Mấy người đi tới khu lâu đài Dannow thì sương mù đã tan hết. Lá leo trùm phủ khắp nơi như một bức khăn liệm u buồn. Từ những ống cao trên mái lầu, khói lò sưởi đưa lên uốn éo vòng vèo dưới bầu trời nhạt sắc. Hào nước men chân bốn phía tường vây, mọc lên đầy rẫy những cỏ cằn.
Trước khi qua cầu treo, Swanhild đỗ xe lại. Oliver chỉ tay một khóm thông cao đứng che khuất một phần lâu đài và bảo Luna:
- Cái phòng bí mật ở ngay sau rặng thông kia đấy. Nếu trời không ẩm lạnh tôi sẽ đưa cô xuống xem và cô sẽ thấy cái cửa sổ có song sắt.
- Thế ra đứng ngoài cũng xem xét được căn phòng ư?
- Không. Vì tường dầy những hơn một thước, mặt tường ngoài cũng như mặt tường trong đều đục một khoảng để làm cửa sổ, nhưng không đục xuyên thẳng: khoảng khung cửa sổ phía trong không đối diện với khung bên ngoài nhưng chếch hẳn nhau. Cả những khi trong phòng thắp đèn, bên ngoài chỉ trông thấy được một tia sáng thôi.
Lúc đó trong phòng Holbein, lão Walton đã dọn sẵn mấy món điểm tâm và đốt sẵn lò sưởi; mọi người quây quần quanh lửa ấm trong lúc người lão bộc đi lấy chìa khóa để rồi sẽ mở những nơi cần vào thăm. Oliver xem qua các món ăn và cười:
- Mụ nấu bếp với người lão bộc nhà này thực là những vị phúc tinh! Những món này chính là những món ăn tôi thèm hôm nay đây! Từ lúc tôi thức dậy đến giờ, các bác ấy sao mà cố công săn sóc đến tôi một cách dễ chịu đến thế? Có lẽ họ sợ rằng tôi trốn mất để đi thắt cổ tự tử ở đâu chăng?
Swanhild trách:
- Khiếp! Anh Oliver! Anh chỉ nói dại!
- Chứ không ư? Mà cả đến cả cô nữa, miss Bartendale ạ! Tôi thấy cô cứ chốc chốc lại để mắt coi chừng tôi một lúc lâu.
- Cái đó có gì là lạ? Thế ông chẳng đã bảo tôi rằng ông với tôi trước kia đã từng gặp nhau đấy sao? Tôi có ý nhìn ông để cố nhớ xem gặp về dịp nào. Mà kìa, chìa khóa đây rồi!
Họ cùng nhau đi vào nơi cổ nhất của lớp dinh thự; mấy con chó thong thả đi theo sau. Gođard soi đường. Oliver vì hai tay không cử động được dễ dàng nên để phần cho Swanhild việc mở các cửa.
Đi hết một đường hành lang, nàng vặn một thứ khóa ổ riêng, rồi đến một chiếc khóa móc giữa then cánh cửa sắt. Cửa mở, hơi thấp lạnh ở trong ùa đến tận mặt họ. Vì dù là giữa mùa nực, cả một phần lớp dinh cơ này vẫn giá ngắt cùng với những đường khúc khuỷu, những bức tường ẩm sũng: những rầm gỗ mốc thuếch, những mặt vách chốc lở, những cửa sổ chằng mạng nhện và những đường bậc lung lay.
Tới một lối hẹp lát đá, Luna nghe ngóng và nói:
- Ô này! Ở đây có tiếng nước chảy.
Một cánh cửa sắt nữa quay trên trục han rĩ. Tiếng róc rách nghe rõ hơn lên. Dưới bước cửa, trong một hỏm tối mò, ánh đèn của Gođard chiếu tới một làn phẳng đen sì và lay động.
Oliver giảng giải:
- Đây là chỗ trữ nước để tháo ra các hào. Gođard, lại đây! Đến chỗ rẽ tay phải rồi.
Trong một góc có một cánh cửa lẩn vào giữa bề tường dầy. Oliver bảo mọi người:
- Phải cẩn thận đấy. Không khéo chỗ này có phiến đá long cũng nên.
Gođard dẫn đầu, bước xuống những bậc gỗ sến ghép rất xấu. Luna vừa toan bước theo, hốt nhiên rùng mình lùi lại, mặt tái mét, mắt mở trừng trừng. Gođard lo sợ hỏi:
- Kìa, cô làm sao thế?
Cô thấp giọng đáp:
- Có cái gì dưới ấy chứ chẳng không.
Swanhild tiến đến cạnh Luna, nhưng đôi mắt rèm tơ vàng của nàng yên lặng Luna chăm chú nhìn con chó Roska nó nhìn lại nàng ra chiều đồng ý. Con Alex thì không hiểu biết gì. Oliver vừa nói được nửa chừng câu:
- Giá cô đừng nên…
Nhưng cô đã bước xuống. Chàng đành phải xuống theo và sẵn sàng cái cánh tay không bị thương của mình để chống với những việc có thể bất kỳ xảy tới.
Một lát sau, mọi người đều đã vào cả trong căn phòng bí mật. Luna đứng bên cạnh cái bàn gỗ sến ở giữa phòng, nói:
- Trong này vẫn còn một sức ác hại làm chủ. Song ngay bây giờ thì nó chưa làm hại được tạ Đó là một việc ở ngoài sự thường, nhưng không phải là một sự phi thường với cái đại danh quan trọng của nó, không phải là cái phi thường viết bằng chữ hoa.
Swanhild hỏi ngay:
- Thế có thuộc vào cái thế giới u linh “chiều thứ năm” kia không?
- Quyết là không! Nếu phải thì hai con chó kia đã cảm được thấy. Vậy mà chúng nó vẫn đứng yên có tỏ ra vẻ gì khác đâu?
- Thì con Holder ở trong rừng cũng vậy, tôi không thấy nó báo trước sự gì.
Luna Bartendale lẳng lặng cầm lấy chiếc đèn đi xem xét khắp phòng. Gođard theo sau cô để có xảy ra việc nguy hại gì thì đã có anh đấy.
Phòng này là một công trình xây dựng rất vững chắc. Tường và mặt đất toàn bằng những phiến đá lớn. Từng súc gỗ sến khỏe mạnh nâng đỡ lấy mặt trần ghép bằng những phiến đá nhỏ hơn. Có hai lò sưởi thắp dầu hỏa, lơ láo trong nơi cổ kính này, người ta mới vỡ lẽ ra rằng căn phòng tuy ở gần những hào nước mà vẫn là nơi ít ẩm thấp hơn cả mọi nơi khác trong tòa lâu đài. Duy bức tường đối diện vơi bậc thang xuống phòng là để hiện ra mấy khoảng mốc rêu quanh những cánh cửa sổ. Gođard mở những cửa ấy ra: một hơi gió lạnh đưa vào trùm quấn lấy mọi người. Họ nhìn qua cái khung bưng chấn song sắt, chỉ thấy được những hình đá đen sì vì trải qua bao năm tháng và hỗn độn một khóm thông in hình trên nền trời sáng mờ.
Mặt trần cũng như khoảng trên, bốn mặt tường đều có khói ám đen, có lẽ là do một cái bếp lò bằng gạch xây ở giữa khoảng chỗ bậc thang và cửa sổ. Trên cái bàn giữa phòng, bốn pho sách lớn, đóng bìa da và hơi lỗ chỗ ẩm mốc, đặt nằm cạnh chừng hơn một chục bình và bát bằng đất nung. Trước mặt cái bếp lò, sắp hàng những phẫu lửa hắt vàng khè và một mẻ lọ phủ đầy bụi và chằng chịt mạng nhện. Trong một góc phòng, chồng chất những miếng đá xám và đá hoa.
