Birmingham. Anh quốc. Năm 1998. Cuộc gặp thượng đỉnh G-8.
Cuộc họp đang diễn ra sôi nổi. Bỗng nhiên Tony Blair vỗ tay và tuyên bố.
- Thế này, thưa các vị, đến mười sáu giờ. Tất nhiên là tôi không kịp ra sân vận động, nhưng ít nhất cũng phải được xem vô tuyến truyền hình. Các vị không biết à? Hôm nay có trận bóng đá giữa Arsenal và Newcastle! Trận đấu bán kết Cúp bóng đá Anh.
Thế là hôm đó chúng tôi đã không kết thúc được cuộc thảo luận. Bóng đá quan trọng hơn nhiều.
Cho đến bây giờ mỗi khi nhớ lại, tôi lại bật cười khi Thủ tướng Italia Romano Prodi trêu Tony Blair:
- Này Tony! Nhìn xem, cái anh chàng cầu thủ kia có mũi rất là Anh!
Vấn đề là hiện nay trong những Câu lạc bộ mạnh nhất nước Anh giải vô địch ngoại hạng thì cầu thủ người Italia chiếm quá đông.
Nhưng Tony không cảm thấy bị xúc phạm.
Viên trợ lý vẫn im lặng ngồi sau lưng anh ta. Thông thường đó là một chuyên gia kinh tế. Anh ta cũng ngồi xem bóng đá.
Tôi cố tình thuật lại cáu chuyện về bức tranh những cuộc gặp thượng đỉnh G-8 để độc giả cảm giác được tinh thần của cái câu lạc bộ này. Bởi vì Nhóm tám nước - đó chính là một câu lạc bộ. Một câu lạc bộ những cuộc giao tiếp không chính thức của các nguyên thủ tám nước mạnh nhất, công nghiệp phát triển nhất của thế giới.
Điều nghịch lý là tinh thần của cái câu lạc bộ này, phong cách làm việc tự do, thân mật cũng chính là “chế định” mà nguyên thủ của tất cả các nước bắt buộc phải tuân thủ (nếu như không nói là chặt chẽ). Những nguyên thủ thay đổi nhau làm chủ tịch nhưng phong cách làm việc không thay đổi. Chính vì vậy mới thành lập “Nhóm tám nước”, năm 1975 mới chỉ có sáu nước.
Một số nhà lãnh đạo của các nước có ảnh hưởng ngồi với nhau bên lò sưởi nửa ngày trời và tâm sự với nhau. Rồi sau đó họ thành lập câu lạc bộ. Những cuộc gặp gỡ câu lạc bộ như thế diễn ra không nhiều, nhưng dần dần nó trở thành một công cụ tối quan trọng của nền chính trị thế giới. Chính do cái tinh thần tự do, phóng túng như thế, nên các cuộc gặp đã tạo khả năng cho các nguyên thủ quốc gia thảo luận những vấn đề mới trong một bối cảnh hơi khác, không bị ràng buộc bởi những nghi lễ quốc tế
Những chuyến thăm quốc tế thông thường, trong đó ký kết những văn kiện chung hay song phương là một việc rất nghiêm túc. Lịch trình làm việc được thống nhất giữa các Bộ Ngoại giao hàng nửa năm trời, và thời hạn của chương trình cũng được chuẩn bị trong khoảng thời gian đó. Phải chuẩn bị hàng núi văn bản, điều chỉnh nội dung phát biểu, dự án... Tất cả đều được chuẩn bị sẵn, quy định sẵn. Song thế giới phát triển quá nhanh nhưng giải quyết những vấn đề của mình vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào cơ chế “lờ đờ”. Chính vì vậy lúc đó mới sinh ra cái công thức “nhóm tám nước”: đơn giản, gọn nhẹ và... khép kín. Phái đoàn cũng rất ít thành viên. Những cuộc trao đổi hoàn toàn tự do. Không có vấn đề gì từ những cuộc gặp gỡ này được đưa ra dư luận thảo luận rộng rãi. Chỉ cần một thông cáo chung rất ngắn. Còn giờ đây, tại sao nước Nga lại được mời vào câu lạc bộ này.
Ngay từ khi còn làm Tổng thống Liên xô, M. Gorbachov đã nói đến việc Nhóm G-7 cần phải trở thành G-8. Nhưng chỉ đến những năm 90 nước Nga mới được mời tham dự những cuộc gặp thượng đỉnh. Lúc đầu chỉ được mời với tư cách là “khách đặc biệt”. Những vấn đề kinh tế, tài chính đối với chúng ta vẫn bị khép kín. Tôi có cảm giác cái công thức “bảy cộng một” không thể chấp nhận được đối với nhiều người. Điều đó tạo khả năng cho nước Nga nhưng cũng giống như một cậu học trò trong kỳ thi. Đối với chúng ta điều đó không thể chấp nhận được. Tôi cho rằng một khi đã mời nước Nga tham gia, thì nhất định không được có tiêu chuẩn nước đôi ở đây được. Hoặc chúng ta là thành viên hoặc là không.
Năm 1997, tại Thành phố Denver của Mỹ, nước Nga được thừa nhận quy chế thành viên đầy đủ. Giờ đây đoàn đại biểu của chúng ta được tham gia tất cả các cuộc họp.
Tôi cho rằng trong vấn đề này vai trò chính là do chúng ta có quan điểm cứng rắn đối với việc NATO mở rộng sang phía Đông do tôi nêu ra mấy tháng trước khi diễn ra cuộc gặp cấp cao Nga - Mỹ ở Helsinki. Tôi tuyên bố trước thế giới rằng đó là sai lầm dẫn đến một cuộc đối đầu giữa Đông và Tây. Đáng tiếc là tôi đã đúng.
Tại cuộc gặp thượng đỉnh tay đôi ở Helsinki tháng 3 năm 1997 đã diễn ra một chi tiết mà tôi vẫn ghi nhớ làm cho nội tâm trở nên rất căng thẳng: Clinton đến tham dự trong chiếc xe lăn. Trước đó ít lâu ông ta bị ngã trên cầu thang và dãn dây chằng.
Chuyến đi đó đối với tôi rất quan trọng không chỉ vì cuộc tranh cãi về NATO.
Cũng vừa mới đó thôi, tôi cũng phải phẫu thuật tim. Tất cả đều nghĩ rằng sẽ thấy một Yeltsin ốm yếu và một Clinton nhăn nhó. Bỗng nhiên Tổng thống Mỹ xuất hiện trên chiếc xe lăn. Tôi còn nhớ là tôi đã đẩy xe lăn của ông ta đi mấy mét. Những bức ảnh chụp đã được truyền đi khắp thế giới. Rất nhiều người còn nhớ Hội nghị Yalta năm 1945 và vị Tổng thống nổi tiếng của Mỹ Roosevelt cũng ngồi trên xe lăn.
Theo tôi, hình như Clinton cảm thấy không tiện khi tôi đẩy xe cho ông ta, nhưng ông ta vẫn mỉm cười: bức tranh hoá ra lại hình tượng - không phải là một nước Mỹ khoẻ mạnh đẩy một nước Nga ốm yếu trên xe làn, mà là ngược lại. Nước Nga lại giúp nước Mỹ.
Bill Clinton - một nhân vật quen thuộc trong lịch sử nước Mỹ. Chính dưới thời ông ta cầm quyền, nền kinh tế Mỹ đã đạt những kết quả gây ấn tượng: tăng trưởng liên tục trong nhiều năm liền. Mỹ trở thành một cường quốc lãnh đạo. Clinton đã đưa đất nước vào kỷ nguyên máy vi tính mới - với một tiềm năng trí tuệ lớn lao. với tư cách là một nước lãnh đạo công nghệ. Dường như ở nước mình, Bill đã thực hiện được tất cả những lời hứa mà trước đó chưa có vị Tổng thống Mỹ nào thực hiện được; ông ta thực tế đã đưa vào cuộc sống những cam kết chính trị của tất cả các Tổng thống Mỹ nửa sau thế kỷ 20 - không chỉ đạt được phồn vinh kinh tế, mà còn đảm bảo cho tầng lớp xã hội nghèo khó. Clinton đã làm được điều đó!
Nhưng có điều nghịch lý là người Mỹ lại không quan tâm đến những thành tựu đã đạt được. mà lại quan tâm đến vụ bê bối tình dục với cô Monica Lewinski.
Cuối nhiệm kỳ Tổng thống lần thứ hai uy tín của Clinton sút giảm chưa từng có.
Lần đầu tiên trong thế kỷ 20, một Tổng thống Mỹ bị đưa ra bỏ phiếu bất tín nhiệm. May thay ông ta không bị phế truất. Nhưng những cuộc hỏi cung Tổng thống, nhưng lời khai của Tổng thống đã trở thành chuyện riêng của xã hội.
Đó là cái giá của quyền lực.
Mỗi bước đi của anh, mỗi lời phát ngôn của anh đều được xã hội xem xét qua cái kính lúp khổng lồ. Lạy Chúa, đừng có mắc sai lầm! Đừng có làm làm điều gì ngớ ngẩn và không đúng. Khi đã ở cương vị như vậy người ta sẽ không tha thứ cho anh. Không được để xảy ra bất cứ một sai lầm và bê bối.
Hơn nữa xã hội lựa chọn vai trò chính của anh trong thứ bậc Nhà nước không phải qua anh đi xe nào, mà là con người sống động với nhũng phản ứng sống động và khả năng hành động độc lập. Nhưng liệu có ai trong số cử tri hiểu được rằng mặt sau của cái độc lập bên trong đó có khi lại là sai lầm. Những sai lầm rất con người.
Mặt khác, vụ bê bối xung quanh Clinton một lần nữa khẳng định một điều đơn giản: tuân theo những tiêu chuẩn luân lý đạo đức là điều răn dạy đầu tiên của một chính khách.
Những người dân bình thường không thể chấp nhận được với suy nghĩ là người lãnh đạo mình lại có thể mềm lòng, chịu quỳ gối trước những nhân tố ngẫu nhiên nào đó.
Một người chuẩn bị cho một cuộc bầu cử Tổng thống phải ghi nhớ điều đó. Trên đời vẫn xảy ra: không thể có ai không có lỗi, nhưng không thể cho phép được mắc sai lầm!
Bill Clinton không muốn để người dân Mỹ biết được về vụ bê bối với Monica Lewinski. Sau đó ông ta tự hiểu là không thể làm được điều đó. Đạo đức của Mỹ (kể cả toà án) không cho phép ông ta được dao động và nghi ngờ.
Không thể so sánh cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm ở Mỹ giống như ở Nga. Đó là hai việc hoàn toàn khác nhau. Nhưng hai sự việc diễn ra trùng khớp về mặt thời gian, thì tôi cho đó là một tín hiệu nào đó của số phận. Nó cứ như một sự cảnh báo trước với xã hội: đó là một sự xâm hại đạo đức được lợi dụng như một con bài chính trị và có thể là một nhân tố phá hoại có sức công phá rất lớn.
Chính là phá hoại chứ không phải có tính chất xây dựng.
Quốc hội cánh tả của chúng ta đổ tội cho Tổng thống trước hết là làm tan rã Liên Xô. Nhưng sau cái màn khói hệ tư tưởng trong trường hợp Clinton cũng có chuyện tính sổ như vậy. Tôi cũng như Bill, một nhà hoạt động chính trị, hay nói một cách khác là cánh tả không thể tha thứ cho hành động kiên quyết, cứng rắn, cuối cùng là không để cho đạt được mục tiêu đề ra. Clinton mạnh hơn những đối thủ cạnh tranh của mình đến mức họ chỉ còn có thất bại trên trường chính trị - trong cuộc đọ sức tố cáo và vu khống. Tôi cũng có thể nói như vậy về trường hợp bỏ phiếu bất tín nhiệm của chúng ta ở Nga.
Sau khi thất bại lần thứ nhất và lần thứ hai trong các cuộc bầu cử, những người cộng sản tìm mọi cách để tiêu diệt Tổng thống, bang mọi giá để lật đổ Tổng thống. Họ đưa ra tất cả mọi con bài: quy kết làm tan rã Liên Xô, sai lầm trong chiến dịch quân sự Chesnia - tội phạm, khó khăn trong kinh tế - “tội diệt chủng nhân dân Nga”. Mỗi một hành động của tôi, mỗi câu phát biểu, vấn đề sức khoẻ, từ việc phẫu thuật tim đến viêm phế quản, đều có thể trở thành lý do cho một vụ bê bối chính trị lớn, cho sự phá đám ở Duma.
Nhưng dù sao lịch sử sẽ đặt mọi thứ đúng vị trí của nó.
Sẽ đánh giá dúng công lao.
Việc bỏ phiếu bất tín nhiệm tôi và Bill Clinton ở mức độ nào đó trở thành thời điểm có tính bước ngoặt đối với sự phát triển xã hội ở nước ta và nước Mỹ.
Tưởng chừng hai nước hoàn toàn khác nhau, hai nền văn hoá chính trị khác nhau, đạo đức xã hội khác nhau, lịch sử khác nhau. Nhưng đều thể hiện tính quy luật chung thậm chí ngay cả trong những hoàn cảnh không giống nhau.
Trước ngưỡng của của thế kỷ mới, của một niên đại mới, xã hội dương đại sẽ cởi mở và rõ ràng đến mức tối đa nhờ công khai hoá, tự do ngôn luận, thông tin đa chiều. Nguyên thủ quốc gia đơn giản là, nếu như muốn duy trì địa vị của mình, buộc phải tiến hành một chính sách có hiệu quả, dám đối mặt với mọi thách thức. Thậm chí nếu dư luận xã hội muốn can thiệp vào đời tư của anh. Tổng thống buộc phải thể hiện lòng dũng cảm và phẩm chất của mình thậm chí cả trong những cuộc va chạm đau lòng nhất. Tôi có cảm giác chính Clinton đã thể hiện được điều đó.
Nhưng bây giờ tôi muốn chuyển sang nói chuyện khác.
Tôi nhớ lại những cuộc gặp đầu tiên của tôi với Bill Clinton. Tôi thật ngưỡng mộ một con người trẻ trung, luôn luôn cười tươi mạnh mẽ, năng nổ và là một người đàn ông ưa nhìn. Clinton là tiêu biểu cho một thế hệ mới trong chính trị. Một tương lai không- có chiến tranh, không có đối đầu, không có cuộc đấu tranh hằn học của hai hệ thống và hệ tư tưởng.
Tôi hiểu là đối với Clinton cuộc tiếp xúc với tôi, cuộc tiếp xúc rất tình người cũng rất quan trọng: theo ông ta, chính những hành động chính trị của tôi liên quan đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản - mối đe doạ chủ yếu đối với Mỹ ở thế kỷ 20 Bill sẵn sàng ủng hộ, chưa có một Tổng thống Mỹ nào lại đến Matxcơva nhiều lần như thế (trong tương lai chắc điều đó cũng khó lạp lại), chưa có một Tổng thống nào lại tiến hành nhiều cuộc hội đàm nhộn nhịp như vậy và thúc đẩy việc hỗ trợ chúng ta về kinh tế và chính trị với quy mô lớn như vậy. Đôi lúc tôi và Bill cứ có cảm tưởng trong các cuộc gặp gỡ chúng tôi đang đạt nền móng cho một trật tự thế giới mới, một tương lai cho hành tinh chúng ta.
Không, đó không phải là ảo tưởng. Nhưng cuộc sống còn phức tạp hơn.
Hoá ra không phải tất cả những tiêu chí dân chủ đều được nảy mầm ở nước Nga. Việc thích nghi với những giá trị dân chủ rất khó khăn và đau đớn hơn là có lúc ta tưởng vào đầu những năm 90.
Hoá ra cũng không phải mọi tình huống xung đột xuất hiện trên thế giới, Nga và Mỹ đều nhìn nhận giống nhau. Giữa chúng ta và Mỹ hoàn toàn có những lợi ích khác nhau và có quan điểm khác nhau đối với vấn đề này. Những sự trợ giúp tài chính quốc tế tự thân nó không thể thúc đẩy việc hình thành nhũng điều kiện để nâng kinh tế của chúng ta.
Sau những ảo tưởng đầu những năm 90, mỗi một phát kiến nào đó đều làm cho xã hội chúng ta choáng váng. Sau đó diễn ra một sự hưng phấn, trong quan hệ với nước Nga Mỹ thông qua chính sách thông tin có định hướng dần dần đã tạo ra trong con mắt những người Mỹ bình thường hình ảnh nước ta là một đất nước của thổ phỉ và tham nhũng. Trong vấn đề này những người ở Mỹ bất bình với chính sách “thân Nga” của Nhà Trắng và những người ở Nga giở hết mọi con bài chống Kremli đã phối hợp nô lực với nhau.
Những kết quả đàm phán Nga - Mỹ ở mức độ nào đó đã bị tiêu tan.
Nhưng, theo quan điểm của tôi. sự thụt lùi này chỉ là tạm thời và không thể so sánh với những bước đi khổng lồ lên phía trước đã được tạo ra trong giai đoạn các cuộc tiếp xúc “Bill - Boris”. Đó là bước đi có tính lịch sử. Những cơ cấu phối hợp hành động Nga - Mỹ đã được tạo ra, mà không có một mưu đồ nào, không có một vụ bê bối nào, không có một cục diện tình thế nào có thể phá hoại được.
Mỹ và Nga không còn là kẻ thù tiềm tàng của nhau. Họ đã trở thành những đối tác tiềm tàng của nhau.
Còn tiếp sau thế nào sẽ tuỳ thuộc ở những Tổng thống tương lai. Tuỳ thuộc ở những con người bình thường. Tuỳ thuộc ở những người Nga và người Mỹ.
Cuối năm 1996 tình báo của chúng ta đã báo cáo cho tôi thắng lợi giòn giã của Clinton trong cuộc bầu cử - ông ta được bầu lại nhiệm kỳ Tổng thống lần thứ hai. Trong bản báo cáo có nhận định: như vậy những người của Đảng Cộng hoà sẽ phải giải quyết những vấn đề chính trị lớn xuất hiện trong nội bộ. Báo cáo còn nêu rõ, vì Clinton say mê những cô gái đẹp, nên trong tương lai những đối thủ của Clinton sẽ sử dụng thủ đoạn “mỹ nhân kế” vào trong số những người thân cận của Clinton để rồi sau đó gây ra vụ bê bối làm mất uy tín của Tổng thống.
Tôi nhớ là lúc đó tôi đã lắc đầu: Đạo đức thế đấy? Nhưng trong trường hợp này tôi cho rằng dự báo đó quá kỳ dị. Tôi có cảm tưởng nếu chuyện như vậy xảy ra, Clinton với sự nhạy cảm thực tiễn của mình và sự hỗ trợ của bộ máy trợ lý nhất định sẽ kịp thời phát hiện ra âm mưu đen tối này.
Trong cuộc gặp Clinton tôi muốn tặng cho Clinton báo cáo đó để làm quà. Nhưng sau đó tôi quyết định không muốn làm tổn thương một con người đã quá hao tâm tổn trí trong vụ bê bối này.
Nước Mỹ. Tháng 5 năm 1977. Cái nóng ngột ngạt, lên tới gần bốn mươi độ. Một đoàn xe Limuzin màu đen sang trọng nối tiếp nhau chạy. Dân tình không tránh khỏi tò mò. Trên đại lộ ùn tắc xe cộ, mọi người ra khỏi xe quan sát. Họ đứng lên cả nóc xe để xem, đánh ánh mắt về phía chúng tôi. Hình như những chiếc xe “ZiL” làm cho họ thán phục. Họ kêu ré lên và vẫy tay - đó là những thứ đồ của những năm 50! Hồi đó là thứ mốt của những chiếc xe đồ sộ nặng nề như xe tăng có bánh.
Cuộc gặp đã gây ra sự huyên náo trên báo chí. “Nhóm bảy nước” đã biến thành “Nhóm tám nước”! Nước Nga được chấp nhận vào Câu lạc bộ các quốc gia thượng lưu? Chuyện gì xảy ra vậy?! Còn ở nước Nga, trên báo chí của chúng ta thì toàn có những lời lẽ bi quan, tự ti, nghi hoặc: chúng ta vào “Nhóm tám nước” làm gì, chúng ta sẽ thảo luận gì với nhóm này, chúng ta còn có biết bao vấn đề! Báo chí còn viết rằng việc nước Nga gia nhập Câu lạc bộ này chả ai mà không hiểu: Đó chỉ là một sự tạm ứng trước mà thôi.
Đúng, đó là một sự tạm ứng trước. Nền kinh tế của bảy nước khác đang tăng trưởng. Chúng ta thì đang vùng vẫy ra khỏi khủng hoảng. Rồi tại Hội nghị Denver Bộ trưởng Tài chính của chúng ta không được mời đến tham dự Hội nghị các Bộ trưởng Tài chính để điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ bởi lẽ chẳng có gì để thảo luận ở đây, đáng tiếc là tỷ giá đồng rúp của chúng ta quá thấp. Ngồi im và nghe người Mỹ và Nhật Bản thảo luận với nhau về việc nâng tỷ giá đồng yên cho hợp với tỷ giá đồng đô la, thì thật là vô vị. Nhưng...
Nhưng tôi đã đọc những bài báo đó và suy ngẫm: khi nào thì chúng ta có thái độ bình thường với chính chúng ta? Bởi vì có điều hoàn toàn rõ ràng: chỉ đơn giản như thế, chỉ do tình thế chính trị thì chúng ta không thể được chấp nhận vào “Nhóm tám nước”. Nước Nga - một trong những nước có ảnh hưởng của thế giới. Nước Nga có sự kết hợp của những nguồn tài nguyên, công nghệ cao, thị trường nội địa rộng lớn, nguồn lực trình độ chuyên môn cao, một xã hội năng động. Đấy là lý do tại sao, chúng ta có mặt tại đây, tại G-8. Trong vấn đề này không có chuyện nói về “những người thân nghèo đói”?
Không, không bao giờ tôi chấp nhận là người thừa thứ tám, vô tích sự trong cái Câu lạc bộ này. Ngược lại, tôi cảm thấy: chúng ta được tôn trọng thực sự.
Công việc có tính kỹ thuật của G-8 diễn ra như sau. Một bàn hội đàm. Bên những chiếc bàn đó là những nhân vật đứng đầu, nguyên thủ của các quốc gia. Những trợ lý ngồi bên cạnh. Bên cạnh nữa là một máy điện thoại trực tiếp để liên lạc với Bộ Tham mưu. Bộ tham mưu bao gồm những chuyên gia của Bộ Tài chính. Bộ Ngoại giao, Quốc phòng, Tình báo. Trợ lý của tôi trong các cuộc gặp thượng đỉnh G-8 những năm gần đây là Alexandr Livshis.
Cuộc tranh luận được bắt đầu. Thông thưởng theo vòng tròn. Mỗi nguyên thủ quốc gia có một đề tài. Sau đó cùng thảo luận. Trước mặt tôi là tiêu đề “chủ đề” của mình. Nhưng tình thế có thể thay đổi đột ngột. Trợ lý bắt buộc phải nhanh chóng phản ứng trong từng giây: nhận thông tin từ Bộ Tham mưu chuyển ngay cho tôi, đưa ra những phương án giải quyết vấn đề khác nhau.
Đôi khi Livshis xử sự không chuẩn. Chẳng hạn, tại Hội nghị thượng đỉnh ở Cologne đã xảy ra một chuyện đáng buồn. Viên trợ lý của Helmut Kohl đem đến thông tin về việc Pakistan vừa mới thử vũ khí hạt nhân. Livshis nối liên lạc ngay với Tổng tham mưu trưởng Kvashinin. Trong vòng một phút nhận được thông tin: Tình báo của chúng ta khẳng định rằng đã tiến hành vụ thử hạt nhân. Còn Clinton lại có thông tin chính xác hơn: Chưa thử. Pakistan mới chỉ giả vờ, để hù doạ các nước láng giềng. Vụ thử hạt nhân thật sự chỉ diễn ra sau đó mấy ngày.
Alexandr Livshis, một cố vấn kinh tế của tôi, một quan chức dân sự thế là trở thành con tin của một cái tin không chính xác. Lúc đó anh ta đã chịu nhận những cơn thịnh nộ của tôi, nhưng đáng ra anh ta phải đổ lên đầu những Bộ trưởng vũ lực.
Tôi có thể chia những vấn đề thảo luận tại các Hội nghị thượng đỉnh ra làm ba nhóm.
Nhóm thứ nhất: kinh tế và tài chính. Những mục tiêu chiến lược ở đây của chúng ta: Để loại bỏ mọi hạn chế đối với nước Nga, thừa nhận nước Nga thật sự có nền kinh tế thị trường, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Câu lạc bộ Paris. Bởi vì tình huống thật nghịch lý. Một mặt, họ cho chúng ta vay tín dụng, giúp đỡ chúng ta ổn định tài chính. Mặt khác, họ lại áp dụng hàng rào thuế quan đối với hàng xuất khẩu của chúng ta. Từ lâu rồi chúng ta có thể có những khoản thu nhập không nhỏ trên thị trường thế giới, chúng ta có những danh mục xuất khẩu - thép chất lượng cao, các loại kim loại màu, uranium, một số công nghệ, cuối cùng là chúng ta còn xuất khẩu vũ khí ra thị trường rộng lớn. Chúng ta cần ký được những hợp đồng lớn, chẳng hạn như trong ngành vũ trụ với nước thứ ba, thế nhưng ở đây luôn có áp lực của Mỹ, không bộc lộ rõ, lặng lẽ, nhưng cũng có lúc công khai của người Mỹ lên đối tác của chúng ta. Chúng ta vừa mới thâm nhập vào thị trường vũ khí châu Mỹ La tinh bán máy bay và máy bay lên thẳng, thì sứ quán Mỹ đã tổ chức họp báo, tiến hành một chiến dịch vận động trên báo chí địa phương.
Còn một số lĩnh vực nữa chúng ta đã từng là những nhà cạnh tranh lâu đời. Cần phải thừa nhận điều đó. Nhưng, tôi tin tưởng rằng tất cả những hạn chế này chỉ là tạm thời. Nó cũng tạm thời như sự suy giảm nền công nghiệp của chúng ta và những hậu quả của khủng hoảng tài chính sẽ chẳng lâu đâu. Những cuộc đàm phán thường xuyên với G-8 nhất định sẽ đem lại kết quả.
Nhóm vấn đề thứ hai - vấn đề an mình, nền chính trị hiện nay.
Ở đây tôi muốn thuật lại một cuộc gặp thượng đỉnh tiếp theo về an ninh hạt nhân diễn ra đầu năm 1996 ở Matxcơva.
