôm, hắn nhét tiền vào đầy các túi áo và đầy cái ba lô mà cha bề trên đã cho khi hắn rời khỏi tu viện. Hắn đi vào các làng quanh thị xã Montelepre, Piani dei Greci... Cùng đi, có Terranova.
Tại một làng có ba bà già sắp chết đói. Hắn cho mỗi bà cả cọc tiền. Họ cảm động quá, khóc và hôn tay hắn. Tại một làng khác, một nông dân sắp bị “siết” mất thửa ruộng anh ta đã đem “cầm” vì vợ ốm trong lúc gia đình lại quá quẫn bách, nay đến thời hạn, anh ta không có tiền để chuộc. Guiliano đã cho anh ta số tiền đủ để chuộc lại thửa ruộng. Tại một làng khác, hắn mua hết ráo hàng hóa trong tiệm bánh và tiệm tạp hóa, rồi phân phát bánh, phó-mát và kẹo... cho cả làng. Tại một làng gần thị trấn, hắn đã tặng cho cha mẹ một đứa trẻ đang ốm nặng để có tiền đi điều trị tại bệnh viện ở Palermo và trả tiền cho bác sĩ ở địa phương. Hắn cũng dự một đám cưới và tặng cho cặp vợ chồng trẻ một số tiền làm vốn.
Nhưng hắn thích nhất là tặng tiền cho đám trẻ nhà nghèo sống lang thang trên khắp các nẻo đường, trên khắp các tỉnh thành của Sicily. Hầu hết, bọn trẻ này trong vùng đều quen biết Guiliano. Chúng bu lấy Guiliano. Khi trao tiền cho chúng, Guiliano sung sướng nhìn chúng hớn hở chạy về nhà.
Chỉ còn lại chút ít tiền khi hắn quyết định về thăm bố mẹ hắn vào lúc chập tối. Khi đi qua dải đất phía sau nhà, Guiliano gặp hai đứa trẻ, một trai, một gái, ngồi khóc. Chúng mất số tiền mà má chúng trao cho chúng đi mua cái gì đó. Chúng nói là “thằng cớm đã cướp mất của tụi cháu”. Guiliano thấy vui vui trước tấn bi kịch nhỏ bé ấy, và cho chúng một món tiền gấp bội số tiền chúng mất. Thấy đứa bé gái xinh quá, hắn không thể chịu được khi nghĩ rằng bé này sẽ bị ba má nó đánh vì sơ ý để cớm cướp mất tiền, nên hắn đã ngồi lại, viết một bức thư yêu cầu ba má bé đừng đánh bé.
Không phải chỉ ba má con bé đó biết ơn Guiliano, mà dân ở các thị trấn Borgetto, Corleone, Partinico, Moreale, Piani dei Greci... cũng biết ơn hắn. Để tỏ lòng biết ơn, họ đã gọi hắn là “Quốc vương Montelepre”.
Mặc dù mất năm năm tiền “thuê bao” của ngài công tước, nhưng cái đầu óc quái quỷ của “Ông Trùm” đâu có để lão thiệt thòi, trái lại còn có lời nữa là khác. Bởi vì, một mặt lão đòi ngài công tước tiền chuộc bằng 25 phần trăm gái trị các món nữa trang, một mặt lão nói với ông Adonis là ngài công tước chỉ chịu trả bằng 20 phần trăm. Ở giữa, lão sớt lại 5 phần trăm bỏ túi. Chỉ 5 phần trăm nhưng cũng gấp mấy lần cái giá “thuê bao” năm năm mà đối với ngài công tước, lão vẫn được cái tiếng là chịu thiệt thòi và đối với Guiliano, lão được tiếng trung gian vất vả.
Nhưng, điều làm cho lão tự hào và khóai hơn cả là lão đã sớm phát hiện và đánh giá đúng tài năng của Guiliano, đồng thời qua việc chịu thương lượng - theo ý lão - Guiliano bước đâu đi vào quĩ đạo mà lão đã định. Guiliano đúng là một ngôi sao đang lên. Ai dám tin được một thanh niên có cái nhìn sáng suốt, hành động khôn ngoan và có tính tự hào đến mức kiêu hãnh như vậy, mà lại biết nghe lời một người lớn tuổi hơn và tinh khôn hơn là lão vậy?
Nhưng, về phần Guiliano, qua cuộc thương lượng này, nghe thì nghe - với trí thông minh và tính toán lạnh lùng - hắn vẫn giữ được phần riêng của hắn. Điều này càng làm cho lão cảm phục hắn và càng đắc ý vì “Ai ngu dại gì mà đi liên kết với một thằng khùng?’
Ông Trùm gật gù thú vị với ý nghĩ một ngày kia, Guiliano có thể là cánh tay mặt của lão. Và với thời gian, hắn sẽ là đứa con kế nghiệp lão.
Turi nhìn thấu suốt những ý đồ đang bao quanh hắn. Hắn biết rõ ông bố đỡ đầu chân thành quan tâm và lo lắng cho lợi của hắn. Nhưng điều đó không có nghĩa là hắn hoàn toàn phó thác sinh mệnh và tương lai của hắn cho sự phán đóan và thẩm định của người lớn. Guiliano cũng thừa biết hắn chưa đủ lực lượng để ăn thua và chơi trực diện với đám “Người anh em” của Ông Trùm. Và, thật ra, hắn còn cần sự giúp đỡ của bọn này trong một thời gian. Nhưng hắn không hề có ảo tưởng về sự liên kết lâu dài với bọn đó. Nếu nghe lời ông bố đỡ đầu, rất có thể hắn chỉ trở thành một thứ bồi thần cho hoàng đế Ông Trùm Croce Malo. Và, đối với nó, điều đó không bao giờ có thể xảy ra. Nhưng, bây giờ hắn cần hoãn binh chi kế.
“Băng” của Guiliano nay lên đến con số ba mươi. Một vài người trong đám đó vốn là tay em của Terranova hoặc của Passatempo. Một vài người là dân trong thị trấn được Guiliano giải thoát trong cuộc đột kích trại Bellampo. Bị bắt oan, nhưng những người này vẫn cứ bị nhà nước truy nã. Họ nghĩ: đằng nào cũng bị truy nã. Vậy thì bị truy nã cùng với Guiliano còn hơn bị truy nã trong thân cô thế cô, không có bạn bè hỗ trợ.
Vào một buổi sáng tháng tư đẹp trời, Guiliano nhận được tin có một tên nom có vẻ khả nghi, có thể là lính kín lắm. Gã cứ dò la để xin “đăng lính” cho Guiliano. Gã ngồi chờ ở quảng trường trung tâm thị trấn Montelepre. Guiliano phái Terranova và bốn tay anh em nữa đi thẩm tra. Nếu coi bộ xài được thì dắt về. Nếu là cớm, là lính kín chơi trò khổ nhục kế thì cứ việc khử luôn.
Trưa hôm đó, Terranova trở về, báo cáo cho Guiliano :
- Có thể là cánh mình sẽ thêm một nhân khẩu. Thằng chó bắn hụt anh bữa hôm đột kích trại, thả tù đó. Anh thử tiếp xúc với gã xem sao.
Thấy cái mặt ngang dọc những vết thẹo mà lại ăn vận theo lối nhà quê Sicilian. Guiliano cười lớn :
- Rồi, ông bạn, bộ ông nghĩ là tôi có thể quên được cái bản mặt của ông bạn sao chứ. Lần này chắc là đồ nghề của ông bạn “tuyệt vời” rồi chứ?
Người đó chẳng phải ai xa lạ, mà chính là thầy cai Canio Sylvestro, kẻ đã chĩa súng bắn Guiliano, nhưng may mắn là viên đạn chỉ bay sướt qua đầu. Tuy mặt mày rằn ri như vậy, nhưng trông không có vẻ cô hồn, hắc ám, trái lại có vẻ kiên nghị, quả cảm. Khuôn mặt ấy gợi cho Guiliano một điều gì đó. Dù bị hắt hủi, Guiliano vẫn cảm thấy quí mến con người này. Gã là kẻ đã chứng minh cho Guiliano thấy sự bất khả tử của nó.
- Tôi đến xin gia nhập vào băng của mấy anh. Tôi cho rằng tôi có thể là một của quí đối với mấy anh nữa đó.
Đi xin việc mà lại giở giọng kẻ cả như vậy mới hách. Nhưng Guiliano lại chịu cách đó. Guiliano bảo hắn kể “cuộc đời và sự nghiệp” của hắn. Sau cuộc đột kích phá ngục cứu tù, “thầy cai” Sylvestro bị đưa ra tòa án binh ở Palermo. Tội danh: sao lãng nhiệm vụ gây hậu quả nghiêm trọng. Thầy đội Maresciallo tức điên lên với thầy cai. Lão điều tra gã rất gắt trước khi lập thủ tục truy tố. Kỳ quặc đến cái độ quái gở là lão nghi thầy cai chỉ giả bộ bắn Guiliano mà thôi. Nguyên nhân bắn hụt - theo Maresciallo - là do viên đạn không đủ thuốc súng. Maresciallo căn cứ vào chỗ mặc dù đã biết đạn có khuyết điểm mà vẫn cứ xài để kết tội Sylvestro. Do đó, toàn bộ cuộc kháng cự này nọ chỉ là để che mắt mấy chú cớm oắt. Cứ theo lão thì chính Sylvestro đã giúp Guiliano đặt và thực hiện kế hoạch phá ngục cứu tù, trong đó có việc sắp đặt người gác cà chớn để dễ bề qua mặt lão.
Guiliano ngắt ngang hỏi :
- Tại sao hắn lại biết viên đạn có khuyết điểm?
Syvestro có vẻ ngập ngừng :
- Quả thật là tôi cũng biết viên đạn có khuyết điểm. Tôi là chuyên viên vũ khí trong bộ binh lúc còn chiến tranh mà.
Mặt gã bỗng trở nên dữ tợn. Gã nhún vai, nói tiếp :
- Tôi sơ suất, đúng! Tôi là tổ trưởng vũ khí của trại Bellampo. Nhưng tôi đã không quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ chủ yếu của mình. Với khả năng chuyên môn về vũ khí của tôi, tôi nghĩ là tôi sẽ rất đắc dụng cho các anh. Tôi sẽ kiểm tra, sửa chữa, cải biên cho các anh nghĩa là làm đảm bảo vũ khí của các anh lúc nào cũng ngon lành. Súng không bị hóc, đạn không bị lép vào những lúc sinh tử nhất. Tôi cải biên, sửa chữa sao cho vũ khí của các anh thích hợp, tiện dụng ở vùng núi non này.
- Anh cứ kể tiếp đi.
Trong khi Sylvestro nói, Guiliano quan sát, ngắm nghía. Đây có thể là một khổ nhục kế cớm dùng để cài người. Hắn thấy rõ là Pisciotta, Passatempo và Terranova có vẻ không tin Sylvestro.
- Tụi nó điên hết. - Sylvestro nói - Tụi nó như một lũ đàn bà hèn nhát. Khi nhìn kỹ, Maresciallo cũng biết mình quá ngu. Trại giam thì đầy tù, doanh trại thì mênh mông mà chỉ để lại có mấy ngóe thủ trại. Bọn cớm nói chung cứ coi xứ Sicily của mình như là vùng đất chiếm đóng, và tụi nó là lính viễn chinh. Tôi thường phản đối thái độ ấy. Vì vậy tôi bị ghi tên vào sổ đen. Nhà cầm quyền ở Palermo bênh lão Maresciallo. Họ phải chịu trách nhiệm về lão ta mà, luận điệu của mấy cha ấy là cuộc đột kích phải có tay trong, chớ không phải là do một người tài ba, đảm lược thực hiện. Có giải thích như vậy thì mới che giấu được cái dốt, cái bất tài của mấy cha... Nhưng, ra đến Palermo, mấy cha đếch dám đưa tôi ra tòa án quân sự. Đưa ra, lòi cái đuôi dốt là cái chắc. Mấy cha giở giọng nhân đức: bảo tôi làm đơn xin giải ngũ thì sẽ không bị đưa ra tòa, không bị án trong lý lịch tư pháp... Nhưng tôi thừa biết cái thâm ý của mấy cha và tôi cũng biết là dù không có án trong lý lịch tư pháp thì tôi cũng đừng hòng xin việc làm trong cơ quan chính quyền. Đối với mấy cha, tôi là đồ bỏ. Nhưng, là dân Sicilian thứ thiệt, tôi yêu xứ sở của tôi. Tôi tự hỏi: làm gì bây giờ? Và tôi tự trả lời: đi theo Guiliano.
Guiliano bảo Sylvestro ra nói mấy anh em ở ngoài kiếm cho cái gì ăn. Trong này, hắn bàn với mấy người kia. Cộc cằn, thô lỗ, Passatempo đưa ra ý kiến phản bác :
- Thằng chó đẻ ấy nghĩ bọn mình điên hay sao chớ? Cứ cho nó một phát rồi thảy xuống khe núi cho rảnh nợ. Trong băng tụi mình đếch cần thằng cớm.
Pisciotta nhìn Guiliano và biết thằng bạn mình có lòng trắc ẩn đối với Sylvestro. Bởi vậy, y dè dặt nói :
- Rất có thể đây là trò bịp. Sơ đẳng quá! Nhưng dù không phải là bịp đi nữa thì tại sao mình lại cứ phải thử thời vận hoài? Lúc nào cũng ngay ngáy đề phòng, cảnh giác. Mệt thấy mẹ. Cứ luôn luôn phải ngờ vực. Đuổi cha nó đi cho rảnh nợ.
- Nhưng nó đã biết sào huyệt của bọn mình rồi. - Terranova nói - Nó đã biết mặt anh em mình, biết quân số của mình. Bấy nhiêu đó đã là những tin tức quá quý rồi!
Guiliano nói, giọng nồng nhiệt :
- Hắn đúng týp Sicilian thứ thiệt. Hắn bắn tao chỉ là do muốn bảo vệ danh dự. Tao không tin nó làm gián điệp, mật thám hay chỉ điểm gì ráo!
Nói vậy, hắn cũng biết bọn kia mỉm cười như thể tội nghiệp cho sự ngây thơ, cả tin của hắn. Pisciotta nói :
- Nên nhớ là chính nó đã muốn làm thịt mày. Ấy là nó đang là tù nhân của mình đấy. Đâu phải là bắn hốt hoảng mà là bình tĩnh, sáng suốt khi rút súng bắn mày đấy chớ? Hắn quyết ăn thua đủ mà. Làm gì nó không biết là nó không thể nào thoát được?
Không phải Guiliano không nghĩ đến điều đó. Trái lại, hắn coi điều đó là một giá trị. Guiliano cất cao giọng :
- Biết rằng chết mà vẫn cứ chơi mới là ngon chứ, mới là hành động vì danh dự chứ? Để nó ở lại đây, nó làm gì được mình? Mình sẽ không cho nó tham gia các buổi họp mặt. Chỉ cho nó làm thiên lôi, chỉ đâu đánh đấy. Để nó đấy cho tao. Tao sẽ kèm sát nó. Tao đích thân giám sát nó, gặp dịp thuận tiện, cho nó làm thử. Nếu nó chối từ thì dễ quá, biết liền. Để nó đó cho tao.
Xế chiều, khi biết mình được chấp thuận cho nhập băng, Sylvestro chỉ giản dị nói :
- Các anh có thể tin tôi về mọi vấn đề.
Trong thâm tâm, hắn biết Guiliano đã tha mạng cho hắn một lần nữa.
Lễ Phục Sinh, Guiliano lẻn về thăm nhà, Pisciotta phản đối việc này với lý do cớm có thể giăng bẫy. Ở Sicily, dịp lễ Phục Sinh lại thường là thời điểm chết chóc của các tay ăn cướp. Cớm cứ xoáy vào chỗ quyến luyến gia đình khiến cho bọn cướp liều mạng về thăm nhà dịp này để ra tay. Nhưng một nguồn tin cho biết Maresciallo và một nửa quân số của trại Bellampo được nghỉ phép về thăm gia đình ở lục địa vào dịp này. Guiliano quyết tâm định đem theo đủ số vệ sĩ để về thăm nhà. Hắn chuồn về hôm chiều thứ bảy tuần Lễ Thánh.
Chỉ nhắn tin cho gia đình biết trước hai ngày. Bà già hắn kín đáo chuẩn bị tiệc tùng. Đêm đó, hắn được ngủ trên chiếc giường hắn đã ngủ từ hồi nhỏ. Sáng hôm sau, hắn theo bà già đi nhà thờ. Có sáu vệ sĩ đi theo.
Lễ xong, hắn và bà già vừa bước ra đến cửa nhà thờ, thì sáu vệ sĩ cùng với Pisciotta đã đứng chờ ở đó. Mặt Pisciotta trắng bệch ra vì tức giận :
- Turi, mình bị phản rồi. Maresciallo cùng với hai chục lính đặc biệt vừa từ Palermo lộn về để bắt mày. Nhà mày đang bị vây, cũng may, tụi nó tưởng là mày đang ở trong nhà.
Thoáng một cái, Guiliano cảm thấy giận thân vì cái thói liều lĩnh ngu xuẩn của mình. Hắn thề từ này sẽ không bao giờ bất cẩn như vậy nữa. Nếu không, sẽ có ngày Maresciallo và bọn đặc vụ của lão sẽ vồ được hắn ngay tại nhà. Tất nhiên hắn và các vệ sĩ của hắn sẽ phải ra tay. Và sẽ có đụng độ đẫm máu. Và như vậy sẽ làm vẩn đục tinh thần ngày Lễ Phục Sinh. Ngày Chúa sống lại mà máu chảy, người chết thì bậy quá.
Hắn hôn từ giã bà già :
- Mẹ cứ trở về nhà tự nhiên, cớm có hỏi thì cứ nói thẳng là ừ, tôi vừa chia tay nó ở cửa nhà thờ. Như vậy, mẹ không bị tụi nó qui là đồng lõa, âm mưu gì ráo. Mẹ khỏi lo. Anh em trang bị đầy đủ. Chuồn dễ thôi. Và cũng sẽ không có đánh đấm gì đâu. Còn lâu bọn cớm mới dám đuổi theo lên núi.
Guiliano và đồng bọn rút êm. Bọn cớm không trông thấy. Đêm đó, tại sào huyệt, hắn bàn với Pisciotta. Tại sao Maresciallo biết chắc là nó về thăm nhà? Ai đã mật báo cho lão? Bằng mọi cách phải tìm ra manh mối việc này.
- Nhiệm vụ đặc biệt của mày đó, Aspanu. Và nếu đã có một đứa phản mà thoát, thì sau này sẽ có nhiều đứa khác nữa bắt chước. Lúc đó thì mệt lắm. Tao đếch cần biết mày phải mất bao nhiêu lâu và tốn bao nhiêu tiền. Nhưng, phải tìm cho ra.