Luna lấy chiếc cành cây ra và hỏi:
- Có phải chỉ có độc một phòng này là làm trong bề dầy của bức tường không?
Swanhild đáp:
- Có lẽ. Vì không còn chỗ tường nào khác là nghe có tiếng rỗng kêu trong. Chúng tôi đã dò xét mặt vách khắp nhà mà không thấy gì.
Luna:
- Bọn quân lính có lẽ đã phá hủy mất cái cốt yếu, nhưng vẫn còn lại một vài cái haỵ Phiến đá vỡ kia là thế nào?
- Chính là phiến đá khắc cái bài hát mà tôi nói chuyện với cô đấy. Chắc là vì người ta nậy ra khỏi tường nên mới vỡ ra như thế, mà nậy ra chắc hẳn họ mong tìm được chìa khóa sự bí mật tưởng giấu ở trong. Chỗ tường lõm kia là chỗ đặt phiến đá đấy.
Luna úp hai tay lại giữ cho cành cây lung lẳng ở giữa rồi đi vòng quanh phòng. Cành cây cất lên hay hạ xuống tùy theo lúc cô đi gần tới hay xa dần cái bếp lò. Cô dừng chân lại cạnh lò xem thì cành cây cô giơ ra phía trên lò nhè nhẹ quay mình. Luna lẩm nhẩm nói:
- Kỳ dị lắm. Song những dấu hiệu này còn mơ hồ lắm, mà cũng chưa đủ.
Cô lật ngửa những cái hũ úp và đặt chân lần lượt trên từng cái một. Cành cây chợt nhiên ngóc thẳng lên ở trên một cái hũ lớn bụi bám đen két trên vung. Swanhild nhấc cái hũ lên xe nhờ Gođard đến đỡ lấy hộ. Lau cho sạch bụi rồi chàng thò tay vào sờ xem trong đựng vật gì. Chàng nói với miss Bartendale:
- Một khối gì đóng rắn lại y như là cát với muối vậy.
Oliver đưa cho bạn một miếng đá và bảo:
- Anh hãy đập cái hũ này ra xem nào.
Tức thì cái hũ biến thành một đống mảnh vụn lẫn với sạn cát và những hòn muối đóng vừng. Gođard gật đầu:
- Cát với muối thực.
Cành cây rung động khi mũi giầy Luna đặt lên cái chất luyện lạ lùng ấy. Cô giảng giải:
- Chắc hẳn trong nầy còn có gì khác nữa kia. Chốc nữa tôi hãy xem lại.
Cô đến bức tường thứ ba: cành cây liền ngoáy tíu tít. Luna thở gấp và đưa ngón tay nhẹ lần từ trên xuống dưới mặt tường. Khi tay cô đưa cao lên thì cành cây cử động rõ thêm; khi tay cô đưa lên cao nữa cho đến hết tầm thì lại thấy nó dịu dần. Nhưng lúc hạ xuống ngang tầm vai, nhịp lay động gấp lên rồi bỗng nhiên cành cây tuột khỏi tay cô, rơi xuống đất. Tiếng rơi động ấy khiến mọi người nhận thức bầu im lặng bao bọc lấy cái quang cảnh diễn ra vừa rồi.
Cô quay lại phía các người đi theo, đưa tay vuốt trán mình và nhìn họ bằng đôi mắt sợ hãi. Cô trỏ một phiến đá tường mà nói, giọng quả quyết:
- Chìa khóa sự bí mật chính ở đây đấy. Mà gớm ghiếc lắm, kinh tởm lắm kia đó!
Gođard đập tay lên mặt đá nói:
- Nhưng bức tường này đặc kia mà?
- Tôi đã nói thế nào là quả quyết tin như thế đó!
Mặt cô xanh tái đi, miệng mím lại, lộ ra một sự dụng công phi thường của trí não. Cô đứng lại một lát gần cửa sổ rồi vừa sửa gọn lại mớ tóc uốn vừa bước lại gần mấy người: nét mặt đã tìm về được vẻ bình tĩnh. Cô bảo họ:
- Tôi theo học khoa học này đến nay đã có mười ba năm trời rồi, mà lần này mới là lần thứ ba tôi thấy cách báo hiệu giống như thế. Tôi dám nói quyết rằng tuy bề ngoài không có vẻ gì nhưng phiến đá kia giấu một vật ghê tởm lắm đó!
Gođard xem xét lại hòn đá cẩn thận.
- Vâng. Cô nói phải đấy. Chỗ kẽ đá không gắn bằng bột đá mà lại bằng đất sét! Tôi lại chắc rằng phiến đá này có thể lấy ra, lắp vào được chứ chẳng không.
Swanhild nói:
- Thế thì phải có một cái gì lấy ra mới được.
Nàng liền rứt cái lưỡi gà ở chiếc giầy của nàng ra, lấy trong túi một con dao con và một đoạn dây gai, cắt cái lưỡi gà thành một miếng hình tròn mà nàng dùi một lỗ ở chính giữa; nàng xỏ qua lỗ ấy sợi dây đã thắt nút một đầu. Nàng cắt nghĩa:
- Dùng cái này thì đến gạch xây tường cũng giựt ra được. Tôi học được cái mẹo vặt này ở một người buôn lậu đấy.
Trong khi ấy, Gođard đi cạo chỗ đất nhét ở kẽ phiến đá, còn Luna thì đọc những nhan đề mấy pho sách để trên bàn.
- Sự ước muốn của lòng ước muốn này, Abraham tâm thư này, Duodeeim Portarum này. Ông Hammond ạ, sách hay cả đấy, mà xét ra cũng hiền lành thôi. Nhưng ta không nên quên rằng có lẽ quân lính của Cromwell đã hủy mất sách cấm hồi ấy.
Swanhild dán cái miếng da cho hút chặt lấy mặt phiến đá. Vừa kéo có một cái một tảng đá dài chừng hơn nửa mét đã tụt ra. Gođard ghé vai đỡ lấy mang đặt trên bàn. Rồi chàng kêu lên:
- Ô lạ này! Nửa phần đáy mở được lên như cái nắp đậy! Miss Bartendale, cô lại đây mà xem.
Luna đến xem.
Cái nắp đã mở. Một mùi tù hãm lâu ngày, khô khan lạnh nhạt và tanh tởm đưa ra. Swanhild rùng mình, bất giác đứng lùi lại.
Trong phiến đá rỗng lòng có hai khúc dài và dẹp bọc trong một thứ khăn mốc meo. Gođard rũ cái gói thứ nhất ra và dưới ánh đèn làm rơi xuống một vật nhăn nheo dài chừng 20 phân. Oliver đoán phỏng:
- Dễ thường là một gói xì gà giấu trong ấy từ bốn trăm năm nay, chắc?
Swanhild vẻ khó chịu, lắc đầu:
- Không, một cuộn da có lẽ đúng hơn.
Gođard lật lên xem, hốt nhiên chàng chùi vội tay lên áo măng-tô đang mặc trên người. Chàng cằn nhằn nói:
- Ồ! Một bàn tay! Bàn tay của một cái xác ướp(#1).
Họ ngoảnh nhìn cả về Luna cô vẫn thản nhiên nhìn họ.
- Bàn tay danh vọng đấy!
Đó là lời truyên ngôn của cô.
Chú thích:
(1-) Xác ướp: là xác người chết ướp bằng những thứ thuôc riêng để không tiêu nát được, chỉ khô đét lại, như xác vua Ai Cập ngày xưa.
Một bầu yên lặng nặng nề chìm phủ khắp phòng: Swanhild, Oliver với Gođard trầm ngâm tưởng nhớ đến cổ tích ghê sợ. Ánh sáng bên ngoài lọt qua cửa sổ chỉ vừa đủ để khiến cho có vẻ huyền ảo trên những bộ mặt (đổi khác đi vì thứ bóng tranh ngày tranh tối bên trong) cũng như trên cái vật nâu sẫm và ghê tởnm rơi trên mặt bàn. Duy chỉ có một mình Luna là có vẻ thực hiện.