Đó là cuộc gặp thượng đỉnh đầu tiên diễn ra ở Matxcơva. Mặc dù đây là cuộc gặp thường kỳ, nhưng diễn ra ở Matxcơva lại có ý nghĩa quan trọng khác thường về mặt chính trị. Như tôi đã trình bày ở trên, cuộc vận động bầu cử của tôi năm 1996 diễn ra khó khăn như thế nào. Việc các nguyên thủ quốc gia của Nhóm G-8 đến Matxcơva như chưa từng có trong tiền lệ đối với tôi là một sự ủng hộ về tinh thần khó có thể đánh giá. Họ đã có sự lựa chọn sớm hơn rất nhiều so với nhiều đại diện có tiếng tăm trong giới thượng lưu chính trị nước Nga.
An ninh hạt nhân những năm gần đây ngày càng làm cho Nhóm G-8 lo láng. Mối đe doạ cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân ngày càng lớn ở những nước không thuộc “Câu lạc bộ hạt nhân”.
Điều nguy hiểm diễn ra làm nhân loại lo sợ giống như những năm 60-70 - đó là công nghệ hạt nhân rơi vào tay những kẻ ngoại đạo. Điều đó đặt ra với những cường quốc “lớn” những nhiệm vụ mới.
Nói chung giải quyết những vấn đề quốc tế mới phức tạp liên quan, trong đó có cả an ninh là quyền đặc biệt của các tổ chức quốc tế khác. Nhưng cuộc gặp thượng đỉnh ở Matxcơva, sau đó là cuộc gặp ở Cologne đã chứng minh cho thế giới thấy: chính Nhóm G-8 đã giúp cho NATO và nước Nga, toàn liên minh châu Âu bứt ra khỏi bế tắc. Chính những cuộc tư vấn của Nhóm G-8 về Kosovo được triệu tập nhờ sáng kiến của Nga trái với mong muốn của một số nước, đã trở thành động lực cho “lần thở phào nhẹ nhõm thứ hai” trong các cuộc hội đàm của Talbott, Milosevic, Ahtisaari, Chernomưrdin.
Và cuối cùng là nhóm những vấn đề thứ ba: đó là những vấn dề bao giờ cũng được thảo luận liên quan sự phát triển của loài người. Thực tế chính vì những vấn đề này mới tồn tại Câu lạc bộ và cũng chính vì những vấn đề này Câu lạc bộ mới khởi sự công việc của mình. Để cho một thực tiễn bất ngờ không làm phân tán cộng đồng thế giới chia rẽ giữa các nước.
Trong vấn đề này, trước hết phải kể đến những kế hoạch môi trường và dân số. Chẳng hạn, nước Đức rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ rừng. Đây là đề tài sở thích của Đức. Những người thuộc đảng “Xanh” ngày càng tăng cường ảnh hưởng của mình trong xã hội Đức, và Thủ tướng Kohl và sau đó là Thủ tướng Shroeder không thể không tính toán đến vị thế của họ. Những người châu Âu và Nhật Bản rất lo ngại đến “hiện tượng già hoá” của dân chúng nước họ. Tỷ lệ thế hệ già cả ngày càng tăng lên, trở thành vấn đề liên quan công ăn việc làm của họ, lối sống, thích nghi với điều kiện sống mới, thế giới hiện đại đang chạy theo nhịp sống của những thế hệ trẻ và khoẻ mạnh.
Vấn đề hoàn toàn đúng đắn. Nhưng nói thật lòng: tôi thấy thật không tiện khi tham dự những cuộc thảo luận về vấn đề này. Tình hình của chúng ta với những người hưu trí Nga còn bi kịch hơn nhiều - cho đến bây giờ chúng ta chưa giải quyết được những vấn đề bảo đảm cho người hưu trí, những vấn đề xã hội, y tế. Nhưng thông thường, việc bảo đảm cho những người tuổi già cả chưa bao giờ mất tính gay gắt của tình hình nhân khẩu học toàn cầu. Sớm hay muộn chúng ta cũng phải giải quyết vấn đề này.
Đôi khi trong những cuộc thảo luận “toàn cầu” lại xảy ra những va chạm thú vị. Tôi nhớ rõ, tại một cuộc gặp thượng đỉnh, tôi nhìn qua vai Clinton và phát hiện ra Clinton định trả lời “trên bảng” về đề tài mà tôi định có ý kiến: Công nghệ máy tính năm 2000? Vì chúng tôi phát biểu theo vòng tròn, mà chính tôi lại phát biểu trước Clinton. Biết làm thế nào đây? Khi tôi phát biểu, Clinton có vẻ hơi thất vọng. Tôi quyết định không chỉ phát biểu có năm phút, mà chuẩn bị phát biểu một cách nghiêm túc và làm cho cuộc tranh luận sôi nổi để Bill có thể tham gia một cách tự nhiên. Theo tôi, Bill không lấy đó để giận tôi.
Nhưng đối với tôi cũng có những kỷ niệm đáng nhớ: chẳng hạn tự nhiên rất ngẫu hứng xuất hiện cuộc tranh luận về Cảnh sát giao thông. Tôi không biết là Cảnh sát giao thông ở ta gọi là gì, những hành động vặn vẹo và đôi khi có những hình phạt hành chính không đứng đắn lại trở thành một hiện tượng quốc tế, chứ không phải riêng gì của chúng ta! Về vấn đề này tất cả đều muốn phát biểu, kể cả Bill Clinton khi nhớ lại có lần được chứng kiến cảnh đó khi tiến gần đến biên giới Mexico.
Ngay từ buổi ban đầu quan điểm của tôi tại các cuộc gặp thượng đỉnh là: Nhóm G-8 không thể đưa ra một tuyên bố riêng đặc biệt nào về nước Nga! Nếu như các vị cho rằng ở những “cuộc hội nghị bàn tròn” nào khác mà chúng ta ngồi đó còn quá sớm, thì đó là quyền của các vị. Nhưng tách biệt nước Nga bằng cách đưa ra những quyết định riêng rẽ, thì không được! Đó là quan điểm không công bằng. Chẳng hạn, tình huống đó xuất hiện năm 1999 tại cuộc gặp thượng đỉnh ở Cologne khi quyết định lập trường của Nhóm G-8 về cuộc khủng hoảng tài chính ở nước Nga. Chính nhờ áp lực của tôi, đã phải thông qua một tuyên bố chung về hậu quả của cuộc khủng hoảng toàn cầu, an ninh hệ thống tài chính và trong đó có một số điểm liên quan đến Nga. Có thể có ai đó cho rằng sự kiên quyết của tôi chỉ là thừa, nhưng tôi cho rằng đặt nước Nga vào tình thế của một nước phải trợ giúp, rồi giải quyết thay cho Nga những vấn đề của nước Nga thì không thể được.
Tôi muốn đề cập riêng đến quan điểm của Nhật Bản trong việc nước Nga gia nhập G-8. Năm 1997, khi vấn đề mở rộng NATO được đặt ra và chúng ta phải chấp nhận quyết định thống nhất với các nước phương Tây về vấn đề này (xin nhắc lại những điều kiện đàm phán với NATO đã được nêu trong văn kiện đặc biệt được thông qua ở Paris). Bỗng nhiên Nhật Bản kiên quyết phản đối việc nước Nga gia nhập G-8. Nhật Bản giải thích lập trường của mình do sự khác nhau về tiềm năng kinh tế, hệ thống tài chính, song tôi hiểu rằng áp lực đó xuất phát từ một trong những mảng quan hệ chính trị của chúng ta - vấn đề về những hòn đảo Nam Kuril. Nhật Bản tưởng rằng chúng ta “bán rẻ” lập trường của chúng ta về NATO để đổi lấy việc gia nhập G-8. Nhật Bản muốn khai thác điều này có lợi cho mình. Song việc gia nhập G-8 là một vấn đề, còn những hiệp định chính trị lại là vấn đề khác. Không thể có chuyện mà cả buôn bán ở đây được.
Nói chung khả năng giao tiếp bình thường trong giờ nghỉ giải lao với Clinton, Chirac, Shroeder, Blair, Prodi, Hasimoto, Cretien chẳng có gì căng thẳng và không cần nghi lễ, thảo luận những đề nghị và kế hoạch chung - đó là những công việc chủ yếu trong các cuộc gặp thượng đỉnh. Những lúc đó có thể trao đổi tất cả. Những cuộc gặp ở đây có thể là tay đôi, tay ba, tay tư tức là tất cả những gì mà không thể hình dung có được trong khuôn khổ những chuyến thăm chính thức.
Chúng tôi đi ra vườn cỏ. Mùa hè, ánh nắng mặt trời chiếu sáng. Chirac tiến đến gần tôi, chỉ vài phút trao đổi đã phôi thai những vấn đề thoả thuận có tính toàn cầu trong tương lai. Sau đó những vấn đề đó được các chuyên viên nghiên cứu, rồi ký được những văn kiện quốc tế tối quan trọng. Những văn kiện đó đã được nảy sinh chính tại đây, chỉ trong vòng có vài phút trao đổi. Còn một bức tranh nữa của cuộc gặp thượng đỉnh Denver. Chương trình văn hoá: buổi hoà nhạc của Charles Berry trong gian phòng rộng lớn. Gian phòng chật ních người. Trước khi diễn ra hoà nhạc tất cả các nguyên thủ đều được tặng một bộ quần áo bò. Bill Clinton đi nghe hoà nhạc trong bộ trang phục này: ủng da và mũ chăn bò. Cả phòng hân hoan chào các nguyên thủ quốc gia. Gần bảy mươi ngôi sao nhạc rốc đã tạo nên trong lòng khán giả nghe hoà nhạc một cảm xúc chân thành, ấm áp. Tôi thì quá xa lạ với loại hình văn hoá này. Đã có thời tôi từng hát các bài hát Nga, các bản tình ca của các nhạc sĩ Fradkin, Dunaevski, Pakhmutova. Tôi xin phép tất cả với lý do hiện nay ở Matxcơva đang là nửa đêm, nên tôi phải đi ngủ. Cái buổi tối hôm đó của G-8 chỉ còn là G-7. Nghe nói buổi hoà nhạc hôm đó, một số nhà lãnh đạo cũng đã ngáp dài do nóng chứ không phải do âm nhạc. Nhưng Clinton thì thật hào hứng.
Nói chung không khí tại cuộc gặp thượng đỉnh là hoàn toàn dân chủ. Đây chính là điều giá trị nhất đối với tôi. Tôi cho rằng tương lai chính là do những cuộc gặp như vậy. Gọi nhau bằng anh, tôi, xử sự một cách chân tình - không hình thức, mà thật lòng. Một đặc điểm của tương lai.
Nghỉ ăn trưa. Những câu chuyện vui đùa được tung ra.
Bàn ăn của trợ lý chỉ cách chúng tôi năm đến sáu mét. Kohl tiến lại gần bàn của những trợ lý và đùa kiểu rất Đức và tất cả đều đoán chắc anh ta sẽ nói gì.
- Các anh làm gì ở đây? Đến đây để ăn à? Đây là chỗ chúng tôi ăn, còn các anh phải làm việc, làm việc!” - Kohl giả vờ doạ.
Thế là tất cả lại cười ầm lên làm cho không khí căng thẳng biến mất, nhưng một số trợ lý thì thật sự sợ hãi. Tại cuộc gặp thượng đỉnh G-8 cuối cùng, tôi quan sát và bỗng nhiên hiểu rằng tôi là người già nhất về tuổi tác và kinh nghiệm chính trị!
Tôi nhớ mãi Mitterrand, một con người tốt bụng và tinh tế Chính chúng ta đã tiến hành những cuộc đối thoại đầu tiên giữa Nga với Pháp với ông. Đến bây giờ tôi vẫn chưa quên buổi tiếp đón thật sự long trọng mà ông tổ chức tại Điện Elisée trong chuyến tôi thăm Paris. Đó chính là khôi phục lại một cách có ý thức truyền thống lịch sử bị ngắt quãng tình hữu nghị vĩ đại của hai dân tộc. Tôi thật thương cho ông, bao nhiêu năm trời hiến dâng cả cuộc đời cho nước Pháp, ông không sống cho bản thân mình, những năm cuối đời, ông đã mang trên mình một căn bệnh hiểm nghèo, đau đớn. Sau đó J. Chirac thay ông nắm quyền. Đó là một con người khác hẳn, một nhân cách khác hoàn toàn - cởi mở, tự do và đầy tình cảm.
Trong tôi cũng có nhiều gắn bó với Thủ tướng Anh J. Mayor, một nhà ngoại giao tuyệt vời. J. Mayor có vẻ mang tính cách khô khan rất Anh, nhưng bên trong là một người tình cảm, nhiệt tình...
Sau đó là Blair lên thay, con người thuộc thế hệ những năm 70 - năng nổ, tình cảm, nhưng trực tính.
Hoà nhập với cái nhóm G-8, với một tập thể các nhà chính trị mới này có dễ dàng đối với tôi không? Bởi vì không chỉ đơn giản là họ còn trẻ. Họ nhìn nhận thế giới theo một cách khác. Họ cũng nhìn tôi với một con mắt khác.
Tôi đặc biệt hồi hộp khi anh bạn tôi, Helmut Kohl mà tôi đã từng gặp nhiều lần ra đi khỏi Nhóm G-8. Tôi với Kohl rất dễ hiểu nhau về tâm lý, cùng giống nhau về cách xử sự và giao tiếp.
Chúng tôi cùng nhìn nhận thế giới từ góc độ của những người cùng thế hệ. Ngoài ra, chúng tôi còn muốn nhanh chóng làm tan tảng băng được tích tụ từ sau chiến tranh giữa Liên Xô và Cộng hoà Liên bang Đức. Quan hệ giữa chúng tôi còn được bổ sung bằng sự nồng ấm. Chúng tôi đều cho rằng sau khi bức tường Berlin sụp đổ điều đó là cực kỳ quan trọng. Shroeder, một chính khách của làn sóng tự do mới, mang trong mình tư tưởng dân chủ xã hội sẽ cố gắng để đạt được chuẩn mực mới, khô khan, hợp lý trong quan hệ với nước Nga.
Tôi hiểu điều đó ngay từ đầu.
Song dù sao đối với tôi trong quá trình hiểu biết những nhà lãnh đạo mới của châu Âu không chỉ khó khăn về tâm lý mà còn có cả ý nghĩa tích cực. Tôi sẽ dễ dàng hơn bất cứ ai bảo đảm được tính thừa kế quan hệ đối với Nga.
Nhất là trong G-8, tôi lại là người cao tuổi nhất, kinh nghiệm nhất.
Trong G-8 không có ai là anh cả. Cũng không có ai là em út. Nhưng có người cao tuổi nhất, nhiều kinh nghiệm nhất. Helmut Kohl bao giờ cũng là một người lãnh đạo không chính thức. Nhưng khi ông vắng mặt, thì vai trò thủ lĩnh được chuyển giao cho tôi.
Có lần Kohl nửa đùa nửa thật: “Đừng sợ Boris! Nếu bị thất cử, tôi sẽ bố trí cho anh kiếm việc làm ở Đức. Tôi biết anh tốt nghiệp kỹ sư xây dựng”.
Thời gian đã trôi đi. Tôi và Kohl đã cố gắng xây dựng tất cả những gì có thể trong cuộc đời của mình. Tôi rất muốn công trình xây dựng chung của chúng ta - quan hệ của hai nước chúng ta - không bao giờ bị sụp đổ, mãi mãi đứng vững hàng thế kỷ.
Hy vọng rằng tấm bằng kỹ sư xây dựng của tôi sẽ giúp ích cho việc này.
Mỗi khi bước vào phòng làm việc, chỉ cần vài bước, tôi đã đứng ngay sau bàn làm việc.
Chiếc bàn làm việc này quen thuộc đối với tôi như lòng bàn tay, giống như những vần thơ mà tôi đã thông thuộc lòng ngay từ thuở nhỏ.
Trên bàn làm việc là những chiếc cặp công tác. Đó là những chiếc cặp màu đỏ, trắng, xanh. Những chiếc cặp đó đã được đặt theo quy định có từ lâu rồi. Nếu như thay đổi vị trí của những chiếc cặp đó hay đặt không đúng vị trí là trong tôi diễn ra cái gì đó, mà tôi không thể diễn đạt chính xác được. Hay ít nhất là tôi có một sự lo lắng khó tả.
Những vấn đề quan trọng nhất được đặt trong chiếc cặp đỏ. Đó là những văn bản buộc tôi phải đọc ngay.
Hoặc là ký.
Một xấp văn bản mỏng những quyết định của tôi, buộc phải giải quyết ngay, không trì hoãn.
Chiếc cặp đỏ nằm ở trung tâm ngay trước mặt tôi hơi lệch về bên phải chút ít. Trước hết đó là nhũng sắc lệnh. Những giác thư gửi lên các cơ quan chính thức (chẳng hạn như Hội đồng Liên bang hay là Duma). Sắc lệnh ra khỏi cặp đó tức là bổ nhiệm hay cách chức. Khi sắc lệnh đó chưa ra khỏi cặp tức là quyết định chưa được thông qua. Đôi khi có hẳn một số người trông chờ ở những sắc lệnh này. Dù muốn hay không muốn thì nội dung của những sắc lệnh này trong chiếc cặp đỏ ngay ngày hôm sau sẽ được đưa lên chương trình thời sự. Có thể là chương trình trong nước, mà cũng có thể là chương trmh quốc tế.
Nhưng công việc của tôi đâu chỉ có bổ nhiệm hay cách chức. Cũng không phải chỉ có những phát biểu công khai hay là các chuyến đi Trong chương này tôi muốn đề cập đến khía cạnh thứ hai, rất sôi động, vô hình của công tác này.
Đáng tiếc là tôi chưa trở lại với chiếc cặp đỏ. Nhưng có một điều tôi biết chính xác: những gì nằm trong chiếc cặp đỏ hôm nay, thì ngày mai sẽ trở thành kết quả, là cái mốc, là sự kiện chủ yếu. Nếu như trong chiếc cặp đỏ có một quyết định nào đó khó hiểu, chưa được suy nghĩ kỹ lưỡng, có nghĩa là có điều gì đó trong cơ chế chưa hoàn chỉnh. Cơ chế thông qua quyết định.
Có điều gì đó chưa ổn.
Sau chiếc cặp đỏ là những chiếc cặp trắng.
Trong những chiếc cặp này là đời sống của một quốc gia. Quốc gia chính là cỗ máy với chế độ quản lý, với động cơ và những bộ phận hoạt động của mình.
Cứ theo nội dung có trong những chiếc cặp trắng là có thể hiểu cỗ máy đó hoạt động như thế nào. Động cơ của cỗ máy đó có những tiếng động lạ hay không. Những bánh răng của động cơ có bị trục trặc gì không.
Trong những chiếc cặp đó là những văn bản của các Bộ, Ngành khác nhau xin ý kiến chỉ đạo. Đó không phải là những quyết định, những chỉ thị của tôi, cũng không phải trách nhiệm chính của tôi. Sau mỗi dòng chữ là những mối quan hệ chằng chịt của bộ máy quản lý Nhà nước. Những báo cáo mật hay những đề nghị của Chính phủ, những báo cáo của Bộ Quốc phòng hay Cơ quan an ninh Liên bang, chi tiêu tài chính cho những chương trình của Nhà nước - ở đây có rất nhiều vấn đề liên quan tin tức chính trị. Nhưng chính từ những tài liệu văn bản của những chiếc cặp trắng này mà đôi khi dư luận bỏ qua lại là cuộc sống hiện thực của quốc gia rộng lớn này.
Trong mỗi văn bản đó là quyết định của tôi, là mệnh lệnh của tôi.
Còn lại là những chiếc cặp xanh. Thông thường đó là những luật. Những luật điều chính đời sống của các công dân.
Chữ ký của Tổng thống tức là trở thành chuẩn mực cho tất cả các công dân. Những chuẩn mực đó sẽ được thực hiện cho nhiều năm. Có thể là hàng chục năm. Những chuẩn mực này sẽ áp dụng vào thực tế hay là phủ quyết?
Khi quyết định về những vấn đề trong văn bản của chiếc cặp xanh, tôi phải huy động hết khả năng, kinh nghiệm đường đời của mình. Đôi khi nó còn khó hơn khi đưa ra một quyết định chính trị hay nhân sự nào đó.
Vận mệnh trước chiếc cặp xanh như thế đó.
Ngày 22 tháng 7 năm 1997, tôi ký Lời kêu gọi nhân dân Nga nhân việc Hội đồng Liên bang không thông qua Luật, Liên bang “Về tự do tín ngưỡng và tổ chức tôn giáo”.
Tôi viết trong Lời kêu gọi: “Đây là một quyết định rất khó khăn. Luật này được 370 nghị sĩ của Duma, Nhà thờ Chính thống giáo và hàng chục tổ chức tôn giáo ủng hộ”.
Chuyện về luật này như sau. Sau khi Liên Xô sụp đổ một làn sóng những nhà truyền giáo từ khắp các nước trên thế giới kéo đến nước Nga. Trong số họ có những người thông thái, xứng đáng, nhưng cũng cỏ những kẻ buôn thần bán thánh, cũng có những kẻ chỉ muốn thu phục được tâm hồn của những chàng trai, cô gái trẻ. Các giáo phái tôn giáo chiếm giữ các gian phòng trống rỗng của các cung văn hoá và nhà hát. Những nhà truyền giáo tuyển chọn những người hâm mộ nhiệt tình trong số sinh viên, học sinh, đôi khi các giáo phái cực quyền trở thành nguyên nhân của những bi kịch thảm thiết: dân tình bỏ nhà bỏ cửa, công việc, học hành, trẻ em bỏ cha mẹ đi lang thang, phiêu bạt. Đó là thiệt hại lớn cho sự phát triển tinh thần và tâm lý của họ. Tôi đã được biết chi tiết về những trường hợp như vậy.
Tôi biết là Nhà thờ Chính thống đã khiếu nại lên Chính phủ, dẫn ra những trường hợp bán tội phạm hay hoàn toàn tội phạm và đặt vấn đề về việc hạn chế bằng những quy định của luật pháp về tự do tín ngưỡng.
Luật được Duma thông qua đã có những hạn chế nghiêm ngặt đối với việc xuất hiện những tổ chức tôn giáo mới. Thực tế là những hạn chế đó là cấm những tà giáo mới nảy sinh ở Nga. Sau khi Luật được thông qua, xã hội bùng lên một cuộc tranh luận gay gắt. Tầng lớp trí thức, những đảng phái cánh hữu, tự do đòi Tổng thống huỷ bỏ Luật này vì mâu thuẫn với chuẩn mực cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng. Giáo hoàng Vatican, Tổng thống Clinton, những nhà lãnh đạo của các tôn giáo trên thế giới, Quốc hội hầu hết các nước và cuối cùng là những trợ lý của tôi đề nghị phủ quyết Luật do Duma thông qua.
Mặt khác, Giáo chủ Alexi Đệ Nhị lại viết cho tôi: “Luật phân biệt hoàn toàn công bằng những tổ chức tôn giáo về số lượng tín đồ và thời gian họ đã tồn tại. Nó tạo ra những tiền đề cần thiết để ngăn chặn cá nhân và xã hội tránh hoạt động tà giáo và đội lốt truyền giáo gây thiệt hại về tinh thần và sức khoẻ của con người, cho bản sắc dân tộc của chúng ta, sự ổn định và xã hội công dân ở Nga”.
Đó là quan điểm của nhà thờ chúng ta.
Đó là một vấn hết hết sức tế nhị và phức tạp về tự do của con người. Đúng, lợi dụng tự do vào việc xấu xa thì thật dễ dàng. Nhiều thập niên dân chúng bị cưỡng ép không có tự do tín ngưỡng, còn bây giờ hàng ngàn, hàng chục ngàn những đứa trẻ mới sinh không hiểu được truyền thống của đất nước mình, không phân biệt được các tôn giáo, lao vào một khoảng không hư vô để cứu mình.
Nhà thờ Chính thống lên tiếng: lợi dụng sự ngây thơ, dốt nát của họ trong các vấn đề tôn giáo nhưng những nhà truyền giáo nơi khác đến đây là không thể chấp nhận được. Cần phải ngăn chặn kiểu khai thác vô tội vạ sự cả tin của người Nga. Nhà thờ có đúng không? Đúng, hoàn toàn đúng. Nhưng Hiến pháp Nga, đó không phải là văn bản chỉ mang tính hình thức. Nội dung của Hiến pháp phản ánh một cách sâu sắc mối quan hệ giữa con người và xã hội. Nhà nước có quyền can thiệp và áp đặt họ phải tin vào cái gì, đi theo tín ngưỡng nào không? Không, không thể được. Nhưng như vậy chúng ta định biến công dân của chúng ta thành cái gì đây? Biến những công dân của chúng ta thành những chú lừa dễ sai khiến được chăng?
Quyền của thiểu số cũng được nêu rõ ràng trong Hiến pháp. Có quyền không nhất trí, có quyền được đối lập, quyền được bày tỏ ý kiến cá nhân. Và trong đó có cả quyền được không giống ai. Dù cho trong cả nước chỉ có vài ngàn người theo đạo Cơ đốc. Nhưng nếu có một luật mới gây cản trở hoạt động tín ngưỡng của họ, thì tôi không bao giờ ký ban hành luật đó. Tôi nhớ quá rõ dưới thời Xô-viết các giáo phái bị theo dõi chặt chẽ như thế nào, người đi hành lễ vào nhà thờ khó khăn như thế nào, còn nhà cầu nguyện đã trở thành mục tiêu theo dõi của KGB. Phải chăng chúng ta lại tiếp tục làm như vậy sao? Không. không bao giờ!
Tôi phải hành động ra sao? Nếu tôi ký luật này, cả thế giới văn minh sẽ quay lưng lại với chúng ta và chúng ta lại rơi vào tình trạng bị cô lập chính trị. Nếu không ký, thì điều đó như một đòn giáng mạnh vào Nhà thờ Chính thống Nga. vào những tổ chức tôn giáo truyền thống Nga còn nghèo nàn. Các tổ chức tôn giáo phương Tây có hàng tỷ đô la ngay lập tức sẽ nhảy vào nước ta trên cơ sở hợp pháp và bóp chết họ.
Tôi đã tìm ra giải pháp, nó cân bằng cả hai. Đúng, tôi không ký luật này. Nhưng đồng thời với việc không ký, tôi sửa đổi nội dung của luật đó. Sửa đổi của tôi phản ánh nội dung của Nhà thờ Nga và các tổ chức tôn giáo truyền thống - những tổ chức đội lốt tôn giáo và đội lốt truyền giáo không được đầu độc tinh thần của con người.