Ngay từ lúc còn nhỏ, Pisciotta đã không sao ưa được thằng cha thợ hớt tóc ấy. Nói năng đểu cáng, tục tĩu. Giễu cợt rẻ tiền, vô duyên. Frisella là một trong những thợ hớt tóc chạy theo mốt. Khi thì hớt thật thấp. Khi thì hớt thượng lên đến đỉnh đầu, lúc lại “cổ điển” như mấy anh “dân ruộng”. Nào là bát dài, bát ngắn, ôi thôi đủ thứ vớ vẩn, đủ kiểu lố lắng. Chỉ thay đổi vặt vãnh như vậy mà gã cứ vênh váo tự coi mình là “nghệ sĩ” mới tức chớ. Gã ưa lối chơi trịnh thượng, chơi kiểu cha chú người ta. Đối với người bề trên gã, gã làm như ngang vai ngang vế. Đối với người bằng vai phải lứa với gã, gã giở giọng đàn anh. Đểu nhất là gã đối với mấy đứa nhỏ. Đểu và độc ác. Không hiểu sao, đối với tụi nhỏ, gã hằn học theo cái kiểu đặc biệt Sicilian mà dân lục địa thấy rất “gai”. Gã thường lấy cây kéo - cho sơ hai ngón tay - giả bộ lỡ hoặc vô tình kẹp tai mấy đứa nhỏ. Rồi cười xỏ lá. Có khi gã hớt tóc cho mấy đứa nhỏ tròn rung rủng như cái chén úp lên đầu. Có khi gọt trắng hết như trái bi-a. Bởi vậy, Pisciotta cảm thấy khoái chí một cách tàn nhẫn khi cho Guiliano biết tên thợ hớt tóc Firsella làm chỉ điểm cho cớm và phạm luật Omerta. Rõ ràng hôm lễ Phục Sinh, Maresciallo đã hoạt động theo tin tình báo chính xác, không “sục” bậy. Lão đâu có điều gì mà bỏ dịp nghỉ lễ, dẫn hai chục lính từ Palermo về Montelepre đúng ngày đó. Nhưng, tại sao lão lại biết được tin đó. Guiliano chỉ cho gia đình nó biết trước có hai mươi bốn tiếng đồng hồ thôi kia mà.
Pisciotta dùng mật báo viên của mình trong thị xã để kiểm tra lại từng bước của Maresciallo trong hai mươi bốn giờ trước khi lão đi Palermo. Lão đã đi những đâu, làm gì, gặp ai?... Chỉ có ông bà già của Guiliano biết con mình sẽ về nhà vào ngày giờ đó. Bởi vậy, Pisciotta hỏi thật kỹ lưỡng xem trong thời gian đó, có thể họ vô tình làm lộ tin đó ra. Bà mẹ của Guiliano cố moi móc trí nhớ xem mình đã làm gì, nói gì, với ai :
- Dì không hề nói với ai. Ngay cả hàng xóm. Dì ở lì trong nhà lo nấu nướng đặng thằng Turi về ăn mừng lễ.
Nhưng bữa sáng hôm ông con trai về thì ông bố của Guiliano đã đến tiệm hớt tóc của Frisella. Tánh ông già này cũng đoảng vị lắm. Phù phiếm, nông nổi, ưa khoe khoang, ruột để ngoài da, phổi bò. Nhân dịp hiếm có, ông con trai về thăm nhà, nên lão cũng muốn sửa sang râu tóc cho thêm phần long trọng, thằng nhỏ trông thấy đỡ tủi. Frisella vừa hớt tóc, cạo râu cho lão, vừa nửa đùa nửa thật, giễu giễu như thường lệ :
- Có lẽ bữa nay “ông lớn” đi Palermo thăm “bà nhỏ”? Hay là bữa nay “ông lớn” sửa sang sắc đẹp để đón tiếp “ông bự” từ Rome về chơi. Thằng Frisella này rất lấy làm hân hạnh được góp phần “trang trí” cho ông lớn đặng ra mắt “Quốc vương” sắp vinh qui bái tổ.
Pisciotta hình dung ra cảnh ông già nghe nói thế, tuy không nói gì, nhưng tủm tỉm cười coi bộ khoái chí. Thằng cha thợ hớt tóc cứ thì thào bên tai lão :
- Bữa này nom lão gia phởn quá, chẳng khác gì một nhà quí phái cỡ bự, thứ chính hiệu “máu xanh”, có gốc, có củ đàng hoàng.
Frisella nói rồi làm bộ cười vô tội. Ông già của Guiliano sướng phổng mũi khi con lão nổi tiếng đến nỗi được dân thị trấn gọi là “Quốc vương Montelepre”. Hoặc giả, Frisella nghe phong thanh cái tin Guiliano về, nhưng chưa chắc chắn, nay thấy lão già hớt tóc, mặt mũi coi bộ mãn nguyện, phối hợp hai cái đó thì thấy ngay.
Mỗi ngày Maresciallo đều tạt qua tiệm hớt tóc của Frisella để cạo mặt. Hầu như giữa lão và Frisella không trò chuyện gì nhiều để có thể nói là họ báo tin cho nhau. Nhưng Pisciotta tin là có. Y cho mấy tay do thám lê lết suốt ngày ở tiệm hớt tóc. Lúc tán dóc, lúc đánh bài với Frisella ở cái bàn kê phía ngoài chỗ hớt tóc. Họ nhậu nhẹt, tán phét chính trị, và ới lên mỗi khi có bạn thân đi ngang.
Suốt tuần lễ như vậy, các tay do thám thâu lượm thêm được một số tin tức. Nếu không tán hươu tán vượn với khách hàng, thì Frisella cũng huýt sáo miệng theo điệu của một bài hát mà gã rất khoái. Hoặc gã sẽ vặn thật lớn cái ra - đi - ô của gã. Nhất là khi có Maresciallo tới. Trong khi ra - đi - ô đang nói, đang hát lớn, thì gã ghé sát tai Maresciallo để “báo cáo tin tức”. Nếu không để ý thì chỉ thấy gã thì thầm trò chuyện cũng như thì thầm trò chuyện với khách hàng khác. Nhưng một trong những tay do thám của Pisciotta đã vớ được cuốn sổ tay Maresciallo ghi trả tiền công “cạo mặt” cho gã. Họ để ý thấy Maresciallo ghi xong, Frisella cất kỹ vào túi áo trong của áo vét, bên ngoài lại mặc áo blu trắng. Khi các tay do thám vặn hỏi và đòi gã cho coi cuốn sổ ấy, họ đã thấy con số ghi lên đến mười ngàn lire. Tên thợ hớt tóc thề sống thề chết rằng đó là tiền công gã cạo râu hớt tóc cho Maresciallo trong mấy tháng trời. Các tay do thám làm bộ tin lời gã nói.
Pisciotta đưa ra những bằng chứng hiển nhiên cho Guiliano và cho cả Pasatempo, Terranova và cả Canio Sylvestro lúc đó cũng có mặt. Xem bằng chứng xong, Guiliano ra đứng ở mỏm đá nhìn xuống thị xã Motelepre.
Frisella - thợ hớt tóc là một phần của cái làm nên thị trấn Montelepre. Guiliano biết gã từ lâu. Hồi nhỏ, khi đến hớt tóc để lĩnh phép bí tích “Kiền thành”, Guiliano còn nhớ nó đã được gã tặng cho một đồng tiền mạ bạc để làm kỷ niệm. Hắn cũng quen biết cả vợ con gã. Mỗi khi đi ngang, trông thấy hắn, gã đều lớn tiếng gọi và hỏi thăm ông bà già hắn.
Bây giờ, Frisella phạm luật Omerta. Gã đã bán bí mật cho kể thù. Gã làm chỉ điểm có ăn lương của cớm. Tại sao gã lại ngu muội đến thế? Guiliano phải đối xử với gã ra sao đây? Giết một thằng cớm tại chiến trường là một việc. Lạnh lùng xử tử một người vào hàng cha chú mình và chính mình cũng quen biết lại là chuyện khác. Turi mới chỉ là hai mươi mốt. Đây là lần đầu tiên hắn phải quyết định một sự thanh toán độc ác, lạnh lùng, nhưng cần thiết. Để giải quyết hậu hoạn có tầm mức hết sức quan trọng và rộng lớn. Luật Omerta.
Nó quay trở vào họp với mấy người kia.
- Frisella biết rõ tao từ hồi tao còn nhỏ xíu. Hắn thường cho tao nước chanh đá. Mày nhớ không, Aspanu? Có thể là hắn chỉ bép xép mách lẻo. Không phải là làm chỉ điểm ăn tiền. Giá như có người - ông bà già tao chẳng hạn, nói rõ tao về ngày đó ngày đó, rồi hắn đến tâu với bọn cớm thì nó đi một lẽ. Có thể hắn mới chỉ đặt giả thuyết và bọn cớm thưởng nó. Có ai đồng ý vậy không?
Passatempo nhướn đôi mày him híp, ti hí của gã lên, nhìn Guiliano như thể con sói lang nhìn sát con sư tử xem có an toàn khi nhào vô cắn xé cái xác ấy.
Terranova nhè nhẹ lắc đầu mỉm cười như thể hắn đang nghe con nít kể chuyện thần tiên. Chỉ có Pisciotta nói thẳng thừng.
- Đ.m, hắn có tội rõ ràng. Cũng như thầy tu đi chơi ** vậy!
- Mình có thể cảnh cáo hắn. - Guiliano nói - Mình có thể kéo hắn về phía mình. Dùng hắn để tung tin giả cho bọn cớm?
Ngay lúc nói như vậy, hắn đã biết là đã trật búa rồi. Không thể nào tỏ thiện chí được nữa. Pisciotta tức giận nói :
- Sao không tặng quà cho hắn luôn thể. Một bao lúa và một chục con gà? Turi, sự sống của mày cũng như sự sống của tụi tao tùy thuộc và sự can đảm, ý chí của mày, sự phán đoán của mày, sự lãnh đạo của mày. Làm sao tao dám theo mày nữa khi một thằng phản bội như Frisella mà mày cũng tha thứ?
Một thằng phạm luật Omerta! Nếu là bọn “Người anh em”, chúng chẳng cần đến bằng chứng như mình đâu, chúng đã moi gan, móc ruột thằng đó phơi lên sào coi chơi rồi. Nếu mày cứ để nó sống thì tất cả những thằng phản bội khác sẽ nghĩ: “Bán tin, phản bội một lần thì chưa bị trừng phạt”, mà có khi chỉ “một lần” là mình đã “tắt bóng” rồi.
- Frisella là một thằng hề ngu xuẩn. - Terra nói - Một thằng phản bội, lừa bịp và tham lam. Lúc bình thường, nó làm hại một làng. Nhưng, bây giờ hắn trở nên rất nguy hiểm rồi. Tha thứ cho hắn là một sự liều lĩnh, không khôn ngoan và nguy hiểm. Hắn không đủ thông minh để cải tà qui chính đâu. Có thể hắn nghĩ bọn mình không phải những người đàng hoàng, chín chắn. Và như vậy, những đứa khác cũng sẽ bắt chước. Turi anh phải dứt điểm với bọn “Người anh em” đi, ít nhất là ở Montelepre này. Thằng cha Quintana - người của tụi nó - hoạt động rất cẩn thận, mặc dù hắn nói năng này nọ, không thân trọng, không khôn ngoan. Nếu anh không trừng trị Frisella, hoặc trừng trị bằng cách khác hơn là cái chết thì bọn “Người anh em” sẽ nghĩ là anh yếu. Chúng sẽ lấn mình. Chúng sẽ nắm gân mình mạnh hơn nữa. Bọn cớm sẽ trở nên táo bạo hơn, ít sợ hơn. Và do đó, trở nên nguy hiểm hơn. Thậm chí, có thể ngay cả dân thị trấn này cũng sẽ nghĩ không hay về anh. Do đó, không thể để Frisella sống!
Y nói câu cuối cùng này như thể có vẻ hối tiếc. Guiliano dáng tư lự và khẽ lẩm bẩm: “Có lý”. Hắn đọc được ý nghĩ của Passatempo qua cái nhìn của gã. Hắn hiểu được tâm tư của người khác. Passatempo sẽ không còn có thể tin cậy được nữa nếu Frisella được để cho sống. Không thể trở lại cái thời các hiệp sĩ của Charlemagne. Không thể đường đường chính chính và quân tử với bọn địch thủ tối nguy hiểm chúng dùng bất cứ thủ đoạn nào. Bất cứ lúc nào để chơi cho mình tiêu luôn mới nghe. Phải xử tử thằng Frisella, nhưng nếu đã thế thì phải xử tử thế nào để gây ra sự kinh khiếp nhất, dữ dội nhất cho các đối thủ.
Guiliano đã có ý định. Nó quay ra hỏi Syvestro.
- Anh nghĩ sao? Chắc chắn Maresciallo đã nói với anh về các chỉ điểm viên của lão ta. Vậy thì thằng thợ hớt tóc có đáng chết không?
Canio Sylvestro ậm à không nói. Mặt lạnh như tiền. Mấy người kia đều hiểu ngay lý do gã không nói. Không phản bội người trước kia đã tin cậy mình. Đó là vấn đề danhd ự. Và cũng không muốn nói dối. Như vậy, sự im lặng của gã là gián tiếp xác nhận thằng thợ hớt tóc là có tội làm lính kín cho Maresciallo. Tuy nhiên, Guiliano vẫn muốn tìm cho bằng được sự chân xác, chắc chắn. Hắn mỉm cười quay sang Sylvestro :
- Bây giờ là lúc anh có thể chứng tỏ lòng trung thực với tụi này. Ta sẽ cùng đi về Montelepre. Và chính tay anh sẽ xử tử thằng thợ hớt tóc ngay tại quảng trường thị trấn.
Aspanu kinh ngạc trước sự sâu hiểm của thằng bạn mình. Guiliano luôn luôn làm cho nó ngạc nhiên. Hành động mã thượng, nhưng vẫn luôn dăng được những cái bẫy tinh tế, khéo léo, chắc ăn không thua gì Iago [1]. Qua vụ Frisella, nó sẽ biết bụng dạ thầy cai. Có đáng tin cậy, có biết chơi đẹp hay không? Biết chắc chắn thằng thợ hớt tóc có tội, mà đồng thời Sylvestro vẫn bảo toàn được danh dự, không phản bội người đã tin cậy mình. Nếu gã không nắm chắc Frisella có tội, gã sẽ không khi nào xử tử, dù hậu quả ra sao. Nhưng khi gã chịu tự tay xử tử thằng kia thì mọi sự đã rõ ràng. Pisciotta thấy môi Guiliano hình như phác một nụ cười. Nếu thầy cai không chịu xử tử thằng thợ hớt tóc, thì hắn có bằng chứng chắc chắn để coi Frisella là vô tội. Và do đó hắn sẽ tha chết cho bọn kia.
Bộ ria mép nháy nháy, thầy cai nhìn mấy đứa kia :
- Thằng Frisella hớt tóc ngu thấy bà. Chỉ chừng đó cũng đáng chết rồi. Tôi sẵn sàng thi hành án tử nó ngay ngày mai.
Lúc rạng đông, Guiliano, Pisciotta và ông “cựu” hạ sĩ cớm Sylvestro kéo nhau xuống Montelepre. Trước đó khoảng một giờ, Passatempo đã kéo bộ hạ của hắn đi “nằm đường” chặn lối vào thị trấn và các ngã rẽ vào quảng trường. Terranova thủ trại, đồng thời chuẩn bị một toán tiếp viện nếu trong thị trấn bị trục trặc lớn. Guiliano và Pisciotta vào đến quảng trường thị xã thì trời hãy còn sớm. Đường phố trải sỏi và chật hẹp ướt đẫm sương đêm. Một vài đứa trẻ đã chơi đùa trên sân khấu, chỗ con la và con lừa “gieo nọc” trước ngày định mệnh ấy. Guiliano bảo Sylvestro đuổi mấy đứa trẻ đi chỗ khác chơi, để chúng khỏi nhìn thấy những gì sắp diễn ra. Sylvestro làm bộ mặt “ba bị”, mấy đứa trẻ sợ hãi chạy tán loạn như bầy gà con. Thằng thợ hớt tóc cứ tưởng chúng “mời” lão điền chủ. Hắn cởi tấm vải trắng choàng trên người lão điền chủ, miệng cười mỉm, xảo quyệt như thể hắn muốn tặng cho chúng một món quà. Lão điền chủ, một nông dân Sicilia đã già. Lão đã làm giàu trong thời kỳ chiến tranh nhờ chợ đen, chợ đỏ khoản lương thực của quân đội Mỹ. Lão hiên ngang đứng dậy. Nhưng, Pisciotta đã ra hiệu cho lão đứng dẹp ra một bên. Nó nhăn răng ra cười, rồi nói :
- Lão không đủ tiền để làm khách mời của tụi này đâu. Nhưng, với tụi này thì lão khỏi lo.
Guiliano hết sức cảnh giác và nhìn chòng chọc vào tên thợ hớt tóc, tay gã vẫn cầm cây kéo.
- Để kéo xuống đi. Tụi này mời ông đến một nơi, ở đó ông khỏi phải làm nghề hớt tóc nữa. Thôi, nào ta đi.
Frisella đặt cây kéo xuống bàn. Cái mặt hề của gã bỗng nhăn nhúm, vì cố nặn ra một nụ cười mà không được.
- Turi, sáng sớm, vừa mở cửa tiệm thì làm gì đã có tiền. Tôi là một người nghèo.
Pisciotta nắm lấy mớ tóc gã, lôi ra khỏi tiệm và đẩy đi ra phía quảng trường, nơi Sylvestro đang đứng đợi. Frisella cảm thấy đầu gối muốm sụm xuống. Gã bắt đầu kêu la :
- Turi, Turi, tôi hớt tóc cho anh từ lúc anh còn bé, anh không nhớ sao? Vợ tôi sẽ chết đói, con tôi đang bị bệnh đau đầu... Trời ơi!
Pisciotta thấy Guiliano có vẻ mủi lòng, nao núng. Y đá tên thợ hớt tóc và nói :
- Lúc đi báo tin cho bọn cớm, sao mày không nhớ đến vợ, con?
- Không bao giờ tôi cho Maresciallo tin tức về Guiliano. Chỉ có báo tin về mấy thằng ăn trộm cừu. Tin vặt ấy mà. Tôi xin thề trên đầu vợ con tôi.
Guiliano nhìn xuống đất. Hắn cảm thấy như tan nát cả cõi lòng. Cái mà suýt nữa hắn làm có thể sẽ hủy diệt cuộc đời hắn, nhưng hắn đã kịp nói một cách dịu dàng :
- Ông có một phút để ăn năn tội và làm lành cùng Chúa.
Nhìn vào ba người đang đứng vây quanh, Frisella chẳng thấy một tên nào động lòng trắc ẩn. Gã cúi đầu xuống thì thầm cầu nguyện. Rồi, ngẩng đầu lên, gã nói với Guiliano :
- Đừng để vợ con tôi chết đói.
- Tôi hứa sẽ không để họ phải chết đói.
Guiliano quay sang phía Sylvestro, ra lệnh :
- Phơ đi!
Thầy cai nhìn cảnh ấy, lòng thấy bàng hoàng. Nhưng, gã đã lảy cò. Viên đạn hất ngược, thằng thợ hớt tóc nảy tung lên, rồi té nằm sóng soài ra mặt đường đá. Giẫy giụa một hồi. Máu hòa với nước đọng trên vũng. Từ trong các kẽ đá, mấy con tắc kè nhỏ bò ra liếm máu. Quảng trường lặng như tờ. Pisciotta quì xuống cạnh xác Frisella lúc này xuội lơ và ghim lên ngực hắn mảnh giấy.
Khi tới nơi, Marescialo thấy vẫn y nguyên như vậy. Hỏi người bán tiệm, lão nói lão chẳng thấy gì. Lúc đó lão đang ở đằng sau nhà. Hoặc người ta đang nhìn đám mấy trên núi. Khách hàng của Frisella thì khai lúc mấy người vào bắt Frisella, thì lão đang gục mặt vào thau nước nên không nhìn thấy mặt những tên sát nhân. Dù vậy, lão vẫn bị buộc tội. Mảnh giấy ghim trên ngực Frisella ghi hàng chữ: “Kẻ nào phản bội Guiliano cũng sẽ bị chết như thế này”.
