Nghe câu trả lời ấy có lẽ người ta không còn gì để nói. Người ta cảm thấy cơn tuyệt vọng ghê gớm trong trái tim trẻ trung đã buông xuôi mặc cho mọi chuyện đến đâu thì đến.
Jane đã ở cung bậc đau khổ cao nhất khiến René quyết định không rời cô suốt hôm ấy.
Đến giờ ăn tối, Hélène giấu đi tất cả nét vui tươi đang tràn ngập trong lòng lên phòng Jane xem cô có xuống không nhưng cô em đang ở tình trạng đờ đẫn đến nỗi cô thấy không gì vui thú có thể giúp ích cho tâm thần bị tổn thương sâu sắc đến thế. Cô là người đầu tiên xin René ở lại bên em mình. Hélène hiểu chỉ có nguyên do đau khổ mới có thể khiến em mình đờ đẫn như vậy.
René, về phần mình cũng rụng rời. Anh không còn lời nào để nói với Jane. Anh thở dài, nhìn cô, chìa tay cho cô. Giữa họ, những cơ chỉ ấy còn là ngôn ngữ biểu cảm hơn mọi lời họ có thể nói với nhau. Nếu René nghĩ vài ngày ở thêm có thể chữa khỏi bệnh cho Jane thì chắc chắn anh sẽ ở lại. Nhưng sự đòi hỏi về đạo đức buộc anh ra đi và với một số người, đòi hỏi ấy đôi khi là mạnh nhất. Vả lại, Jane cũng có vẻ đồng tình với sự ra đi đó, từ bảy tám ngày qua cô chỉ tính đến thứ hai. Sau ngày thứ hai, không có gì còn tồn tại với cô nữa và như một chiếc đồng hồ đã lên giây cót cho 8 ngày, sau tám ngày ấy mọi chuyển động của nó sẽ dừng lại.
Tiếng đồn về căn bệnh của Jane đã lan ra khắp khu dân cư và vì mọi người đều yêu quý cô nên ai cũng buồn. Đồng thời, người ta cũng đồn căn bệnh này là số phận do bàn tay của bà trò làm rắn.
Người ta gọi bà già da đen mà René va ngựa vào người đi ra khỏi phòng Jane như thế. René đã nghe tiếng xì xào bàn tán của các nô bộc trong nhà nhưng anh cũng không quên lời than vãn thốt ra từ miệng Justin khi anh này nhận ra bà ta.
- Liệu một phát súng có giúp chúng ta thoát khỏi ả vô lại đó không?
Trong lúc đi xuống dưới nhà để ăn tối, Jane cũng nhờ anh xuống xin lỗi vì cô không xuống được, René hình như cũng đồng tình với thái độ của Justin với bà già da đen dù anh hiểu rõ hơn ai hết căn bệnh của Jane do đâu mà có. Anh hỏi Justin về người phụ nữ nọ.
Người ta gọi bà là kẻ làm trò rắn vì bà ta có khả năng đặc biệt là ru ngủ và chạm được vào những loài bò sát độc nhất. Nhưng tài năng của bà ta không dừng lại ở đó, người ta đoán bà ta còn biết về những loại cỏ độc, loại có thể giết người chỉ trong vài phút.
- Sao Jane lại có quan hệ với một người đàn bà như thế?
Khi đến gần Jane, René định hỏi cô nhưng đứng trước một thiên thần ngây thơ trong trắng ấy, từ ngữ không dám phát ra khỏi miệng anh. Tuy thế anh vẫn mơ hồ cảm nhận một điều đặc biệt kinh khủng. Anh thấy run rẩy như một cơn dự báo rồi đột nhiên tim anh se thắt lại buộc anh kêu lên một tiếng nghẹn thở khiến Jane cũng phải rùng mình.
Sau đó anh tiến lại phía cô như một người cha tiến lại gần đứa con mà ông ta sợ mất nó. Anh áp cô vào lòng, hôn lên trán, lên tay nhưng cử chỉ ấy chỉ dịu dàng ở mức độ nào đó nằm ngoài tình cảm lứa đôi mà chính Jane cũng không thể nhầm.
Đêm xuống, hai thanh niên ấy lại đến ngồi chỗ quen thuộc của họ ngoài mái hiên. Như thể tất cả đều đồng tình trả cho Jane tội nghiệp sự bình yên nên chưa bao giờ đêm đẹp như thế, chưa bao giờ trời có nhiều ánh sáng xua tan bóng đêm đến thế. Dù trăng không rõ và những vì sao bị một màn mây che khuất nhưng đâu đâu cũng bừng sáng: Một mùi thơm hãng hạc, nồng nàn xộc vào các động mạch, vào phổi, khơi dậy một cuộc sống lạ lẫm mà người ta chỉ có thể hiểu được toàn bộ sức mạnh khi sống trong không khí rừng rực như khi người ta hít thở ở châu Á và đặc biệt ở Ấn Độ.
René ngỡ đã thổ lộ với Jane ngọn nguồn mọi câu hỏi và câu trả lời về khả năng một cuộc sống tương lai và sự thật bất tử của linh hồn. René là người theo thuyết vô thần, anh tin vào sự vĩnh hằng của vật chất vì anh nhận ra rằng một hạt cát có thể bị nghiền thành nghìn hạt cát chứ không mất đi, anh không tin vào linh hồn vì dưới mọi góc độ linh hồn chưa bao giờ xuất hiện và anh cũng không tin vào thuyết vô hình hay siêu hình.
Bichat mới vừa chết, ông ta đã xử lý và giải quyết vấn đề ấy. Cuốn sách hay của ông về cái chết và sự sống đã được René đọc trong tù. Anh còn nghiên cứu rất kỹ phần mở rộng của Gall và Spurzheim. Anh càng phát triển thuyết vật chất của mình những giọt nước mắt càng chảy trên khuôn mặt Jane.
- Anh René, như vậy anh tin rằng một khi chúng ta xa nhau là xa nhau vĩnh viễn chúng ta sẽ không gặp nhau nữa đúng không?
- Anh không nói như vậy - René đáp - Sự tình cờ đã khiến chúng ra gặp nhau lần đầu, em có thể trở lại Paris, anh cũng có thể trở lại Ấn Độ, sự tình cờ sẽ có thể khiến chúng ta gặp nhau.
- Em sẽ không đến Pháp - Jane buồn bã nói - Anh cũng không trở lại Ấn Độ. Con tim chúng ta đã xa cách hoàn toàn vì tình yêu anh dành cho người phụ nữ khác, cơ thể chúng ta chia cách mãi mãi vì khoảng cách mặt đất. Vừa nãy anh nói với em rằng anh không tin vào những điều vô hình và không tưởng tuy nhiên em lại tin vào tình yêu của anh với Claire de Sourdis, dù nó vô hình và không tưởng đến đâu.
- Đúng vậy, nhưng mục đích của tình yêu ấy là không tưởng và vô hình. Anh cũng tin vào anh yêu em dành cho anh, Jane ạ.
Dù anh không nhìn thấy nó nhưng nó vẫn bao bọc anh như đám mây của thần Énéide che giấu các vị thần ấy.
- Anh có lý, René ạ - Jane nói và lau nước mắt, cô tiếp tục nói và đứng dậy - Em thật tàn nhẫn và ích kỷ. Em bắt anh bất hạnh theo sự đau khổ của em: Hẹn anh ngày mai, anh René. Ngày mai chúng ta sẽ xa nhau. Đừng làm tâm hồn em thêm yêu đuối vào thời điểm cực độ này. Em cần tất cả sức mạnh của mình và có thể anh cũng cần tất cả sức mạnh của anh.
- Em về phòng ư, Jane?
- Vâng. Em cần cầu nguyện. Em biết lời nguyện cầu không chữa khỏi bệnh nhưng nó như một thứ cần sa giúp ta mê muội đi. Chỉ xin anh hứa với em một chuyện.
- Chuyện gì hả Jane?
- Đó là đừng đột ngột bỏ đi mà không nói với em một lời từ biệt. Em cần một lời từ biệt dài và an ủi. Em cần ngủ trên vai anh như mọi khi nhưng lần này phải tin là em sẽ không bao giờ dậy nữa.
René lưỡng lự không muốn rời Jane. Anh cảm thấy một thứ tình cảm không sao cắt nghĩa được. Anh dìu cô đến phòng, ôm cô trong lòng thật lâu rồi mới về phòng mình sau khi dừng lại ba bốn lần vì tưởng Jane gọi anh. Khi về phòng, anh không sao chợp mắt nổi. Anh có cảm giác sắp có bất hạnh lớn xảy ra.
René lại gần cửa sổ phòng mình gắng hít thở không khí trong lành từ vài cơn gió đêm. Thật ra những làn gió ban mai đã bắt đầu lướt trên mặt đất rồi. Cái màu trắng nhợt nhạt khiến đêm có màu sáng trong suốt bắt đầu lụi dần và một luồng hơi nước xám nhạt bắt đầu thay thế nó. Đúng lúc đó, hình như anh nghe thấy tiếng mở cửa phòng Jane. Anh chạy ra khỏi phòng mình xem cô có cần gì không nhưng anh có cảm giác mình như một tên rình mò giấc ngủ của cô thiếu nữ nên đừng lại trước cánh cửa khép chặt ở phòng mình. Sau đó không nghe động tĩnh gì nữa, anh trở lại cửa sổ. Khi ấy dù trời còn tờ mờ, anh vẫn nhận ra Jane trong bộ áo choàng đêm ra khỏi nhà lưỡng lự đi về phía đồng cỏ như thể cô đang bước đi bằng đôi bàn chân trần. Ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu anh là Jane đang bị mộng du. Nhưng anh nhanh chóng nhận ra không phải như vậy. Cô không bước đi với dáng vẻ cứng nhắc như những bóng ma hay những người bị mộng du mà ngược lại rất rụt rè, thỉnh thoảng còn rùng mình đau đớn khi giẫm phải vài hòn sỏi sắc nhọn. Có một lát cô ngẩng đầu lên nhìn về phía cửa sổ của René nhưng anh đã kịp nép vào trong nên cô không thấy anh.
Jane đi ra ngoài một mình và hầu như ăn mặc đơn giản, điều này không những bất bình thường mà còn bất cẩn nữa. Mùi thịt thơm mà mọi người rán trong buổi tiệc cưới có thể thu hút loài thú dữ đến quanh nhà và nấp trong bụi rậm hay vài đám cỏ um tùm. Chúng có thể bất thình lình xông ra tấn công cô.
Anh với tay tìm khẩu cạc bin nạp đạn sẵn trong bóng tối và đi lại gần cửa sổ.
