BẢY VIỄN, MƯỜI TRÍ TRỘM XUỒNG VƯỢT ĐẢO
GẶP BÃO BIỂN SUÝT CHẾT NHƯ CHƠI
Đêm không trăng nhưng nhiều sao. Đài khí tượng báo tin bão nên thầy chú và tù nhân đi ngủ sớm hơn thường lệ. Mới 20 giờ đêm mà đây đó vắng lặng. Bỗng từ Sở Lưới có bốn bóng đen khiêng một xuồng ba lá hối hả đi nhanh ra bãi biển.
Đây là người tù vượt ngục: Bảy Viễn, Mười Trí, Năm Bé và Sáu Nhị. Bảy Viễn và Mười Trí bị đưa ra đảo chừng một tháng thì liên lạc được với Năm Bé ra từ lâu. Năm Bé đã chuẩn bị kế hoạch vượt ngục bằng xuồng ba lá đánh cắp của Sở Lưới. Sẵn dịp này, cho hai bậc đàn anh “quá giang” về đất liền cho có bạn.
Vừa ra tới mé biển, cả bốn người đứng nhìn trời nhìn nước rồi lại nhìn nhau. Gió cấp 7, cấp 8, sóng cao như những dãy phố lầu. Bảy Viễn quyết định nhanh gọn:
- Đem xuồng trở vô. Để y chỗ cũ. Chôn hết đồ đạc. Chờ hết cơn bão sẽ tính.
Thế là chuyến đi bất thành. Phải trở về khám giam, xóa hết dấu vết, giữ bí mật hoàn toàn. Năm Bé bắt bồ với thầy chú ở Sở Lưới, đánh cắp chìa khóa kho, nhờ Ba Rùm ở Bản Chế làm một chìa giả để ăn cắp chiếc xuồng ba lá. Vượt biển trong mùa đầy giông bão bằng xuồng ba lá là một sự liều lĩnh ít ai dám làm, thầy chú không hề lo ngại về chuyện xuồng bị đánh cắp.
Bảy Viễn và Mười Trí được giam riêng theo lệnh của bồi thẩm Ếch-teo, nhưng cả hai đều là “dân Côn Đảo”, quen biết với tất cả thầy chú.
Dù không mang theo tiền, họ vẫn mua chuộc được thầy chú bằng những lời hứa hẹn “sẽ đền ơn trọng hậu nếu về tới đất liền”. Với những tướng cướp cỡ Bảy Viễn, Mười Trí lời hứa của họ được bảo đảm bằng vàng.
Ba ngày sau, bão tạm lắng dịu. Cuộc phiêu lưu lại tái diễn. Từ Hòn Lớn, họ đâm qua Hòn Bãi Cạnh, hướng sang Hòn Tre. Đi từ 7 giờ mà đến 9 giờ không tới Hòn Tre. Phải quay trở lại, đi ngang đảo chính là điều nguy hiểm. Sáu Nhị ém sát mé núi bên kia. Lúc vượt qua Mũi Đá Trắng, Sáu Nhị tái mặt rung tay: “Vùng này có cặp ngỗng thần từng nhận chìm thuyền bè qua lại”. Nhưng bốn anh em đang ở trong thế không thể lùi bước, phải cắn răng tiến tới thôi. Không bao lâu xuồng tới núi Chúa. Biển êm như mặt ruộng. Gió nhẹ, Bảy Viễn đem bàn cờ tướng ra rủ Mười Trí đánh:
- Đánh cờ giữa cảnh trời biển bao la mới là thần tiên, phải không mày?
- Chà, bàn cờ đâu mà đẹp vậy?- Mười Trí xem mấy con cờ tiện trên gỗ mun khắc chữ thật khéo.
Bảy Viễn hãnh diện:
- Của một người tù già. Ông ta để thì giờ nhàn rỗi làm món quà kỷ niệm định gởãi về cho con, nhưng nghe tao trở ra đảo, ông ta nhờ thầy chú chuyển tới tặng tao.
Hai tay giang hồ thượng thặng muốn mượn bàn cờ tướng để tìm hiểu nhau. Tài trí, tâm tính đều lộ ra trong nước cờ. Người sao thì cờ vậy. Bảy Viễn nóng nảy, hành động nhanh hơn suy tính nên đôi khi vi phạm nội quy “hạ thủ bất hườn”. Mười Trí trầm ngâm, tính toán, chậm mà chắc. Bảy Viễn thiên về công, ồ ạt và thích thí quân. Mười Trí thiên về thủ, rất quý cặp xe pháo. Mười Trí và Bảy Viễn rõ ràng tài trí ngang nhau nhưng tâm tánh trái ngược. Đánh được ba bàn, một thắng, một bại và bàn thứ ba bất phân thắng bại. Bảy Viễn đòi đánh tiếp nhưng Mười Trí cho các quân cờ vào hộp, cười:
- Để chiều tiếp tục. Đánh cờ chớ đâu phải nhậu mà làm khỉa cả chục ván?
- Để thay đổi không khí, Mười Trí gợi chuyện:
- Năm Bé, mày kể chuyện dấn bước giang hồ của mày nghe chơi.
Năm Bé không đợi mời lâu:
- Tôi xưng anh chị tại Xóm Chiếu, nhưng quê tận Bắc kỳ. Nghề của tôi là thợ nguội, làm cho thằng Bạch Thái Bưởi, chủ hãng tàu biển chạy đường Hải Phòng- Sài Gòn. Cuộc đời tên tư bản này rất ly kỳ. Hắn là phu kéo xe, kéo xe cho chủ Tây. Sau làm cặp rằng. Lúc đào nền xây móng, hắn vớ được hũ vàng, từ đó phất lên thật nhanh. Thiên hạ đồn cha hắn chết vừa chôn là mối đùn cao như gò… Từ nhỏ tôi đã mang máu giang hồ, muốn vào Nam mà không có tiền. Nhân dịp Pháp mộ lính không có nghề O.N.S đưa qua Pháp, tôi liền đăng lính, nhưng vô tới Sài Gòn là nhảy xuống bến ở lại. Tôi làm phu khuân vác tại bến tàu Khánh Hội. Thời gian sau, có vốn, tôi học võ, học gồng, học cả bùa ngãi rồi đi giang hồ xưng anh chị. Lúc làm anh chị, tiền vô như nước, tha hồ ăn xài. Các anh có biết ai dám mua một lúc 5 cáci nón Boóc-sa-li-nô, mỗi cáci 25 đồng, trong khi lương thầy ký một tháng chỉ vừa đủ mua một cái Boóc-sa-li-nô? Hồi đó lúa hai cắc bảy một giạ. Buồn cười hết sức: lúc tôi vô tiệm, thằng Tây chủ nhìn tôi lom lom, không biết thằng bận quần lãnh đen, áo bành tô xanh vô đây làm gì. Chừng tôi chỉ cái nón Boóc-sa-li-nô trong tủ kính, thằng bán không chịu lấy cho xem mà nói “Mắc lắm! Anh mua không nổi đâu!”. Tức máu anh hùng, tôi nạt: “Lấy cho tôi coi! Sao anh biết tôi mua không nổi?”. Coi rồi, tôi lấy mộåt cái đội lên đầu, biểu nó gói hết bốn cái còn lại trong tủ kiếng. Đây là một bài học tôi dạy mấy thằng Tây “làm phách chó”.
Bảy Viễn và Mười Trí cười thích thú. Mười Trí gật lịa:
- Như vậy tụi này nhận mày là dân Nam kỳ.
Bảy Viễn vui vẻ góp chuyện:
- Tao cũng đồng ý cho mày vô dân Nam kỳ. Dân Nam kỳ có nhiều chuyện lạ lùng như vậy đó. Chuyện mày đi mua nón Boóc-sa-li-nô giống hệt chuyện thằng cha Hội đồng Trạch ở Bạc Liêu đi mua xe Pho (Ford) tại Hãng Sac-ne (Charner). Lão ta còn để “củ nừng”, bọc tiền trong mo cau… Tụi Tây cũng nhìn lão lom lom khi lão đi vòng vòng chiếc xe bóng loáng rồi biểu mở cửa xe cho lão lên ngồi, biểu mở máy chạy một vòng cho lão xem xe chạy có ngon không. Chừng lão mở mo cau ra, mấy thằng Tây giật mình cái “đụi”, giấy bộ lư cả cọc, thấy mà ngợp!...
Nhưng chỉ vui vẻ được một ngày. Qua ngày sau, từ xa có đám mây khói đèn, càng lúc càng tới gần. Sáu Nhị chặc lưỡi than trời: “Giữa biển mà gặp rồng lấy nước thì chết như chơi! Tất cả đều ngó về hiện tượng mà Sáu Nhị gọi là rồng lấy nước. Một cột nước từ biển cuồn cuộn dâng lên trời, chung quanh mưa to gió lớn. Sáu Nhị vừâa điều khiển bánh lái thì nghe một tiếng “rắc”, bánh lái gãy đôi, xuồng quay như quả trứng trong nồi nước sôi. Sáu Nhị luýnh quýnh. Bảy Viễn bình tĩnh chụp giầm kêu lên:
- Thọc giầm xuống kềm xuồng cho chắc!
