Tử Nha theo Dị Nhơn ra dạo vườn hoa xem thấy phong cảnh rất đẹp. Tường cao vòi vọi, vườn rộng thênh thênh , bên tả một khóm dương xanh , tỏa tản mát rượi , bên hữu có mấy cụm tòng lá xanh dờn. Chính giữa có lầu ngoạn cảnh, trồng đủ màu hoa lạ , phía trước là một cái ao sen, cá lội lăn tăng . Tử Nha xem một hồi thấy , cách khung nhà hóng gió và ao cá còn một khoảng đất trống, liền nói :
- Chỗ nầy rất tốt, sao anh không xây cất một ngôi lầu ?
Dị Nhân hỏi :
- Cất lầu làm gì ?
Tử Nha nói :
- Theo địa lý thì nơi đây có khí tụ rất nhiều, Nếu cất năm căn nhà lớn thì sẽ có ba mươi sáu người làm quan. Tôi có biết về địa lý nên tỏ bày với anh để đền ơn.
Dị Nhân hỏi :
- Hiền đệ thạo về địa lý thì đó cũng là một nghề sinh sống đấy . Nhưng tôi không giấu gì hiền đệ, chỗ nầy đã nhiều lần tôi dựng lên gian nhà, và sau đó bị cháy liền. Tôi chắc đó là lửa ma , không thể nào làm được, nên tôi đành bỏ qua, chừa đất trống vậy.
Tử Nha nói :
- Ðể tôi chọn ngày tốt cho anh xây cất. Anh cứ lo tiệc để đãi đằng thợ thầy, còn phần lửa ma để mặc em ếm cho. Nhất định nó không làm gì nổi.
Dị Nhân nói :
- Hiền đệ cũng biết khoa ếm tà trừ ma nữa à ?
Tử Nha nói :
- Việc đó tôi rành lắm, anh đừng ngại.
Dị Nhân vui vẻ nói :
- Nếu vậy tôi cho thợ thầy làm ngay . Ý tôi muốn đã lâu nhưng không sao thực hiện được .
Mấy hôm sau , Dị Nhân đi kêu thợ , trong nhà sẳn cây cối nên dựng lên chẳng mấy chốc.
Tử Nha núp trong nhà mát để theo dõi sự tình.
Nữa đêm hôm ấy bỗng nghe gió thổi ào ào , cát bụi bay mịt mù , trong hơi gió có hiện ra năm con yêu mặt xanh , mặt trắng , mặt đỏ , mặt vàng , mặt đen.
Tử Nha vội bỏ tóc xõa cầm gươm chỉ mặt hét lớn :
- Năm con yêu không sa xuống còn đợi chừng nào ?
Nói vừa dứt , Tử Nha bắt ấn, tức thì một tiếng sấm vang lên , năm con yêu sa xuống một lúc , quỳ trước mặt Tử Nha năn nĩ :
- Chúng tôi không ngờ có tiên ông đến đây , xin lấy lượng khoan hồng tha cho chúng tôi khỏi chết.
Tử Nha nói :
- Bây quen thói hành hung, đốt nhà người ta mấy lượt . Nay có ta đến đây để chúng bay sống làm chi ?
Nói rồi cầm gươm đến chém . Năm con yêu thất kinh khóc than :
- Chúng tôi ra công tu luyện nên mới được như ngày nay , tiên ông nở nào dứt bỏ cho đành , chúng tôi nguyện từ nay về sau chẳng dám làm càn .
Tử Nha nói :
- Thôi , ta cũng tha cho chúng bây một lần làm phước . Chúng bay không được ở đây nữa phải đi núi Kỳ Sơn tạm trú, chờ lúc chiến chinh ra cho ta sai khiến, ta sẽ phong Thần .
Năm yêu cúi lạy rồi hóa gió bay mất .
Bấy giờ Mã thị và Tôn thị ,đang rình xem Tử Nha trừ yêu , ếm quỉ , nhưng không thấy yêu quỉ đâu cả , chỉ thấy Tử Nha đứng xõa tóc , cầm gươm một mình như một người điên .
Mã thị nói với Tôn thị :
- Chị coi ông lão điên kìa. Một mình đứng láp nháp mãi.
Nói rồi , xốc tới nắm áo Tử Nha kéo lại, hỏi :
- Ông làm gì vậy ?
Tử Nha đáp :
- Ðàn bà mà biết gì ? Tôi đang trừ ma ếm quỉ.
Mã thị cười lớn :
- Khéo kiếm chuyện lừa phỉnh. Làm những chuyện tầm thường chưa nên , lại còn muốn làm thầy thiên hạ.
Tử Nha nói :
- Coi bói , coi quẻ, trừ ma ếm quỉ là sở trường của tôi.
Mã thị nói :
- Sao không lấy đó làm nghề sinh nhai ?
Tử Nha nói :
- Nếu tôi có một căn phố tại chợ thì có thể lập ra một phòng xem bói, xem tướng được.
Mã thị không tin :
- Tôi chỉ sợ ông nói bậy không đúng, người ta nhổ răng, đập đồ nghề, xé sách thì xấu.
Vợ chồng đang tranh luận thì Dị Nhân bước ra hỏi :
Mấy lần trước hễ gió lớn như vậy tức thì nhà bị cháy, nhưng lần nầy lửa ma không thấy phá phách nữa.
Tử Nha nói :
- Năm con yêu nổi gió đến đốt phá , chúng gặp tôi không dám hung hăng. Tôi bắt chúng rời khỏi vùng đất nầy , từ nay không được phá phách nữa.
Di Nhân mừng rỡ nói :
- Nhờ phép của hiền đệ, từ nay tôi có thể dựng căn lầu lên được. Hiền đệ có tài như vậy thật không uỗng công tu luyện hơn bốn mươi năm.
Tôn thị nói với chồng :
- Hiền thúc vừa than không có một căn phố tại chợ để mở phòng coi bói. Vậy nhà mình có phố nhiều, cũng nên nhường cho hiền thúc một căn .
Dị Nhân nói :
- Muốn việc ấy thì chẳng khó gì. Nhà tôi có bảy tám mươi căn phố tại chợ Triều Ca. Tôi cho hiền đệ một căn muốn dùng làm việc gì cũng được.
Dứt lời sai gia đinh đến chợ Triều ca dọn dẹp một căn phố chổ đông người nhất , giao cho Tứ Nha sử dụng.
Tử Nha mừng rỡ, chọn ngày tốt mở phòng coi bói. Ngày đêm ở luôn nơi chỗ làm việc.
Từ hôm ấy , người qua đường đều thấy một phòng coi bói bày biện rất lịch sự. Trước cửa dẫn một đối liễn đỏ chót, đề rằng .
Ðã thông cao thấp trăm điều thiệt
Chẳng nói tầm thường nữa tiếng sai
Ðôi liễn kế bên trong viết rằng :
Miệng nói như ghi , biết khắp nhân gian lành dữ
Mắt xem tợ kiếng , soi cùng thiên hạ thạnh suy
Dựa nơi bàn ngồi lại có đôi liễn đề rằng :
Tay áo đựng càn khôn
Cái bầu thâu nhật nguyệt
Tuy vậy ngót ba tháng trời , không một người khách nào vào hàng xem quẻ cả .
Tử Nha ngồi buồn , ngày nào cũng ngáp dài ngũ gật .
Mã thị cằn nhằn :
- Bỡi ông xem bói không hay nên người ta không đến !
Chưa có một người nào vào xem thì làm sao biết thầy hay hay dỡ ? Chẳng qua thời vận tôi chưa đến , nên khiến làm ăn không xong .
Mã thị lườm chồng :
-Mấy người bất tài đều đổ thừa thời vận . Tôi chẳng biết ông đến bao nhiêu tuổi nữa mới tới thời . Trên đầu tóc đã bạc phơ mà chẳng làm gì nên hình cả .
Tử Nha đành nhịn vợ , không biết phải giải thích làm sao hơn .
Ngày kia , có một ông tiều đi ngang qua , tên Lưu Càng , để gánh cũi ngoài sân , bước vào vỗ bàn nói lớn :
- Chào thầy .
Tử Nha đang gục mặt trên bàn ngủ, bỗng giật mình mở mắt, thấy một người cao lớn phi thường, hai con mắt lồ lộ , tướng mạo hung hăng.
Tử Nha hỏi :
- Anh đi bói quẻ hay xem số ?
Lưu Càng không đáp hỏi lại :
- Thầy tên họ là gì ?
Tử Nha nói :
- Tôi họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha biệt hiệu Phi Hùng.
Lưu Càng hỏi :
- Ðôi liễn thầy viết trên cột đây có ý gì xin thầy cắt nghĩa cho tôi nghe thử ?
Tử Nha hỏi :
- Ba câu liễn của tôi ông muốn hỏi câu liễn nào ?
Lưu Càng chỉ tay vào câu liễn gần nhất , hỏi :
- Tay áo dựng càn khôn , cái bầu thâu nhật nguyệt là nghĩa gì vậy ?
Tử Nha giải thích :
- Tay áo đựng càn khôn là biết cả những việc đã qua và sắp tới. Cái bầu thâu nhật nguyệt là biết phép tiên, sống hoài không chết.
Lưu Càng nói :
- Thầy khoe biết cả những việc đã qua và chưa tới, vậy tôi xin bói một quẻ, hễ trúng thì tôi thưởng thầy hai chục đồng tiền, còn trật thì tôi sẽ tặng thầy vài đấm , bảo dọn đồ về xứ, không cho ở chợ Triều Ca nầy lừa phỉnh thiên hạ.
Tử Nha thở dài. nghĩ thầm :
- Mấy tháng trời không gặp một khách hàng nay lại có thằng tướng dữ nầy vào phá đám, nếu coi không trúng chắc nguy với nó chớ chẳng chơi.
Nghĩ rồi, Tử Nha hỏi Lưu Càng :
- Ông muốn xem việc gì cứ nói .
Lưu Càng nói :
- Tôi là người tiều phu đi bán củi. Vậy ông chỉ cho tôi nên đi ngả nào, bán củi được bao nhiêu tiền .
Tử Nha gieo quẻ xong, viết bốn câu như vầy :
Ði qua bên phía Nam
Gặp ông già cội liễu
Bán được một trăm hai chục đồng
Bốn bánh lót lòng vài chén rượu
Lưu Càng cãi lại :
- Thầy bói quẻ nầy chắc không trúng rồi. Tôi đi bán củi đã mấy mươi năm, không ai cho uống rượu bao giờ.
Tử Nha nói :
- Cớ đi thử rồi sẽ biết.
Lưu Càng nghe theo lời , gánh củi nhắm phía Nam đi thẳng.
Ði một lúc xa xa, bỗng gặp một ông già đang đứng dưới một gốc dương liễu gọi lại, bảo :
- Hãy đem củi đây ta mua.
Lưu Càng khen thầm :
- Quẻ linh thật.
Ông già hỏi :
- Gánh củi ông bán chắc giá bao nhiêu ?
Lưu Càng cố ý thử quẻ, liền nói :
- Nhất định một trăm đồng , không đòi lên xuống gì cả .
Ông già nói
- Gánh củi nặng và khô tốt lắm . Tôi không trả thiếu làm gì , hãy gánh vào nhà tôi đưa tiền cho.
Lưu Càng mừng thầm , gánh củi vào nhà ông lão.
Tánh Lưu Càng lại thích sạch sẽ, nên trước khi chất củi vào nhà chứa, quét dọn rất tươm tất.
Ông lão bước ra thấy sạch sẽ, khen :
- Hôm nay lũ trẻ ở nhà quét dọn vừa mắt lắm.
Lưu Càng nói :
- Thưa ông , ông lầm rồi , chính tôi mới quét dọn giùm cho ông đó .
Ông già rất hải lòng , khen :
- Bữa nay là ngày cưới vợ cho con trai tôi. Tôi mua được cũi tốt lại gặp người tử tế như ông thật ít có.
Nói rồi ông lão vào nhà trong sai một tên gia đinh đem ra cho Lưu Càng một dĩa bánh và một chai rượu nhỏ , nói :
- Viên ngoại bảo ông ăn bánh lót lòng rồi sẽ về.
Lưu Càng khen :
- Ông thầy bói họ Khương quả thần thánh. Ðể ta rót rượu xem có y như vậy không ?
Quả nhiên, ve rượu chỉ rót vừa hai chén thì cạn.
Lưu Càng ăn uống xong, thấy ông lão buớc ra, liền nói :
- Tôi cảm ơn viên ngoại nhiều lắm.
Ông lão liền trao cho Lưu Càng hai gói tiền, một gói lớn, một gói nhỏ, và nói :
- Ðây là một trăm tiền củi. Còn đây là hai mươi đồng tiền thưởng riêng, vì hôm nay gặp ngày hỉ sự, ông cầm lấy uống rượu cho vui.
Lưu Càng mừng rỡ, vội từ tạ ra về, vừa đi vừa nghĩ :
- Nay đất Triều Ca có thần tiên trò mặt, chẳng biết thế gian có gì đổi mới chăng ?
Nghĩ rồi xăm xăm trở lại chợ, để trả tiền coi bói.
Trong lúc đó, từ sáng sớm, nhiều người thấy Lưu Càng hăm đánh Tử Nha ,sợ Tử Nha sẽ mang họa với con người cộc cằn ấy
Vì vậy, khi Lưu Càng đi rồi , có nhiều người vào nói với Tử Nha :
- Lưu Càng là quân hoang, khét tiếng ở chợ Triều Ca nầy , không nên đánh cuộc với nó. Liệu bề quẻ không linh thì trốn mất cho xong.
Tử Nha nói :
- Tôi làm thầy có sách vở đâu phải chuyện phỉnh phờ. Cứ chờ xem thì biết.
Mọi người thấy Tử Nha già cả cũng thương , đợi Lưu Càng trở về nếu có xảy ra bề nào sẽ can gián giùm.
Ðược một lúc thấy Lưu Càng từ đầu phố chạy bon bon về, vào thẳng cửa hàng Tử Nha.
Tử Nha hỏi :
- Sao ? Quẻ có linh không ?
Lưu Càng nói lớn :
- Tôi phục thầy là ông Thánh sống rồi . Quẻ đúng y ngay, không sai một chút nào. Thầy về ở chợ Triều Ca nầy thì thiên hạ rất may mắn, lánh dữ, tìm lành .
Tử Nha nói :
- Quẻ đúng thì phải trao tiền cho tôi chứ.
Lưu Càng nói :
- Tôi hứa thưởng ông hai chục đồng tiền, trong túi tôi có sẳn , tôi không gạt ông đâu . Nhưng chậm rãi, để tôi làm việc nầy đã.
Lưu Càng đứng trước thềm, giây phút thấy một người mặc áo vải mang đai da, chạy như tên bắn.
Lưu Càng liền đuổi theo níu lại .
Người ấy trợn mắt nói :
- Anh kéo tôi làm gì ?
Lưu Càng nói :
- Phố nầy có ông thầy coi bói rất thần tình. Mời anh ghé vào xem một quẻ, bỏ qua uổng lắm.
Người kia trố mắt nhìn Lưu Càng. lấy làm lạ, nói :
- Coi bói hay không mặc tôi, tại sao anh bắt buộc tôi ?
Lưu Càng nói :
- Chỉ thầy bói giỏi, mách thuốc hay là việc làm ơn, tôi đâu phải ác ý với anh mà anh phàn nàn .
Người kia lắc đầu :
- Nhưng tôi không muốn xem.
Lưu Càng giật mạnh vạt áo :
- Tại sao lại không xem. Thầy bói nầy hay lắm.
Người kia mở to đôi mắt nhìn Lưu Càng, thấy Lưu Càng tợn mạnh khoẽ lòng cũng sợ, nhưng ỷ mình lả công sai của triều đình, nên lên tiếng gắt :
- Tôi không xem thì anh làm gì tôi chớ ?
Lưu Càng nghiến răng nói :
- Nếu anh không coi , tôi nhận nước anh rồi tôi cùng chết luôn.