[1] Iago: nhân vật trong vở kịch Othello của Shakespeare, một tay giết người rất tàn bạo, rất đa nghi, có lối giễu cợt, “bẫy” người khác một cách thâm độc (N.D)
Chiến tranh thế giới thứ hai vừa chấm dứt. Những cuộc chiến của Guiliano mới bắt đầu. Chỉ trong hai năm, Guiliano đã trở thành một người nổi tiếng nhất Sicily. Hắn đã tạo dựng được một giang sơn ở góc phía tây bắc hòn đảo. Trung tâm của giang sơn này là Montelepre. Hắn kiểm soát các thị trấn Piano Dei Greci, Borgetto, Partinico và thị trấn Corleone khét tiếng khát máu. Cái tăm tiếng tàn bạo man rợ của thị dân Corleone đã lan rộng khắp Sicily. Cánh tay quyền lực của hắn vươn tơi tận Trapani, hăm dọa Morneale. Và ngay cả thành phố Palermo, thủ phủ của đảo cũng bị cái bóng của hắn chờn vờn che phủ, và thế lực của hắn ngày một bành trướng, lan dần ra các đô thị khác. Guiliano cười ngất khi hay tin chính quyền trung ương ở Rome đã treo giải thưởng mười triệu đồng lire cho ai chặt được đầu hắn. Cái án tử hình treo lơ lửng trên đầu cũng không cản được hắn đến dùng cơm tại một nhà hàng lớn ở Palermo. Để giỡn mặt nhà cầm quyền, cuối bữa ăn, hắn thường dằn dứơi cái đĩa mảnh giấy ghi dòng chữ “Chẳng ai có thể ngăn cản Turi Guiliano đến nơi nó muốn”. Cái trò oái oăm mó *** ngựa này đã làm cho chính quyền Rome tức điên lên.
Sào huyệt bất khả xâm phạm của Guiliano là dãy núi Cammarata. Guiliano biết rõ từng cái hang, từng hẻm núi, từng đường mòn dãy núi này. Hắn cảm thấy mình là tay vô địch. Hắn yêu quang cảnh thị xã Montelepre phía dưới chân núi, yêu bình nguyên Partinico trải dài qua Trapani tới tận Địa Trung Hải. Trùng dương mênh mông lấp lánh dưới bầu trời xanh, trong vắt. Phế tích của những ngôi đền thờ Hy Lạp, những cụm rừng cam, những vườn ôliu, những cánh đồng lúa miền tây Sicily. Tất cả, đối với Guiliano, đều đẹp đến ngây ngất. Càng xúc động trước vẻ đẹp ấy, hắn càng cảm thấy dạt dào tình yêu đối với Sicily. Qua ống nhòm, Guiliano nhìn thấy những miếu thờ rải rác bên lề đường. Trong miếu thờ, những bức tượng bụi bám đầy.
Từ dãy núi này, cùng với các thủ hạ, Guiliano rong ruổi trên những quốc lộ, chặn cướp những đoàn xe của nhà nước, chặn cướp cả xe lửa, tước đoạt nữ trang, của cải của những nhà giàu. Nông dân đánh những chiếc xe lừa sơn sặc sỡ, lòe loẹt đã thân ái đưa tay vẫy chào mỗi khi gặp hắn. Nói cho đúng, lúc đầu, họ cũng ớn thấy mồ. Nhưng về sau họ kính nể và quý mến. Không một nông dân, một người chăn cừu, một công nhân nào lại không nhận được một phần của cải hắn đã cướp được.
Toàn dân nghèo trong vùng là mật báo viên, chỉ điểm viên của hắn. Đêm đêm, trẻ nít đã thêm vào lời kinh cầu Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary câu “Xin gìn giữ Guiliano khỏi tay bọn cớm”.
Chính đồng quê đã nuôi dưỡng, chở che Guiliano và đồng bọn. Vườn cam, vườn ôliu, vườn nho là chốn dung thân. Bầy cừu cũng là đồng minh. Từng nơi, từng lúc, Guiliano thoắt biến, thoắt hiện, bất ngờ và đột ngột như bóng ma, thoắt một cái như đã tan biến trong màu xanh ngắt của Sicily, của Địa Trung Hải và của bầu trời.
Trên núi, mùa đông kéo dài và lạnh hơn dưới đồng bằng. Ấy vậy mà băng của Guiliano ngày một tăng quân số. Đêm đêm, những đốm lửa bập bùng rải rác trên khắp sườn núi và thung lũng của dãy núi Cammarata. Dưới ánh lửa ấy, đám tay em của Guiliano sửa chữa vũ, khí, may vá hoặc giặt giũ quần áo ở các khe suối. Sửa soạn bữa ăn chiều đôi khi cũng tạo ra những cuộc tranh luận sôi nổi và hào hứng. Cũng chỉ là mực và lươn, nhưng mỗi làng ở Sicily có một cách nấu. Họ không làm nước sốt như nhau, mà cách nướng dồi cũng không giống nhau. Kẻ ưa giết người bằng dao thì làm công việc giặt giũ. Người chuyên đi bắt cóc đòi tiền chuộc thì làm việc lặt vặt. Đứa chuyên đánh cướp nhà băng và xe lửa thì ngồi lau chùi vũ khí. Một “xã hội” khá phức tạp.
Guiliano bảo họ đào giao thông hào, dựng chướng ngại vật, đặt các chốt tiền thám đề phòng bị quân chính phủ đột kích. Một hôm, tóan đào giao thông hào đã đào được bộ xương của một con thú lớn, lớn hơn mọi con thú mà họ có thể tưởng tượng được. Hôm đó, giáo sư Adonis mang sách đến cho Guiliano, nó muốn biết về tất cả mọi sự trên đời. Từ khoa học đến chính trị. Từ y học cho đến triết học. Cả kỹ thuật quân dụng và cả về tham mưu quân sự. Cứ vài tuần, giáo sư Adonis lại đem đến cho nó cả bao sách đầy. Turi đưa ông lại chỗ bộ xương đã đào được. Nhìn sự bối rối của nó, ông mỉm cười :
- Thầy đã đem đến cho con cả sách về lịch sử nữa kia mà? Một người không hiểu lịch sử của loài người từ hai ngàn năm trở lại đây là người sống trong bóng tối.
Ông ngừng nói một chút. Giọng nói dịu dàng của Adonis đúng là giọng giáo sư giảng bài.
- Đây là bộ xương của một cái “xe tăng” do Hannibal thành Carthage dùng cách nay hai ngàn năm để vượt qua rặng núi này đặng tấn công tiêu diệt đạo binh La Mã. Đó là xương của voi chiến mà dân lục địa chưa thấy bao giờ. Lần đầu tiên nhìn thấy những con vật khổng lồ ấy, lính La Mã hết hồn, chạy vắt chân lên cổ. Nhưng, những “chiến cơ” này cũng chẳng giúp cho Hannibal là bao. La Mã vẫn thắng ông ta. Và thành Carthage của ông vẫn bị La Mã san thành bình địa. Dạy núi này có nhiều ma lắm đấy. Con mới chỉ nhìn thấy có một con mà thôi. Suy nghĩ đi, Turi, biết đâu một ngày nào đó con cũng là một con ma của dãy núi này.
Guiliano đã trằn trọc suy nghĩ suốt đêm đó. Hắn thích thú với ý nghĩ một ngày nào đó được trở thành một trong những bóng ma lịch sử. Nếu có bị giết thì hắn muốn bị giết tại chính dãy núi này. Hắn còn tưởng tượng một cách ngộ nghĩnh là nếu bị thương nặng, hắn sẽ chui vào một trong hàng ngàn cái hang trong núi này để chết. Sẽ không có ai tìm thấy xác hắn. Cho đến khi tình cờ, một người nào đó tìm ra, như đã tình cờ tìm thấy bộ xương con voi của Hannibal.
Mùa đông, Guiliano và các thủ hạ thay đổi sào huyệt nhiều lần. Chúng phân tán mỏng và khi thì một nhóm ngủ tại nhà một người quen, một cái chòi của người chăn cừu hoặc một cái kho của một quí tộc nào đó bỏ trống. Guiliano đã dành hết mùa đông để đọc sách và nghiền ngẫm, sắp đặt kế hoạch. Hắn bàn luận nhiều lần và lâu với giáo sư Adonis.
Đầu xuân, Guiliano và Pisciotta lên đường đi Trapani. Trên đường, lần đầu tiên, hắn trông thấy ở một chiếc xe lửa một bức tranh kiểu mới vẽ theo huyền thoại về Guiliano. Bức tranh màu sặc sỡ vẽ hắn đang đứng cúi đầu cung kính một cách giễu cợt trước một công tước phu nhân. Tay hắn đeo chiếc cà rá vừa lấy được từ tay bà. Đứng sau hắn là Pisciotta, tay cầm súng máy, đang trấn áp lũ cớm đứng co dúm lại vì sợ.
Cũng từ ngày đó, chúng mang khóa dây thắt lưng bằng vàng. Trên khóa đó có hình nổi con chim phượng hoàng có đầu người và hình một người có đầu sư tử. Hai con quay vào nhau. Ở giữa là hoa văn, chính “thầy cai” Canio Sylvestro đã làm hai cái khóa thắt lưng này. Và nó trở thành biểu tượng cho quyền chỉ huy của “băng”. Guiliano luôn luôn mang. Vì thường phải ngụy trang khi đi xuống các thị trấn, nên Pisciotta ít khi mang khóa này trừ khi nào đi cùng với Guiliano.
Ban đêm, trên núi, lúc tháo dây lưng ra, Guiliano thường ngắm chiếc khóa này. Hình hoa văn giữa sư tử và phượng hoàng làm cho người ta có cảm tưởng hai con vật này đang xoay cái bánh xe tượng trưng cho lịch sử. Con vật mình người đầu sư tử đã đặc biệt hấp dẫn hắn. Con phượng hoàng là vua các loài chim bay trên trời cao đồng thời cũng là vua các loài vật trên mặt đất. Guiliano tự ví mình là phượng hoàng và Pisciotta là sư tử. Hoa văn ở giữa vừa là đảo Sicily vừa là lịch sử.
Từ bao thế kỷ trước, ở Sicily, bắt cóc nhà giàu để đòi tiền chuộc là một “nghề” ở vùng nông thôn. Những tay bắt cóc thường phải là những Mafioso táo tợn và mưu lược nhất mới dám chơi. Và chơi rất điệu nghệ. Gửi thư báo trước cho nạn nhân. Lời lẽ bức thư rất lịch thiệp và tránh những chi tiết về số tiền chuộc mà nạn nhân phải trả. Cũng giống như nhà buôn sỉ giảm giá cho các khách hàng trả tiền mặt, tiền chuộc, tùy trường hợp, có thể được giảm đáng kể. Bởi vậy những chi tiết rắc rối - như trong những cuộc bắt cóc ngày nay - đã không được nói rõ trước trong bức thư thông báo. Trên thực tế bắt cóc một nhân vật có tiếng tăm không phải dễ dàng như người ta tưởng. Đó không phải là việc mà nhưng tay ấm ớ, nghiệp dư, những tên tham lam ngu xuẩn hoặc bọn vô lại, cà chớn có thể làm được. Mặc dù đó không phải là việc quá liều lĩnh, nguy hiểm đến mức hầu như là hành động tự sát ở nước Mỹ ngày nay. Ở Sicily, không bao giờ có trường hợp bắt cóc con nít [1] - như thường xảy ra ở Mỹ - hoặc nếu có thì bắt cóc luôn cả người vú nuôi hoặc người hàng ngày chăm sóc cho đứa trẻ đó. Thiên hạ thối mồm gán cho dân Sicilian đủ thứ thói hư tật xấu và tội ác. Nào, bẩm sinh đã là trọng phạm. Nào, giết người lạnh lùng, tàn bạo và đầy hào hứng như đàn bà đi hái hoa. Nào, tráo trở, lật lọng, lừa bịp, phản trắc. Nào, man di mọi rợ mới hình thành xã hội được khoảng ba thế kỷ nay... Ôi thôi, đủ thứ. Nhưng muốn nói sao thì nói, có một điều không thể chối cãi được là người Sicilian - tất nhiên, phải kể thứ chính gốc - rất yêu con nít. Nói đúng ra là họ tôn thờ con nít. Bắt cóc kiểu Sicilian cũng rất độc đáo và mã thượng. Các nhà giàu có được “mời” đến làm “thượng khách” của họ. Có điều là các vị khách chỉ được ra về, sau khi đã thanh tóan “tiền phòng và tiền hầu hạ”. Cũng như ở khách sạn vậy.
Qua nhiều thế kỷ, “nghề” này đã hình thành được vài qui lệ, tập tục. Giá tiền chuộc có thể được “mặc cả” qua trung gian, thường là qua tổ chức Mafia. Không có chuyện dùng nhục hình để khảo của, nếu vị “khách” chịu “hợp tác”. Hơn thế nữa, khách được trọng đãi đúng hay là hơn so với địa vị xã hội của mình. Cũng như khách sạn Hilton ba, bốn, năm sao, các vị khách cũng được đối xử tùy theo địa vị xã hội: hoàng thân, công tước, tiểu quí tộc... Nếu có tay chơi nào coi cái linh hồn của mình là thứ đồ bỏ, hoặc coi trọng đấy nhưng chịu chơi, dám thí linh hồn của mình, thì tay đó dám túm cả áo Hồng y, Tổng giám mục. Cứ như vậy, thì về thực chất nhiều tay bắt cóc có thể còn đáng kính hơn những vị dân biểu, thượng nghị sĩ vẫn thường trưng trước tên của mình những mỹ từ hợm hĩnh phách lối như “Ngài đáng kính” (The Honorable) mà thực chất chỉ là giòi bọ đầu thai làm những tên cướp ngày.
Bắt cóc là một “nghề” đòi hỏi phải khôn ngoan, có bản lãnh. Lịch sử còn lưu lại nhiều gương trả đũa kinh khủng của người bị bắt cóc. Một vị “khách” được trả về sau khi phải nộp món tiền khổng lồ sẽ ít khi vì tiếc của mà nghĩ đến chuyện trả thù, nếu phẩm giá của ông ta được bảo toàn và tôn trọng. Điển hình là câu chuyện một vị đại công tước, vì phải tuân thủ luật pháp, sau khi được thả về, đã dẫn cảnh sát đến sào huyệt của bọn bắt cóc. Nhưng, khi bọn cướp bị bắt, thì chính ông ta trả tiền mướn thầy cãi cho bọn cướp. Khi bọn cướp bị kết án, thì chính ông ta dùng thế lực và uy tín cá nhân để can thiệp, xin giảm án. Bởi vì, trong thời gian bị làm khách mời, ông ta đã được đối đãi đúng điệu, đúng nghi thức. Nghĩa là cực kỳ lịch thiệp và lễ độ. Đến nỗi ông ta tuyên bố là ngay trong giới thượng lưu ông ta cũng không được đối đãi lịch sự đến như vậy.
Ngược lại, nếu “khách” bị đối xử tàn tệ thì khi được thả, ông ta sẵn lòng dốc hết tài sản còn lại để săn đuổi bọn cướp, trả thù cho bằng được mới hả dạ.
Đúng týp Sicilian! Chỉ ở Sicilian mới có kiểu “chơi” này.
Nếu mọi sự diễn ra đúng qui lệ, cả hai bên đều “biết điều” và lịch thiệp với nhau thì tiền chuộc sẽ được mặc cả, cho đến khi đôi bên thỏa thuận. Những người giàu có ở Sicily coi tiền chuộc này như một thứ thuế thân “đen” mà họ phải đóng cho chính quyền “đen” để có thể sống trên mảnh đất mà họ yêu mến. Vả lại, khi đóng thuế chính thức, họ sẽ tìm cách né, hoặc lươn lẹo để bù lại. Về mặt tinh thần, họ coi đó như một thứ “Thánh giá mà Chúa bắt họ phải vác để thử thách trên đường theo chân Chúa”.
Đối với những ai bần tiện một cách ngu xuẩn, hoặc ương ngạnh không chịu nộp tiền chuộc, hoặc cù cưa kéo dài thời gian mặc cả, thì sẽ có biện pháp cưỡng bách nhẹ nhàng. Chẳng hạn, một đốt ngón tay, một cái tai... Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã đủ để các vị khách “tỉnh người” ra rồi. Ngoại trừ những trường hợp hết sức xấu - một ngoại lệ rất hiếm - “khách” sẽ bị chặt ra từng mảnh. Hoặc theo kiểu rất xưa thì thân thể của khách bị rạch nhiều hình thánh giá. Sau đó được gởi cho gia đình.
Nhưng việc “mời” khách trong mọi trường hợp không chỉ là một công việc đòi hỏi khôn ngoan và bản lãnh, mà cả sự nỗ lực gian khổ và phải hết sức cẩn thận. Khách phải được theo dõi một thời gian, để có thể “chộp” được mà không cần dùng đến bạo lực. Hoặc nếu có thì cũng chỉ ở mức tối thiểu. Và trước đó “chủ nhân” - tức là bọn bắt cóc - đã phải chuẩn bị sẵn năm hay sáu “khách sạn” khác nhau và có đủ tiện nghi cần thiết và xứng đáng với địa vị của khách. Ngoài ra phải có người canh gác và hầu hạ. Bởi vì trong thời gian thương lượng, nhà cầm quyền có thể lùng kiếm nạn nhân.
Bởi vậy, bắt cóc đâu phải chuyện ngon xơi mà bọn ấm ớ, cà chớn tưởng bở. Nhào vô ẩu, vỡ mặt là cái chắc.
Khi quyết định làm ăn theo lối bắt cóc, Guiliano cũng quyết định chỉ mời những vị khách “sộp” nhất Sicily. Thật ra, vị khách mở hàng của hắn không những giàu nhất, mà còn là một đại quí tộc thế lực nhất Sicily. Hoàng thân Ollorto không những là chủ cái lãnh địa rộng lớn nhất, màu mỡ nhất Sicily, mà còn là chủ nhân của một lãnh địa lớn “hầu như một đế quốc” ở Brazil. Ngài là chủ đất của hầu hết dân Sicilian. Về phương diện chính trị ngài là người có thế lực rất lớn trong hậu trường chính trị ở Rome, bộ trưởng bộ tư pháp tỏng chính phủ đương nhiệm là bạn thân của ngài. Cựu quốc vương Umberto đệ nhị là bố đỡ đầu đứa con trai ngài. Ông Trùm Croce là “tổng quản lý” lãnh địa của ngài. Đó là chưa kể khoản “thuê bao” mà ngài trả cho Ông Trùm để Ông Trùm đảm bảo an ninh cho bản thân ngài, thân quyến và các nữ trang quí giá của ngài. Kể luôn cả gia súc của ngài, đứa nào dám to gan dám vuốt râu Ông Trùm thì hãy mó máy. Nếu không thì đừng dại.