Nhưng bốn cây giầm cũng không chịu nổi những lượn sóng cồn. Một lượn sóng cao như núi xuất hiện đằng xa. Sáu Nhị cả kinh kêu lên: “Cặp ngỗng thần tới kìa!”. Hắn bụm mắt không dám ngó. Năm Bé cũng chết điếng, niệm Phật lia:
- Không lẽ trời Phật đưa chúng tôi tới đây để rồi vùi sâu đáy biển?
Mười Trí vịn chặt be thuyền, chờ đợt sóng thần ập đến. Trong khoảnh khắc trước thần chết, anh vẫn còn tỉnh trí để quan sát thái độ của Bảy Viễn như thế nào. Bảy Viễn cũng bám chặt be thuyền, chuẩn bị tinh thần chịu đựng. Thấy Mười Trí nhìn mình, Bảy Viễn bảo:
- Nắm chặt be xuồng! Có gì cũng đừng buông chiếc xuồng!
Mỗi một giây dài như một thế kỷ. Bốn người chờ đợi cặp ngỗng thần tới để đưa họ xuống vực sâu, nhưng chờ hoài không thấy. Chiếc xuồng bị xô mạnh, nhưng không đổ ụp mà như được đẩy lên một bộ ván bằng phẳng, vững vàng. Hồi lâu, Sáu Nhị kêu lên, giọng run run:
- Trời Phật đã độ trì! Có Nam Hải tướng quân đỡ xuồng mình!
Mười Trí nhìn xuống thì đúng là có một con cá ông đang cặp sát chiếc xuồng. Thì ra để tránh ngọn sóng to, cá ông đã nương vào chiếc xuồng gần nhất. Cả hai nương tựa vào nhau cho đến dứt cơn giông.
Không bao lâu trời quang mây tạnh. Mặt trời càng lúc càng gay gắt. Đến ngày thứ ba thì nước ngọt đã hết. Khát quá phải đái vô lon mà uống. Năm Bé nảy ra một ý độc đáo:
- Ngày xưa, ba anh em Lưu, Quan, Trương kết nghĩa trong vườn đào, họ thích huyết ăn thề, còn mình thì uống nước đái của nhau mà thề đồng sanh đồng tử. Hai anh có chịu không?
Bảy Viễn và Mười Trí gật đầu khen “hay”. Mười Trí lớn tuổi hơn hết nên được tôn làm anh. Kế đến Bảy Viễn, rồi Năm Bé, Sáu Nhị.
Năm Bé bảo Sáu Nhị trương buồm lên. Buồm làm bằng bao bố, chỉ có năm tấc mà gặp gió, xuồng lướt sóng như bay, chẳng khác con xích thố của Quan Vân Trường. Năm Bé cho chạy cấn mặt trời. Không bao lâu Bảy Viễn reo lên “Đất liền kia kìa!”. Anh đưa lên một chiếc lá trôi trên biển. Nhưng niềm vui đi đôi với nỗi lo. Mười Trí đứng trước mũi xuồng co mấy ngón tay lại làm ống dòm. Anh vừa phát hiện đọt “ăng-ten” của một chiếc tàu tuần. Với kinh nghiệm vượt ngục bằng bè, anh ra lệnh:
- Hạ buồm!
- Cứ yên tâm, mình thấy đọt nó nhưng nó không thấy mình đâu!
Dù nói cứng vậy, tất cả đều phập phồng hồi hộp. Tàu tuần mà thấy thuyền bè của tù vượt ngục là xả súng bắn nát mới thôi. Một tiếng đồng hồ sau, tàu tuần khuất dạng. Chừng đó mọi người mới tươi tỉnh. Bảy Viễn hân hoan tâm tình:
- Về đất liền kỳ này, tao nhất định không cho tụi nó bắt lại!
Mười Trí cười:
- Làm như quyền quyết định là ở nơi mình!
Bảy Viễn hậm hực:
- Kỳ rồi bị bắt là do tao với mày quá tin tưởng nơi hai anh em Hội đồng Thì với Xã Mỹ. Hai cha đó rất tốt, nhưng tụi chỉ điểm thì ở đâu chẳng có? Kỳ này tao sẽ “mần ăn lớn”!
Mười Trí tò mò:
- Nghĩa là sao?
- Sách có chữ “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Kỳ này nhất định chiếm một vùng làm sơn trại chủ. Lúc này mà không thực hiện giấc mộng Lương Sơn Bạc thì còn chờ lúc nào nữa? Nhật đang lăm le hất cẳng Pháp, cha con nó ghìm nhau, hơi sức đâu mà đối phó với mình?
Mười Trí gật gù:
- Hay! Mày định chiếm cứ vùng nào vậy?
- Tao đã chọn rồi. Tao là dân Cần Giuộc, tao sẽ chiếm vùng Cần Giuộc, Cần Đước, Nhà Bè, tức là yết hầu của thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn. Ghe thương hồ đều phải qua ngã Kinh Cây Khô để vô cầu Ông Lãnh. Tao tha hồ bắt chúng nạp tiền mãi lộ.
Năm Bé gật lịa:
- Ý đó hay lắm! Anh Bảy cho tôi làm lâu la đi!
Bảy Viễn cười:
- Được! Cho mày làm phó sơn trại. Mặt mày cũng có “ngầu” lắm đó!
Năm Bé:
- Còn anh Mười Trí, anh Bảy phong làm gì?
Mười Trí cười:
- Cọp nào rừng nấy. Tao thích làm đầu gà hơn đuôi phụng. Nếu muốn làm sơn trại chủ thì tao chọn vùng nông sâu nước ngọt hơn là miệt đồng chua nước mặn. Tao thích sông Vàm Cỏ nước ngọt quanh năm. Địa điểm lại tốt. Có gì rút vô Đồng Tháp Mười là “yên như bàn thạch”.
Bảy Viễn bắt tay Mười Trí:
- Vậy là hai ta rạch đôi sơn hà. Tao chiếm vùng Rừng Sác, mày chiếm Đồng Tháp Mười. Tao theo Trương Định, mày theo Đốc Binh Kiều. Mình tránh được cảnh tranh giành ảnh hưởng như Tống Giang, Triệu Cái.
Mười Trí cười:
- Chưa bắt bài lên đã tính vùa tiền! Nhưng mày cứ yên chí lớn. Tao với mày đã uống nước đái nhau ăn thề giữa biển là anh em, thì không đời nào tao phản lời thề đó.
Bảy Viễn phấn khởi nói tiếp:
- Mình nhất định phải chiếm một giang sơn riêng biệt. Chuyện đó đâu phải mới lạ gì? Trước mình đã có người làm rồi.
- Ai vậy?- Mười Trí tò mò hỏi.
- Phạm Công Tắc chớ ai! Cao Đài đã chiếm một vùng rộng lớn ở tỉnh Tây Ninh, lấy của bá tánh xây dựng tòa thánh nguy nga như cung điện nhà vua. Mầy có tới đó chưa? Đúng như cung điện vua chúa, cũng có ngai rồng chạm trổ tinh vi…
Mười Trí cười:
- Không phải là ngai rồng mà là ngai rắn. Ngai của Đức Hộ pháp có chạm bảy con rắn chàm quạp. Tao đã có lần ngồi trên ngai đó, tính đóng vai Hộ pháp chơi, không dè mấy cha chức sắc cự nự quá. Ngồi ẩu như vậy là phạm tội “khi quân”. Nhưng Phạm Công Tắc đâu có xa lạ gì với tao!
Bảy Viễn trở lại câu chuyện chiếm đất lập giang sơn riêng.
- Nối gót Cao Đài là Hòa Hảo. Thằng cha Huỳnh Phú Sổ cũng chiếm cứ một vùng rộng lớn ở Thất Sơn, truyền bá đạo mới gọi là Phật giáo Hòa Hảo rồi lấy xã Hòa Hảo làm thánh địa. Ban đầu thằng Tây đàn áp bắt bớ lung tung, nhưng về sau chúng đành khoanh tay bất lực trước một chuyện đã rồi.
Đất liền từ từ ló dạng, càng lúc càng gần. Một câu hỏi hiện ra trong đầu bốn người: “Đây là đâu? Còn là biển Đông hay họ đã bị bão đẩy qua vịnh Thái Lan?”. Vào xế chiều, xuồng vô đến bờ. Bãi biển vắng ngắt. Sáu Nhị đi cả cây số gặp một lão chài mới biết đây là Rạch Gốc, gần Mũi Cà Mau. Ông lão cũng cho biết làng lính đang lùng bắt cộng sản và tù vượt ngục trong vùng.