Đúng lúc đó, anh thấy một khối đen đang di chuyển lại gần Jane nhưng không xác định được hình dạng vì trời còn tối. Nhưng Jane, thay vì chạy trốn lại tiến về phía đó. Đó là một người đàn ông? Hay một người đàn bà? René chưa kịp phân biệt thì nghe tiếng Jane hét lên đau đớn ngã khuỵu xuống rồi lăn cuộn tròn ra đất như vừa chịu một cơn đau khủng khiếp. René nghĩ cô bị sát hại khi thấy bóng đen cố chạy về phía rừng gần đó. Nhưng bóng đen chỉ chạy được chục bước, René đã đưa súng lên vai và nhả đạn.
Tiếng hét thứ hai không kém phần chói tai và đau đớn vang lên. Kẻ sát nhân, đàn ông hoặc đàn bà, lăn xuống cỏ, giãy vài cái rồi nằm thẳng đơ, bất động.
René ném cây súng ở lại trong phòng, vội chạy xuống cầu thang và thấy tất cả những cánh cửa Jane đã mở để ra ngoài. Thoảng thấy bóng Jane nằm trên cỏ, anh chạy thẳng về phía đó, bế cô chạy trở lại nhà.
Tiếng súng đã khuấy động toàn bộ khu nhà. Người ta tưởng bị tấn công ban đêm nên ai nấy cầm ngay vũ khí đầu tiên tìm được và chạy ra. Justin là người đầu tiên dẫn hai, ba nô lệ chờ sẵn ngoài cửa với đèn đuốc sáng rực.
René ôm Jane trong tay, bế cô vào mà không để ý con rắn cắn chân cô còn lủng lẳng bám vào chân qua cái răng móc đầy nọc độc.
- Con rắn khoang kìa? - Justin hét lên rồi dùng tay trần túm lấy nó quật đầu vào tường - Ai đó mút vết thương!
- Tôi sẽ làm điều đó - René nói và bế cô lên phòng - Đi tìm và hỏi xem thông thường người da đen có cách trị độc rắn.
- Ngài ấy nói đúng đấy - Justin nói - Ba bốn anh đi ngựa tìm mụ phủ thủy rắn lại đây bất kể mụ còn sống hay chết!
Trong khi ấy, René đã mang Jane lên phòng đặt cô xuống giường. Khi nhìn chân cô trắng muốt, lạnh như đá có hai vết cắn như hai vết kim đâm có hai giọt máu rịn ra thì anh áp môi vào bắt đầu hút máu độc.
Mọi người bắt đầu tụ tập quanh Jane, người đang nhắm mắt, tay để trên ngực như sắp chết. Tuy nhiên René đã thấy chân cô rung rung dưới đôi môi anh. Jane đang đau và đau khủng khiếp.
Quanh anh có rất nhiều người. René mệt mỏi ngước mắt lên nhìn thấy ở hàng đầu tiên có Hélène đang mặt mày tái mét vịn vào tay James mặt cắt không còn giọt máu như cô.
- James - René nói - Hãy đi ngay sang tủ thuốc săn của tôi lấy một lọ amoniac và một con dao.
James chạy ngay sang phòng René và mang hai dụng cụ được yêu cầu mang lại. Một quầng thâm nhạt to bằng đồng năm phăng tụ quanh vết cắn. René lấy một ly nước, nhỏ vài giọt alcali rồi cầm lấy dao rạch một đường cho máu đen chảy ra. Anh tiếp tục mút, ép cho đến khi máu đỏ chảy trở lại. Anh để vài giọt dung dịch ăn mòn vào vết rạch. Jane co chân lại vì đau.
- Chúa phù hộ! - Hélène reo lên - Cô ấy không chết.
- Cô ấy chỉ chết vào ngày mai, đúng giờ cô ấy bị rắn cắn sáng nay - Justin nói khẽ.
René nhân lúc Jane tỉnh lại ép cô uống ly nước nhỏ alcali. Mấy người bị sai đi tìm bà điều khiển rắn da đen trở về thông báo họ tìm thấy xác mụ phù thủy cách chỗ Jane ngã hai chục bước.
- À - René thốt lên - Khi nghe Jane kêu và thấy cô ấy ngã xuống, tôi tưởng đó là người giết hại cô ấy nên đã bắn chết bà ta.
- Thật khốn thay - Justin nói nhỏ - Ngài giết chính con người duy nhất có thể cứu cô ấy rồi.
- Tội nghiệp cô gái thân yêu của tôi! - René ôm Jane vào lòng và khóc nấc lên.
- Đừng lo cho em - Jane nói nhỏ để không ai nghe thấy - Anh không nghe Justin nói là em còn sống được hai mươi tư giờ nữa hay sao?
- Thế thì sao chứ? - René hỏi.
- Thì em còn hai mươi tư giờ được tự do nói là em yêu anh tình yêu của đời em ạ! Dù cái chết được chào đón, em tin tưởng vào nó nhưng em cũng không mong nó lại độ lượng đến thế.
Đúng lúc đó vị cha cố bước vào. Không ai nghĩ đến chuyện đi báo ông. Ông chỉ nghe tai nạn và đến thăm. Qua rèm mi hé mở, Jane nhận ra ông.
- Hãy để tôi một mình với con người thánh này - Cô nói, sau đó quay sang René thì thào - Hãy vào đây ngay khi ông ấy đi ra, em không muốn để lỡ bất cứ phút giây nào trọng quý hai mươi tư tiếng của mình.
Tất cả mọi người đi ra.
Đến cửa những tiếng nức nở rộ lên.
Hélène, hầu như đã ngất đi trong tay chồng, được đưa về phòng. Không ai ngờ đến sự việc như vậy xảy ra, ai cũng sững sờ thậm chí còn rớm lệ.
René ngồi lại ngoài mái hiên nơi vẫn còn hai chiếc ghế cạnh nhau. Anh ngồi xuống chiếc ghế của mình, tựa đầu vào ghế nơi Jane vẫn ngồi, mặc nỗi đau sâu thẳm, những giọt nước mắt anh chưa từng thấy trào ra. René để cho tâm trí đi trên con đường quá khứ và thấy Jane đã chuẩn bị cái chết của mình đúng hôm anh ra đi. Cô đã cho gọi người đàn bà da đen đến. Liệu đó có phải là ả nô tì xứ Naybi được Cléopâtre giao cho việc mang con rắn trong làn đến để cắn mình chết?
Cái chết này đã được xác định giờ hẳn hoi. Vì hôm trước Jane đã bắt anh hứa không thể ra đi mà không nói gì vì cô muốn nói lời từ biệt với anh. Lời từ biệt ấy không phải là tiếng giã từ thông thường mà là lời vĩnh biệt. Cô đã sắp sẵn mọi chuyện. Cô biết tất cả người trong nhà đều ghê tởm bà phù thủy, cả người lẫn vật nuôi nên cô không nghĩ bà ta sẽ đến sân vào ban đêm. Tiếng chó sủa và tiếng nguyền rủa của gia nhân sẽ ngăn bà ta đến được chỗ cô. Do vậy, cô quyết định đi đến chỗ bà ta với đôi chân trần để con rắn dễ dàng cắn và tiêm chất độc vào người.
Cuối cùng, thay vì than trời cho mình ít thời gian với René, cô lại sung sướng có được hai mươi tư tiếng để có thể bộc bạch tất cả sức mạnh tình yêu của mình với anh. Sau hai mươi tư tiếng, cái chết sẽ gội sạch những lời lẽ quá dạn dĩ ấy. Lời thú tội của cô rất ngắn gọn, cô chỉ nói "Con yêu René" và xưng tội của một mình cô. Vị cha cố đi ra khi trời vừa sáng, ông ta ở bên cô nửa giờ.
Lúc ra ngoài, ông tiến đến bên René bảo:
- Hãy đến bên cô bé thánh thiện đang yêu con đi. Con đừng bận tâm, hãy an ủi cô bé ra đi.
Khi bước vào phòng Jane, René thấy cô đang giang tay chờ mình.
- Hãy ngồi xuống cạnh em hỡi người yêu dấu của em - Cô nói - Trước hết anh phải biết là anh sẽ không rời xa em cho đến lúc cái chết đón em đi.
- Trước hết cho anh xem chân em thế nào rồi.
- Để làm gì cơ chứ? Bản án của em chẳng phải đã tuyên rồi hay sao? Bây giờ em chỉ còn sống thêm hai mươi ba giờ nữa. Em không cần giảm án, không cần giúp đỡ, em đang hạnh phúc.
- Cha đã nói gì với em thế?
- Một lô những điều hay ho mà em không nhập tâm được. Cha đã làm em hy vọng. Ông nói với em rằng chúng ta có những tinh thần vô hình bay bổng trong không trung bao bọc, rằng chúng ta không thể phân biệt được chúng vì chúng tan trong không khí và trôi nổi trong gió. Những tinh thần này là linh hồn của người yêu mến chúng ta. Họ lượn lờ quanh chúng ta, lướt vào chúng ta, thì thầm những từ ta không hiểu được khi ta thức và nói chuyện với ta khi ta ngủ. Họ biết điều chúng ta không biết vì họ ở trong bí mật của định mệnh: Vài lời thú nhận, vài linh cảm mà những linh hồn yêu mến chúng ta quá đã để chúng ta cảm thấy. Chúng ta không tin vào điều chúng ta thấy, đó là sự thật nhưng có vô số bằng chứng buộc chúng ta phải nghi ngờ sự yếu đuối và bất lực của cảm giác. Trước khi người ta phát minh ra kính hiển vi, tức là trong gần sáu nghìn năm, một nửa những sinh thể ngày nay phát hiện được đã không được biết đến. Người đầu tiên nhìn vào thế giới vô cùng nhỏ bé ấy đã cho rằng thế giới này là vô hạn và đã bị coi là điên. Thế thì biết đâu một ngày - Cha nói với em - Một ngày người ta sẽ chế tạo ra một công cụ cho phép nhìn được những vật thể vô cùng trong suốt như người ta đã từng thấy các siêu vi. Vậy cho nên, bằng cách nào đó ngoài ngôn ngữ, người ta sẽ liên hệ với các thiên tinh ấy, thứ mà chỉ thi ca đã nghi ngờ sự tồn tại của chúng. Anh René yêu quý, cái ý nghĩ rằng linh hồn em sẽ không rời xa anh, một khi chết đi em vẫn có thể theo anh bất cứ đâu, hoà vào không khí anh thở, ở trong làn gió ve vuốt mái tóc anh cái hy vọng ấy dù rất phi lý vẫn làm em vui khôn xiết. Shakespeare chẳng đã từng nói: "Còn biết bao điều trong trời đất này mà triết học loài người không tưởng tượng được" đó sao?
Giọng nói của Jane nhỏ dần và với những từ cuối cùng cô gục đầu vào vai anh.
- Em đau à? - Chàng trai hỏi.
- Không, không hẳn như vậy, em chỉ yếu đi, chỗ chân bị cắn đang đông lại. Đó là nơi em bước vào hầm mộ. Cái lạnh sẽ lên dần dần như thế, khi nó đến tìm em sẽ chuyển từ giường ngủ sang chiếc giường vĩnh hằng.