Tôi không ký luật như ý kiến của Hội đồng Liên bang đã quyết định. Tôi trình lên Hội đồng Liên bang và Duma Quốc gia những đề nghị của tôi tiếp tục hoàn chỉnh luật này. Dù là Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái giáo và những tổ chức tôn giáo truyền thống khác và những đại diện của những nhà thờ thế giới khác nhau nhất cần có chỗ dựa vững chắc trong luật, một sự đảm bảo chắc chắn của Nhà nước.
Sau đó luật này được thông qua có sự sửa đổi của Tổng thống.
Giai thoại lịch sử đó được kết thúc vào mùa hè năm 1997. Chiếc cặp xanh với những văn bản đề nghị ân xá - đó là một công việc rất khó khăn đối với tôi. Quyết định vấn đề về cái sống và cái chết thế nào đây? Làm sao để chỉ cần một nét chữ là quyết định số phận của con người mà nói đứng ra chỉ có Thượng đế mới biết? Uỷ ban ân xá trực thuộc Tổng thống Nga dưới sự lãnh đạo của nhà văn nổi tiếng Anatoli Pristavkin mỗi tuần họp một lần. Về từng trường hợp, các chuyên gia, tư pháp, tâm lý đều đưa ra lập luận của mình. Sau đó kết luận của Uỷ ban sẽ được trình lên trên bàn làm việc của tôi.
Đó là những văn bản ghê sợ, làm cho tâm hồn tê dại. Đôi khì do tính chất khô khan, nhạt nhẽo, nếu chỉ lạnh lùng liệt kê thì lại càng khủng khiếp hơn.
Công dân B., sinh năm 1971, có mẹ, trước đây đã có tiền án... Mức án tử hình do sử dụng súng liên thanh bắn chết trung uý P., tổ trưởng tổ tuần tra và làm bị thương nặng tuần tra viên D.
Tôi rất nhớ trường hợp này. Một người lính bắn chết thủ trưởng của mình. Một thanh niên còn trẻ. Đúng, mắc tội đã làm mất mạng sống của một sĩ quan, có thể còn là cha, là trụ cột của một gia đình. Nhưng có ai biết chuyện đó xảy ra trong hoàn cảnh nào, tâm lý của anh ta ra sao? Không vượt qua được thử thách? Hay điên khùng? Hay là tâm thần bất ổn? Tôi đồng ý với những lập luận của Uỷ ban - giảm nhẹ hình phạt. Hơn nữa, ta lại không có những điều khoản cho việc ân xá đó, nhưng anh ta vẫn phải chịu mức hình phạt là mười lăm năm tù giam.
Công dân M., sinh năm 1973, độc thân, trước đây đã có tiền án, mức án tử hình do cưỡng dâm và giết hại một cô gái và tội cưỡng dâm ba cô gái trẻ vị thành niên.
Tôi suy nghĩ rất nhiều. Dường như không thể để cho tên súc sinh này tồn tại trên đời nữa. Nhưng Uỷ ban cũng đưa ra những lý lẽ. Tội tử hình được giảm xuống còn hai mươi lăm năm tù giam. Sau này xác minh lại thì anh ta không phải là người gây ra tội cưỡng dâm và giết người đó. Hành vi cưỡng dâm và giết người lại phát hiện ra qua một vụ tội phạm khác khi công dân K. nhận tội. Còn công dân M. chịu hình phạt mười lăm năm tù do mắc tội khác.
Hoạt động tư pháp không thể bị hạn chế. Đúng, tôi cho rằng cưỡng dâm trẻ em thì phải chịu hình phạt nặng, Tuy vậy, mấy năm trước do áp lực của Hội đồng châu Âu, chúng ta đã không thi hành hình phạt tử hình. Rất nhiều người đã phản đối biện pháp này. Bởi vì những tội ác tày trời, ghê tởm như vậy không thể không bị trừng trị. Vì những lý do dễ hiểu những nhà điều tra và tư pháp, những kiểm sát viên và dư luận xã hội kiên quyết không thương xót đối với những kẻ cuồng tín, những tên tội phạm có hành động như vậy, bởi vì hành động của họ đã gây bao cảnh thương xót, tàn nhẫn.
Nếu chỉ dựa vào ý kiến của các chuyên gia, vào kết luận của các chuyên viên cũng không được. Còn phải dựa vào lương tâm, lý trí của chính mình. Có thể những đêm mất ngủ, những đêm lo âu, buồn bã mà tôi phải trải qua cũng có lý do từ chiếc cặp xanh này chăng?
Thật khó khăn, nặng nề. Tôi tự nhủ mình có khi sự sám hối cũng có thể giúp cho họ. Nhưng đôi lúc dường như tay tôi cứ muốn với lấy bút: không thể ân xá.
Mỗi người đều phải chịu trách nhiệm trước hành vi của mình. Mỗi người đều như thế.
Nhưng cũng có thể một người bị đứng trước lưỡi hái của tử thần nhưng không phải do hành vi của họ gây ra. Đúng, có thể là một người ghê gớm, kinh khủng. Nhưng lại không gây ra hành vi giết người! Đối với tôi, đấy còn là một sự minh chứng cho việc hệ thống tư pháp cần phải hoàn thiện như thế nào. Hình phạt tử hình thật nặng nề, khó khăn như thế nào! Nếu như mắc sai lầm, thì lương tâm của chúng ta không thể sửa chữa được, bởi đó là cuộc sống.
Còn một loại cặp nữa - trong đó là những tài liệu hoàn toàn khác, một mảng công việc khác hẳn. Những đề xuất khen thưởng của năm 1997.
Đây là những tài liệu mà tôi thích nhất... Tưởng chừng trong công việc chẳng cần phải suy nghĩ. Tại sao lại yêu thích nhất? Điều đó rất quan trọng, bởi vì qua đó có thể biết được ở nước ta có những người sống như thế nào.
Tôi tình cờ giở vài trang tài liệu. Nhà văn Victor Astafev - Huân chương “Vì công lao phục vụ Tổ quốc hạng hai”. (Huân chương vì công lao phục vụ Tổ quốc hạng nhất - thành tích quốc gia tách ra thành một bản riêng). Nhà văn sống ở làng Ovsianca - Krasnoiarsk, xây dựng được một thư viện lớn. Đúng là một Lev Tolstoi hiện đại. Sự so sánh đó thấy thoả mãn làm sao.
Viện sĩ Basov. Một trong những người sáng tạo ra tia laze. Giải thưởng Nobel. Chuyện thần thoại trong khoa học của chúng ta! Huân chương “Vì công lao phục vụ Tổ quốc” hạng hai.
Nhà thiết kế Kalashnikov. Mikhail Timofeevich, người chế tạo ra súng trường tự động độc nhất vô nhị của Nga đã được tặng thưởng Huân chương Andrei Pervozvanyi.
Tưởng chừng mọi việc thật giản đơn - tặng thưởng. Có cải gì phức tạp đâu - chỉ cần lấy bút ra ký là xong. Nhưng...
Tôi cho rằng trong bất cứ một công việc nào, thậm chí nhẹ nhàng nhất cũng đều có lý do để đưa đến một quyết định bất ngờ. Chẳng hạn như giai thoại với phim “Mặt trời trắng trên sa mạc” được giải thưởng quốc gia. Gần đến ngày kỷ niệm hai mươi lăm năm phim này được dàn dựng. Nhưng những người làm phim cho rằng nếu như đất nước và ban lãnh đạo Nhà nước không đảnh giá đúng giá trị của phim này kịp thời, thì đã muộn rồi. Tặng giải thưởng cho phim này chẳng còn có ý nghĩa gì nữa.
Nhưng tôi kiên quyết làm ngược lại. Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự đúng đắn của mình. Nếu như một bộ phim được nhân dân yêu thích như vậy mà không nhận được giải thưởng quốc gia, thì sinh ra giải thưởng quốc gia để làm gì? Đã có lúc phim này không nhận được giải thưởng chỉ vì thể hiện thái độ “nhẹ dạ” đối với một đề tài cách mạng. Còn bây giở thì sao? Có lẽ đây là một trường hợp hiếm có, khi tôi tự nhủ: thật may là tôi làm Tổng thống.
Tôi đã ký sắc lệnh bổ sung. Trao giải thưởng cho bộ phim “Mặt trời trắng trên sa mạc”. Những người được giải thưởng quốc gia năm 1997, bao gồm đạo diễn Vladimir Motyl, các diên viên Anatoli Kuznetsov, Spartac Mishulin và những người làm phim khác đã xây dựng lên bộ phim tuyệt vời này.
Tôi hài lòng biết bao khi bắt tay Vladimir Yakovlevich Motyl tại Đại sảnh Georgi của Kremli. Tôi không thấy hổ thẹn vì đất nước. Ngược lại, tôi thấy tự hào biết bao.
Quả thật, cũng có những phần thưởng khác thường.
Alexandr Isaevich Solzenitsyn, một nhà văn vĩ đại Nga đã từng bị trục xuất khỏi đất nước trong những năm 70 và trở về Tổ quốc mới đây, nay đã gần tám mươi tuổi. Ngày sinh của nhà văn được xã hội Nga tổ chức rầm rộ. Tôi quá hiểu là cuộc sống của Solzenitsyn từng trải là một chiến tích thực thụ và nước Nga cần phải tặng cho nhà văn này phần thưởng cao quý nhất - giải thưởng Andrei Pervozvanyi. Trong khi đó linh cảm mách bảo tôi rằng với Alexandr Isaevich mọi việc không hề đơn giản như vậy. Ông ta đã quen đứng ở phía đối lập. Mặc dù ông đã trở về Tổ quốc, nhưng ông vẫn thận trọng và rất hay chỉ trích tất cả những gì diễn ra trên đất nước.
Trên bàn làm việc của tôi còn có báo cáo của các cố vấn phụ trách vấn đề văn hoá. Trong báo cáo họ cho biết nếu được trao phần thưởng thì Alexandr Solzenitsyn có lẽ sẽ từ chối.
Tôi nhớ, lúc đó tôi rất thất vọng.
Không biết làm gì đây?
Dường như cần phải thưởng cho nhà văn là điều chẳng có gì phải nghi ngờ. Nhưng nếu như ông ta từ chối thì tình huống diễn ra sẽ rất không hay. Những người được nhận huân chương hay sẽ được nhận huân chương sẽ cảm thấy thế nào đây? Nếu như biết chính xác là ông sẽ từ chối, thì cần phải tạo ra chuyện om xòm, ầm ĩ như một sự kiện xã hội chăng? Một khi nếu Alexandr Isaevich hoàn toàn không muốn nhận huân chương thì có thể không thưởng cho ông ta nữa chàng?
Nhưng trong tôi dường như có ai đó mách bảo: Không, như thế là không đúng, không công bằng. Đúng, hiện giờ nhà văn rất cứng nhắc, nhiều sự kiện thực tiễn xung quanh được ông ghi nhận bằng cảm tình, bằng nỗi bực dọc. Đó là cá tính của ông ta. Nhưng chính cái cá tính đó đã giúp ông trải qua được mọi sự bất công, mọi nỗi vất vả của cuộc sống! Có thể năm tháng sẽ qua đi và ông sẽ có cách nhìn nhận khác và đánh giá tấm huân chương khác đi chăng?
Tôi quyết định ký sắc lệnh tặng Alexandr Isaevich Huân chương Andrei Pervozvanyi. Cùng với sắc lệnh, tôi viết một bức thư tay gửi cho ông, trong đó nói rằng phần thưởng này không phải cá nhân tôi tặng cho ông, mà là của nhân dân, của tất cả các công dân Nga biết ơn ông.
Tôi rất tin là thời gian qua đi và Alexandr Isaevich sẽ thay đổi thái độ của mình. Nhưng thậm chí điều đó không diễn ra đi nữa, thì tôi vẫn tin rằng mình hành động hoàn toàn đúng đắn.
Trở lại với chiếc cặp đỏ.
Có phải tất cả những tài liệu quan trọng nhất đều nằm trong chiếc cặp này không? Chuyện gì sẽ xảy ra sau khi những tài liệu trong chiếc cặp này được ký?
Valeri Semenchenko, Trưởng phòng văn thư của Tổng thống thông thường đều kè kè trên tay những tài liệu có dấu “Đặc biệt quan trọng”, “Tối mật” hoặc “Mật”. Những ký hiệu như vậy đối với anh ta có nghĩa là tay trao tay. Semenchenko bước vào, trên tay cầm chiếc cặp. báo cáo nội dung và tôi chăm chú dọc. Nếu cần tôi sẽ ký. (Vấn đề ở chỗ là những tài liệu này không thể để công khai trên bàn, kể cả trên bàn làm việc của tôi, của Tổng thống). Sau đó Semenchenko sang phòng văn thư và giao cho giao liên chuyển cho các địa chỉ, trước đó anh đã thông báo sơ bộ qua đường liên lạc nội bộ. Thông thường đó là những báo cáo của tình báo, báo cáo về các loại vũ khí mới, tình hình căng thẳng xuất hiện liên quan hoạt động đối ngoại của Nhà nước.
Valeri Semenchenko cùng làm việc với tôi khi còn ở Thành uỷ Matxcơva. Cũng tại đây anh ta bị sa thải vì thân quen với Bí thư Thành uỷ bị thất sủng. Như vậy là anh ta gặp tai hoạ cũng do tôi. Năm 1990, tôi gọi Valeri Pavlovich dọn hết đống tài liệu và thư từ của Xô-viết tối cao cộng sản Nga để lại.
Chính anh là người cuối buổi làm việc đặt vào chiếc cặp của tôi, của Tổng thống những tài liệu, cho vào két sắt và đóng dấu mật của mình. Chính anh là người cảnh giác theo dõi tất cả những tài liệu nằm trên bàn của tôi. Bất cứ một bút phê nào của tôi hay nghị quyết đều được nhanh chóng chuyển để địa chỉ cần đến. Công việc đó đã diễn ra đến chục năm rồi. Semenchenko - một con người cẩn thận, ngăn nắp và tin cậy. Anh cũng là một người rất tận tâm.
Sau khi những tài liệu trong chiếc cặp đỏ đã được xử lý, tôi chuyển sang nghiên cứu những tài liệu trong những chiếc cặp trắng và xanh, thì Semenchenko rút lui.
Tôi cho gọi Trưởng phòng lễ tân của Kremli Vladimir Nicolaevich Shevchenko.
Chúng tôi thảo luận lịch làm việc trong ngày của tôi.
Thứ tư, ngày 3 tháng 9.
Mười giờ. Ghi âm phát biểu trên Đài truyền thanh.
Mười giờ bốn mươi lăm phút. Lễ tiễn Tổng thống Cộng hoà Liên bang Đức R. Hertsog.
Mười một giờ ba mươi lăm phút. Điện đàm với Tổng thống Leonid Kuchma.
Mười một giờ bốn mươi lăm phút. Trợ lý về các vấn đề pháp lý Krasnov.
Mười hai giờ. Bộ trưởng Nội vụ Stepasin.
Mười ba giờ. Thư ký Hội đồng an ninh Kokoshin.
Mười lăm giờ. Lễ khánh thành Quảng trường trước Nhà thờ Đấng cứu thế Jesus.
Mười chín giờ. Lễ khánh thành Nhà hát Opera mới mang tên Boris Pokrovski.
Lịch làm việc bao giờ cũng được chuẩn bị trước một tháng, một tháng rưỡi. Bất cứ một sự xê dịch dù chỉ là năm phút, tôi đều không chấp nhận. Cũng không phải do tôi không chịu được sự chậm trễ, mà tôi còn không chịu được khi người ta đợi tôi.
Thói quen đó đã ăn sâu trong tôi suốt cuộc đời rồi. Ngoài ra, tôi còn hình dung ra người ta sẽ hồi hộp như thế nào khi chuẩn bị cho cuộc gặp.
Tôi nhớ không ít lần các con gái tôi đã cố kiểm tra cảm giác thời gian của tôi. “Ba ơi, mấy giờ rồi?” - Chúng đột ngột hỏi tôi Và bao giờ tôi cũng trả lời chính xác đến từng phút, không cần phải nhìn đồng hồ. “Làm sao mà ba biết được?” - Chúng ngạc nhiên. Bản thân tôi cũng không biết tại sao... Đơn giản là tôi cảm thấy như thế.
Còn ở đây, ở Kremli cảm giác thời gian tất nhiên cũng giúp ích cho tôi rất nhiều. Nhưng Vladimir Nicolaevich Shevchenko bao giờ cũng nhắc nhở nếu tôi để quá thời gian, đánh tín hiệu là tôi đã kéo dài quá thời gian quy định. Đúng là một cái đồng hồ sống.
Tất nhiên phạm vi chức năng của Vladimir Nicolaevich còn nhiều nữa. Ngay từ năm 1991, anh ta là người chuyên giúp tôi gỡ những mối rối rắm của cái thủ tục lễ tân, một trợ lý trung thành trong tất cả các cuộc gặp chính thức. Anh ta luôn đi cạnh tôi, trong đầu lưu giữ hàng trăm, hàng ngàn chi tiết tưởng chừng rất nhỏ nhặt như các nhà ngoại giao chuyên nghiệp vẫn thường nói.
Trong “bộ sưu tập” của anh ta có đến chín mươi tám chuyến thăm chính thức và không chính thức, làm việc của Tổng thống.
Không phải một lầu, hai lần anh ta đã không ngần ngại can thiệp vào cuộc nói chuyện của tôi với Clinton, Chirac và với những người đứng đầu các quốc gia khác và nhắc tôi rằng hoạt động tiếp theo chỉ còn vài phút! Chúng tôi thật kính nể sự kiên nhẫn của anh ta. Tất cả những năm tháng anh ta cùng đi với tôi chưa bao giờ anh ta làm tôi phật ý. Đúng là một con người có một không hai, nhạy cảm, có lòng vị tha và cực kỳ cẩn thận đến huyền thoại.
Những tài liệu đã được ký.
Lịch trình làm việc đã được thống nhất.
Trước những cuộc gặp gỡ và điện đàm bao giờ tôi cũng đọc báo, tạp chí, phụ trương của báo chí và kết quả những cuộc trưng cầu dân ý. Nếu như không có công việc này, thì tôi không thể bắt tay vào việc được.
Ngày 26 tháng 9 năm 1997.
Quỹ chính trị đã gửi cho tôi tổng hợp báo chí Nga, cả báo chí Matxcơva, trong đó có cả báo diện tử, lẫn báo chí địa phương.
Chỉ gồm mấy trang giấy.
“Tổng thống thừa nhận rằng một nền kinh tế mạnh - đó là thị trường cộng với một Nhà nước mạnh” (“Báo Độc lập”). “Nhà nước không thể chịu đựng được áp lực của giới kinh doanh” (“Điện tín Nga”). “Yeltsin nói về bình minh của thị trường tự do” (“Kinh doanh”).
Tôi lướt qua những tiêu đề để biết những xu hướng chính trong tuần. Còn những người dân bình thường thì suy nghĩ gì? Những người rất bình thường?
Ngày 11 và 12 tháng 10 năm 1997.
Quỹ “Dư luận xã hội” tiến hành những cuộc thăm dò thưởng xuyên.
“Xin ông (bà) cho biết cá nhân ông (bà) định đưa nhà chính trị nào ra ứng cử chức Tổng thống?”
Bắt đầu từ tháng 8 uy tín của Ziuganov tăng lên được hai điểm, từ mười lăm điểm lên mười bảy điểm. Còn uy tín của Lebed hạ mất hai điểm: Bây giờ chỉ còn có chín điểm.
Có khá nhiều câu hỏi thú vị. Chẳng hạn:
“Nếu Duma thông qua quyết định bất tín nhiệm Chính phủ Chemomyrdin, ông (bà) có thái độ như thế nào về vấn đề này?”
Ba mươi lăm phần trăm ủng hộ, mười sáu phần trăm trung gian, hai mươi lăm phần trăm phản đối. Còn khó trả lời là hai mươi ta phần trăm. Có rất nhiều người do dự, không quyết định. Như vậy là còn một lực lượng dự trữ trong cuộc đấu tranh giành sự tín nhiệm.
Còn dưới đây là một cuộc thăm dò dư luận không mang tính chính trị, nhưng rất thú vị. Chẳng hạn:
“Ông (bà) thường làm gì sau khi làm việc?”.
Sáu mươi lăm phần trăm xem vô tuyến truyền hình. Làm công việc gia đình - năm mươi bảy phần trăm. Đọc báo và tạp chí - ba mươi phần trăm. Chơi thể thao - năm phần trăm.
Cả nước ta với những thói quen và ưa thích chỉ cần thông qua trưng cầu dân ý đơn giản là có thể biết được. Đúng là có những điều để mà suy nghĩ.
Tôi đánh dấu bên lề để mình tự suy nghĩ, ghi nhớ trong đầu. Nhưng đã đến lúc cần phải đi ghi âm bài phát biểu trên Đài truyền thanh. Ngay từ năm 1996, tuần nào tôi cũng làm việc này. Đã từng có những việc đáng lo ngại - chẳng hạn: Thay đổi Chính phủ. Cũng có những sự kiện bình thường và vui vẻ - chẳng hạn như ngày mồng 8 tháng 3.
Thí dụ như nói về tầng lớp trung lưu. Đây là chủ đề thực sự nhạy cảm. Tầng lớp trung lưu - có hay không trong xã hội chúng ta? Ai hình thành tầng lớp đó, bao gồm những tầng lớp nào của xã hội? Tầng lớp này có trải qua được cuộc khủng hoảng kinh tế hay không? Liệu tầng lớp này có thật sự trở thành chỗ dựa xã hội cho Tổng thống hay không và những nhà xã hội học nói gì về tầng lớp này? Tôi đã từng nhận xét về tầng lớp này như sau: “Hiện nay những công dân của chúng ta tự quyết định - sống theo kiểu cũ với đồng lương khiêm tốn hay là mạnh dạn - mở ra một công việc nhỏ của chính mình, một xưởng sửa chữa ô tô, một cửa hiệu chụp ảnh, một công ty sửa chữa nhà ở. một nhà trẻ tư nhân. Tất nhiên sẽ khó khăn. Cần phải đăng ký xí nghiệp của mình, tìm kiếm những nguồn nguyên liệu và đơn đặt hàng. Cạnh tranh giành khách hàng và cọ xát với những đối thủ cạnh tranh. Nhưng rất nhiều người đi từ con số không đã đạt được những kết quả đáng mừng. Họ đã tìm được chỗ đứng trong cái cuộc sống phức tạp, nhưng rất thú vị này. Họ đáng được kính trọng”.
Đúng, một đề tài nghiêm túc. Nhưng kiểm lại tất cả những bài phát biểu đó khi đã qua một thời gian thì tôi thấy có khá nhiều điều tôi không nói đúng như vậy. Tôi đã tích cực ủng hộ những nhà doanh nghiệp tư nhân. Tôi đã nghiêm khắc yêu cầu các quan chức không được gây phiền nhiễu họ, để cho họ tự do hành động, tự do thở. Và cũng đừng có bực tức cho đó là “chuyện nhỏ”. Lẽ dĩ nhiên đó là một công việc có tầm quy mô toàn quốc.
Shevchenko lại đến gặp tôi. “Thưa Boris Nicolaevich - Hội đồng an ninh” - Anh ta nhắc tôi. Điều đó có nghĩa là tất cả các thành viên của Hội đồng an ninh đã tề tựu đầy đủ trong phòng họp. Tôi phải có mặt và khai mạc. Chủ đề hôm nay là học thuyết phòng thủ của nước Nga.
Tôi mang theo chiếc cặp “Hội nghị”.
Tôi cỏ năm phút để đi dọc cái hành lang dài hun hút của Điện Kremli. Năm phút để suy nghĩ. Để nhớ lại toàn bộ những vấn đề, những thông tin mà tôi đã nghiên cứu trước. Chúng ta cần một quân đội thế nào? Một quân đội sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh thế giới mới với những tên lửa chiến lược, vũ khí trả đũa, những đầu đạn hạt nhân hay không? Hay là những nguồn dự trữ và phương tiện cần phải tập trung vào lực lượng phản ứng nhanh mà chúng ta có quá ít và không được huấn luyện tốt? Những bài học cay đắng ở Chesnia đã buộc chúng ta phải suy nghĩ. Nhưng học thuyết quân sự được thông qua quá lâu, đã không còn hợp với thực tiễn hiện nay. Tôi đứng dậy. Đây, đây là điểm liên lạc với các loại cặp trên chiếc bàn làm việc của Tổng thống, một chiếc bàn nặng nề và lặng lẽ.
Còn tôi là cỗ máy thông qua những quyết định. Thế đấy, có lần đã có ai đó gọi tôi như vậy. Rất chính xác nữa là khác. Nhưng cỗ máy này phải biết suy nghĩ và cảm giác, phải biết nhìn nhận thế giới từ mọi góc độ trong mối quan hệ đan xen. Đó phải là một cỗ máy sống. Nếu không thì cô máy đó chẳng đáng một đồng xu.
Tôi vẫn sải bước trong cái hành lang dài hun hút đó. Bên cạnh tôi là Shevchenko. Còn viên sĩ quan tuỳ tùng thì lặng lẽ bước theo sau. Trước mắt tôi hiện lên những ô chữ. Số liệu.
Những đề xuất. Tôi nhận thức và hình dung hiện giờ có rất nhiều điều phụ thuộc vào những số liệu đó.
Có ai đó đã tiếng nói đùa về đề tài “Tổng thống xử lý các văn bản”. Đó là câu nói đùa. Chỉ nói đùa thôi.
Trong chương này tôi cố gắng kể lại đôi chút thực chất công việc diễn ra như thế nào.
Nước Nga chuyển sang nền kinh tế chuyển đổi thật khó khăn. Nhưng có lẽ những ai ở lại các nước SNG mà thiếu nước Nga còn khó khăn hơn nhiều.
Những ảo tưởng về việc các nước Cộng hoà của Liên Xô cũ cùng thống nhất thì sẽ dễ dàng hội nhập vào thị trường thế giới, sẽ dễ sống hơn đã bị sụp đổ. Rồi những ảo tưởng khác cũng bị tan vỡ: rằng nếu như nước Nga không vác gánh nặng trách nhiệm kinh tế với “những nước anh em nhỏ hơn” thì nước Nga đã đạt được nhường bước nhảy vọt kinh tế. Do ảnh. hưởng của thực tiễn mới ở các nước SNG cuộc sống đối với dân chúng trở nên ngày càng khó khăn hơn và nghèo đi.