Mãi sau Oliver mới hỏi:
- Bàn tay danh vọng nghĩa là thế nào, miss Bartendale?
- Là bàn tay một kẻ giết người, bị thắt cổ chết. Người ta ướp tay ấy bằng liễu thạch với muối sau khi đã đốt lá cỏ phượng vĩ đực và cỏ mã tiền để sấy cho khô.
Oliver đưa mắt nhìn cái bếp lò. Chàng hỏi:
- Thế còn những vết kinh tởm ở trên đầu những ngón tay kia tự đâu mà có?
- Ở những ngọn sáp nấu bằng mỡ người. Những điều ấy đều có ở trong sách Tà thuật Tự điển và cũng ở trong pho sách ông đang tỳ tay lên kia.
Gođard rùng mình lên. Luna lại nói:
- Có “bàn tay danh vọng” này, người ta dễ tìm được những kho của chôn giấu.
Swanhild hỏi:
- Thế, nó liên hệ ra sao đến chuyện con quái vật.
- Cái đó thì chỉ có trời biết! Có lẽ ta tìm được dấu hiệu có ích trong cái gói thứ hai này.
Gođard cẩn thận giơ cái gói ra:
- Nặng.
Một vật rất đẹp màu xanh và vàng lấp lánh rơi xuống mặt bàn. Đó là một cái đốc gươm bằng đồng đã rỉ. Hình hai giải băng bằng đồng quấn lấy cái nắm chuôi gươm. Lần này mới thấy Luna tỏ ra vẻ kinh lạ. Cô ngắm nghía kỹ càng cái vật mới tìm được đó và nói:
- Thứ gươm này thuộc vào loại cổ kiếm. Tôi rất lấy làm lạ sao nó lại có trong này. Cụ Pháp sư chắc hẳn đã chế cái bàn tay kia để dùng vào việc riêng của mình, nhưng còn thanh gươm này thì chẳng biết ông cụ lấy được ở đâu rả Mà tại sao ông cụ lại giấu nó cùng với cái bàn tay nhỉ? Cô chỉ cho Swanhild thấy hai miếng băng vàng khảm vào mặt đồng cũ. Tuy đã nhẵn mòn, song vẫn còn rõ được những dấu hiệu trên đó. Cô bảo:
- Đấy là cổ tự Bắc Âu. Những chuyện cổ tích miền Bắc thường vẫn nói đến những lời thần chú khắc trên các đồ binh khí. Nếu quả thực thanh gươm này không phải là của già thì đã có được trên hai ngàn năm rồi. Chỗ khảm vàng kia có lẽ mãi lâu lám về sau mới thêm vào đó.
Oliver kinh ngạc, nhìn người thiếu phụ hỏi:
- Chả lẽ cô cho rằng con quái vật phát khởi từ miền Bắc, vào thời đại loài người mới biết đồng, sao?
- Không, tôi không bảo thế. Bởi vì cái ta tìm thấy đây ta cũng chẳng biết có dính dáng đến nó không kia. Nhưng từ trước tới nay, việc khảo cứu môn quái vật và phù thủy, dân miền Bắc Âu người ta vẫn xao lãng một cách kỳ dị (ta không thể căn cứ vào đâu được để mà nói); song một cổ tục ghê ghớm lưu truyền từ cái miền u ám và giá rét kia tới đây cũng có thể có được lắm chứ! Nhưng tôi xin thú thật rằng hiện giờ thì tôi chưa tìm được một đường lối nào mà dò.
Olievr có ý nói để an ủi cô:
- Trong một ngày cô cho chúng tôi biết được nhiều điều hơn kẻ khác trong bốn trăm năm nay.
- Tôi chỉ mới thấy rõ nhất được điều này, nó làm câu chuyện rắc rối thêm lên: là những việc xảy ra với những ngày tháng không có gì ăn nhập với nhau hết. Nếu, quả như lời cụ Warlock đã trối lại, sự bí mật khám phá ra được là nhờ bàn tay với thanh gươm này, thì sao trước khi chết, ông cụ lại không cho biết chỗ giấu những của ấy? Mà nếu những của ấy không có gì liên lạc với con quái vật, thì sao ông cụ lại phải giấu giếm những của ấy một cách khôn khéo đến thế?
Swanhild bàn:
- Hay là ta tìm mãi sẽ thấy được điều gì khác nữa cũng nên.
- Cái đó chưa chắc! Cái bàn tay, cũng như cái hũ sành và cái bếp lò dùng để nấu chất muối ướp và sấy cái bàn taỵ Duy chỉ có những thứ ấy là những vật khác thường mà khoa thuật của tôi thấy được.
Swanhild thử ngỏ một ý:
- Thế ngộ lại là một vong hồn thì sao?
- Nếu có vong hồn nào lần khuất trong đây thì mấy con chó kia và cả tôi nữa sẽ cảm biết được ngay tức khắc.
Swanhild lại hỏi:
- Nhưng, nếu sự bí mật lại ở trong cái trời thứ năm kia thì sao?
Luna hơi nhíu mày. Nàng chậm rãi đáp:
- Tôi chưa để tâm xem xét đến điều ấy.
Theo một cách thức cô dặn bảo, mọi người đi gõ các mặt tường, nhưng không thấy gì. Rồi cô giao cho mỗi người dò xét cẩn thận trong một pho sách, để xem có những dấu ghi chú bên cạnh trang hoặc có những chữ gạch dưới có thể ghép thành một thứ di ngôn bí mật nào chăng. Khi Luna xem xong pho sách về phần mình cô liền đi nhìn lại khắp phòng trong lúc bọn kia tiếp theo công việc của họ. Cái phiến đá khắc chữ khiến cô chú ý đến. Luna lau chùi cẩn thận cho hết bụi cát bám trên. Swanhild bảo cô nàng:
- Tôi có một tấm ảnh chụp rất rõ, nếu cô muốn xem, tôi sẽ đưa cho cô xem. Trên ảnh cũng chỉ có những câu vè mà cô đã nghe tôi đọc trước.
Luna:
- Phiến đá này có lẽ đã bị nậy lên từ trước khi xảy ra cái thảm kịch cho cụ Warlock, vì chỗ trống dưới đất (chỗ đặt viên đá khi trước) tôi thấy cũng ám két những muội khói như mọi chỗ khác trong phòng này, mà cái bếp lò kia thì từ ngày ông cụ mất không đốt lên lần nào cả. Thế ra cái phiến đá này vẫn ở nguyên chỗ trong cả cái thời kỳ ông cụ làm việc ở đây.
Swanhild:
- Ồ! Không. Một phần mãnh vỡ đã dùng để làm cái bếp kia. Đấy cô trông, vẫn còn những chỗ vỡ còn mới hơn.
Luna:
- Vậy, thế ra ông cụ Warlock cho là những câu vè khắc trên phiến đá không có một ý nghĩa đặc biệt nào ư?
- Những câu ấy không ẩn một sự bí mật nào. Đó chỉ là một lời dặn trước.
- Cô em nên biết rằng, không còn cái gì khêu gợi sự ngờ vực của tôi bằng những việc bề ngoài có vẻ minh bạch nhất. Trong việc này, nếu những câu vè kia không có một ý nghĩa nào hết thì vì cớ gì người ta lại mất công khắc vào phiến đá ấy?
Swanhild vẻ trầm ngâm:
- Tôi chưa lần nào ngẫm nghĩ đến điều đó. Thế còn cô, cô có ý kiến nào không?
- Không vì những ngày tháng hỗn độn khiến tôi cũng khó nghĩ. Mỗi chi tiết trong các việc, từ thanh gươm tối cổ cho đến việc cụ Warlock lấy những mảnh đá để bắc lò, đều có liên lạc đến vấn đề này mới phải. Nhưng hiện giờ thì tôi lại không thấy sự liên lạc! Kìa, hai ông kia xem sách xong rồi. Thế nào? Các ông có tìm được sự gì lạ không?