Vì René thấy cô dang thiu thiu nên không nói gì nữa để cô tìm trong giấc ngủ chút sức lực cho cuộc chiến cuối cùng. Giấc ngủ của cô bất an, đầy những cơn giật mình và nói mê sảng.
Hélène lên phòng anh. Cửa phòng hé mở và cô ló đầu đưa mắt hỏi em mình ra sao. René chỉ cô trên vai mình. Hélène bước vào lại gần và hôn lên trán em.
- Lạy Chúa! Hélène, cô hỏi mọi người nhà xem có làm gì, dù không chữa khỏi cũng an ủi cô bé tội nghiệp này không?
- Ồ ngài nghĩ tôi chưa hỏi ai, kể cả người không biết gì nhất hay sao? Tất cả đều nói cái chết không đau đớn nhưng không thể tránh khỏi. Hãy nói với cô ấy rằng tôi để cô ấy một mình với ngài không phải vì tôi dửng dưng mà vì tôi không muốn tước đi niềm vui cuối cùng của em tôi.
Rồi cúi xuống lần thứ hai. Hélène hôn em lần nữa và lại nhón gót chân đi ra.
Hélène vừa đi khỏi, đôi mắt Jane lại mở ra chúng trân trân bất động một lát rồi cô thở dài.
- Anh René yêu quý! Em vừa mơ một giấc mơ đẹp làm sao! Em thấy rõ, như đang thấy anh vậy này, một thiên thần lộng lẫy rực rỡ trong ánh sáng xuống gần giường em, hôn lên trán em và nói: "Đến với chúng ta, em gái chúng ta chờ em!" Rồi thiên thần hôn em lần nữa và bay đi.
Nếu nói thật, René sẽ tước đi ảo tưởng đẹp nên anh im lặng.
- Bây giờ người yêu dấu của em - Jane nói tiếp - Hãy để em nói đến một chuyện. Hôm nọ khi em quyết định không đi theo anh. Anh đã thấy em chọn những viên đá quý và cho vào một túi riêng đúng không?
- Đúng vậy Jane ạ. Anh định hỏi em muốn làm gì nhưng nghĩ như vậy thật khiếm nhã nên lại thôi.
- Em cũng đoán được ý định của anh. Nhưng vì chưa đến lúc nên em không nói gì cả.
- Chiếc túi ấy thêu hai chữ C và S bằng tay - René nói.
- Hai chữ ấy làm anh tò mò đúng không?
- Đó là chữ viết tắt của Claire de Sourdis.
- Đúng thế. Đó là chiếc túi dành cho Claire de Sourdis của em. Một ngày nào đó khi anh làm Napoléon quên đi lỗi anh mắc phải khi anh có được vị trí xứng đáng, tiểu thư Claire de Sourdis sẽ trở thành vợ anh. Khi đó anh sẽ nói với chị ấy rằng: "Anh đã gặp, ở xứ sở nhiệt đới với những đam mê cháy bỏng, hai cô gái, hai người em họ. Ban đầu, anh đã cứu danh dự của họ rồi cuộc sống của họ. Khi xa em, dù luôn nghĩ đến em, anh vẫn dành mạng sống của mình cho họ. Cô em bất hạnh qua đời: Anh yêu cô ấy bằng một tình bạn đằm thắm nhưng trái tim anh không thuộc về cô ấy, nó thuộc về em. Cô ấy chết vì tình yêu đó là một trong những tình yêu chỉ gây tử biệt khi nó không sống được. Nhưng trước khi chết cô ấy đã chuẩn bị cái túi này từ tài sản riêng của mình nó bao gồm ba món quà hoàn chỉnh, một viên hồng ngọc, một viên ngọc saphia và một viên ngọc bích. Tự tay cô ấy chọn chúng trong số lượng đá lớn gấp mười lần. Tự tay cô ấy cũng thêu tên viết tắt của em trân chiếc túi này. Cuối cùng, trước khi qua đời, cô ấy nhờ anh trao lại nó cho em, đây là món quà cưới. Em không được quyền từ chối nó vì nó được tặng cho em từ bàn tay của người dưới mộ. Em đừng ghen, anh không bao giờ yêu cô ấy vả lại người ta không cần ghen với người đã chết.
René khóc nức nở.
- Thôi em đừng nói, Jane, em đừng nói nữa.
- Lần nào anh nhìn thấy ba đồ trang sức này, anh sẽ buộc phải nghĩ đến em.
- Ôi Jane, Jane? - René lêu lên - Em có thể nghĩ anh có lúc nào lại quên em ư?
- Em khát nước - René, cho em uống nước.
Nhu cầu uống nước là điều duy nhất cô đòi ba lần từ sáng.
René đưa ly nước và Jane uống lấy uống để. Trán cô sẫm lại, cô có vẻ ngày càng yếu.
- Không ai đến hỏi han em à? - Jane hỏi - Hình như chị gái em thực hiện lời em yêu cầu được ở riêng với anh.
René thấy tiếc vì trong thâm tâm Jane đã đổ lỗi thờ ơ cho Hélène. Anh tự trách mình giấu chuyện thăm ban nãy.
- Đừng trách Hélène - Anh nói - Cô ấy đã đến đây trong khi em ngủ.
- À - Jane cười - Em không nhầm mà, chính chị ấy là người em đã thấy trong giấc mơ, em lại tưởng chị ấy là thiên thần từ trên trời. Chị Hélène yêu quý, chị ấy chẳng khác gì các thiên thần, chỉ cần thêm đôi cánh nữa thôi.
- Jane này - René nói - Anh không rời em một giây phút nào cả, nhưng em cũng đừng khiến những ai yêu quý em đau lòng vì không được em gặp không lo nghĩ đến họ khi em sắp xa họ mãi mãi.
- Anh nói đúng René, hãy gọi mọi người lại đây.
René nhẹ nhàng đặt đầu cô xuống gối và đi gọi Hélène.
- Đến ngồi lại bên em đi - Jane bảo anh - Không ai được quyền như anh, ở bên em cho đến khi em chết. Đêm nay, em không muốn ngủ. Khi mọi người trở về, anh sẽ bế em ra ngoài hiên nơi chúng ta từng trải qua những giờ phút hạnh phúc. Em sẽ vĩnh biệt bầu trời, các vì sao, tất cả và anh.
Họ nghe tiếng bước chân những người đến cầu nguyện bên Jane, đầu tiên là chị gái Hélène của cô, James Asplay và vị cha cố.
Sau những người đó là ông già Rémi, ba con trai của ông, Adda và François. Sau François đến lượt người làm, gia nô người Miến và đám người da đen. Tất cả đều quỳ gối. René đứng ở đầu giường. Cha có đứng giữa phòng, tất cả những người khác quỳ quanh ông.
Thật xứng đáng thay một người như cha Louis. Ở bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng tìm được ngôn từ thích hợp. Bản diễn ca của ông là một lời từ biệt cảm động của cô thiếu nữ đến những điều mới lạ, đến những bí ẩn của tình yêu, đến sự dịu dàng của việc kết hôn, niềm vui làm mẹ. Ông đối lập những thứ trên với hạnh phúc vĩnh hằng, thần thánh dành cho những người con được Chúa lựa chọn.
Jane lại ngất đi lần thứ hai. Cha cố là người đầu tiên nói:
- Ta nghĩ không ai thánh thiện hơn đứa con ngoan đạo này, cô ấy không cần phải cầu nguyện cũng về được trời.
Ở lại bên Jane chỉ còn René, Hélène và James. René cho Jane ngửi muối. Cô rùng mình, làm vài động tác theo bản năng, mở mắt trở lại và mỉm cười. Cô thấy quanh mình có tất cả những người yêu quý cô và những người còn yêu cô mãi, cả người cha đang chờ cô trong giáo đường. Cô đưa tay cho Hélène và Hélène một lần nữa sà vào vòng tay em gái.
- Chị biết là em không thể sống được nữa, chị Hélène yêu quý của em - Jane nói - Em đã hỏi bà già khốn khổ người cho em cái chết nhẹ nhàng nhất, bà ta đã hướng dẫn cho em để rắn khoang cắn. Nếu em chết đó là em muốn như vậy và đừng trách em nếu René rời xa em hôm nay, em sẽ chết từ từ trong đau đớn và buồn khổ. Chính em phải là người bỏ anh ấy em không muốn thế nhưng bất hạnh mà người ta tự chuốc cho mình lúc nào cũng không thể chịu nổi. Đó là thứ số phận áp đặt mà người ta không thể cam chịu. Hãy xem em bình tĩnh và hạnh phúc biết bao. Nhìn chị thế kia người ta lại nhầm tưởng chúng ta đổi vai thì sao? Chị khóc còn em lại cười. Chị Hélène yêu quý của em, để cái chết đến với em như em mong muốn, cứ để em ra đi trên vai anh ấy, bàn tay yêu dấu của anh phải mãi mãi ấp tay em trên ngực em. Chị còn nhiều tháng ngày hạnh phúc phía trước, em chỉ còn vài phút nữa thôi. Hãy để em với anh ấy. Anh ấy sẽ là người đi báo cho chị biết.
Hélène ôm hôn em lần cuối, James nắm chặt tay cô. Người ta nhận thấy trong nét bình thản trên khuôn mặt cô có một cơn run run đau đớn và một giọt nước mắt chảy ra qua đôi rèm mi khép lại rồi cả thân hình cô được bóng dáng của Hélène chùm lên ôm chặt lấy cô như thể Hélène sợ cái chết giằng mất người em của mình.
Thời gian vẫn trôi, đêm đến và dù trong phòng không có ánh sáng đêm ấy vẫn là đêm sáng tỏ, người ta có thể nhìn rõ như trong một buổi chiều tà.
- Thời điểm ấy đến gần quá rồi - Jane nói - Em thấy cái lạnh đang dần ngấm dần, em không đau nữa, em chỉ thấy không thể sống được. - Cô chỉ vào thắt lưng nói.
- Từ đây em không nhìn thấy gì nữa. Hãy mang em ra chỗ ban công của chúng ta. Em muốn nói lời vĩnh biệt anh ở đó, đó là nơi em sẽ ra đi.
René ôm Jane, bế cô ra ngoài ban công đặt cô ngồi vào lòng. Đến đó, cô gái như thở được và tươi hơn. Đêm trong suốt như đêm hôm trước. René nhìn qua bãi cỏ con đường mà Jane đã đi. Anh thấy mụ da đen đến bên cô. Anh nghe tiếng cô hét lên rồi ngã xuống, anh thấy mụ da đen lăn ra sau phát súng của mình. Tất cả cảnh tượng ấy bày ra trước mắt khiến anh khóc nức nở. Anh áp Jane vào lòng mà rên siết.
- Ôi! Jane, Jane yêu quý!
Jane mỉm cười.