Vừa nói , Lưu Càng vừa lôi người công sai ra bể nước .
Mọi người biết Lưu Càng tuy là gã tiều phu, nhưng có tánh bướng bỉnh, hễ nói là làm, nên xúm nhau khuyên người công sai .
Người công sai cằn nhằn :
- Tôi không có chuyện gì, coi bói làm sao được ?
Lưu Càng nói coi đi. Hễ không đúng tôi trả tiền cho, còn quẻ đúng anh phải mua rượu cho tôi uống.
Người công sai thấy Lưu Càng ngang ngạnh quá , túng phải theo vào phòng coi bói.
Người công sai nói với Tử Nha :
- Tôi là công sai của triều đình , đi ngang đây không có việc gì để xin quẻ, bởi anh em ép nên phải vào nhờ thầy một chút.
Tử Nha hỏi :
- Anh muốn nhờ việc chi ?
Người công sai nói :
- Tôi nhờ thầy bói một quẻ xem tôi đi thâu tiền được bao nhiêu ?
Tử Nha gieo quẻ rồi viết ra bốn câu như vầy :
Quẻ Cấn, thâu không vẹn
Tiền lương chúng còn hẹn
Nếu chẳng đợi chờ lâu
Một trăm lẻ ba nén
Người công sai hỏi :
- Tiền quẻ bao nhiêu ?
Lưu Càng không đợi Tử Nha nói, xen vào :
- Quẻ nầy linh lắm không phải giá thường. Cứ mỗi quẻ phải trả năm chỉ bạc.
Người công sai lườm mắt ngó Lưu Càng nói :
- Anh không phải làm thầy sao lại ra giá ?
Lưu Càng nói :
- Anh đừng lo đắt. Nếu quẻ không đúng tôi trả bạc lại cho.
Người công sai sợ ở lâu trễ việc quan, liền móc túi lấy năm chỉ bạc trao rồi lật đật dời gót.
Lưu Càng cũng từ giã ra đi, Tử Nha nói :
- Cám ơn anh rất lớn.
Lưu Càng nhe răng cười :
- Có gì đâu. Tôi đền ơn thầy đó.
Nói rồi quảy đòn gánh lên vai, bôn bả vào núi,
Dân chúng thấy Lưu Càng níu kéo viên công sai xúm nhau xem đông nghẹt. Chừng rõ được câu chuyện, ai nấy thấp thóm đợi người công sai trở về xem quẻ bói có linh không.
Chẳng bao lâu, người công sai trở về, ghé vào phố Tử Nha khen :
- Tuy tốn năm chỉ bạc , nhưng quẻ linh đáng giá ngàn vàng.
Thầy quả thật là tiên. Tôi thu đúng một trăm lẻ ba nén.
Từ ấy Tử Nha nổi tiếng , nội Triều Ca kéo đến xem bói rất đông, cứ mỗi lần xem năm chỉ bạc.
Mã thị thấy chồng làm được nhiều tiền , trọng chồng qua sức.
Phòng xem bói Tử Nha đông nườm nượp, được nữa năm thì các khách xa cũng tìm đến.
Bây giờ, nói về ngoài cửa Nam, tại mã Huỳnh Ðế, có con Ngọc Thạch Tỳ bà, trước kia là bạn với Ðắt Kỷ, lâu ngày xa cách, nên tìm đến Triều Ca thăm Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ mừng lắm, tiếp đón rất ân cần ngày đêm ở trong cung vui đùa không ngớt. Tuy vậy, Ngọc Thạch Tỳ bà vốn là loài yêu quái tánh ăn thịt người đã quen , không thể nhịn lâu được. Cứ mỗi đêm, Ngọc Thạch Tỳ bà lại hiện nguyên hình yêu , bắt bọn cung nữ trong cung ăn thịt, bỏ xương tại mé Thái Hồ cả đống.
Hôm nọ, Ngọc Thạch Tỳ bà từ giã Ðắt Kỷ tàng hình trở về động. Khi băng ngang đến trước phố Tử Nha , thấy thiên hạ vào ra rất đông,cười nói xôn xao, ai cũng đồn thầy xem bói tài tình lắm.
Tỳ bà nghĩ thầm :
- Khéo kiếm chuyện lừa gạt đân gian. Bói quẻ có gì mà linh như vậy . Ðể ta giả hình người vào coi thử xem cho biết .
Nghĩ rồi liền hóa ra một thiếu nữ, mặc tang phục, bước vào gọi Tử Nha nói :
- Xin thầy làm ơn bói giùm tôi một quẻ .
Mọi người nhìn lại thấy một thiếu nữ sang trọng và xinh đẹp phi thường, liền tránh ra chừa lối cho nàng vào .
Tử Nha thoáng thấy khí yêu hiện trên nét mặt người đàn bà , mỉm cười thầm nhủ :
- Loài yêu nghiệt, dám đến trước mặt ta mà chọc tức. Nếu ta gặp yêu mà không trừ đi thì đâu phải kẻ có bản lãnh cao cường ?
Nghĩ rồi liền nói với khách hàng mình :
- Xin các ngài tránh ra để tôi xem cho người đàn bà nầy trước , kẻo nam nữ đứng gần nhau lâu bất tiện.
Khách hàng nghe theo lời, chừa chỗ cho Tỳ bà tiến đến trước bàn.
Tử Nha nói với Tỳ bà tinh :
- Cô đưa bàn tay tôi xem thử .
Tỳ bà tinh hỏi :
- Thầy chuyên coi bói mà cũng biết xem tướng nữa sao ?
Tử Nha nói :
- Nghề gì tôi cũng biết. Trường hợp của cô đặc biệt hơn, nên phải coi tướng trước rồi coi bói sau nói mới đúng được.
Tỳ bà tinh không ngờ Tử Nha đã rõ chân tướng mình liền mỉm cười xòe bàn tay ra đưa trước mặt .
Tử Nha nắm lấy cổ tay ấn vào bộ mạch, dùng phép âm không cho yêu quái biến hình. Tỳ bà tinh vẫn không hiễu, tưởng Tử Nha muốn chọc ghẹo mình, vội nói :
- Thầy xem không nói gì lại nắm cườm tay tôi mãi như vậy ?
Khách hàng ngồi xung quanh thấy Tử Nha có cử chỉ bất lịch sự ấy, liền la lớn :
- Ông thầy đã già mà còn hiện quỉ, nắm tay con gái làm chuyện trêu đàm. Nếu có một quan chức đi ngang đây trông thấy thì tội không nhỏ.
Tử Nha thấy mọi người nhao nhao, liền thanh minh :
- Nó không phải đàn bà con gái đâu . Nó là giống yêu tinh giả hình vào quấy rối.
Không ai tin lời nói của Tử Nha, người nầy nhìn mặt người kia với vẻ bất bình.
Tử Nha không để ý đến cử chỉ phản đối của mọi người cứ nắm chặt lấy cổ tay của Tỳ bà tinh, không cho biến xác. Qua một lúc, Tử Nha thấy không có vật gì có thể giết được yêu quái trừ nghiên mực để trên bàn , liền thò tay lấy nghiên mực đập mạnh vào đầu Tỳ bà tinh.
Tỳ bà tinh ré lên một tiếng, máu chảy đỏ ối. Tuy vậy, Tỳ bà tinh vẫn còn mạnh , giãy dụa lung tung, mà không sao biến đi được.
Thiên hạ trông thấy Tử Nha đánh người đàn bà đổ máu, đều ra mặt phẫn nộ .
- Lão thầy bói quái gở, đã chọc ghẹo đàn bà con gái lại còn giở trò hung hăng. Chúng ta đi báo với quan địa phương .
Một số người nằm giử Tử Nha lại , còn một số đi trình quan.
Tử Nha vẫn năm chặt tay Tỳ bà tinh không thả.
Vừa lúc ấy có Tỉ Can cỡi ngựa đi qua đấy, thấy dân chúng xôn xao liền hỏi :
- Thiên hạ làm gì đông vậy ?
Mọi người đồng hô lớn :
- Kéo cổ Tử Nha ra đây cho quan Thừa Tưởng xử.
Tỉ Can không rõ việc gì, hỏi :
- Chuyện gì vậy ?
Dân chúng thưa :
- Có lão thầy bói tên Tử Nha làm chuyện phạm pháp, lợi dụng nghề coi bói nắm tay con gái đàn bà. Cô ả không chịu, lão thầy bói lại làm ngang, lấy nghiên mực đánh nàng đổ máu.
Tỉ Cang nghe nói nổi xung, truyền bắt Tử Nha dẫn đến.
Tử Nha bị lôi ra trước mặt Tỉ Cang, nhưng ông ta vẫn không chịu thả tay Tỳ bà tinh ra.
Tỉ Can trông thấy tận mắt, lớn tiếng mắng Tử Nha :
- Trên đầu ngươi đã hai thứ tóc, sao lại không biết xét mình, làm chi chuyện xấu xa như vậy ?
Tử Nha quỳ thưa :
- Tôi là người có học, lẽ đâu không biết phép vua ? Dẫu có lì lợm đến đâu cũng không thể đối xử với đàn bà như vậy. Quả thật người nầy là yêu quái trá hình. Tôi thấy tại Triều Ca khí yêu quá lộng, e không trừ thì sớm tối nước nhà không yên. Tôi dẫu là dân, đã ăn ngọn rau tấc đất của Thánh Hoàng chẳng lẽ bỏ qua, không trừ quỷ dữ. Xin Thừa Tướng xét lại .
Tỉ Cang nhìn người đàn bà đang nằm mê man như chết, hỏi :
- Người đàn bà ấy bị ngươi đánh đã chí tử, ngươi còn tiếc gì còn nắm tay ?
Tử Nha thưa :
- Không, nó làm bộ yếu đó. Nếu tôi thả tay nó biến mất còn đâu bằng cớ ? Thừa Tướng dầu không xét, chém đầu tôi, tôi cũng không dám thả tay ra.
Tỉ Cang suy nghĩ hồi lâu nói :
- Việc nầy ta không thể nào xét xử được. Ðể ta vào Triều tâu với Thiên tử đã.
Nói rồi liền khiến quan sở tại dẫn Tử Nha đến trước đền, còn mình cỡi ngựa về thẳng hoàng cung, vào ra mắt Trụ vương tâu mọi việc.
Trụ vương ngỡ ngàng , không hiễu cớ sự ra sao, Ðắt Kỷ đã rõ ngọn ngành , nghiến răng thầm trách :
- Khổ quá. Em đi về sau lại không về cho đến nơi, ghé vào xem bói làm gì cho chúng đánh . Việc này chị phải báo thù cho em mới được.
Nghĩ rồi liền tâu với Trụ vương :
- Việc ấy nghe mơ hồ quá . Xin Bệ hạ truyền Tử Nha vào bệ kiến mới rõ được.
Trụ vương nghe lời liền truyền dẫn Tử Nha vào.
Tử Nha kéo thây Tì bà cùng với mình vào quì trước bệ .
Trụ vương hỏi :
- Nhà ngươi là ai đó ?
Tử Nha tâu :
- Tôi là Khương Thượng, quê ở Hứa Châu, trước đây có học phép thần tiên nên rõ được yêu quái. Nay tôi đang xem bói, gặp con yêu nay giả hình vào quấy rối, nên tôi bắt nó để đền ơn Bệ hạ .
Trụ vương nói :
- Nó là người đàn bà rõ ràng, sao ngươi bảo là yêu quái.
Tử Nha nói :
- Con mắt người thường không thể phân biệt được. Nếu Bệ hạ muốn thấy tận mắt xin cho phép tôi dùng lửa đốt nó. Nó sẽ hiện nguyên hình cho bệ hạ xem.
Trụ vương y tấu, truyền quân đem củi lửa đến chất lên nghi ngút trước sân chầu.
Tử Nha liền họa bùa trên xoáy Tỳ bà tinh , lôi quăng nó vào lửa.
Lạ thay, lửa đốt đến hai giờ đồng hồ mà xác con yêu vẫn còn nguyên không hề bị cháy . Quân sĩ lấy làm lạ, triều thần ngơ ngác .
Vua Trụ nói với Tỉ Cang :
- Ðốt không cháy thì nó quả thật là yêu quái rồi ?
Tỉ Cang tâu :
- Ðúng vậy. Song không biết nó là giống gì thành yêu.
Trụ vương phán :
- Ngươi xuống dưới sân chầu hỏi Khương Thượng xem yêu nầy là giống gì vậy ?
Tỉ Cang vâng lệnh đến hỏi Tử Nha.
Tử Nha nói :
- Nếu muốn bắt nó hiện nguyên hình cũng chẳng khó gì .
Tử Nha nói rồi dùng lửa Tam muội trong con mắt , lỗ mũi phun ra, cháy cả trời đất.
Tỳ bà tinh trông thấy thất kinh, lồm cồm ngồi dậy, nói lớn :
- Ta không cừu oán gì với ngươi sao ngươi nỡ dùng lửa thần đốt xác ?
Tử Nha nói :
- Ngươi là giống yêu quái , tác hại mọi người , ta giết ngươi để cứu dân, cần gì phải thù oán .
Vua Trụ thấy người đàn bà đã chết lại lồm cồm còn ngồi dậy nói như thế thì sợ, mình mọc ốc , trán đổ mồ hôi, lập cập đứng dậy vào trong.
Tử Nha tâu :
- Xin Bệ hạ vào trong cung cho mau kẻo có sấm nổ .
Ðợi cho Trụ vương khuất bóng sau rèm , Tử Nha đưa hai tay vỗ nhẹ một cái, tiếng sấm nổi lên rền trời. Lửa tam muội cháy rần rật. Chừng lửa tắt, không ai còn thấỵ xác người đàn bà coi bói nữa mà chỉ thấy một cây đờn tỳ bà bằng ngọc thạch, nằm giữa sân triều.
Các quan thấy vậy vỗ tay cười lớn , chúc mừng tài Tử Nha.
Các hoạn quan vội chạy vào báo với Trụ vương :
- Yêu quái đã hiện hình ra cây đờn tỳ bằng ngọc thạch rất đẹp .
Vua Trụ sửng sốt nói với Ðắt Kỷ :
- Ðờn tỳ bà bằng ngọc thạch cũng có thể thành yêu sao ?
Ðắt Kỷ không trả lời, mặt buồn dàu đàu, lòng đau xót .
Nàng nghiến răng trách thầm :
- Sao muội mnội đến thăm ta rồi không chịu trở về , chọc chi chúng nó cho sanh tai vạ như vậy . Ta quyết lấy đầu Khương Thượng cho rõ mặt hồ ly .
Nghĩ rồi gượng cười chúm chím nhìn Trụ vương nói :
- Thần thiếp nghe nói cây đờn tỳ bà bằng ngọc thạch thì thích lắm , vậy bệ hạ cho thần thiếp để đánh đờn cho bệ hạ nghe .
Khương Thượng có tài trừ yêu quái đáng được trọng dụng , xin Bệ hạ phong quan cho Khương Thượng để giúp việc triều chính.
Trụ vương nói :
- Phong quan cho Khương Thượng không có gì trở ngại , còn đem đờn tỳ bà vào cung , rủi nó thành yêu tinh trở lại, Trẫm sợ lắm .
Ðắt Kỷ nói :
- Nó đã bị đốt xác thành cây đờn, còn trở thành yêu tinh sao được, xin Bệ hạ chớ lo .
Vua Trụ nghe theo lời , truyền lấy cây đờn tỳ bà trao cho Ðắt Kỷ .
Ðắt Kỷ cúi lạy tạ ơn, liền đem cây đờn tỳ bà để trên lầu Trích Tinh , lấy hơi sương nắng . Vì Ðắt Kỷ biết rằng với hơi sương nắng ấy , chỉ trong sáu năm, Tỳ bà tinh có thể hiện lại nguyên hình .
Kế đó Trụ vương truyền đòi Tử Nha vào triều phong làm chức Tư Thiên trông coi việc thiên văn.