Oliver lắc đầu:
- Ông cụ không để một dấu tích nào đáng để ý về các tội của ông cụ.
Luna sửa lại:
- Hay là bề ngoài không có gì đáng để ý. Nhưng thôi, ở đây thấy lạnh rồi đấy, mà tôi tưởng hiện giờ chúng ta cũng chẳng làm được việc gì trong này nữa. Mang những cái này ra khỏi phòng có được không, hở ông Hammond?
- Được ạ. Cô muốn đem cái gì thì cư đem. Nhưng chẳng nhẽ cô định lấy cả bàn tay ra nữa sao?
- Cái bàn tay ma quái ấy ư? Không! Đến cầm gậy mà đụng vào tôi cũng chịu! Nhưng tôi muốn đem cái đốc gươm kia trao cho một nhà bác học chuyên môn khảo về cổ ngữ Bắc Âu, thôi.
- Cô lấy tay cầm đến cũng không có gì đáng lo ngại chứ?
- Không. Phép tai họa của yêu quái chỉ nhập ở bàn tay kia với những vật liệu dùng để chế hóa cái bàn tay ấy thôi. (Cô chìa cái đốc gươm ra). Đây này, ông cứ nhìn xem một vật đẹp đẽ như cái đốc gươm này không lẽ gieo họa cho người được.
- Nếu vậy, xin cô cứ đem lên. Còn cái bàn tay kia thì tính sao bây giờ?
- Ông lại bỏ nó vào nơi đã giấu nó. Tôi sẽ có cách khiến nó thành vô hại được.
Gođard lại đầy phiến đá dựng bàn tay vào hõm tường như trước. Luna lấy trong sắc ra một chất dẻo màu trắng và lấy thứ cỏ lá khô đem trát vào đường kẽ. Cô giảng giải:
- Lá tôi trục được ma quỷ, còn sáp ong làm chúng bại liệt ở một nơi. (Thấy bọn kia giương mắt ngạc nhiên nhìn, cô tiếp luôn). Tôi thì tôi không nhất quyết tin ở hiệu lực của những thứ này lắm, nhưng nếu nó không giúp được ích gì thì nó cũng chẳng hại gì.
Lúc mọi người ở trong cái phòng bí mật cùng bước ra, lúc tai lại nghe tiếng ồ ồ thê thảm của nguồn nước đen tối, họ cùng lấy làm vui mừng. Oliver thở ra một tiếng dài và rùng mình.
Gođard nói:
- Mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra rằng những cái ta trông thấy vừa rồi thực là gớm ghiếc.
Oliver lầu nhầu:
- Tôi thì tôi không muốn nghĩ đến nữa! Khiếp! Cái mùi xông ra mới kinh tởm làm sao! Mà lạ thực, hình như tôi đã ngửi thấy mùi này ở đâu rồi. Không khí lúc bấy giờ như là đầy những…
Gođard vui vẻ chêm vào:
- Những con bướm đen khổng lồ có những con quỷ xanh trên mình, phải không? Thôi đi, anh chàng này! Đầu anh cũng khá lộn xộn rồi đấy, còn quấy những tư tưởng hắc ám làm gì nữa. Sáng hôm nay như thế cũng đủ rồi.
Luna đưa mắt cho chàng tỏ ý khen phải, nhưng Oliver có vẻ bực tức ngoảnh lại bảo chàng:
- Gođard ạ, tôi không nói đùa đâu. Nếu tôi ở trong phòng ấy lâu hơn nữa thì tôi có thể nhớ ra cái nơi mà tôi đã ngửi thấy cái mùi kỳ quái kia là nơi nào cũng nên.
Giọng nói chàng khàn đi và tay chàng đưa lên thái dương.
Swanhild cảm động quá không biết ngăn giữ cách nào, chỉ lo ngại nhìn chàng rồi đưa mắt cho Luna một vẻ khổ sở tuyệt vọng.
Luna nghiêm nghị nói:
- Bao giờ tôi truyền lệnh cho ông được nhớ lại thì ông hãy nhớ!
Giọng cô dõng dạc vang lên như tiếng kèn quân lệnh bên tai chàng. Oliver khe khẽ nhắc lại.
- Khi nào cô… truyền lệnh cho tôi ư?
- Phải. Mà từ giờ cho đến lúc đó, nếu ông muốn cho cô em được yên ổn và ông được yên ổn, thì ông không được để tâm nhớ lại một tý gì, ông nghe chưa?
Chàng lặng im. Rồi bỗng nói:
- Tôi chắc hẳn cô đã giải quyết được việc này rồi.
- Cũng có lẽ. (Giọng cô không được ôn tồn). Nhưng một nhà chuyên khoa không bao giờ hồ đồ nói ra những điều chưa nghĩ chín. Khi nào tôi biết rõ ý nghĩa những hàng cổ tự kia, lúc đó sẽ là lúc lập luận. (Cô dịu giọng xuống). Còn bây giờ, ông Hammond ạ, bây giờ thì mọi người chúng ta đều cần phải nghỉ ngơi. Cô cất tiếng khẽ cười, nhưng trong giọng nói và trong tiếng cười kia có một sự gì khiến mọi người không ái dám hỏi han câu nào nữa.
Khi trở về tới những căn lầu dùng để ở, họ có cái cảm tưởng như vừa thoát khỏui một giấc ác mộng. Thấy lão Walton nóng lòng nóng ruội đi qua đi lại trong hành lang, lo ngại bout rout, họ mới nhận thức đến những giờ lâu đã ở lại trong căn phòng bí mật.
Lúc ấy viên thanh tra liên phóng Steying đang đợi họ trở về để khởi cuộc chất vấn. Miss Bartendale không cần phải có mặt ở đó nên Swanhild đưa cô vào phòng Holbein và trao cho cô những bản cảo gia phả cuỳng bức ảnh chụp nàng đã hứa trước. Sau khi viên thanh tra xong việc đã đi khỏi, ba người đến tìm cô thì thấy Luna đang cúi mình trên một bản giấy rất lớn trên mặt thảm. Oliver gieo người xuống một cái ghế bành và hỏi:
- Cái này là gì thế, cô?
Luna:
- Ông không nhận ra cái gia phả đồ của nhà ông từ trước đến năm 1650, ư?
- Chúng tôi chưa bao giờ mở đến hết cuộn giấy.
- À, ra thế kia đấy! Ông chỉ cần biết rằng đời mình về trước đã có những ai trong tôn tộc thế là đủ chứ gì? Vậy chắc hẳn ông cũng không biết rằng dòng dõi ông phát tích từ Đan Mạch ấy nhỉ.
- Từ Đan Mạch kia?
- Phải. Bao nhiêu việc đều cho ta tin được như thế: Cái tên Swanhild ít có kia ở thế hệ nào cũng thấy có, cái vẻ người Bắc Âu rõ rệt trên khuôn mặt dáng người của anh em nhà này cũng giống các vị tổ tiên trước theo như các bức chân dung kia. (Nàng trỏ bản gia phả đồ). Đây, ông trông cái hình ngành nhánh này mà coi(#1) : đó là chi nhánh của vị thủy tổ nhà này đó. Tôi dịch nghĩa những câu chú thích cho mà nghe: Con trai Magnus Hammond, chi phái của tôn thất Đan Mạch, kết hôn với bà này. Bà này tức là bà Edith, người Anh và là người thừa tự những trang trại gia sản về hồi đó.
- Trời! Mà cái gươm về “tuổi đồng” kia cũng là gươm miền Bắc Âu!