Sống an nhàn trong lâu đài có tường thành cao bao quanh, thêm một hàng rào người gồm toàn thủ hạ của Ông Trùm ngày đêm canh gác cẩn mật, ngoài ra còn vệ sĩ cận vệ túc trực sát bên, hoàng thân Ollorto đang sửa soạn cho một buổi chiều êm ả và thú vị bằng cách ngắm các tinh tú trên bầu trời qua chiếc kính thiên văn mà ngài quí hơn bất cứ thứ gì trên đời này. Bỗng có tiếng bước chân dồn dập của nhiều người đang bước trên cầu thang cuốn dẫn lên đài quan sát thiên văn của ngài. Cánh cửa mở bật ra. Bốn tên, bịt mặt sơ sài, tay xách tiểu liên, bước vào. Hoàng thân, tay ôm chặt lấy kính thiên văn đang hướng về một vì sao, quay mặt nhìn họ. Thấy cái mặt Terranova, ngài đã thầm nguyện ơn trên che chở. Nhưng, Terranova đã kính cẩn thưa :
- Kính bẩm đại công tước, tôi được lệnh mời ngài lên núi nghỉ mát ít ngày với Turi Guiliano. Chúng tôi đã chuẩn bị nơi ăn chốn nghỉ cho ngài theo đúng qui lệ. Tất nhiên là chúng tôi không thể chăm sóc ngài như chăm sóc trẻ sơ sinh được.
Ngài đại công tước cố giấu sự sợ hãi. Ngài hơi cúi đầu, trầm ngâm và hỏi :
- Ta đem theo ít thuốc men và quần áo, được chứ?
- Chúng tôi sẽ mang lên hầu ngài sau. Điều chủ yếu bây giờ là xin ngài lẹ lẹ, bọn cớm hoặc vệ sĩ của ngài có thể đến bất ngờ, phiền lắm. Chúng tôi trân trọng ngài, chứ không sẵn lòng mời chúng đi dự tiệc được đâu. Bây giờ xin ngài đi trước. Đừng tìm cách chạy trốn. Người của chúng tôi đã được bố trí khắp trong lâu đài này. Vả lại, ngài đâu có nhanh bằng viên đạn.
Bên ngoài cổng, xa phía dưới một chút có chiếc Alfa Roméo và chiếc Jeep đậu chờ sẵn. Hoàng thân được mời vào chiếc Alffa Roméo và Terranova leo lên ngồi bên cạnh. Khi cách Palermo nửa giờ xe và chỉ cách Montelepre một quãng đường ngắn, hai chiếc xe dừng lại. Mọi người xuống xe. Cạnh đó, bên lề đường có một miếu thờ. Trong miếu có tượng Đức Thánh Mẫu. Terranova bái quì trước miếu và đưa tay làm dấu thánh giá. Là người sùng đạo, hoàng thân cũng toan quì xuống. Nhưng ngài kịp ngừng lại, sợ rằng lũ thảo khấu này tưởng ngài yếu bóng vía và cầu ơn trên che chở cho khỏi bị lũ này ám hại. Cả năm người bắt đầu đi theo đội hình ngôi sao. Hoàng thân đi ở giữa. Và họ bắt đầu đi xuống dốc theo lối mòn nhỏ hẹp, dẫn tới dãy núi Cammarata hoang vu.
Họ đi bộ mấy tiếng đồng hồ. Thỉnh thoảng, hoàng thân lại bảo họ dừng lại tạm nghỉ. Những tên hộ tống kính cẩn tuân theo. Họ ngồi trên một tảng đá và ăn xúp. Có bánh mì - thứ bánh thô - một tảng phó-mát lớn và chai rượu nho. Terranova chia đều phần ăn, kể cả cho ngài hoàng thân. Và, vẫn một giọng cung kính, Terranova nói :
- Kính bẩm ngài, rất tiếc ngay bây giờ chúng tôi không dâng lên ngài những thứ ngon lành hơn và xứng với địa vị tôn quí của ngài. Nhưng, một khi đến trại, Guiliano sẽ mời ngài dùng thức ăn nóng. Có lẽ là thịt thỏ rô-ti. Chúng tôi có một đầu bếp của một nhà hàng lớn ở Palermo.
Ngài hoàng thân lịch sự cám ơn. Và ngài dùng bữa. Lạ thay, ngài lại cảm thấy ngon miệng, có lẽ là do được vận động nên ngài cảm thấy đói. Một cảm giác mà từ nhỏ đến giờ ngài chưa từng cảm thấy bao giờ. Ăn xong, ngài rút từ trong túi ra một bao thuốc lá Ăng-lê chính hiệu và chìa ra cho bọn thảo khấu. Mỗi đứa rụt rè rút lấy một điếu, hút, khoái “đã” ra mặt. Ngài nhận thấy chúng không dám đoạt gói thuốc để dùng riêng. Thế là chúng đã được một điểm tốt của ngài rồi đó. Bởi vậy, ngài mạnh dạn nói :
- Ta bị bệnh đái đường nên hàng ngày phải dùng thuốc có chất Insulin!
- Thế mà lúc nãy ngài không dạy cho biết. Lúc đó chúng tôi có thể đợi cho ngài chừng một phút. Nhưng không sao, ngài đừng lo! Guiliano sẽ sai người đi mua thuốc hầu ngài ngay tức khắc. Chắc chắn sáng mai ngài có thuốc dùng. Xin đảm bảo với ngài điều đó.
- Cám ơn!
Hoàng thân lấy làm ngạc nhiên về sự quan tâm của Terranova tới sức khỏe của ngài. Thân hình mảnh dẻ như một con chó săn, Terranova lúc nào cũng khép nép cung kính, nhưng cũng luôn tỉnh táo, cảnh giác. Khuôn mặt thẹo chằng chịt, nhưng lúc nào cũng nở nụ cười cởi mở. Tuy nhiên, Terranova như cái lưỡi dao cạo: để xài cũng tốt, để cắt họng thiên hạ lại càng kiến hiệu.
Rồi họ lại bắt đầu đi tiếp. Terranova dẫn đầu “ngôi sao”, đôi khi y đi chậm lại, sánh vai trò chuyện với hoàng thân và đảm bảo với ngài không việc gì phải lo. Họ lần lần đi lên khoảng đất bằng phẳng trên chóp núi. Ba đống lửa đốt sẵn đó. Ba bộ bàn ghế bằng tre kiểu picnic cũng được kê sẵn, đợi chờ. Ở đầu bàn, Guiliano đang ngồi đọc sách dưới ánh đèn chạy bằng bình điện của nhà binh Mỹ. Một bao bố lớn đựng đầy sách dựng bên cạnh. Lũ tắc kè bò ngang bò dọc, loạn xạ. Tiếng côn trùng rù rì khắp nơi. Âm thanh kỳ quặc ấy dường như chẳng làm cho Guiliano bực bội.
Guiliano đứng dậy, lịch sự chào hoàng thân. Hắn không có vẻ phách lối, hách dịch của một kẻ có tí ti quyền hành như mấy tên cai ngục. Nhưng khuôn mặt hắn nở nụ cười kỳ lạ và bí hiểm. Hắn tự hỏi mình đã tiến xa đến mức nào rồi. Hai năm trước chỉ là một thằng nhà quê nghèo hèn, làm gì có cơ hội mặt đối mặt với hoàng thân như thế này. Mà có đi chăng nữa, chưa chắc đã dám nhìn thẳng vào mặt ngài, nói gì đến chuyện bắt tay. Bây giờ, với lòng trắc ẩn, hắn bắt tay một người quí tộc lâu đời ở hàng cao nhất và giàu có nhất xứ Sicily.
- Ngài đã dùng cơm chưa? Để cuộc gặp gỡ của chúng ta thêm phần dễ chịu và thú vị, xin ngài cứ cho biết. Chúng tôi xin tận tình chu tất. Xin ngài dành cho chúng tôi được cái vinh dự tiếp đón ngài một thời gian ngắn.
Hoàng thân cho biết ngài đói bụng và cần thuốc insulin cũng như một vài thứ thuốc khác. Guiliano xoay mình gọi vọng xuống phía dưới mỏm đá. Chỉ một lát sau đã có mấy người từ phía dưới theo đường mòn đi lên, tay bưng các món ăn, trong đó có món thịt hầm. Guiliano đề nghị hoàng thân cứ viết đầy đủ các chi tiết và các thứ thuốc ngài cần.
- Chúng tôi có dược sĩ quen biết ở Monreale sẵn lòng bán thuốc cho vào bất cứ ngày giờ nào. Trưa mai chắc chắn ngài sẽ có đủ.
Dùng bữa xong, Guiliano dẫn hoàng thân đi xuống dốc tới một hang nhỏ lót rơm, bên trên có tấm nệm rất êm, ấm. Hai tên cướp đi theo ôm mền, gối. Hoàng thân nhìn những thạch nhũ trắng toát. Hiểu ra sự ngạc nhiên của ngài, Guiliano nói :
- Ngài là khách danh dự của chúng tôi. Chúng tôi xin tận tình làm tất cả những gì có thể làm được để ngài cảm thấy thoải mái, dễ chịu tối đa trong thời gian nghỉ ngơi tại đây. Nếu trong số anh em đây có ai dám thất lễ với ngài, xin cứ cho biết. Chúng tôi chỉ thị rất rõ là phải đối đãi với ngài đúng phẩm tước và danh dự của ngài như một nhà ái quốc người Sicilian. Bây giờ, xin phép ngài cho tôi rút lui. Chúng tôi rất cần sức khỏe của ngài. Ngày mai chúng ta còn phải đi rất xa. Kính chúc ngài ngủ ngon. Chắc chắn bọn cớm sẽ tung ra một lực lượng hùng mạnh để truy lùng. Chính vì vậy chúng ta phải rời khỏi nơi này.
Hoàng thân cám ơn sự đối đãi nhã nhặn, ân cần lịch sự của Guiliano. Ngài hỏi số tiền chuộc là bao nhiêu. Guiliano cười. Hoàng thân bị nụ cười tươi trẻ hồn nhiên của chàng thanh niên đẹp trai ấy hấp dẫn. Nhưng, câu trả lời của Guiliano đã làm tan biến ngay sự hấp dẫn ấy :
- Chính quyền của ngài sẽ treo giá cái đầu của tôi là mười triệu lire. Thật là một điều xúc phạm lớn đối với ngài, nếu tôi không đánh giá cái đầu của ngài ít ra cũng gấp mười lần cái đầu của một thằng ăn cướp như kẻ hèn này.
Hoàng thân choáng váng. Nhưng tác phong và truyền thống quí phái lâu đời của ngài đã giúp ngài nói một cách khôi hài :
- Ta hy vọng gia đình ta cũng đủ kinh tế để đánh giá như các người!
- Kính bẩm hoàng thân, chúng ta còn thời gian để thương lượng!
Khi Guiliano chào giã từ, hai tay em của hắn đã sửa soạn xong chỗ ngủ cho hoàng thân, sau đó ra ngoài cửa hang chờ xem ngài có sai bảo gì không. Mặc cho tiếng rù rì lạ tai của côn trùng, tiếng ào ào của gió núi, hoàng thân đã ngủ một giấc ngủ ngon mà từ bao năm qua ngài chưa được hưởng.
Suốt đêm đó, Guiliano bận tíu tít. Hắn nói với hoàng thân là mua thuốc tại Monreale chỉ để bảo mật, còn thật ra Montelepre, quê thì quê, chứ làm gì không có. Terranova được phái tới tu viện gặp cha bề trên, nhờ ngài làm trung gian thương lượng và nhận tiền chuộc. Guiliano thừa biết là cha bề trên cũng sẽ hành động thông qua Ông Trum. Và chắc chắn, Ông Trùm kiếm bộn tiền “cò”.
Cuộc thương lượng sẽ kéo dài. Và người ta cũng hiểu tuy nói 100 triệu nhưng còn có thể mặc cả. Hoàng thân giàu nứt đố đổ vách đó. Nhưng theo qui lệ, không có vấn đề “ta - ríp” nghĩa là giá nhất định.
Ngày thứ hai bị bắt cóc là một ngày thú vị đối với hoàng thân. Cuộc hành trình tuy dài, nhưng không vất vả, vì không phải trèo đèo lội suối, mà chỉ là di chuyển đến nhà của một tá điền ở sâu trong núi. Guiliano đúng là chúa công của tá điền này. Cung cách tiếp đón của lão đúng là cung cách của triều thần nghênh đón Đức Kim thượng giá lâm.
Con mắt tinh tế của Guiliano thấy ngay là hoàng thân buồn phiền vì y trang của ngài nhàu nát. Ngài bần thần nhìn bộ y phục đắt tiền ngài đặt may tại Luân Đôn nay bị vấy bẩn. Guiliano hỏi ngài không phải bằng cái giọng khinh khỉnh, mà chỉ là do cái óc tò mò của dân ruộng :
- Phải chăng ngài quá quan tâm đến những gì khoác trên thân thể ngài, thưa ngài?
Đúng là câu hỏi của người chưa vượt quá nhu cầu sơ đẳng: áo quần chủ yếu là để che thân. Do nhiễm nặng cái thói quen dạy dỗ và làm “cha” thiên hạ, nên cho đến lúc này, tại chỗ này, hoàng thân cũng vẫn giữ cái giọng giáo huấn. Trong lúc này, cả hoàng thân lẫn Guiliano đều không có việc gì gấp gáp, bởi vậy hoàng thân đã vui vẻ ban cho Guiliano một “cua” về “phục sức xứng y kỳ đức”. Một bộ đồ may cắt khéo, bằng hàng tốt chẳng những làm tôn vẻ đẹp cho người mặc mà còn làm cho người ấy chững chạc, “tư cách” hẳn lên, khiến người khác phải trọng nể, ít nhất là ở bước đầu. Ngài thuật lại những anh thợ may ở Luân Đôn kiểu cách rởm đến nỗi tưởng như các vị công hầu ở Italia này giống máy thằng khố rách áo ôm không bằng. Hoàng thân cao hứng giảng giải tỉ mỉ về các loại hàng vải, các kiểu áo quần, các màu sắc sao cho hợp thời, hợp cảnh, cho phải phép và xứng với địa vị...
- Anh bạn Guiliano thân mến này, không phải chỉ là vấn đề tiền. Mặc dù Đức Thánh Mẫu biết rằng với số tiền ta đã bỏ ra để sắm bộ đồ này, thì một gia đình Sicilian sống dư giả cả năm, lại còn dư để cấp vốn cho đứa con gái về nhà chồng nữa. Vấn đề là ta phải cất công đến tận Luân Đôn, ở lại đó nhiều ngày cho mấy thằng thợ may vần tới vần lui, ngắm ngắm, nghía nghía, gật gật gù gù. Thật là một kinh nghiệm thảm hại. Ta tiếc là tiếc cho cái công của ta, thì giờ của ta.
Guiliano chăm chú nhìn hoàng thân với thiện ý rõ rệt.
- Sao ngài và tầng lớp quí tộc lại coi cái chuyện ăn mặc quan trọng một cách quá đáng, xin lỗi, một cách quá cầu kỳ, tủn mủn như vây? Ngay như lúc này, giữa chỗ núi rừng mà ngài cũng thắt cà-vạt. Khi đặt chân vào đến nhà này, tôi để ý thấy ngài đóng cúc áo vét, như thể có một vị công tước nào khác đang chờ đón ngài trong phòng khách?
Tuy cực kỳ phản động về mặt chính trị và giống như hầu hết các đại quí tộc Sicilian khác, không hề có một khái niệm gì về công bằng kinh tế và bình đẳng xã hội, nhưng hoàng thân lúc nào cũng có được cái cảm tưởng mình hòa đồng với giai cấp dưới. Ngài cho rằng họ cũng là người như ngài. Không một ai đã từng làm việc cho ngài, biết tính ý và nhìn nhận địa vị tôn quí của ngài, lại bị ngài làm lơ, để cho phải sống thiếu thốn. Tôi tớ trong lâu đài tôn thờ ngài. Ngài đối đãi với chúng như người thân. Ngày sinh nhật của từng tôi tớ đều được ngài ban quà. Ngày lễ, tất cả tôi tớ đều được thưởng. Trong bữa cơm gia đình, nếu không có khách, đầy tớ hầu bàn cũng được ngài cho phép góp chuyện và góp ý về những vấn đề liên qua đến công việc trong nhà. Đó không phải là điều phổ biến trong các gia đình quí tộc Italia. Giai cấp thấp chỉ bị ngài đối xử tàn tệ khi họ đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế của mình.
Và bây giờ, hoàng thân cũng có một thái độ như vậy đối với Guiliano, làm cứ như là kẻ bắt cóc ngài cũng chỉ là đứa tôi tớ muốn được hưởng một đời sống như của ngài, đời sống đáng thèm khát của một người rất giàu có và rất quyền thế. Hoàng thân đột nhiên nhận thấy có thể biến cái thời gian bị bắt cóc thành một mối lợi cho mình, mặc dù ngài phải trả số tiền chuộc khá lớn. Tuy nhiên, ngài cũng chẳng ngây thơ đến nỗi không biết rằng ngài phải tỏ ra thật thà, chân thành và đáng tin cậy, rằng không được làm một cái gì khiến cho tình hình trở nên gay cấn... Bởi vì, Guiliano đã cho thấy hắn có thể từ sự yếu đuối bật lên thành sức mạnh.
Hoàng thân đã nghiêm chỉnh và chân thành đáp lại câu hỏi của Guiliano bằng một nụ cười và bằng một câu hỏi ngược trở lại.
- Thế anh đeo chiếc cà rá ngọc và cái khóa dây nịt bằng vàng kia, để làm gì?
Ngài chờ đợi câu trả lời. Nhưng, thấy Guiliano chỉ mỉm cười không đáp, ngài bèn nói tiếp :
- Ta đã kết hôn với một phụ nữ giàu còn hơn cả ta nữa. Ta có uy tín và quyền lực chính trị. Ngay tại Sicily này, ta đã có một lãnh địa lớn bậc nhất xứ. Nhưng, qua phu nhân, ta còn tậu được một lãnh địa khác ở Brazil còn rộng lớn gấp bội. Ngay khi bàn tay ta vừa rút ra khỏi túi, thì đã có một người Sicilian đến đỡ lấy và hôn. Ngay tại Rome ta cũng được trọng vọng chẳng kém. Bởi vậy, ở thủ đô, tiền trên hết. Hễ có tiền thì có quyền lãnh đạo, có quyền cai trị. Ta có tiền, cho nên, mọi con mắt đổ dồn vào ta. Ta thấy tức cười vì ta chẳng cố ý, chẳng có gì để bắt thiên hạ quỵ lụy, khúm núm như vậy. Thế nhưng, ta vẫn được như vậy. Và đã được thì ta giữ lấy. Phải giữ lấy, nếu không, có nghĩa là ta làm nhục họ. Ngay cả khi ta đi săn, mặc bộ đồ vải thô của anh nhà quê thì bộ đồ ấy cũng phải sao cho đàng hoàng. Vải thô, nhưng là bộ đồ của ông nhà giàu, ông lớn. Đôi khi, ta thèm được làm một người như anh, hoặc như Croce. À, không hiểu anh có biết là Croce đã tìm mọi cách để giữ cho quyền lực của anh chỉ thuần là ý nghĩ và tình cảm, chứ không trở thành một hiện thực? Chẳng có mấy người vừa có quyền lực, lại vừa có lòng can đảm và vẻ đẹp quyến rũ như anh. Ấy, chính vì vừa muốn có quyền lực vừa muốn có vẻ đẹp quyến rũ mà ta - quyền lực thì đã có - phải bỏ công ra đến các tiệm may ở tận Luân Đôn!