- Anh làm tốt thật vì không nói câu ấy với em từ hôm kia, nếu không em đã không thể quyết định ra đi nổi.
Cô im lặng một lát, mắt cô mở to như muốn nhìn cá René và bầu trời.
- Ôm em chặt trong vòng tay anh nữa đi, anh René - cô nói - Hình như anh đang để em tuột khỏi anh.
- Ồ không - René kêu lên - không, ngược lại, anh đang ôm em chặt có thể đây.
- Nếu thế, là cái chết đang kéo em về phía nó rồi. Bảo vệ em, René! Hãy bảo vệ em!
Đôi tay quàng lên quanh cổ René cứng đờ và cô ngả đầu vào ngực anh. René cũng gục đầu mình vào đầu cô.
Một lát sau, anh cảm thấy cô run lên. René ngẩng đầu và nhìn thấy khuôn mặt cô co giật vì đau đớn.
- Ôi! Cô hét lên - Nó cắn vào tim nó cắn vào tim.
Bằng một động tác kéo đầu René xuống cô áp đôi môi mình vào môi chàng trai: "Vĩnh biệt! Vĩnh biệt" - Rồi bằng giọng lí nhí không rõ ràng cô nói thêm: Tạm biệt! Có thể…
Rồi cô thả lỏng toàn bộ sức nặng của cơ thể lên tay René.
Anh nhìn cô: mắt cô vẫn mở, nhìn như cô vẫn thấy. Anh áp tay lên ngực, tim cô ngừng đập. Anh áp má lên môi cô: hơi thở đã tắt, hơi thở cuối cùng chạm vào mặt anh đã mang linh hồn cô ra đi.
Anh im lặng nhìn cô vài phút. Anh cứ luôn nghĩ chỉ một từ hay một cử động nào đấy sẽ cho cô tỉnh lại lần cuối.
Nhưng không cô đã ra đi, ra đi mãi mãi.
René đưa cô trở lại phòng, đặt cô lên giường bắt chéo hai tay trước ngực và gõ chiêng. Tất cả mọi người chạy đến. Hélène và James là người đến đầu tiên.
- Tất cả đã chấm dứt - René nói.
Tiếng khóc vang lên từ tứ phía. Hélène lại gần. Giang tay định vuốt đôi mắt còn mở.
- Ồ không - René nói và nhẹ nhàng đẩy tay Hélène ra - cô biết rõ tôi là người phải làm việc này.
Anh đưa tay vuốt mắt cho Jana. Đôi mắt ấy bây giờ chỉ mở trước ánh sáng của ngọn lửa xa lạ dẫn dắt linh hồn đến miền vĩnh hằng. Làm xong động tác thành kính ấy, René lao ra ngoài phòng và nói:
- Hãy ở lại với thi thể, nếu thi thể này có một linh hồn tôi sẽ mang linh hồn ấy đi cùng tôi.
Thật ra, chỉ có một trong hai người vào lúc ấy biết được cái bí mật sâu xa mà họ thường nói với nhau trước những vì sao đêm.
René không yêu Jane như một người tình mà như một người bạn trai dịu dàng nhất, một người anh tận tụy nhất. Con người sắt thép này cần được ở một mình để khóc.
Jane đã chết. Khí hậu quá nóng bắt buộc tang lễ phải được cử hành ngay. Chỉ còn mình cha cố ở bên cô. Hélène đã trở về phòng mình và kết thúc đêm tân hôn bằng cách khóc em như mưa như gió trong vòng tay chồng. Cuối cùng, ông già Rémi và ba con trai lo mọi chuyện hậu sự, trong khi Justin trang trí toàn bộ giáo đường bằng hoa thì Adda lo khâm liệm thi thể, đặt Jane giữa những cành tươi trên đệm và một cái gối dệt từ sợi cây lô hội, vào cỗ quan tài bằng gỗ tếch do Jules và Bernard chuẩn bị.
Năm giờ ngày hôm đó, tiếng chiêng buồn bã vang lên báo hiệu lễ tang sắp diễn ra. Tất cả mọi người trong khu nhà tập trung trước sân, trên bậc thềm cỗ quan tài đã đặt sẵn: Mọi người cầu nguyện lần nữa và bốn thiếu nữ đưa cỗ quan tài vào giáo đường.
René đã thả hai con voi. Như thể chúng hiểu nỗi bất hạnh ấy nên cũng đi theo đoàn người và hoặc vì thấy thiếu cô gái hoặc hiểu mọi người đang đau buồn mà chúng cũng buồn thiu đứng cạnh hai bên cửa giáo đường bất động và câm lặng.
René được đưa vào hầm mộ nơi Ève và tử tước Sainte-Hermine đã yên nghỉ. Theo thông lệ từ thời nguyên thủy, sau khi nghi lễ tôn giáo là một bữa ăn lớn trong đó cả nô lệ thấp kém cũng được tham dự.
Jane chết, René càng quyết tâm rời khỏi khu nhà và ngay hôm sau tang lễ. Anh thông báo mình sẽ ra đi. Dù mang ơn anh với những gì anh đã làm cho hai chị em họ song sự hiện diện của anh vẫn khiến Hélène thêm buồn. Hélène là người hiểu quá rõ tình yêu của Jane với người đàn ông này đã giết chết cô. Nhưng vì Hélène không biết tên thật và xuất thân của René nên cô không thể ngăn mình nghĩ rằng chính anh là nguyên nhân gây ra cái chết của em gái mình. Thay vì những lời cảm ơn nồng nhiệt cô lại dè dặt nhắc đến khoản chi phí của René trong chuyến đến Miến Điện. René chỉ mỉm cười nhìn cô hôn tay cô rất lịch lãm và Hélène hiểu mình không nên nói thêm về chuyện này. Như thể cũng đoán trước sự từ chối đó, cô tặng cho René một hộp nhỏ do Jules chế tác đựng đầy đá quý nhưng René rầu rầu rút từ ngực ra chiếc túi cho chính tay Jane thêu mở ra cho Hélène xem.
Tuy thế anh vẫn đễ chiếc hộp Jules làm xuống bàn chọn một viên đá saphia đẹp nhất trong số những viên đá quý Hélène tặng và nói.
- Viên đá quý này, tôi sẽ làm một chiếc nhẫn và sẽ đeo mãi không rời.
Hélène chìa hai má cho René và nói:
- Ồ đó lại là chuyện khác, đó là món quà của một cô em gái cho anh trai.
Và René ôm hôn cô.
Ngày hôm sau, tất cả đã sẵn sàng cho chuyến ra đi. Đoàn người vẫn như khi họ đến, chỉ riêng hai con voi là Jane muốn giữ lại ở khu nhà nên được René để lại. Khi James, đến lượt mình và trong hy vọng may mắn hơn Hélène hỏi anh định giá lũ voi bao nhiêu thì René trả lời.
- Jane đã ngỏ lời và tôi trao chúng cho cô ấy. Chúng là của cô ấy.
Ngày hôm sau trời mới hửng sáng đoàn người đã sẵn sàng và chờ trong sân.
Trong giây lát, người ta thấy lo cho René. Anh không xuống khỏi phòng, khi người ta lên xem, anh không ở đó. Mọi người bổ đi tìm thấy anh đang ở cạnh Jane.
Còn một chuyến viếng thăm cuối cùng nữa, đó là thăm Omar và Ali. Ban đầu, hai con voi này tưởng người ta mang nó đi với anh, nhưng chúng nhanh chóng nhận ra mình không tham gia vào cuộc hành trình và vốn không đủ lịch sự để che giấu nỗi buồn, chứng tỏ những cử chỉ rõ ràng nhất và ấn tượng nhất với anh.
Họ chia tay nhau ở nơi họ đã gặp nhau lần đầu trên Đất Trầu.
James khăng khăng muốn tặng khẩu Manton tuyệt đẹp của mình cho René và René cũng tặng lại khẩu súng của anh. Hélène có thể tặng nhiều hơn, đó là chìa cặp má cho anh hôn tạm biệt.
Lần trở về này vì không có phụ nữ đi theo làm chậm trễ cuộc hành trình nên quãng đường từ Đất Trầu đến Pégou chỉ phải nghỉ một chặng.
Như vậy, họ phải ngủ lại bên hồ để ngày hôm sau đi thẳng một mạch tới Pégou.
René và François trèo lên hai con ngựa Miến dáng đẹp và khoẻ không biết mệt. Những người còn lại đi bộ, nhưng kỳ lạ thay là họ còn khoẻ hơn cả ngựa.
Đoàn người nghỉ một lát lúc buổi trưa để tránh cái nóng nung người dưới bóng mát của rừng rậm. Được ba anh em Justin cho rất nhiều trầu. René chia cho mọi người và hứa với họ chỉ một lần nghỉ tối và nghỉ trưa mai là về nhà.
Khoảng năm giờ chiều, họ đã đến hồ nước.
Vừa đến nơi, dù từ xa họ nhìn thấy bập bềnh trên mặt nước những hình thù như thân cầy bị bật rễ, những con cá sấu thân rất dài nhưng vài người da đen và người Indu không thể cưỡng lại ý muốn lội xuống tắm. Họ chỉ cần cởi một loại áo chùm giống như váy dài đến đầu gối là đã ở trong trang phục của người tắm. Họ cởi áo và nhảy xuống nước. Trong khi đó René và François đứng canh súng lăm lăm trong tay, lúc nhìn xuống hồ lúc nhìn vào mảng rừng rậm chằng chịt.
Chú thích:
(1) Nàng Eurydice trong thần thoại Hy Lap vợ của Orphée bị Arist truy đuổi và bị một con rắn độc cắn chết
Đột nhiên một người đang bơi kêu ré lên rồi biến mất dưới làn nước. Chắc chắn là một con cá sấu đã lặng lẽ lại gần anh ta ngoạm vào chân và lôi xuống đáy hồ.
Với tiếng hét hoảng hốt và kinh hãi như thế, tất cả những người khác vội bơi vào bờ. Nhưng phía sau họ vài bước người ta đã thấy một con quái vật rẽ nước bơi lại. Người bị đuổi vội tăng tốc bơi lại gần bờ gấp hai lần.
Anh ta vừa đứng trên mặt đất cũng là lúc con cá sấu nhô cái đầu lên khỏi mặt nước. Nó bám chân bò lên đất. Người da đen chỉ cách nó chục bước vội chạy hết sức về phía René.
- Này, có chuyện gì thế - René cười hỏi.
- Một con cá sấu, nó muốn dùng tôi làm bữa trưa - Người da đen đáp.
Trong lúc ấy, con cá sấu đã lên hẳn trên bờ chuẩn bị đuổi theo người da đen mà nó nghĩ anh ta vừa chạy trốn.
- Này, - René hỏi - cá sấu có tấn công người trên cạn không?