- Ta tiến được nhanh lắm rồi đó, có phải không? Ta biết rằng một người Đan Mạch ngang tàng táo tợn ngày xưa kết duyên với con gái thừa tự một họ có đã lâu đời ở nước Anh. Kẻ hung đồ kia hẳn là tàn sát cả họ nhà người vợ mình ngay hôm ăn cưới. Nhưng chuyện đó ta hãy gác ra ngoài. Phụ thân người chàng rể tất là một nhân vật có địa vị cao, vì ngành ăng-lê về sau đã lấy tên họ người ấy làm tên họ nhà. Ông trông đây này: đây là một dấu mực đỏ cho ta biết rằng ông cụ kia là người đầu tiên bị con quái vật hại, không thì ít ra cũng là nạn nhân đầu tiên bị hại ở nước Anh.
Swanhild hỏi:
- Thế nghĩa là con quái vật xuất hiện trong dòng họ cùng một thời kỳ với người Đan Mạch tên là Magnus, phải không?
- Chính thế đó. Rồi mấy thế kỷ sau, trong bọn họ con cháu, có một người cũng tên là Magnus chuyên tâm học tà thuật, đã tìm được cách giấu kỹ cái gươm Băc Âu tối cổ kia. Người chàng rể hung đồ, thanh gươm và cả những cây thông nói đến trong những câu hát – bằng ấy điều là bằng ấy dấu tích đưa đường cho ta dò tới xứ Đan Mạch. Buổi sáng hôm nay thực ta đã làm được nhiều điều hay đó. (Cô đổi giọng, nói tiếp). Bây giờ hai giờ chiều rồi. Trong lúc phần hiện thực của tôi đi ăn cơm thì phần tiềm thức của tôi đi sắp đặt các tài liệu đã gom góp được, rồi tôi sẽ do đó mà suy ra xem các việc đã xảy ra trong căn phòng bí mật có những ý nghĩa gì.
Oliver mở miệng toan hỏi, nhưng cô khoác tay Swanhild vừa nói luôn:
- Thôi, không bàn luận nữa; làm việc thế là đủ. Giờ ăn cơm phải coi là giờ thiêng liêng.
Gođard vui vẻ khen phải. Chàng bảo riêng với Swanhild:
- Tôi chẳng biết về mặt linh hồn học thì cái nhà cô kia có những tài năng gì, nhưng quả thực cô ta ngăn cấm Oliver, không cho anh ấy nhớ lại chuyện trước đấy chứ?
Bữa ăn hôm ấy vui vẻ lắm. Sự dè dặt mà Luna giữ trong lúc tìm xét trước, bây giờ đã biến mất: cô chỉ còn là một người xinh đẹp nhất trong mấy người quanh bàn ăn. Cô đưa câu chuyện về những buổi ca vũ Nga, đến việc home rule(#2) và bình phẩm những cuốn sách mới xuất bản. Anh em nhà Hammond tưởng chừng như đã quen biết cô lâu ngày rồi. Oliver thì chưa bao giờ nói chuyện mình nhiều đến thế. Chàng cho người thiếu phụ biết hằng mớ những chuyện về ngày thơ ấu của mình và em gái mình, về tính nết và thói quen của hai anh em. Còn Swanhild thì trái lại, nàng không nói gì qua: tâm tính nàng đang có những điều mâu thuẫn.
Sau khi đã bình tĩnh uống xong chén cà phê, Luna ngỏ ý lại làm việc nữa. Oliver khuyên:
- Cô hãy nghỉ ngơi lấy vài giờ đã nào.
Cô đáp:
- Nhưng mấy giờ nữa thì tôi đã lên đường đi Hassocks và sẽ ra hẳn phòng Holbein rồi còn gì.
Cô cầm lấy bản cảo và bức ảnh chụp ở trên bàn rồi nói:
- Mà tôi có thể nói được cho các ông biết đoạn những lai lịch mà tôi tìm được trong truyện này. Con quái vật bắt đầu vào dòng họ nhà ông cùng với người Đan Mạch Magnus và cho đến năm 1456 các vị tổ tiên nhà này vẫn biết cái hình thể, tính cách của con quái vật và biết cả cái lẽ tại sao nó lại hiện về.
Swanhild nghi hoặc:
- Cho đến năm 1456?
Luna đưa ra tấm ảnh chụp:
- Phải ạ. Đây này! Bức ảnh này đủ chứng tỏ rằng chuyện người nối nghiệp trong họ được người nhà cho biết một việc bí mật ở căn phòng giữ kín và những câu vè kia cũng vậy, không được cho người nào khác được biết đến nên chữ trên phiến đá vụng dại không phải là do tay nhà nghề khắc lên. Bài vè mà ngày nay dân gian đều biết cả, hồi ấy vẫn giữ một ý nghĩa kín.
Oliver nói:
- Bài hát xem ra rõ nghĩa lắm kia mà.
- Xem ra thì thế! Lời nói quả là một sự kỳ ảo biết chừng nào! Vậy, bởi lẽ trên kia, tôi đoán rằng những người kế ngiệp về sau trong dòng họ này đều lần lượt được dẫn đến căn phòng kín để biết nghĩa những câu vè.
Swanhild:
- Thế thì làm thế nào mà lại quên cái nghĩa ấy được?
Luna:
- Bao nhiêu đàn ông trong dòng họ cô đều bị giết hết trong cuộc chiến tranh Blore Heath năm 1456, chỉ trừ có Magnus (vị Pháp sư) hồi ấy mới sơ sinh: mà Magnus thì lại không được ai trối lại sự bí mật cho biết nữa. Về sau dụng công dò xét, ông cụ Pháp sư mới khám phá được một đôi phần: con quái vật đã biến hẳn ròng rã một thế kỷ rồi, ông cụ lại phụ nó về, nhưng không có phép nào giam cầm được nó như trước nữa. Cái phép ấy tất có chỉ rõ trong cách cúng lễ truyền dạy cho con cháu trong nhà phải cứ mà theo.
Oliver:
- Vâng, tôi hiểu ra rồi. Rồi đến sau, khi bọn quân liùnh phá phách trang trại khu này, chúng đã tiêu hủy mất mọi dấu vết, cả đến cái biển đá khắc, chúng cũng bẩy lên.
Gođard vẫn chăm chú đọc những bản gia phả đồ, và đã thấy ở bản thứ hai, khởi đầu là tên: “Oliver, sinh năm 1893”. Chàng cũng nói:
- Các điều trên kia xem ra đều có lý cả. Tuy thế, miss Bartendale ạ, cô thử trông đây này: từ đời cụ Magnus tủy tổ(#3) vào khoảng năm 830 cho đến đời ông cụ Ẩn tu vào năm 1392, trải qua năm trăm sáu mươi hai năm trời, trong vòng chừng ấy năm, con quái vật trước sau đã hiện lên tám bận. Rồi từ đời Warlock, vào năm 1526 cho đến ngày nay, bốn trăm năm trời, con quái vật xuất hiện có bảy bận. Vậy thế ra vào cái hồi người nhà còn biết được cái phép cúng lễ mà cô cho là một cách hộ mệnh kia, con quái vật lại hiện lên nhiều gấp rưỡi sau này (nghĩa là từ cái hồi mất phép hộ mệnh?) Như thế là tại sao?
Chàng soi mói nhìn Luna đợi trả lời. Cô đáp:
- Có lẽ vì trong cuộc hành lễ ngày trước có hiến cho con quái vật những thứ hy sinh nhiều hơn cũng nên.
Oliver vội kêu:
- Vậy là hy sinh nhân mạng rồi còn gì! Ồ miss Bartendale! Nếu thế thì thực kinh tởm độc ác quá!
- Chưa chắc! Vả lại việc thí mạng ấy cũng không đến nỗi ghê sợ quá nếu do ở sự tình nguyện tâm thành.
- Nhưng những kẻ thí mạng có phải tự mình muốn chết đâu?
- Tôi chưa thể nói thêm một điều nào bây giờ trước khi biết rõ rệt các ngày tháng.