Hoàng thân đã nói những lời ấy nghe hay và khéo đến nỗi Guiliano cười lớn. Guiliano cảm thấy thích thú thật sự, khi hai người dùng cơm tối và bàn nhiều đến sự cơ cực của người dân Sicilian và sự hèn nhát của Rome.
Hoàng thân cũng biết là Ông Trùm muốn duy trì tình trạng đó.
- Anh bạn Guiliano quí mến, tại sao anh và Croce không liên minh với nhau để cai trị đảo Sicily này nhỉ? Hắn có cái khôn ngoan của tuổi tác. Anh có cái lý tưởng của tuổi trẻ. Và khỏi nói là cả hai đều yêu Sicily. Tại sao hai người không hiệp lực với nhau? Vì thời gian sắp tới rất nguy hiểm cho mọi người chúng ta? Bây giờ, chiến tranh đã chấm dứt, tình hình đã thay đổi. Chỉ có anh và Croce có thể đảm bảo được nền tự do của Sicily. Các anh phải liên kết với nhau. Nghe Croce nói về anh, tôi có cảm tưởng hắn ta quí anh, coi anh như con của hắn. Hắn hết sức cảm mến anh. Chỉ có hắn mới có thể ngăn được cuộc chiến tranh giữa anh và đám “Người anh em”. Hắn hiểu rằng anh làm cái mà anh phải làm. Ta cũng hiểu như vậy nữa. Tuy nhiên, bây giờ cả ba chúng ta có thể cộng tác với nhau để giữ vững số phận của mình. Nếu không, tất cả chúng ta đều bị tiêu diệt.
Turi không thể nào nén được sự tức giận của mình. Thằng cha nhà giàu này xấc xược quá lắm. Tuy nhiên, hắn vẫn nói với một sự bình tĩnh chết người :
- Tiền chuộc của ngài chưa bàn xong, mà ngài đã vội bàn đến sự liên minh hợp tác. Ngài có chắc mình còn sống không mà vội nghĩ ra thế?
Suốt đêm đó, hoàng thân lo ngay ngáy, thấp thỏm ngủ không được. Nhưng Guiliano tỏ ra không có ý định thực thi cái ý tưởng hắc ám của hắn. Cho nên, hai tuần lễ làm khách mời của Guiliano, hoàng thân cảm thấy rất thoải mái. Sức khỏe của ngài tăng lên rõ rệt. Thân thể ngài cường tráng ra nhờ tập thể dục hàng ngày và nhờ không khí trong lành. Trước kia, cơ thể của ngài tuy mảnh khảnh, nhưng bụng ngài cũng hơi phệ. Bây giờ mỡ bụng ấy xọp đi thấy rõ. Về phương diện thể xác, chưa bao giờ ngài cảm thấy khỏe khoắn hơn. Về phương diện tinh thần, ngài cũng thấy vui vẻ, phấn chấn hơn: ngài cũng được tự do đi chỗ này chỗ kia quanh quanh gần đó. Guiliano không canh chừng ngài một cách khắt khe. Hắn thường phải bàn bạc với đồng đảng là những người vô học dốt nát, không có văn hóa. Tuy nhiên, tánh nết của họ đã làm hoàng thân ngạc nhiên. Hầu hết những tên cướp này đều lịch sự một cách tự nhiên, có phẩm hạnh và nhất là không phải là kém thông minh. Chúng luôn luôn đối đãi với ngài theo đúng tôn ti, đúng địa vị của ngài. Và luôn luôn đáp ứng yêu cầu của ngài. Trước kia, chưa bao giờ ngài gần gũi với đồng hương Sicilian của ngài đến thế. Chính ngài cũng ngạc nhiên vì thấy sự đổi mới trong cách nhìn và trong tình cảm của ngài đối với xứ sở và dân tộc mình. Sau cùng, tiền chuộc được thỏa thuận ở mức sáu triệu đồng lire vàng. Và, tiền được trao qua Ông Trùm Croce và cha bề trên Manfredi. Đêm hôm trước khi ngài được thả, Guiliano, các sếp băng và khoảng hai mươi trợ thủ quan trọng mở tiệc khoản đãi hoàng thân. Rượu sâm-banh được chở từ Palermo tới để mừng dịp này. Và tất cả đã nâng ly chúc mừng tự do sắp tới của ngài, vì chúng cũng ngày một cảm mến ngài... Hoàng thân nâng ly rượu cuối cùng lên và nói :
- Ta đã từng là khách danh dự trong những gia đình quyền quí bậc nhất ở Sicily, cũng như ở Rome. Nhưng, chưa bao giờ ta được tiếp đãi vừa chân thành vừa nồng hậu với cung cách lịch thiệp như thế này. Chưa bao giờ ta ăn ngon, ngủ ngon như ở đây.
Ngài ngưng lại một chút, rồi lại mỉm cười, nói tiếp :
- Số tiền kể cũng hơi cao đấy. Nhưng, cái gì có giá trị thì bao giờ cũng đắt giá!
Mọi người cười ồ. Guiliano cười lớn hơn ai hết. Nhưng hoàng thân nhận thấy Pisciotta mặt lạnh như tiền, một nụ cười mỉm cũng không.
Tất cả uống chúc mừng sức khỏe của hoàng thân khiến ngài hớn hở ra mặt. Đó là một đêm ngài nhớ đời với một niềm thích thú khó quên.
Sáng hôm sau, chủ nhật, hoàng thân được thả ngay trước cửa nhà thờ chánh tòa của thủ phủ Palermo. Ngài vào nhà thờ dâng lễ Missa sớm và vâng lời tạ ơn Chúa. Ngài vẫn ăn mặc sang trọng như ngày ngài bị bắt cóc. Để tỏ lòng trân trọng, Guiliano đã ra lệnh cho một thợ may “chiến” nhất tại Rome sửa chữa và giặt ủi lại bộ đồ của ngài
Các sếp Mafia trên toàn cõi Sicily yêu cầu có một cuộc hợp với Ông Trùm. Mặc dầu được nhìn nhận là sếp lớn, là Chúa Trùm, nhưng Croce không trực tiếp cai trị chúng theo kiểu thượng cấp và thuộc hạ, mỗi sếp vẫn có giang sơn riêng. Tổ chức Mafia cũng giống như một vương quốc thời Trung cổ. Các công tước, hầu tước có thế lực đem binh lực riêng của mình đến hỗ trợ cuộc chiến của một công tước, hầu tước có thế lực nhất mà họ nhìn nhận là người cai trị họ trên danh nghĩa. Nhưng các công tước, hầu tước thuở xưa, tuy phải thề trung thành với nhà vua, nhưng không vì thế họ không dám “quất” lại vua, nếu vua tỏ ra kém bản lãnh hoặc yếu hơn họ. Nếu họ trợ chiến, và chiến thắng, vua không chia chiến lợi phẩm cho họ là không xong. Ông Trùm không cai trị các sếp Mafia bằng quyền lực vật chất mà bằng trí thông minh, uy tín và sự được trọng nể lâu ngày. Lão cai trị bằng cách điều hợp các lợi ích phân tán để tập trung vào lợi ích chung, tất cả đều có lợi.
Ông Trùm cũng phải rất cẩn thận đối với các sếp. Cũng như vua thời Trung cổ không dám lơ mơ với các công tước, hầu tước. Mỗi sếp Mafia - trong giang sơn của mình là một đấng toàn quyền. Mỗi sếp đều có tay chân bộ hạ riêng, có “quân binh chủng” riêng. Chẳng hạn có “chuyên gia” đầu độc, “chuyên gia” tấn công ngân hàng, “chuyên gia” chặn cướp xe lửa... Trong lãnh vực này, các sếp không thua gì sếp lớn từ là Ông Trùm, Chúa Trùm. Chính vì vậy, Ông Trùm Croce rất muốn Guiliano về với mình để làm “quả đấm sắt”, tức là chỉ huy cánh quân sự của mình.
Các sếp Mafia của Sicily cũng “có nghề”, cũng khôn khéo, ranh ma, trong đó có những bàn tay tàn độc, quỷ quyệt nhất Sicily. Chẳng phải chúng bị ép buộc phải hợp tác xây dựng quyền lực cho Ông Trùm, mà chính vì quyền lợi riêng của chúng đòi hỏi chúng phải tín nhiệm và hợp tác với lão, tin vào sự khôn ngoan của lão. Nhưng, theo ý chúng, người thông minh nhất thế giới cũng đôi khi sai lầm. Theo ý chúng, Ông Trùm ăn phải bả thằng Guiliano, đã mê nó. Chẳng biết những tính toán lắt léo của lão trong cái vụ “mê” này có đi đến kết quả gì không. Nhưng khởi đầu sự sập tiệm của cả bọn thì đã rõ.
Ông Trùm làm bữa tiệc tẩy trần để thết sáu ông sếp tại vườn trong khu “khách sạn Umberto” của lão ở Palermo. Tại đó, tuyệt đối bí mật và an toàn.
Sếp đáng sợ nhất, ăn nói bạt mạng nhất trong số các sếp có máu mặt hôm đó là Don Siano. Hắn nắm thị trấn Bisacquino. Hắn được đại diện cho các “sếp” kia để ngỏ lời trước tiên. Tuy là một chức sắc của tổ chức “Người anh em”, hắn nói thô lỗ đến mức không sao chịu được.
- Ông anh Croce, ông anh dư biết tụi này rất nể ông anh. Tụi này cũng không quên cái ơn ông anh đã hồi sinh tụi này và cả gia đình tụi này. Phải nói là tụi này mắc nợ ông anh rất lớn. Nhưng buộc lòng tụi này phải nói ra điều này, chính là để đền đáp, để phục vụ lợi ích của ông anh. Thằng chó đẻ Guiliano, thằng cướp cạn ấy, thằng lục lâm ấy đã trở nên mạnh quá rồi. Và bọn mình đã chơi đẹp, có thể nói là đã nể nang nó quá rồi. Chính vì thế mà nó tưởng nó oai, đâm khệnh khạng mới tức chứ. Nó chỉ là một thằng nhóc mới lớn. Ấy thế mà nó dám vuốt râu cọp là ông anh đây, dám mó *** ngựa là tụi này. Nó cướp nữ trang của ông khách “sộp” nhất của bọn mình. Nó nẫng tay trên ô liu, nho, lúa mì của những chủ đất đã mướn mình bảo trợ, có khác gì nó chửi cha mình. Nó bắt cóc hoàng thân Ollorto mà nó biết do chính ông anh che chở, chẳng phải là nó muốn nắn gân ông anh sao? Vậy mà ông anh lại cứ muốn tiếp tục chơi đẹp với nó, tiếp tục chìa bàn tay hữu nghị ra cho nó. Đ.m, tôi biết nó mạnh. Nhưng thử hỏi, tất cả anh em mình hiệp lại, bộ lép hả? Mạnh hơn nó là cái chắc. Thế thì tội đếch gì mà cứ để thằng nhóc chơi trội hoài vậy. Và, nếu ông anh không triệt nó sớm tức là dung dưỡng cho nó ngày một mạnh hơn. Tất cả anh em chúng tôi ở đây đều đồng ý là đã đến lúc phải giải quyết dứt điểm vấn đề này. Phải dùng tất cả mọi biện pháp để bẻ gãy sức mạnh của nó. Nếu vụ bắt cóc hoàng thân Ollorto mà bọn mình cũng cho êm ru, thì dân Sicilian sẽ cười mình thối óc, chịu gì thấu, và bọn mình cũng hết đường làm ăn.
Ông Trùm gật gật gù gù như thể đồng ý. Nhưng lão không nói gì. Guido Quintana, một tên đụt nhất trong đám, rền rĩ nói :
- Tôi là thị trưởng của Montelepre. Mẹ kiếp, cả bàn dân thiên hạ, ai không biết tôi cũng là người của phe ta. Ấy vậy mà đếch có ma nào đến tôi để xin phân xử gì ráo. Nhất là đếch có biếu xén cái con mẹ gì bao giờ. Tôi là thị trưởng, nhưng thực tế thằng quái Guiliano là người cai trị. Nó để cho tôi sống chẳng qua là để khỏi gây lôi thôi rắc rối với anh em mình, khi nó cảm thấy chưa đủ mạnh để chơi xả láng đấy thôi. Nhưng, Đ.m, tôi lấy đếch gì mà sống. Tôi đếch có quyền gì hết. Tôi chỉ là thằng bu nhìn. Chừng nào mà còn thằng khốn đó thì tổ chức “Người anh em” đừng hòng làm ăn được ở cái thị trấn Montelepre. Tôi đếch sợ thằng nhóc đó. Tôi sẵn sàng đương đầu với nó ngay tức khắc. Trước và sau khi nó thành một thằng ăn cướp, đếch bao giờ tôi nghĩ nó là một thằng đáng sợ. Nếu trong hội nghị này, phe ta bật đèn xanh, tôi phủi nó liền. Mẹ kiếp, tôi đã có kế hoạch. Chỉ đợi ông anh đây đồng ý là “a-lê hấp”, thằng này chơi liền.
Sếp Piddu ở Caltanisetta và sếp Arzana của thị trấn Piani dei Greci gật đầu ô-kê liền. Sếp Piddu lên tiếng :
- Chơi với nó sát ván thì khó đếch gì mà ông anh phải ngại. Mẹ kiếp, với tiềm lực của anh em mình đây thì đủ sức để phơi thây nó ở sân nhà thờ chánh toàn Palermo cũng còn được. Rồi mình đến dự đám tang của nó như dự lễ cưới cũng dư xăng.
Các sếp khác như Marcuzzi, trùm ở Villamura, sếp Burilla trùm ở Partinico đều lên tiếng nhất trí. Và chúng đợi ý kiến Ông Trùm.
Lão ngẩng cái đầu sư tử của lão lên, chĩa cái mũi nhọn như mỏ diều của lão vào từng sếp, rồi từ tốn nói :
- Anh em, tôi đồng ý với những gì anh em vừa nói. Nhưng tôi nghĩ là mấy anh em đã coi thường thằng nhỏ này quá đấy. Nó khôn như quỷ, ranh ma trước tuổi đã đành, mà có lẽ bản lãnh của nó, sự can đảm của nó, nếu không hơn thì cũng không thua bất cứ anh em nào đang ngồi ở đây. Không dễ gì mà làm thịt nó được đâu. Nhưng trên hết là tôi thấy nó có chỗ dùng cho anh em mình sau này, không phải cho riêng tôi, mà cho tất cả các anh em mình. Vấn đề là phải làm thế nào để vẫn diệt được nó mà vẫn được việc của mình. Vậy mới là cao tay ấn. Mấy anh em chưa thấy rõ cái họa của chính anh em mình không phải là thằng Guiliano, mà là bọn cộng sản, bọn xã hội. Mấy anh em đã có kinh nghiệm xương máu với Mussolini. Nhưng Mussolini so với cái họa cộng sản chẳng khác nào con mèo so với con sư tử. Bọn cộng sản đang hớp hồn dân quê Sicilian, đang làm cho bọn nhà quê điên lên, đứa nào cũng tưởng mình là Garibaldi cả. Thằng Guiliano đang có ảnh hưởng mạnh đối với bọn nhà quê. Bởi vậy, trước mắt, mình phải làm thế nào để thằng Guiliano đừng bị cộng sản hớp hồn cái đã. Sau đó, biến nó thành cây roi quất lại bọn cộng sản. Làm như vậy, mình thêm một đồng minh - tất nhiên là tạm thời - để chơi một kẻ thù khác nguy hiểm hơn. Tôi chưa nói hết với mấy anh em cái hậu quả tai hại mà anh em mình sẽ phải chịu nếu bọn cộng sản, bọn xã hội lên nắm chính quyền. “Đứt bóng” hết ráo là cái chắc. Bởi vậy, phải khích thằng Guiliano quất cho bọn mọi rợ kia sụm đã. Khi nó đã diệt xong bọn kia, lực lượng của nó thế nào chẳng bị sứt mẻ, lúc đó mình diệt nó mấy hồi?
“Ông Trùm” thở dài như thể thất vọng về sự chậm hiểu và thiển cận của mấy sếp.
- Mấy anh em hãy cho tôi cái đặc ân là để cho tôi khích nó quất tụi cộng sản đã. Nếu nó từ chối, lúc đó anh em ai có sức chơi nó cách nào, xin cứ tùy ý, tôi còn khuyến khích nữa. Trong vòng ba ngày nữa, tôi xin trả lời dứt khoát với anh em. Cứ để tôi thử lần chót xem nó có biết phải trái không đã.
Cũng lại sếp Siano là người đầu tiên gật đầu tấm tắc khen :
- Ông anh thật cao kiến, đệ xin bái phục.
Vả lại, ai có đủ lý trí mà lại không có đủ kiên nhẫn để chờ ba ngày nữa trước khi giết Guiliano? Ba ngày nữa thì nó cũng vẫn còn ở cái đất Sicily chứ có bốc hơi hay có ánh bay đi mất đâu mà sợ. Các sếp ra về. Ông Trùm nhắn mời giáo sư Hector Adonis đến Villaba.
Ông Trùm nóng nảy nói với giáo sư Adonis :
- Tôi hết kiên nhẫn nổi cái thằng con ông rồi. Bây giờ thì nó phải trắng đen dứt khoát: hoặc đi cùng hoặc chống lại tụi này. Bắt cóc hoàng thân thì đúng là nó chửi cha tôi rồi. Nhưng tôi vẫn có thể tha thứ và quên đi được. Dù sao thì nó cũng trẻ người non dạ. Tôi nhớ lúc còn bằng nó, chính tôi cũng ngông cuồng, cao ngạo như nó bây giờ. Như tôi vẫn thường đã nói với ông: tôi rất cảm mến nó. Tin tôi đi, tôi đánh giá đúng tài năng, tiềm năng của nó. Tôi thật quá vui sướng không còn gì bằng, nếu có được nó làm cánh tay phải cho tôi. Phần nó, nó phải thấy cái vị trí của nó trong kế hoạch chung, cái thế của nó trong tình hình chung, cái nhiệm vụ, cái giới hạn của nó trong cái địa thể. Nhiều anh em khác người ta đã có nể phục, đâu có hiểu như tôi đâu. Khổ quá, tôi có kềm giữ họ được thì cũng chỉ ở mức độ nào đó thôi. Điều ấy ông cũng đã quá rõ rồi. Vậy, ông hãy đi gặp thằng con ông và nói cho nó biết những điều tôi đã nói với ông. Chậm nhất là ngày mai, ông phải trả lời tôi. Tôi không thể chờ đợi lâu hơn được đâu vì tôi còn phải trả lời cho mấy anh em kia nữa.
Giáo sư Hector Adonis thấy lo sợ cho thằng con đỡ đầu của mình.
- Ông Croce, tôi công nhận là ông khoan dung, rộng rãi trong cả ý nghĩ lẫn hành động. Nhưng thằng Turi là đứa có ý chí và cũng chẳng phải vừa gì. Cũng như mọi thanh niên khác, nó tin chắc vào quyền lực của mình. Và quả thật, nó đâu phải thằng cù lần và hòan toàn bất lực? Nếu xảy ra cuộc xung đột giữa nó và “Người anh em”, tôi biết, nó không thể thắng được. Nhưng thiệt hại thật đáng sợ. Liệu có phần thưởng gì để tôi có thể hứa với nó không?