Sau khi bàn luận nát nước, bộ ba nhất trí nằm lại đây trong khi phái Sáu Nhị về Sài Gòn liên lạc với ông Tám Mạnh, nhờ ông Tám tìm cách đưa người có thế lực xuống rước về Sài Gòn…
- Tại sao lại nhờ ông Tám Mạnh?- Năm Bé hỏi.
Bảy Viễn giải thích:
- Trong giới giang hồ, không ai phục ai ra mặt, nhưng bên trong ta phải nhìn nhận ông Tám là người đức độ, có nhiều môn đệ, đáng kể nhất là có những học trò là công chức cao cấp, tùng sự tại các cơ quan có thẩm quyền, như Huyện Bảo là chủ sự phòng tư pháp tại pháp đình Sài Gòn, như Hai Trực, sếp bót “se-nho”. Cho nên nhờ ông Tám Mạnh là có lý lắm!
MƯỜI TRÍ CHÉM VÈ TRONG HÃNG NHẬT
HAI VĨNH SẮM XE THỔ MỘ DUNG THÂN
Hai Vĩnh đã thỏa nguyện: anh vừa sắm một cỗ xe thổ mộ. Đây là loại xe lá liễu chở được sáu hành khách. Anh rất hài lòng về con ngựa hồng mới nài được của một tay nuôi ngựa đua ở Hóc Môn.
Con ngựa này chủ rất cưng vì bộ vó oai phong lẫm liệt, sắc lông đỏ sậm. Chủ đặt tên nó là Xích Thố, nhưng suốt mấy mùa liền, nó toàn chạy sau hứng bụi nên chủ gạt ra cho kéo xe cá- loại xe song mã thường dùng chở cá từ bến sông đến các chợ. Từ ngày về với Hai Vĩnh, con Xích Thố nghiễm nhiên chiếm chức vô địch trên truyến đường chợ Long Kiểng về bến đò. Bà con thích đi xe Hai Vĩnh vì Xích Thố chạy nhanh, kéo khỏe, mà cũng vì chủ xe là tay anh chị hào hoa, tóc để “bôm bê” kiểu Nguyễn An Ninh, đầu đội hững hờ nón Phờ-lết-sê màu ma-rông cho tiệp với màu bụi đỏ đường đất.
Từ anh chị trở thành anh đánh xe ngựa, Hai Vĩnh có cảm tưởng như mình “xuống chưn”. Nhưng giữa lúc làng lính Tây tà bắt bớ tất cả những kẻ gọi là phần tử nguy hiểm, anh cần phải có một bình phong. Giới anh chị bị Pháp xếp hạng nguy hiểm thứ ba, sau Cộng sản đứng đầu và các đảng phái chính trị đứng số hai. Với Hai Vĩnh, đánh xe ngựa là một cách “giả dại qua ải”. Nhưng càng đi sâu vô nghề, anh càng mến, càng gắn bó với nó. Nhờ lên xuống như con thoi mà anh thuộc lòng từng khúc đường, từng xóm nhà, từng chiếc cầu. Trên quãng đường dài 8 cây số có đến 8 chiếc cầu, đổ đồng mỗi cây số một chiếc. Trước nhất là cầu Gạch, kế là cầu Đồn, rồi cầu Tám Long, rồi cầu Rạch Đỉa- Đây là ranh xã Tân Quy- rồi đến cầu Miễu, cầu chị Hai Viễn, cầu Hai Cự và sau cùng là cầu Long Kiểng.
Yêu mến con đường, anh yêu mến luôn phong cảnh hai bên đường. Cảnh đẹp hai bên luôn luôn đổi mới, khi thì xanh biếc mượt mà những thửa mạ non, lúc ngả nghiêng đùa cợt với gió như một biển lúa, lúc vàng mơ óng ánh đong đưa những gié lúa. Lúc này là lúc vui nhất vì những đàn cu đồng đủ loại kéo về đây gáy vang báo hiệu xuân sang.
Đánh xe thổ mộ còn có những thú khác nữa, như thú ngồi quán nước uống một “hắc quảy” chờ khách. Quán nước ở bến đò là “đài phát thanh” hoạt động suốt ngày. Chỉ cần vô đó một lúc là biết hết tất cả tin tức thời sự thế giới, trong nước và ngay cả chuyện trong làng trong tổng. Lâu ngày thành thói quen không thể thiếu được. Ngày nào không tới quán, anh thấy bứt rứt khó chịu. Một hôm Hai Vĩnh gặp Năm Chảng trong quán. Năm Chảng kêu “thầy Hai” rồi ngoắt lia.
- Thầy bà gì mà đi đánh xe ngựa hả cậu Năm? Kêu tôi là thằng Hai cho rồi- Hai Vĩnh nửa đùa nửa thật.
Năm Chảng nhìn quanh, hạ giọng:
- Tôi biết thầy Hai đánh xe ngựa là để che mắt thiên hạ, cũng như tụi này vô làm hãng Nhật.
- Hãng nào vậy?
- Hãng đóng tàu Nichinăn ở sát cầu Rạch Ong lớn.
- Tụi này là những ai?
- Ôi, đủ mặt binh tôm tướng cá. Đứng đầu là anh Ba Dương, rồi anh Năm Hà, rồi tôi, rồi…
Hai Vĩnh chợt nhớ lời dặn của ông Bảy Trân: “Cần nắm các anh em giang hồ”.
- Hai anh Ba Dương, Năm Hà đều làm cho Nhật?
- Chớ sao? Thời buổi này phải có “chưn đứng” chớ thầy Hai? Ở “Cuki” dễ bị “chớp” lắm đó- Với giọng tâm tình, Năm Chảng nói tiếp- Lúc này Nhật sắp đảo chánh, Cao Đài cũng ngả theo Nhật. Đức kỳ ngoại hầu Cường Để là rể Nhật hoàng…
Những tin đó ngày nào Hai Vĩnh cũng nghe bàn tán. Điều anh muốn biết là hai anh em Ba Dương, Năm Hà làm cho Nhật.
- Ai giới thiệu vậy cậu Năm?
- Có ai giới thiệu gì đâu! Số là hãng đóng tàu cứ bị mất gỗ súc hoài. Mà toàn là gỗ tốt, trị giá bạc ngàn. Có người mách nước, chủ hãng mời anh Ba Dương trông coi bảo vệ hãng. Anh Ba đồng ý, kéo theo anh Năm Hà và tôi cùng một số em út. Anh Ba là sếp, còn anh Năm và tôi là “xuyếc-vây-yăng”! (1)
- Năm Hà có ngon lành như Ba Dương không cậu Năm?- Hai Vĩnh tò mò tìm hiểu về Năm Hà, cũng là một tay anh chị trong vùng.
- Năm Hà là em một cha khác mẹ với anh Ba Dương, Năm Hà không ngon lành bằng anh Ba. Anh Năm không “đi hát” như tụi này mà… chuyên môn làm cái nghề của Thời Thiên. Thầy Hai có biết?
Hai Vĩnh cười:
- Thời Thiên ăn trộm giáp của Từ Nịnh chớ gì! Truyện Thủy Hử tôi thuộc lòng!
Năm Chảng cười:
- Anh Năm là Thời Thiên tái thế đó nghe thầy Hai! Hễ anh Năm mà tính viếng nhà nào thì tường cao cổng kín tới đâu, chó dữ bậc nào, ảnh cũng vô được. Hai anh em Ba Dương, Năm Hà có những nét hay riêng, mỗi người một vẻ. Anh Ba thì nghiêm đến mình phát sợ, đáng mặt sơn trại chủ. Còn anh Năm thì vui vẻ hào hiệp có dáng dấp một Mạnh Thường Quân. Hai anh em này cộng lại chia hai thì ra ông Tám Mạnh của mình. Phải vậy không thầy Hai? À, mà thầy Hai có muốn vô làm hãng Nhật không?
Hai Vĩnh lắc đầu:
- Tôi nghe nói, Nhật cai trị dân Cao Ly- cũng gọi là Triều Tiên- rất khắc nghiệt. Ba nhà chỉ được phép dùng một con dao làm cá. Tôi không thích thay thầy đổi chủ. Cậu Năm có đọc “Cổ học tinh hoa” chưa?
- Chưa! Có chuyện gì hay?
- Có nhiều chuyện hay, nhưng chuyện hay nhất theo tôi là chuyện dân làng trên núi bị nạn cọp tàn sát, mà vẫn không chịu dời đi nơi khác. Hỏi ra, mới biết giữa cọp no và cọp đói, họ chọn cọp no, dễ sống hơn.
Năm Chảng thấm ý, bắt sang chuyện khác.