- Tôi nghĩ chắc như thế thưa ông chủ, nhất là khi nó đã được nếm mùi thịt người rồi. Nhưng kìa nó đang lại gần phía tôi, bây giờ tôi sẽ săn nó.
- Nhưng cậu không có vũ khí? - René nói.
- Không cần - Người da đen nói rồi quay sang các bạn của mình - Ồ tui không cần, lại đây các anh tui chỉ cần một cái cây.
Và thay vì chạy trốn, con cá sấu dừng lại. Thấy con mồi có đồng loại giúp đỡ, nó ngại không tiến thêm.
Nhưng người da đen chạy lại thật gần nó khiến nó tưởng đớp được anh ta, há miệng ngoác vái miệng ra, song cái mõm nó khép lại như tiếng hai thanh ván va vào nhau. Con vật chỉ đớp được không khí.
Nó bắt đầu đuổi theo. Nhưng anh chàng châu Phi nhanh chóng leo lên cái cây gần đó vừa chỉ cho các bạn để kết thúc trò đùa với con cá sấu.
Anh ta vừa kịp lấy đà nhẹ nhàng leo lên cây như một con khỉ thì con cá sấu cũng trườn cách anh ta mươi bước. René nghĩ anh chàng da đen đã qua khỏi cơn nguy hiểm thì thấy con cá sấu nặng nề trườn lên cây như một loài bò sát quỷ quái nhích lên sau anh chàng da đen.
Anh ta bèn đu vào một cành nằm song song với mặt đất. Con cá sấu mải theo mồi cũng leo ra cành đó. Đến đây ai cũng lo cho anh chàng da đen vì đoán anh chắc thua. Nhưng anh ta leo ra đầu cành và nhẹ nhàng đu xuống đất.
Lập tức, các bạn của anh ta chạy lại giúp đỡ, họ túm đầu cành cây cùng nhau lắc thật mạnh khiến cành cây rung tít, đột ngột nên dù cứng đến mấy, con cá sấu bắt đầu hiểu nó đã rơi vào bẫy.
Bấy giờ nó có những cử chỉ sợ hãi chứng tỏ đã nhận ra mình sinh ra không phải để leo lên cây, nó thẳng đơ người, dùng hết sức của bốn chân bám chặt vào cành, mặc cơn rung lắc mạnh, cố giữ thăng bằng. Nhưng cuối cùng nó phải lăn xuống mạn dưới thân cành cây như chiếc yên lăn xuống bụng con ngựa rồi rơi bịch xuống.
Thấy nó bất động, mấy người da đen chạy lạy. Nó đập đầu xuống đất trước nên bị gẫy cổ.
Một tiếng sau, đoàn người ngồi quây quần bên một đống lửa lớn ăn thịt cá sấu chứ không phải bị nó ăn thịt.
Đêm xuống rất nhanh. René ra lệnh cho tất cả mọi người đi nhặt củi cạnh rừng để đốt một đống lửa lớn xua các oải rắn rết, thú dữ và cá sấu.
Mười phút sau, người ta đã lượm đủ củi đốt cho cả đêm. René dùng củi dựng thành đống sao cho họ có thể chất thêm khi lửa lụi dần.
Cuối cùng anh mời trầu cho mọi người khiến họ rất vui rồi để mọi người đi ngủ. Anh tuyên bố mình cùng François sẽ canh cho tất cả bọn họ.
Đống lửa đã cháy. Đêm xuống cùng với bản hoà nhạc tang tóc của tiếng hổ gầm gào, tiếng báo rên gừ gừ và tiếng cá sấu rền rỉ giống tiếng khóc của trẻ con. Hình như tất cả đều lên tiếng để doạ nạt con người: rừng, nước như chiến trường cho đội quân của quỷ sẵn sàng xông vào xâu xé nhau. Không khí là kẻ cuối cùng xung vào chiến trường ấy. Vào khoảng mười một giờ những con dơi to như chim cú đến lượn trên đống lửa vừa thêm những nốt chói tai vào bản hoà ca kinh sợ ấy vừa bay trên lớp khói như thể đám khói ấy bốc lên từ cửa địa ngục.
Phải có trái tim ba lần bọc thép như Horace nói mới không run sợ trước âm thanh ấy. Dù là người vô cùng gan dạ, François trong giây lát vẫn thấy lòng can đảm chạy đi đâu mất. Anh ta đặt một bàn tay lên cánh tay của René, tay kia chỉ cho anh hai đốm sáng nhấp nháy trong rừng cách họ khoảng ba chục bước chân.
- Im lặng nào - René nói - Tôi thấy chúng rồi.
Rồi điềm tĩnh đặt báng súng lên vai ngắm mục tiêu, anh bóp cò.
Một tiếng rú lồng lộn đáp lại phát súng của anh. Sau đó, như thể tiếng rú ấy là dấu hiệu đánh thức vô số những tiếng hú khác quanh cái trại nhỏ, cả chốn rừng hoang đang đe doạ.
- Chất thêm củi vào đống lửa đi - René bình tĩnh nói.
François tuân theo.
Bị giật mình tỉnh dậy, những người Miến và người lndu kẻ quỳ người đứng.
- Ai trong số các anh trèo lên một cái cây kia và chặt cành xuống được? - René hỏi bằng tiếng Anh.
Một người Miến đứng ra mượn François thanh gươm và nhanh nhẹn leo lên cây gần trại nhất. Cành cây đổ rào rào xuống tứ phía. May thay, đó là cây có nhựa cháy, những cành đầu tiên vừa ném thành một vòng tròn, lập tức một vòng lửa dựng lên như bức thành ngăn khu trại với cánh rừng. Tuy thế, tại nơi René vừa nhả đạn những tiếng rên rĩ vẫn vang lên: hoặc con hổ bị thương chưa chết hoặc theo thông lệ, kẻ bạn tình của nó vẫn quẩn quanh.
René bắt đầu nạp đạn và đưa cho François giữ bốn khẩu súng trường tạo thành một dàn pháo của anh. Sau đó, anh lượm những hòn than hồng ném lên cây vừa bị chặt. Thân cây bắt lửa. Chỉ trong chốc lát, ngọn lửa quấn lên thân, lên ngọn tạo thành một đống lửa khổng lồ chiếu sáng cả vùng năm chục bước quanh đó. Nhờ thế người ta thấy bên hồ những con cá sấu đang cố bò lên bờ trườn nhẹ đến chỗ đoàn người.
René tiến về phía hai con bò sát khổng lồ trong giây lát đang lưỡng lự bò tiếp vì sợ lửa. Người ta quan sát cặp mắt to ngây dại của chúng đang ngỡ ngàng, cơ thể chúng bị chạm phải lửa quá nóng đang rúm người lại. Mỗi mắt chúng phải to như đồng năm phăng, một con đang tiến về phía René. Anh bắn một phát đạn vào mắt con gần nhất đang cách anh khoảng chục bước. Con này quằn quại rồi lăn nhào trở lại phía hồ nước vài bước.
Thế là anh chàng da đen vừa săn cá sấu ban nãy vớ lấy cành cây có một đầu đang cháy dùng nó như một mũi lao phóng thẳng vào họng con quái vật. Con này kêu rú lên ghê người, đi dập lửa bằng cách lao xuống hồ. Con thứ hai thấy sợ trước những gì xảy ra với bạn nó liền lùi lại và cũng trườn xuống nước.
Trong khi đó, cái cây vẫn cháy đùng đùng. Từ ngọn cây rụng xuống những cành cháy đỏ đổ lửa xuống vạt cỏ lan sang những cây lân cận. Chẳng mấy chốc lửa lan ra thành vòng rất rộng. Gió từ mặt hồ thổi lên đẩy mạnh đám lửa trước mặt nó đi xa. Lửa lan đến đâu người ta nghe những tiếng các con vật đến đấy. Giữa những tiếng kêu tán loạn có tiếng phun phì phì của lũ rắn vừa chạy vừa trườn cái đuôi của chúng lên cành cây nơi chúng đang quấn đậu.
- Thôi nào các bạn của tôi, - René nói - Tôi nghĩ bây giờ chúng ta có thể yên tâm ngủ được rồi.
Và khi nằm giữa vòng trong lửa, năm phút sau quả nhiên anh đã ngủ ngon lành như đang ở khoang tàu của mình vậy.
Sáng sớm hôm sau, René thức dậy, còn François, anh ta không thể làm như vậy. Là lính canh cần mẫn, anh ta đã gác cả đêm. Không một con thú nào, ngay cả cá sấu, đến quấy quả nữa.
Khi thức giấc, René ra hiệu xuất phát và không quên cho mọi người uống chút rượu arack và nhai trầu. May thay lũ ngựa đã bị buộc níu vào nhau, nếu vì sợ đám lửa bị mặt hồ phản chiếu như một tấm gương khổng lồ mà chúng chạy trốn, e là chúng không thành công.
Tất nhiên đã có một lúc tất cả loài vật sống ở chốn đáy sâu của cái mặt nước này không hiểu chuyện gì xảy ra. Rừng đã cháy rộng đến nửa dặm và ngay cả hồ nước cũng giống như một hồ lửa.
Hôm sau, khi trời sáng rõ, tất cả đã chạy trốn. Người ta không nghe thấy tiếng hổ gầm, tiếng rắn phun phì phì, tiếng cá sấu xì xoạt. Tất cả đều im lặng, tất cả đều đã chạy trốn đám cháy đến nỗi người ta còn nghe tiếng bước chân bên rừng rậm.
Mọi người nhìn René đầy ngưỡng mộ. Ban ngày một người có thể đối diện với nguy hiểm mà không nao núng nhưng ban đêm vẫn người ấy có thể lại run lên trước mối lo hoặc trước sự việc mà ban ngày anh ta cho là quá dễ. Nhưng tâm hồn của René là nước thép đặc biệt nên nỗi sợ không thể xâm nhập được.
Đoàn người tiếp tục đi bộ. Không ai thú nhận nỗi sợ đang đè trĩu trong người họ nhưng những bước chân của họ cho thấy ai cũng muốn mau chóng thoát khỏi cánh rừng nguyền rủa ấy.
Khoảng hai giờ chiều người ta đã nhìn thấy bìa rừng và ai nấy đều thở phào. Họ nói đến chặng nghỉ và ăn tối nhưng phải đến lúc ra khỏi rừng người ta mới dám thực hiện dự định ấy, cái dự định mà nếu thực hiện trong rừng có lẽ được coi là khá táo bạo với cả những người dũng cảm nhất.
Khi ra đến đồng bằng lúc trời còn sáng mọi người mới bắt đầu nhận ra rằng họ đã đi từ sáng mà chưa ăn gì. Họ vui vẻ ngồi xuống, lấy đồ ăn đeo hai bên sườn ngựa gồm một chiếc đùi linh dương quay và hun khói, mỗi người cắt một miếng, vừa ăn vừa uống một ly rượu arack.