Cô vừa một tay mơn nghịch cái rãnh cằm dưới môi, vừa cuộn bức ảnh chụp lại. Oliver trầm ngâm ngắm nghía cộ Ngượng vì chàng cứ chăm chăm nhìn như thế hoài. Luna lại xem bứa ảnh lần nữa. Cô nói:
- Hai câu đầu của bài hát:
Ở đâu thông mọc um,
Đêm sao, lạnh và rét…
Còn đủ mọi chữ, nhưng ở dưới, mặt đát sứt mẻ, những chữ đầu câu thứ ba mất hẳn. Vậy những chữ thiếu là những chữ gì?
Swanhild đáp:
- Chữ: “Chief of” (gia trưởng của)
- Thế thì câu vè thành ra: “Người gia trưởng của Hammond sẽ tìm thấy lúc chết”, phải không? Tôi, tôi không nghĩ như thế. “Người gia trưởng của họ Hammond” nghe xuôi hơn, nhưng vẫn còn đáng ngờ lắm.
Gođard bàn:
- Hay là tại cách gò câu trong bài bắt buộc người làm thơ phải xoay đổi ý câu thơ?
- Cũng không phải. Trong các khúc hát về trung cổ thời đại thì bao giờ cũng chỉ có nhịp câu là bị coi thường thôi.
Oliver cúi nhìn bức ảnh và nói:
- Chữ đầu tiên là chữ C.
- Ta có thấy được cả chữ đâu? Chỉ còn có một nửa chữ mà có thể là phân nửa chữ O, chữ Q, chữ G hay chữ S cũng được.
- Thế thì sao?
- Cũng theo cách đoán này, chữ cuối cùng chắc cũng không phải là chữ F, mà là một thể biến hình của một chữ cổ hay là đầu chữ Z hay chữ L.
Nàng lấy bút chì đo những hàng chữ.
- Sau nữa, dù hình thể có kỳ dị mặc lòng, những chữ này từng khoảng bằng nhau và mỗi tiếng cách nhau bởi hai điểm vừa vặn đặt một chữ. Nếu là những tiếng “Chief of” thì phải có tám khoảng cách đều nhau. Vậy mà ở đây ta chỉ thấy có bẩy. Thế thì đáng lẽ Chief of Hammond (gia trưởng của nhà Hammond) như người ta vẫn tưởng, những chữ khắc trên đá phải là những chữ khác mà ta chưa đoán được. Ta cứ tạm đặt thế này:
?????? HAMMOND
Chú thích:
(1-) Ngành nhánh: Gia phả bên Âu thường mượn một cái cây chia ra các cành để chia ngành nhánh từ tổ tiên đến con cháu. L.N.D.
(2-) home rule: Địa phương ngự tri.
(3-) Magnus tủy tổ: Xin nhớ trong dòng họ này có hai người cùng tên Magnus: người sau là Magnus Pháp sư
- Thực là bài đố rắc rối làm sao! Cô có chắc rằng những tiếng thiếu mất kia đổi được ý nghĩa câu hát không?
- Cái đó cũng không chắc lắm, vì tiếng thiếu chỉ có tất cả sáu chữ. Ta thử xem nào. (Vừa nói cô vừa biên những chữ có thể ghép theo nhiều cách khác nhau). Cái tiếng thiếu kia có thể như thế này:
C x x x x L C x x x x Z
G x x x x L G x x x x Z
O x x x x L O x x x x Z
Q x x x x L Q x x x x Z
Cô ngẫm nghĩ một lát rồi lại nói:
- Dù sao, cái đó cũng không có gì quan hệ trong lúc này.
Cô bỏ mảnh giấy đi, nhưng Gođard cầm lấy và nói:
- Tiếng đầu tiên có thể là C-R-U-E-L. Thiếu một chữ nhưng cruel có lẽ người ta viết có hai chữ L.
Luna:
- Cũng không có nghĩa gì.
Gođard vẫn chưa chịu thôi:
- Hay là C-O-R-B-E-L. càng tồi thêm. Thử tìm đến chữ G xem nào. G-O-S-P-E-L chăng? Lại càng dở hơi hơn nữa. Đến chữ O: O-R-I-E-L HAY OĐ-U-L-L phân làm hai tiếng O dull Hammond? Kể cũng xuôi, nhưng vẫn không có nghĩa lý gì. Còn những tiếng đằng sau có chữ Z thì tôi chẳng tìm được tiếng nào.
Luna vẫn cúi đầu nhìn bức ảnh chụp. Cô nói:
- Những câu khác trong bài hát đều rõ cả:
Where grow pines and firs amain
Under stars sans…
Cô bỗng ngừng bặt, giấu mặt úp trong lòng bàn tay và nhẹ gõ đầu ngón tay hai bên thái dương. Một lát sau cô ngửng đầu lên nói:
- Tìm tòi mãi được ích gì đâu? Tôi mệt lắm rồi, không muốn nghĩ đến những cái vặt vãnh vô nghĩa lý ấy nữa. Trước khi lên đường, tôi muốn được xem cái xác con chó kia của ông Oliver đã.
Ba người đứng dậy để cùng đi. Nhưng cô nói:
- Không! Xin cứ để lão quản gia dẫn tôi đi cũng được. Mấy người chuốc thêm phiền muộn nữa cũng không ích gì. Với lại, tôi muốn được xem xét một mình thôi.
Nửa giờ sau Luna trở lại, Oliver kêu lên:
- Trời ơi! Miss Bartendale! Người cô nặc những hơi xú uế!
Cô nàng nhăn mũi lại nói:
- Đối với một người quý mến loài vật thì công việc ấy thực là việc thương tâm. Nhà chuyên trách ở đây chưa hề động đến.
- Vâng. Viên cảnh sát đã đánh điện tín xin London phái một viên thanh tra ty Scotlandyard về tận nơi.
- Viên thanh tra cũng sẽ không tìm được gì đâu. Xác con chó không mang một dấu nào khác lạ; mà tôi chắc con chó chưa hề cắn bất cứ người nào hay vật nào. Thôi, thế bây giờ thì xin từ giã mọi người, tôi đi về đây.
Swanhild khẽ nói:
- Nhưng mà…
Luna đỡ lời:
- Nhưng mà ta chưa một điều kết luận nào về việc này, chứ gì! Tôi còn chưa biết gì được ý nghĩa câu cổ tự thì vẫn chưa làm được chuyện gì thêm.
Swanhild giọng nói như van nài:
- Thế nhưng…
Oliver an ủi nàng:
- Swan! Nếu miss Bartendale nghĩ rằng chưa nên cho ta biết điều gì bây giờ thì ta chỉ nên nghe theo, đừng căn vặn làm gì nữa.
- Thế ra miss Bartendale định bỏ mặc chúng tôi hay sao?
Luna nói ngay:
- Không! Mọi người ở đây không có chuyện gì xảy ra nữa đâu. Vả lại chỉ có một mình ông, ông Hammond ạ, chỉ có ông là người có thể gặp nạn được, thì ông đừng có vào trong phòng bí mật mà cũng đừng bao giờ đến bất cứ chỗ nào có thông mọc, cứ giữ như thế cho đến lúc giáp mặt tôi.
- Thế bao giờ cô lại đến?
- Chính ông tự đến chỗ tôi ngày mai.
- Ngày mai ư?
Chàng tỏ vẻ sung sướng nhắc lại câu đó.
- Vâng, ngày mai. Vì ông đã mạnh rồi đó, có thể đi được đấy. Ông có cam đoan với tôi rằng ông phải theo đúng lời tôi cho đến lúc gặp tôi không?
- Xin cam đoan. Mà địa chỉ của cô ở đâu?
- Số nhà 15, Bispham Gardens, Chelscạ Tôi ở với cô tôi, bà Yorke, nữ nhạc sĩ dương cầm ấy mà. Tôi muốn gói cái đốc gươm kia được chứ?