Tôi luôn luôn hiểu điều đó. Trong tôi luôn có cảm giác nặng nề, mặc dù tôi nhận thức rằng đây không phải lỗi của tôi. Có lỗi chính là lịch sử của thế kỷ 20 này đã từng phá vỡ một cách tàn Dạo và liên tục hết thể chế đế quốc này đến thể chế khác.
Có thể nêu ra một thí dụ tương tự đơn giản. Khi gia đình ly hôn nhau, thì điều rất quan trọng là người vợ và người chồng phải giữ được quan hệ bình thường, quan hệ tốt. Đó là điều quan trọng trước tiên đối với con cái. Là điều quan trọng đối với cuộc sống tiếp theo sau này.
Còn trong trường hợp của chúng ta điều đó còn quan trọng hơn, bởi các nước SNG chia nhau không phải là những chiếc xoong nồi, mà là vũ khí. Cần phải làm cho quả trình chia tay nhau một cách êm thấm, hoà bình và giữ nguyên được tiềm năng hạt nhân không bị đụng chạm để sau đó chuyển hết về Nga theo thoả thuận.
Trong lịch sử thế giới sẽ rất khó có thể tìm được một thí dụ khác như sự hình thành quốc gia kiểu các nước SNG hiện nay.
Mới đây chưa lâu nhân dân các nước chúng ta còn sống chung theo một quy định, cùng làm việc trong một nền kinh tế, cùng có lối sinh hoạt giống nhau, một hệ thống giáo dục, cuối cùng là có cùng một Nhà nước. Chúng ta rất dễ hiểu nhau, chỉ cần nửa câu nói là đã hiểu nhau. Bởi vì chúng ta đã cùng đi một loại xe ô tô và tàu điện kiểu Xô-viết, đóng đoàn phí vào công đoàn như nhau, xem cùng một loại phim ảnh, kể cho nhau nghe những câu chuyện tiếu lâm. Nói ngắn gọn là chúng ta là những người cùng trong một không gian lịch sử.
Dù là như vậy, nhưng trong cái không gian chính trị thống nhất của Liên Xô cũ vẫn có các nước cộng hoà có đặc thù riêng, bản sắc riêng, không giống nhau - cả về khí hậu, cả về địa lý và tâm tính dân tộc.
Điều đó hoàn toàn là một sự kết hợp ngược đời sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các mặt đối lập, mà ngày nay được gọi tắt là SNG.
Hiện nay ở nước Nga và các nước Cộng hoà SNG đang diễn ra cuộc tranh cãi rồi điều gì sẽ đến với SNG. SNG chỉ là cái tấm bình phong cản trở việc liên kết thật sự. Quan hệ của các nước chỉ nên được xây dựng là quan hệ song phương. Lúc đó mọi vấn đề phức tạp sẽ được giải quyết nhanh chóng, lúc đó ở các nước Cộng hoà Liên Xô (cũ) sẽ không xuất hiện cơ chế để họ có những quyết định không có lợi cho nước Nga.
Tôi hoàn toàn không tán thành quan điểm đó.
SNG là một thực tiễn khách quan. Trước hết, đó là một thị trường lao động thống nhất. Tôi không thể hình dung được là mọi người sẽ nuôi sống gia đình mình theo cách khác. Đó là một thị trường hàng hoá và dịch vụ chung, nếu thiếu nó thì thật khó hình dung ngân sách của bất cứ một nước nào trong SNG sẽ ra sao. Thật khó có thể nói được rằng thị trường này sẽ tồn tại như thế nào nếu thiếu những đường biên giới mở của chúng ta, thiếu một Liên minh thuế quan của chúng ta.
Đó cũng là thị trường nhiên liệu chung, dầu lửa, hơi dốt, điện năng, tức là kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế. Nếu nước Nga độc quyền một cách tự nhiên ở đây thì không có nghĩa là Nga áp đặt sự độc tài trong lĩnh vực này (chưa bao giờ xảy ra như vậy). Sự độc quyền tự nhiên đó ngẫu nhiên dẫn đến liên kết kinh tế hoàn toàn với các nước SNG khác.:
Ngoài ra, dù nó không giống trước đây, nhưng đang tồn tại và phát triển một không gian văn hoá và thông tin thống nhất. Cuối cùng, đây còn là hệ thống an ninh tập thể. Dù là cuộc xung đột Carabắc, Apkhadia hay Chesnia và những cuộc va chạm với các phần tử Hồi giáo cực đoan ở Trung Á - đó đều là nỗi đau chung của chúng ta. Những bài học của những bi thảm này đã làm cho chúng ta hiểu được rằng nếu thiếu nhau, chúng ta sẽ không thể nào hàn gắn được những vết thương địa chính trị đang rỉ máu.
Hơn nữa, tôi còn tin tưởng sâu sắc rằng đến một lúc nào đó nhất định sẽ xuất hiện ở chúng ta một hệ thống tài chính duy nhất, một ban lãnh đạo chung tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và những ưu tiên quốc tế chung. Rất có thể cả một Quốc hội chung. Có thể có ai đó còn cảm thấy điều đó là nghịch nhĩ. Sự liên kết của chúng ta đơn giản là nhất định sẽ diễn ra, do vậy đe doạ những nước láng giềng, phá vỡ những mối quan hệ được hình thành, chúng ta không có quyền làm như vậy. vấn đề sẽ hoàn toàn khác là duy trì hoặc thiết lập những mối quan hệ đó để làm gì.
Năm 1997 là năm đặc biệt khó khăn đối với SNG. Chúng ta đã trải qua một số thử thách, và thử thách đầu tiên lại là Hiệp ước Nga - Belorusia.
Những người Belorusia chẳng chỉ đơn thuần là láng giềng phía Tây của chúng ta, chẳng chi đơn thuần là những người anh em Slavơ đó sao. Lịch sử Belorusia đan xen chằng chịt với lịch sử nước Nga, quan hệ giữa hai dân tộc gắn bó mật thiết, gia đình, thân tộc đến mức mà trong lịch sử bao giờ chúng ta cũng cảm thấy đó là những người anh em cùng dòng máu.
Chính vì vậy ngay trong khuôn khổ SNG, quan hệ của chúng ta với Belorusia cũng hết sức đặc biệt. Cả chúng ta lẫn Belorusia đều cố gắng nâng cao mức độ hợp tác.
Nhiệm vụ chuẩn bị Hiệp ước liên minh đầy đủ hơn nữa đã được những người đứng đầu hai nước giao cho ngay từ năm 1996. Và thực tế là đến đầu năm 1997, Hiệp ước đó đã xuất hiện. Hiệp ước này được giao cho một nhóm công tác do Phó thủ tướng Valeri Serov, phụ trách các vấn dề liên kết của, Chính phủ Nga soạn thảo. Phía Belorusia dự thảo Hiệp ước được giao cho Bộ trưởng Ngoại giao I. Antonovich và Chánh Văn phòng Tổng thống M. Miasnikov. Nội dung dự thảo đã được trình lên hai Tổng thống.
Lúc đó mới phát hiện ra một điều là Điều lệ của liên minh mới hoàn toàn không phù hợp với những ý tưởng đã được tôi nhất trí thông qua khi thảo luận về quan điểm của liên minh tương lai. Điều lệ mới này chủ yếu do hai đảng viên của Đảng cộng sản Liên bang Nga (Chú tịch Uỷ ban Duma Quốc gia về công việc của SNG G. Tikhonov và chính I. Antonovich, người chuyển về Minsk và thay đổi quốc tịch) soạn thảo.
Còn chính việc bản thân Bộ trưởng Ngoại giao Belorusia, đồng thời cũng là một thành viên tích cực của Đảng cộng sản Nga, thì cũng làm cho ai đó phải ngần ngại. Nhưng chẳng ai ngần ngại cả. Thật là vô ích.
Những điều mà các nhà soạn thảo nêu ra, xét về nội dung thì có nghĩa là nước Nga bị mất chủ quyền của mình. Kết quả là xuất hiện một quốc gia mới, với một quốc hội mới, một chính quyền hành pháp mới được gọi là Hội đồng Tối cao của Liên minh. Mọi quyết định của cơ quan này là bắt buộc với Tổng thống Nga, Chính phủ và tất cả các cơ quan chính quyền hành pháp Nga. Trong dự thảo điều lệ nêu: “Mọi quyết định của Hội đồng Tối cao của Liên minh là bắt buộc đối với các cơ quan của Liên minh và đối với các cơ quan chính quyền hành pháp. của các quốc gia - thành viên”.
Trong dự thảo điều lệ còn nêu rằng người đứng đầu Hội đồng Tối cao của Liên bang mới sẽ được luân phiên thay đổi giữa Tổng thống Belorusia và Tổng thống Nga. Cứ hai năm một người, rồi luân phiên sang người khác. Như vậy là hai năm liền Tổng thống Alexandr Lucashenko sẽ lãnh đạo Liên bang Nga. Về Quốc hội trong dự thảo nêu: “Các quốc gia - thành viên tạo điều kiện để thành lập Quốc hội, cơ quan đại diện và lập pháp của liên minh do các công dân của Liên minh trực tiếp bầu lên”. Điểm liên quan đến vị trí đại diện ngang nhau trong Quốc hội Liên bang cũng không thể chấp nhận được - mỗi nước có ba mươi lăm người. Nước Nga có một trăm năm mươi triệu dân, còn Belorusia chỉ có mười triệu.
Khôi phục lại Liên Xô dù sao vẫn là niềm mơ ước của những người cộng sản. Nếu như đối với Đảng cộng sản Liên bang Nga đó là vũ khí đấu tranh chính trị, là định đề tư tưởng, thì đối với những công dân Nga khác đó chỉ là nỗi đau tinh thần, là nỗi ấm ức cho những người thân, đồng nghiệp, bạn bè v.v... của mình kẹt lại ở các nước Cộng hoà khác. Nếu như có thể, thì có thể gọi đó là tiếng gọi của tâm hồn. Nhưng tiềm thức đôi khi còn tác động lên cả ý thức ngay cả ở những quan chức Nhà nước.
Chính Dmitri Riurikov, trợ lý của tôi về các vấn đề quốc tế cũng cổ xuý nhiệt tình cho phương án xốc nổi và nguy hiểm cho nước Nga về việc thống nhất hai quốc gia.
Văn bản đó không chỉ được Chủ tịch Quốc hội, không chỉ có một số lượng lớn các quan chức Nga ủng hộ, mà nó còn được ký và nằm trên bàn làm việc của Tổng thống Lucashenko. Một vụ xì-căng-đan quốc tế lớn đã chín muồi. Để thay đổi tình hình cần phải giao cho Văn phòng của Tổng thống Nga. Các luật gia đã phát hiện hàng loạt điểm vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp Liên bang Nga.
Tôi gọi điện thoại cho Alexandr Grogorevich, yêu cầu tạm hoãn việc ký kết hiệp ước để cho toàn dân thảo luận. Tuy nhiên hành động ngoại giao này của Tổng thống Nga, hoãn việc ký kết Hiệp ước đã được soạn thảo - tất nhiên không phải là món quà hay ho đối với Tổng thống Belorusia. Tôi giao sứ mạng tế nhị này cho Ivan Rybkin, Thư ký Hội đồng an ninh mang thư riêng đến gặp Tổng thống Belorusia. Hơn nữa, tôi còn dặn thêm: “Ivan Petrovich, nếu Lucashenko chưa đồng ý thì chưa trở về”. Rybkin thở dài nặng nề gật đầu hiểu ý và bay ngay đi Minsk.
Ngay tại sân bay, Lucashenko đã kể lại toàn bộ nội dung bức thư của tôi cho Ivan Petrovich nghe. Sau này tôi mới biết Dmitri Riurikov, trợ lý của tôi như tôi nói ở trên đã cung cấp thông tin này cho Lucashenko. Anh ta đúng là một người cổ xuý nhiệt tình cho việc thống nhất hai nước, dù là sự thống nhất thân cộng sản đi nữa. Một tuần sau tôi sa thải anh ta.
Cho đến bây giờ tôi vẫn thầm cám ơn Ivan Petrovich vì lòng kiên nhẫn và bền bỉ của ông. Ông đã cùng với Lucashenko trao đổi hàng tiếng đồng hồ, nặng nhẹ với nhau, để lại không biết bao nhiêu thùng rượu sau những cuộc hội đàm. Đó là kiểu ngoại gia Slavơ thực sự.
Rybkin trở lại Matxcơva rất mệt mỏi. Chẳng bao lâu sau, ngày 10 tháng Tư, văn bản Hiệp ước mới đã được ký kết, mà theo nội dung của nó thì thực chất đó là Hiệp ước chuẩn bị cho việc thống nhất quốc gia.
Đúng như tôi dự tính, việc đưa ra toàn dân thảo luận một văn kiện tối quan trọng đối với hai dân tộc của hai Nhà nước là cực kỳ cần thiết, chúng ta đã nhận được rất nhiều ý kiến đóng góp giá trị của các công dân hai nước.
Ngày 21 tháng 5, tại Kremli đã diễn ra lễ ký long trọng Hiệp ước giữa Nga và Belorusia. Tổng thống Lucashenko trông có vẻ xanh, nhưng rất yên tâm. Cả hai chúng tôi đều tin chắc chắn rằng liên kết quốc gia chẳng còn xa xôi. Và thực tế đến năm 2000 nó đã diễn ra, một liên minh quy mô đầy đủ của hai nước đã trở thành hiện thực.
Tôi luôn luôn ủng hộ để trong nội bộ SNG tồn tại những liên minh, tổ chức khác nhau để các nước thành viên trong Cộng đồng dần dần tham gia.
Nhưng những điều kiện của những liên minh đó cần phải thực tế và thực hiện được. Đáng tiếc là cho đến bây giờ vẫn còn có những khó khăn trên con đường liên kết kinh tế đầy đủ giữa Nga và Belorusia: Thị trường tài chính của Belorusia còn nhiều điều vướng mắc, luật pháp phản lại nền kinh tế thị trường, những trở ngại trong việc tư nhân hoá. Nếu như nước Nga đưa được Belorusia vào một thị trường thống nhất, thì đó sẽ là một thành công lớn lao. Nhưng để làm được điều đó thì trong nền kinh tế Belorusia cần có những cuộc cải cách triệt để. Tôi cũng có không ít ý kiến khác với Tổng thống Alexandr Lucashenko, cụ thể là về quan điểm của ông đối với báo chí. Chuyện đã xảy ra với phóng viên Pavel Sheremet bị bắt giam. Nhưng có thể trong vấn đề nào đó chúng tôi không trùng quan điểm với nhau đi chăng nữa, thì chúng tôi vẫn là bạn của nhau: Liên minh Nga - Belorusia sẽ trở thành chiếc đầu tàu của SNG kéo liên kết chung của chúng ta tiến lên phía trước.
Tôi thật sự hy vọng là từ liên minh này quá trình cải cách dân chủ ở Belorusia chỉ có thắng lợi. Nước Nga chúng ta cần phải tận dựng mọi khả năng của chúng ta có được cho quá trình này.
Tôi nêu ra thí dụ về những nỗ lực thành công trong việc liên kết Nga - Belorusia là vì sao? Bởi vì không thể cho phép đôi khi lợi dụng những vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa các nước SNG làm vũ khí cho những trò chơi chính trị nội bộ. Chính những người cộng sản đã lợi dụng điều đó cố tìm mọi cách để
Hiệp ước không được Duma thông qua năm 1997.
Một thí dụ khác về việc lợi dụng những vấn đề liên quốc gia để kích động những ý đồ chính trị nội bộ - đó là vấn đề về Hạm đội biển Đen và Thành phố Sevastopol. Chính những vấn đề này đã trở thành vật cản trong quan hệ của chúng ta với Ucraina.
Quan hệ Nga - Ucraina, đó là một chủ đề đặc biệt phức tạp Người Ucraina đối với người Nga cũng là anh em như người Belorusia. Giữa họ có sự giống nhau rất lớn: Về ngôn ngữ, thói quen, lối sống. Hơn nữa, Kiev còn là thủ đô của nước Nga cổ - Kievskaia Rus - quê hương của ý thức dân tộc, lịch sử của chúng ta. Nếu không có Ucraina, thì không thể hình dung nước Nga sẽ ra sao. Nhưng thế kỷ 20 đã lôi kéo Ucraina muốn vươn tới độc lập, muốn tìm cho mình con đường riêng để phát triển thông qua tất cả những sự kiện chính, chiến tranh và cách mạng. Do đó dân chủ trong xã hội Ucraina trở nên căng thẳng bao nhiêu, thì lại là động lực thúc đẩy Ucraina tách xa Nga bấy nhiêu.
Tôi đã không ít lần gặp Tổng thống Leonid Kuchma. Nhưng tôi trì hoãn chuyến đi đầu tiên đến Kiev chỉ vì những vấn đề của Hạm đội biển Đen. Mối quan hệ không xác định ngày càng tăng lên. Chúng ta đã không thể ký kết được một văn bản lớn nào nghiêm túc, quan trọng. Quan hệ giữa hai nước chúng ta bị trì hoãn một cách không tự nhiên.
Tháng 5 năm 1997, cuộc khủng hoảng nhiều năm cũng đến hồi kết thúc. Tôi tiến hành chuyến thăm Kiev đầu tiên sau khi đã diễn ra biết bao cuộc hội đàm giữa hai Thủ tướng. Những cây dẻ ở Kiev nở hoa trắng xoá, hàng người trên phố phấn khởi, hân hoan chào đón chúng tôi. Tôi nhớ, tôi đã dừng xe lại ở ngay trung tâm Kiev và nói chuyện với những người dân Kiev, rất nhiều người chìa tay ra bắt, phát biểu những lời ấm áp, thân tình. Những người cau có với những khẩu hiệu bài Nga bị gạt ra một bên cách hẳn với đám đông tình cảm và thiện chí này.
Lúc đó trong tôi nảy ra suy nghĩ: “Trời ơi, không biết quan hệ của chúng ta đã gián đoạn bao năm rồi? Không biết đến bao giờ nữa chúng ta vẫn còn ra vẻ không cần đến nhau nữa?”. Như vậy là đã kết thúc một giai đoạn xa lạ hơn năm năm trời Hạm đội biển Đen bơ vơ không phải của ai. Còn giờ đây trên những chiếc tàu của Hải quân Nga thay vì những chiếc cờ cũ của Hải quân Liên Xô là những chiếc cờ mới Andreev. Còn những chiếc cờ vàng xanh là của Ucraina.
Hạm đội đã ở trong tình trạng xuống cấp, không được đổi mới, không được sửa chữa. Các thuỷ thủ không biết mình phục vụ quốc gia nào, ai phải trả lương, hưu trí, trợ cấp cho họ. Trong số bốn trăm ngàn dân của thành phố Sevastopol thì có đến một trăm ngàn người, tức là một phần tư gắn số phận của mình với số phận của Hạm đội. Tất cả họ đều căng thẳng chờ đợi xem cuộc tranh cãi của chúng ta kết cục ra sao. Giải quyết được việc phân chia Hạm đội biển Đen là một thắng lợi lớn đối với cả Ucraina, cả Nga.
Nói một cách ngắn gọn nội dung của Hiệp ước như sau. Nga được thuê các cầu tàu của Sevastopol, Nam và Karantinyi để cho 338 tàu chiến Nga thả neo. Giá thuê hàng năm các căn cứ quân sự ở Sevastopol cho việc neo đậu tàu là 98 triệu đô la được trừ vào khoản tiền thanh toán khí đốt mà Nga cung cấp cho Ucraina. Vào thời điểm ký hiệp ước khoản nợ này đã lên tới gần 3 tỷ đô la. Hợp đồng thuê các căn cứ quân sự này, kể cả kết cấu hạ tầng của Sevastopol là 20 năm.
Tất cả đều thở phào nhẹ nhõm. Vấn đề không được giải quyết bao nhiêu năm về Hạm đội thật sự là những vấn đề rất khó không đơn giản, cần phải nhân nhượng nhiều, nhưng dù sao cũng đã được giải quyết.
Ucraina nhận được một phần của Hạm đội và thanh toán được một phần nợ. Cuối cùng thì cũng loại bỏ được vấn đề Sevastopol thuộc về ai, khẳng định tính toàn vẹn lãnh thổ của Ucraina. Tôi coi hiệp ước về Hạm đội này là “phương án số không”. Chúng ta có khả năng có mặt quân sự ở biển Đen và Địa Trung Hải, nơi có rất nhiều tàu buôn bán và vận tải của chúng ta qua lại. Điều đó rất quan trọng để khôi phục lại uy tín của nước Nga.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là chúng ta đã ký được với Ucraina một Hiệp ước hữu nghị và hợp tác bị trì hoãn bao năm nay. Tỷ suất thuế quan, những dự án kinh tế liên doanh, vấn đề nợ - ngay sau khi vấn đề về quy chế của Thành phố Sevastopol được giải toả thì mọi vấn đề được giải quyết ngay và có điều kiện, động lực mới phát triển.
Nhưng không phải tất cả ở Nga và Ucraina đều nhất trí với phương án giải quyết đó. Việc phân chia Hạm đội ngay lập tức được những phần tử dân tộc chủ nghĩa ở Ucraina, những phần tử cánh tả ở Nga làm rùm beng lên. Ngay cả nhà chính trị tầm cỡ Liên bang như Yuri Luzkov cũng tát nước theo mưa với những người cánh tả. Ông ta gọi điều khoản thuê căn cứ của Sevastopol là bất bình thường.
Dường như Yuri Luzkov muốn tuyên bố chiến tranh với Ucraina hoặc là biến Sevastopol thành một quận của Matxcơva. Sau đây còn một giai thoại nữa cũng rất quan trọng và khó khăn trong việc hình thành SNG.
Ngày 23 tháng 10 năm 1997, diễn ra một cuộc họp kín của Hội đồng nguyên thủ các quốc gia SNG tại Kishinev. Trong những cuộc gặp gỡ như thế này, chúng tôi muốn giải quyết tất cả những vấn đề gay gắt, và cuộc gặp thượng đỉnh không phải là ngoại lệ. Đầu tiên mọi việc diễn ra bình thường - gặp gỡ ngoài sân bay, những cuộc ôm hôn thân mật, chiêu đãi trọng thể, gặp gỡ báo chí. Tôi có cảm giác làm việc bình thường, thoải mái, không chờ đón một điều gì bất ngờ.
Nhưng khi vừa mới ngồi vào bàn hội đàm thì hết Tổng thống này đến Tổng thống khác tấn công nước Nga, đưa ra những bài phát biểu chống Nga kịch liệt. Mỗi Tổng thống đều đưa ra những phàn nàn, kêu ca. Tôi chăm chú lắng nghe, đánh dấu những ý chính trong sổ tay và suy ngẫm: Vấn đề không phải là những lời kêu ca, phàn nàn. Tất cả những phát biểu đó đều toát lên sự mệt mỏi với những vấn đề chưa được giải quyết. Những gánh nặng đó họ đều muốn đổ lên vai ông bạn láng giềng lớn. Hay ít ra mới ở trên lời nói. Tôi quan sát nét mặt của các đồng nghiệp và càng tin tưởng suy nghĩ đó đúng.
Chẳng hạn, Eduard Shevardnadze, nhà lãnh đạo Grudia bao giờ cũng kêu ca về nỗi đau của tấn bi kịch Apkhazia. Bóng đen của cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đã lan đến đất nước đầy ánh năng và hiếu khách của ông ta.
Hay là Leonid Kuchma cũng có những vấn đề của mình, không chỉ riêng về kinh tế. Làm sao mà kết hợp được kinh tế với sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc, đôi khi rất dữ dội và hiếu chiến?
Rồi đến những phần tử dân tộc - cấp tiến của Luchinski ở Mondova, của Rakhmanov ở Tazikistan và của Acaev ở Kirgizia. Cuộc xung đột nặng nề Karabắc sẽ còn là nỗi đau lâu dài giữa Azerbaizan và Armenia. Không biết bao giờ thì quan hệ giữa những nước Cộng hoà này mới trở lại bình thường. Đã có những phát biểu gay gắt đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh ở Kishinev về việc vũ khí Nga tuồn cho Armenia. Các quân nhân của chúng ta đã cung cấp cho Armenia vũ khí theo hợp đồng bí mật giữa hai cơ quan quân sự. Bất bình trước tiên là Tổng thống Azerbaizan Aliev. Tôi trả lời rằng đã cách chức một số lãnh đạo của Bộ Quốc phòng. Và tôi còn cách chức nữa. Cả gian phòng ồ lên.
Lẽ dĩ nhiên tôi có thể trả lời kiên quyết, cứng rắn và gay gắt đối với mỗi phát biểu trên. Nhưng tôi không muốn như vậy. Nói một cách ngắn gọn, hội nghị thượng đỉnh Kishinev giống như một trong số những sự kiện bi kịch nhất, bởi vì chính cuộc gặp này trên thực tế là giải quyết số phận của cả Cộng đồng SNG.
Có lần nào đó tôi đã ở Kishinev, đã từng được chứng kiến hàng đống vỏ chai trống không. Những thùng rượu dưới ánh sáng nến lờ mờ, mùi của gỗ lâu ngày, vị của rượu hơi chua và hầm ngầm ẩm ướt. Rượu nho. Một thứ rượu nho của Mondova hơi chát, như nhung, gần như màu đỏ đậm.
Tôi cứ suy nghĩ về cái công thức SNG. Chúng ta vẫn trung thực với nhau trong suốt tiến trình hàng trăm năm nay, còn khi mở thùng rượu nho, nơi đựng loại rượu nho cũ cũng là giữ được mối quan hệ thân tình, thật dễ dàng. Đổ thứ rượu nho đó xuống đất cũng thật dễ dàng.
Tôi có cảm giác rằng chúng ta đã từng cãi nhau, sừng sộ với nhau... theo kiểu láng giềng. Nhưng rất hiền lành. Cũng giống những nông dân cùng nhau cày trên thửa ruộng của mình, trồng nho, xay ra, chắt lọc lấy nước ngâm rượu. Nếu không có nhau, những người láng giềng không thể đơn thương độc mã hoàn thành được cái công việc nhà nông muôn đời này.
Trở lại năm 2000...
Sau khi tôi từ chức được một thời gian lại diễn ra cuộc gặp của các Nguyên thủ Quốc gia SNG. Tất cả họ đều đến trước một ngày khi diễn ra cuộc gặp chính thức và tôi mời họ đến nhà tại Gorki-9. Tôi đã phải tiếp đón tại nhà những vị khách chính thức, thực chất là tất cả, điều mà trước đây chưa từng diễn ra. Quả thực chưa bao giờ tại nhà chúng tôi lại đông các vị khách cao cấp như thế. Naina thậm chí còn lo lắng: Không hiểu có đủ bát đĩa để ăn không? Chúng tôi chiêu đãi các vị khách món ăn nổi tiếng của Siberi - món bánh cá măng của Siberi.