Chú thích:
(1) Surveilant tức Thầy gác
BẢY TRÂN KẾT NẠP TÁM MẠNH
BƯỚC ĐẦU NẮM CHẮC ANH EM BÌNH XUYÊN
Chiều đó, Hai Vĩnh qua nhà ông già vợ. Anh đến đúng lúc Tư Ó tới mời ông Tám Mạnh ra chùa Cao Đài Phú Lạc có việc cần.
- Có việc gì vậy chú Tư?
- Anh Bảy Trân đang chờ ông Tám ngoài đó.
Nghe nói Bảy Trân, ông Tám lật đật thay đồ ra đi. Tới chùa đã có Ba Cưởng và Bảy Trân chờ sẵn. Bảy Trân ôm ông Tám, vui vẻ:
- Hôm nay anh em làm lễ kết nạp ông Tám vào Đảng.
Ông Tám ngẩn ngơ một lúc:
- Chuyện quan trọng vậy mà không cho tôi hay trước để chuẩn bị. Tôi chưa dọn mình…
Bảy Trân cười:
- Nhưng tụi tui thấy ông Tám đã dọn mình từ ba, bốn năm nay rồi. Hôm nay đã tới lúc phải kết nạp ông Tám để củng cố đội ngũ trước thời cơ biến chuyển rất thuận lợi cho ta.
Tư Ó nói tiếp:
- Tôi nhớ mãi cái ngày tôi đưa anh Bảy Trân đến nhà ông Tám để mời ông Tám tham gia khởi nghĩa năm 1940. Ông Tám nghe được, làm heo mua rượu gọi tất cả em út, con cháu về đầy nhà làm lễ thích huyết ăn thề với Đảng, sống chết có nhau, đồng lòng đánh Tây. Rất tiếc cuộc khởi nghĩa bất thành, nhưng điều đó chứng tỏ ông Tám một lòng một dạ với cách mạng. Như vậy là ông Tám đã trải qua đủ thử thách và Đảng cũng đủ tin nơi ông Tám. Tôi với Ba Cưởng xin giới thiệu ông Tám vào Đảng.
Ba Cưởng đứng lên, đằng hắng trước khi nói:
- Tôi cũng đồng ý với Tư Ó và xin chịu trách nhiệm về việc giới thiệu này.
Bảy Trân nói với giọng phấn khởi:
- Nhân danh Liên chi ủy Tân Phong Hạ, tôi làm lễ kết nạp đồng chí Tám Mạnh. Kể từ giờ phút này, đồng chí Tám Mạnh là đảng viên chính thức, không phải trải qua thời kỳ dự bị vì đồng chí Tám Mạnh đã được thử thách trong cuộc khởi nghĩa đêm 22-11-1940 và nhất là trong những năm thoái trào, đồng chí không hề hoang mang chao đảo khi làng lính thẳng tay khủng bố… Trong hoàn cảnh bí mật, chúng ta làm lễ thật đơn giản, không có Đảng kỳ, cũng không hát quốc tế ca, nhưng tôi tin rằng đồng chí Tám Mạnh sẽ là một đảng viên xứng đáng với Liên chi bộ Tân Phong Hạ này. Xin đồng chí Tám Mạnh phát biểu cảm tưởng.
Sau một phút lúng túng, ông Tám Mạnh nói:
- Trước đây tôi căm thù Tây nhưng chưa hiểu rõ hết tội ác của Tây. Tôi thù Tây vì cha tôi thù Tây. Cha tôi vô Thiên Địa Hội, tôi cũng theo Thiên Địa Hội, tôi làm tới chức thống lãnh binh nhưng quên hẳn xuất xứ của Thiên Địa Hội là hội kín của người Tàu thuộc nhóm Phù Minh diệt Thanh. Nay tôi được anh Bảy Trân giải thích rành rẽ, nhờ đó mà được sáng tỏ. Được kết nạp vào Đảng Cộng sản, tôi nguyện sống chết với cách mạng. Là người trọng lời hứa, đã hứa thì tôi giữ lời cho tới chết.
Sau lễ kết nạp, Tư Ó mang trà bánh lên. Bảy Trân báo cáo tình hình thế giới và trong nước, điểm qua diễn biến cuộc thế chiến 2 cho đến những ngày cuối 1944 đầu 1945 này và phấn khởi nói tiếp:
- Hôm nay ông Tám đã là đồng chí của mình, tôi mới nói kỹ vậy để chúng ta cùng biết lối mà đi. Nguy cơ Nhật đảo chính càng ngày càng lộ rõ. Hiện Nhật đã công khai mộ lính lập đội “Heiho”, mình gọi là Hải Hồ. Đây là đội quân Nhật định dùng tại Đông Dương để chúng rảnh tay đánh Đồng minh. Mặt khác chúng cũng ngấm ngầm khuyến khích Cao Đài lập bộ đội, bí mật cho người huấn luyện quân sự cho Cao Đài. Chúng dùng nhãn hiệu “Kỳ ngoại hầu Cường Để, rể Nhật hoàng sẽ về nước” để kêu gọi dân chúng đứng vào hàng ngũ thân Nhật. Một số trí thức cũng đã chịu cộng tác với chúng… Nhưng những người thức thời không dễ bị mua chuộc. Thằng phát xít còn tàn bạo hơn thằng thực dân.
Đến đây giọng Bảy Trân trở nên hồ hởi:
- Trước đây có lần ông Tám hỏi tôi mấy năm nay đi đâu mà không thấy, lúc đó tôi chỉ cười cho qua, bây giờ mới nói thiệt. Tôi chẳng tài hơn ai, tôi cũng bị Tây bắt. Câu chuyện như sau: Sau ngày Nam kỳ khởi nghĩa, tôi lặn một hơi lên Đà Lạt, tá túc với thằng em cô cậu tên là Chung Văn Năm. Nó có tiệm cầm đồ trên đó.
Tưởng yên thân, ai dè anh em đều bị mật thám Đà Lạt bắt giam 15 ngày rồi giải về Catina. Vợ Năm có tiền mướn thầy kiện lo cho nó ngoại hầu tra, rồi được trắng án. Riêng tôi thì bị quản thúc tại quê là Đa Phước, không được đi ra khỏi xã và mỗi tháng phải trình diện một lần với chính quyền quận… Bây giờ tôi xin báo một tin mừng cho anh em lên tinh thần. Đồng chí Bí thư Xứ ủy Nam kỳ của mình đã vượt ngục Tà Lài, hiện giờ đang vận động chuẩn bị cướp chính quyền trong những tháng tới đây, khi Nhật đảo chính Pháp.
Ông Tám hỏi:
- Ai vậy?
- Trần Văn Giàu, tức Sáu Giàu. Chắc ông Tám chưa biết, để tôi giới thiệu vắng tắt. Sáu Giàu là người Tầm Vu, tỉnh Tân An. Anh trốn qua Pháp học, được giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp, sau đó được đưa sang Nga học trường Đông Phương Đại học đường trong ba năm 1930, 1931, 1932. Trở về nước, Sáu Giàu hoạt động mạnh, mở rộng phong trào, phát huy khí thế, được anh em đồng chí tín nhiệm bầu giữ chức Bí thư Xứ ủy. Tháng 10-1939, Sáu Giàu bị bắt đày lên Tà Lài. Năm qua, chi bộ nhà tù bố trí cho một số đồng chí vượt ngục, trong số này có Sáu Giàu. Nhiệm vụ của các đồng chí này là liên lạc các nơi, củng cố lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa. Nhóm đi về phía Sài Gòn có ba anh bị bắt lại, còn hai anh Sáu Giàu và Châu Văn Giác trốn thoát nhờ đi ngược về phía Đà Lạt. Vụ vượt ngục trèo núi băng rừng rất dài dòng, tôi chỉ kể vắn tắt là người sau kẻ trước đã mò về tới nhà tôi và đã được tôi giấu trong nhà, tẩm bổ trong một tuần lễ cho lại sức rồi tìm nơi khác an toàn hơn. Chớ tôi đang bị quản thúc, tức là luôn luôn bị làng lính dòm ngó.
Ông Tám Mạnh nói đầy xúc động:
- Ở tù cũng năm ba đường ở tù. Như tôi vào Khám Lớn sau vụ lân râu bạc thì có thấm vào đâu với các đồng chí thầy Bảy vừa kể. Tôi nghe nói miệt Bà Rá, Tà Lài rừng sâu nước độc, cọp beo lển nghển, rắn chàm quạp như rễ mục, vậy mà các đồng chí mình cắt đường rừng ròng rã mấy tháng trời mới thoát nạn, thiệt là một thử thách quá lớn lao. Tôi sẽ cố gắng hơn nữa để xứng đáng là đồng chí của các bậc đàn anh đó…
Đêm ấy là một khúc quanh lịch sử trong đời giang hồ của ông thầy nghề võ vang danh xã Chánh Hưng.