Oliver nhanh nhảu:
- Ồ, tôi có một cái hộp xì gà cũ, đựng cái ấy thì tiện lắm.
Rồi chàng đi tìm ngay hộp xì gà. Gođard khẽ huýt một tiếng sáo dài ngạc nhiên; chàng bảo Swanhild:
- Swanhild này, anh chàng Oliver tự nhiên thành vui vẻ nhanh nhẹn đến lạ, phải không!
Luna:
- Đó là vì tôi đã cho ông ấy một phương thuốc riêng để phấn khởi tinh thần đó.
Swanhild:
- Thế mà sao cô chẳng nói gì cho chúng tôi biết với?
- Đó là ở trong kế hoạch của tôi. Mặc dù tôi ái ngại cho cô cứ phải lo lắng đến đâu mặc lòng, tôi cũng chỉ cho biết đến thế là hết.
Cô đặt bàn tay lên vai Swanhild và đăm đăm nhìn người thiếu nữ. Đôi mắt cô lúc đó không có vẻ trầm mặc, cũng không long lanh sáng, nhưng mà dịu dàng, hiền hậu xiết bao! Hai tay kia khép lại giữ thêm khăng khít bên vai, khiến Swanhild tức khắc thôi run sợ và vẻ mặt tươi tắn ngaỵ Luna bảo nàng:
- Cô cứ tin ở tôi. Tôi hiểu rõ những việc tôi làm. Lần này không phải là lần thứ nhất tôi phải giải quyết một chuyện bí mật. Tôi xin thú thực rằng việc này khó khăn một cách khác thường. Cô quay đầu lại phía Gođard nói qua vai. Ông Covert ạ, những lời tôi dặn cô Swanhild vừa rồi cũng là nói với ông nữa đó.
Gođard ngượng ngịu mỉm cười, trong lúc đôi mắt chàng vẫn trang nghiêm. Chàng đáp:
- Tôi biết rằng cô đem hết tài lực ra làm việc thực, nhưng tôi chưa được chắc rằng cô đã khỏi lầm đường. Nếu quả như lời cô tưởng, cái phép bí nhiệm kia, người dòng họ này từ hồi phân tranh Đôi Hồng(#1) trở về trước vẫn còn biết, nếu quả thế thì sao về thời ấy người bị chết lại còn nhiều hơn các thời về sau?
- Tôi chưa nói cho ông biết tôi cắt nghĩa việc đó thế nào đấy nhỉ. Vậy lời tôi sẽ phân giải có lẽ cũng được ông không bỏ ngoài tai. Từ hồi phân tranh Blore Health trở về sau, ta chỉ thấy có những hành vi của con quái vật, những chuyện tai hại nó gây nên. Còn từ hồi phân tranh kia trở về trước, người ta biết được hình thể con quái vật thế nào, nhưng lại không rõ nó khởi thuỷ từ đâu và vì những nguyên nhân gì mà có liên lạc với họ Hammond. Phần tôi, tôi tưởng đã định được hình thù của nó; tôi lại có hy vọng sẽ tìm được nó xuất phát từ đâu mà đến.
Gođard:
- Tôi mong rằng cô thành công.
Swanhild lo lắng hỏi:
- Mà nếu biết nó phát khởi từ đâu mà ra thì cô liệu có cách khiến nó không tác hại được nữa không?
- Điều đó thì, chậm lắm đến chiều mai là cùng, tôi sẽ trả lời cho cô biết.
Chú thích:
(1-) Đôi Hồng: Cuộc nội chiến ở nước Anh từ năm 1455 đến 1485 trong hai nhà quyền phiệt, York một bên và Lancastre một bên. Một nhà lấy hoa Hồng trắng và một nhà lấy hoa Hồng đỏ làm biểu hiện
Khi Luna Bartendale ra khỏi lâu đài Dannow thì sương mù đã tan hết. Vừng mặt trời ló qua những kẽ mây lơ lửng trên cồn cát, trông khác nào con mắt một giống ma quái đang hóm hỉnh nhìn xuống cõi thế giới hỗn mờ và xam xám, thoai thoải ở dưới chân mình và đang nghĩ một cách để trêu ghẹo.
Vì Oliver nài mãi, cô để cho chàng tự lái xe đưa đến tận nhà ga Hassocks. Lúc chiếc xe ra khỏi thung lũng, Luna ngoảnh lại nhìn một lần sau cùng cái lâu đài vươn hình ở dưới một bầu trời hâm hẩm.
Chàng bảo Luna:
- Một ngày kia, thế nào có lần cô sẽ đến thăm miền Sussex của chúng tôi mới được.
Cô thôi ngắm cảnh và quay lại. Chàng đăm đăm nhìn Luna: đôi mắt đẹp long lanh kia không hề lẩn tránh.
- Tôi nghĩ thế này: giá tôi mà địa vị Ông thì tôi làm cho tan tác hết mọi viên đá. Tôi phá hết các rừng cây trụi nhẵn và bừa xới thực sâu các ruộng đất. Tôi đổi tên làng xóm, thay đổi tên họ thế rồi tôi bỏ đi, sống ở một xứ thuộc địa, xa biệt hẳn bao nhiêu điều kinh khủng gây nên bởi cái hương hỏa tổ truyền ghê gớm kia đi.
Oliver dịu mắt nhìn cô, ôn tồn nói:
- Cô mệt nhọc trong người đấy, cô Bartendale ạ.
Mặc dầu có vết thương cạnh trán và vẻ tinh tường. Chàng nói thêm:
- Thôi, không nhắc đến chuyện Dannow nữa, ta nói đến những điều cô đã làm ơn cho tôi ngày gặp gỡ đầu tiên. Hồi ấy tình cảnh tôi khổ hơn bây giờ kia.
Luna rùng mình:
- Không! Không có việc gì tai hại bằng con quái vật.
- Có chứ: có cái việc đã khiến cho một người đàn ông suýt nữa phát khóc. Cô Bartendale ạ, cô nhân từ quá đấy: tôi chắc cô cố ý muốn quên việc trước đi để nương nhẹ lòng tự ái của tôi đấy thôi. (Chàng sắc mắt nói tiếp). Thế nào, cô đã nhớ ra rồi đấy chứ.
Cô vừa để tâm tìm lại một cảm tưởng chóng biến vừa hỏi:
- Ở đâu thế nhỉ.
- Thôi, để tôi kể đầu đuôi cô nghe. Cô hãy tưởng tượng ta ở một nhà ga London: sân ga, một chuyến tàu nhà thương vắng khách. Tôi nằm trong một toa trơ trọi một mình và tủi cực hết sức. Không ai biết ra đón tôi cả vì bức điện vẫn báo trước không được rõ ràng. Lúc ấy tôi cho đó là một điềm gở của sự chết. Đáng lẽ Swan đã phải ở đó, đi đi lại lại sân ga để đợi đón thuyền tàu của tôi.
Chàng thở dài, hạ thấp tiếng xuống:
- Miss Bartendale ạ, nếu trong hồi chiến tranh, bọn đàn ông đã biết thế nào là cái khổ của địa ngục, thì cũng có những người đã hiểu thế nào là thiên đàng chỉ vì đã được rời bỏ một chuyến tàu nhà thương để lại được thấy mặt người đàn bà vẫn thương yêu họ.
Luna nhìn đôi mắt, dịu dàng hỏi:
- Thế ra ông lúc đó, chỉ có một thân một mình thôi sao?