Tử Nha tuân lệnh , lãnh áo mão, rồi từ tạ Trụ vương trở về trang viện của Dị Nhân sắp xếp việc ra làm quan .
Dị Nhân thấy Tử Nha trở về , có cả áo mão hiển vinh thì mừng rỡ khôn cùng .
Ðêm ấy đôi bạn mở tiệc mừng , ăn uống say tưởng không còn gì vui hơn .
Ngày hôm sau, Tử Nha từ tạ Dị Nhân đến đài Thiên văn nhận việc . Từ chỗ một gã thầy bói trở thành một viên triều thần không có gì khó khăn cả.
Ngày kia Trụ vương truyền tam cung lục viện đến lầu Trích Tinh hầu rượu.
Ðắt Kỷ đến ca múa hát tưng bừng , Trụ vương như say như tỉnh ngồi ngất ngưởng trên long sàn.
Ðắt Kỷ múa hát môt hồi , liếc mắt nhìn thấy các cung nga ai cũng vui tươi chỉ có một nhóm cung nữ hơn bảy mươi người mặt ủ mày châu, không có một nụ cười tiếng nói.
Bấy giờ Ðắt Kỷ đã lên ngôi vị Chánh cung , đủ quyền chế ngự tam cung lục viện , không còn sợ ai nữa, nên thấy bọn cung nga khác thường kia , liền bước đến hỏi :
- Chúng bay hầu hạ ở cung nào mà có thái độ như vậy ?
Bọn cung nga ấy thưa trước kia là cung nữ hầu hạ Chánh cung họ Khương.
Ðắt Kỷ nổi giận nói :
- Chúng bay oán trách ta hả ? Chủ bây làm phản, toan hại Thánh hoàng , tội ấy đáng lẽ các ngươi có liên quan , ta đã vì nhân đạo không nói đến, các ngươi không biết ơn ta ?
Một vài cung nga không nhịn được lối hống hách của Ðắt Kỷ đáp :
- Khương Hoàng hậu nào có tội gì , chẳng qua Bệ hạ nghe lời dua mị, hành hạ Khương hậu đến thác oan .
Ðắt Kỷ tâu với Trụ Vương :
- Bệ hạ trừ kẻ phản mà để tiếng ác lại cho thần thiếp .Thần thiếp nghĩ mình lên chức Chánh cung chưa làm được gì mà chịu phải tiếng oan .
Nói rồi khóc nức nở. Vua Trụ giận quá, đòi đem bảy mươi hai cung nga ấy ra ngoài đập chết hết .
Ðắt Kỷ can :
- Lũ cung nga phạm tội xin chớ giết vội , hãy giam vào lãnh cung chờ thần thiếp chế ra một hình phạt đã .
Quan Phụng Ngự tuân lệnh , dẫn 72 cung nga đem giam vào lãnh cung hết.
Ðắt Kỷ tâu với Trụ Vương :
- Xin Bệ hạ truyền nhân công đào một cái hầm giáp vòng quanh lầu Trích Tinh . Dài 200 thước , sâu 50 thước . Xong lại truyền cho dân chúng ở Triều Ca mỗi nhà nạp vào cung năm con rắn độc. Rắn đó sẽ thả xuống hầm gọi là Sái Bồn.
Trụ Vương hỏi :
- Hậu định lập Sái Bồn để làm gì ?
Ðắt Kỷ nói :
- Nếu không dùng Sái Bồn để làm hình phạt thì cung nhân còn sợ uy của thần thiếp sao được . Cung nhân phạm tội sẽ bị lột hết xiêm y quăng xuống Sái Bồn cho rắn xé xác. Làm như vậy bệ hạ sẽ thấy thích thú khi thấy loài rắn đói ăn thịt người và sức kháng cự của những kẻ gần cái chết.
Trụ Vương nói :
- Chánh cung bày phép lạ như vậy trị bọn cung nga mới yên.
Liền truyền quân sĩ ngày đêm đào hầm , và ra chiếu chỉ cho dân chúng quanh Triều Ca mỗi nhà phải nạp rắn độc.
Lệnh vua ban hành , chẳng ai dám trái . Vì vậy dân chúng tấp nập vào triều .
Ngày kia, quan Ðại phu Dao Cách đang xem sổ sách trong đền ,thấy dân chúng di dập dìu , trên tay có xách một giỏ rắn đem vào nộp , lấy làm lạ , hỏi viên quan thu rắn :
- Thiên tử dùng vật ấy làm gì mà thu nạp nhiều như thế ?
Viên quan thu rắn thưa :
- Tôi chỉ được lệnh thu rắn đem nạp chứ không rõ.
Dao Cách hoài nghi bước ra ngoài hỏi đám dân lành.
- Chúng bay bắt rắn ở đâu nạp nhiều như vậy ?
Dân chúng thấy quan cận thần Dao Cách hỏi, vội khúm núm thưa :
- Lệnh vua truyền dân chúng Triều Ca mỗi người nạp bốn con rắn độc. Tại Triều Ca không có rắn độc, chúng tôi phải đến mãi tận vùng rừng núi đặt mua đem về đây .
Dao Cách hỏi :
- Các ngươi có biết loại rắn độc ấy dùng làm gì không ?
Dân chúng lăc đầu :
- Chúng tôi là kẻ ngu phu làm sao hiễu được.
Dao Cách liền vào đại điện tìm Tỉ Can , Hoàng Phi Hổ , Cơ Tử , Vi Tử và Dương Nhậm để hỏi ý kiến . May mắn, vừa đến nơi thấy đã các vị đại thần nầy cũng hội đủ mặt.
Dao Cách nói :
- Các ông có biết Bệ hạ truyền nạp rắn vào cung để làm việc chi không ?
Hoàng Phi Hổ nói :
- Hôm qua tôi đi tập quân , thấy dân chúng than thở về việc triều đình bắt nạp rắn , chẳng rõ duyên cớ nên định đến hỏi các ngài đây.
Tỉ Can và Cơ Tử đồng lắc đầu nói :
- Trong cung lại truyền dân nạp rắn độc thật là chuyện phi thường , thuở nay chưa thấy. Chúng tôi nghiệm không ra lẽ.
Hoàng Phi Hổ liền đòi viên quan thâu rắn đến dặn :
- Ngươi cố dọ xét thử Bệ hạ dùng số rắn nhiều như vậy để làm gì rồi báo cho ta biết, ta sẽ trọng thưởng.
Viên quan thu rắn tuân lệnh lui ra.
Qua bảy hôm , số rắn dân chúng đến nạp đã nhiều , viên quan thu rắn liền vào cung tâu với vua Trụ :
- Rắn độc không còn chổ chứa nữa , chúng đói muốn phá giỏ ra , hạ thần phải truyền quân giữ rất khó nhọc, xin bệ hạ chỉ dạy .
Trụ Vương hỏi Ðắt Kỷ :
- Khanh định liệu thế nào ?
Ðắt Kỷ truyền đem rắn thả hết xuống hầ m , và chấm dứt việc thu nhận rắn . Bây giờ rắn độc đầy hầm , bò qua bò lại, chồng chất lên nhau , cất đầu le lưỡi trông rất sợ.
Trụ Vương nói :
- Khanh còn định gì nữa ?
Ðát Kỷ nói :
- Thế là Sái Bồn đã hoàn thành . Xin Bệ hạ truyền chỉ bắt 72 cung nga phạm tội , lột hết xiêm y , bỏ xuống từng người cho rắn độc phân thây. Ðứa sau thấy cái chết của đứa trước, chúng mới kinh sợ.
Trụ Vương gật gù nói :
- Khanh lập các hình phạt rất hay. Nhưng trẫm thấy gớm ghiếc quá !
Ðắt Kỷ mỉm cười nói :
- Bệ hạ là đấng uy quyền nhất vũ trụ , xưa nay các vì vua chúa đã ai được thấy cảnh ấy , thần thiếp thiết tưởng bệ hạ trông thấy sẽ thích thú không gì bằng.
Trụ Vương nói :
- Thấy rắn thì gớm chứ sao lại thích thú ?
Ðắt Kỷ nói :
- Thích thú ở chỗ bầy rắn ăn thịt người. Ðó là một nghệ thuật xé mồi , không phải như những con thú khác. Trước khi xe nát từng miếng thịt , mỗi con rắn trườn tới , dùng nọc độc cắn tội nhân.
Có những thứ nọc độc làm cho tội nhân tê đi , có những thứ nọc độc làm cho tội nhân đau đớn giảy giụa khổ sở.. . Những cái ấy trông thấy còn thích hơn là xem một tuồng hát độc đáo nhứt trong cung vàng điện ngọc này.
Trụ Vương cười nói :
- Nếu không có khanh giảng giải , Trẫm làm sao biết được.
Liền truyền chỉ dẫn 72 cung phi đến Sái Bồn lột hết quần áo , cứ từng người xô xuống. Bầy rắn đói gặp thịt người, đổ tới như gió, cắn , đớp.. . chỉ loáng mắt , từng miếng thịt của cung nhân vào bụng rắn .
Bọn cung nga còn lại trông thấy sợ hãi khóc rống lên. Tiếng khóc thảm thiết hòa thành một điệu vang dội cả nội cung .
Bây giờ Dao Cách đang theo dõi hành động của Trụ Vương bỗng nghe trong cung có tiếng khóc. Kế viên quan thu rắn chạy ra thét :
- Ngài ơi ! Ghê gớm quá ! Bệ hạ đựng rắn đầy hầm , lại bắt cung nhân xô xuống cho rắn độc xé xác.
Dao Cảnh nổi nóng, vội chạy thẳng lên lầu Trích Tinh, thấy một số đông cung nhân lõa thể, quần áo bị lột hết, không còn một mảnh vai che thân , tóc thả bù xù, đang khóc than thảm thiết.
Trước mắt Dao Cách như một cảnh địa ngục ma quái .
Dao Cách hét quân sĩ bảo không được xô cung nhân xuống hầm nữa, và chạy đến trước mặt Trụ Vương tâu :
- Xin Bệ hạ hồi tỉnh lại , nỡ nào bày ra chuyện quái gở như vậy.
Trụ Vương đang ngồi với Ðắt Kỷ xem rắn ăn thịt người thấy Dao Cách đến quỳ trước mặt, liền hỏi :
- Trẫm không cho đòi , sao khanh dám đến ?
Dao Cách vừa khóc vừa nói :
- Bệ hạ di vào con đường dữ, càng làm cho thiên hạ oán hờn . Chẳng hay cung nga có tội gì mà Bệ hạ hành hình độc ác như thế ?
Trụ Vương nói :
- Nước có giềng mối, đạo có quân thần . Trong cung nhiều người làm sai phép nước, nếu không lập Sái Bồn răn chúng thì cơ nghiệp khó giữ. Khanh làm quan Ðại phu lại không rõ hay sao ?
Dao Cách thở dài :
- Ôi ! Bệ hạ nghĩ sai rồi , cơ nghiệp bị mất là do hành động tàn nhẫn của Bệ hạ chứ không phải do đám cung nhân phạm kỷ luật đâu.
Dân chúng vừa qua cảnh bảo lụt tai ương , lại phải khổ sở tốn tiền mua rắn độc để dâng Bệ hạ bày chuyện bất nhơn xưa nay chưa từng thấy . Xưa thời Nghiêu Thuấn , không dùng đến hình phạt mà thiên hạ vẫn thái bình , bốn phương đều an lạc, cơ nghiệp vững bền. Thế thì việc giữ nước trị dân đâu phải là hình phạt mà chính là nhân đức. Xin bệ hạ xét lại.
Trụ Vương nói :
- Ta há không biết sao mà ngươi phải giảng dạy . Song trong đời không phải ai cũng thấy đức mà sợ. Có kẻ chỉ sợ hình phạt thôi .
Ðối với hạng người ấy , nếu không dùng hình phạt thì không thể dạy được.
Dao Cách nói :
- Cung nga là những tay chân, hầu hạ , đâu có lỗi gì nặng đến đâu nữa cũng chưa phải quan hệ lắm , việc gì phải bày hình pháp ?
Tôi thiết tưởng, những kẽ có lòng nhân mới làm được việc nhân. Bệ hạ xô người xuống hầm cho rắn xé thịt mà bệ hạ không ghê rợn thì bệ hạ đâu có lòng nhân. Dại khờ nhất là đám tôi thần vô dụng nầy, đòi hỏi một ông vua bất nhân phải làm điều nhân là chuyện không thể có...
Trụ vương không kịp nghe hết lời can gián của Dao Cách , nổi giận đùng đùng, mắng :
- Loài thất phu, dám mắng vua, nghịch mạng. Ðáng chết !
Quân , hãy cởi hết quần áo nó rồi ném xác nó xuống Sái Bồn lập tức.
Dao Cách đứng dậy điểm mặt Trụ Vương nói :
- Ta không ngờ hôn quân ngày hôm nay đến nỗi nầy. Kẻ dại khờ là những kẽ mê muội, chỉ biết nghe lời bên gối , trông những sắc đẹp bên mình mà không thấy gì xa hơn. Ta đoán chắc ngày kia lúc hôn quân sáng mắt lên thì đã muộn. Ta , bọn tôi thần bất trí, thờ nhằm một hôn quân thì chết cũng cam, nhưng ta đâu phải chết vì Sái Bồn, ta là một Giám Nhị, có chết cũng tìm chỗ trong sạch.
Nói dứt lời , nhào xuống lầu Trích Tinh tự vận . Lầu Trích Tinh là một cái lầu cao chót vót. Dao Cách nhảy xuống thì còn gì thịt xương. Tuy vậy , Trụ vương vẫn chưa hết giận, truyền xô hết 72 cung nga xuống Sái Bồn, rồi lượm thây Dao Cách ném luôn xuống hầm cho rắn ăn luôn.
Người sau có thơ khóc Dao Cách :
Mặt đỏ lòng son chẳng lợt màu
Họ Dao nhãy xuống thác bên lầu
Phải dè cơ nghiệp Thành Thang dứt
Cơn giận làm chi đến dập đầu....
Cuộc hành hình trông rất khủng khiếp. Nếu Trụ Vương còn một chút ít nhân tính , không thể nào nhìn cảnh dã man ấy được.
Bọn cung nhân kêu khóc một hồi rồi cũng đến lúc oán hận , không còn sợ chết , không kể đến thân xác, chỉ vào mặt Ðắt Kỷ ngâm nghiến :
- Chúng ta sống không ăn thịt người được, chết nguyện làm ma quỉ hóp hồn ngươi ..
Số cung nhân bị xô xuống Sái Bồn một lượt, đàn rắn đói cất cổ phùng mang , con thì cắn , con thì xé, con thì chun vào bụng , con thì quấc ngoài da, quang cảnh không thể nói cho cùng.
Ðắt Kỷ nói với Trụ vương :
- Nếu không dùng cách ghê gớm thì khó trị được loài ngang nghạnh .
- Nhưng bình phạt nặng quá chúng sẽ oán ta.
Ðắt Kỷ nói :
- Oán trách mà không hành động chống lai thì nước không mất . Còn hơn là để chúng khi quân, nay mắng, mai chửi bệ hạ, làm cho phép nước rối loạn , quân phản nghịch do đó nổi dậy. Bệ hạ không thấy sao ? Từ khi lập Bào Lạc , đốt Mai Bá , triều thần khiếp vía , không còn ai dám đem những giáo điều nhân nghĩa đến trước mặt Bệ hạ nguyền rủa nữa. Như vậy kết quả của trừng phạt là tuyệt đối .
Vua Trụ nghe Ðắt Kỷ nói mùi tai , gật đầu :
- Khanh thật là người thông thái có thể giúp trẫm trị nước được .
Ðắt Kỷ được khen rất hài lòng , tâu với Trụ Vương :
- Làm vua phải có gì cao cả trong đời mình . Nay bệ hạ tuy quyền đã có nhưng sức giàu sang chưa phô diễn tuyệt đỉnh.
Trụ Vương hỏi :
- Sức giàu sang như thế nào mới tuyệt đỉnh ?