Tất cả các Tổng thống đều muốn phát biểu những lời nồng thắm, thân thiện. Mỗi người đều mời tôi đến thăm.
Tôi nhớ Islam Karimov, Tổng thống của Uzbekistan, một người thông thái, tinh tế kiểu rất Á Đông, nhận xét về việc tự nguyện từ chức của tôi: “Thưa Boris Nicolaevich, chắc hẳn, ngoài Ngài ra, không có ai dũng cảm hành động như vậy...”.
Còn Uzbekistan đối với nước Nga có ý nghĩa thế nào? Đó không chỉ là một nước Cộng hoà Trung Á đầy ánh nắng, với phong cảnh ngoạn mục. Đó còn là kỷ niệm về cuộc động đất Tashken năm 1966 làm chấn động toàn quốc. Cả thế giới đã cùng một tay khôi phục lại thành phố Tashken bị đổ nát. Nước Nga vẫn nhớ biết bao người ty nạn trong thời gian chiến tranh đã được đưa về sơ tán ở Uzbekistan, biết bao trẻ em mồ côi đói kém được các gia đình Uzbekistan nuôi nấng. Người Nga suốt gần một thế kỷ đã giúp đỡ người Uzbekistan xây dựng nền văn hoá, khoa học, giáo dục, công nghiệp. Không thể để cho những mối quan hệ máu thịt đó không lưu lại mãi mãi trong ký ức lịch sử của nhân dân.
Một anh bạn khác, rất tốt và thiện chí là Nursultan Nazarbaev. Tôi có cảm giác là Nazarbaev không tán thành với việc từ chức của tôi, nhưng không nói gì, mà vẫn kiềm chế, bình tĩnh như mọi khi... Nazarbaev có vị trí rất vững chắc ở nước mình ngay từ thời còn Liên Xô cũ, và vì vậy ông không làm bất cứ chuyện gì thay đổi đột ngột, triệt để, quá trớn trong chính trị cũng như trong kinh tế. Ông kết hợp một cách thành công tính cẩn thận phương Đông, cân nhắc chín chắn với tính hiện đại trong hành động. Ông tạo ra được tâm lý tin tưởng. Không phải ai cũng làm được như vậy.
Còn Ascar Acaev, một đồng minh tin cậy của tôi lại muốn động viên tôi. Ông có cảm giác là tôi rất khó khăn, dằn vặt, nên rất thông cảm muốn chia sẻ với tôi. Tôi có cảm giác ông rất sợ sau đó quan hệ của Nga với Kirgizia sẽ thay đổi. Sợ sự hiểu biết giữa hai nước sẽ không còn nữa. Ông đã làm rất nhiều để củng cố mối quan hệ giữa hai nước chúng ta. Ông lo lắng cho tương lai đất nước mình, ông cũng rất giống tôi không thấy tương lai đó nếu thiếu nước Nga.
Saparmurad Niazov thì mời tôi đến thàm đất nước Turmenia đầy ánh nắng: ở đó hoa đã sắp nở. Turmenia khác với tất cả các nước Cộng hoà khác thuộc Liên Xô cũ vẫn tiếp tục đi theo con dường kinh tế Nhà nước. Niazov cố gắng sử dụng một cách đúng đắn và hợp lý nguồn tài nguyên quốc gia: Hơi đốt, bông. Nếu như có khả năng nuôi dưỡng tất cả mọi người, không cần thay đổi lối sống, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên - thì tại sao không được? Không phải ai cũng có được những khả năng như vậy. Tôi quan sát nét mặt của Emomali Rakhmanov, người đang đối mặt với tình hình thường xuyên diễn ra bất ổn ở biên giới Tadjikistan. Cuộc sống tại đó rất không đơn giản! Ông luôn luôn tỏ ra tính cách Á Đông thản nhiên bình tĩnh bên ngoài, những trong lòng ông thật sự lo lắng, trầm tư hiện trên nét mặt. Ông cũng rất lo cho quan hệ giữa hai nước trong tương lai. Tôi đặt tay lên vai ông. Qua đó muốn truyền sang ông niềm tin rằng mọi việc sẽ rất tốt. Tôi không còn là Tổng thống, chỉ là người bình thường. Tôi nghĩ rằng ông hiểu tôi.
Còn đây là Robert Kocharian, có thể ở nước ông đang có vấn đề lớn, nhưng không bộc lộ trên nét mặt ông... Một đất nước Armenia đầy núi non đang phải trải qua những cơn biến động chính trị khó khăn. Nhưng không vì thế mà không còn là một trong những đất nước văn hoá nhất, dân trí cao nhất trong SNG. Tầng lớp trí thức Armenia, nền khoa học, văn học, nghệ thuật bao giờ cũng ở đỉnh cao. Đây chính là nền tảng cho một tương lai phồn thịnh, tươi sáng.
Thật khó đoán qua nét mặt của Tổng thống Geidar Aliev, Giáo chủ của Azerbaijan xem ông đang nghĩ gì. Tôi nhớ ông từ thời còn trong Bộ Chính trị của Gorbachov. Con người thông thái với những kinh nghiệm phong phú này từng trải qua bao nhiêu thử thách, bao nhiêu va chạm đã thay đổi rất nhiều! Trả giá bằng những nỗ lực ghê gớm, Aliev đã đưa được dân tộc mình theo con đường hoà bình, chấm dứt một cuộc chiến tranh vô vị, khó khăn. Quần chúng tất nhiên không quên điều đó. Nước Nga cũng hiểu điều đó. Geidar Aliev có thể hy vọng vào sự hiểu biết đó.
Còn một vị Giáo chủ nữa cũng được ở Nga rất kính trọng - đó là Eduard Shevardnadze. Ngay sau cuộc gặp ở Gorki, ông phải lao vào cuộc bầu cử. Cũng giống như Geidar Aliev, ông đã đưa đất nước mình ra khỏi vũng lầy của cuộc nội chiến, ra khỏi đám cháy của cuộc chém giết lẫn nhau huynh đệ tương tàn suýt nữa làm cho Grudia chìm đắm. Giờ đây Grudia lại đang phải đối mặt với những vấn đề khác - thúc đẩy phát triển kinh tế, hội nhập với thị trường thế giới, thúc đẩy phát triển công nghiệp. Grudia cần hoà bình, cần ổn định, tức là trong vấn đề này giữa hai nước chúng ta có sự hoàn toàn hiểu biết lẫn nhau.
Piotr Luchinski nhắc chúng tôi về một cuộc gặp gỡ ở Kishinev. Mondova - một đất nước tươi đẹp, thân thiện từ lâu đã mang sắc thái hoà bình, thân thiện của nhà nông. Nhưng tại đây cũng để lại vết sẹo sau khi Liên Xô tan rã - Pridnestrovie. Giải quyết vấn đề này, nếu thiếu sự hỗ trợ của chúng ta thì chắc chắn là Mondova không thể làm nổi.
Tổng thống trẻ nhất của SNG là Alexandr Lucashenko, đôi khi bằng những tuyên bố đột ngột, bồng bột đã gây ra sự chú ý của báo chí chúng ta. Ông còn bị người ta coi là một người cứng nhắc, hiếu chiến, thậm chí là thô bạo. Song điều đó tôi không nhận thấy khi tiếp xúc cá nhân. Đúng, đó là con người hay ồn ào, khuấy động. Những mơ ước của chúng tôi đã trở thành hiện thực - liên minh giữa hai quốc gia là một thực tế... Sự kiện này có ý nghĩa trọng đại. Sự kiện đó có được tất nhiên cũng nhờ những nỗ lực và lòng kiên trì và năng nổ của Lucashenko.
Với Leonid Kuchma khó tiếp xúc hơn, mặc dù bề ngoài ông vẫn rất tế nhị, thân thiện kiểu Ucraina. Nhưng trong ông có ý chí, kiên trì và sự bộc trực. May thay chúng tôi không còn phải đau đầu về chuyện chia bôi Hạm đội biển Đen, không phải thảo luận về thuế quan, mà có thể ngồi bên nhau nhâm nhi và phấn khởi với cuộc sống đang diễn ra... Ucraina trong bước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, ổn định tình hình chính trị. Nhân dân đã trở lại sống khá hơn, ổn định hơn.
Chúng tôi ngồi bên bàn và bình tĩnh nói chuyện với nhau. Bên cạnh chúng tôi còn có một người mới: quyền Tổng thống Nga Vladimir Putin. Anh tham gia câu chuyện với mọi người, chú ý theo dõi. Anh hiểu rằng chẳng bao lâu nữa, anh cũng sẽ được nếm thử miếng bánh mì khó khăn này. Tất cả các Tổng thống ngồi bên bàn này cũng theo dõi anh ta. Ai cũng hiểu anh ta ngồi ở đây không phải là tình cờ. Tôi không thể đề xuất với những đồng nghiệp để anh lên giữ chức Chủ tịch Cộng đồng SNG. Nhưng họ lại quá hiểu tôi. Ngay hôm sau Putin được bầu lên làm Chủ tịch SNG.
Tôi rời Kishinev và nhớ lại khu rừng nghỉ Belovez. Đã có biết bao lời quy kết đổ lên đầu tôi vì ba cái quyết định! Đã có bao nhiêu luận điệu cay độc nhằm vào tôi! Nhưng không bao giờ tôi nghi ngờ tính đúng đắn trong hành động của mình năm 1991. Tại đó, khi ở khu rừng nghỉ Belovez, chúng tôi đã cố không làm tan rã, mà duy trì không gian chính trị thống nhất. Liên bang đã không còn có thể tồn tại được, Nhà nước đã bị rách nát từng mảng. Và để cứu vãn những mối quan hệ truyền thống, tránh những cuộc va chạm công khai và những cuộc xung đột sắc tộc, chúng tôi đã đi đến thoả hiệp. Chúng tôi đã rất hy vọng quá trình chia tay sẽ diễn ra dần dần nhẹ nhàng, nhờ SNG.
Điều duy nhất mà chúng tôi không đảnh giá hết - đó là ảnh hưởng của giới thượng lưu chính trị ở các nước Cộng hoà. Bức tranh dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi của độc lập điên khùng đã nổi lên rất nhanh ở hầu hết các quốc gia.
Những người không muốn bỏ tiếng Nga trong các trường phổ thông thì muốn mà cả với nước Nga, còn những người ủng hộ luật chơi chung thì lại bị coi là có đầu óc đế chế. Một quá trình phân ly diễn ra với tốc độ khủng khiếp. Quyền con người của những người Nga cũng bị vi phạm nghiêm trọng.
Trong tình huống đó thì phải xử lý thế nào? Cần phải lựa chọn đường lối nào ngay trong nội bộ không gian Liên bang cu cho chính sách của chúng ta: Đường lối đối đầu hay thoả hiệp? Lẽ dĩ nhiên tôi chọn đường lối thứ hai một cách có ý thức. Bởi vì tôi hiểu rằng những quốc gia trẻ tự dành cho mình quyền được phá bỏ những thứ củi mục cũ trong chính sách đối nội và đối ngoại của mình. Nếu như họ không đi với chúng ta, thì họ sẽ đi với những nước mà hoàn toàn có thể hướng cái liên minh này chống lại nước Nga.
Hơn nữa, sự phân định rạch ròi quá khắt khe còn có thể gây bao tai hoạ cho nhân dân. Cho hàng triệu người. Chỗ nào có thể là nơi làm việc cho những người không phải địa phương: Nếu như ở đó chỉ có người Azerbaijan hay Ucraina, chứ không có người Nga? Mondova sẽ xuất hoa quả và rượu vang của mình cho ai? Armenia và Tadjikistan sẽ sống ra sao nếu như thiếu vắng sự có mặt quân sự của chúng ta ở đó? Ucraina và Belorusia độc lập sẽ làm được gì nếu không có hơi đốt của chúng ta? Có quá nhiều vấn đề.
Nhưng cái chủ yếu đối với hàng ngàn người, hàng triệu người Nga có thể bị mất mối quan hệ tinh thần, gia đình, đạo đức đã từng thống nhất chúng ta, những người tách ra khỏi Liên Xô, - sống thế nào đây?
Tôi cho rằng Nga với tư cách là người lãnh đạo thực thụ cần phải nhận lấy trách nhiệm chính trị, nếu cần có thể cả trách nhiệm kinh tế để duy trì và củng cố Cộng đồng SNG.
Năm 1991, Nga tuyên bố thừa kế Liên Xô. Đó là hành động hoàn toàn sáng suốt, lô gích về mặt pháp lý - đặc biệt là trong lĩnh vực các quan hệ quốc tế, nơi chúng ta bị ràng buộc bởi hàng loạt những trách nhiệm nặng nề với tư cách là thành viên của các tổ chức quốc tế, công ước và hiệp định. Ra khỏi cái không gian pháp lý này, thì sẽ xuất hiện biết bao vấn đề, mà chúng ta vẫn chưa chuẩn bị cho việc đó trong cái tình hình bối rối. Nhưng bây giờ nghĩ lại: Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu như nước Nga tân tiến đi theo một con đường khác và khôi phục quyền thừa kế của mình của một nước Nga khác, nước Nga của trước đây...
Từ năm 1991 quay trở lại... hay sao?
Tất nhiên nếu đi theo cách đó thì còn biết bao khó khăn hơn nữa.
Ý tưởng phục hưng bao giờ cũng làm cho dư luận xã hội hoảng hốt. Trả lại tài sản, ruộng đất, trả lại các món nợ cho những thế hệ sau của dân di tản bị mất trong những năm cách mạng hay sao? Điều đó rất khó, bất bình thường và không hiểu được. Đoạn tuyệt với cách mạng đơn giản hơn - kiên quyết, không trì hoãn và không làm phức tạp quá trình đau khổ cắt đứt với quá khứ. Trong việc đoạn tuyệt với chế độ cũ này tất nhiên cũng có những yếu tố tích cực của nó.
Chúng ta đã từng sống theo những luật hoàn toàn khác - không phải là theo luật thời Xô-viết được xây dựng trên cơ sở lý tưởng dấu tranh giai cấp và chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà theo luật tôn trọng cá nhân. Từng cá nhân cụ thể. Chúng ta chẳng phải khôi phục lại những điều kiện để làm cho xuất hiện nền kinh doanh, tự do ngôn luận, quốc hội và nhiều thứ khác nữa đã từng tồn tại ở Nga trước đây. Có điều đã từng có sở hữu tư nhân về ruộng đất. Song điều chủ yếu là chúng ta, những người Nga đã cảm thấy mình khác hẳn - cảm thấy mình là công dân của một Tổ quốc Nga mới. Chúng ta nhất định tự hào với cảm xúc của lịch sử được khôi phục công bang! Thế giới xung quanh đã có thái độ khác hẳn đối với chúng ta. Thừa nhận những sai lầm lịch sừ của mình và khôi phục lại tính thừa kế lịch sử - một hành động dũng cảm, được kính nể.
Ta hãy xem thực tế diễn ra trên đất nước ta những năm gần đây. Chín năm trời chúng ta phải phá cái cũ và xây dựng cái mới. Sống giữa hai thời đại. Điều đó còn khó khăn hơn cả thích nghi với cái hiện dại, hiện đại hoá những luật cũ của Nga. Những cái lợi tất yếu mang lại từ quyết định đó, từ bước thay đổi những sự kiện năm 1991 rất có thể bị chúng ta bỏ lỡ.
Đúng, không phải mọi việc đều đơn giản, không phải trong cuộc sống mọi thứ đều diễn ra ngọt ngào như tiến trình chính trị. Có thể khi nào đó những người Nga lại muốn tiến hành một bước nữa.
Còn một giai thoại nữa mà tôi muốn trình bày để chứng tỏ tôi luôn cố gắng đáp ứng yêu cầu của các đồng nghiệp. Tôi muốn nói đến việc bổ nhiệm Boris Berezovski làm Thư ký chấp hành SNG.
Cứ sau mỗi cuộc gặp thượng đỉnh lại càng thêm bất bình với công việc của ban lãnh đạo cơ quan chấp hành. Cuối cùng thì lãnh đạo các nước đều đi đến thống nhất phải cách chức Ivan Korotchenia. Tất nhiên theo truyền thống của chúng ta là có sự cám ơn. Nhưng ngay lập tức cần phải có người thay thế. Các Bộ Ngoại giao bắt đầu tìm kiếm ứng cử viên. Nhưng nói chung ngay trước khi diễn ra buổi đầu của cuộc họp thượng đỉnh vãn chưa thống nhất được ai là người lãnh đạo. Khi chúng tôi có mặt ở Matxcơva tại phòng Ecaterina của Điện Kremli, tôi thật sự ngạc nhiên khi Tổng thống Ucraina đề nghị đưa Boris Berezovski lên giữ chức vụ này. Ông giải thích rằng cần phải đưa một nhận vật sáng giá như Berezovski lên giữ chức vụ này thì mới có thể tạo được động lực mới cho công việc của một cơ quan. quan trọng như vậy của Cộng đồng SNG. Thực ra mà nói tôi rất ngạc nhiên.
Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Sau đó còn có ý kiến phát biếu của các Tổng thống khác, nhưng tất cả đều nhất trí với ứng cử viên này. Không biết bao nhiêu lời ca tụng Boris Abramovich được nêu lên, đến nỗi tôi không thể định hình được khi nghe hết Tổng thống này đến Tổng thống khác phát biểu.
Cuối cùng, tôi xin phát biểu:
- Thưa các đồng nghiệp, các bạn biết ở nước chúng tôi có thái độ như thế nào đối với Berezovski, đặc biệt là trong giới thượng lưu chính trị. Tôi đề nghị ta xem xét ứng cử viên khác.
Ngay lập tức tôi được nghe:
- Thưa Boris Nicolaevich, điều đó thật kỳ cục, chúng tôi cũng quá rõ Berezovski, biết anh ta có những điểm mạnh, điểm yếu. Nhưng chúng tôi đề cử một công dân Nga thì Ngài lại phản đối?
Lúc đó tôi đề nghị dành thời gian để suy nghĩ, tuyên bố giải lao và ra ngoài. Tôi ngồi nghỉ trong phòng nghỉ bên cạnh gian Ecaterina và cho gọi Shevchenko đến gặp, yêu cầu tìm Berezovski đến Kremli ngay. Anh ta kể lại với tôi rằng những ngày gần đây Berezovski đã đi khắp nơi để vận động các Tổng thống SNG ủng hộ anh ta.
Tôi cho gọi Yumasev, Chánh Văn phòng Tổng thống đến gặp và hỏi ý kiến anh ta về vấn đề này. Nói thật lòng, tôi chưa bao giở thấy anh ta giận dữ như vậy. Yumasev kiên quyết phản đối. Hơn nữa, anh ta cho rằng bất cứ một quyết định nào trong khuôn khổ SNG đều không được tiến hành theo kiểu áp đặt Tổng thống Nga. Nhất là điều đó lại được tiến hành bí mật, sau lưng Tổng thống Nga.
Sau đó tôi cho gọi Thủ tướng Kirienko vào gặp. Kirienko cũng rất phẫn nộ. Anh ta giải thích rằng Tổng thống không nên nhận thêm gánh nặng trách nhiệm chính trị, việc bổ nhiệm Berezovski sẽ là một vụ xì-căng-đan lớn ở Nga.
Tôi lang nghe ý kiến của họ và cũng đúng lúc đó mọi người báo cáo với tôi rằng Berezovski đã có mặt. Tôi đề nghị Kirienko và Yumasev chờ tôi bên ngoài và cho mời Berezovski vào gặp.
Tôi mở đầu:
- Boris Abramovich, tôi cho rằng anh đã nắm được chuyện gì hôm nay xảy ra. Các Tổng thống SNG đều đề nghị bổ nhiệm anh làm Thư ký chấp hành SNG. Anh hiểu là phản ứng ở nước ta sẽ thế nào đối với việc bổ nhiệm anh. Tôi muốn biết anh suy nghĩ như thế nào?
Berezovski dễ dàng bắt chuyện, anh ta đã loanh quanh đâu đó xung quanh Kremli. Nhìn tôi chăm chú, anh ta bật nói:
- Thưa Boris Nicolaevich, nếu như Ngài muốn làm lợi cho Cộng đồng, thì Ngài hãy bổ nhiệm tôi. Tôi tin chắc tôi sẽ làm được điều gì đó có lợi. Nếu như Ngài nghe ở ngoài phố người ta nói điều gì đó, thì thôi không cần. Còn nếu như ngài ủng hộ tôi, thì tôi sẽ không phụ lòng tin cậy của Ngài và của các Tổng thống SNG đối với tôi.
Tôi chợt thoáng suy nghĩ. Tất nhiên, một tình huống thật kỳ cục. Tổng thống Nga lại phản đối việc bổ nhiệm một công dân Nga.
Tôi trở lại phòng họp. Các Tổng thống nhìn tôi chờ đợi.
Cuối cùng tôi phát biểu:
- Các đồng nghiệp thân mến, tôi đồng ý với đề nghị của các Ngài. Bổ nhiệm ứng cử viên Boris Berezovski vào chức Thư ký chấp hành SNG.
Tất cả đều đồng ý theo đúng điều lệ của SNG, Berezovski được bổ nhiệm vào chức vụ này.
Một năm trôi qua, sự thật là đã xảy ra vụ xì-căng-đan, anh ta bị cách chức, nhưng các Tổng thống khác của SNG đều nói rằng đây là một Thư ký có năng lực nhất.
Bất kỳ một cuộc gặp thượng đỉnh nào của SNG cũng đều bị chỉ trích từ các phía. Từ phía những chính khách (thông thường cả cánh tả lẫn cánh hữu) rằng tôi đã dung túng các Tổng thống của các quốc gia độc lập, không trả lời những lời công kích của họ, dành cho họ những ưu đãi khổng lồ trong các vấn đề kinh tế cho hoàn nợ... Nhưng lại còn có những phàn nàn từ phía các Tổng thống và Quốc hội các nước SNG: rằng Nga không thực sự muốn liên kết kinh tế, chỉ đưa ra những lời hứa hẹn, áp dụng hàng rào thuế quan, không thực hiện các hiệp định thương mại tự do, không đáp ứng yêu cầu về giá cả hơi đốt và năng lượng.
Nhưng thực chất là thế nào?
Đó chính là chính sách có ý thức của tôi để kiềm chế mâu thuẫn. Chính sách hạn chế họ.
Không, chúng ta không thoái thác. Tất cả các vấn đề trong nội bộ SNG đang được giải quyết. Những nguyên thủ quốc gia của SNG đều biết và hiểu nhau, nhân dân các nước được gắn kết với nhau bằng những mối quan hệ láng giềng, bằng hàng ngàn sợi liên kết rất nhỏ - gia đình, nghề nghiệp, tình hữu nghị. Chúng ta duy trì nhân tố chủ yêu của hợp tác là thế đó.
Tôi cho rằng chúng ta đã đạt được điều chính yếu đó: mặc dù đã có những chuyện bàn tán đến việc thay đổi đường lối, mặc dù một số nước vẫn nuôi âm mưu chuyển hướng hợp tác quốc tế chống nước Nga, nhưng mối quan hệ chính tri và kinh tế của chúng ta với các nước SNG hiện nay vẫn đang được củng cố. Thực tế là những mối quan hệ này đã biến thành một hệ thống phối hợp hành động mà khó có thể phá vỡ được.
Tôi thật sự hy vọng rằng đến một lúc nào đó người ta sẽ nhớ đến khu rừng nghỉ Belovez hoàn toàn với một biểu hiện khác, chứ không như hiện nay. Họ sẽ nói rằng đó là khởi đầu của một thời đại hoàn toàn mới: Tiếp sau Liên minh châu Âu, chúng ta đã bắt đầu xây dựng một thực tiễn mới. Một liên minh mới - Cộng đồng các quốc gia độc lập.
Mùa hè năm 1998 nước Nga phải trải qua một tai hoạ tài chính nặng nề. Xin nhận xét ngay là thảm hoạ này không chỉ xảy ra ở nước chúng ta, mà đã còn xảy ra ở các nước khác với nền kinh tế khác, lịch sử và cả tâm tính cũng khác.
Hiện tượng này đối với chúng ta là mới mẻ. Đã nhiều năm chúng ta bị cách bức với thế giới văn minh bởi bức tường quá cao và chúng ta không hề chuẩn bị sẵn sàng cho việc này.
Liệu chúng ta có tránh được tai hoạ này không? Khó có thể tránh được. Trong những ngày trước cuộc khủng hoảng tháng 8 đó đã có rất nhiều lời khuyên, tư vấn của các nhà phân tích, chủ ngân hàng, các nhà báo và các nhà kinh tế... Nhưng tại sao Chính phủ của ta lại không nghe những lời khuyên đó?
Tôi nghĩ rằng nguyên nhân của nó nằm ở gốc rễ cái tâm lý Nga: chúng ta đã nhiều lần nói đến tai hoạ kinh tế ghê gớm, nói đến đồng rúp sẽ có ngày mất giá, rồi chúng ta nói quá nhiều đến nỗi thường xuyên cảm thấy lo sợ. Song nền kinh tế toàn cầu những ngày này của chúng ta không thể đợi đến những quyết định chống khủng hoảng bằng tháng, bằng tuần. Đám cháy trên thị trường chứng khoản có thể bùng lên trong chốc lát, sau một tiếng và có thể lây lan khắp thế giới.
Nguyên nhân quan trọng thứ hai: Mặc dù tất cả đều nói đến nền kinh tế thị trường, nhưng chúng ta còn chưa hoàn toàn quen thuộc với việc nước ta cũng nằm trong thế giới văn minh kinh tế, nằm trong thị trường thế giới. Chúng ta không ý thức được rằng chúng ta cũng phụ thuộc vào thị trường chứng khoán thế giới, vào tình hình tài chính thế giới.
Hơn nữa, chính toàn cầu hoá kinh tế thế giới trước khi xảy ra khủng hoảng là một bóng ma nào đó, một hiện tượng trừu tượng đã giáng một đòn vào nước Nga, đánh vào các thành phố lớn nhỏ, các làng mạc suốt cả năm 1998.