PHÁP HẾT THỜI TOAN BẮT TAY CỘNG SẢN
SÁU GIÀU CẢNH GIÁC KHÔNG GẶP BAZIN
Bảy Trân đang đập lúa ngoài đồng bỗng có một người Pháp xăm xăm đi tới. Mọi người ngưng tay dòm ngó. Tây ra ruộng là điều hiếm thấy. Bảy Trân vẫn mải miết đập lúa không hay biết người kia đã tới sát một bên:
- Ê, Trân…
Bảy Trân quay lại, nét mặt ông chuyển từ ngạc nhiên tới lo ngại:
- Chào Brô-sê-riu (Brochériou)! Mày kiếm tao có việc gì? Lành hay dữ?
Brô-sê-riu là bạn học của Bảy Trân tại miền Nam nước Pháp. Bảy Trân được giới thiệu sang Nga học trường Đông Phương, rồi về nước hoạt động cách mạng, thì Brô-sê-riu cũng đi Đông Dương làm nghĩa vụ quân sự, sau đó tình nguyện ở lại thuộc địa làm công chức. Hắn được đổi về Sài Gòn làm việc tại sở mật thám Ca-ti-na, phụ trách văn khố lưu trữ hồ sơ các chính trị phạm. Khi Bảy Trân được giải về bót Ca-ti-na, Brô-sê-riu nhận ra người bạn học năm xưa. Hắn mời Bảy Trân lên văn phòng, nhắc chuyện cũ hồi học ở Pháp có lần Bảy Trân về nhà hắn chơi trong những ngày lễ. Thái độ của Brô-sê-riu chân tình cởi mở, nhưng Bảy Trân vẫn giữ vẻ lạnh lùng xa cách. Bởi ngày xưa là bạn nhưng giờ đây họ đang ở hai trận tuyến đối địch, kẻ theo cách mạng, người làm mật thám. Brô-sê-riu thì không nghĩ vậy, hắn là mật thám bất đắc dĩ, mà coi tình bạn là thiêng liêng. Hắn trao cho Bảy Trân một danh thiếp, dặn dò “Nhà tao ghi rõ trong đó. Mày đến chơi bất cứ lúc nào cũng được. Có ai làm khó dễ, hãy đưa danh thiếp này ra”.
Bảy Trân nhận cho Brô-sê-riu vui, nhưng cất kỹ không dùng đến, đồng thời về báo cáo đầy đủ mọi việc với chi bộ. “Hôm nay nó đến đây có việc gì?”.
- Việc lành. Ông sếp tao muốn gặp mày.
- Cò Ba-de (Bazin) muốn gặp tao?- Bảy Trân ngạc nhiên đến cùng cực.
- Phải. Mày về tắm rửa thay đồ. Xe tao đậu ngoài đường cái.
Suốt chặng đường từ Đa Phước tới Catina, Bảy Trân không ngớt thắc mắc. Brô-sê-riu đưa Bảy Trân tới phòng Ba-de rồi trở về phòng mình. Dưới cánh quạt quay tít, tên cáo già đang suy tính điều gì? Vừa thấy Bảy Trân, hắn niềm nở mời ngồi, bấm chuông gọi mang la-ve, chìa gói thuốc lá của Anh nhập cảng từ Hồng Kông.
Bảy Trân không nhận ly la-ve, viện cớ đau bao tử, móc bao thuốc rê vấn một điếu để đó. Ba-de đi ngay vô đề:
- Tôi mời ông đến đây để nhờ một việc. Chắc ông dư biết là chiến tranh thế giới đang tới giai đoạn quyết liệt. Đồng minh đang phản công trên khắp mặt trận phía đông và phía tây, phát xít đang trong thế lúng túng… Nhưng tại Đông Dương này, quân Nhật hãy còn hung hăng háo thắng. Người Pháp ở Đông Dương chúng tôi muốn liên kết với những người Cộng sản các ông chống phát xít. Trước đây những người cộng sản các ông đã đề nghị lập Mặt trận Bảo vệ Đông Dương, nhưng tiếc thay lúc đó người Pháp chúng tôi không nghe. Bây giờ chúng tôi mới thấy mình sai. Chúng tôi còn phạm một sai lầm khác lớn hơn là bắt bớ tù đày những người Cộng sản là những người cương quyết chống phát xít hơn ai hết. Bây giờ tôi xin thay mặt những người Pháp dân chủ ở Đông Dương chính thức đề nghị những người Cộng sản liên kết với chúng tôi lập lực lượng chống phát xít bảo vệ Đông Dương. Muốn làm được việc này, phải gặp Bí thư Xứ ủy Nam kỳ là Trần Văn Giàu. Ông có thể giúp chúng tôi tìm ông Giàu?
Bảy Trân chột dạ:
- Tôi không biết ông Giàu hiện giờ ở đâu. Mấy năm nay tôi bị “quản thúc tại gia”, tôi không còn hoạt động, không còn liên lạc…
Ba-de nhìn lên trần nhà, cười mũi:
- Bộ ông tưởng suốt ngày chúng tôi chỉ ngồi dưới quạt máy uống la-ve?
Bảy Trân hoang mang: “Chắc là nó biết mình che giấu Sáu Giàu” nhưng vẫn chối dài:
- Quả thật tôi không biết ông Giàu hiện giờ ở đâu. Nghe nói các ông đày ông Giàu ra Bà Rá, Tà Lài…
Ba-de nhận chuông, một thầy chú chạy vô:
- Đưa ông Giác vô đây!
Thầy chú dẫn Châu Văn Giác vô, áo quần bê bết máu me, người gầy như cò ma, mắt thụt sâu, râu dài, tóc rối. Ba-de nói:
- Hai ông ngồi đó mà nói chuyện với nhau, tôi sang bên kia một lúc. - Hắn bước ra ngoài, đóng cửa lại. Trong phòng chỉ còn hai người. Bảy Trân nghi có máy ghi âm bí mật gắn đâu đó nên nói những gì thật cần thiết mà thôi.
- Mày bị bắt bao giờ?
- Nửa tháng nay tao bị tụi “suya-rơ-tê” (1) Cà Mau bắt tại Xẻo Rô, giải về tỉnh rồi đưa về đây. Tụi nó đánh tao chết đi sống lại, chỉ hỏi có một câu “Trần Văn Giàu ở đâu?”. Rất may là Giàu đi một tuần trước khi tao bị bắt. Bị đòn đau quá, tao khai đại là: “Có lẽ Bảy Trân biết chỗ Giàu ở hiện nay”. Bây giờ mày liệu khai sao đó thì khai.
Một lúc sau, Ba-de trở qua. Châu văn Giác được đưa xuống phòng giam.
- Sao? Bây giờ ông chịu giúp chúng tôi chưa?
Bảy Trân miễn cưỡng:
- Tìm Trần Văn Giàu như thể tìm chim. Không biết có tìm được hay không. Kẹt một điều là tôi không đủ tiền xe cộ.
Ba-de mở tủ, đặt một xấp bạc trên bàn:
- Đây, ông cầm lấy 50 đồng này mà đi xe, cố tìm cho được Trần Văn Giàu, nói rằng bao nhiêu chi phí về giấy mực công in truyền đơn chống phát xít, chúng tôi chịu hết. Các ông cần gì, chúng tôi sẽ giúp. Chỉ cần nhớ rõ điều này là không được bạo động và tiết lộ vụ này với Nhật. Vì chúng nó sẽ giết các ông và cũng giết luôn chúng tôi.
Bảy Trân cầm 50 đồng ra về. Ông họp ngay Liên chi bộ Tân Phong Hạ báo cáo nội vụ. Ông ném xấp bạc lên chiếu:
- Lần đầu tiên tôi nhận tiền của mật thám. Về việc đi tìm đồng chí Bí thư Xứ ủy, các đồng chí có ý kiến gì?
Mọi người lần lượt góp ý. Đa số vui mừng vì thấy thằng Tây xuống nước, mời mọc Cộng sản chống phát xít. Cũng có người dè dặt, nghi tên cáo già Ba-de giở trò gì đây. Tuy nhiên đa số nhất trí là Pháp ở Đông Dương đang chìm tàu, muốn bám cái phao Cộng sản. Đây là cơ hội để mình lợi dụng mâu thuẫn giữa thực dân và phát xít mà hoạt động mạnh. Vấn đề là xem ai có bản lĩnh hơn ai. Sau cùng liên chi bộ quyết định cho Bảy Trân đi tìm Trần Văn Giàu và tùy đồng chí bí thư định đoạt thái độ.