Ðắt Kỷ nói :
- Sức giàu sang tuyệt đỉnh là sức mà thiên hạ không bao giờ tưởng tượng đến.
Trụ Vương hỏi :
- Trẫm có tiền bạc đầy kho cung điện nguy nga, vàng son lộng lẫy, như vậy thiên hạ chưa tưởng tượng được sao ?
Ðắt Kỷ nói :
- Tiền bạc , vàng son , cung điện, các nước chư hầu cũng có. Họ vẫn được cảnh sung mãn ấy.
Trụ Vương hỏi :
- Thế thì Trẫm phải có thứ gì mới gọi là giàu sang ?
Ðắt Kỷ tâu :
- Nay Bệ hạ đã lập Sái Bồn nuôi rắn rồi . Rắn dữ đầy hầm , đó là chuyện ít ai có . Nhưng nếu bên tả Bệ hạ làm một hòn núi hèm , để ủ rượu , đống hèm luôn luôn cao chót vót, dùng những cành cây cắm lên, rồi lấy thịt móc vào làm đá! đặt tên là Nhục Lâm (núi thịt) . Bên hữu, Bệ hạ khiến xây một hầm sâu, đổ đầy rượu như một hồ nước mênh mông , gọi là Tửu Trì . Ðược như vậy hỏi trong thế gan nầy ai dám sánh ?
Vua Trụ đắc ý khen :
- Khanh chế cách chơi như vậy sang trọng lắm. Nếu không có thông minh làm sao nghĩ được chuyện to tác như vậy ?
Vua Trụ liền truyền bọn Thái giám đốc suất ngự lâm quân làm trong một khoảng thời gian ngắn thì xong . Công việc hoàn thành, vua Trụ và Ðắt Kỷ ngự ra Nhục Lâm và Tửu Trì xem xét.
Trụ Vương khoái chí , truyền Ðắt Kỷ đờn ca múa hát cho vui.
Ðắt Kỷ tâu :
- Ðờn ca múa hát mãi cũng chán xin Bệ hạ tìm thú vui mới lạ đẹp mắt hơn .
Trụ vương hỏi :
- Khanh có thú nào vui chăng ?
Ðắt Kỷ tâu :
- Trong cung có một số thái giám và cung nữ , vây bệ hạ truyền bọn thái giám và cung nữ chia làm hai phe, vật lộn nhau, kẻ nào thắng thì được ăn Nhục Lâm, uống Tửu Trì, còn kẻ nào bại thì quăng thây xuống Sái Bồn cho rắn dữ.
Vua Trụ nghe theo, truyền thái giám và cung nga vật lộn làm vui
Ai nấy sợ lệnh vua không dám cãi , kết cuộc có một số cung nga vì yếu sức, bị Ðắt Kỷ truyền quân xô xuống hầm rắn , làm mồi cho giống độc.
Sở dĩ Ðắt Kỷ bày ra chuyện này là để giết bớt một số cung nga làm cho thâm cung vắng vẽ, thừa lúc nửa đêm hiện hình ra đống hèm ăn thịt người , uống rượu.
Người sau có thơ than :
Gặp thịt như rừng rượu cả ao
Trụ nghe Ðắc Kỷ độc chừng nào
Sái Bồn nuôi rắn thương chi xiết
Bào Lạc thành tro thảm biết bao
Văn võ hết lo nền xã tắc
Quan quân không trổ chí anh hào
Lòng dân nhen nhúm hờn bạo ngược
Sắc đẹp mê hồn , chẳng biết sao ?
Trụ Vương với Ðắt Kỷ mê man trong Nhục Lâm, Tửu Trì, bao nhiêu công việc triều chính không hề để mắt đến.
Ngày kia , Ðắt Kỷ nhớ lại mối thù với Tử Nha , chưa có cơ hội kết toán , nên nghĩ ra một kế , vẽ ra một bức họa đồ cất trong tay áo rộng , thừa lúc vua Trụ say , quì tâu :
- Thần thiếp vừa vẽ ra một bức họa đồ rất công phu , xin bệ hạ xem thử .
Trụ vương tiếp lấy, trải lên long sàng xem một hồi rồi hỏi :
- Ðây là họa đồ của một lâu đài tráng lệ, ái khanh có ý định gì mà vẽ họa đồ nầy ?
Ðắt Kỷ tâu :
- Ðây là họa đồ xây một Lộc đài theo kiểu Bồng Lai. Bệ hạ giàu có muôn xe, uy trải bốn biển , nếu không thụ hưởng Lộc đài thì uỗng lắm.
Ðắt Kỷ chỉ từng chỗ , giải thích cho Trụ vương nghe, Lộc đài bề cao 49 thuớc, cột vàng kèo bạc , chạm trổ rất công phu , chổ nào cũng có gắn hạt châu, mã não, hổ phách, ban đêm chiếu sáng ngời, chẳng khác lầu Ngọc Khuyết.
Trụ vương mê man , hỏi :
- Lầu cao và đẹp như thế sẽ tốn rất nhiều của kho, chẳng biết Trẫm ngự ở đấy sẽ tìm được thú vui nào đặc biệt ?
Ðắt Kỷ nói :
- Bệ hạ ngự ở Lộc đài khác nào cảnh thượng giới , ban đêm sẽ có tiên ông , tiên nữ xuống chơi, bệ hạ sẽ làm quen với tiên nga , ngắm nhiều tuyệt sắc. Ðã vậy, bệ hạ được sống lâu gần gũi mãi với thần thiếp, hưởng lộc trời...
Trụ vương nói :
- Trẫm có nghe hễ được gần tiên thì tuổi thọ , nay ái khanh tính lập Lộc đài tức là nghĩ đến tuổi già của Trẫm đó. Nhưng chẳng biết tiên có xuống chơi Lộc đài với trẫm không ?
Ðắt Kỷ nói :
- Nếu có một Lộc đài cao quý như vậy , thần thiếp dám chắc tiên nga sẽ đến đờn ca múa hát, chầu bệ hạ suốt đêm.
Trụ vương nghe nói đắc ý , bảo :
- Tiền bạc tốn phí Trẫm không ngại gì , chỉ khó ở chỗ tìm người có đủ tài năng mới điều khiển đuợc thợ khéo làm đúng theo họa đồ của ái khanh.
Ðắt Kỷ nói :
- Bệ hạ dạy rất đúng. phải cần kẽ thông thiên văn , am địa lý mới thấu rõ huyền cơ của ngôi Lộc đài được. Nội trong triều thần thiếp chỉ thấy một mình Khương Thượng có đủ tài năng cáng đáng việc này. Xin Bệ hạ phong cho Khương Thượng làm Ðốc công thì thế nào cũng vừa ý.
Vua Trụ nghe theo , liền khiến quan thái giám đến dinh Tỉ Can đòi Khương Thượng vào dinh dạy việc .
Khương Thượng được lệnh , bói một quẻ , biết trước tai bay vạ đến chẳng lâu , liền nói với viên Thái giám .
- Ngài về trước tâu với bệ hạ rằng ta sẽ vào chầu lập tức.
Viên Thái giám đi rồi, Tử Nha nói với Tỉ Can :
- Tôi vói ngài lâu nay khuya sớm có nhau, tình nghĩa khắng khít. Nếu vì một duyên cớ nào hai ta cách trở thì biết bao giờ mới gặp nhau ?
Tỉ Can nói :
- Vì cớ gì ông lại nói câu nầy ?
Tử Nha nói quẻ, hôm nay vào chầu vua dữ nhiều lành ít, họa gởi tai bay .
Tỉ Can nói lần xem việc thiên văn đâu phải quan giám nghị mà lo tội vạ . Nếu vào chầu Bệ hạ có hỏi gì ông cứ nói không biết là xong. Vã lại, va mới phong chức cho ông , lẽ nào cách chức .
Tử Nha nói :
- Tôi có một phong thư để dưới nghiên mực, trong đó có nói lời tiên tri . Nếu sau nầy ngài có điều gì trắc trở nên theo đó mà làm may tránh khỏi vạ. Ðó là tôi đền ơn ngài vậy.
Dứt lời, Tử Nha tỏ ý giã biệt.
Tỉ Can quyến luyến nói :
- Ông đừng vội bi quan, nếu ông có điều gì rắc rối tôi nguyện đem thân ra bênh vực.
Tử Nha nói :
- Trời đã định mỗi người có một số mệnh riêng, ngài chớ lo mà nhọc tinh thần. Tôi e cứu vớt tôi không được mà ngài bị chìm luôn trong tai họa. Chi bằng xuôi theo vận mệnh tốt hơn .
Tỉ Can đưa Tử Nha ra khỏi phủ.
Tử Nha đến trước Trích Tinh lầu, thấy Trụ Vương đang cùng Ðắt Kỷ uống rượu.
Tử Nha xin vào yết kiến. Trụ Vương đòi vào phán :
- Nay trẫm muốn lập Lộc đài, nhưng trong triều không ai đũ tài giúp trẫm. Nếu khanh chịu khó thay mặt Trẫm hoàn thành thì công của khanh chẳng nhỏ.
Khương Tử Nha tiếp lấy họa đồ xem thử , thấy công trình rất nhọc , không biết làm mấy năm cho rồi , bèn nghĩ thầm :
- Triều Ca là chốn tạm của ta, lẽ đâu ta dốc sức làm việc này để mang tiếng theo hùa với hôn quân hại dân hại nước. Chi bằng tìm lời thối thác , nếu hôn quân giận , ta sẽ đào tẩu trước cho rồi , đừng để lụy thân.
Nghĩ như vậy , Tử Nha cứ cầm bản đồ xem hoài, không nói gì cả .
Vua Trụ chờ lâu , hỏi :
- Khanh nhắm họa đồ nầy làm bao nhiêu thời gian thì hoàn tất ?
Tử Nha tâu :
- Ðài cao 49 thước, lại dùng châu ngọc gắn khắp nơi , đâu đâu cũng chạm trỗ rất tinh tế, hạ thần nhận thấy muốn hoàn thành phải ít nhất trong vòng 35 năm.
Trụ Vương thở dài quay sang Ðắt Kỷ nói :
- Khương Thượng trù tính 35 năm mới xong, như thế trẫm cất Lộc đài làm gì cho hao tốn. Người không trăm tuổi , mà trẫm đã nửa đời người, sống tạm như vậy hưởng cảnh thanh nhàn cũng được, cần gì tính đến chuyện trồng cây, xây núi .
Ðắt Kỷ nói :
- Lão thầy bói nầy quen tánh nói dối . Cất một cái đài dầu có lâu đến đâu cũng không thể qua ba năm. Tử Nha đã có ý khi quân, không muốn làm tôi , Bệ hạ xin đem xử Bào Lạc cho rồi .
Trụ Vương còn đang lưỡng lự, Tử Nha nói tiếp :
- Tôi xin Bệ hạ chớ nghĩ đến chuyện lạc thú ở đời mà quên cái khổ của muôn dân. Trong lúc kho tàng trống rỗng, thiên hạ gặp nhiều hạn hán , lúa thóc không đủ ăn, tôi trung vì chán nản việc triều chánh, kẻ nịnh lợi đụng tình thế dèm pha, cái nguy vong của nước nhà đã thấy rõ . Xưa vua Kiệt lập cung Quỳnh Dao mà mất nước . Nay Bệ hạ lập Lộc đài chẳng khác dẫm chân lên con đường ấy, e cơ nghiệp sẽ về tay một chư hầu khác. Tuy đã muộn, nhưng vẫn còn có thể cứu nguy được nếu Bệ hạ biết tự sửa mình chinh phục nhân tâm, lo cho xã tắc. Tôi tri ân Bệ hạ nên có lời tâm huyết , không nỡ lấy mắt nhìn.
Trụ Vương nổi giận mắng lớn :
-Ðứa già miệng , dám mắng vua . Nếu không dùng hình phạt trị tội thì còn ai kính nễ trẫm nữa . Quân bây , đem Bào Lạc ra đốt lão già nầy cho thành tro để làm gương kẻ khác.
Võ sĩ chưa kịp áp tới Tử Nha đã co chân nhãy xuống lầu . Vua Trụ cười lớn , nói :
- Người nhát như thỏ mà giở thói ngang tàng, dẫu có lẹ chân như nai cũng không thể chạy trốn được .
Nói rồi truyền ngự lâm quân đuổi theo bắt lại.
Tử Nha nhảy xuống lầu, chạy một mạch đến cầu Cửu Long, thấy đàng sau quan quân theo bắt, liền nói lớn :
- Các ngươi đừng bắt ta làm gì cho mệt . Vua truyền đem Bào Lạc đốt ta , tánh ta không ưa lửa, nên thà chết nước cho mát thân.
Nói rồi nhảy ùm xuống sông mất xác. Quan quân chạy đến , không còn thấy Tử Nha đâu nữa, ngỡ là Tử Nha đã mượn dòng nước quyên sinh, có ngờ đâu Tử Nha bản lĩnh đầy mình , độn thủy trở về xứ.
Quan quân đứng nhìn một hồi , rồi trở về tâu lại với vua Trụ :
- Khương Thượng đã liều mình nhẩy xuống sông tự vận rồi .
Trụ vương nói :
- Số lão chết nước, không muốn chết lửa. Thôi, bề nào lão cũng chết thì thôi .
Bây giờ có vài viên quan vì mến Tử Nha nên đứng mãi trên cầu than thở, xảy có quan Thượng Ðại phu là Dương Nhậm đến hỏi :
- Việc gì mà các ông buồn bã đứng đây ?
Các quan thưa lại mọi việc, Dương Nhậm thở dài trở về thư phòng, lòng rối như tơ vò.
Xong việc Khương Thượng rồi , Trụ Vương lại hỏi Ðắt Kỷ :
- Ái khanh còn có ý lập Lộc đài chăng ?
Ðắt Kỷ nói :
- Lộc đài là nguồn sống của Bệ hạ thần thiếp tưởng không nên bỏ qua.
Trụ Vương hỏi :
- Khương Thượng đã chết nay sai ai làm Ðốc công ?
Ðắt Kỷ nói :
- Sùng Hầu Hổ là người tận tâm với Chúa , nên bổ nhậm chức ấy .
Trụ Vương theo lời , sai sứ triệu Sùng Hầu Hổ về triều .
Thiên sứ tuân lệnh, vừa ra khỏi đền, gặp Dương Nhậm đón lại hỏi :
- Khương Thượng phạm tội gì mà phải nhào xuống sông tự tận ?
Bệ hạ sai Khương Thượng làm Ðốc công , cất Bá Lộc đài theo họa đồ của Hoàng Hậu.
Khương Thượng đem lời ngay can gián . Bệ hạ truyền xử Bào Lạc . Khương Thượng thất kinh nhãy xuống lầu chạy đến Cửu Long kiều tự vẫn.
Dương Nhậm hỏi :
- Nay Bệ hạ sai ông đi đâu vậy ?
Thiên sứ thưa :
- Bệ hạ sai tôi triệu thỉnh Sùng Hầu Hổ về triều để tiếp tục ý định xây Lộc đài .
Dương Nhậm hỏi :
- Lộc đài ra thế nào ?
Thiên sứ nói :
- Bề cao tới bốn mươi chín thước, làm toàn ngọc ngà châu báu , có thể sánh với cung Quỳnh Dao đời vua Kiệt thuở xưa. Nếu làm đúng như vậy thì tốn kém của dân không biết bao nhiêu mà kể. Quan Ðại phu là người hưởng lộc lâu nay , tôi tưởng cũng nên có ít lời can gián may ra cứu dân khỏi nạn này .
Dương Nhậm nói :
- Thôi, ông khoan đi đã, để tôi vào yết kiến bệ hạ can gián vài lời . Xem có kết quả gì không.
Nói rồi thẳng đến đến trước lầu Trích Tinh , vòng tay đứng mãi. Trụ Vương trông thấy, gọi đến hỏi :
- Khanh đến đây có việc gì chăng ?