- Hứa với nó thế này: nó sẽ có một địa vị cao, rất cao trong tổ chức “Người anh em”. Và nó sẽ được sự quí mến, tin cẩn và kể cả sự trung thành của chính tôi đây nữa. Ngòai ra, nó đâu có thể nào sống đời ở trên núi? Sẽ có lúc nó muốn trở lại sống trong một xã hội bình thường, có một chỗ đứng trong xã hội, trong luật pháp và nhất là rồi nó cũng phải có vợ có con chứ. Đến ngày đó, ông cũng dư biết, tại Sicily này ấy hả, ngoài thằng tôi ra, không có ai đảm bảo sự miễn xá của pháp luật dành cho nó. Và tôi lấy làm sung sướng, vinh dự nữa, nếu được làm điều đó. Tôi nói rất thành thật.
Và quả thật, khi nói như vậy. Ông Trùm đã không “cuội”, không thể thất tín, không thể chống chế, nếu sau này ông có lật lọng cũng không dễ gì.
Lên núi gặp Guiliano, giáo sư Adonis rất bối rối và lo sợ cho đứa con đỡ đầu của mình. Ông quyết định phải nói trắng ra cho hắn thấy ông có phải nói như vậy thì cũng vì tình thầy trò, chớ không phải vì ông liên minh với Ông Trùm. Nên đánh đòn tình cảm với hắn.
Khi tới nơi, ông đã thấy bàn và ghế xếp được bày ra ở mỏm núi. Chỉ có Turi và Aspanu đang ngồi. Ông nói với Turi :
- Thầy muốn nói chuyện riêng với con, Turi.
Bị chạm tự ái, Pisciotta sửng cồ :
- Này, ông quắt, cho ông hay, giữa Turi và thằng này đếch có gì giấu diếm nhau đâu.
Làm như không thèm chấp sự sỉ nhục của Aspanu, Hector Adonis bình tĩnh nói :
- À, sau này Turi muốn nói với anh cái gì thì nói, tùy ý nó. Nhưng tôi không thể nói với anh, vì cái lẽ đơn giản là tôi không có trách nhiệm gì về anh như tôi đã có trách nhiệm về nó.
Pisciotta đứng phắt dậy, lườm ông Adonis một cái, rồi vùng vằng bỏ đi. Ông Adonis ngồi lặng thinh một lúc lâu rồi mới lên tiếng :
- Turi, con đỡ đầu cưng của ta. Ta thương con ngay từ lúc con còn bé xíu. Ta đã dạy dỗ con, đưa sách vở cho con đọc, giúp đỡ khi con bất đắc dĩ phải dấn thân vào chốn giang hồ. Con là một trong số rất ít người làm cho ta cảm thấy cuộc sống của ta là đáng sống. Ấy vậy mà khi Aspanu, em họ của con nhục mạ ta, con không có lấy một lời quở trách nó.
- Con tin thầy hơn ai hết trên đời này, chỉ sau có ông bà già con.
- Thế còn Aspanu? - Ông Adonis nói, giọng trách móc - Phải chăng nó đã trở nên quá độc dữ, khát máu, đến nỗi không còn có thể tin được ai nữa hay sao?
Guiliano nhìn thẳng vào đôi mắt của ông Adonis. Và chính ông cũng nhìn thấy sự chân thành, trầm tĩnh trên khuôn mặt hắn.
- Dạ, con phải thú thật là con tin Aspanu hơn là tin thầy. Đã đành là ngay từ lúc còn nhỏ, con đã kính yêu thầy. Thầy đã khai mở, đã bồi dưỡng tâm trí con bằng sự hiểu biết khôn ngoan của thầy và bằng sách vở. Con cũng biết là thầy đã bỏ tiền túi của thầy để giúp đỡ ông bà già con nhiều phen. Thầy đã là ân nhân, là bạn chân thành của con trong lúc con gặp cơn hoạn nạn. Nhưng, vì thầy có dính dáng đến bọn “Người anh em”, nên con cũng không dám hết lòng, tuyệt đối tin vào thầy. Con có linh cảm là cũng chính vì sự dính dáng đó mà hôm nay thầy đến đây.
Một lần nữa, ông Adonis kinh ngạc vì cái “giác quan thứ sáu” của thằng con đỡ đầu của mình. Ông đành nói rõ mục đích của ông khi tìm gặp hắn :
- Thầy đến đây với hy vọng hòa giải con với Ông Trùm Croce. Cho con hay, đến như vua nước Pháp, đồng thời là vua Sicily, và ngay cả Garibldi, thậm chí chính Mussolini cũng chẳng bao giờ hòan toàn tiêu diệt được tổ chức “Người anh em”. Liệu sức con có hơn những người đó không mà con hy vọng thắng bọn chúng? Thầy mong con là hòa với Croce trong lúc tình thế cho phép. Bước đầu thì con phải nhún một chút. Nhưng về sau ai biết đâu đấy, con lão sẽ phải quỵ lụy con? Thầy lấy danh dự của thầy và thề trước mặt bà già của con - một người mà ngay cả con lẫn thầy đều cảm phục -là lão Croce tin vào thiên tư của con. Lão chân thành quý mến con. Con sẽ là kẻ kế nghiệp, là đứa con cưng nhất của lão ta. Nhưng muốn vậy thì bước đầu con phải nhường lão một chút.
Thấy Turi như có vẻ bị xúc động, giáo sư Adonis cầm tay nó và nói một cách say sưa :
- Turi, thầy nghĩ đến bà già của con. Con không thể sống mãi trên núi này được. Không thể mỗi khi muốn về thăm bà già là mỗi lần con phải liều mạng. Lão Croce có thể giúp con không bị truy tố nữa.
Turi im lặng để tập trung tư tưởng hầu suy nghĩ. Sau đó, hắn chậm rãi và trang trọng nói :
- Trước hết con xin cám ơn sự chân thành và hảo ý của thầy. Đề nghị của Croce không phải là không hấp dẫn. Nhưng, cái gọi là “tội” mà con đã phạm, đối với con, chỉ là những hành động phải làm để giải phóng dân nghèo ở Sicily này. Con không tin rằng đám “Người anh em” đó lại có cùng một mục đích với con. Chúng nó là tôi tớ của bọn nhà giàu, của bọn chính trị gia thối tha ở Rome và là kẻ thù không đội trời chung của con. Rồi thầy coi. Con biết thừa là khi bắt cóc ông hoàng Ollorto, con đã đạp lên chân chúng nó. Nhưng con sẽ không để cho thằng cha Quintana sống. Con khinh bỉ thằng già dịch đó. Con cũng “nhổ” và sự cảm mến của lão Croce. Thầy cứ nói với lão như vậy. Nhưng lúc này, khi giữa con và lão không có những quyền lợi phải tranh chấp thì cứ phần ai nấy ăn. Còn về mấy thằng “sếp” của lão, cứ để cho chúng có sức làm gì được, cứ làm. Con không coi lũ đó ra cái thá gì, chứ đừng nói là con sợ chúng.
Ông Adonis buồn rầu đem câu trả lời về cho Ông Trùm. Lão gật gù như thể đã biết trước và cam nhận số phận đã buộc lão phải lao vào cuộc chiến mà lão không thích, nhưng cũng quyết tâm giành phần thắng.
Tháng sau, có ba cuộc mưu sát nhằm vào Guiliano. Người phát pháo lệnh là Guido Quintana. Lão đặt kế hoạch rất công phu, tỉ mỉ và tinh tế, không thua gì Borgia [1].
Dọc theo con đường Guiliano vẫn thường dừng, mỗi khi ra khỏi sào huyệt, có một bãi cỏ xanh tốt. Từ một tuần lễ qua, một bầy cừu lớn được thả ăn quanh quẩn ở đó. Có ba tên chăn cừu. Đứa nào nom cũng hiền lành, vô hại. Quê quán chúng ở tại xã Corleon. Và là bạn cũ của Guido Quintana.
Mỗi khi thấy Guiliano từ trên núi xuống và đi qua đó, ba tên chăn cừu này đều chào hắn một cách cung kính. Chúng chào theo tập tục xưa, xin hôn tay hắn. Guiliano thân mật trò chuyện với chúng. Những người chăn cừu thường “làm việc bán thời gian” cho băng của Guiliano. Và hắn thường rất quan tâm đến người mới được tuyển mộ. Hắn không cảm thấy chính hắn đang bị nguy hiểm. Vì lúc nào cũng có cận vệ đi cùng. Và thường mặc áo mỏng manh, không thể giấu vũ khí được. Tuy vậy, con mắt đa nghi của Pisciotta đã nhìn ra sự bất thường. Y ngạc nhiên về sự xuất hiện đột ngột và sự đon đả, vồ vập của mấy tên chăn cừu mỗi khi chào hỏi Guiliano. Qua màng lưới tình báo của Pisciotta, bọn chăn cừu được nhận diện là nhân viên ám sát của Quintana.
Không để phí thì giờ, Pisciotta dẫn mười tay em trong băng của riêng mình đến tóm cổ ngay ba tên chăn cừu kia. Bọn đó đã được hỏi han rất kỹ: bầy cừu của ai, chúng làm nghề chăn cừu đã bao lâu, quê quán ở đâu, tên cha, mẹ, vợ con... Mấy tên chăn cừu khai tuốt luốt. Và có vẻ rất chi là thành thật. Nhưng Pisciotta đã nắm được bằng cớ chúng nó láo.
Cuộc khám xét đã phát hiện ra võ khí được cột vào bụng mấy con cừu đứng giữa bầy. Pisciotta định xử tử mấy tên chăn cừu giả danh kia. Nhưng Guiliano không chịu. Sau cùng chúng không bị hại, vì xét ra kẻ chủ mưu là Quintana. Nhưng hình phạt tất nhiên là phải có. Và hình phạt này khá độc đáo. Mấy tên chăn cừu phải lùa bầy cừu vào thị trấn Montelepre. Tại quảng trường chính của thị trấn, chúng phải lớn tiếng rao: “Kính mời bà con trong thị trấn đến nhận cừu do Guiliano gởi biếu. Mỗi hộ một con!” Và những tên chăn cừu phải đứng đó giết thịt, cao lông cừu cho những ai yêu cầu làm.
- Nhớ nhé, - Pisciotta nói với mấy tên chăn cừu - tụi bây phải giết thịt, cạo lông một cách vui vẻ, mau lẹ, sạch sẽ như mấy cô gái bán thịt ở Palermo ấy nhé. Không như vậy thì đừng trách tao ác. Và nói với Quintana tao gởi lời thăm và cám ơn đã tặng bầy cừu!
Sếp Siano không thèm tinh vi, tế nhị như vậy. Hắn sai hai “đặc phái viên” đến hối lộ cho Passatempo và Terranova để khuyến dụ hai tên này chống lại Guiliano. Nhưng hắn đâu có ngờ là Guiliano đã thu phục được lòng trung thành của một hung thần ác sát như Passatempo. Một lần nữa, Guiliano không cho giết hai “đặc phái viên” này, mà chỉ cho chúng nếm món đòn bastinado, rồi gởi về trả lại cho Siano.
Cuộc mưu sát thứ ba cũng lại do Quintana dàn dựng và đạo diễn. Và đây là cuộc mưu sát khiến cho Guiliano không kiên nhẫn được nữa.
Một thầy dòng truyền giáo lưu động đã đến “làm phúc” ở Montelepre. Coi bộ thầy dòng này thánh thiện lắm vì hai bàn tay hai bàn chân của y có mang dấu thánh [2]. Mỗi sáng chủ nhật, y dâng lễ Missa tại nhà thờ thị xã và tỏ “dấu thánh” cho thiên hạ phục lăn.
Tên y là cha Dodana. Khổ người của cha cao lớn như lực sĩ. Đi đứng lanh lẹ và mạnh dạn đến nỗi bước chân của cha đã khiến cho chiếc áo thụng cứ đánh phần phật như cờ gặp gió, và điểm bằng tiếng giày tây khua lộp cộp dồn dập như vó ngựa đua đang phi. Mái tóc màu trắng gần như bạch kim. Khuôn mặt sạm nắng và đã có nếp nhăn, mặc dù tuổi cha còn trẻ. Chỉ nội trong một tháng, cha đã trở thành một huyền thoại trong thị xã, cha không nề hà những công việc nặng nhọc hay dơ dáy. Chẳng hạn giúp nông dân gặt lúa, bón phân, phạt những đứa trẻ hư ngoài đường phố, đến tận nhà những ông già bà cả bệnh hoạn để làm phép bí tích giải tội lâm chung. Vào một buổi sáng chủ nhật, sau khi hành lễ ở nhà thờ, cha đã đứng ở cửa nhà thờ. Bà già của Guiliano đã không ngạc nhiên khi cha ân cần chặn bà lại và hỏi han xem cha có thể giúp đỡ gì cho con trai của bà không. Cha Dodana nói với bà :
- Tôi tin chắc là bà rất quan tâm đến phần rỗi linh hồn của nó. Lần sau nó về thăm, bà bảo nó đến gặp tôi, tôi sẽ ban phép bí tích giải tội cho nó.
Rất sùng đạo, nhưng bà già của Guiliano vốn chẳng ưa gì đám cha cố. Tuy nhiên, ông cha này đã gây được cảm tình với bà. Bà biết là Turi sẽ chẳng chịu xưng tội, xưng lỗi gì đâu. Nhưng biết đâu con người thánh thiện và dễ mến này lại chẳng có ích cho hắn về một phương diện nào đó. Bà thưa lại với cha Dodana là bà sẽ tìm cách báo cho hắn biết tin đó. Cha Dodana nói :
- Dù có phải lặn lội lên tận trên núi để giúp đỡ nó, tôi cũng chẳng tiếc công tiếc sức. Bà cứ nói với nó như vậy. Công việc chủ yếu của tôi là lo cứu vớt linh hồn người ta về cho Chúa. Việc làm nào, sự nghiệp đó, phải không thưa bà?
Một tuần lễ sau đó, Guiliano về thăm bà. Bà già cứ hối thúc hắn đến thăm cha Dodana, đặng xưng tội với cha. Và có lẽ cha sẽ ban thánh thể cho hắn nữa. Bà sẽ an tâm hơn nếu hắn đi xưng tội.
Điều làm cho bà ngạc nhiên là chẳng những không gạt ý kiến của bà, Guiliano còn tỏ ra sốt sắng, quan tâm. Hắn bảo Pisciotta đến nhà thờ mời cha lại nhà. Khi thấy cha được Pisciotta dẫn lại nhà, hắn thấy nghi nghi. Cha cố gì mà đi đứng, cử động cứ như một tay “có nghề”. Vả lại, cha tỏ ra quá xăng xái, quá nhiệt tình quan tâm, chăm lo cho phần hồn của Guiliano một cách không bình thường.
- Cha sẽ nghe con xưng tội trong phòng riêng của con. Sau khi giải tội, cha sẽ ban thánh thể cho con. Cha đã đem theo đầy đủ cả đây này. - Vừa nói, cha vừa vỗ độp độp vào cái hộp bằng gỗ cha cắp ở nách - Xưng tội và ăn bánh thánh xong, linh hồn con sẽ trong trắng tinh tuyền như linh hồn của bà già con vậy. Nói dại, nếu sau đó chẳng may con gặp hoạn nạn và có mệnh hệ sao, thì linh hồn con sẽ bay lên thiên đường thẳng băng, suôn sẻ.
Bà Maria Lombardo nói với Guiliano :
- Để má xuống pha cà-phê và chuẩn bị thức ăn mời cha dùng với con luôn thể.
Nói rồi, bà không đợi Guiliano trả lời, ba quay xuống bếp. Guiliano mỉm cười nói :
- Khỏi cần phải vào phòng riêng, con xưng tội ngay tại đây cũng được.
Cha Dodana liếc mắt nhìn Pisciotta đứng cạnh đó.
- Thế cũng được. Nhưng con phải nói bạn con ra chỗ khác.
- Tội của con thì đã quá rõ, ai mà chẳng biết. - Guiliano cười lớn và nói tiếp - Báo chí ở Palermo, ở Rome kể rành mạch, đầy đủ chi tiết lắm, chỉ trừ có một điều này: con là thằng có tánh đa nghi, rất đa nghi. Bởi vậy, con muốn xem cha đựng cái gì trong cái hộp gỗ cha đang cắp ở nách đó.
- Ấy, hộp đựng bánh thánh của Chúa, để cha cho con xem.
Vừa nói, cha vừa định mở hộp ra, thì Pisciotta đã nhanh tay hơn, gí súng vào gáy cha và Guiliano giật ngay lấy cái hộp trong tay cha. Bốn mắt nhìn nhau, không nói một câu. Guiliano mở nắp hộp: một khẩu súng lục tự động mới tinh, nước sơn còn bóng loáng nằm lấp lánh trên lớp nhung đỏ, như một món nữ trang quí.
Pisciotta thấy Guiliano giận, mặt tái đi. Guiliano đóng nắp hộp lại, nhìn trừng trừng vào vị giáo sĩ, và nói :
- Ta nên cùng nhau đi đến nhà thờ. Và cùng nhau cầu nguyện. Ta sẽ cùng nhau cầu xin Chúa lòng lành vô cùng xua đuổi quỷ dữ ra khỏi lòng dạ thằng Quintana khốn kiếp và tâm hồn mày không bị cái thói tham lam làm ô uế. Nó chi cho mày bao nhiêu vậy?
Đã đến nước này thì còn giấu diếm, chối cãi gì được, cho nên, cha Dodana nhún vai, cười gượng :
- Giải thưởng của nhà nước cộng thêm năm triệu lire nữa.
- Giá hời đấy! - Guiliano nói. - Tao không trách mày về cái chuyện làm ăn, kiếm chác sinh nhai. Nhưng mày lại nhè bà già tao mà trổ mồi láu cá thì đểu quá. Và, điều đó tao không thể bỏ qua được. Bộ mày là ông cha thật hả?
- Tao ấy hả, - cha Dodana nói, giọng bất cẩn - chưa bao giờ tao làm cha cố. Nhưng khó có ai nghi ngờ gì được.
Cả hai cùng sóng bước đi xuống phố. Pisciotta đi đằng sau. Guiliano cầm cái hộp gỗ. Họ đi vào nhà thờ, Guiliano bảo cha Dodana quì xuống trước bàn thờ, lôi khẩu súng ra khỏi hộp, và nói :
- Tao cho mày một phút để cầu nguyện. - Hắn đứng đợi. Rồi lảy cò.
Sáng hôm sau, Guido Quintana ngủ dậy, định đi ra hiệu cà-phê. Cửa vừa mở ra, hắn giật mình vì một khối gì lù lù chắn ngang và che lấp cả ánh sáng mặt trời ban mai. Chưa kịp nhìn kỹ thì cái khối lù lù ấy đổ sập xuống. Thì ra là cây thập tự giá làm bằng hai khúc cây đẽo sơ sài. Trên thập tự có cái xác nát bấy vì đạn của “cha” Dodana bị đóng đinh vào đó.
Ông Trùm trầm ngâm suy nghĩ về những thất bại ấy. Quintana đã bị cảnh cáo, hoặc hắn phải chuyên tâm vào công việc gắn với chức vụ thì trưởng của hắn, hoặc thị trấn Montelepre phải tự cai trị lấy, nghĩa là không có hắn làm thị trưởng. Rõ ràng, Guiliano đã không thể kiên nhẫn được nữa. Cuộc xung đột giữa Guiliano và “Người anh em” phải nổ ra thôi, không thể tránh được nữa. Ông Trùm biết chắc chắn Guiliano sẽ trả thù. Và sự trả thù của Guiliano sẽ rất khủng khiếp. Cho đáng mặt “bậc thầy” chứ. Chỉ còn một đòn cuối cùng. Không thể để cho trật được. Ông Trùm cũng biết, cuối cùng thì lão cũng đứng vững. Và, trái với sự phán đoán và ý muốn thật của lão, lão đã trao việc ấy cho một tay ám sát chuyên nghiệp rất đáng tin cậy. Một thằng cha Stefan Andolini nào đó được biết dưới cái biệt hiệu “thầy dòng quỷ sứ”.