Trần Văn Giàu thoát căng Tà Lài trốn về Đà Lạt, lại từ Đà Lạt ra Nha Trang với ý định đi xa hơn nữa nhưng không lọt. Giàu phải quay lại Đà Lạt nhờ Chung Văn Năm bố trí cho về Sài Gòn bằng xe của công sứ Đà Lạt mà tài xế là bà con của Năm. Sáu Giàu về ở nhà Bảy Trân một tuần. Bảy Trân bố trí một ghe ba thiên, giả đi làm mắm ở Rạch Giá để đưa Sáu Giàu xuống Xẻo Bần. Với tiền vợ cho, Sáu Giàu sắm mấy mẫu rẫy thơm sống nhàn nhã, không phải ẩn náu lén lút như trước… Một tuần trước khi Châu Văn Giác bị bắt, Sáu Giàu tới bảo: “Tụi mình làm cách mạng, không phải đi tìm cuộc sống hưởng lạc. Tình hình thế giới và trong nước biến chuyển rất thuận lợi cho ta. Vậy tôi phân công cho anh phụ trách từ Cần Thơ đổ xuống, Cần Thơ đổ lên đã có Ung Văn Khiêm. Còn tôi thì về Sài Gòn phụ trách đầu não…”.
Như vậy Trần Văn Giàu không còn ở Xẻo Bần nữa, Bảy Trân tốc xuống Mỹ Tho, tới Chợ Gạo, đến nhà Hương trưởng Hoài là gia đình cách mạng mà Sáu Giàu thường lui tới. Hương trưởng Hoài đã lên Sài Gòn, Bảy Trân lộn về Sài Gòn. Nhờ Hương trưởng Hoài, Bảy Trân tìm được nơi ẩn của Sáu Giàu. Đó là ngôi nhà của họa sĩ Nguyễn Phi Hoanh ở đường Sâm-pan (Champagne). Sau khi nghe Bảy Trân trình bày, Sáu Giàu suy nghĩ một lúc rồi bảo:
- Mày về triệu tập hội nghị Liên chi bộ Tân Phong Hạ lại, ba ngày sau tao sẽ tới bàn cách đối phó với thằng Ba-de. Mời họp tại nhà bà già mày có tiện không?
- Được! Chỗ đó an toàn.
- Mày để chiếc xe đạp của mày lại đây cho tao làm chân. Mày về bằng cách nào tùy ý.
Bảy Trân đón xe thổ mộ về, triệu tập các đồng chí liên chi bộ trong tổng tại nhà mẹ ruột ở ấp Tân Liêm, xã Đa Phước. Đúng ngày giờ đã định, Sáu Giàu đạp xe tới. Anh đọc bản nháp bức thư viết bằng tiếng Việt gởi cò Ba-de cho các đồng chí nghe để thảo luận góp ý thêm bớt. Đại ý bức thư như sau: “Trần Văn Giàu không thể gặp cò Ba-de được. Còn việc liên kết chống phát xít thì người Pháp ngừng bắt bớ Cộng sản và trả tự do các chính trị phạm rồi sẽ thấy những người Cộng sản chống phát xít như thế nào”. Sau khi hội nghị thông qua, Sáu Giàu chép sạch bức thư, hội nghị nhất trí cử Bảy Trân làm xứ giả mang thư. Bảy Trân cẩn thận đề nghị anh em cử thêm một đồng chí nữa để cùng đi với anh, vì đây là chuyện vô cùng quan trọng. Hội nghị cử anh Trần Vinh Hiển là con Hương trưởng Hoài, từng du học ở Pháp. Bảy Trân còn cẩn thận cuốn tròn bản nháp bức thư của Sáu Giàu cho vào ve chai đậy nút, đóng khằng đem chôn để sau này khi cần thì đào lên làm chứng liệu lịch sử.
Trần Vinh Hiển đóng khăn be áo dài, còn Bảy Trân mặc Tây. Cả hai được cò Ba-de ân cần đón tiếp. Khi biết Trần Văn Giàu không chịu gặp mình, Ba-de nói:
- Bức thư này sẽ giao cho thông ngôn dịch tra tiếng Pháp để cho sếp của tôi xem và có ý kiến sau. Bây giờ xin cảm ơn hai ông…
Bảy Trân và Trần Vinh Hiển ra về.
***
Tin Sáu Giàu vượt ngục Tà Lài cùng với tin Bảy Viễn, Mười Trí thoát khỏi Côn Đảo về tới đất liền khiến Đại úy Sa-va-ni, trưởng Phòng Nhì, hết sức lo ngại. Giữa thanh tra mật thám Ba-de và trưởng Phòng Nhì Sa-va-ni có một chút bất đồng ý kiến. Ba-de trước đây chuyên lo truy tầm, bắt bớ Cộng sản, bây giờ định biến Cộng sản thành đồng minh tạm thời trong giai đoạn Nhật sắp đảo chính. Sau này nếu dẹp xong phát xít, lão sẽ trở mặt bắt bớ tù đày anh em Cộng sản trở lại. Cho nên trước cũng như sau, mối bận tâm số một của con cáo già Ba-de vẫn là Cộng sản. Còn Sa-va-ni thì ngày đêm quan tâm có một vấn đề du đãng. Với hắn, du đãng là một lực lượng đáng nắm được du đãng, người đó có nhiều hy vọng chiến thắng. Sa-va-ni ngại nhất là du đãng rơi vào vòng ảnh hưởng của Cộng sản, hai nhóm này mà liên kết lại thì sẽ trở thành một địch thủ vô cùng lợi hại.
Hắn cấp tốc triệu tập hai cánh tay đắc lực lại để bàn kế hoạch. Cánh tay thứ nhất là Lâm Ngọc Đường. Tay này là công tử Bạc Liêu, con của Hương chủ Lâm Quang Sắc, điền chủ lớn ở xã Tân Hưng Đông, quận Cái Nước, giữa đường Cà Mau- Năm Căn. Dân ở miệt này gọi Đường là cậu Hai. Đường đi Pháp học, nhưng khi về nước chẳng mang bằng cấp nào ngoài tài ăn chơi, nhảy đầm. Hắn sắm tàu đưa hành khách từ Cái Nước ra Cà Mau và ngược lại, mỗi ngày một chuyến đi, một chuyến về. Tàu đặt tên là Kim Mã để đối với tên cúng cơm hắn là Ngọc Đường. Với danh nghĩa là công tử Bạc Liêu từng du học ở Pháp, Lâm Ngọc Đường tình nguyện làm nhân viên Phòng Nhì và được Sa-va-ni tín nhiệm, xem như cánh tay mặt, chuyên về các vấn đề chính trị.
Cánh tay thứ hai là một tay cờ bạc vô dân Tây tên là Mô-rit (Maurice) Thiên. Mô-rit Thiên là dân ghiền cá ngựa, nuôi ngựa đua và ăn chịu với đám nài để làm độ. Khi đầu quân vào Phòng Nhì, hắn được Sa-va-ni giao công tác trông coi các đội Con-măng-đô- cha đẻ của loại binh chủng biệt kích sau này.
Sa-va-ni trình bày tình hình về các nhóm du đãng ở Sài Gòn, Chợ Lớn rồi mời hai phụ tá góp ý. Lâm Ngọc Đường đã nghiên cứu vấn đề từ lâu nên thao thao bất tuyệt:
- Du đãng trong đô thành rất nhiều nhóm, nhưng theo tôi thì chỉ có ba nhóm đáng kể. Đó là nhóm Tám Mạnh ở Chánh Hưng và vùng cầu Chữ Y chạy dài vô cầu Mới (tức cầu Nhị Thiên Đường). Kế đó là nhóm của hai anh em Ba Dương, Năm Hà, nhóm này hùng cứ ở Tân Quy và vùng Nhà Bè. Nhóm thứ ba là nhóm Bảy Viễn- Mười Trí mà địa bàn hoạt động là trường đua Phú Thọ, chợ Thiếc, An Bình, Bà Quẹo. Hiện nay ba nhóm này có xu hướng chính trị khác nhau. Nhóm Ba Dương thì làm cho hãng đóng tàu Nhật, Hãng Nichinăn ở sát cầu Rạch Ong.
Ngoài chuyện làm “sếpsăn-chê” (chefchantier) để kiếm tiền sinh sống, chưa biết hai anh em Ba Dương, Năm Hà còn có ý gì nữa không?- Tôi muốn đặt dấu hỏi là nhóm này có thân Nhật như đạo Cao Đài hay không? Nhóm Tám Mạnh thì lâu nay “án binh bất động” nhưng xét vì tổng Tân Phong Hạ là cái nôi Cộng sản nên có thể đặt giả thuyết nhóm này chịu ít nhiều ảnh hưởng Cộng sản. Còn nhóm Bảy Viễn- Mười Trí thì chưa thấy có màu sắc chính trị gì. Đây là mảnh đất hoang, dễ cho chúng ta khai phá.