Dương Nhậm tâu :
- Tôi nghe trong đạo thiên hạ hễ dân loạn thì nước hư , nước hư thì vua mất . Nay Khương Văn Hoán thù cha , cử binh bốn mươi vạn dánh ải Du Hồn , quan Tổng Trấn chống cự đã ba năm , tướng tổn người hao . Ngạt Thuận quyết lòng báo hiếu , kéo hai mươi vạn quân đánh ải Tìm Sơn . Ðặng Cửu Công cự địch hơn mấy năm đã không sao dẹp được . Trong lúc đó, Thái Sư Văn Trọng cầm quân dẹp Bắc Phiên mười mấy năm chưa thấy trở về. Tuy bên trong ổn mà bên ngoài chứa đầy mầm loạn lạc. Thế mà Bệ hạ không lo cứ ngày đêm đam mê tửu sắc , lập Bào Lạc hại tôi ngay , lập Sái Bồn giết cung nữ , chế Nhục Lâm , Tửu Trì để vui chơi ...Rồi lại đòi lập Lộc đài cao bốn muơi chín thước để sánh với cung Quỳnh Dao thời vua Kiệt thật là chuyện phi thường. Hạ thần e Lộc đài hoàn thành , bệ hạ chưa hưởng được lạc thú mà cái khó đã đến bên mình. Muốn tránh những cái hại gần phải lo những cái hại xa. Lời nói của hạ thần ngày nay tưởng cũng thừa, vì trước đây đã nhiều vị quan triều tận trung can gián và bỏ mạng rồi. Tuy nhiên, hạ thần làm tôi bệ hạ, ngày nào Bệ hạ còn lầm lỗi là còn phải can ngăn.
Trụ Vương nói :
- Ngươi một đời theo sáo ngữ mà không biết cái nghĩa uyên thâm của một bậc minh quân sửa trị ngôi trời . Trẫm dùng luật nghiêm trị những đứa phản loạn thì mầm phản loạn làm sao sanh ra được. Bốn phương tuy có giặc, những đứa phản vua tuy hành động điên cuồng, song ngày nào đó chúng sẽ chịu trừng trị trước hình pháp của trẫm.
Dương Nhậm cười lớn :
- Bệ hạ nhờ ai nắm vững ngôi vua ? Giặc đến, bệ hạ phải nhờ tướng tài , quân mạnh để chống lại . Thế mà Bệ hạ lại bạc đãi quân tướng mình thì ai chịu ra sức phò bệ hạ, chống giặc ?
Vua Trụ nói :
- Binh tướng sẽ khiếp sợ trước luật pháp triều đình mà xả thân đánh giặc . Còn lấy nhân đạo đối với chúng chẳng khác nào đưa chúng đến chỗ dễ ngươi, khi quân phản quốc . Thí dụ , ta đã lấy lòng thương đãi ngươi , gọi ngươi vào đây , ngươi dám đem lời khi quân mắng vua , chứ nếu ta cấm ngặt không cho ngươi vào thì ngươi dám vào không ?
Dương Nhậm nghe nói cười to :
- Thế Bệ hạ cho lũ quan triều nầy đều sợ chết mà phục tùng Bệ hạ sao ?
Trụ Vương nói :
- Nếu ta đưa ngươi đến Bào Lạc , ngươi có dám nói lời khuyên can ta không ?
Dương Nhậm ngửa mặt lên trời nói :
- Dù Bệ hạ có khoét mắt, cắt lưỡi , hạ thần vẫn nói . Lời nói của hạ thần vì sự nghiệp của tiền nhân , vì nhiệm vụ của một tôi thần đâu phải vì lẻ sống cá nhân. Bệ hạ nên thấy khác biệt giữa lời nói của kẻ nịnh , người trung thì mới rõ .
Trụ Vương bị Dương Nhậm mắng liền một lúc, tức quá nạt lớn :
- Ta khoét mắt ngươi xem ngươi còn dám nói lời nào nữa không ?
Dứt lời truyền quân đè cổ Dương Nhậm xuống khoét mắt.
Dương Nhậm vẫn nói oang oang không nín. Ðến lúc Dương Nhậm đau quá chết điếng mới thôi .
Quân đem tròng mắt của Dương Nhậm dâng lên trước long sàng .
Trụ vương chưa nguôi giận mắng :
- Xảo ngôn ! Sao nằm im đây không mắng nữa ta nghe thử.
Trụ vương vừa dứt lời thì bỗng một luồng gió thổi đến như bảo , đá cát bụi bay ngất trời . Vua Trụ phải bỏ chạy vào trong lánh mặt . Dương Nhậm tuy chết giấc mà tâm gan trung liệt vẫn không sờn, hồn oan lên đến tận mây xanh.
Bấy giờ ông Thanh Hư đạo nhân ở núi Thanh Phong, trông thấy oán khí bốc lên đánh tay hiễu rõ sự tình, liền sai Huỳnh Cân lực sĩ xuống trần , nổi trận gió thâu hốt xác của Dương Nhậm đem về núi , bỏ trong động Tử Dương.
Luồng gió dữ vừa rồi chính là do Huỳnh Cân lực sĩ tạo ra đó.
Trụ vương sợ gió chạy vào trong một lúc , khi gió tạnh, quan Phụng Ngự chạy vào báo :
- Dương Nhậm bị gió thổi bay đâu mất rồi.
Trụ vương nói :
- Lúc truớc trẫm chém hai vị Thái tử cũng bị gió bay . Như vậy là chuyện thường không có gì đáng ngại .
Tiếp đó Trụ vương quay sang nói với Ðắt Kỷ :
- Dương Nhậm bị gió bay mất, Sùng Hầu Hổ chắc cũng gần tới triều vậy phải lo gấp chuyện lập Lộc đài kẻo mất thì giờ, thời xuân không chờ ai để trễ không hưởng được thú thần tiên thì uỗng lắm .
Ðắt Kỷ nói :
- Bệ hạ cương quyết như vậy thì làm gì sự nghiệp không vững bền. Thần thiếp tưởng chỉ có hình phạt mới đem lại yên vui cho một ông vua , khỏi bị những kẻ tự phụ cho mình là thông thái đem những sáo ngữ ra chỉ trích xàm xàm.
Trụ vương gật đầu hỏi :
- Do đâu mà ái khanh có một tầm hiễu biết cao xa như vậy ?
Ðắt Kỷ nói :
- Làm vua chẳng khác nào như cha mẹ. Cha mẹ dạy con bằng lối chiều chuộng thì không bao giờ làm vừa lòng con cái. Vì mỗi đứa con có mỗi tánh khác nhau . Còn nếu dùng uy lực trừng trị thì không đứa con nào không sợ. Ðó là đạo trị người vậy.
Vua Trụ nghe Ðắt Kỷ nói lòng ngất ngây , truyền quân đem rượu đến , uống say mèm.
Bấy giờ Huỳnh Cân lực sĩ đem thây Dương Nhậm bỏ ở động Tử Dương , rồi vào thưa lại với Thanh Hư đạo nhân .
Ðạo nhân liền xuất động, sai Bạch Vân đồng tử đem hai hạt linh đơn bỏ vào lỗ mắt của Dương Nhậm bị khoét . Tức thì, trong lỗ mắt ấy mọc ra hai cánh tay , có hai con mắt thần , sáng ngời như sao, xem thấu rõ trên trời dưới đất , thấu cả việc đời .
Tuy vậy, Dương Nhậm vẫn còn mê man chưa tĩnh, Bạch Vân đồng tử liền hớp một hơi sinh khí thổi vào mặt Dương Nhậm hét :
- Dương Nhậm không tỉnh lại còn chần chờ gì .
Dương Nhậm cựa mình, lồm cồm ngồi dậy, thấy quang cảnh trước mặt biết không phải là chốn phàm trần , lại thấy một tiên ông đứng trước cửa, Dương Nhậm liền bước đến quì thưa :
- Có phải ngài là ân nhân đã cứu tôi ?
Thanh Hư đạo nhân nói :
- Ta thấy ngươi lòng ngay can chúa mà thác oan nên động lòng sai lực sĩ xuống trần hóa gió cứu ngươi đem về đây. Ngày sau ta sẽ cho ngươi xuống trần phò vua Võ , lập công, hưởng phú quí.
Dương Nhậm lạy tạ ơn và nói :
- Tôi nhờ tiên ông cứu tử hoàn sanh, ơn ấy rất trọng. Tôi xin tôn tiên ông làm Tôn sư và theo làm đệ tử.
Thanh Hư đạo nhân nói :
- Ðược. Ta nhận ngươi làm đệ tử , trong số ngươi chưa dứt hết nợ trần, chỉ gần ta một thời gian, sau này ngươi phải trở về phò vua giúp nước.
Dương Nhậm bái tạ, theo Bạch Vân đồng tử ra sau động học tập .
Nói về Sùng Hầu Hổ tuân lệnh Trụ vương xây cất Lộc đài tốn công, tốn của không biết bao nhiêu mà nói. Dân chúng các vùng lân cận bắt buộc phải đi làm sưu dịch, người đào đất, kẻ khiêng cây , dải nắng dầm sương , khổ cực trăm bề.
Người giàu có thì dùng tiền bạc lo lót để khỏi làm sương , kẻ nghèo khó phải nai lưng ra gánh chịu. Những kẻ nghèo thì đông, người giàu thì ít, vì vậy dân chúng đói rách không chịu nổi cảnh khổ cực bỏ trốn rất nhiều . Có một số người chết vì mang bệnh, lai có một số người vì tai nạn lao công.
Sùng Hầu Hổ rất trung thành trong việc xây cất Lộc đài nên thi hành ráo riết , dùng lệnh Thiên tử rất nghiêm, ai trễ đều bị đem ra xử tử giữa chợ làm gương kẻ khác.
Bấy giờ Tử Nha thủy trỗ về trang viện của Dị Nhân. Vợ Tử Nha là Mã thị nghe tin chồng về vội ra đón tiếp. Nàng ngỡ Tử Nha còn đang làm quan nên trọng vọng lắm.
Tử Nha nói :
- Nay ta đã thôi làm quan rồi.
Mã thị sững sốt hỏi :
- Vì cớ sao vây ?
Tử Nha nói :
- Thiên tử bảo tôi làm Ðốc công xây cất Lộc đài, làm việc nầy tốn của tốn công dân chúng không biết bao nhiêu mà nói . Trong lúc đó Thiên tử lại chỉ nghĩ đến sắc đẹp , không kễ đến việc mất còn thiên hạ , như thế bảo ta nghe theo sao được ? Ta tìm lời can gián , thiên tử truyền đem ta xử bào lạc, ta bỏ chức chạy về đây .
Mã thị giận nói :
- Ông là lão thầy bói , thời may được vua thương phong chức, vinh hiển một thời , lẽ ra phải đem thân khuyển mã thờ vua , đền lại ơn thâm nghĩa trọng , khéo bắt chước người ta học đòi lý sự, ra mặt can vua để đến nỗi suýt vong mạng. Nay ông trở về đây là mang tội với triều đình, còn trốn ngỏ nào được nữa để trở lại đời lão thầy bói già trước kia .
Khương Tử Nha nói :
- Làm trai chọn chúa mà thờ. Trụ vương đã không phải chúa thánh, ta không thể làm một tôi hiền. Vậy vợ chồng ta nên trốn sang Tây Kỳ , tìm kế sanh nhai, đợi lúc gặp chơn chúa ra phò cũng không mất vinh hoa phú quý đâu.
Mã thị nguýt chồng nói :
- Công danh trước mặt mà chưa biết hưởng lại đi tìm một ảo vọng xa xôi. Vua sai làm Ðốc công xây Lộc đài đã vừa lợi vừa danh giá , mấy người được vua tín nhiệm phú thác việc lớn. Lợi không biết lợi , danh không biết danh, nay mất cả rồi, khéo làm tướng phách lối.
Tử Nha nói .
- Ðàn bà chỉ biết cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại về sau , công danh không chính đáng là công danh hão huyền. Tôi muốn tự tài tôi lập nên chức vị , không cần phải ở may mắn nào. Bà hãy theo tôi sang Tây Kỳ, bỏ chốn Triều Ca nầy cũng chẳng hại.
Mã thị giận nói :
- Tôi là dân Triều Ca không phải kẻ trôi sông lạc chợ mà quên tổ quên tông , bỏ quê bỏ xứ. Nay đã xui cớ sự như vầy ông không thể ở đây được nữa, còn tôi cũng không thể theo ông đi xứ khác, vậy từ đây ai làm nấy ăn, ai sang ấy hưởng.
Tử Nha nói :
- Xưa nay hễ đàn bà con gái xuất giá tùng phu, chồng sang thì nhờ , chồng khó thì cam chịu , chồng đi đâu phải theo đó , vinh nhục có nhau , tại sao bà lại có ý như vậy ?
Mã thị nói :
-Ông là kẻ có tội với triều đình, đang tìm nơi trốn tránh. Tôi là người ngay thẳng , không ai có quyền buộc tôi phải theo người có tội cả. Tốt hơn ông viết cho tôi một tờ ly dị , từ đây cầm sắt phân đôi.
Tử Nha đau lòng nhìn vợ, nói :
- Bà đừng nói quấy. Tài tôi không phải với chức Ðại phu nhỏ bé như vậy đâu. Ngày nay tuy khổ, nhưng ngày mai nhất định hiển vinh. Tôi không nỡ lúc khó vợ chồng có nhau, đến lúc hiển vinh mình tôi riêng hưởng .
Mã thị nói :
- Ông được hiển vinh thì nhờ, phần tôi nghèo khó tôi chịu. Ông cưới vợ khác để sau này phong làm nhất phẩm phu nhân .
Tử Nha không biết nói sao đành năn nỉ. Tuy vậy, Mã thị đã cố tình oán ghét , một hai nằng nằng đòi làm tờ ly dị để tìm kế sinh nhai, không theo Tử Nha nữa.
Tống Dị Nhân thấy vậy bước ra nói với Tử Nha :
- Chuyện nay một phần do tôi gây nên. Bởi tôi làm mai không đúng chỗ nên ngày nay mới xảy ra lắm chuyện xích mích như vậy.
Thôi , người vợ đã cố tâm dứt bỏ thì nguời chồng dầu muốn chung sống cũng chẳng có gì hạnh phúc, hiền đệ nay trong tai nạn, phải trốn vua, sang nơi khác lánh thân , trong đời cũng chẳng thiếu đàn bà , cứ ly dị nhau cho ổn thoả.
Tử Nha nói :
- Thưa anh, tôi nghĩ lúc vợ chồng khó nhọc có nhau, đến lúc hiển vinh một mình riêng hưởng e mang tiếng phụ tình. Thế mà vợ tôi khinh tôi đến nước ấy chẳng còn làm sao nữa ? Nay có lời anh dạy , tôi xin làm theo cho mát lòng vợ.
Tử Nha cầm viết tay tờ ly hôn, trao cho Mã thị , và nói :
- Nếu bà quyết lòng từ bỏ tôi thì cầm giấy nầy, còn nếu vì giận nhau thì hãy nén giận rồi theo tôi . Tôi không còn thì giờ nào chễnh mãng nữa .
Mã thị vội lảnh tờ ly hôn , thái độ không một chút nuối tiếc .
Tử Nha thở dài , buồn bã ngâm bốn câu thơ :
Miệng con rắn hà nàm
Nọc con ong vò vẽ
Hai món độc vừa vừa
Bụng đàn bà quá lẽ .
Mã thị không nhìn mặt Tử Nha , đút tờ ly hôn vào túi rồi bưng rỗ may về xứ kiếm chồng.
Tử Nha cũng vội sửa soạn hành trang lên đường đến Tây Kỳ ẩn mặt, và thưa với Tống Dị Nhân :
- Nhờ ơn anh chị hết lòng đùm bọc lâu nay, tôi chưa trả được ơn sâu mà phải lên đường cách biệt.
Tống Dị Nhân tìm lời an ủi , làm tiệc tiễn hành và hỏi :
- Bây giờ hiền đệ định đi đâu ?