Sau đó, chỉ mất hai ba tiếng đi bộ trong địa hình bằng phẳng và họ không gặp tai nạn nào cho đến khi về thành Pégou.
Con tàu của René không hề di chuyển. Nó vẫn bập bềnh bên mỏ neo.
René ra hiệu, lập tức chiếc xuồng nhỏ được tháo khỏi mang tàu Tay đua New York đến bờ đón anh. Người đến chờ René thanh toán tiền thuê người, ngựa và voi đang đợi anh trên tàu.
Ngay tối hôm ấy, họ thanh toán mọi khoản trước sự chứng kiến của ông chủ cảng. Riêng hai con voi mà René làm quà tặng cho Hélène không có trong hợp đồng nên chuyện sẽ được bàn với ngài Shabunder. Như đã nói ở trên, chức danh Shabunder tương đương với chức cảnh sát trưởng hải quân ở Anh.
Không gì có thể níu giữ René ở lại Miến Điện nữa, chỉ ngẫu nhiên đã dẫn anh đến đây. Nghĩa vụ gia đình anh đã hoàn tất, không còn lý do gì mà lưu luyến chốn này. Vì vậy, ngay hôm sau họ thuê người hoa tiêu dạo trước đi xuôi dòng Pégou.
Đó là ngày 22 tháng Năm năm 1805.
René hoàn toàn không biết chuyện gì xảy ra ở Pháp từ ngày anh rời Saint-Malo lên tàu Revenant một năm trước.
Cũng không phải có quá ít lý do để người ta tiếc thương tổ quốc nơi sinh ra ta. Vả lại, René đã rời nước Pháp ở thời điểm có nhiều sự kiện trọng đại đang phôi thai. Ngài Bonaparte đã quyết định sinh tử với nước Anh. Liệu ông ta có theo đuổi dự định ấy hay đã từ bỏ nó rồi? Đây là điều không ai có thể nói với anh từ khi anh đến An Độ.
Có lẽ khi về đến đảo Pháp, gặp lại thuyền trưởng Surcouf, ông ta có thể cung cấp cho anh vài tin tức gì đó chăng. Nhờ dòng sông mang tàu Tay đua New York ra biển, họ chỉ mất ba ngày là vượt đoạn đường từ Pégou đến Rangoon. Ngày thứ tư, họ vào biển.
René chỉ đạo nước chạy con tàu về mũi đảo Sumatra. Mười ngày sau anh nhận ra mũi Achem. Ngay tối hôm ấy anh vượt qua nó đi vào một khoảng không mênh mông vô tận trải dài không có mỏm đá nào từ Achem đến Chagos.
Sớm hôm sau, thủy thủ canh gác hô to "Có tàu!", lập tức René chạy lên boong tay cầm ống ngắm.
Quả thật từ phía trên múi Jouzou, người ta nhận ra ba con tàu, hai chạy về phía quần đảo Chagos và một tiến đến chỗ họ. Qua vẻ bề ngoài René đoán hai tàu đều là tàu buôn. Nhưng ở thời điểm ấy tàu buôn cũng trang bị vũ khí như tàu của chính quyền. Tuy nhiên, René lại tập trung toàn bộ sự chú ý của mình vào con tàu đang tiến đến gặp họ. Qua dáng vẻ nhẹ nhàng và lướt nhanh của nó, anh dễ dàng nhận ra đây là một tàu có vũ khí dùng để săn đuổi.
René chuyển ống ngắm cho François chỉ nói gọn "Nhìn kìa!" nhưng toàn bộ sức nặng đó đè lên câu nói ấy.
François cầm ống ngắm nhìn một hồi rồi không thể kìm được cơn run lên vui sướng. Thấy René mỉm cười, François trả anh ống ngắm và thì thầm:
- Tôi xin thề đúng là nó.
Một phát đạn pháo của con tàu đang ấy tách biệt vang lên, cờ hiệu của nó cuộn quanh một lớp khói.
- Cậu thấy chưa, cờ Cộng hoà đấy - René bảo François.
Hai con tàu đang chạy cầm chừng lập tức cũng đáp trả bằng một phát đạn đại bác và giương cờ Anh lên.
- Giương tất cả buồm lên! - René ra lệnh - Quay mũi tàu về phía có đụng độ!
Tàu của René cách đó độ hai dặm biển nhưng trời ít gió lên chẳng mấy chốc tàu của anh cũng nằm giữa đám mây khói. Việc ít gió không quan trọng đối với con tàu có thể chạy năm đến sáu dặm một giờ như Tay đua New York.
Càng đến gần, lớp khói càng dày vấn vít lấy ba chiếc tàu. Tiếng đạn pháo không ngớt từ những cái miệng lửa tạo thành những tiếng vang rền rĩ đến từ phía Mã Lai giống như tiếng sấm dai dẳng không dứt. Ba chiếc thuyền buồm đã vờn nhau gần một tiếng thì René ra lệnh chuẩn bị lao vào lớp khói mù mịt bao quanh họ. Các pháo thủ vào vị trí, qua ánh mồi lửa René thấy tên một trong hai tàu là Louisa.
Bất cần nó thuộc quốc gia nào và thủy thủ đoàn của nó là ai! Anh chỉ biết con tàu buôn này đang chiến đấu với một tàu Pháp. Anh chỉ cần có thế!
- Khai hoả mạn trái! - Anh ra lệnh.
Sáu khẩu đại bác từ mạn trái đồng loạt nhả đạn. Rồi vượt lên trước con tàu đang ngỡ ngàng không biết mình gặp phải địch thủ nào, anh bắn hai phát dọc từ mũi xuống đuôi con tàu Anh. Một tiếng gãy răng rắc vang lên: cột buồm mũi đổ gục xuống boong tàu Louisa.
Qua làn khói ngày càng dày đặc, René nghe thấy giọng nói quen thuộc át mọi âm thanh: "Tấn công lên tàu!"
Lúc này cột buồm mũi của René vướng vào dây neo của con tàu trước mũi nó mà anh chưa biết tên. Mặc kệ, anh hoà theo tiếng hô ban nãy bằng một tiếng hô tương tự: "Tấn công lên tàu!"
Dứt lời qua một tia sáng, anh nhận ra một viên sĩ quan Anh trên bàn điều khiển con tàu anh vừa áp sát, René chuyển súng trường từ tay phải sang tay trái, vai rung mạnh nhả đạn và thấy tên người Anh lăn tròn xuống boong.
- Tấn công! - Các bạn ơi tấn công! Anh hét lên một lần nữa rồi lao đầu tiên lên cột buồm mũi trong khi chục người khác do François dẫn đầu cũng leo lên dây neo đu sang cột buồm theo sau chỉ huy của họ.
Người Anh còn đang ngỡ ngàng không hiểu những người này ở đâu ra hay từ trên trời rơi xuống thì giọng nói như sấm của René bằng tiếng Anh vang lên:
- Hạ cờ xuống cho tàu Tay đua New York?
Viên trợ lý trên tàu Anh giơ tay định ngăn lại lệnh nhưng tay hắn đã thõng xuống theo cơ thể, giọng nói của hắn nghẹn lại trong cuống họng, một viên đạn từ súng lục vừa xuyên qua thái dương hắn. Lần này tàu Anh hạ cờ và René nói bằng tiếng Pháp.
- Các bạn, dừng chiến, tàu Anh đã hàng rồi.
Nói xong anh lắng nghe. Tất cả đã im lặng.
Người ta cảm thấy một cơn gió thổi đến làm căng hai cánh buồm che phủ trận đấu và hai con tàu. Khói vẫn chầm chậm quấn lấy các cột buồm. Hai con tàu Anh đều đã đầu hàng vài phút sau, René nhận ra viên thuyền trưởng trên con tàu cộng hoà Pháp cũng làm chủ boong tàu địch thủ của mình giẫm chân lên cờ Anh.
René không nhầm: đó chính là thuyền trưởng Surcouf.
Cả hai đồng thời kêu lên vì sung sướng và vì chiến thắng.
Nếu như hai tay họ không với tới nhau được thì hai cái tên thốt ra từ miệng họ cho thấy hai người bạn đã nhận ra nhau.
Trong thời gian đầu, cả Surcouf và René không dám rời con tàu họ vừa chiếm được. Nhưng khi mời thủ tục vừa hoàn tất, các sĩ quan vừa chấp nhận đầu hàng, François được tuyên bố trở thành chỉ huy tàu Louisa và Èdeux, trợ lý của Surcouf trở thành chỉ huy con tàu ba cột buồm Le Triton thì hai chỉ huy René và Surcouf sai thả xuồng lòng biển để đi thăm nhau.
Đi được nửa đường, hai chiếc xuồng gặp nhau, René nhảy lên chỗ Surcouf và lao vào vòng tay của ông.
Hiển nhiên, họ bên nhau suốt ngày và ăn tối cùng nhau. Ai cũng tán dương tài nấu bếp của tàu mình để lôi kéo bạn nhưng cuối cùng họ đồng ý ăn tối trên tàu Tay đua New York. Kết quả là hai người bạn cùng trở lại con tàu của người buôn nô lệ da đen trước kia.
René kể vắn tắt chuyến đi của mình tới Miến Điện cho ngài Surcouf nào là những cuộc đi săn, những cuộc tấn công ngày đêm, trận quyết đấu với hải tặc Mã Lai, ầán đọ gươm với con trăn và không quên nhắc đến cái chết của Jane nhưng không nói gì đến hoàn cảnh vì sao cô qua đời. Cuối cùng, anh kể về Đất Trầu, vụ đốt rừng sau hai lần cá sấu tấn công và hổ tấn công.
Ngài Surcouf giậm chân thích thú. Ông nói:
- Đó là cái gọi đi một ngày đàng học một sàng… vui. Tôi cũng ba bốn bận đụng độ với quân Anh, bọn họ đều để bị bắt như một lũ ngốc. Hôm nay tôi đang ngỡ đụng phải miệng sói thì thật may cậu đã đến bắt nó phải ngậm mồm. Cậu tưởng quá mải lo đến hai tàu vừa rồi mà không thấy cậu đến ư, tôi có những con mắt tinh tường của các thuyền trưởng người Malo, Bretagne và Normand đấy! Tôi làm sao có thể ngạc nhiên khi nghe tiếng nhạc của những khẩu đại bác cỡ 16 ly lẫn vào tiếng đạn của chúng tôi nhé: Ngay khi anh bạn cất giọng, dù bằng tiếng Anh, tôi nhận ra ngay. Bấy giờ, cậu biết là chúng ta đã chiếm được chúng chưa?
- Thực tình là không! Tôi không chiến đấu để cướp tàu, tôi đến để trợ chiến cho ông.
- Được rồi anh bạn thân mến của tôi - Surcouf nói - Chúng ta vừa kiếm được lượng hạt tiêu có thể rải khắp đại dương từ Mũi Hảo vọng đến mũi Horn. Ba triệu tiền hạt tiêu anh bạn ạ, một triệu cho cậu và người của cậu.