Ngay từ khi mới bắt tay vào công việc, Chính phủ Kirienko đã soạn thảo chương trình chống khủng hoảng. Dưới sự lãnh đạo của Sergei Vladilenovich cuối cùng thì cũng đưa ra được những luật kinh tế, xây dựng một chương trình kinh tế vĩ mô (những chương trình của Chính phủ Kirienko đều được các Chính phủ tiếp theo áp dụng cho đến bây giờ). Nhưng tại hoạ ở chỗ: sau những chương trình tương lai dài hạn đó, những nhà kinh tế trẻ đã bỏ qua tai hoạ đang diễn ra! Họ đặt nền móng cho ngôi nhà, nhưng lại quên mất mái nhà! Đúng là một hiện tượng nghịch lý: Một Chính phủ thông minh nhất về mặt kinh tế như Chính phủ Nga lại thông qua một quyết định không thông minh nhất, sai lầm nhất: Chính phủ này đã tuyên bố sẽ không thanh toán các khoản nợ trong nước.
Nhưng nếu ta để ý, thì ở đây không thấy có điều gì nghịch lý.
Vẻ bên ngoài thì thấy rất đơn giản. Những nhà đầu tư phương Tây tuy không vội vã, nhưng rút dần vốn đầu tư ra khỏi thị trường nước Nga “có vấn đề” này. Thu nhập trên thị trường trái phiếu ngắn hạn quốc gia tăng lên. Ngay từ đầu năm 1998 các chuyên gia đã nhận xét rằng thị trường trái phiếu của Nhà nước đã không hoạt động cho Nhà nước, mà cho bản thân nó. Không phải Chính phủ sử dụng thị trường này để bổ sung cho Ngân sách Nhà nước, mà chính những người tham gia thị trường này đã lợi dụng, rút các nguồn dự trữ tài chính. Ngân hàng Trung ương lúc đó chiếm ba mươi lăm phần trăm thị trường trái phiếu ngắn hạn quốc gia đã mua tất cả số trái phiếu mới, còn Chính phủ lấy số tiền có được thanh toán cho số trái phiếu ngắn hạn quốc gia cũ. Sau khi có được tiền mặt, những người nắm trái phiếu (chủ yếu là các ngân hàng kinh doanh) mang ra thị trường ngoại tệ mua đô la. Như vậy là họ tạo áp lực đối với tỷ giá đồng rúp. Để giữ tỷ giá đồng rúp (xin nhắc lại là “hành lang” tỷ giá này được ấn định trong thời gian khá lâu giữa đồng rúp và đồng đô la), Ngân hàng trung ương đã phải xuất dự trữ vàng ngoại tệ của mình. Chỉ tính riêng tháng giêng năm 1998, Ngân hàng Trung ương đã xuất ra gần ba tỷ đô la. Chỉ có như vậy mới duy trì được “hành lang” tỷ giá. Cơ chế cỗ máy khủng hoảng năm 1998 diễn ra như thế đó. Nó chỉ dừng lại khi không còn nhiên liệu: tức là Nhà nước không còn tiền rúp để thanh toán trái phiếu cũ, còn Ngân hàng trung ương không ngoại tệ để duy trì tỷ giá ngoại tệ.
Ngay từ cuối năm 1997, khi phát biểu tại cuộc họp của Chính phủ, tôi đã nhấn mạnh: “Các anh đều giải thích do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới. Tất nhiên cơn chấn động tài chính không bỏ qua nước Nga. Nó không xuất phát từ Matxcơva. Nhưng lại có một nguyên nhân khác - ngân sách Nhà nước đang trong tình trạng trôi nổi. Ta hãy “tiên trách kỷ hậu trách nhân”.
Đúng, thực tế tình hình khó khăn của thị trường tài chính và còn tình hình khác nữa thật kinh khủng - thu thuế để bổ sung cho Ngân sách Nhà nước. Cả tháng giêng năm 1998, Ngân sách Nhà nước mới được thu được gần sáu tỷ rúp từ thu thuế, tức là ít hơn hai lần so với chỉ tiêu ngân sách. Bất cứ một khoản tín dụng quốc tế nào, bất cứ một khoản thu nhập nào cũng đều nhanh chóng tan biến trong cái lỗ hổng ngân sách. Tất cả chỉ để thanh toán tiền lương cũng không đủ.
Thu nhập trên thị trường trái phiếu ngắn hạn trong tháng 2 không quá dưới bốn mươi phần trăm. Nhưng trong ngân sách chỉ đạt con số hai mươi phần trăm. Như vậy lỗ hổng trong ngân sách theo số liệu chính thức là năm mươi tỷ rúp, nhưng trên thực tế lên đến chín mươi tỷ.
Áp lực đối với thị trường tài chính tiếp tục diễn ra. Các tổ chức tài chính quốc tế tuyên bố sẽ xem xét lại uy tín tài chính của Nga theo hướng giảm đi. Những nhà đầu tư nước ngoài và chủ ngân hàng nội địa tỏ ra thận trọng, không tin vào thị trường trái phiếu của Nga nữa.
Cuối tháng 5 lại diễn ra một làn sóng khủng hoảng tài chính nữa. Giá dầu lửa trên thị trường thế giới tiếp tục giảm. Những cuộc bán đấu giá bị phá vỡ. Những thiệt hại gây ra cả đối với ngành đường sắt, một số lượng lớn tiền phải chi cho trả lương để dập tắt các cuộc đình công của thợ mỏ.
Vào đúng thời điểm đó thị trường tài chính của Indonesia bùng lên. Đối với những nhà đầu tư mua trái phiếu của chúng ta là một tin xấu.
Không thể để kéo dài như vậy được. Bởi vì chỉ tính riêng những nhà đầu tư nước ngoài đã chiếm trái phiếu quốc gia giá trị lên đến hai mươi tỷ đô la. Nếu như những nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút khỏi Nga, bán trái phiếu của mình, thì đồng rúp mất giá hoàn toàn. Ngân hàng Trung ương dường như phải ngay lập tức bỏ thị trường trái phiếu ngắn hạn quốc gia này. Nhưng theo quán tính Ngân hàng Trung ương vẫn cố duy trì, hy vọng vào Chính phủ.
Ngay từ đầu năm 1998, tôi đã nói rằng mặc dù chúng ta đã qua khỏi giai đoạn một của cuộc khủng hoảng tài chính, nhưng điều hoàn toàn rõ là hệ thống phòng ngừa những cơn đột biến của chúng ta đã quá lạc hậu và không có khả năng.
Chính phủ Kirienko vừa mới thiết lập được quan hệ với Ngân hàng Trung ương, vừa mới học được cách chỉ huy cơ chế này. Thế mà đã quá sợ phá giá đồng rúp?
Biện pháp duy nhất có thể cứu vãn chúng ta (thả nổi trước khi diễn ra khủng hoảng) mùa hè năm 1998 đã bị Kirienko, Dubynin và những người khác bác bỏ một cách xốc nổi. Tại sao vậy?
Nguyên nhân chủ yếu: Khi mới triển khai hoạt động của mình, Chính phủ Kirienko đã rất sợ phá giá đồng rúp vì lo ngại về mặt tâm lý và chính trị. Những chủ ngân hàng lớn, Duma và những thống đốc, những nhà công nghiệp và công đoàn - đó là những nhân vật trên sân khấu tài chính và chính trị - không chấp nhận những người mới, một Chính phủ kỹ trị của “các nhà kinh tế trẻ”. Duma phong toả các dự án luật, công đoàn tổ chức những cuộc đình công lớn của những thợ mỏ như một cuộc chiến tranh thợ mỏ, phong toả các tuyến đường vận chuyển Siberi, các thống dốc thì đưa ra Hội đồng Liên bang những nghị quyết khắt khe và khó chịu. Trong bối cảnh chính trị như vậy, việc Chính phủ đưa ra quyết định phá giá đồng rúp là không thể chấp nhận được và là một hành động rất mạo hiểm...
Tôi hiểu được tâm trạng mà Kirienko lâm vào trong những ngày mùa hè năm 1998. Anh ta cố tỏ ra bình tình, ngoan ngoãn, cố cách ly với đội hình kinh tế tự do cũ của Chubais, Gaidar. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thì sách lược xử sự như vậy là hoàn toàn đúng đắn. Để khởi đầu, Thủ tướng cần vượt qua được những chướng ngại vật và quen với quyền lực. Nhưng mặt khác, Sergei Vladilenovich cũng nhận thức được rằng cuộc khủng hoảng tài chính khủng khiếp đang kéo màn đen bao phú đất nước. Kirienko cần phải được giới chủ ngân hàng lớn, giới thượng lưu tài chính ủng hộ. Nhưng đáng tiếc giới này quay lưng lại: họ chưa tin Thủ tướng mới.
Tôi thấy rõ bức tranh đó: khi ở nhà máy điện nguyên tử có sự cố thì lúc đó không còn cần đến tri thức hàn lâm, mà là cần đến người có nhiều kinh nghiệm công tác “bấm nút”. Nhưng Chính phủ này đã không tìm ra được biện pháp “bấm nút!”...
Đồng thời lại diễn ra một lúc mấy cuộc khủng hoảng nữa bao vây Chính phủ Kirienko.
Có thể bây giờ còn ít người nhớ đến “cuộc chiến tranh đường ray” nổi tiếng mùa hè năm 1998, nhưng Sergei và cả tôi nữa nhớ lại đợt sóng này của những người thợ mỏ đình công vẫn còn rùng mình.
Mùa hè năm 1998 một đợt chống đối gay gắt của thợ mỏ Kuzbas lại bùng lên chống Chính phủ. Mấy tháng liên họ không được nhận lương. Họ ra khỏi hầm lò, ban lãnh dạo khu mỏ lần nào cũng hứa sẽ thanh toán món nợ lương. Nhưng cuối cùng vẫn là đánh lừa họ. Khối thuốc bất bình tiếp diễn đến mùa hè khi chuẩn bị đến đến kỳ nghỉ, trẻ em nghỉ hè để lấy lại sức, nhưng túi tiền của các gia đình vẫn trống rỗng.
Cái nghịch lý chính là ở chỗ những hầm lò này đã từ lâu không còn thuộc khu vực kinh tế Nhà nước. Những xí nghiệp này đã được cổ phần hoá, đôi khi đã mấy lần thay đổi chủ sở hữu, nhưng thợ mỏ không muốn nói chuyện với các ông chủ mới hay những quan chức lãnh đạo địa phương vì họ không thể xoay chuyển được tình hình. Họ vẫn cho rằng người có lỗi chính gây nên sự đau khổ, tai hoạ của họ đang ở đâu đó rất xa, ở Matxcơva. Là các Bộ, là Chính phủ.
Trước đây cũng đã từng có các cuộc đình công của thợ mỏ. Cải cách trong ngành khai thác than diễn ra chật vật, cần phải có những nỗ lực lớn để đóng cửa những hầm mỏ không có triển vọng, làm ăn thua lỗ. Thông thường là không có ý chí chính trị, cũng không có tiền để cho những cuộc cải tạo như vậy. Than được thợ mỏ khai thác từ dưới hầm sâu không có lãi, nên người tiêu dùng không có đủ khả năng thanh toán những khoản tiền để cho hầm mỏ hoạt động bình thường.
Chính vì vậy, cứ đến gần thời điểm căng thẳng ở các khu vực khai thác than, Chính phủ trước đây đã quen ứng phó. Thường Thủ tướng Chính phủ đến mùa xuân triệu tập các tỉnh trưởng, lãnh đạo ngành khai thác than, những người lãnh đạo công đoàn ngành. Chính phủ cấp một khoản tín dụng cho thợ mỏ, ghi khoản nợ của họ và mỗi lần như vậy đều có thể làm dịu được tình hình căng thẳng. Nhưng lần này Kirienko vừa mới được bổ nhiệm và được Duma thông qua đã bỏ qua mối nguy hiểm đang đến gần.
Tình đoàn kết của thợ mỏ là có một không hai. Hết khu vực này lại tiếp đến khu vực kia. Chỉ cần vài ngày làn sóng bãi công của thợ mỏ đã bao trùm khắp các khu vực khai thác than của đất nước.
Thế còn chưa hết. Những thợ mỏ đình công còn phong toả các tuyến đường sắt. Sự chống đối đã nâng lên một mức khác cao hơn.
Các chuyến tàu không chạy được. Liên lạc giữa các vùng bị cắt đứt. Các xí nghiệp bị thiệt hại nặng, do không có nguyên vật liệu Mọi người không thể đi nghỉ được. Hàng hoá không đến được người tiêu dùng. Làn sóng bất bình trong xã hội tăng lên. Một đất nước rộng lớn như nước ta mà đường sắt không hoạt động thì chẳng khác nào bị mất điện. Điều đó giống như một hành động tội phạm. Đã có những tiếng nói cất lên đòi hỏi bắt giam, bỏ tù, cho các đơn vị đặc nhiệm đến giải tán. Nhưng tôi không muốn tạo ra một vụ bê bối không hay điều tra hình sự đối với những người đang bế tắc cùng đường dẫn đến xung đột với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong tình huống tai hoạ đó, Chính phủ đã bắt đầu đàm phán với những thợ mỏ.
Cần phải nói rằng những người lãnh đạo thợ mỏ đã đánh giá tình hình rất nhanh. Họ hiểu rằng trong điều kiện cuộc khủng hoảng đang diễn ra hành động của họ có thể gây ra tiếng vang chính trị lớn giống như họ đã từng kêu gọi ủng hộ tôi năm 1990. Lúc đó họ đưa ra khẩu hiệu: Gorbachov hãy từ chức, đưa Yeltsin lên làm Tổng thống! Mười năm trước những thợ mỏ đã hy vọng rất nhiều vào sở hữu tư nhân, rằng chỉ có như vậy thì các hầm mỏ mới có thể được hiện đại hoá và thậm chí có thể thu được lợi nhuận. Tôi đã hứa với họ hỗ trợ cho những cuộc cải cách này.
Nhưng ở đây chúng ta đã không tính đến một yếu tố, ngành khai thác than đã quá lạc hậu, ít lợi nhuận và nếu hy vọng vào một điều kỳ diệu kinh tế nào đó thì thật ấu trĩ... Sự chống đối của thợ mỏ cứ thế tiếp diễn suốt những năm này.
Nhưng năm 1998 thợ mỏ không chỉ sử dụng những khẩu hiệu kinh tế quen thuộc - thanh toán những khoản nợ lương v.v... Lần đầu tiên trong suốt bao năm với một trật tự, thống nhất, họ đưa ra một chương trình chính trị quy mô lớn. Đả đảo Chính phủ! Yeltsin từ chức!
Cuộc đối đầu khó khăn đó tiếp diễn suốt ba tháng. Những cuộc phong toả của thợ mỏ còn diễn ra ở Matxcơva, ngay ở Nhà Chính phủ Nga, trên cầu Gorbatưi, họ gõ mũ, tuyên bố tuyệt thực, thu hút các phóng viên. Dần dần những cuộc bãi công của thợ mỏ trở thành một lý do cung cấp thông tin mạnh mẽ để tấn công Chính phủ: những nghị sĩ và ca sĩ cũng đến cầu Gorbatưi tham gia với họ, những đại diện của các chính đảng và phong trào chính trị gặp gỡ họ. Xì-căng-đan sắp bùng nổ!
Cũng phải nói rằng những người Matxcơva phản ứng với cuộc phong toả của thợ mỏ theo những cách khác nhau. Những ca sĩ nhạc nhẹ và những chính khách lợi dụng việc đến cầu Gorbatưi để quảng cáo cho chính mình. Những phụ nữ đứng tuổi Matxcơva thì cho họ ăn uống, mời họ về nhà chơi. Quang cảnh xung quanh những thợ mỏ bãi công bình thản đến mức dường như không ai muốn ủng hộ sự phản đối của họ. Nhưng đứng đằng sau những thợ mỏ ngồi rồi trên cầu Gorbatưi đang có một lực lượng hết sức hùng hậu: những khu vực mỏ bất mãn đã bắt đầu một “cuộc chiến tranh đường ray” với Chính phủ.
Phó thủ tướng Oleg Sysuev phụ trách các vấn đề xã hội đã chạy đôn đáo hết khu mỏ này đến khu mỏ khác, hầu như không kịp liếc nhìn những thoả thuận mà tay mình ký, miễn là thoả thuận được. Một trong những tài liệu mà anh ta ký tôi thật thú vị khi phát hiện có điểm nói rằng Chính phủ nhất trí với việc để Yeltsin từ chức.
Tất nhiên về mặt pháp lý thì văn bản này vô nghĩa, nhưng tôi đã đề nghị lưu giữ văn bản đó như một giá trị lịch sử. Song, đồng thời có một điều hoàn toàn rõ: Chính phủ đang trong tình trạng không thể hoạt động được.
Những hành động chống đối của thợ mỏ kích thích các nhà hoạt động chính trị trẻ cho thấy một điều là sau khi Kirienko và Nemtsov từ chức ngay lập tức họ đến gặp các thợ mỏ và hân hoan cùng uống vốt-ca với họ, kỷ niệm việc ra đi của họ. Một điều rõ nữa là giờ đây khi cuộc nổi dậy của thợ mỏ đã dần dần lắng dịu, sau khi trở thành mục tiêu tấn công của thợ mỏ, thì Thủ tướng đã chiến thắng không phải không có sự tham gia trực tiếp của họ. Sự thật thì điều đó không hề giải quyết được các vấn đề, không đem lại sự bình yên ở các khu vực mỏ.
Nhưng, những chuyến tàu ở Siberi dù sao cũng đã chạy được.
Trong khi đó tình hình trên thị trường tài chính đã có cải thiện. Cực chẳng đã, Bộ Tài chính phải đình chỉ việc phát hành trái phiếu mới và bắt đầu thanh toán những trái phiếu cũ từ ngân sách thu nhập hàng ngày, tức là lấy từ các khoản của người hưu trí, bác sĩ, giáo viên. Thế là ngay lập tức các khoản nợ đối với những người hưởng lương ngân sách tăng lên khủng khiếp. Nhưng không có lối thoát nào hết. Ngân hàng Trung ương và Chính phủ buộc phải áp dụng những biện pháp cứng rắn. Boris Fedorov được bổ nhiệm lên làm lãnh đạo Cơ quan thuế Nhà nước, sau khi hứa rằng sẽ giải quyết dứt điểm được vấn đề nợ.
Trong lúc đó Kirienko đã tổ chức cuộc gặp các nhà kinh doanh hàng đầu của Nga tại khu nhà nghỉ của Chính phủ “Volynski”, gần nhà nghỉ của Stalin cũ, không cho giới báo chí biết. Kirienko buộc phải gần như từ bỏ chủ trương của mình: không quan hệ với giới đầu sỏ tài phiệt, không để phụ thuộc vào họ.
Kirienko nói thẳng rằng anh ta cần sự hỗ trợ của họ. Anh ta không còn tiềm năng chính trị để thay đổi tình hình. Tại cuộc gặp này đã quyết định thành lập kiểu Hội đồng kinh tế trực thuộc Chính phủ bao gồm tất cả các đại diện của những ngân hàng và công ty lớn. Những nhà doanh nghiệp đã đánh giá Chính phủ khá sâu sắc: Chính phủ quá yếu. Chính phủ này không thể trông chờ vào sự giúp đỡ của phương Tây. Ai ở trên thế giới này lại muốn nói chuyện với một Phó thủ tướng ít tiếng tăm Khrischenko, với những thành viên trẻ tuổi của Chính phủ Kirienko? Đã có ý kiến tạm thời điều động Chubais sang để giúp Chính phủ. Những người tham gia cuộc gặp ở “Volynski” được bắt đầu từ bốn giờ chiều, đến tám giờ thì thoả thuận được về việc đưa Chubais sang Chính phủ, còn đến chín giờ tối, thì sắc lệnh đã được nằm trên bàn làm việc của tôi. Điều đó cho thấy tình thế đang trong tình huống nước sôi lửa bỏng.
Chubais mới bị cách chức khỏi Chính phủ lại được triệu hồi trở lại. Ngay tối hôm đó, tôi đã ký sắc lệnh này.
Chubais được bổ nhiệm làm đặc phái viên của Chính phủ Nga trong các cuộc hội đàm với các tổ chức tài chính quốc tế với chức Phó thủ tướng. Đây còn là một thoả hiệp nữa của Kirienko, bởi vì ngay từ đầu anh ta chỉ muốn dựa vào đội hình kinh tế trẻ, không muốn tiếp xúc với trường phái kinh tế của Gaidar.
Trong các cuộc hội đàm, Chubais nhanh chóng đạt được khoản vay tín dụng lớn của IMF (sáu trong số mười tỷ đã hứa được cấp ngay trong tháng 7). Lúc đầu thu nhập của trái phiếu tín dụng Nhà nước ngắn hạn đã giảm đột ngột. Nhưng tính hình vẫn còn đang đe doạ nguy hiểm, bất cứ một thông qua quyết định nào chậm trễ về thời gian, bất cứ một sự thiếu phối hợp đồng bộ nào đều có thể dẫn đến thị trường của chúng ta tan rã hoàn toàn. Nếu như nhận được tín dụng trước hai tháng... Nếu như Ngân hàng Trung ương chuyển sang cho đồng rúp “trôi nổi”... Nếu như các tổ chức quốc tế không tuyên bố tình trạng tài chính của chúng ta giảm sút... Bây giờ đưa ra những giả định như vậy thì quá dễ dàng. Còn lúc đó thì sao?
Than ôi, nếu như phát hiện được như thế thì tình hình đã muộn rồi. Thị trường sẽ không con tin tưởng ở những hành động mâu thuẫn của ngân hàng Trung ương và Chính phủ.
Khoản tín dụng chỉ trong vòng có mấy tuần đã tan biến: Các ngân hàng đã nhanh chóng mua đô la với tốc độ chưa từng có, đến nỗi muốn giữ được tỷ giá đồng rúp bắt buộc phải can thiệp thô bạo vào thị trường chứng khoán. Ngân hàng Trung ương vừa tung đô la ra, thì ngay lập tức đã tan biến hết cả. Tất cả những người tham gia thị trường đều tung trái phiếu ra. Toàn bộ sự kiện này ai cũng đã biết. Nhưng tôi muốn nêu ra một lần nữa để muốn hiểu một điều: Tôi đã mắc sai lầm khi nào và ở đâu?
Có lẽ sai lầm của tôi là ở chủ trương hồi tháng 5 tháng 6: “Không cản trở và không can thiệp”. Tôi đã quen tin tưởng những người cùng làm việc với tôi. Nhưng cả Dubynin, Thống đốc Ngân hàng Trung ương, cả Kirienko đều không kiểm soát được tình hình.
Điều đó đối với dân thường, khủng hoảng tiền tệ cũng giống như tuyết rơi giữa mùa hè nóng bỏng, còn những nhà tài chính thì hiểu rõ đám cháy đang bùng lên ở thị trường tài chính của Tokyo như thế nào, đồng nội tệ của các nước Đông Nam Á bị mất giá, lao đao ra sao và những người Hồng Công nhảy qua cửa sổ những nhà cao tầng chọc trời như thế nào. Cuộc hoảng loạn tài chính đã lây lan ra khắp thị trường chứng khoán trên khắp thế giới từ lâu.
Một Chính phủ đã mất thế chủ động hành động trong bối cảnh náo loạn tìm kiếm những phương án giải quyết. Chính phủ đó cứ chạy theo sau tình hình, còn tình hình thì cứ tiến triển về phía trước nhanh hơn và xa hơn. Kirienko đã sẵn sàng trao đổi với tất cả, lắng nghe ý kiến của mọi người, tìm lối thoát vào thời điểm hoảng loạn tài chính đã lan đến tất cả các ngân hàng. Hệ thần kinh có vẻ kiên định của anh ta căng thẳng đã lên cao độ.
Nhưng điều kỳ diệu đã chẳng diễn ra.
Ngày 18 tháng 8. Ngân hàng trung ương Nga quyết định giảm bớt khối lượng bán ngoại tệ cho các ngân hàng Nga.
Ngày 13 tháng 8. Diễn ra cuộc trao đổi ý kiến qua điện thoại của các Thứ trưởng Tài chính các nước G-7. Họ thảo luận vấn đề về khả năng phá giá đồng rúp.
Ngày 13 - 15 tháng 8. Thế giới tài chính phản ứng về việc thị trường quỹ tiền tệ của Nga sụp đổ. Ngày 17 tháng 8. Chính phủ tuyên bố về việc không áp dụng “hành lang tiền tệ” và đình chỉ việc thanh toán các khoản nợ trong nước.
Ngày 21 tháng 8,. Duma Quốc gia thông qua Nghị quyết kêu gọi Tổng thống từ chức. Có 248 nghị sĩ biểu quyết tán thành. Đây là bình luận của Seleznev: “Mọi sự phá sản đều được bắt đầu từ Tổng thống, nên ông ta cần tự nguyện từ chức”.
Đầu tháng 8, Chubais, Gaidar, Khrischenco, Dubynin, Arsenenko bơ phờ, hai tuần liền không ra khỏi buồng làm việc của Thủ tướng để chuẩn bị “phương án cuối cùng và có tính quyết định” cho những hành động chống khủng hoảng, một kế hoạch khẩn cấp.
Ngày 16 tháng 8, Chubais, Kirienko và Yumasev đến Zavidovo gặp tôi.
Chubais và Kirienko giải thích rằng tình hình nước sôi lửa bỏng, cần phải cứu vãn. Ngay lập tức phải phá giá đồng rúp, tạm thời chưa thanh toán trái phiếu Nhà nước ngắn hạn - đó là những biện pháp hàng đầu. Kirienko định giải thích chi tiết, nhưng tôi ngăn lại. Dù không có chi tiết, tôi cũng đã hiểu là Chính phủ và tất cả chúng ta đều là con tin của tình hình. Không còn con đường lựa chọn nào khác: Chính phủ phải làm tất cả. Tôi không muốn lo lắng của tôi truyền sang họ. Biết đâu có thể bằng nỗ lực tuyệt vọng nào đó lại cứu vãn được tình hình, lại giữ được tỷ giá đồng rúp ở mức chấp nhận được.
- Các anh hãy hành động di - Tôi ra lệnh - Hãy áp dụng ngay những biện pháp khẩn cấp.
Nhưng hoá ra những quyết định ngày 17 tháng 8 sau này mới biết là những tính toán kinh tế sai lầm. Các nhà lịch sử kinh tế không thể tìm thấy được một tiền lệ nào trong quyết định của Chính phủ Nga: không thanh toán những khoản nợ trong nước. “Đội hình những người theo chủ nghị vị tiền tệ” của Nhà Trắng đã quá sợ lạm phát không kiểm soát nổi, đến mức sợ tăng công xuất máy in trái phiếu khi thị trường trái phiếu ngắn hạn đòi hỏi. Nhưng biện pháp trì hoãn thanh toán nợ đối với những người mua trái phiếu trong nước, cũng như những người mua trái phiếu nước ngoài nó còn là cú giáng mạnh hơn, ghê gớm hơn là tốc độ hoạt động của các máy in trái phiếu. Việc chính thức hạ tỷ giá không thể cứu vãn được tình hình.