Tử Nha nói :
- Trụ Vương là một hôn quân, không thể giữ nổi giang sơn được. Tây Kỳ nhân hòa khí thuận, dễ sanh Chúa thánh tôi hiền. Tôi muốn qua đó ẩn mặt, chờ ngày tiến thân.
Di Nhân nói :
- Nếu trời thương, cho hiền đệ được sớm gặp hội rồng mây thì gởi thư về cho tôi biết kẻo lòng tôi mong đợi.
Tử Nha tạ ơn rồi từ biệt lên đường, Dị Nhân theo đưa đón hơn hai dặm đường mới trở lại.
Ði khỏi sông Mạnh Tân, Tử Nha qua thuyền vượt sông Hoàng Hà đến Ðồng Quan ải. Nơi đây là địa đầu của xứ Tây Kỳ. Bỗng thấy một số người rất đông, trai có, gái có vừa dắt vừa đi vừa than thở. Trông lối ăn mặc, Tử Nha biết họ là dân Triều Ca, liền gọi lại hỏi :
- Các ngươi ở Triều Ca, sao lại đến nơi đây than khóc ?
Trong nhóm ấy có vài người biết Tử Nha, liền đến gần thưa :
- Chúng tôi thật là dân Triều Ca, nhân vì Thiên tử xây cất Lộc đài khiến Sùng Hầu Hổ làm Ðốc công . Sùng Hầu Hổ quá khắc nghiệt , ăn của nhà giàu, bắt nhà nghèo chúng tôi làm thục mạng. Dân chúng chết vì đói khát vì nạn lao công. Chúng tôi chịu không nổi phải bỏ trốn , vì nghĩ rằng ở Triều Ca thì sớm muộn cũng bỏ thây.
Tử Nha hỏi :
- Các ngươi đã trốn được đến đây coi như thoát nạn, tại sao còn than thở ?
Dân chúng thưa :
- Trương Tổng binh trấn ải nầy không rõ hoàn cảnh của chúng tôi nên đuổi chúng tôi trở về, không cho qua ải để tỵ nạn .
Nếu chúng tôi trở về chắc phải chết .
Tử Nha nói :
- Thôi, các ngươi chớ than khóc làm gì, để ta vào nói với Trương Tổng binh cho.
Dân chúng mừng rỡ nói :
- Nếu lão gia thương tưởng như vậy chúng tôi nguyện biết ơn suốt đời .
Tử Nha đưa cho dân chúng coi giữ gói hành trang mình, rồi đến trước cửa thành kêu quân gát cửa nói :
- Chúng bây vào thưa với Trương Tổng binh có ta là Hạ Ðại phu Khương Thượng xin vào ra mắt.
Quân vào báo, Tổng binh Trương Phụng nghĩ thầm :
- Tử Nha là quan văn tại triều , còn ta là quan võ trấn ải ngoài . Nếu không trọng vọng hắn, hắn tìm cách tâu ra tâu vào với Thiên tử, e mang hại.
Nghĩ rồi truyền quân mở cửa ải đón Tử Nha vào thính đường trà nước. Nhưng khi Tử Nha vừa vào, Trương Phụng thấy Tử Nha không mặc triều phục, lại mặc áo nhà tu, lấy làm ngạc nhiên .
Sao quan Ðại phu lại ăn mặc như vậy ?
Tử Nha nói :
- Tôi đến đây không phải vì việc công , chỉ vì Thiên tử khiến Sùng Hầu Hổ làm Ðốc công xây Lộc đài, Sùng Hầu Hổ ăn của hối lộ nhà giàu, bắt dân Triều Ca làm sưu quá nặng nề , dân chúng chịu không nổi phải bỏ trốn. Nhưng quan Tổng binh lại không rõ sự tình, không cho chúng qua ải tỵ nạn . Tôi tường việc này quan Tổng binh nên làm ơn cho chúng một phần, để tiếng nhân đức về sau .
Trương Phụng ngạc nhiên nói :
- Khương Ðại phu nói sao khó nghe vậy. Nếu Sùng Hầu Hổ làm việc không công bình, hiếp đáp dân lành thì còn có triều thần minh oan cho dân chúng lẽ nào để dân chúng trốn ra khỏi biên thùy mà gọi là nhân nghĩa , ông làm chức Ðại phu, sao không có một lời tâu với vua, lại theo đám dân trốn tránh ấy ?
Tử Nha nói .
- Tôi không giấu gì Trương Tổng binh, chính chuyện xây cất Lộc đài trước kia bị bệ hạ ủy nhiệm cho tôi , nhưng tôi thấy việc làm tổn phí, đã hao của kho , lại nhọc dân chúng, mà chẳng lợi gì cho quốc gia , vì vậy tôi tỏ lời hơn thiệt can ngăn, Bệ hạ nghe lời Ðắt Kỷ cách chức tôi , đuổi về quê quán. Hôm nay trên đường về quê , tôi gặp đám dân lành này tị nạn, tôi thiết tưởng trong triều không còn ai đủ sức đứng ra bênh vực dân chúng nữa, Trương Tổng binh nên xét tình trạng ấy làm ơn cho dân lành .
Bấy giờ, Trương Phụng mới biết Tử Nha là kẽ có tội, đi lẫn trốn , nên ra mặt khinh bỉ nói :
- Chú là kẻ trôi sông lạc chợ, may nhờ lộc nước ơn vua mà , hiển vinh, lẽ phải đáp đền ơn Chúa. Ðã không biết đíều, bị cách chức âm mưu trốn đi, còn muốn cầm đầu cho đám đân chúng hờn trách Bệ hạ nữa. Tôi nói thật, tôi trấn nơi ải này không để một kẻ nào lợi dụng. Lẽ ra tôi bắt chú đem về nạp cho Bệ hạ xử tội, song mới gặp nhau lần đầu, làm như vậy cũng quá bạc bẽo .
Nói rồi truyền quân đuổi Tử Nha ra lập tức. Tử Nha hổ thẹn bước ra cửa ải, thấy dân chúng đang ngồi một nhóm rất đông , mắt ngong ngóng chờ tin .
Tử Nha buồn bã bước đến nói :
- Không xong rồi, tôi đã hết lời năn nỉ mà Trương Tổng binh chẳng chút vị tình , còn đòi bắt tôi đem về triều dâng nạp.
Dân chúng nghe nói khóc òa. Tiếng khóc hòa vào nhau làm rúng động cả bầu trời ảm đạm.
Tử Nha thấy thương hại, nói :
- Dầu Trương Tổng binh có ác ý chúng ta cũng chẳng hại gì.
Ðể ta tìm các đưa các ngươi đến Tây Kỳ tìm sinh kế.
Dân chúng không tin , nói :
- Cửa ải đóng chặt, lão gia làm sao đưa một số hơn tám trăm người chúng tôi đi qua được ?
Tử Nha nói :
- Trước kia ta làm thầy bói , ta có phép lạ trừ yêu, nay thế lại không có cách gì đưa các ngươi qua ải sao ? Các ngươi cứ yên tâm , ngủ môt giấc cho đến canh ba , hễ nghe có gió thổi thì nhắm mắt lại, kẻ nào mở mắt ra mang họa đừng trách ta không nói trước.
Nghĩ đến việc Tử Nha dùng phép lạ trừ yêu trước kia, dân chúng đều mừng rỡ , riu ríu nghe theo.
Qua đến canh ba , Tử Nha hướng về núi Côn Lôn quỳ lạy một hồi , rồi niệm chú. Tức thì gió dông nổi dậy, cát bụi mịt mù. Tử Nha báo dân chúng nhắm mắt lại. Trận gió thần hốt đám dân chúng lôi đi chẳng mấy chốc đã vượt qua năm ải là : Lâm Ðồng , Ðồng Quan, Xuyên Vân , Tị Thủy và Giới Bài.
Khi đến núi Kim Kê lãnh , Tữ Nha thâu phép lại , dông gió lặn yên mới bảo dân chúng mở mắt.
Dân chúng ngồi chùm nhum dưới đất nhìn nhau trong lúc trời chưa sáng.
Tử Nha nói :
- Ðây là núi Kim Kê, thuộc về nước khác, thành Tây Kỳ ở trước mặt chúng ta không xa, đợi sáng chúng ta sẽ tìm vào.
Mấy trăm đân chúng đều cúi lạy tạ ơn và nói :
- Biết ngày nào chúng tôi đáp được ơn nầy .
Tử Nha tỏ lời giã biệt, tìm đến chân núi Bàn Khê ẩn mặt, chờ thời , đợi vận.
Người sau có thơ khen Tử Nha :
Bỏ trốn Triều Ca lánh thị thiềng
Ðưa dân khỏi ải thật thần tiên
Gieo câu sông Vị chờ qua vận
Uống nước Bàn Khê đợi gặp duyên
Võ Kiết ra tay người chỉ ngõ
Phi Hùng ứng mộng chúa cầu hiền
Tám mươi mới đặng yên công nghiệp
Ra giúp nhà Châu sửa mối giềng
Bấy giờ nói về tám trăm dân chúng ngồi đợi sáng, khi ánh dương lố dạng, mọi người đều xem rõ cõi Tây Kỳ núi sông tươi đẹp Ai nấy đều vui mừng , qua khỏi Kim Kê lãnh thì tới Yên Sơn .
Ði đến núi Thu Hương, qua làng Bạch Liễu . Mọi người mở cơm khô ra ăn uống nước suối , đoạn đi thêm bảy chục dặm đường nữa thì đến thành Tây Kỳ . Nơi đây người thanh cảnh lịch , nước biếc non xanh, quả là một nước giàu mạnh. Dân chúng tuy đông , nhưng sống trong trật tự, người nhỏ nhường người yếu, kẻ mạnh kính người già, chợ búa không tiếng cai vã, thành quách, dinh thự không có quân canh . Thật là trời Nghiêu đất Thuấn , nước Thánh vua Hiền
Mấy trăm dân Triều Ca đến nơi làm đơn xin được tị nạn .
Quan Ðại phu Táng Nghi Sanh chấp đơn đệ vào trình với Giám Quốc Bá Ấp Khảo .
Bá Ấp Khảo xem đơn xong , truyền rằng :
- Bởi vua Trụ độc ác, không lòng thương dân , bắt dân làm xâu nặng nhọc , nên dân không chiu nổi phải lìa bỏ quê hương đến xin tị nạn . Nước ta cốt làm việc nghĩa nhân không thể từ chối được. Vì ta đối đãi với họ như dân bản xứ, kẻ nào không tiền giúp tiền, kẻ nào không lúa giúp lúa, cốt tạo cho họ một đời sống ấm no.
Táng Nghi Sanh tuân lời, đưa mấy trăm dân Triều Ca vào ở nơi nội thành, và giúp đỡ hết sức nồng hậu.
Cách đó ít hôm Bá Ấp Khảo lâm triều, bá quan ứng hầu đủ mặt, Bá Ấp Khảo nói :
Nay vua cha bị cầm tù tại thành Dũ Lý đã hơn bảy năm, ta muốn đem lễ vật đến cống Thiên tử để chuộc tội vua cha trở về các ngươi nghĩ sao ?
Táng Nghi Sanh thưa :
- Khi Chúa công ra đi có coi quẻ, thấy mình mắc nạn bảy năm, dặn Công tử ở lại Tây Kỳ chăm lo việc nước, không cho đến Triều Ca, chờ Chúa công hết nạn sẽ trở về. Nay nếu Công tử muốn tỏ tình hiếu đạo thì sai người vào Triều Ca thăm viếng cũng đủ , không nên cãi lời Chúa công đã ủy thác.
Bá Ấp Khảo than :
- Vua cha bị cầm nơi Dũ Lý đã bảy năm, không người quen thuộc viếng thăm, đạo làm con chẳng lẽ cũng mãi nơi đây sao đành , phụ vương ta có chín mươi chín người con, nay đã khôn lớn, thế mà vô dụng không giúp ích gì được cho cha già. Thôi thì ta liều thác đem báu vật của ông bà để lại đến Triều Ca dâng cho Trụ Vương chuộc tội, may Trụ Vương ham báu vật thả phụ vương ta về nước chăng ?
Táng Nghi Sanh can :
- Không nên đâu. Lúc ra đi Chúa công đã dặn dò mọi việc , nay Công tử vì thương cha làm trái ý , tình thương ấy đã không làm cho Chúa công vui, còn làm cho Chúa công giận nữa là khác.
Bá Ấp Khảo nói :
- Làm vua một nước chư hầu, triều thần đông đũ , con cái hơn trăm người, lúc bị hoạn nạn không một ai gần gũi , ta không đành để phụ vương ta như vậy. Thôi ngươi chớ can gián nữa , ta đã quyết hy sinh mình ta , may chuộc tội cho phụ vương ta.
Táng Nghi Sanh không làm sao cản được, phải im lặng lui ra.
Bá Ấp Khảo vào cung kể lại ý định mình với mẹ. Bà Thái Cơ hỏi :
- Nếu con đi thăm cha con thì việc nước giao lại cho ai ?
Bá Ấp Khảo thưa :
- Em con là Cơ Phát tánh tình thuần hậu, khí tiết chói ngời, có thể thay con lo việc nước rất dễ. Vả lại trong triều. việc văn đã có Táng Nghi Sanh, việc võ đã có Nam Cung Hoát, con chẳng còn phải bận tâm. Con đi chuyến nầy nếu may mắn con sẽ cứu phụ vương con khỏi vòng lao lý, còn rủi con có bề nào cũng chẳng hại gì cho giang sơn Tây Kỳ nầy cả.
Bà Thái Cơ thấy Bá Ấp Khảo đã quyết lòng , không dám can ngăn liền dặn dò :
- Con có đi thì mọi việc phải cẩn thận lắm mới được.
Bá Ấp Khảo lạy mẹ bước ra, đến dinh Cơ Phát tự tình :
- Em ơi ! Nay anh định vào Triều Ca dâng báu vật chuộc tội cho phụ vương, em phải ở nhà thay mặt anh lo việc trị nước.
Công việc trong anh đã xếp đặt xong, với tài trí của em , anh không còn lo lắng gì nữa.
Cơ phát hỏi :
- Anh định đi bao lâu thì trở về ?
Bá ẤpKhảo nói :
- Lâu lắm là ba tháng. Nếu công việc không có gì trắc trở thì hai tháng rưỡi anh về đến.
Hai anh em tâm sư một hồi , Bá Ấp Khảo từ giã Cơ Phát trở về cung, chọn ngày tốt khởi hành .
Ba ngày sau, Bá Ấp Khảo lên đường , chín mươi tám người em và triều thần đều tựu đến đũ mặt, đưa đón, Bá Ấp Khảo tỏ lời cảm ơn. Nhìn quê cũ, rồi lên yên từ giã Tây Kỳ. Ðàng trước có cờ hiệu, đàng sau quân sĩ khiêng lễ vật hộ tống. Tuy là một cuộc ra đi không lấy gì quan trọng , nhưng lòng hiếu đạo của Bá Ấp Khảo làm cho dân chúng Tây Kỳ ai nấy đều cảm mến.
Ðoàn người trải gió dầm sương, đi một thời gian mới đến ải Tị Thủy. Quân giữ cửa vào thưa với quan trấn ải là Hàn Vinh, Hàn Vinh lập tức hối quân mở cửa ải đón tiếp.
Bá Ấp Khảo qua năm ải như vậy mới qua sông Huỳnh Hà, đến Mạnh Tân . Nơi đây Ấp Khảo ngồi thuyền vượt sóng sang sông, rồi đi một thời gian nữa mới đến Triều Ca.
Bây giờ gặp lúc trời tối, Bá Ấp Khảo phải vào ở đỡ nơi trại Hoàng Hoa, mai sáng mới đến dinh Thừa Tướng tìm gặp Tỉ Can.
Rủi thay, Tỉ Can đi vắng đã năm ngày , Bá Ấp Khảo lóng nhóng mãi, tuy vậy Bá Ấp Khảo vẫn không lấy thế làm buồn lòng .