[1] Borgias: dòng họ quí tộc Italia, gốc Tây Ban Nha. Nổi bật trong dòng họ này có giáo hoàng Alexandre VI (từ năm 1492 - 1503) là một chính trị gia kiệt xuất. Nhưng trong đời sống riêng tư, ông là một chúa phong kiến điển hình, cực kỳ dâm đãng. Con trai của ông - Césare Bougons - cũng là một chính trị gia khéo léo nhưng cực kỳ xảo trá, tráo trở, tàn bạo, quỷ quyệt. (N.D).
[2] Dấu thánh (religious stigmata, holy wounds): Khi Chúa Jesus bị đóng đinh trên cây thánh giá, tay và chân có dấu đóng đinh. Một số người được coi là thánh thiện “tự nhiên” cũng có những dấu đóng đinh như vậy. Người ta đồn rằng cứ mỗi ngày thứ sáu thì những vết thương này lại rỉ máu tươi. (N.D).
Trại Bellampo ở Montelepre được tăng cường thêm hai trăm lính cảnh vệ. Guiliano cũng ít dám lẻn về thăm nhà. Bây giờ, lực lượng của hắn có mạnh hơn trước thật. Nhưng, dù sao hắn vẫn sợ bị cớm “chộp” lúc bất ngờ.
Chiều hôm ấy, ngồi nghe ông bố ôn lại chuyện cũ hồi còn ở bên Mỹ với một ông bạn già, Guiliano bỗng nảy ra một ý nghĩ. Hai ông già đang nhậu khề khà và thân mật trách lẫn nhau ngu quá. Đang làm ăn ngon lành bên Mỹ, khi không cả hai nổi điên, nổi khùng, cùng kéo nhau đâm đầu quay về Sicily. Tưởng làm vương làm tướng gì ở cái đất Sicily này, ai dè lại quay về cái đời đói khổ, nghèo mạt rệp này. Ông bạn già của ông bố Guiliano làm nghề thợ mộc và tên là Alfio Dorio. Lão nhắc lại cho ông bố Guiliano những năm đầu tiên mới sang Mỹ, trước khi họ cùng làm cho Ông Trùm Corleone (tức là ông thân sinh của Miechael Corleone). Họ được mướn làm đường hầm ngầm dưới lòng sông. Họ đang cãi nhau. Người thì bảo đường hầm ngầm ấy dẫn tới New Jersay, người thì bảo dẫn tới Long Island. Họ nhắc lại nỗi phập phồng lúc làm việc ngầm dưới lòng sông. Chỉ sợ ống thép bị rò, bị bể, nước trào vào, chắc sẽ chết đuối như chuột. Nghe chuyện làm đường hầm ngầm, Turi Guiliano chợt nghĩ hai ông già này và một vài người tin cẩn nữa có thể đào một đường hầm từ nhà hắn, ăn thông đến một cứ điểm trong núi chỉ cách đó khoảng trên trăm mét. Cửa thông ra núi có thể ngụy trang dưới một tảng đá. Cửa thông vào nhà thì đặt gần bếp hay một chỗ nào đó. Băng qua đường hầm này, Guiliano có thể đi, về nhà thường xuyên và an toàn hơn.
Hai ông già thì bảo là không được. Nhưng bà mẹ hắn thì lại chịu hết mình. Bởi vì, cứ nghĩ đến cái cảnh thằng con có thể đi về thường xuyên và an toàn hơn là bà già đã thấy mừng rơn. Nhất là những ngày đông tháng giá, Guiliano lại được ngủ trên chiếc giường êm ái tại nhà nữa thì tuyệt. Việc bà “kết” với cái ý tưởng đào hầm ấy kể cũng chẳng lấy làm lạ. Theo Alfio Dorio, muốn như vậy thì một là, phải tuyệt đối bí mật, hai là, phải có kha khá người làm, ba là, chỉ đào vào ban đêm. Cứ như vậy thì cả năm chưa chắc đã rồi. Nhưng, vẫn chưa hết vấn đề. Làm thế nào để đổ chỗ đất, đá mà không có ai nhìn thấy? Và đất ở đây thì lẫn đá tảng, làm thế nào để thấy tim đường. Đục tảng đá đó hả? Có họa là nằm mơ. Và trong số những người mướn làm, nếu có đứa bép xép, làm phản thì sao? Nhưng cái lý lẽ mạnh mẽ nhất hai ông lão ấy đưa ra để phản đối là phải mất cả năm chưa chắc đã xong. Guiliano biết rằng họ ngại cái lý do thời gian và coi đó là trở ngại chính, vì trong thâm tâm, họ nghĩ là đoạn đường hầm ấy chưa xong, thì Guiliano đã ra người thiên cổ.
Bà mẹ của hắn cũng thoáng nghĩ như vậy. Nhưng cái tình mẫu tử đã át đi được cái ý nghĩ hung hiểm, đen tối ấy. Bà nói, giọng hờn mát :
- Thằng nhỏ nhờ các ông làm cái đó để đảm bảo an toàn sinh mạng cho nó. Nhưng nếu các ông ngại tốn công, tốn sức không làm, thì để đó tôi ráng làm cho con tôi.
Bà sụt sùi, rấm rứt khóc và đay nghiến :
- Ít ra thì cứ thử cái đã. Đằng này chưa gì đã bai bải, bai bải tại thế này, tại thế kia. Mình có tốn kém gì ngoài cái công sức ra? Nhà cầm quyền có phát giác ra đường hầm ấy thì đã sao? Mình hoàn toàn có quyền đào trên đất của mình. Mình cứ nói là ừ tôi sửa soạn làm cái hầm chứa rượu, chứa khoai... thiếu gì cách nói. Nghĩ coi, có thể ngày nào đó, đường hầm này cứu được mạng của thằng Turi. Chỉ bấy nhiêu đó, thì dù tốn bao nhiêu công sức cũng đáng.
Lúc đó, giáo sư Adonis cũng có mặt. Ông nói là cửa hầm trong nhà có thể ngụy trang làm chỗ để sách vở hay là thứ đồ gì cần thiết. Ông đề nghị thay đổi chút xíu để làm vừa lòng mọi người: làm thêm một nhánh đường hầm thông sang một căn nhà khác ở đường Via Bella. Coi như một cái ngách để thoát thân trong trường hợp nhà bị vây hãm, lối thông ra núi bị hỏng, bị lộ. Cái nhánh này có thể làm trước và chỉ do hai ông già và bà Maria Lombardo cùng làm. Như vậy, vừa không mất nhiều thì giờ, vừa không sợ lộ bí mật.
Lại tranh cãi về ngôi nhà nào đáng tin cậy. Ông bố Guiliano gợi ý là nhà của bà mẹ Pisciotta. Nhưng Guiliano bác ngay. Ngôi nhà này cũng bị nghi và bị canh chừng rất kỹ, không thua gì nhà của Guiliano. Vả lại, trong nhà ấy có cả núi người. Và như vậy dễ lộ bí mật. Hơn thế nữa, Aspanu đâu có thuận thỏa với gia đình y. Ông bố đẻ y chết. Bà mẹ rinh một ông chồng khác về. Aspanu không chịu và không bao giờ tha thứ cho bà mẹ y về chuyện tái giá của bà. Ông Hector Adonis đề nghị lấy căn nhà của ông. Nhưng cũng bị bác vì quá xa. Vả lại Guiliano không muốn ông bố đỡ đầu của hắn phải mang họa. Lỡ ra đường hầm bị lộ thì ổng bị phiền phức là cái chắc. Các nhà bè bạn hoặc bà con được nhắc tới cũng đều bị bác vì lý do này, lý do khác. Tưởng lâm vào thế bí, ai dè bà mẹ Guiliano đưa ra được giải đáp rất bất ngờ :
- Chỉ có một người. Chị ta sống có một mình, mà lại chỉ cách nhà mình có bốn căn. Chồng chị ta cũng bị bọn cớm bắn chết. Bởi vậy chị ta cũng thù mấy thằng cớm dữ lắm. Chị ta là bạn thân của tôi. Và cũng rất mến thằng Turi. Chị ta biết Turi từ lúc nó còn là con nít. Suốt mùa đông rồi lúc Turi sống trên núi, thỉnh thoảng chị ta cũng gởi thức ăn cho nó đấy thôi. Chị ta là bạn rất chân thành của tôi và tôi hoàn toàn tin cậy chị ta.
Bà ngưng một lúc rồi mới nói: La Venera.
Ngay từ lúc bà vừa nói, thì mọi người đã biết “chị ta” là ai rồi. Nhưng mọi người vẫn kiên nhẫn, chờ đợi để cho bà “chị ta”, “chị ta” hoài. Nhà của La Venera thì hợp lý quá đi rồi. Nhưng tất cả mọi người đang có mặt ở đó - ngoại trừ bà mẹ Guiliano - đều là dân “đực rựa” Sicilian. Có lẽ ngay từ đầu họ cũng đã nghĩ đến căn nhà này nhưng tự họ không tiện nói ra miệng. Nếu La Venera đồng ý và nếu chuyện vỡ lở ra, thì chắc chắn La Venera mang tai mang tiếng. Một người đàn bà góa còn trẻ, mà lại chịu để cho một chàng thanh niên qua lại nhà trong lúc chỉ có hai người với nhau thì ai mà tin được là không có chuyện “tòm tem”, ai mà tin được tiết hạnh của chị ta. Ở Sicily này sẽ chẳng có ai lấy, và cũng chẳng có ai trọng nể một người đàn bà như vậy. Đúng là chị ta hơn Turi tới mười lăm tuổi. Nhưng chị ta chưa đến bốn mươi. Chị ta không phải loại chim sa cá lặn. Nhưng, cũng đâu phải quỷ dạ xoa hiện hình. Đôi mắt cũng vẫn còn “long lanh” lắm. Đêm hôm, trong căn nhà chỉ có một người đàn bà như vậy và một chàng thanh niên như vậy mà lại không có chuyện “táy máy” thì chắc họ phải là thánh. Dĩ nhiên, họ chẳng thề non hẹn biển để ăn đời ở kiếp với nhau. Nhưng, không một người Sicilian nào tin rằng trong một khung cảnh như vậy, không một thằng đàn ông, một con đàn bà nào - dù có cách biệt về tuổi tác như vậy - lại chịu được cái cảnh cám treo, heo nhịn đó. Như vậy, đường hầm thông sang nhà chị ta có cứu được Turi hay không thì chưa biết. Nhưng chị ta mang tiếng xấu là cái chắc.
Cái mà mọi người đều hiểu và lo ngại, trừ Turi - là cái chuyện “bậy bạ” của đàn ông. Thật ra, đối với đàn ông Sicilian thì đó là thường tình. Tay chân bộ hạ của hắn đi Palermo chơi điếm lu bù đó. Và, Pisciotta thiếu gì những vụ chơi bời tai tiếng. Các “sếp” Passatempo và Terranova cũng có những nhân tình là mấy mụ góa chồng nạ dòng mà họ “tặng quà” đó thôi. Passatempo còn nổi tiếng là một tay hãm hiếp hơn là tán tỉnh yêu đương nhăng nhít, vợ lớn vợ bé tùm lum. Ấy là đã bị Guiliano cấm ngặt rồi đấy. Các tay em của Guiliano mà hãm hiếp đàn bà con gái là bị Guiliano “bụp liền”.
Chính vì vậy mà mấy người đàn ông kia nóng ruột xem chính miệng bà mẹ Guiliano nói ra xem “chị ta” là ai. Vốn bà là một người rất sùng đạo, nên họ rất ngạc nhiên khi thấy bà quyết định như vậy. Bà chẳng ngần ngại gì mà không gọi mấy con nhỏ là “đồ ** thõa” chỉ vì chúng ra đường mà không trùm khăn kín mặt. Họ không hiểu bà có rõ những điều mà hình như ai cũng biết về La Venera hay không. Rằng sau hai lần sinh nở bị trục trặc và vì thuốc men không có, nên La Vennera đã không thể chửa, đẻ gì được nữa. Nhưng họ đâu hiểu rằng đó chính là cái thâm ý của bà. Chính vì vậy mà Le Venera được bà coi là thích hợp nhất, an toàn nhất cho con trai bà. Con trai bà là một tên cướp, đầu bị treo giá rất cao và dễ dàng bị một con đàn bà phản bội. Trong khi đó, nó còn trẻ, tràn trề sinh lực, nó thiếu đàn bà sao được. Vậy, trong trường hợp này, còn ai thích hợp hơn La Venera, một người đàn bà lớn tuổi hơn nó mà lại không chửa đẻ gì được nữa? Và chị ta cũng chẳng muốn có chồng có con, vướng bận làm gì nữa. Vả lại, chị ta cũng chẳng muốn tái giá với một thằng ăn cướp. Cái cảnh làm vợ một tên cướp đã làm chị ta ớn phát sốt phát rét lên rồi. Cái cảnh thằng chồng bị bắn chết tươi ngay trước mặt đã là một ám ảnh rùng rợn, khó quên đối với La Venera. Bởi vậy, sự sắp xếp của bà mẹ Guiliano đúng là một cao kiến tuyệt hảo. Còn cái chuyện tai tiếng - nếu chị ta chấp thuận cho đào hầm - thì chị ta ráng chịu.
Vài ngày sau, bà chỉ mới vừa ngỏ ý thì La Venera đã “ô kê” liền, một cách đầy hăm hở, sẵn lòng. Thái độ khẳng định điều mà người ta ngờ là thấy cái thân thể cường tráng của Turi, chị ta đã thèm chảy nước miếng từ lâu rồi. Bà Maria Lombardo rơm rớm nước măt, tay ôm hôn chị ta, miệng nói cám ơn, nhưng lòng thầm nghĩ: “Đã muốn thế thì bà cho toại nguyện”.
Đường hầm thông sang nhà La Venera phải mất bốn tháng mới xong. Đường hầm thông đến chân núi cả năm nữa chưa chắc đã rồi. Thỉnh thoảng Guiliano lại lẻn về nhà ăn một bữa nóng sốt do bà nấu cho và ngủ một đêm trên cái giường êm ấm. Đường hầm thông sang nhà La Venera đã xong nhưng chưa có dịp dùng tới. Vào đầu xuân, dịp ấy đã đến. Tối hôm đó, bọn cớm tuần tiễu tới lui rầm rập trên đường. Đặc biệt, hôm đó bọn cớm được võ trang đầy đủ. Tuy đã có bốn cảnh vệ phục sẵn ở hai nhà hai bên, nhưng Guiliano cũng thấy là nên phòng xa trường hợp bất thình lình, bọn cớm ập vào lục soát. Lần đầu tiên hắn sử dụng đường hầm ấy. Phải mất mười lăm phút mới chui qua hết đường hầm để sang nhà La Venera. Cửa hầm phía nhà La Venera thì đặt ở bếp. Nắp hầm được ngụy trang bằng cái lò lớn, tro than phủ kín - Guiliano gõ vào nắp hầm theo ám hiệu. Đợi. Rồi lại gõ nữa. Súng đạn Guiliano không sợ mà sợ bóng tối mới kỳ lạ. Nằm trong hầm, Guiliano nghe tiếng lục cục trên nắp hầm. Sau đó, nắp hầm được nhấc lên. Hắn không chui lên ngay được, vì cái lò bị bể, nắp hầm chỉ hơi hé ra khiến hắn chui ra khó khăn và bị trầy da bụng.
Mặc dù lúc đó đã là nửa đêm, La Venera vẫn mặc bộ đồ tang màu đen u ám, buồn thảm. Chị ta để tang chồng chết cách đó ba năm. Chị đi chân đất, mà cũng chẳng mang bít - tất. Vừa ở dưới hầm chui lên thì cái đầu tiên mà hắn thấy là đôi bắp chân trắng trẻo của La Venera. Thật khác hẳn với nước da nâu trên khuôn mặt sạm nắng, với mái tóc đen, khô, cứng, dính bết lại với nhau trên đầu chị. Lần đầu tiên nhìn kỹ khuôn mặt chị, Guiliano thấy khuôn mặt ấy không bành bạnh ra như hầu hết mấy bà trong thị trấn. Trên mặt có vết tàn nhang mà vì trước đây không nhìn kỹ nên hắn không thấy. Trong tay, La Venera còn đang cầm cái xẻng chứa đầy than còn đỏ rực vừa xúc ở lò ra để mở nắp hầm. Chị lặng lẽ đổ than trở lại lò và đậy nắp hầm lại. Trông chị có vẻ sợ và tay run run. Guiliano nói cho chị an tâm :
- Tụi cớm đi tuần tiễu bên ngoài thôi. Khi tụi nó về trại, tôi sẽ chuồn liền. Quanh đây, tôi cũng có đặt anh em canh chừng cả.
La Venera pha cà-phê. Hai người trò chuyện nho nhỏ, nhưng vui vẻ. Chị nhận thấy hắn không có những cử chỉ hốt hoảng, cuống cuồng như chồng chị trước kia trong trường hợp như thế này. Hắn không chốc chốc lại hé cửa sổ, lấp ló nhìn ra ngoài, không giật mình mỗi khi nghe tiếng động mạnh hay tiếng ồn ào đột ngột ngòai đường. Hắn hoàn toàn bình thản, thư thái. Chị đâu hiểu là hắn đã tập cho hắn những cử chỉ, thái độ như vậy sau khi nghe kể những chuyện về chồng chị. Đồng thời, hắn cũng không muốn gây kinh hoàng cho bố mẹ hắn, nhất là cho bà mẹ. Nét mặt và cử chỉ của hắn toát ra sự tự tin và bình tĩnh, đến nỗi chị quên hẳn hắn đang trong tình trạng hiểm nghèo. Hai người nói chuyện với nhau về những điều vặt vãnh xảy ra trong thị trấn.
Chị hỏi hắn có nhận được những thực phẩm mà thỉnh thoảng chị gởi cho hắn hay không? Guiliano cám ơn và kể lại cảnh hắn và các tay em của hắn vồ lấy gói thực phẩm, cứ như bảy chú lùn tíu tít với gói quà do nàng Bạch Tuyết gửi cho. Các tay em của hắn nức nở khen tài làm bánh của chị. Nhưng hắn không nhắc lại câu pha trò tục tĩu của một vài đứa. Trong khi đó hắn cũng ngắm nghĩa chị rất kỹ. Chị không tỏ ra thân mật như khi có mặt mọi người khiến Guiliano thắc mắc tự hỏi không hiểu hắn đã làm gì khiến chị không bằng lòng. Khi nguy hiểm đã qua, và cho đến lúc hắn ra đi, hai người vẫn xử sự với nhau theo đúng khuôn phép.
Hai tuần lễ sau, Guiliano lại đến nhà La Venera lần nữa.