Những người mua cổ phiếu đổ xô vào các Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng Trung ương để vay lại dụng, nhưng Ngân hàng Trung ương lại đóng cửa... Quan sát cuộc khủng hoảng toàn cầu, chúng ta lại không nhận thấy ở chính mình còn dang trong khủng hoảng ghê gớm hơn - tỷ giá đồng rúp hạ thấp đến hai lần, sau đó xuống ba lần.
Sau ngày 17 tháng 8, tôi quyết định cách chức Dubynin. Tôi cho rằng việc làm này là rất tự nhiên, nếu một khi người đứng đầu Ngân hàng của đất nước để cho tỷ giá đồng nội tệ bị sụp đổ, thì phải bị cách chức
Theo yêu cầu của tôi, Chánh Văn phòng Tổng thống Valentin Yumasev đã mời Dubynin đến Kremli. Tôi đề nghị anh ta viết đơn xin từ chức.
Cũng trong ngày hôm đó tất cả những thành viên tham gia cuộc họp ở “Volynski” lại cấp tốc gặp nhau. Đó là những chủ ngân hàng lớn. Thông qua Yumasev họ chuyển yêu cầu đến tôi: không nên cách chức Thống đốc Ngân hàng Trung ương Dubynin. Bởi chính hiện nay Ngân hàng Trung ương đang áp dụng những biện pháp để cứu vãn những những ngân hàng lớn nhất của Nhà nước khỏi bị phá sản, chính anh ta là người đang kiềm chế sự. sụt giá của đồng rúp. Để không gây ra hoảng loạn trên thị trường tài chính, cần phải để Dubynin lại.
Sau khi suy nghĩ, tôi đã huỷ bỏ quyết định của mình. Nếu như tất cả các ngân hàng lớn đều đóng cửa trong một lúc, khủng hoảng sẽ lan ra đường phố và không còn có cách gì để cứu vãn được tình hình.
Có điều rất lạ không một ai đề nghị tôi bảo vệ Chính phủ. Vào đúng những ngày đó cố vấn kinh tế của tôi, Alexandr Livshis đề nghị xin từ chức. Đó là người duy nhất tự xin từ chức. Mặc dù anh ta chính là người có lỗi ít nhất trong cuộc khủng hoảng này. Những tháng gần đây anh thường xuyên viết những báo cáo về tình hình kinh tế ảm đạm gửi cho Tổng thống.
Trong đơn xin từ chức Alexandr Yacolevich đề nghị tôi thứ lôi cho việc anh không giữ được cho đất nước khỏi rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Ngày 21 tháng 8, Valentin Yumasev và Sergei Kirienko gặp nhau. Valentin kể lại rằng anh ta đi đón Kirienko ngoài sân bay, sau một chuyến đi theo kế hoạch nào đó của Kirienko. Họ ngồi trong gian Chính phủ trống vắng. Một cuộc nói chuyện khó khăn và khá lâu. Sergei Kirienko thổ lộ: “Tự tôi thấy, tôi đã giục giã Tổng thống. Mỗi hành động của chúng tôi lại làm cho ông đau lòng. Tôi đã làm tất cả những gì có thể làm được. Nhưng, đáng tiếc là chúng tôi đã không kiểm soát, giữ vững được tình hình”.
“Hành lang tiền tệ” bị phá vỡ chỉ trong hai ngày, các ngân hàng chỉ nghĩ đến tự cứu lấy mình... Chính những ngày này khủng hoảng liên quan trực tiếp đến những người gửi tiền. Họ hiểu rằng cần phải cứu lấy tiền của họ. Đoàn người xếp hàng trước các ngân hàng và quỹ tiết kiệm ngày càng dài ra, đông hơn, họ muốn rút tiền của mình ra! Thôi, thế là hết! Đã diễn ra một cuộc hoảng loạn kinh khủng nhất đối với đất nước.
Khi Chính phủ đã quyết định được quan hệ với Ngân hàng Trung ương, thì điều đó không ai biết ngoài những chuyên gia, những nhà điều khiển thị trường chứng khoán và chủ nhà băng. Và thế là cuộc khủng hoảng lan ra đường phố. Lây lan đến từng người.
Nói thật lòng: thật là kinh khủng khi quan sát đất nước, khi tai hoạ tài chính chỉ còn một hay hai ngày nữa. Mọi người theo thói quen đi nghỉ những ngày hè, tắm nắng, xem bóng đá, ra nhà nghỉ ngoại ô. Trong khi đó bóng đen khủng hoảng đang treo trên đầu mỗi gia đình. Bởi vì tiền lương mọi người đều nhận ở ngân hàng. Quỹ tiết kiệm cũng để trong ngân hàng. Những xí nghiệp, nơi họ làm việc không thể hoạt động được nếu thiếu tín dụng của ngân hàng.
Đó là những bài học nặng nề của khủng hoảng...
Chúng ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới như những chú học trò. Còn “giáo viên” thì kiên quyết trừng phạt chúng ta vì những điểm kém hai, ba. Hàng triệu người Nga lần đầu tiên đứng trước một thực tiễn khắc nghiệt này.
Chắc chắn, những cải thiện sau này và ổn định trong tương lai không thể bù đắp cho mất mát về tâm lý: giá cả hàng tiêu dùng hồi mùa thu lên đến chóng mặt, cắt giảm biên chế và mất việc làm, nợ lương cả ở những xí nghiệp có tiếng tăm, khủng hoảng thanh toán.
Suốt cả tuần sau ngày 17 tháng 8, tôi cứ cố hiểu: Tại sao Kirienko lại rơi vào tình trạng không được ai ủng hộ? Tại sao giới thượng lưu tài chính và chính trị lại quay mặt đi với anh ta? Sergei Vladilenovich đã cảm thấy điều đó ngay từ đầu mùa hè và đã tích cực vận động, trao đổi với Yuri Masliukov, Evgeni Primakov, muốn thuyết phục họ lên giữ chức Phó thủ tướng để cho Chính phủ có sức nặng, ổn định hơn. Nhưng vẫn không đủ thời gian. Nói chung, tôi tin chắc rằng nếu như Chính phủ của Kirienko có khoảng thời gian dự trữ độ nửa năm nữa chắc chắn ở Nga mọi việc đã chuyển theo một hướng khác. Nhưng khủng hoảng đã làm thay đổi toàn bộ kế hoạch của họ thật khắc nghiệt và mau lẹ
Chính trong những ngày nặng nề đó đối với đất nước tiềm năng của Chính phủ sẽ được kiểm nghiệm, tức là độ bền vững, độ tin cậy, khả năng kiên quyết và sáng tạo của Chính phu. Chính trong thời điểm đó, thời điểm khủng hoảng nếu không có một nhận vật chính trị cứng rắn điều chỉnh toàn bộ tai hoạ này, thì không thể làm được gì cả. Đất nước của chúng ta như thế đó.
Ngày 23 tháng 8, Chủ nhật. Tôi mời Kirienko đến gặp.
Thật là kỳ cục cả hai chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhõm.
Kirienko cám ơn tôi đã tạo điều kiện cho anh ta làm việc, làm được điều gì đó... Anh im lặng, không tìm được câu gì để nói nữa. Có cảm giác như Sergei Vladilenovich đã trút được gánh nặng khỏi đôi vai.
Cảm giác dễ chịu ở tôi lại kỳ cục, mang tính hai mặt. Một mặt, tôi rất tiếc cho việc những con người mà tôi đã từng đặt bao hy vọng phải ra di. Mặt khác, cũng bây giờ tôi mới phát hiện ra tôi đã mất bao công sức, căng thẳng về mặt tâm lý và thể lực để bao che cho họ trong những tháng gần đây để tránh búa rìu của dư luận. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo, tôi đã từng tuyên bố. “Không hề có lạm phát nào hết?”. Nhớ lại chuyện này thật nặng nề biết bao. Tôi đã từng tin là có thể giữ cho đất nước khỏi lâm vào khủng hoảng, tôi từng tin vì tôi thấy đội hình trẻ này hoạt động như thế nào, năng động ra sao. Chúng ta đã không để cho đất nước trong tháng 5 và tháng 6 rơi vào hoảng loạn và đồng rúp đã đứng vững. Tôi vẫn nghĩ là lần này cũng có thể giữ vững được tình hình. Nhưng đáng tiếc, chúng ta đã không giữ vững được!
Ngày 21 tháng 8, tôi quyết định tham dự cuộc tập trận của hải quân của Hạm đội biển Bắc. Tôi đứng trên chiếc tàu sân bay nguyên tử mang tên “Pietr Đại dế”. Tôi không muốn huỷ bỏ, thay đổi kế hoạch hay trì hoãn để không tạo cho mọi người ấn tượng hoảng loạn không cần thiết, nhất là lại lần đến mũi đất này. Ngoài ra, cần phải thể hiện sức mạnh của quốc gia, mà quốc gia đó cẫn phải trở nên hùng mạnh kể cả trong những ngày đen tối này. Những chiếc tàu khổng lồ, biển, những chiếc máy bay lượn sàn sạt trên mặt biển - tất cả những thứ đó đã làm cho lòng tôi dịu đi, yên tâm hơn.
Tôi nhớ, những chiếc tàu chiến đã làm cho tôi ngưỡng mộ. Đó là những chiếc tàu màu xám, lạnh lùng, bắn không thủng. Trong tôi bất giác suy nghĩ: tất cả nỗ lực của chúng ta được tập trung vào những vỏ tàu khô khan, không xuyên thủng này. Vỏ tàu - đó là nền kinh tế của chúng ta với những mối quan hệ đặc biệt, với một khu vực riêng biệt, với những quy định và luật lệ riêng.
Những vỏ tàu bằng thép đó đã đáp ứng những kỳ vọng, ý tưởng của chúng ta. Có cảm tưởng rằng thật khó có thể xuyên thủng nó. Nếu ai không tin cứ thử xem, có được không? Nhưng dù sao nhân dàn ta còn hiểu hơn chúng ta nghĩ. Không ai đổ toàn bộ tội lỗi lên đầu Kirienko vì tình hình khủng hoảng. Không có những cơn tức giận đối với Kirienko. Kể cả từ phía những nhà kinh doanh thiệt hại nhất. Những con người tỉnh táo bao giờ cũng hiểu: khi sóng thần xảy ra, khó có thể tránh được thiệt hại.
Ngày 24 tháng 8, Thứ hai. Ngay từ sáng sớm, tôi đã đến Kremli để chuẩn bị cho bài phát biểu trên truyền hình.
Nội dung bài phát biểu như sau:
“Thưa các công dân Nga! Ngày hôm qua tôi đã có một quyết định không đơn giản. Tôi đã đề nghị Victor Stepanovich Chernomưrdin đứng đầu Chính phủ.
Năm tháng trước đây, không ai nghĩ rằng cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lại tấn công mạnh mẽ nước Nga như vậy Tình hình kinh tế nước ta diễn ra quá phức tạp.
Trong bối cảnh đó, điều quan trọng hàng đầu là không cho phép chúng ta thụt lùi. Phải bảo đảm ổn định. Ngày hôm nay cần đến những người mà thường được mệnh danh là “nặng ký”. Tôi cho rằng cần phải có những người có kinh nghiệm và “nặng ký” như Chernomưrdin.
Đề nghị này còn có một ý nghĩa chính trị quan trọng khác: bảo đảm cho tính thừa kế chính quyền vào năm 2000. ưu điểm chủ yếu của Chernomưrdin là con người mực thước, chân thành, đứng đắn.
Tôi cho rằng những phẩm chất đó thật xứng đáng là lý lẽ quyết định trong cuộc bầu cử Tổng thống. Cả quyền lực và mất quyền lực đều không làm hỏng những phẩm chất đó của ông. Tôi thật sự biết ơn Sergei Vladilenovich Kirienko vì anh đã dũng cảm cố gắng làm thay đổi tình hình.
Hôm nay Duma Quốc gia sẽ thảo luận về ứng cử viên Chernomưrdin.
Tôi đề nghị các nghị sĩ, những người lãnh đạo các địa phương, toàn thể nhân dân Nga hiểu tôi và ủng hộ quyết định của tôi.
Tình hình hiện tại không cho phép có thời gian để thảo luận lâu dài. Bởi vì điều chủ yếu đối với tất cả chúng ta là vận mệnh của nước Nga, ổn định và những điều kiện sống bình thường của nhân dân Nga”.
Sau tuyên bố đó, tôi có cuộc gặp ngắn với ba bộ trưởng vũ lực - Putin, Stepasin và Sergeev. Tôi cảnh báo rằng tình hình trong nước rất nghiêm trọng. Rồi tôi trở về Gorki. Tôi ký hai sắc lệnh bổ nhiệm Stepasin và Sergeev làm quyền lãnh đạo cơ quan của mình trong nội các mới. Còn Putin với tư cách Giám đốc Cơ quan an ninh Liên bang thì không cần phải có sắc lệnh, bởi vì theo quy chế quyền hạn của chức vụ này không đòi hỏi như vậy. Đối với Putin, mọi việc vẫn như cũ.
Còn bây giờ vấn đề quan trọng nhất là làm sao thuyết phục được Duma Quốc gia bỏ phiếu ủng hộ Chernomưrdin làm Thủ tướng mới. Theo Hiến pháp, Tổng thống chỉ có quyền ba lần đề xuất ứng cử viên mới.
Suốt cả tuần tình hình diễn ra căng thẳng trong chờ đợi.
Ngày 18 tháng 8, Chernomưrdin trước đó bỏ cả nghỉ mát, vội vã trở về Matxcơva. Những cuộc tư vấn chính trị liên tục diễn ra. Ngày 19 tháng 8, Chernomưrdin gặp Alexandr Lebed và Genadi Seleznev. Ngày 20 tháng 8 gặp Genadi Ziuganov và Nicolai Ryzkov. Chernomưrdin hứa trong Chính phủ mới sẽ không có bất cứ “Chubais, Gaidar và Nemtsov nào hết”.
Trong hoàn cảnh tình hình tài chính đảo lộn, tất cả các giới chính trị (kể cả những người cộng sản) đều muốn nhanh chóng tìm kiếm một chỗ dựa, chìa khoá cho ổn định. Không ai muốn làm cho tình hình khủng hoảng trầm trọng hơn dẫn đến làm sụp đổ Nhà nước. Tôi nắm được các cuộc hội đàm của Chernomưrdin, nhưng tôi không muốn can thiệp, mà tôi tạm giữ lập trường trung gian, bình thản.
Báo chí bắt đầu một chiến dịch vận động tích cực: Chernomưrdin - ứng cử viên thực sự duy nhất có thể được cả những người cộng sản đến những nhà kinh doanh ủng hộ.
Trong số tất cả những ai có thể lên giữ chiếc ghế Thủ tướng, thì Chernomưrdin là người duy nhất lao vào trận chiến đấu và trong một thời gian ngắn ngủi tính từng ngày đã đạt được thoả thuận sơ bộ với tất cả các phe phái.
Ngày 22 tháng 8, thứ bảy, Valentin Yumasev xin phép tôi cùng với Igor Malashenko, Giám đốc kênh truyền hình NTV đến gặp tôi tại nhà nghỉ. Tôi hiểu rằng chắc hẳn là lại nói về Chernomưrdin và thầm đoán, không hiểu anh ta gọi Igor đến làm gì, khi mà tôi đã nhớ và quá biết Igor từ năm 1996 khi anh ta là thành viên của nhóm phân tích của chúng ta. Điều hoàn toàn rõ là Valentin muốn để tôi không chỉ nghe những lập luận của riêng anh ta.
Đó là một ngày nắng ấm, một ngày cuối hè của ngoại ô Matxcơva. Chúng tôi trao đổi với nhau, sau đó tôi mời họ ở lại dùng cơm trưa. Tôi quan sát họ - đó là những chàng trai trẻ mặc áo sơ mi mùa hè, đang ăn món súp. Một sự yên ắng lạ thường. Làn gió nhẹ thoang thoảng, trong cái nắng nhạt và những tiếng đung đưa của lá cây xào xạc, tôi suy ngẫm về vấn đề chính trị rắc rối. Không chỉ là vấn đề chính trị, mà còn là vấn đề con người của tôi!
Chernomưrdin trở lại Chính phủ có nghĩa là thừa nhận sự thất bại về tinh thần của tôi. Bởi vì mới đây thôi, năm tháng trước đây thôi, tôi đã cách chức ông. Song tôi vẫn cho rằng với tất cả phẩm chất không thể tranh cãi của Victor Stepanovich - đó hoàn toàn không phải là con người có thể đứng đầu Chính phủ Nga và bước vào cuộc bầu cử Tổng thống năm 2000 với tư cách là một ứng cử viên dân chủ hàng đầu.
Đồng thời với việc làm giảm bớt tác hại của cuộc khủng hoảng, chúng tôi cố gắng dưa ra một cơ cấu chính trị xây dựng. Chúng ta còn quá ít thời gian để suy nghĩ, để làm cho chiếc lò xo khủng hoảng giảm dần, nhẹ nhàng, đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn và kinh nghiệm. Đó chính là điều Victor Chernomưrdin có thể đáp ứng được.
Tôi hỏi Valentin, cuộc trao đổi với Kirienko diễn ra như thế nào. Yumasev thuật lại rằng họ ngồi ở nhà ga sân bay trống rỗng buồn tẻ. “Kirienko đề nghị ai đấy hả?” - Tôi hỏi. “Stroev” - Yumasev trả lời, lưỡng lự. Điều đó có nghĩa là Kirienko không thể vượt qua được sự ganh tị với Chernomưrdin.
Đề nghị của anh ta không hiện thực chút nào: Stroev, một người thuộc thế hệ cũ, đã từng là cựu Uỷ viên Bộ Chính trị, nếu làm Thủ tướng thì tôi không thể chấp nhận được.
- Còn anh suy nghĩ thế nào, Igor Evgenevich? - Tôi hỏi.
Malashenko với tác phong thường ngày, kiên quyết, dứt khoát, nói năng khúc triết, đưa ra lập luận của mình:
- Chernomưrdin năm tháng trước đây và Chemomyrdin hiện nay là hai con người khác nhau, thưa Boris Nicolaevich.
- Tại sao?
- Bởi vì tất cả đã thay đổi ông ta bắt buộc phải suy nghĩ lại trong suốt thời gian qua và hiểu điều đó. Một chính khách trở lại chính quyền sau lần bị cách chức, bao giờ cũng là một người khác hẳn. Ông ta sẽ có những kinh nghiệm tổng hợp. Giờ đây con người này hiểu rằng ông ta phải bảo vệ quan điểm của mình, không thể làm việc như trước được.
- Còn Luzkov thì sao?
- Không, không cần nói đến con người này - Malashenko trả lời dứt khoát.
Yumasev nói tiếp:
- Thưa Boris Nicolaevich, Chernomưrdin hứa rằng sẽ không biến Chính phủ thành những người chỉ biết lắng nghe, ngoan ngoãn, nhưng lại là những người thực thi công vụ yếu kém. Sẽ thành lập một đội hình gồm những nhà kinh tế trẻ, năng động, chuyên nghiệp. Nhưng đó không phải là điều chủ yếu. Nếu như ông được Duma quốc gia thông qua ngay từ lần đầu tiên, mà đang có khả năng như vậy, thì ông có thể có điều kiện để giành lấy vai trò người lãnh đạo toàn dân, vị cứu tinh, một Thủ tướng chống khủng hoảng muốn gọi thế nào cũng được. Lúc đó ông sẽ có khả năng để chiếm được lòng tin của dân.
Tôi quá hiểu ý của Yumasev định nói gì. Sau khi tôi từ chức (nếu không có tôi, thì chẳng biết người ta sẽ làm những gì) và sau khi trở lại Nhà Trắng một cách hào hùng, Chernomưrdin có thể giành được vầng hào quang của nhân dân cho “một người bị vùi dập vô lý”.
Đúng, đó là một ý kiến rất quan trọng. Chernomưrdin không chỉ có khả năng giải quyết tình huống khủng hoảng, lợi dụng kinh nghiệm và những mối quan hệ của mình, mà còn tiến bước xa hơn đến cuộc bầu cử năm 2000 với những điều kiện thuận lợi. Về phương diện này thì thất bại tinh thần của tôi lại là thuận lợi đối với Chernomưrdin. Nhưng biết làm thế nào... Nhưng dù sao tôi vẫn nghi ngờ: “Nếu như ông không qua được vòng đầu?”. “Lúc đó ta phải tìm ứng cử viên khác thay thế - Yumasev khẳng định.
Phương án đề cử Primakov hôm đó chúng tôi còn chưa thảo luận đến. Trước đây Evgeni Primakov đã từng tuyên bố với những trợ lý của tôi, Quốc hội và cả cánh hữu lẫn cánh tả rằng, ông không bao giờ ra làm Thủ tướng dưới bất kỳ đề xuất của ai.
Đêm ngày 23 tháng 8, tôi lại có cuộc gặp quan trọng khác với Chernomưrdin ở dinh thự ngoại ô Matxcơva.
Sau khi Kirienko đã ra đi, tôi cho gọi Chernomưrdin đến gặp.
- Kirienko vừa mới ở chỗ tôi. Tôi đã cách chức anh ta.
Chernomưrdin vẫn im lặng lắng nghe. Hình như ông hơi căng thẳng và sẵn sàng lao vào cuộc chiến quyết định.
Tôi không biết và cũng không nhớ là trong cuộc nói chuyện này đã thấp thoáng có cụm từ “sức nặng chính trị”. Thực tế nếu dùng cụm từ đó thì không đạt lắm, nhưng nó lại bóc trần được nguyên nhân Kirienko bị cách chức: Kirienko không có được phẩm chất đó. Tôi trông chờ vào một nhân vật chính trị lớn, có bề dày chính trị là Victor Chernomưrdin và suy nghĩ: Đúng, “bề dày chính trị”.
Tôi kể lại những sự kiện mùa thu năm 1998 không phải là tình cờ. Cũng chẳng phải đơn thuần là do tình hình thay đổi hàng ngày. Rồi sau đó thay đổi hàng giờ. Nói thật lòng tôi không nhớ có tình huống chính trị nào trong suốt thời gian từ đầu những năm 90 lại căng thẳng đến như vậy, nếu như không nói đến những âm mưu chính biến năm 1991 và năm 1993. Tình huống ở đây nghe chừng có vẻ khác hẳn, hoà bình, hoàn toàn hợp hiến, nhưng cục diện chính trị đang diễn ra nhanh chóng dưới ánh nắng vàng nhạt và hiền hoà của cuối hè. Dường như có quỷ thần nào đó đang dùng phép màu làm đảo lộn số phận của chúng ta, còn những ánh sáng màu của những âm mưu và thoả hiệp lúc thì thấp thoáng hiện lên, lúc lại tắt ngấm.
Như vậy là ngày 23 tháng 8, tôi tiếp Kirienko và Chernomưrdin, còn ngày 24 tôi đọc lời kêu gọi nhân dân trên vô tuyến truyền hình và ký các sắc lệnh cần thiết. Cũng ngày hôm đó Victor Chernomưrdin đã tiến hành cuộc họp của Chính phủ với tư cách là Quyền Thủ tướng.
Chernomưrdin đã điên cuồng đẩy những nhà lãnh đạo của Quốc hội vào chân tường. Ông sử dụng con bài chính của mình là hiện không có một ứng cử viên nào xứng danh và nguyện vọng của tất cả các phe phái chính trị, kinh tế muốn nhanh chóng dập tắt được cuộc khủng hoảng. Chỉ trong vòng ba ngày: thứ hai, thứ ba và thứ tư đã thống nhất được những điểm dự thảo chủ yếu của cái gọi là Thoả thuận chính trị, một văn bản xác định quan hệ giữa Tổng thống, Quốc hội và Chính phủ.
Ngày thứ năm và thứ sáu sẽ bắt đầu công việc nghiên cứu kỹ nội dung của văn kiện này.
Chernomưrdin đã đạt được nhiều thành công. Trước hết là ông đã giành được sự ủng hộ của Seleznev, Chủ tịch Quốc hội, thực tế là nhân vật thứ hai của Đảng cộng sản. Ông cũng giành được sự ủng hộ của “Đảng quyền lực nhân dân” và Đảng Nông nghiệp, những người em của Ziuganov. Hơn nữa lại cả sự ủng hộ của những người lãnh đạo “Gasprom” vốn rất có ảnh hưởng đối với giới lãnh dạo của Đảng cộng sản. Phe đối lập cánh tả đồng ý chấp nhận với điều kiện: Tổng thống từ nay đến năm 2000 sẽ không giải tán Duma. Về phần mình Duma sẽ bảo đảm tín nhiệm Chính phủ. Chính phủ nhận trách nhiệm không gây ra những cuộc khủng hoảng Quốc hội bằng cách từ chức tự nguyện. Chernomưrdin liên tục gọi điện cho tôi, khi thống nhất những quan điểm mới: liệu những người cộng sản có thể vào Chính phủ được không? Có thể trao đổi với Duma về tất cả các Phó thủ tướng được không?
Tôi cố ý chấp nhận những quyền hạn hợp hiến của mình. Tôi cũng tin tưởng rằng với một người lãnh đạo Chính phủ tin tưởng như Chernomưrdin, thì chúng ta có thể tránh được những phức tạp. Tôi cũng tuyệt đối tin rằng trong lúc tình hình căng thẳng thì chỉ có Chernomưrdin là ứng cử viên duy nhất có thể lên giữ chức Thủ tướng.
Thế nhưng những người cộng sản lại cố lợi dụng sáng kiến của Chernomưrdin. Ziuganov và những người anh em của ông ta trong cánh tả như Nicolai Ryzkov và Nicolai Kharitonov đã cũng ra tuyên bố chung: vấn đề về ứng cử viên Thủ tướng chưa được chuẩn bị. Ryzkov còn nói rõ hơn: Mù quáng tham gia Chính phủ mà không biết được đường lối và chương trình của Chính phủ đó thì thật là có tội trước nhân dân.
Lợi dụng tình hình khủng hoảng để tôi bắt buộc phải cách chức Kirienko và Chính phủ tự do của Kirienko, họ đã cố gắng giành lấy một phần không gian chính trị. Họ muốn đưa người của mình vào Chính phủ này, hạn chế những sáng kiến của tôi. Nhưng đối với tôi đó là một bước đi chính xác và suy nghĩ kỹ lưỡng: sau khi Duma thông qua Chernomưrdin, chẳng cần phải giải tán Duma làm gì. Chernomưrdin - Thủ tướng của tôi và cho đến năm 2000, tôi cũng không có ý định cách chức Chính phủ này. Mọi việc đều đúng bài bản.