Ngày kia, Bá Ấp Khảo đang đứng ngoài cửa dinh chờ đợi, bỗng nghe tin Tỉ Can về, Bá Ấp Khảo vội vã quỳ xuống nghênh đón .
Tỉ Can giục ngựa về đến thấy Bá Ấp Khảo liền hỏi :
- Tướng quân là ai ?
Bá Ấp Khảo nói :
- Tôi là con trai của Cơ Xương, tên Bá Ấp Khảo, từ Tây Kỳ đến đây xin ra mắt Thừa Tướng.
Tỉ Can nghe nói vội xuống ngựa đỡ Bá Ấp Khảo dậy, hai người cùng đứng ngang nhau nói chuyện , Tỉ Can hỏi :
- Công tử từ Tây Kỳ sang đây có việc chi ?
Bá Ấp Khảo nói :
- Cha tôi bi Thiên tử kết tội, cầm nơi Dũ Lý nay đã bảy năm , tuổi tác đã già, không được hưởng cảnh thanh nhàn, thật đau xót . Tôi thiết tưởng trời có khi nắng khi mưa, Thiên tử sao khỏi có lúc vui 1úc buồn. Ðạo làm con lấy hiếu làm trọng , nên tôi không nài khó nhọc, không sợ oai búa rìu , đem ba báu vật từ Tây Kỳ đến đây yết kiến Thừa Tướng , nhờ Thừa Tướng tìm cách tâu với vua tha cho cha tôi được đem nắm xương tàn về xứ thì ơn của Thừa Tướng , cha con tôi suốt đời không dám phụ.
Tỉ Can hỏi :
- Công tử đem vật gì đến cống sứ ?
Bá ấp Khảo thưa :
- Tôi có ba vật báu đi truyền là xe Thất Hương, nệm Tỉnh Tửu, và con vượn bạch, mặt tợ da người. Ngoài ra tôi còn chọn thêm năm cặp mỹ nữ dẫn đến đây nữa.
Tỉ Can hỏi :
- Gái đẹp rhì ta đã biết ở Tây Kỳ không thiếu gì, nhưng ba món bửu bối kia có gì quí ?
Bá Ấp Khảo nói :
- Ba vật báu di lưu từ đời ông thủy tổ chúng tôi tức là ông Ðăng Phù. Như Thất Hương xa là xe của vua Huỳnh Ðế dùng để vượt Bắc Hải đánh giặc Xi Vưu, kẻ nào dùng xe ấy thì chắng cần người đẩy , hễ muốn đi đâu xe ấy tự động đi ngay . Còn Tỉnh Tửu chiên là nằm giả rượu. Lúc đang say mà nằm trên nệm ấy thì tức khắc tỉnh liền. Lại như con vượn bạch, mặc dù loài thú, nhưng thông minh đáo để, nó thuộc hơn tám trăm bản đàn, biết ba ngàn bài hát tiếng ca nó lảnh lót như tiếng chim, trong lúc yến tiệc nó vừa múa vừa hát trên bàn tay, dịu dàng như một cành liễu.
Tỉ Can nghe nói cau mày :
- Ba báu vật ấy trên đời này hiếm có thật, song Công tử đem đến đây cống sứ ta thấy chẳng vui.
Bá Ấp Khảo hỏi :
- Vì sao Thừa Tướng dạy như vậy ?
Tỉ Can nói :
- Trụ Vương lâu nay ham tửu sắc, không kể đến xã tắc, suốt ngày đêm đờn ca múa hát, tìm thú vui để trốn mặt quần thần. Nước mất nhà tan cũng vì vậy . Nay Công tử lại đem đến những món phụ họa vào thú tiêu khiển của vua thì cơ nghiệp nhà Thương càng sớm tiêu tan hơn nữa.
Bá Ấp Khảo nghe nói thở dài :
- Nếu không có báu vật làm cho vua thích thì không bao giờ vua chịu tha tội cho cha tôi, xin Thừa Tướng rộng lòng, nghĩ lại...
Tỉ Can nói :
- Làm tôi phải thấy trước những tai hại mà can vua. Lẽ ra ta không chấp nhận những báu vật này, nhưng thấy Công tử là người chí hiếu, từ ngàn dặm đến đây chuộc tội cho cha, lẽ nào ta không giúp. Thôi, hãy theo ta vào đền , ta tâu giúp cho.
Bá Ấp Khảo lạy tạ, theo Tỉ Can đến trước đền Trích Tinh.
Huỳnh Môn quan trông thấy vào báo.
Trụ Vương kêu lên lầu phán hỏi :
- Ta không có lệnh đòi, sao Thừa Tướng tự ý vào đây ?
Tỉ Can tâu :
- Nay có con trai Cơ Xương là Bá Ấp Khảo đem dâng ba vật báu chuộc tội cho cha, nên tôi phải dẫn vào ra mắt.
Trụ Vương hỏi :
- Bá Ấp Khảo dâng báu vật gì ?
Tỉ Can liền trao tờ sớ của Bá Ấp Khảo cho Trụ vương xem. Trụ vương lập tức đòi Bá ấp Khảo lên lầu.
Bá Ấp Khảo quì mọp dưới sàng , tâu :
- Tôi là Bá Ấp Khảo, con kẻ phạm tội , xin chúc Bệ hạ sống lâu muôn tuổi.
Trụ Vương nói :
- Cơ Xương nghịch mạng nên bị trẫm làm tội, nay ngươi đem báu vật đến dâng quả là con chí hiếu đó.
Bá Ấp Kbảo tâu :
- Cha tôi phạm tội, Bệ hạ không giết lại đày nơi Dũ Lý , ơn ấy cha con tôi ghi nhớ muôn đời. Vậy tôi xin dâng chút vật mọn , nhờ bệ hạ mở lòng thương cho phép cha tôi được đem nắm xương tàn về cố quốc .
Nói đến đây, Bá Ấp Khảo khóc oà .
Trụ vương nghe tiếng khóc cửa người con chí hiếu cũng phải động lòng, liền truyền Bá Ấp Khảo đứng dậy .
Bá Ấp Khảo lạy tạ rồi cúi đầu đứng hầu dưới các.
Lúc ấy, Ðắt Kỷ núp trong rèm nhìn ra thấy Bá Ấp Khảo răng ngọc môi son , mày tằm mắt phụng, gương mặt sáng rở; giọng nói thanh tao, liền truyền thế nữ khoác rèm châu, bước ra xem cho rõ mặt.
Vua Trụ liền nói với Ðắt Kỷ :
- Ái khanh ơi ! Nay có Bá Ấp Khảo , con trai của Tây Bá Hầu đến đây dâng báu vật chuộc tội cha. Người này rất hiếu hạnh.
Ðắt Kỷ tâu :
- Thần thiếp nghe tiếng Bá Ấp Khão ở Tây Kỳ đàn hay lắm, trên đời nầy có một không hai.
Vua Trụ gạn hỏi :
- Sao ái khanh biết ?
Ðắt Kỷ tâu :
- Lúc thần thiếp còn ở Ký Châu, tuy phận gái không bước khỏi khuê môn, nhưng tiếng đồn dội vào cung cấm. Trên đời, hễ có
mùi hương sao khỏi gặp gió thoảng . Nay muốn biết tiếng đồn ấy đúng hay không xin bệ hạ truyền Bá Ấp Khảo đờn thử thì biết .
Vua Trụ truyền Bá Ấp Khảo ra mắt Chánh cung. Ấp Khảo tuân lệnh quì lạy Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ nói với Bá Ấp Khảo :
- Thiên hạ đồn khanh có nghề cầm ca tuyệt diệu, vậy thì đờn vài bản cho ta nghe được chăng ?
Bá Ấp Khảo nói :
- Xin Chánh cung tha tội cho tôi. Tôi trộm nghe làm con gặp lúc cha mẹ có bệnh ăn chẳng biết mùi, nay cha tôi mắc tội, bị đày nơi Dũ Lý , tôi làm con nào vui sướng gì mà khảy đờn cầm , vì vậy lúc nầy lòng tôi đang bối rối như tơ vò, việc chọn cung lựa ngón khó đúng được. Tôi e đờn lỗi nhịp mang tội khi quân .
Trụ Vương nghe nói, mỉm cười phán :
- Bá Ấp Khảo, ngươi chớ lo. Trong lúc ngươi đang rối lòng rnà đờn được một bản cho thật hay thì trẫm sẽ tha tội cho cha ngươi về nước.
- Bá Ấp Khảo mửng rỡ quá không còn e đè gì nữa, bao nhiêu hứng thú nổi lên trong lòng người trai trẻ, Vua Trụ truyền nội thị đem cây đàn cầm đến, Bá Ấp Khảo tiếp lấy, ngồi xếp bằng trên sàng để cây đàn trên đầu gối, so dây chọn tiếng.
Tiếng đàn lảnh lót, cất lên khúc nhạc vui tươi .
Cành dương dùi dụi gió rung rung
Ðào quế đơm bông ửng sắc hồng
Hoa cỏ bên đường như rải gấm
Ðiểm trang xe cộ khắp Tây, Ðông
Bá Ấp Khảo đờn xong bản nhạc mà hơi đàn chưa dứt, âm thanh vang vang như tiếng trúc thiên thai, gieo vào lòng người tục.
Vua Trụ miên man, quay lại nói với Ðắt Kỷ :
- Thiên hạ đồn không sai. Bá Ấp Khảo với tài đờn cầm trên đời nầy chỉ có một.
Ðắt Kỷ mỉm cười tâu :
- Nếu không bảo va trổ tài làm sao thấy được tài năng ?
Vua Trụ truyền nội thị dọn tiệc trên lầu thết đãi . Trong lúc đó Ðắt Kỷ lén xem trộm dung nhan , thấy Bá Ấp Khảo rõ ràng nước da như tuyết nhuộm, gương mặt tợ trăng rằm, thân mình tròn trịa , hình vóc trẻ măng, so với Trụ Vương ngày nay thì Trụ Vương hàm râu đã quăn riết, da thịt khô cằn, thân hình tóp vì khí lực không còn bao nhiêu nữa .
Trụ Vương là một vì vua, có nhiều quí tướng nhưng ham mê sắc dục gần gũi Ðắt Kỷ quá nhiều, nên ngày nay thân thể ra thế ấy .
Ðắt Kỷ là loài hồ mi, chê tre già, ham măng tươi, thầm nghĩ :
- Con người khoẻ mạnh , tươi đẹp thế kia, nếu ta không tìm cách chung tình thì đời ta còn gì sung sướng . Ta mượn kế cầm Bá Ấp Khảo ở lại dạy đờn đem rơm để gần lửa, thế nào cũng toại nguyện.
Nghĩ như vậy, Ðắt Kỷ tâu với Trụ vương :
- Nay Bệ hạ tha cho cha con Tây Bá Hầu về nước thì ơn ấy có thể cảm hóa muôn người. Chỉ tiếc bản đàn cầm hay ho của Bá Ấp Khảo vừa rồi chúng ta không còn bao giờ được nghe nữa.
Trự Vương nói :
- Thật ra trẫm cũng tiếc lắm, nhưng không biết phải làm sao bây giờ.
Ðắt Kỷ nói :
- Thần thiếp có một cách làm vẹn cả đôi bên .
Trụ vương hỏi :
- Ái khanh có cách gì vậy ?
Ðắt Kỷ nói :
- Xin bệ hạ lưu Bá Ấp Khảo lại ít ngày, chờ thần thiếp học xong bản đàn cầm ấy sẽ cho cha con Tây Bá Hầu về nước. Như vậy thần thiếp có thêm được một nghề nữa để hầu bệ hạ.
Trụ vương nghe nói vuốt lưng Ðắt Kỷ khen :
- Ái khanh thông minh lắm mới nghĩ ra cách ấy. Trước sau cha con Tây Bá cũng được về nước thì lưu lại ít ngày có hại gì.
Ðắt Kỷ nũng nịu :
- Thần thiếp học bản đàn này vì bệ hạ chứ không phải vì thần thiếp mong muốn đâu.
Trụ Vương cười âu yếm :
- Ái khanh vì trẫm cố gắng học cho thật rành , để sau nầy đàn hát cho trẫm thưởng thức . Ngón đờn ấy mà vào tay ái khanh, trẫm tin chắc còn hấp dẫn hơn nữa. Nhưng chẳng hay khúc đàn ấy gọi là gì vậy ?
Ðắt Kỷ nói :
- Ðó là bản "phong nhập tòng" đồ.
Trụ Vương khoái chí :
- Bản nhạc gió thổi vào cụm tòng hèn chi nghe êm tai là phải .
Dứt lời Trụ Vương liền truyền chỉ , lưu Bá Ấp Khảo ở lại trong cung dạy đờn Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ mừng thầm, tính dùng kế phục rượu Trụ vương cho say mèm để tiện bề làm chuyện mưa Sở mây Tần, nên khiến quân
bày tiệc rượu, mời hôn quân vào trong dự yến.
Trụ vương ngỡ thật, có ngờ đâu lương tâm loài hồ mi quen thói nguyệt hoa. Vào tiệc, Ðắt Kỷ rót rượu ép mời Trụ Vương mãi, Trụ vương vị tình uống đến không còn biết gì trời nghiêng đất ngửa nữa.
Ðắt Kỷ truyền cung nhân bồng nhà vua để nằm nơi long sàng, rồi khiến quan Thái giám đem đến hai cây đờn cầm trao cho Bá Ấp Khảo một cây, và nói :
- Công tử đã có lệnh Thiên Tử, vậy thì mau mau truyền lại bản nhạc cho ta để được mau về nước.
Bá Ấp Khảo tuân lệnh cầm đàn ngồi dưới sàn, và nói :
- Xin Hoàng hậu nghe cho rõ : đờn cầm có sáu luật , năm tiếng , lại có sáu điều kỵ , và bảy diều không nên đờn .
Ðắt Kỷ nói :
- Sáu luật năm tiếng thì ta đã có nghe , còn sáu điều kỵ thì ta chưa hiểu.
Bá Ấp Khảo nói :
- Sáu điều kỵ gồm có :
1) Nghe khóc kể
2) Mình rơi lụy
3) Mắc lo lắng
4) Ðang giận hờn
5) Ðang kinh hăi
6) Tưởng việc tà
Sáu điều này phải kiêng cữ.
Ðắt Kỷ lại hỏi :
- Còn bảy điều không dám đờn là bảy điều gì ?
Bá Ấp Khảo nói :
1) Mưa vạy gió may
2) Có tang than khóc
3) Áo mão chẳng ngay
4) Say rượu rối trí
5) Nhơ uế không sạch
6) Chẳng xông huơng là khinh lờn
7) Không kẻ biết nghe là tục.
Bảy điều ấy chẳng nên đờn. Bởi đờn cầm là tiếng chánh , xưa cho ra là ngăn cấm lòng tà, chẳng phải như các món nhạc khác muốn đờn cách nào cũng được Ðắt Kỷ nghe Bá Ấp Khảo giảng giải ngồi mỉm cười không nói .
Bá Ấp Khảo so dây lấy giọng, rồi nói tiếp :
- Xin chánh hậu coi theo đây mà tập.
Tiếng đàn vừa khảy lên, nghe rẻo rắc! bỗng trầm, khiến cảnh vật xung qnanh biến thành huyền ảo. Ai nghe thấy đàn cũng mê man tâm thần đường đang thoát tục, đuy có Ðắt Kỷ lòng chứa tà ma, không có ý nghe đờn, chỉ lo giỡn mặt, vì vậy Ðắt Kỷ làm bộ mắc cỡ , liếc mắt cười duyên, nhìn Bá Ấp Khảo chăm chăm như mưốn ăn tươi nuốt sống Bá Ấp Khảo là đứa con chí hiếu , đường xa ngàn dậm, một thân lặn lội đến Triều Ca, cố tìm cách chuộc tội cha già, lòng như sắt đá, lo gì nghĩ bướm ong, do đó, Bá Ấp Khảo không hề ngẫng nhìn Ðắt Kỷ, chỉ lo dạy cho mau rồi.