Mùa đông tuy sắp hết, nhưng trên núi gió lạnh còn thổi ào ào. Mái của những miếu thờ bên lề đường vẫn tí tách tiếng mưa rơi. Ngồi trong hang, Guiliano mơ màng nghĩ đến món ăn nóng hổi do bà mẹ hắn nấu, tới tắm nước nóng, tới cái giường êm ấm nó ngủ từ hồi nhỏ. Và đột nhiên, từ cái ký ức lộn xộn ấy, hình ảnh cặp giò trắng trẻo của La Venera hiện ra. Thế là, dù màn đêm đã buông xuống, hắn vẫn gọi mấy cận vệ đi xuống Montelepre.
Gia đình vui mừng đón tiếp. Bà mẹ sửa soạn nấu những món ăn khoái khẩu của hắn, đun nước cho hắn tắm. Ông bố hắn vừa rót ly rượu thì chợt có mật báo viên cho biết bọn cớm đã vây kín tất cả thị trấn và đích thân Maresciallo dẫn tóan đặc nhiệm đến lục soát nhà Guiliano. Hắn đành phải mở nắp hầm chui qua nhà La Venera. Trời mưa, đường hầm dính sình, lép nhép. Chui qua hầm trơn trượt, khó khăn. Và tất nhiên áo quần tay chân mặt mũi lấm lem. Nhìn thấy hắn, La Venera cười rũ ra. Và đó là nụ cười mà hắn không bao giờ quên được :
- Nom cậu như thằng mọi đen!
Guiliano cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương. Nhưng ngay sau đó hắn lại cảm thấy hắn con nít, ấm ớ, tự ái kỳ cục. Mà hắn tự ái cũng là phải. Vì trong các kịch rối của Sicily, mọi đen bao giờ cũng là vai vừa xấu xí, kỳ hình dị dáng, vừa tồi, hèn, ngu đần... Không bao giờ mọi đen là một anh hùng dù trong cơn nguy khốn vẫn đường hoàng, hào hùng, oai phong lẫm liệt. Như vậy, đối với chị ta, có lẽ hắn chỉ là một thằng cù lần. Hay có lẽ chị ta cười và nói vậy để gián tiếp cho hắn thấy là cái ước muốn thầm kín do cặp giò trắng của chị khêu gợi ra là cái mà người như hắn đừng có hòng mơ tưởng. Chị ta nhìn hắn mà hắn tưởng như chị ta chế nhạo “trẻ nít mà cũng học đòi làm người lớn”. Rồi thình lình chị ta nói :
- Để tôi đi nấu nước cho cậu tắm. Cậu mặc tạm đồ của nhà tôi còn lại, để bộ đồ kia tôi giặt cho.
Chị ta tưởng là hắn sẽ không chịu. Vì trong lúc nguy hiểm như thế này hắn phải bồn chồn, lo lắng. Lòng dạ nào mà nghĩ đến tắm rửa, thay đồ. Trước kia, mỗi lần ghé về nhà, thằng chồng chị lúc nào cũng dáo dác hốt hoảng, dễ giật mình đến nỗi chẳng dám cởi quần áo hay là rời tay khỏi cây súng. Nhưng, nghe chị ta nói đi tắm, Guiliano lại mỉm cười, cởi cái áo ngoài đầy đạn nặng trình trịch, để khẩu súng lục trỏng trơ trên cái thùng gỗ đựng củi.
Đun nước tắm cũng mất một lúc khá lâu. Trong khi đó, La Venera pha cà phê, ngồi đợi và ngắm nghía hắn. Chị ta nghĩ bụng “Cậu ta đẹp trai quá, đẹp như thiên thần”. Nhưng ý nghĩ lan man của chị lại nhắc chị nhớ đến anh chồng cũ của chị. Hắn cũng điển trai. Nhưng giết người thì hắn cũng “ngọt” tay lắm. Lúc hắn chết, thân thể nát bấy, co quắp nhăn nhó, nom xấu tệ. Ở cái đất Sicily này, đàn bà con gái mà đi mê mấy thằng đẹp trai là điều rất không nên. Lúc thằng chồng chị chết, chị ta khóc biết mấy. Nhưng cũng mau nguôi ngoai. Một thằng đàn ông đã chọn làm nghề ăn cướp, thì kể như cầm chắc cái chết trong tay. Một con đàn bà đã chọn thằng chồng làm nghề ăn cướp, thì cứ may sẵn bộ đồ tang, không sợ bộ đồ ấy cũ mất đâu. Chị ta rất thương yêu chồng. Nhưng mỗi ngày chị đều chờ đợi cái chết của y. Và mong rằng nếu y có chết thì chết trên núi hay ở nơi nào khuất mắt chị. Ấy thế mà y lại bị bắn chết ngay trước mặt chị, và chẳng bao giờ chị quên được nỗi nhục nhã. Nhục, không phải vì y là kẻ cướp, mà vì y chết hèn quá, không hào hùng chút nào. Y đã đầu hàng, đã van xin bọn cớm thương xót. Nhưng bọn chó đó đâu có tha. Cũng may, con gái y không trông thấy bố nó chết hèn như thế nào. Đó cũng là do Chúa thương.
Chị ta thấy Guiliano đang nhìn mình bằng con mắt thèm khát, hừng hực dục vọng của một thằng đàn ông. Chị ta biết thừa điều đó. Tay chân bộ hạ của thằng chồng chị cũng thường có những cái nhìn như vậy. Nhưng, chị ta cũng biết Turi không tìm cách quyến rũ, dụ dỗ mình. Vì lòng kính yêu bà mẹ hắn, vì lòng kính nể chị khi chị phải mạo hiểm cho đặt cửa hầm trong nhà.
Chị ta rời nhà bết đi vào phòng nhỏ khác để Guiliano tắm được thoải mái. Khi chị ta đã đi khỏi, Guiliano trần truồng ra tắm. Cái cảnh trần truồng tắm, bên cạnh đó lại có một người đàn bà, bảo sao lửa dục không khỏi bốc lên phừng phừng. Guiliano cố tắm thật kỹ. Nhưng càng chà xát thân thể bao nhiêu, ngọn lửa dục vọng như càng được khêu gợi bùng lên bấy nhiêu. Hắn nghiến răng, nhắm mắt, xối nước. Vô ích!
Hắn mặc tạm bộ quần áo của anh chồng cũ La Venera. Cái quần thì ngắn, cái áo thì chật đến nỗi không đóng cúc áo ngực được. Cái khăn tắm nhỏ xíu và chẳng khác cái giẻ lau không đủ để lau khô thân thể của hắn. Lần đầu tiên hắn mới thấy chị ta thật quá nghèo. Hắn quyết định thông qua bà mẹ để trợ cấp cho chị ta.
Hắn nói đủ cho La Venera ở phòng kia nghe thấy là hắn đã mặc quần áo, và chị ta có thể trở lại bếp dọn dẹp. Chị ta nhìn hắn từ đầu đến chân, ngạc nhiên.
- Thế ra cậu vẫn không chịu gội đầu. Trên đầu cậu có khi có cả ổ tắc kè không chừng!
Chị ta nói hơi gắt. Nhưng nghe ra vẫn là cái giọng “mắng yêu” nên hắn không thấy bị chạm tự ái. Giống như một bà mẹ già, chị ta đưa tay nắm mớ tóc bết dính bết lại với nhau vì do bẩn, dính đầy sình và cúi xuống thau nước.
Guiliano cảm thấy người nóng hừng hực khi bàn tay chị ta chạm vào đầu hắn, xối nước, thoa xà phòng - thứ xà phòng rửa chén - và chà mạnh đầu hắn. Trong khi chà như vậy, thân thể và nhất là cặp giò chị ta cà lên người hắn. Hắn phải gồng mình lên mới khỏi đưa tay lùa vào ngực và bụng chị ta. Gội đầu cho hắn xong, chị ta bảo hắn ngồi lên cái kệ tráng men đen, và lấy cái khăn lau màu nâu sỉn, chà xát làm khô tóc. Tóc hắn lâu ngày không cắt, dài phủ kín cả cổ.
- Nom cậu cứ như một tên quí tộc lưu manh, phá sản trong phim ảnh ấy. Để tôi phải cắt tóc cho cậu mới được. Nhưng, không cắt ở chỗ bếp này được vì tóc bay vào lu nước và thức ăn. Đi sang phòng kia.
Guiliano thấy thích thích, vui vui vì cái vẻ cố làm ra nghiêm nghị của chị ta. Chị ta đang cố thủ vai một bà dì hay một bà mẹ, để cố kìm hãm sự rạo rực đang làm loạn trong cơ thể của chị. Guilian dư biết tâm trạng đó. Vậy mà hắn vẫn cảm thấy e dè. Trong lãnh vực này, Guiliano rất ít kinh nghiệm, không có cái thói “nhăn nhở” của Pisciotta. Nhưng, hắn không tỏ ra là “ngốc”. Cũng giống như trong chiến tranh du kích, Guiliano chỉ ra tay khi hắn có ưu thế là nắm chắc phần thắng. Nhưng đây không phải là địa thế đã được thám sát. Mấy năm trời làm chỉ huy và giết người đã khiến hắn chai sạn, không còn cảm thấy sự e dè, ngượng nghịu của cậu con trai mới lớn khi gặp gái. Trái lại, hắn lại coi sự e dè, nhút nhát ấy là một cái gì vui vui, ngộ ngộ. Nếu có bị gái từ chối, hắn cũng chẳng thấy tay chân đờ đẫn, lóng ngóng, líu lưỡi. Hắn vẫn được tiếng là sống trong sạch, không chơi bời trác táng, mặc dù thỉnh thoảng hắn và bạn bè vẫn đi đến xóm chị em ta ở Palermo để nếm mùi đời. Nhưng đó là lúc trước khi trở thành đầu đảng cướp kia. Nhưng nay thì... trong các truyện cổ tích, có bao giờ nghe nói các anh hùng đi chơi bời bậy bạ.
La Venera đưa hắn vào một căn phòng có vẻ là một phòng khác, nhưng đồ đạc bừa bộn. Trên mặt bàn lồng kính có những tấm ảnh chồng và đứa con gái đã chết của La Venera, chụp chung có, chụp riêng có. Guiliano ngạc nhiên khi thấy ảnh chụp La Venera lúc còn trẻ. Nom cũng ra vẻ lắm chứ đâu có phải xoàng. Trong giây lát, hắn thoáng nghĩ tới anh chồng của chị ta cũng như bao nhiêu tội ác mà thằng cha này đã phạm có thể đem về những món nữ trang quần áo chị ta mặc lúc chụp tấm hình này. Với nụ cười buồn, La Venera nói :
- Đừng nhìn những tấm hình đó. Đó là những tấm hình chụp vào thời kỳ tôi nhìn thấy cuộc đời là màu hồng, tôi nghĩ là trần gian này có thể đem lại hạnh phúc cho tôi.
Chị ta nói thế, nhưng Guiliano thừa hiểu, trong thâm tâm chị ta cố ý cho hắn nhìn thấy những tấm ảnh ngày xưa son trẻ, mượt mà của mình. Cũng có nét lắm chớ.
Lấy chân xê một vật gì đó vào một góc, La Venera bảo Guiliano ngồi lên đó. Chị ta lôi từ trong một cái hộp da khá đẹp ra nào kéo, nào dao cạo... Đó là “chiến lợi phẩm” của anh chồng đã chết. Quay vào phòng ngủ, chị ta lấy ra một miếng vải trắng, choàng lên vai hắn...
Tiếng xe Jeep chạy đi chạy lại vun vút ngoài đường phố. Trên xe chở đầy lính đến bao vây, lục soát nhà của ông bà già Guiliano. Hắn bình thản như không vì biết rằng: một, nếu bọn cớm có bao vây và phá được cửa cài then kỹ như căn nhà của La Venera, thì Pisciotta và mấy tay em nó đã cho bọn cớm ăn no kẹo chì rồi; hai nữa, trước khi rời nơi đây, nắp hầm đã đậy lại, bếp lò to tướng chặn lên thì chẳng ai biết cửa hầm đâu nữa.
- Tôi vào bếp lấy súng đem ra đây cho cậu nhé.
Hắn nắm lấy tay chị ta, giữ lại và nói :
- Khỏi, tôi không cần vũ khí, trừ khi chị định lấy dao cạo cắt họng tôi.
Cả hai cùng cười. Guiliano im lặng cho chị ta cắt tóc. Hắn nhìn lên tường, chỗ treo tấm hình phóng lớn Rutillo Candeleira, thằng chồng đã chết của chị ta. Bộ ria mép kiểu kỵ binh làm cho anh ta có già trước tuổi, mặc dù lúc bị cảnh vệ bắn chết, anh ta mới ba mươi lăm. Trong hình, khuôn mặt anh ta trông cũng dễ ưa. Chỉ có đôi mắt và nhất là cái miệng là dữ tợn, độc ác và tán bạo. Nhưng khuôn mặt đó cũng thể hiện rõ cái vẽ nhẫn nhục, cam tâm chịu đựng. Như thể anh ta đã biết trước kết thúc bi thảm của đời mình, nhưng không biết làm sao tránh được, nên đành chịu phó thác cho số phận.
La Venera lúi húi cắt tóc cho hắn. Guiliano cảm thấy cặp đùi chị ta ép sát vào người hắn. Hơi nóng của cặp đùi ấy truyền qua lần vải thô của cái váy, thấm vào người hắn, cặp đùi chị ta hơi cách xa ra một chút. Nhưng lúc hơi cúi xuống, thì ngực chi ta lại cà cà vào mặt và môi hắn. Mùi thơm hơi mạnh toát ra từ thân thể chị ta làm cho mặt hắn nóng bừng bừng như đứng trước lò lửa. Hắn thấy tấm hình Rutillo Candeleira treo trên tường bỗng trở thành nhạt nhòa.
Cặp giò của La Venera lại ép sát vào cánh tay Guiliano. Hắn cảm thấy được làn da mịn của cặp giò ấy mặc dù cái váy chị đang mặc là thứ vài khá dày và hơi thô. Hắn gồng mình cứng như đá để chống lại cái ý muốn luồn tay tốc váy chị ta lên để ve vuốt cặp giò nóng hổi ấy. Chị ta áp sát vào hắn hơn nữa. Guiliano cất tiếng, giọng bỡn cợt :
- Giá tụi mình là Samson và Dalilah, nhỉ? [1]
Thình lình, La Venera hơi nhích ra, không áp sát vào người hắn nữa. Và Guiliano ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má La Venera. Chẳng kịp nghĩ ngợi gì, Guiliano kéo chị ta áp sát vào người mình. Chị ta nhoài người ra và đặt cây kéo xuống.
Hai bàn tay Guiliano luồn dưới váy vuốt ve cặp đùi mịn màng, nóng hổi, run rẩy. Cúi xuống, chị ta đặt cặp môi của mình gắn vào đôi môi hơi thưỡi ra của Guiliano. Và mút như muốn nuốt chửng cặp môi ấy. Cử chỉ ấy chính là hành động mở then cài cái cánh cửa nhốt con thú đam mê khoái lạc nhục dục bị giam hãm ba năm trời trong vòng tay “trai tịnh” của đời góa phụ.
Sau vài giây đầu tiên của cái khoảnh khắc ấy, Guiliano không còn ý thức được chính mình và thế giới bên ngoài nữa. Thân thể của La Venera săn quá, mịn quá và nóng hôi hổi. Sức nóng ấy thấm vào tận xương tủy Guiliano. Ngực của chị ta dưới làn áo tang che kín thật ra căng tròn, đầy đặn, rắn chắc và chĩa ra như khiêu khích. Nhìn hai cái nấm hình bán cầu ấy, Guiliano cảm thấy mạch máu trên đầu hắn nảy tưng tưng. Đôi môi tham lam của Guiliano dụi tới dụi lui trên hai núm vú.
Họ nằm xuống sàn nhà. La Venera cố nén đà cảm giác đê mê ngây ngất cho khỏi bật lên thành tiếng rên la khoái lạc. Những âm thanh “Turi, Turi” nghe ú ớ như tiếng người nói mơ và như tiếng văng vẳng từ xa vọng lại... Guiliano cảm thấy như bị tan biến trong cảm giác khoái ngất tột cùng trên thân xác bốc lửa của La Venera. Nhưng, như một đám cháy rừng thì một vài thùng nước có nhằm nhò gì. Những thèm khát, những đòi hỏi bị ức chế lâu ngày của cả hai người, cơ thể tràn trề sinh lực của họ làm cho cả hai cảm thấy còn hơn cả đám cháy rừng. La Venera dẫn Guiliano vào giường. Cả hai mới vừa đặt lưng lên giường thì cơn rạo rực của họ đã cuộn dâng lên như đợt sóng thần. Họ như hai con rắn quấn chặt lấy nhau...
Sáng hôm sau, Guiliano rời khỏi nhà bằng cửa trước. Súng giấu dưới áo khoác ngoài, hắn cẩn thận bước ra cửa. Hắn nói với La Venera là hắn không thể trở lại nhà để chào từ biệt bà mẹ và nhờ chị ta nói lại giùm. La Venera kinh sợ cho sự bình tĩnh và táo bạo của hắn. Nhưng chị đâu biết rằng hắn có một đội quân nho nhỏ đón sẵn ở đó. Chị ta đâu có để ý mà biết rằng trước khi hắn bước ra đường, hắn đã để ngỏ cánh cửa cả mấy phút để báo trước cho Pisciotta và đồng bọn. Lúc ấy, vô phúc cho tên cớm nào, vì bất cứ lý do gì, đi ngang đó, đều bị chúng “khử” hết.
Chị ta bẽn lẽn hôn hắn. Sự thèm thuồng còn thấy rõ trong cái hôn dù là phớt nhẹ đó. Chị ta thì thào :
- Chừng nào lại về?
- Bất kỳ khi nào có thể được!
Mãi đến trưa hôm đó, La Venera mới đến gặp mẹ của Guiliano. Thoạt nhìn chị ta, bà cũng biết ngay cái gì đã xảy ra. La Venera nom trẻ lại có đến mười tuổi. Đôi mắt màu nâu đậm long lanh. Hai gò má ửng hồng. Đúng là thài lài gặp *** chó. Bà Maria Lombardo thầm cảm ơn tình thân hữu, lòng can đảm và sự trung thực của chị ta. Và bà cũng thầm thỏa mãn vì sự thể đã xảy ra đúng y kế hoạch bà đã định. Đó là sự sắp xếp tuyệt vời cho con bà. Một người đàn bà không bao giờ phản bội. Một người đàn bà không bao giờ đòi hỏi gì ở nơi con bà. Dù yêu con hết sức, bà Maria Lombardo cũng không cảm thấy ghen tức như bất cứ bà mẹ nào cảm thấy khi thằng con trai cưng của mình yêu quí vợ con. Có lẽ bà sẽ thấy bực nếu La Venera nói lại cho bà hay là con bà đã khen những món ăn của chị ta gửi cho nó: “Turi nói là cậu ấy ăn gấp năm lần bình thường và thề chưa bao giờ cậu ấy ăn ngon như thế”.
[1] Samson - Dalilah: nhân vật truyền kỳ của người Do Thái có sức mạnh phi thường nhờ bộ tóc dài. Samson thường dùng cái hàm con lừa làm chùy để đánh quân Philistin. Tình nhân của Samson là Dalilah phản bội ông, lén cắt tóc của ông trong lúc ông đang ngủ và trói lại giao nạp cho quân Philistin. Samson bị trói vào cột đền thờ Pagan. Trong lúc quân Philistin đang làm lễ chiến thắng, Samson đã giật đổ cây cột làm cho cả đền thờ sụp đổ, giết chết hết quân Philistin và chính Samson cũng bị chôn vùi trong đống đổ nát của đền thờ. (N.D).