Mô-rit Thiên hăm hở tiếp lời:
- Tôi hoàn toàn đồng ý với anh Đường. Nhóm Bảy Viễn và Mười Trí xin cho tôi phụ trách, bởi chúng tôi có nhiều điểm giống nhau, mà trước hết là máu cá ngựa.
Chú thích:
(1) Sureté: Sở mật thám
TRANH THỦ THỜI CƠ, XỨ ỦY HOẠT ĐỘNG MẠNH
SÁU GIÀU CHẠY ĐUA VỚI THỜI CUỘC
Cò Ba-de tạm ngưng bắt bớ Cộng sản, phóng thích một số chính trị phạm sau khi nhận được bức thư của Trần Văn Giàu. Trước thắng lợi đó, văn phòng Xứ ủy được đặt tại nhà Bảy Trân. Chọn địa điểm này vì Bảy Trân với Sáu Giàu, ngoài tình đồng chí còn là bạn tâm giao, cả hai cùng du học tại Pháp, cùng qua Nga học trường Đông Phương, cùng trở về nước hoạt động, sống chết có nhau. Nhà Bảy Trân luôn luôn mở rộng với các đồng chí “thất cơ lỡ vận” cả vợ lẫn chồng đều quý bạn, trọng khách… Bảy Trân tuy bị quản thúc tại gia nhưng làng lính đều kính nể vì thấy Tây tới nhà chơi hoặc đưa xe tới đón và một đôi khi Bảy Trân cũng tham gia các cuộc họp quan trọng, cũng đọc “đít-cua” (discours) cùng chủ tỉnh và chủ quận. Chẳng hạn như vụ gắn “mề-đay” cho Hương quản Trọng bị Mười Nhỏ bắn chết trong khi từ Bình Đăng nhảy qua Chánh Hưng truy nã ăn cướp. Chủ tỉnh Pháp và chủ quận là đốc phủ Chấn đến dự tang lễ. Hương cả Sảnh xã Bình Đăng nhờ Bảy Trân làm một bài diễn văn, nể tình cậu cháu, mà cũng nhân dịp này cũng để răn đe đám hội tề, Bảy Trân đọc “đít-cua” không đả động đến ăn cướp mà tô đậm nỗi đau xót của người vợ mất chồng, đám con mất cha… “không có mề-đay nào bù lại được mất mát lớn lao này”.
Bảy Trân cống hiến hết mình cho Đảng. Anh giao nhà mình cho Đảng lập văn phòng, biến vợ mình thành chị bếp. Còn anh thì vừa là chủ nhà, vừa là phụ tá, đôi khi cố vấn và lúc cần, làm liên lạc. Anh còn đưa em ruột là Chín Báu vô làm thư ký ấn loát. Chín Báu rất có hoa tay, nét chữ rất đẹp. Truyền đơn in thạch bản đều do Chín Báu viết. Anh cũng đưa cháu ruột tên là Biển, con của Tư Ó làm thư ký đánh máy. Biển có tài đánh máy nhanh như bay nhờ tốt nghiệp trường kế toán thương mại. Biển và cái máy đánh chữ loại xách tay hiệu Héc-mét (Hermes)- quà tặng của Chung Văn Năm- không lúc nào rời nhau. Chỉ khi nào mệt lắm, biển mới giao cho Lực là cháu Hương trưởng Hoài, cũng là tay đánh máy cừ.
Chưa bao giờ nhà Bảy Trân nhộn nhịp, phấn khởi như đầu năm 1945 ấy. Bồ lúa vơi đi trông thấy, đàn vịt gà cũng hao hụt, nhưng chẳng ai quan tâm tới ba cái lặt vặt đó. Ngày kia, giữa lúc mọi người đang bận rộn với công việc của mình thì có tiếng chày giã gạo vang lên ngoài đường đắp, đó là tiếng báo động có kẻ lạ tới. Lập tức mọi người gom giấy má, dọn dẹp mọi thứ, bước qua các nhà lân cận- cũng là nhà bà con cật ruột của Bảy Trân. Một lúc sau Brô-sê-riu lò mò tới. Bảy Trân hơi lo:
- Gì nữa đó ông bạn? Cò Ba-de lại muốn gặp tao?
Brô-sê-riu cười nhưng không được vui:
- Tao kiếm mày có chút việc. Đây là việc riêng của tao…
Bảy Trân rót trà nóng đặt trước mặt y:
- Việc riêng của mày? Chuyện gì vậy?
Brô-sê-riu xoay xoay tách trà nóng trong tay:
- Đồng minh sắp đánh Đông Dương. Nhật phải ra tay trước. Nó phải đảo chính vì không thể để Pháp làm “xanh-kem cô-lon” (2) đâm sau lưng nó. Trong trường hợp đó tao muốn nhờ mày một việc… Mày có thể giấu gia đình tao được không? Có bốn mạng tất cả, tao, vợ tao và hai đứa con.
Bảy Trân gật lịa:
- Yên chí lớn đi! Tao vui lòng, rất vui lòng! Tao hứa danh dự với mày- Ông bắt tay Brô-sê-riu siết thật chặt, thật lâu.- Trước đây tao lạnh nhạt, lẩn tránh mày là vì mày là mật thám mà tao theo cách mạng, gặp nhau không có lợi cho mày cũng như cho tao. Còn bây giờ thì mày là một kẻ chống phát xít xin tị nạn nơi một người Cộng sản, tao vui lòng giúp đỡ!
Brô-sê-riu xúc động mạnh:
- Tao thay mặt vợ tao cám ơn mày trước!
Bảy Trân chỉ bồ lúa, giọng đùa cợt:
- Bồ lúa tao đó, dư sức nuôi thêm 4 mạng! Nhưng tụi bây chớ đòi bơ sữa thì tao không chạy đâu cho ra!
Brô-sê-riu ở chơi một lúc rồi ra về. Khi Bảy Trân báo cáo mục đích cuộc viếng thăm của Brô-sê-riu, Sáu Giàu gật gù:
- Ngày giờ đen tối nhất của mấy thằng Tây ở Đông Dương sắp tới rồi đó. Mình phải tranh thủ thời gian mới nắm vững dịp may ngàn năm một thuở” này- Với giọng nghiêm chỉnh, ông hỏi: Mày nắm giới giang hồ tới đâu rồi?
Bảy Trân hồ hởi:
- Có một tin hay lắm mà tao quên cho mày biết. Bảy Viễn và Mười Trí đã về tới đất liền. Tụi nó vượt ngục bằng xuồng ba lá, tấp vô Rạch Gốc ở Cà Mau. Liên lạc của tụi nó mang thư về ông Tám Mạnh, nhờ tìm cách rước về Sài Gòn, ông Tám Mạnh mới hỏi ý tao.
- Rồi mày bảo sao?
- Tao bảo ông Tám nên giúp tụi nó. Đây là dịp tốt để sau này nắm hai tay giang hồ trứ danh này. Ông Tám đã nhờ Hai Trực là sếp bót “Se-nho” lấy xe CX (xe mang biển số Nhà nước) xuống Cà Mau rước tụi nó.
Sáu Giàu gật gù:
- Mày nắm được ông Tám Mạnh là một thuận lợi lớn. Từ đó phát huy thêm- Ông chọn một mớ tài liệu vừa đánh máy xong, bó lại cẩn thận:
- Bây giờ tao giao cho mày thêm một chức nữa, mày làm trưởng ban liên lạc với anh em trí thức. Mày đem tài liệu này trao tận tay bác sĩ Phạm Ngọc Thạch giùm tao. Bác sĩ Thạch có phòng mạch ở đường Chasseloup ngang Xẹc Tây. Mày bảo cô y tá “Tôi là bạn của ông Giàu”, cổ sẽ cho mày vô gặp bác sĩ ngay!
Bảy Trân dắt xe đạp ra đi. Sáu Giàu nói thêm:
- Thằng Nhật sẽ lập nội các bù nhìn ngay sau khi nó đảo chính. Mình phải nắm trước giới trí thức để khuyên họ không nên cộng tác với phát xít. Hoặc cao tay ấn hơn, thì cho họ ra giữ chức bộ trưởng hay thứ trưởng để rồi sau đó mình lái họ theo mình.
- Mày đã nắm được ai ngoài bác sĩ Thạch? - Bảy Trân hỏi.
- Nhiều! Đủ các giới. Giới bác sĩ, ta nắm Hồ Văn Nhựt, Đặng Văn Chung, Phạm Biểu Tâm… Giới luật sư ta tiếp xúc với Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Thái Văn Lung, Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần… Giới bác vật có Lưu Văn Lang, Nguyễn Xuân Bái; giới giáo sư có Phạm Thiều, Đặng Minh Trứ, Nguyễn Văn Chì; giới nhà băng có Mi-sen (Michel) Văn Vỹ… Ông khoác tay- Thôi đi đi kẻo trễ!