Tuy nhiên có điều hoàn toàn rõ ràng là những người cộng sản chấp nhận thoả thuận đó như sự tự sát. Họ chỉ muốn thúc ép Victor Chernomưrdin, gây áp lực thường xuyên với ông. Chỉ trong vòng một tuần ông đã loại bỏ được tất cả mọi sự phản đối của họ, thực hiệu mọi điều kiện, bỏ qua mọi lý lẽ. Ông đã từ bỏ tất cả chỉ để ký được thoả thuận.
Những người cộng sản hiểu rằng khi không có một ứng cử viên sáng giá, mà lại nhận trách nhiệm về mình đối với cuộc khủng hoảng chính trị trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - thì đó là miếng bánh đắng ngắt, khó nhằn.
Ngày thứ sáu, tôi ký thoả thuận, trong đó đã có chữ ký của Genadi Seleznev, lãnh đạo của các phái chính trị trong Duma, Chánh Văn phòng Tổng thống Valentin Yumasev và Victor Chernomưrdin. Chỉ không có chữ ký của Genadi Ziuganov - ông ta nói rằng cần phải thảo luận nội dung thoả thuận tại Hội nghị toàn thể của Đảng.
Nhưng sang ngày chủ nhật trên sóng truyền hình trực tiếp lãnh tụ của Đảng cộng sản mặt mày đỏ lựng, thở khó khăn và ra một tuyên bố giật gân: đến thứ hai họ không bỏ phiếu ửng hộ Chernomưrdin. Nét mặt của Ryzkov và Kharitonov, những đồng minh của Ziuganov cũng dài ra vì ngạc nhiên. Họ nói rằng không hề biết gì về chuyện này và sẽ tiến hành tư vấn khẩn cấp.
Đúng thời điểm đó, tôi hiểu rất rõ: quyết định được thông qua tức khắc trong một giới hạn hẹp những kẻ âm mưu và nó chỉ có ý nghĩa là những người cộng sản đã có một ứng cử viên thực sự.
Cũng chẳng khó khăn gì mà không lọc ra được đó là ai.
Đó tất nhiên chỉ còn có Thị trưởng Matxcơva Yuri Luzkov.
Có biết bao cú điện thoại lo âu gọi từ Hội đồng Liên bang cho tôi khi Kirienko còn chưa chính thức bị cách chức. Cả Luzkov và Stroev đều có những phát biểu gay gắt đối với Chernomưrdin.
- Những khó khăn và sai lầm mà chúng ta đang trải qua hôm nay, chính là hậu quả của hoạt động vô ý thức kéo dài của Chính phủ cũ do Chernomưrdin đứng đầu - đó là nhận xét của Egor Stroev.
Họ còn hoảng sợ bởi vì ý chí muốn vươn tới quyền lực của Chernomưrdin ngay những ngày đầu sau khủng hoảng. Cũng giống như những người cộng sản, Luzkov và Stroev đều được coi là những nhân vật chính trị “nặng ký” số hai và số ba trong bối cảnh tình hình phức tạp hiện nay để phân chia quyền lực: cái gì đó dành cho Tổng thống, còn cái gì đó phải dành cho chính mình.
Rất nhanh, Luzkov hiểu rằng phải mau lẹ tận dụng cơ hội! Ông ta hiểu rất rõ: chỉ còn một chút nữa thôi và là cơ hội duy nhất cuối cùng để ông ta nắm quyền lực, lợi dụng những động cơ công khai của mình.
Trước mấy ngày khi diễn ra vòng bỏ phiếu đầu tiên ở Duma, tôi cho mời Luzkov và Stroev đến gặp ở Kremli. Trước tình huống khẩn cấp, khó khăn, tôi cho phép mình được thẳng thắn nói công khai không giấu giếm và chân thành: xin các ngài hãy từ bỏ khát vọng chính trị của mình và hãy ủng hộ Chernomưrdin. Chúng ta cùng hội cùng thuyền, không nên làm cho con thuyền đó chao đảo nữa, chúng ta cùng đi với nhau.
Luzkov và Stroev cố gượng gạo kiềm chế, phát biểu mấy câu thanh minh trước ống kính truyền hình: Theo Hiến pháp Tổng thống có quyền quyết định ai xứng đáng vào chức vụ Thủ tướng, còn chúng tôi không có ý định tranh giành chức vụ này.
Tôi cảm giác đây chính là một thắng lợi. Dù sao cũng là thắng lợi về mặt sách lược. Luzkov và Stroev ít ra cũng không dám công khai lên tiếng chống Chernomưrdin.
Nhưng hoá ra tôi không đánh giá hết khát vọng chính trị của Yuri Luzkov.
Ngày 31 tháng 8, thứ hai. Chỉ có hơn một trăm phiếu ủng hộ Chernomưrdin. Thất bại hoàn toàn!
Đã sang tuần thứ hai kể từ khi Chính phủ Kirienko bị cách chức. Cái tuần thứ hai này diễn ra hoàn toàn khác hẳn với tuần thứ nhất về nội dung chính trị, về nhân vật chính trị, cũng như về phong cách chính trị.
Giờ đây Yuri Luzkov đã chuyển sang phản công mạnh mẽ. Cũng giống như Chernomưrdin tuần trước, ông ta ráo riết bắt đầu tìm kiếm vật liệu xây dựng lâu đài chính trị bằng tất cả những vật liệu có trong tay lúc đó.
Santsev, Phó Thị trưởng Matxcơva, một người đã từng ở Đảng cộng sản Liên bang Nga. Những người cộng sản theo dõi chăm chú rất lâu hành động xử sự của Luzkov, từ lâu họ đã tha thứ cho ông ta về sự kiện năm 1993, nhưng cái chính là những người cộng sản muốn lợi dụng Luzkov như một cái búa để đập tan “chế độ Yeltsin”.
Ngày 7 tháng 9, thứ hai, ở Kremli diễn ra “cuộc gặp gỡ bàn tròn” với các tỉnh trưởng và lãnh đạo các phái trong Duma. Hội nghị đã thảo luận vấn đề rút ra khỏi khủng hoảng, hay nói ngắn gọn hơn là ai sẽ lên làm Thủ tướng.
Tại cuộc gặp “bàn tròn” này ở Duma, Ziuganov đã công bố danh sách những ứng cử viên có thể vào chức Thủ tướng. Ngoài cựu Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước Yuri Masliukov, đảng viên cộng sản (điều đó có thể hiểu được và lô gích), còn có Thị trưởng Matxcơva Yuri Luzkov. Thế là đã rõ, Luzkov đã bắt tay với những người cộng sản. Ông ta đã cùng với họ tạo nên một bước đi táo bạo.
Ông ta cũng đã thoả thuận rất nhanh với một bộ phận của Hội đồng Liên bang. trong đó có những tỉnh trưởng dân chủ có thế lực như Konstantin Titov, Dmitri Aiatskov ủng hộ. Họ cho rằng sau khi xây dựng được cơ chế kinh tế thị trường ở một thành phố, Luzkov có thể dạy cho tất cả các khu vực còn lại của nước Nga. Có ai đó đã coi Luzkov là chủ nhân mới của đất nước và đã vội vã đến gặp ông ta trao đổi về những vấn đề của khu vực mình, có ai đó đã ngưỡng mộ ông ta là một nhân vật mới mẻ, trong sạch.
Chernomưrdin cũng ráo riết hoạt động và may thay ông cũng được Hội đồng Liên bang ủng hộ: đa số các tỉnh trưởng ủng hộ ông.
Dù có bị áp lực của những người cộng sản (hơn nữa lại trái với ý nguyện của đa số các tỉnh trưởng), tôi vẫn không thể đề xuất Luzkov.
Cuộc bỏ phiếu vòng hai tại Duma, chỉ có 138 phiếu ủng hộ Chernomưrdin. Công lao bao nhiêu cũng chẳng ăn thua gì.
Ngay sau khi kết thúc bỏ phiếu thông qua Chernomưrdin vòng hai, bộ phận cánh tả của Duma ra tuyên bố nếu còn đưa ứng cử viên này vào bỏ phiếu thông qua vòng ba, thì họ sẽ tiến hành thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm Tổng thống.
Tình hình đã lên căng thẳng đến cực điểm.
Như vậy sau hai năm trời nguyên nhân những người cộng sản không chịu nhân nhượng đã khá rõ. Họ không muốn bỏ lỡ một cơ hội, một tấm vé hạnh phúc rơi vào tay họ trong tháng 8 và tháng 9. Chính quyền gần như ngẫu nhiên rơi vào tay họ. Chỉ cần với tay ra chút nữa là được.
Làn sóng bất bình ghê gớm đối với Chính phủ, đồng rúp bị chao đảo, những thiệt hại của các quỹ tiết kiệm và những nhà kinh doanh bị tan ra từng mảnh, lạm phát trong tình trạng phi mã nằm trong cái bối cảnh hoảng loạn đó đều tấn công trực tiếp vào Kremli.
Những tiền đề pháp lý đã xuất hiện cho hành động của họ: Nếu Duma ba lần không thông qua ứng cử viên Chernomưrdin, thì có nghĩa là Duma sẽ bị giải tán và tiến hành một cuộc bầu cử mới. Đó là quy định của Hiến pháp. Nhưng ở dây còn một cái bẫy pháp lý nữa: nếu Tổng thống bị đưa ra bỏ phiếu bất tín nhiệm, thì ông không có quyền giải tán Duma. Hiến pháp không quy định rõ trong trường hợp này thì làm thế nào. Giải tán Duma trong bối cảnh khủng hoảng xã hội rất gay gắt là một việc làm cực kỳ nguy hiểm. Trong trường hợp này nó còn nguy hiểm gấp hai, ba lần.
Ở một đất nước mà không có Quốc hội, không có Chính phủ, còn Tổng thống thì đang trong tình trạng ngàn cân treo trên sợi tóc trước tình huống bị bỏ phiếu bất tín nhiệm, thì rất có thể xảy ra tình hình chính trị cực kỳ lộn xộn. Đó là cái bẫy đe doạ để trống quyền lực, bùng nổ những bất bình và những biện pháp khẩn cấp.
Nhưng vấn đề không chỉ có thế. Những người cộng sản sau đó nhất định sẽ giành được đa số tuyệt đối trong Duma! Cuộc khủng hoảng này đã tạo cho họ được tiềm năng chính trị cực kỳ lớn lao... Nếu giải tán Quốc hội tức là tạo động lực để thụt lùi, để làm sụp đổ hoàn toàn những cuộc cải cách dân chủ, tai hoạ đối với đất nước.
Lúc đó đối với tôi, phải đồng thời tiến hành ba công việc: gây áp lực đối với Duma (“Tôi không còn ứng cử viên nào khác, vấn đề này đã được quyết định, dù có hay không có Duma, thì Thủ tướng vẫn cứ là Chernomưrdin”). Thuyết phục Chernomưrdin không cố đeo đẳng vị trí ứng cử viên của mình (Victor Stepanovich, không nên đưa ra bỏ phiếu vòng ba trong bối cảnh tình hình chính trị như thế này, chúng ta không có quyền giải tán Duma”). Thông qua Yumasev bí mật thuyết phục một ứng cử viên sáng giá duy nhất - Primakov!
Tôi quyết tâm làm như vậy. Tôi làm bởi vì tôi tin tưởng sẽ tìm được lối thoát.
Tuy vậy sau dứt bỏ phiếu vòng hai, tôi triệu tập một số người trong Văn phòng Tổng thống lại và nghe ý kiến của họ ủng hộ hay phản đối ứng cử viên Luzkov.
Cũng cần phải đánh giá đúng Yuri Luzkov, năng lực và ý chí muốn giành chiến thắng của ông ta - hầu như hàng ngày đều có những sứ giả mang thông tin từ chỗ Thị trưởng về Kremli. Những người ủng hộ Luzkov cũng tăng lên nhanh chóng, trong đó có Andrei Kokoshin, Thư ký Hội đồng an ninh, các Phó Chánh Văn phòng Tổng thống Sergei Yastrzemski và Evgeni Savostianov.
Yumasev, Yastrzemski và Kokoshin đến nhà nghỉ gặp tôi.
Tôi đề nghị họ trình bày thật kỹ lưỡng, chi tiết cả hai quan điểm.
Sergei Yastrzemski lập luận:
- Luzkov bao giờ cũng ủng hộ Tổng thống. Trong bất kỳ mọi tình huống, trong mọi giai đoạn phức tạp. Người ta nói bây giờ ông ta chống Tổng thống. Tôi cho rằng đó là điều giả dối. Tôi đã trực tiếp nói chuyện với Yuri Mikhailovich. Ông ta nhờ tôi chuyển đến ngài rằng Yeltsin đối với ông ta là một khái niệm thiêng liêng. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Luzkov sẽ là một ứng cử viên Tổng thống sáng giá. Ông ta là một nhà kinh tế có kinh nghiệm, đã thành lập được một hệ thống chính quyền ngành dọc vững chắc. Đó là một người sẽ tiếp tục những cuộc cải cách kinh tế và dân chủ trong nước. Không thể để cho những người cộng sản có cơ hội lợi dụng khủng hoảng để làm chao đảo tình hình.
Kokoshin cũng có quan điểm gần tương tự.
Tôi nhìn về phía Yumasev và hỏi:
- Quan điểm của anh thế nào?
- Giờ đây ứng cử viên Thủ tướng phải là một nhân vật hoà hợp và thống nhất. Luzkov cố vươn đến quyền lực bằng mọi giá, kể cả thô bạo và bất chấp bê bối. Hơn nữa nếu Luzkov trở thành Thủ tướng, thì chắc gì ông ta giữ được chính quyền đến cuộc bầu cử năm 2000? Tất nhiên là không rồi. Điều đó sẽ còn làm cho tình hình trong nước mất ổn định hơn nữa.
- Xin cám ơn, tôi đã được nghe hai ý kiến khác nhau, còn bây giờ để tôi suy nghĩ.
Chỉ sau mấy phút, tôi gọi diện cho Yumasev (anh ta đã ngồi vào xe) và chỉ nói có một câu ngắn gọn:
- Hãy thuyết phục Primakov!
Tình hình vẫn tiếp tục căng thẳng.
Tôi vẫn tiếp tục tiến hành những bước hành động cuối cùng. Gây áp lực với Duma bằng mọi giá. Tình hình vẫn còn chưa hoàn toàn ngã ngũ. Mặc dù cả vòng bỏ phiếu thông qua ứng cử viên Thủ tướng đều bị thất bại, nhưng tôi vẫn hy vọng có sự đột phá bất ngờ và tôi sử dụng tất cả mọi phương tiện có trong tay. Tôi đề nghị chuẩn bị bức thư gửi Duma cho cuộc bỏ phiếu vòng ba cho ứng cử viên Chernomưrdin. Đối với Duma điều đó có nghĩa là giải tán.
Đồng thời tôi cũng gặp Yuri Masliukov, cựu Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, một ứng cử viên của Đảng cộng sản. Yumasev nhanh chóng đưa ông ta đến gặp tôi. Đó là ngày 10 tháng 9, bảy giờ ba mươi phút. Masliukov trình bày:
- Tôi sẵn sàng làm việc, nhưng chỉ dưới sự lãnh đạo của Primakov. Ngài hãy cố thuyết phục ông ấy. Đó là một người tốt nhất. Tôi chỉ có thể làm việc cùng ông ấy mà thôi.
Đúng chín giờ sáng tôi đến Kremli. Primakov đang đợi tôi ở đó. Sau đó còn có Chernomưrdin và Masliukov cũng đến. Tôi gặp luôn cả ba người để thông qua quyết định cuối cùng. Không thể trì hoãn hơn nữa.
Cuộc trao đổi đầu tiên với Primakov diễn ra tại nhà riêng của tôi hồi đầu tháng 9, vào giữa vòng bỏ phiếu thứ nhất và thứ hai ứng cử viên Chernomưrdin ở Duma. Tôi thuyết phục:
- Evgeni Maximovich. Anh biết tôi, và tôi cũng biết anh... Anh là người duy nhất trong thời điểm này là ứng cử viên Thủ tướng được tất cả chấp nhận.
Chúng tôi trao đổi rất lâu và thẳng thắn. Tôi có cảm giác thật sự trong thâm tâm Primakov không muốn làm Thủ tướng. Ông không muốn mang trên vai gánh nặng chính quyền, trách nhiệm lớn lao. Ông chỉ muốn giữ cương vị Bộ trưởng Ngoại giao đã quen thuộc và sở trường của mình.
Primakov phân trần:
- Boris Nicolaevich, tôi cũng sẽ thẳng thắn với ngài. Đối với tuổi tôi gánh nặng đó là quá sức. Ngài hiểu cho. Tôi muốn làm việc bình thường, yên ổn đến cùng. Chúng ta cùng về nghỉ vào năm 2000.
Sau lần bỏ phiếu đầu tiên ứng cử viên Chernomưrdin, Yumasev đã mấy lần gặp Primakov.
- Evgeni Maximovich, ngài có đề nghị gì, chúng ta phải hành động thế nào?
Primakov trả lời:
- Theo tôi, chúng ta đề nghị Yuri Masliukov. Đó là một nhà kinh tế giỏi.
- Nhưng Boris Nicolaevich không thích một Thủ tướng là cộng sản, ngài biết điều đó chứ? Hay là chúng ta cuối cùng phải giải tán Duma?
Lúc đó Primakov nhìn thẳng vào mắt Yumasev và trả lời kiên quyết:
- Trong bất cứ trường hợp nào, cũng không được giải tán Duma.
Vòng đàm phán lần thứ ba, vòng cuối cùng diễn ra ngay tại Kremli vào buổi sáng ngày thứ năm, mồng 10 tháng 9. Hôm nay phải quyết định tất cả, không còn cách nào hết. Giải quyết như thế nào, thì chưa ai rõ cả.
Lúc đầu Primakov vẫn kiên quyết từ chối. Nhưng tôi đề nghị ông chưa về ngay, đợi tôi ở buồng khách, chờ Chernomưrdin và Masliukov đến. Yumasev vẫn kiên nhẫn thuyết phục Primakov, tranh thủ từng giờ, từng phút khi hai ứng cử viên kia chưa đến.
Chính nửa tiếng đồng hồ đó đã quyết định tất cả. Primakov bỗng nhiên bật ra:
- Nhưng cấp phó của tôi là Ivanov vẫn chưa chuẩn bị cho vai trò là Bộ trưởng Ngoại giao. Hơn nữa ngày mai tôi lại có một chuyến đi nước ngoài. Tôi biết nói thế nào với các đối tác của mình đây?
Valentin nhìn Primakov với hy vọng. Primakov vẫn phẩy tay:
- Không, tôi không thể làm được.
Yumasev hiểu rằng đây là cơ hội cuối cùng:
- Thưa Evgeni Maximovich, ngài là nhà thông thái. Ngài phải hiểu điều đó. Nếu như có chuyện gì đó xảy ra với Tổng thống thì sao? Ai sẽ lãnh đạo đất nước, ai sẽ nắm chính quyền? Luzkov chăng? Ngài muốn ai?
- Không, tôi không thể.
- Tôi có thể nói với Tổng thống là ngài đã đồng ý?
Primakov im lặng. Valentin Yumasev nhắc lại:
- Tôi có thể báo cáo được chứ?
Primakov vẫn im lặng.
Yumasev chạy vội sang buồng làm việc của tôi ngay trước khi cả ba ứng cử viên bước vào. Trên bàn làm việc của tôi vẫn còn lá thư gửi Duma Quốc gia. Tôi mời tất cả ngồi xuống ghế và nói: “Tôi sẽ đề nghị Duma thông qua ứng cử viên Thủ tướng mới. Tôi đề nghị ủng hộ ý kiến đề xuất của tôi...“.
Tôi dừng lại.
Cả ba người ngồi lặng im như nín thở. Ai cũng chờ đợi được gọi tên mình. Kể cả Masliukov, người thật sự chẳng hy vọng gì.
- Evgeni Primakov! - Tôi thấy thở phào khi nhắc lại.
Chính trị - đó là nghệ thuật của những cái có thể. Nhưng trong chính trị có cái khởi đầu hợp lý hợp tình. Nhịp thở của số phận. Chắc hẳn Victor Stepanovich không cảm thấy số phận phản lại ông. Ngay ở buổi gặp gỡ cuối cùng trước vòng bỏ phiếu thứ ba, ông vẫn nghĩ là ông vượt qua được.
Thậm chí ngay sau khi tôi đã tuyên bố quyết định của mình, Chernomưrdin vẫn cố đưa ra những lý lẽ rằng Primakov và Masliukov tốt nhất là bổ nhiệm làm Phó thủ tướng thứ nhất của ông, còn cứ để cho Duma bỏ phiếu vòng ba. Tôi hỏi lại:
- Nếu như họ vẫn không tán thành thì sao?
- Họ còn có cách nào khác được?
Primakov và Masliukov lặng im. Tôi hỏi Primakov sau một hồi im lặng:
- Liệu Victor Stepanovich có qua được vòng ba hay không?
- Không hề có cơ hội nữa! - Evgeni Primakov chậm rãi trả lời. Và Masliukov cũng tán thành ý kiến đó.
Chernomưrdin ngồi lặng im. Sau đó ông quay qua ghế nói:
- Boris Nicolaevich, tôi bao giờ cũng ủng hộ ứng cử viên Primakov. Đó là một quyết định đúng đắn. Xin chúc mừng Evgeni Maximovich!”
Đó là ngày 10 tháng 9. Duma Quốc gia đã thông qua ứng cử viên Primakov với đa số phiếu ủng hộ.
Có điều thật lạ lùng, đó là những tháng ngày nặng nề nhất đối với tôi trong suốt tám năm rưỡi ở cương vị cầm quyền: tháng 8, tháng 9 và tháng 10. Mùa thu vàng, một mùa êm ái, dịu dàng. Mùa này sao lại có đường đua như vậy? Tại sao chính vào cái thời điểm này ở quốc gia chúng ta, ở xã hội chúng ta lại bùng lên như vậy? Tôi cứ cố hỏi những trợ lý của mình để họ dùng khoa học giải thích những nhân tố bất lợi trong những tháng ngày qua. Nhưng không, họ trả lời đó là những tháng ngày bình thường.
Chẳng có gì bất bình thường.
Tháng 8 năm 1991. Chính biến. Uỷ ban Quốc gia về tình trạng khẩn cấp. Cả nước như ngàn cân treo trên sợi tóc. Năm 1992 - 1998 khủng hoảng đến bế tắc, xung đột vũ trang ở ngay trung tâm Matxcơva, bắn vào Nhà Trắng cũng lại rơi vào tháng 9 và tháng 10 năm 1993.
Năm 1994. Tháng 9. “Ngày thứ ba đen tối”. Đồng rúp sụt giá.
Năm 1995. Bầu cử Duma. Những người cộng sản và đồng minh giành thắng lợi hoàn toàn.
Năm 1996. Tôi phải phẫu thuật tim.
Năm 199?. Cuộc chiến tranh tài chính. “Vụ bê bối sách”.
Năm 1998. Khủng hoảng tài chính, Chính phủ Kirienko bị cách chức, đấu đá quyền lực. Bổ nhiệm Primakov.
Năm 1999. Những vụ nổ ở Matxcơva và các thành phố khác.
Thật không thể hiểu được tính quy luật lặp đi lặp lại.
Còn nếu ta nhớ lại thì chính quyền rơi vào tay những người bôn-sê-vích cũng vào những tháng đó năm 1917, rồi cũng những tháng đó là thử thách nghiệt ngã nhất đối với đất nước trong thế kỷ 20 khi Hồng quân Liên Xô hùng mạnh bị bọn phát xít dồn vào chân tường.
Tôi chậm rãi đi trên con đường nhỏ của công viên. Xung quanh đầy lá vàng và đỏ. Tưởng chừng như đám cháy... Không khí mùa thu thật đáng yêu, trong lành, sáng sủa.
Trong tôi hết ý nghĩ này lại đến ý nghĩ khác dồn dập kéo tới. Dù sao khủng hoảng chính trị chỉ là một hiện tượng tạm thời và trong đó có cái gì đó có lợi. Kinh nghiệm qua chính bản thân mình: cơ thể dang chờ đợi một cuộc khủng hoảng, rằng để vượt qua được bệnh tật, khôi phục và trở về với trạng thái sức khoẻ cũ. Lúc thăng lúc giáng. Cuộc sống con người lúc ở thế thượng phong, lúc ở thế bĩ cực như một sơ đồ hình sin.
Song, nếu như trong thời gian tôi cầm quyền trong lịch sử Nga có nhiều cuộc khủng hoảng như thế xảy ra, thì đó không phải lỗi tại tôi. Thời đại khủng hoảng giữa hai thời kỳ trung gian chuyển đổi ổn định.
Nhưng cuộc khủng hoảng sau không hề giống cuộc khủng hoảng trước. Nó gây ra vết thương cho tầng lớp trung lưu vừa khó khăn lắm mới hình thành, cho tầng lớp những người kinh doanh, những chủ sở hữu, những chủ doanh nghiệp... là những người bị đau đớn hơn cả. Bởi vì tất cả đều để phục vụ họ, để cho họ tin rằng con cái họ được học hành ở những trường lớp có tiếng tăm, để họ có thể ra nước ngoài nghỉ ngơi, để họ có thể dành dụm được vốn ban đầu, để họ có thể xây được nhà riêng, chuyển đổi căn hộ, mua đồ gỗ mới, xe ô tô riêng... Chính những người đó là chỗ dựa chính của tôi. Nếu như họ gặp khó khăn, nếu như họ quay lưng lại với tôi, thì điều đó có nghĩa là khủng hoảng còn sâu sắc hơn. Nặng nề hơn nhiều.
Tôi đi dưới hàng cây đầy lá phủ. Cháy, cháy...
Liệu những người này có hiểu cho là tôi có phản bội họ không? Tôi không biết. Một mùa thu nặng nề, một mùa đông ảm đạm đang chờ đón chúng ta. Nhưng trong cái không khí giá lạnh, trong lành này một người bình thường cũng có thể hiểu được chân lý. Chỉ cần quan sát thật kỹ. Nếu như chúng ta trải qua được mùa thu này, vượt qua được mùa đông này, thì nhất định chúng ta sẽ hiểu được.
Làn khói bốc lên từ đống lá rừng được đốt lên. Những cánh rừng và cánh đồng hiện lên rõ hơn trong tương lai sán lạn. Đó là thứ triết lý tự nhiên. Triết lý này rất có thể còn vụng về? Nhưng tôi cảm thấy nhẹ nhõm, thoải mái hơn.