- Vâng, chỉ trọi có một mình. Tôi cố tìm cách trỗi dậy, nhưng không ai để mắt đến tôi: bọn khán hộ thì bận túi bụi lên vì những người bị thương nặng. Thành ra tôi cứ sụt sùi khóc mãi, thiếu chút nữa thì đến gào lớn lên. Ồ! Những cái khổ sở nhỏ nhặt kia trong cái khoảng từ năm 1914 đến 1918, sao mà có vẻ to tát quan trọng đến thế! Ấy, giữa lúc đó thì một người đàn bà ở đám đông hiện ra, lăng xăng như một con ong trong đám hoa hồng… người ấy đưa tôi đến một chỗ yên tĩnh, lấy chiếc khăn tay được hương cỏ mới ra lau nước mắt cho tôi; muốn tránh cho tôi khỏi bị những con mắt tò mò của đám người dòm ngó, người ấy đứng che khuất trước mặt tôi – mà tôi thì to lớn gấp hai người ấy – rồi đặt và miệng tôi một điếu thuốc lá và châm lên cho tôi hút. Và trong khi làm các việc đó, người ấy nhìn tôi một vẻ nhìn vỗ về phấn khởi, đôi con mắt sáng như gợi sự can đảm và sự sống vào lòng tôi.
Rồi không yên tâm, chàng tiếp:
- Những điều tôi vừa kể hình như làm cô không được vui lòng thì phải.
Nàng khẽ đáp:
- Không! Ông cứ nói nữa đi.
- Người ấy căn vặn hỏi han tôi một diều, đi đánh một bức điện tín thứ hai, rồi lại đi tìm một người bị thương khác mà không có săn sóc, cho chúng tôi ở một chỗ rồi đưa chúng tôi lên một chuyến hẳn hoi. Miss Bartendale ạ, trong cái hồi dài dặc tôi chịu bệnh, cái buổi gặp gỡ kia đã thêm được sức mạnh cho tôi. Tôi muốn được sống mãi để tìm thấy người đàn bà nhỏ nhắn kia, người đàn bà có đôi mắt sáng trong và được mùi hương cỏ mới.
Luna nói:
- Chỉ chút xíu cũng đủ làm hởi lòng một người binh sĩ bị thương.
- Về sau, tôi tìm kiếm người ấy khắp London, nhưng bao nhiêu nhân viên nhà ga đều đã thay đổi cả. Tuy thế, tôi biết rằng thế nào một ngày kia tôi cũng sẽ lại được gặp người ấy.
Luan nhìn chàng, và lần ấy mới là lần đầu tiên cô trông thấy chàng thực. Từ sáng đến lúc ấy đối với cô, Oliver chẳng qua chỉ là một khách hàng thôi. Từ bây giờ trở đi thì đột nhiên chàng không là hạng riêng biệt như trước nữa, chàng đã thành một chàng trai, thái độ lặng lẽ, đứng mực nhưng hoạt bát tự nhiên, một nét mặt thanh tú như cô em và đôi mắt cũng đẹp như cô em. Cô đoán biết ở chàng một tâm hồn khí khái, cương quyết và một tính tình u trầm. Cô thấu hiểu chàng ngay và nhận rõ thấy chàng qua những tổ tiên chàng là số người đã quyên sinh ngay sau khi gặp thấy con quái vật.
Một sự gì mới lạ và bất ngờ nảy ra trong tâm hồn cô trong lúc mắt cùng dò sâu trong mắt. Cô ruồng đuổi cái ý tưởng chưa thành lời, nhưng đàn bà là hạng người không cần đến ngôn từ mới định nghĩa được tình yêu. Cô bối rối vì sự im lặng quá nặng nề, bỗng hỏi:
- Đến Hassocks rồi đây, phải không?
Oliver cũng cảm động trả lời:
- Phải, đến rồi.
Chàng nhận thấy rằng cái phép lạ quan trọng nhất và giản dị nhất vừa mới làm trọn. Nhưng Luna lại vừa trải qua những phút đau khổ nhất đời cô, lòng vò xé bởi một điều bí ẩn mà cô đã khám phá ra được từ lúc còn ở Dannow.
Đã đến nhà ga Hassocks rồi.
Swanhild lúc đó cũng theo kịp hai người trong chiếc Mercedes. Nàng băn khoăn hỏi Luna:
- Cô chắc rằng đêm nay không việc gì chứ?
- Chắc. Sáng mai cô gửi cho tôi một bức điện tín và đừng ngại cho tôi biết bất cứ việc gì xảy ra, cũng đừng quên rằng 11 giờ mai tôi chờ hai người ở nhà tôi đấy nhé.
Đứng trong cửa sổ toa xe lửa. Luna dặn dò nốt những điều phải làm cho Swanhild lúc đó đứng dưới sân gạ Chắc hẳn năm xưa, lúc ở mặt trận trở về quê Oliver cũng thấy em gái chàng đứng như thế.
Gặp mắt chàng, Luna hiểu rằng chàng cũng đang nghĩ như mình. Cô tự trách về sự đồng tâm ấy, và rắp định từ nay sẽ giữ gìn tình ý một cách kín đáo hơn.
Ngồi một mình trong toa, nghe tiếng đều đều một điệu như ru của đoàn tàu đang chạy, trông ánh sáng cuối ngày soi qua cửa sổ, cô để tâm hồn chìm đắm trong sự suy nghĩ trầm ngâm. Con Roska ghếch đầu lên gối cô: mắt nó như phản chiếu nỗi xốn xang trong lòng cô chủ. Tên một ga gần tới London kéo cô ra khỏi nguồn mơ tưởng. Cô bực mình vì thấy con chó có vẻ ngần ngại:
- Cần quái gì! Roska! Nghề nghiệp của ta là phải thế kia mà!
Cô mở cửa kính để liệng ra ngoài sương mù một gói gì nho nhỏ. Rồi vừa soi gương sửa lại mũ, và đánh lại mặt phấn, cô nói tiếp:
- Ta chỉ nên nghĩ đến công việc là hơn.
Xuống ga Victoria, cô mua một số Evening Post, bản phát hành buổi tối. Mấy hàng chữ lớn in trên đầu báo:
Ma quái hiện về chăng?
Một án mạng ly kỳ trong miền Sussex
Và ở dưới, chữ nhỏ hơn:
Sự bí mật khu lâu đài cổ Dannow càng ngày càng thêm dầy đặc. Tin tức sau cùng.
Một anh chàng người xương xương, ở một toa khác vừa xuống, cùng đến một lúc với Luna bên hàng bán báo. Chàng ta nhã nhặn biếu người thiếu phụ một số báo còn gấp có buộc kèm theo một túm cỏ (primrose) và một cành thông con. Vừa cười, anh chàng vừa bảo Luna:
- Cỏ lá hái được ở Dannow trong cuộc đi săn tin tức đặc biệt đấy! Thưa cô nữ thám tuyền đáng quý của tôi.
Luna do dự cầm lấy túm cỏ và đáp:
- Tommy, anh thực là một đứa tai quái trơ trẽn nhất đời. Gọi một cái xe cùng đi với tôi, rồi tôi hứa sẽ nhỏ cho một giọt nước mắt khi nào anh bị treo cổ.
Thomas Curtiss cười. Anh chàng phóng viên nhà báo United Press ấy công nhận:
- Phải ạ, phần nhiều bọn nhà báo chúng tôi đều đáng treo cổ tuốt thực, nhưng chính cô, cô cũng vẫn bảo tôi là người ở trong cái số ít tội nhất kia. Có lẽ vì thế mà cô đã đánh điện tín cho tôi ngay từ lúc cô biết có những việc xảy ra ở Dannow chứ gì?
- Biết đâu chỗ đó?
Luna bước lên xe hơn, Thomas ngồi bên ngọt ngào dỗ:
- Luna ơi, người bạn của Luna từ lúc còn thơ ấu là Tommy(#1)này, liệu có thể tách bạch hẳn với anh chàng đặc phóng viên tên là Curtiss này được không để xin Luna cho biết rằng Luna đã khám phá được cái bí mật ở Dannow chưa?
Chú thích:
(1-) Tommy: Tên Thomas, gọi hoặc tự xưng trong lúc thân mật