Bảy Trân đạp một mạch từ Đa Phước tới phòng mạch bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Thân chủ đầy phòng chờ. Anh nói nhỏ với cô y tá “tôi là bạn của ông Giàu”. Cô y tá vào trong rồi trở ra ngay. Theo sau cô là một bác sĩ hớt tóc cao kiểu bàn chải (brossant). Bác sĩ bắt tay Bảy Trân, đưa vào phòng khám, bảo ngồi chờ, ông đang bận khám một người nằm sấp trên giường trải “ra” trắng.
Bỗng cánh cửa phòng bên hông hé mở, một cô đầm khoảng 30 tới nói mấy câu, nhưng bác sĩ khoác tay bảo: “Chút nữa đi! Bây giờ đang bận”. Cô đầm rút lui ngay, bác sĩ đưa thân chủ ra, đóng cửa cài then lại, đến ngồi đối diện với Bảy Trân:
- Ông là bạn của ông Giàu?
Bảy Trân trao xấp tài liệu:
- Ông Giàu nhờ tôi trao tận tay bác sĩ.
Ông Thạch cất kỹ tài liệu trong ngăn tủ, khóa lại cẩn thận.
-Phải vậy đó. Cả bà đầm của tôi cũng không biết công việc làm của tôi. Lúc nãy bả cự nự tôi đi cả đêm không về. Mình đi họp, làm sao dám cho bả biết?... Ông Giàu vẫn mạnh khỏe chứ?
- Dạ khỏe mạnh- Bảy Trân đứng lên cáo từ. Ông Thạch siết tay thật chặt. Bàn tay thật ấm. Bảy Trân như được truyền nhiệt và trên đường về, suy nghĩ mãi về nhiệt tình yêu nước của những người trí thức tiến bộ.
Tiếng chày lại vang lên báo động. Lần này là một người quen biết cũ của Bảy Trân: Giáo hữu Non. Câu chuyện 15 năm xưa hiện về trong trí Bảy Trân, đậm nét như mới hôm nào. Hồi ấy là năm 1930, Bảy Trân mới về nước vào mùa lúa chín cuối năm.
Để tránh làng lính, anh không về nhà mẹ ở Đa Phước- anh mồ côi cha từ lúc lên 7- mà tấp vô chùa Cao Đài Phú Lạc của dì ruột, do Tư Ó là con của dì trụ trì. Anh mang theo tiền và hóa chất để viết thư mà người ngoài không đọc được- chờ liên lạc với Trung ương. Thời gian chờ đợi khá lâu, Bảy Trân nhờ Tư Ó đưa lên Tây Ninh xin làm thư ký cho giáo tông Cao Đài tại tòa thánh. Hội đồng Trung thấy Bảy Trân trẻ tuổi, đẹp trai, có văn hóa, biết đánh máy, nhận làm thư ký ngay.
Trong thời gian ở đây, Bảy Trân vào thư viện nghiên cứu giáo lý Cao Đài. Với một người được đào tạo tại trường Đông Dương Đại học đường, giáo lý Cao Đài thật là một mớ hổ lốn khó chấp nhận. Nhưng tòa thánh có một nhà in, la cà với thợ xếp chữ, ngấm ngầm tuyên truyền vận động và tổ chức. Giáo hữu Non là người được Hội đồng Trung giao trông coi nhà in. Y là người Cần Đước. Bảy Trân nhìn đồng hương với Giáo hữu Non: Cần Giuộc với Cần Đước như hai anh em sanh đôi dính liền xương sống. Dần dần Bảy Trân thuyết phục Giáo hữu Non. Trong một vụ đấu tranh đòi bãi thuế tại Cần Đước, Giáo hữu Non bị bắt. Ra tòa y khai là Giáo hữu Cao Đài nhưng vẫn bị tòa “đóng nhãn hiệu Cộng sản” và kêu ba năm tù, nhốt Khám Lớn Sài Gòn. Bấy giờ, Tây nghe nói dân Cần Đước, Cần Giuộc là thẳng tay kêu án, bởi chúng không thể quên được hai vụ phá Khám Lớn Sài Gòn xuất phát từ hai nơi này.
Ra đón Giáo hữu Non, Bảy Trân có phần chột dạ “Tay này tìm mình để làm gì đây? 15 năm rồi…”.
Giáo hữu Non đi ngay vô đề:
- Nhật sắp đảo chính. Trong nội các sắp công bố, Cao Đài được dành khá nhiều ghế. Tôi nghĩ ngay tới anh…
Bảy Trân giật mình:
- Trời đất! Tôi học hành tới đâu mà… Thôi cho tôi xin đi anh!
Giáo hữu Non ra sức thuyết phục:
- Tôi biết hết, anh đừng giấu. Anh đi học ở Pháp về, nói tiếng Tây giòn rụm như bẻ củi, nhưng anh có tinh thần chống Pháp. Anh đã từng kêu gọi anh em nhà in tòa thánh chúng tôi đứng lên giành độc lập. Bây giờ độc lập sắp về tay mình, anh không chịu đứng vô nội các của nước Việt Nam độc lập là nghĩa làm sao?
Bảy Trân tiếp tục thoái thác, giáo hữu Non say sưa nói:
- Nhật khác xa Pháp, Nhật cùng da vàng, mũi xẹp như mình. Mấy chục năm trước đây, Nhật đã giúp đỡ chứa chấp những nhà cách mạng của mình trong đó có đức kỳ ngoại hầu Cường Để. Ông này vốn dòng tôn thất không chịu ách nô lệ bí mật hẹn với hai ông Phan Sào Nam và Tăng Bạt Hổ đem ghe vào sông Hương rước ông ra Hải Phòng xuất dương qua Nhật. Ông cưới công chúa Nhật, làm rể Nhật hoàng. Rồi đây Nhật sẽ đưa ông về chấp chánh thay Bảo Đại.
Bảy Trân cười thầm “Cha này bị bỏ bùa mê thuốc lú của bọn phát xít. Làm sao giải bùa cho nó đây?”.
- Người ta đồn như vậy chứ chưa chắc có chuyện Nhật đưa Cường Để về. Mà dù Nhật có tính như vậy thì Cường Để cũng chưa chắc chịu về, bởi ai biết bài thơ xuất dương của ông với hai câu đầu như thế này:
“Vì nước cho nên phải xuất dương,
Há mang đồ bá với tranh vương…”
Giáo hữu Non không để Bảy Trân đọc hết bài:
- Cờ đến tay ai nấy phất. Hồi ra đi ổng nói như vậy, nhưng bây giờ thời thế đã đổi khác. Dù có ổng hay không có ổng, anh cũng phải ra gánh vác chuyện nước chuyện non. Tôi rất tín nhiệm anh nên lặn lội tới đây tìm anh. Anh mà từ chối thì tôi giận lắm đó.
Bảy Trân gọi vợ làm vịt, mua rượu đãi khách. Nhưng Giáo hữu Non hầm hầm đội mưa ra về khi thấy thái độ lạnh nhạt của Bảy Trân trước đề nghị đầy nhiệt tình nóng bỏng của y. Bảy Trân cũng giầm mưa chạy theo năn nỉ nhưng Giáo hữu Non bỏ đi một nước.
Bảy Trân trình bày mọi việc và đề nghị anh em nên dời đi một thời gian để xem phản ứng của Giáo hữu Non như thế nào.
Sáu Giàu vỗ vai Bảy Trân:
- Vậy là địch và ta đang chạy đua nước rút trong giai đoạn này. Mình đã đi trước chúng một bước, phải giữ khoảng cách đó, đừng cho nó bắt kịp. Ở xa Trung ương là một thất lợi lớn. Nhưng đó cũng là một điều kiện bắt buộc chúng ta phải vận dụng tất cả trí thông minh và tinh thần sáng tạo để “điều, nghiên, phân, tổng” nắm cho được tình hình, thấy cho hết khó khăn để có đường lối thích ứng với tình thế.
Văn phòng Xứ ủy có một máy thu thanh, mỗi ngày Sáu Giàu đều theo dõi tin tức thế giới và trong nước. Nhờ vậy anh biết rõ Đồng minh đang phản công ở khắp các mặt trận. Anh có thể kể vanh vách chiến sự tại châu Ââu, châu Phi và Đông Nam Á. Chiến trường anh chú ý nhất là Thái Bình Dương, tướng A-tuya (mac Arthur) chiếm được đảo Ma-ri-an (Mariannes) và từ đó cho không quân oanh tạc Đông Kinh nhiều lần trong ba tháng đầu năm 1945. Mỹ chiếm đảo Lu xông (Lucon) rồi chiếm Maní (Manille) ngày 24-2. Các tin tức này làm mọi người phấn khởi.
Chú thích:
(2) Cingcueme colonne: đạo quân thứ năm tức số người làm tai mắt cho địch