- Một triệu cho tôi, để làm gì? Ông biết rõ là tôi không chiến đấu cho số hạt tiêu của ông.
Đành rằng là vậy, nhưng còn người của cậu? Người ta có thể từ chối một triệu cho mình nhưng cũng phải nghĩ đến mười tám hai mươi con người đáng thương trông mong có gì cho vào bát súp trong phần đời còn lại của họ chứ. Cậu có thể không lấy phần của mình thì tuỳ, khoản đó gần năm trăm nghìn phăng đấy! Nhưng cậu có thể phân chia cho họ.
- Tức là ông là người sẽ đưa cho họ.
- Cậu hay tôi thì cũng thế. Thôi nào, có quan trọng gì nửa triệu ấy đến từ ta, miễn là nó đến tay người cần đến. Bây giờ tới câu hỏi đầu tiên của cậu muốn biết người ta đã làm gì ở Pháp.
- Người ta có đánh nhau trên biển hay đánh nhau trên bộ. Tôi tuyệt nhiên không hay biết gì cả, tiếng đại bác sao đến được Ấn Độ Dương. Tất cả những gì tôi biết là Đức Giám mục Thánh - Cha đã đến Paris để tấn phong hoàng đế cho ngài Napoléon. Nhưng có xảy ra chiến tranh với nước Anh hay không thì tôi không rõ. Nếu được khuyên hoàng đế bệ hạ một câu thì tôi khuyên ông ta cứ hành nghề chiến binh của ông ta và để chúng ta làm nghề thủy thủ của chúng ta.
René mới rời đất liền chưa lâu nên trên tàu của anh có lượng thực phẩm tươi và hoa quả ngon khiến các sĩ quan trên tàu Revenant tỏ ra rất khoái chí.
Về phía Surcouf, ông cũng đã trải qua vài sự kiện đặc biệt và chủ yếu là một lần quần nhau giáp lá cà với một con cá mập. Câu chuyện về cuộc đụng độ này sẽ chứng tỏ rằng không khác gì René, ông cũng bình tĩnh dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Số là vài ngày sau khi Revenant lên đường, Surcouf cũng bắt đầu đi săn. Trong lần thả neo ở đảo Mahé, một chiếc thuyền độc mộc tình cờ gặp phải một con cá mập khổng lồ trong lúc nó đang ngủ. Con này dùng một phát quật đuôi đã cho chiếc thuyền nát tan tành. Những ai trên thuyền đều trở thành mồi cho con quái vật biển trừ ông chủ.
Những người thiệt mạng đều là thủy thủ trên tàu của Surcouf. Ban đầu sự việc này khiến ai trên tàu cướp biển cũng kinh hoàng đặc biệt là ông chủ, người duy nhất thoát khỏi hàm răng của con cá mập. Thậm chí ông còn tạ ơn nữ thần Madone. Nhưng rồi giữa mệt mỏi, công việc nặng nhọc, các thủy thủ cũng nguôi ngoai dần. Họ lại vô tư tiếp tục cuộc hành trình từ đảo này sang đảo khác để mua đồ giải khái từ những người dân di cư.
Lại một lần neo tàu khác, một ngươi dân ở Mahé, bạn cũ của ngài Surcouf mời ông đến ăn tối cùng vài sĩ quan bản địa mới được phong chức được vài năm ở phía tây đảo. Họ rời bây giờ những ca nô của tàu Revenant và đi mất rất ít thời gian dù quãng đường khá dài.
Ngày hôm ấy qua đi vui vẻ cho đến lúc họ phải trở lại tàu. Ca nô của Surcouf đi đầu tiên chất đầy thực phẩm tươi của miền nông thôn. Một sĩ quan và Bambou: anh chàng da đen của thuyền trưởng cũng nhân cơ hội ấy vào bờ trước. Surcouf đưa cho anh ta khẩu súng trường và túi săn hai vật bất ly thân của ông trong mỗi lần đi đâu đó.
Dân bản địa dùng một chiếc thuyền gỗ đưa khách về tàu do ông chủ tiệc cầm lái chở ngài Surcouf, bác sỹ phẫu thuật Millian và trung uý Joachim Vieiliard.
Thuyền gỗ vượt qua mũi bắc đảo Mahé, gió dịu dần vào thời điểm cuối ngày nên mặt biển chỉ khẽ xao động. Người ta đã nhận ra giàn pháo của tàu Revenant mới được sơn lại đang hắt ánh nắng hoàng hôn. Con thuyền gỗ đi được là nhờ bốn người da đen lực lưỡng chèo lái trên mặt nước trong suốt nơi ẩn chứa nhiều cá mập đáng gờm về kích thước cũng như tính hung bạo của chúng.
Đột nhiên trong lớp xoáy nước của con thuyền xuất hiện một trong những con thủy quái có cái đầu khổng lồ đã ngửi thấy mùi thịt người mà anh chàng hoa tiêu, không phải ai khác chính là ông chủ bữa tiệc, đập cho nó một mái dầm chèo đầy giận dữ.
Con vật bản tính hung bạo còn lâu mới chịu từ bỏ, nó áp sát vào mạn thuyền và xét về chiều dài, nó trội hơn hẳn. Sau đó, nó vòng ra sau tìm mọi cách để nhấn chìm con thuyền thứ mà chắc chắn sẽ thoả mãn cơn đói cồn cào của nó. Con quái vật quật đuôi suýt làm con thuyền vỡ tan đó là điều làm mọi người lo sợ biết làm sao để kết thúc cuộc đua tài với một cú đạp chèo do chủ tàu thưởng cho.
Trong cơn tấn công đáng sợ, nó há cái miệng cao đến mạn thuyền, Surcouf tiện tay ném chỗ trứng tươi trong làn. Vật ném ra là quà tặng của ông chủ hiếu khách, bay thẳng vào họng con cá như một miếng bánh nhúng ngon lành mà nó có vẻ khoái khẩu. Nó khép cái hàm ba hàng răng lại, cuộn mình rồi biết mất.
Khi nguy hiểm đã qua, mọi người bật cười về cuộc tấn công và quả đạn dùng để hạ con goulu(1). Chủ nhà hứa sẽ mời họ món trứng rán vào dịp gặp khác.
Đó là những lần ngài Surcouf bị tấn công sau khi rời đảo Pháp. Thủy thủ đoàn của ông chỉ còn bảy mươi người. Do đó, ông quyết định, trừ phi René phản đối, sẽ trở về đảo Pháp.
René không mong gì hơn thế.
Ngày 26 tháng Năm, tàu Rèvenant và tàu Tay đua New York cùng hai tàu chiến lợi phẩm của họ vượt qua xích đạo trở về.
Ngày 20 tháng Sáu, khi bình minh mới ló rạng, thủy thủ gác báo: "Đất liền!" Các dãy núi dần dần hiện ra khi mặt trời tiến sát chân trời. Bằng giờ ấy ngày hôm sau, họ đã ở giữa đảo Flacq và quần đảo Ambre.
Phía trên vịnh Tombeau có tàu hoa tiêu neo đậu thông báo rằng vì cuộc chiến Anh - Pháp sắp bùng nổ nên không tàu nào được đậu trước đảo Do đó, Surcouf, René và hai chiến lợi phẩm dễ dàng vào cảng Louis rồi thả neo trên cảng Chien-De-Plomb.
Chú thích:
(1) Biệt hiệu các thủy thủ gọi loài cá mập
Surcouf và René trở về, sau mỗi tàu của họ còn kéo thêm chiến lợi phẩm quan trọng khiến cả đảo Pháp vui mừng.
Trong số tất cả các đảo thuộc địa của Pháp, có lẽ đảo Pháp là nơi gắn bó với tổ quốc mẹ hiền nhất. Một nhà thơ Pháp đã mang lại cho nó cuốn Paul và Virginie một tác phẩm văn học có giá trị khiến nó đáng là đứa con của mảnh đất lục địa gấp hai lần.
Những cư dân anh dũng, phiêu lưu, vừa phóng túng song cũng rất dịu dàng ngưỡng mộ những sự kiện trọng đại hay các cuộc chiến lớn của Pháp. Họ yêu quý mẫu quốc không chỉ vì lợi ích theo một qui luật tự nhiên là ngưỡng mộ và yêu quý những cái gì vĩ đại.
Từ gần sáu mươi năm qua, đảo Pháp đổi tên là đảo Maurice và thuộc về nước Anh cũng là sáu mươi năm, ba thế hệ thay nhau nối tiếp và ngày nay, đảo Pháp vẫn đậm chất Pháp từ tận đáy lòng mỗi khi có lá cờ trắng hay cờ ba màu bay phấp phới trên cảng Louis và cảng Bourbon.
Và quả thật, ngày nay, những cái tên người anh hùng Bretagne hay người Normand thời trước vẫn còn nguyên vẹn trọng tâm trí người Pháp. Khi nhớ lại quá khứ của những người thời ấy như Surcouf, Cousinène, Hermite, Hénon và Le Gonidec, thì không một trẻ em nào trên cảng Louis lại không biết tên họ và sẵn sàng kể về những chiến công của họ, những chiến công khiến bọn bất lương trên vịnh Mexique phải tái mặt. Khi họ gặp hoạn nạn, những thủy thủ của chúng ta vẫn tìm thấy trên đảo Pháp sự đồng chào nồng nhiệt như khi họ thành công. Không biết bao lần, chỉ bằng chữ ký của mình họ đã nhận từ tay ngân quỹ của nhà băng của ngài Rondeau nổi tiếng khoản tiền đến 200 thậm chí 250 nghìn phăng để sửa chữa hay dựng lại tàu của họ.
Quả thật, những thủy thủ Pháp rất đoàn kết tương thân tương ái nếu một người không thể thực hiện cam kết của mình, hàng chục người khác sẵn sàng chung tay giúp đỡ anh ta.
René, người một lòng một dạ vào nghề giống như anh từng học làm thủy thủ trước kia, người không suy chuyển trước bất cứ cam go nào, người hiểu lời khuyên tuyệt vời mà ngài Fouché dành cho anh, cũng hiểu rằng nếu anh làm trợ thủ trên tàu của nhà nước như ngài Surcouf hoặc làm chủ tàu Slúp của mình, anh cũng sẽ có quyền đạt được vinh quang như các quan chức cao cấp và có quyền như trên chiến thuyền Hải quân hoàng gia.
Nhưng những gì anh đã làm, anh lại thực hiện nó trong tâm trạng của một người không thiết tha gì nữa. Ngài Surcouf từng được phong làm chỉ huy một chiến thuyền vốn được tất cả những sĩ quan hải quân của Pháp biết đến và đề cao. Một lời đề bạt của ông có thể giúp René làm chuẩn uý trên con tàu đầu tên họ gặp, một chìa khoá cho anh trở lại châu Âu và phục vụ cho những thuyền trưởng danh giá chỉ huy các tàu như Le Tonnant, Redoutable, Le Bucenlaure, Le Fouguellx, L Achille, Le Témérmne và nhiều tàu khác.
Muốn vậy, chỉ cần một lời đề cử của Surcouf và chắc chắn ông ta cũng không từ chối điều đó.
Ngài Surcouf vốn quen biết đảo trưởng đảo Pháp, tướng Decaen. Ông sắp đi thăm viên tướng ấy và ngỏ muốn một trong những sĩ quan dũng cảm của mình, người đang mong trở lại Pháp được tham gia vào cuộc chiến. Ông hăng hái kể nhưng chuyện đã qua, cách René thể hiện khi chiếm tàu Standard và anh đã cống hiến ra sao để đưa hai cô gái Pháp trở lại Miến Điện khi cha các cô, hành khách trên tàu Standard bị tử nạn. Tướng Decaen tỏ ra rất vui được tiếp anh chàng dũng cảm mà ngài Surcouf nhắc đến.
Ngày hôm sau, vào giờ đã định, René đến nhà đảo trưởng, nhưng người lục sự lưỡng lự không muốn cho anh vào. René nhận ngay ra thái độ của ông ta và anh hỏi tại sao.
- Ông có đúng là trợ lý của ngài Surcouf và là chỉ huy tàu Tay đua New York không? - Viên lục sự hỏi.
- Đúng vậy. - René trả lời.
Ông ta càng lưỡng lự khi thấy cách ăn mặc của René. Vì thủy thủ tàu cướp biển không nhất thiết phải mặc quân phục nên anh mặc theo mốt thời đó và với vẻ lịch sự bẩm sinh anh không thể mặc khác đi ngay cả khi anh muốn che giấu thân phận của mình. Ở đảo Pháp anh không nghĩ nó quan trọng nên mặc như thể đến thăm tiểu thư Sourdis hay phu nhân Récamier vậy.
Tướng Decaen khi được thông báo có ông René, trợ lý của thuyền trưởng Surcouf đến, những mong sẽ gặp một con sói biển, một thủy thủ râu tóc xồm xoàm cộng với bộ quần áo loè loẹt nhưng trước mặt ông là một chàng trai trẻ đẹp, nước da hơi tái, đôi mắt dịu dàng, mái tóc uốn thành lọn, bàn tay trong đôi găng không chê vào đâu được và một bộ ria chớm xoà lên môi trên.
Ông định đứng dậy khi nghe cái tên René đến nhưng vừa thấy anh, ông như bị chôn chân tại chỗ.
Ngược lại, René rất đàng hoàng, thoải mái tiến lên trong tư thế của người quen với chốn sang trọng nhất trên đời, anh chào viên tướng bằng vẻ lịch thiệp hoàn hảo.
- Sao, anh là người mà ông bạn cướp biển Surcouf của tôi đã nói đến hôm qua ư? - Viên tướng ngạc nhiên hỏi.
- Lạy Chúa! Ngài làm tôi sợ, thưa tướng quân - René đáp - Nếu ông ấy hứa hẹn một ai khác thì tôi sẵn sàng xin rút lui và thú thật tôi không xứng với sự quan tâm mà ngài có lòng tốt dành cho tôi. Tôi chỉ là một chàng trai hai mươi sáu tuổi tội nghiệp, không biết chuyện gì xảy ra vì đã lênh đênh sóng nước hàng năm nay.
- Không đâu - Viên tướng nói - Tôi ngạc nhiên trước phong cách của anh thôi chứ không có ý không tôn trọng anh. Cho đến giờ tôi vẫn nghĩ người ta chỉ có thể làm cướp biển khi câu nào cũng chửi đổng, đội mũ lệch và bước chân khuỳnh ra như một người đi trên đất bồng bềnh như trên biển. Xin thứ lỗi, tôi đã nhầm và cho tôi hân hạnh được nói rằng mình may mắn được anh đến thăm.
- Thưa tướng quân - René nói với ông ta - Ngài có thể giúp tôi một việc được chăng, đó là để tôi được chết một cách hợp lẽ và trong danh dự.
Nói rồi René ngồi xuống mân mê một đoạn gậy bịt đầu bằng ngọc bích.
- Để anh chết à? - Viên tướng nói và một nét cười khó nhọc hiện ra - ở tuổi anh, tài sản, vẻ lịch thiệp, thành công anh đã có và chắc chắn còn nhiều hơn nữa sao! Anh đùa…
- Ngài hãy hỏi ngài Surcouf xem đối diện với kẻ thù, tôi có làm tất cả những gì có thể vì điều ấy hay không.
- Ông Surcouf có nói với tôi những chuyện không thể tin được về lòng dừng cảm, về tài khéo cũng như sức mạnh của anh. Chính vì thế mà khi nhìn thấy anh tôi thấy khó tin anh là người mà ông ấy đã nói vơi tôi, và không chỉ ông ấy đã nói về lòng can đảm của anh đối với con người mà còn nhiều lần thể hiện trước các loài ác thú. Có thể nói ở tuổi anh, anh đã hoàn thành mười hai kỳ công của Héc-quyn vậy.
- Thật không xứng đến vậy đâu, thưa tướng quân. Một người không những không sợ cái chết thậm chí còn coi là hạnh phúc khi được đón nhận nó thì ngoài viên đạn lạc ra anh ta sẽ lần như thất bại. Vả lại tôi mới chỉ đương đầu với lũ hổ mà hổ lại là một loài vật tàn bạo nhưng bạc nhược. Lần nào đối diện với một trong những con vật ấy, tôi đều nhìn thẳng vào mắt chúng và khiến chúng phải cụp mắt xuống. Người hay vật, một khi đã cụp mắt tức là đã thất bại.
- Thật ra anh làm tôi rất vui. Nếu anh vui lòng ăn tối cùng tôi, tôi sẽ giới thiệu với phu nhân Decaen, mời anh làm quen với con trai tôi và kể cho nó nghe vài cuộc đi săn của anh.
- Tôi rất vui lòng thưa tướng quân, thật hiếm khi một thủy thủ thấp kém nào lại có vinh hạnh gặp một người cao quý như ngài.
- Thủy thủ thấp kém ư? - Vị tướng quân mỉm cười - người sắp có một khoản 500 nghìn phăng ư? Cho phép tôi nói rằng về phía tài sản anh đã không phải là người thấp kém rồi.
- Thưa tướng quân, đến đây tôi mới nhớ một việc mà thiếu chút nữa tôi quên mất. Đó là khi làm nghề cướp biển nghiệp dư, tôi có thói quen chia sẻ phần của mình, như vậy với khoản 500 nghìn phăng, tôi sẽ dành 400 nghìn cho các bạn của tôi, còn 100 nghìn còn lại cho phép tôi trao lại cho ngài để phân phát cho những người Pháp nghèo khổ đang cần hồi hương hay những người vợ goá bất hạnh của các thủy thù. Ngài cho phép chứ?
Và trước khi vị tướng quân kịp trả lời, anh cúi xuống bàn rút một tờ giấy viết dòng chữ quý tộc nhất trên đời:
"Thưa ngài, mong ngài vui lòng chuyển theo xuất trình giấy này khoản tiền 100 nghìn phăng cho ngài tướng quân Decaen, đảo trưởng đảo Pháp. Ông ấy biết sử dụng khoản ấy ra sao.
Cảng Louis ngày 23 tháng 6 năm 1805
Gửi ngài Rondeau,
Chủ nhà băng, phố Gonverment, cảng Louis”.
Ông tướng Decaen cấm tờ giấy và đọc.
- Nhưng - ông ngạc nhiên nói - Trước khi sử dụng khoản này, tôi phải chờ bán được chiến lợi phẩm của ngài đã chứ.
- Không cần thưa tướng quân, tôi có khoản tín dụng nhiều gấp ba lần khoản tôi xin đưa cho ngài ở chỗ ngài Rondeau.
- Vậy ít nhất anh cũng phải nói với ông ấy chứ.
- Có lẽ không cần. Ngài sẽ thấy khoản tiền thanh toán khi xuất trình giấy. Vả lại ông ấy còn hai chữ ký của tôi được gửi từ Paris bởi ông chủ ngân hàng của tôi, ngài Penégeau.
- Vậy từ khi về đảo anh đã đến thăm ông Rondeau hay báo cho ông ấy là anh đã về chưa?
- Tôi chưa có hân hạnh diện kiến ông ta, thưa tướng quân.
- Anh có muốn làm quen với ông ta chăng?
- Rất sẵn lòng thưa tướng quân. Tôi không thảy có bất tiện nào cả.
Vừa lúc đó, phu nhân Decaen bước vào, René đứng dậy.
- Phu nhân - Viên tướng nói - Bà có cho phép tôi giới thiệu anh René, trợ lý của thuyền trưởng Surcouf, người vừa có một trận đấu tuyệt mỹ, nhờ đó anh ta mang lại tự do và mạng sống của anh bạn người đảo Malo của chúng ta. Anh ấy dành cho chúng ta vinh sự đến ăn tối cùng chúng ta và ngài Rondeau người mà anh ấy chuyển 100 nghìn phăng cứu tế cho những người Pháp bần hàn và các goá phụ của thủy thủ. Đến lượt phu nhân có trọng trách thiêng liêng làm tiếp đấy. Hãy cảm ơn anh René và tôi mong bà đưa tay cho anh ấy hôn.
Phu nhân Decaen ngỡ ngàng chìa tay về phía René. Anh này nghiêng mình trước bàn tay ấy khẽ chạm môi lên đầu ngón tay, lùi lại một bước đồng thời cáo từ ra về.
- Nhưng anh quên là có điều định nói với tôi sao.
- Ồ tôi có vinh dự được gặp lại tướng quân trong ngày cho nên tôi xin phép không dám quấy rầy ngài thêm vì chuyện viếng thăm này nữa.
Nói rồi vừa chào vị tướng đang sửng sốt rồi đến phu nhân Decaen còn ngạc nhiên hơn chồng, anh đi ra để cho họ nhìn nhau cố tìm lời giải thích cho hành động cực kỳ khó hiểu ấy.
Sau đó, tướng Decaen đến chỗ ông Surcouf vừa mời ông này ăn tối cùng trợ lý của ông và ông chủ nhà băng Rondeau và thông báo giờ ăn vì ban nãy quên mất. Đó là từ ba rưỡi đến bốn giờ chiều.
Tướng quân Decaen vừa ra về, ngài Surcouf đã lao vào phòng René.
- Có chuyện gì xảy ra thế bạn hữu của tôi? Ngài đảo trưởng vừa đến mời tôi tới ăn cùng anh và ông Rondeau.
- Đã xảy ra một chuyện hợp theo lẽ tự nhiên thôi. Đó là ngài đảo trưởng là người rất đúng mực, ông ta biết rằng việc mời thêm ông khiến tôi rất vui mà.