Ðắt Kỷ làm đủ mánh khoé tâm tà, Bá Ấp Khảo vẫn không để ý.
Ðắt Kỷ thấy phương pháp ấy không thành, gọi Bá Ấp Khảo nói :
- Ông thầy này dạy khó lắm ! Vả lại tiếng đàn vừa nghe đã muốn điên ,nếu không mượn rượu mạnh để trấn tĩnh tinh thần thì không thể học cho thuộc được.
Nói rồi khiến cung nữ bày tiệc để cùng Bá Ấp Khảo vui vầy.
Bá Ấp Khảo nói :
- Xin Chánh hậu tha cho tôi khỏi hầu tiệc.
Ðắt Kỷ nhất thiết không nghe, gọi cung nữ nhắc ghế để bên mình, truyền Bá Ấp Khảo ngồi dự.
Bá Ấp Khảo thất kinh, thưa :
- Tôi là con kẽ có tội, được Chánh cung tha không giết là may còn Chánh cung là bậc mẫu nghi, mẹ chung thiên hạ, tôi đâu dám vô lễ
Ðắt Kỷ nói :
- Ngươi nghĩ sai rồi. Cứ như đạo vua tôi thì ngươi chẳng thể cùng ta ngồi chung được, nhưng xét về nghĩa thầy trò, ta với ngươi ngồi chung một bàn có sao đâu ?
Bá Ấp Khảo cúi đầu thầm nghĩ :
- Con nầy chứa tà dâm, muốn làm cho ta mất ngay mất nhân đức. Ta đòng dõi ông Hậu Tắc xưa phò tá vua Nghiêu truyền lại mấy đời, rạng danh trung nghĩa, lẽ đâu chiều đứa lăng loàn lỗi nghĩa tôi chúa . Ta nói thiệt dù có chết cũng phải chết cho thơm danh, không để nhục dòng họ Cơ mấy đời trung liệt.
Nghĩ như vậy, Bá Ấp Khảo cứ cúi mặt nhìn xuống đất không chịu vào tiệc, Ðắt Kỷ thấy Bá Ấp Khảo chắc gan như vậy không làm gì được, liền nghĩ:
- Ta đã cố tình đeo đuổi, nhưng nó quá dại khờ, không biết thưởng thức những gì tinh hoa vũ trụ. Thôi , để ta tìm kế khác, dắt lửa gần rơm,thì dù tiên phật cũng không thể gìn lòng son sắt nổi.
- Bá Ấp Khảo hãy đứng dậy. Khanh không muốn dự tiệc thì phải dạy đờn .
Bá Ấp Khảo vâng lời , cầm đàn dạy như trước.
Giây lâu Ðắt Kỷ lại nói :
- Không xong rồi. Ta thấy khó học lắm. Khanh ngồi đưới đất ta ở trên cao, ngón đờn đã không thấy rõ, tiếng nhạc lời giảng đi. Khanh hãy đến ngồi gần ta thì ta mới học mau thuộc.
Bá Ấp Khảo nói :
- Xin Chánh hậu chớ nóng lòng, cứ tập lâu sẽ thuộc.
Ðắt Kỷ nói :
- Không ! Khanh phải đến ngồi sau lưng choàng tay chỉ ngón , làm được như vậy chỉ trong khoảnh khắc ta thuộc ngay. Nếu cứ kéo dài tình trạng thế nầy, sáng mai Thiên tử hỏi lại ta không thuộc chút nào không khỏi bị quở trách.
Bá Ấp Khảo hồn vía lên mây , thầm nghĩ :
- Ta đã đem thân vào hang cọp rồi, bề nào cũng bị diệt vong.
Thôi thà chết trong sạch còn hơn sống nhục.
Nghĩ rồi cất giọng phân trần :
- Nếu Chánh hậu dạy như vậy tôi thà chết chẳng đám vâng lời. Chánh hậu là bậc mẫu nghi , tiếng tăm rất trọng , lẽ nào vì chuyện học đờn tiểu tử mà để thiên hạ cười chê. Dầu Chánh hậu có trong sạch tận đâu mà hành động như vậy sử sách đời sau cũng không thể bỏ qua, ghi lại những vết nhơ trong cung điện. Xin Chánh hậu nghĩ lại sửa mình.
Ðắt Kỷ bị Bá Ấp Khảo dùng lời ngay nhục mạ, mặt sượng sùng ngồi chết điếng. Biết mình có lổi Ðắt Kỷ không nói nữa, chỉ thở dài một hơi, rồi nói :
- Thôi ngươi hãy lui về nghỉ.
Bá Ấp Khảo tuân lệnh, xuống lầu trở về quán dịch .
Ðắt Kỷ cau đôi mày liễu, nét hoa ủ rũ, nữa giận nữa hờn, ngồi trước đèn thầm nhủ :
- Hoa đã sẳn lòng chờ bướm, bướm không đoái tưởng đến hoa. Nếu chẳng vừa lòng thì thôi , nó lại lên mặt dạy đời nóì nhiều câu vô lễ . Ta phải làm cho nó nát thịt tan xương , nó mới thấy cái khôn của nó.
Buồn bã một lúc, Ðắt Kỷ nghiến răng chui vào long sàng nằm ngủ với vua Trụ.
Sáng hôm sau, vừa mở mắt vua Trụ đã hỏi :
- Ðêm hôm ái khanh học đờn dã thuộc câu nào chưa.
Ðắt Kỷ sụt sùi bên gối tâu :
- Bá Ấp Khảo không cố ý dạy đờn, tỏ nhiều cử chỉ trêu hoa nghẹo nguyệt, thần thiếp thấy vậy không muốn học nữa.
Vua Trụ nghe nói nổi giận trợn mắt vễnh râu, mắng :
- Loài thất phu ! Ta đã không giết , ban ân cho còn dám ý khi quân sao ?
Lập tức ngồi dậy , truyền quan thị thần đến quán dịch đòi Bá Ấp Khảo.
Bá Ấp Khảo tuân lệnh thẳng đến lầu Trích Tinh ra mắt vua Trụ.
Vua Trụ hỏi :
- Sao ngươi dạy đờn không hết lòng, cố dần dai cho mất thì giờ vậy ?
Bá ấp Khảo tâu :
- Phép học đàn cầm chẳng có gì khó chỉ cần người học phải đứng đắn , chuyên cần.
Ðắt Kỷ sợ Bá Ấp Khảo nói toạc ra câu chuyện đêm vừa rồi, vội ngăn đón :
- Nếu ngươi cố tình chỉ dạy thì ta thông hiểu rồi. Bởi ngươi nói không rành rẽ , còn nghe đờn cầm ta chưa biết nên không hiểu nổi. Vua Trụ nghĩ đến cử chỉ Bá Ấp Khảo trêu chọc Ðắt Kỷ đêm vừa rồi tức giận lắm , song không thể nào mở miệng nói thẳng được , liền truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bản , nếu lời ngay lẽ chánh thì thôi, bằng có ý tà bậy sẽ vịn vào đó để trị tội.
Bá Ấp Khảo tuân lời , ngồi dưới sàn so phím , vừa đàn vừa hát lên một bản, dụng ý thanh minh tiết liệt của mình.
Bản hát :
Một tấm lòng ngay chói thấu trời
Cầu cho Hoàng thượng sống muôn đời
Mưa hoà gió thuận muôn dân thạnh
Một mối giang san chẳng đổi dời
Vưa Trụ nghe tiếng đàn trong vắc! chứa đựng lời ngay ý thẳng chẳng chút tà tâm. Lòng vua bắt đầu khuây khỏa, bao nhiêu hờn giận bỗng tan biến hết.
Ðắt Kỷ thấy Trụ Vuơng ngồi làm thinh hiểu ngay tiếng đờn Bá Ấp Khảo đã chấn chỉnh được lòng vua, liền tìm một kế khác , đến tâu với Trụ Vương :
- Bá Ấp Khảo có dâng một con vượn bạch biết múa hát rất hay sao bệ hạ không cho thần thiếp xem thử ?
Vua Trụ nghe nói nhớ lại, bảo Bá Ấp Khảo :
- Hồi hôm trẫm mải nghe đờn, quên con vượn bạch. Bây giờ ngươi đem nó đến đây ca múa một bài xem hay dở .
Bá Ấp Khảo tuân lệnh trở về quán dịch xách lồng vượn bạch đem đến trước mặt Trụ Vương mở ra .
Con vượn bạch ra khỏi lồng ngồi bẹp dưới sàn.
Bá Ấp Khảo trao cặp sanh, khiến nó hát.
Con vượn Vừa nhịp vừa ca, tiếng như tiêu thiều, hơi nghe lảnh lót, giọng cao như phượng gáy giọng thấp như loan kêu, khiến ngươi tỉnh cũng phải mơ , trẻ khóc cũng phải nín. Người lo lắng nghe tiếng hát thì vui vẻ, kẻ buồn rầu nghe tiếng hát cũng mỉm cười . Trụ Vương nhìn mê man, Ðắt Kỷ say sưa đến gục đầu bọn cung nữ mừng vui quá sức, cả chốn cung vi yên lặng như tờ, chỉ có tiếng hát và tiếng sanh của vượn bạch lúc ngân dài, lúc trầm bổng mà thôi .
Vì quá say sưa Ðắt Kỷ không giữ mình, tâm hồn như ngây như dại, khiến khí yêu xuất ra . Con vượn bạch là giống vật đã sống trên ngàn năm, hai con mắt như mạ vàng , hai tròng như hai than lửa đỏ coi thấu lòi yêu ma . Lúc đang ca hát, vượn bạch thoáng thấy con hồ ly ngồi bên Trụ Vương, liền nhảy chồm đến chụp .
Ðát Kỷ giật mình nhảy trái sang một bên, trong lúc ấy Trụ vương lanh tay, giật lấy cây bửu kiếm bên vách đâm vượn bạch một nhát lòi ruột chết ngay.
Cung nga đỡ Ðắt Kỷ dậy. Ðắt Kỷ giận đỏ mặt tâu với Trụ vương :
- Bá Ấp Khảo đem con vượn nầy theo làm thích khách . May mà bệ hạ giết nó được , nếu không tánh mạng thần thiếp không còn.
Trụ Vương hơi giận chưa nguôi, truyền tả hữu lôi Bá Ấp Khảo xuống Sái Bồn cho rắn xé xác.
Bá Ấp Khảo la lớn :
- Hạ thần nào có tội gì. Bệ hạ giết rất oan ức.
Vua Trụ nạt :
- Ngươi đem con vượn bạch theo vào cung suýt hại mạng Chánh cung, tội ấy đã rõ ràng sao còn kêu oan ?
Bá Ấp Khảo nói :
- Con vượn là loài thú. thích ăn trái cây, thấy trên bàn có nhiều quả ngon nên nhảy đến ăn đâu phải cố ý làm hại Hoàng hậu.
xin bệ hạ xét lại. Vả chăng, tôi mong ơn Bệ hạ tha tội cho cha tôi, nay mai cha con tôi được về xứ, ơn ấy ngàn ngày chẳng quên lẽ nào tôi lại tính chuyện thí quân để mang hại vào thân .
Vua Trụ nghe Bá Ấp Khảo nói cũng có lý, liền đổi giận làm vui, quay lại nói với Ðắt Kỷ :
- Chánh cung . Lời Bá Ấp Khảo cỏ vẻ ngay thẳng lắm, ái khanh chớ nên nghĩ lầm.
Thấy Ðắt Kỷ làm thinh . Bá Ấp Khảo vội quỳ lạy tạ ơn Trụ Vương.
Ðắt Kỷ liếc nhìn Vua, tâu :
- Lòng người nham hiểm khó lường. Nếu muốn biết ngay gian xin Bệ hạ truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bài, xem tiếng nhạc có thực tình ngay thẳng hay không thì biết.
Trụ vương nói :
- Phải ! Ái khành định như vậy rất minh, vì tiếng đàn bao giờ cũng xuất phát từ tâm trạng con người. Nói rồi truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bản nữa.
Bá Ấp Khảo thở dài, nhủ thầm :
- Thân ta đã vào chốn hang hùm nọc rắn . Ðắt Kỷ đã cố tình hãm hại thì dù có giữ mình cách nào cũng không khỏi chết . Chi bằng lấy lời ngay can vua, để cái chết được rạng đanh còn hơn.
Nghĩ rồi liền bấm phiến vừa đờn vừa ca lên một bản :
Vua sáng thì đức rộng thênh thênh
Vua tối thì dùng nhiều cực hình...
Chế Bào Lạc đốt xương thịt cháy
Lập Sái Bồn nuôi rắn sát sinh...
Thâu thuế dân cho rừng thịt kia ngùn ngụt
Vét của tiền cho ao rượu nọ mênh mông.
Lập đài cao tốn máu xương bá tánh
Làm cầu lớn đau đớn dân tình..
Xin vua minh , việc chính sửa mình
Ðuổi tôi nịnh , xa bề tửu sắc
Bá Ấp Khảo đờn xong mà vua Trụ ngẩn ngơ vì tiếng nhạc, nghe không kịp.
Ðắt Kỷ chỉ vào mặt Bá Ấp Khảo mắng :
- Ngươi là đứa lớn mật , dám mượn tiếng đàn tiếng hát mắng vua tội chết đã đành, đừng kêu oan ức .
Trụ Vương hỏi Ðắt Kỷ :
- Trong bản nhạc có gì khi quân, trẫm nghe không rõ .
Ðắt Kỷ giải nghĩa từng chữ. Trụ vương giận lắm, liền truyền bắt Bá Ấp Khảo ném xuống Sái Bồn.
Bá Ấp Khảo tâu :
- Tôi còn một bản nhạc rất hay, trước khi chết tôi muốn gảy hầu bệ hạ.
Nói rồi, đờn tiếp một bản nữa. Bản đàn ấy như sau :
Xin vua lánh sắc, giử đạo can thường
Xa chánh cung mới tránh được tai ương
Dứt khí chư hầu tùng phục
Hết dâm tà thì xã tắc quật cường
Ấp Khảo chết có cần gì thân xác
Giết hồ ly mới giữ đạo quân vương
Hát vừa dứt tiếng thì Bá ấp Khảo cầm đờn phang vào mặt Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ đã để ý trước nên tràn qua một bên né khỏi, cây đờn rơi vào một chồng ly ngà chén ngọc vỡ tan tành.
Mấy tên cung nga vội chạy lại đỡ Ðắt Kỷ dậy .
Trụ vương giận quá hét lớn :
- Quân khốn kiếp ! Lúc nãy con vượn thích khách người tìm lời chối quanh, bây giờ đến việc ngươi ám sát Chánh hậu, tội ấy ngươi còn chối đi đâu nữa ?
Nói rồi truvền cung nhân bắt Bá Ấp Khảo xô xuống hầm rắn .
Ðắt Kỷ tâu :
- Bá Ấp Khảo hai lần muốn giết thần thiếp tội ấy xin giao cho thiếp gia hình.
Trụ vương y lời, giao Bá Ấp Khảo cho Ðắt Kỷ tùy ý trả thù.
Ðắt Kỷ truyền lấy bốn cây đinh lớn, đóng hai tay hai chân Bá Ấp Khảo lên một cây cột , lột hết áo quần, xẻo từng miếng thịt .
Bá Ấp Khảo không hề nói một tiếng đành cắn răng cho đến hơi thở cuối cùng.
Trong lúc đó, Ðắt Kỷ rất hài lòng, vì đã trả thù được kẻ ìàm nhục mình.
Thương hại cho một kẻ tận trung tận hiếu chỉ trong nửa tiếng đồng hồ đã trở thành bộ xương trắng hếu.
Trụ Vương truyền đem thịt xương của Bá Ấp Khảo ném xuống Sái Bồn cho rắn độc ăn .
Ðắt Kỷ cản lại :
-Tôi nghe người ta đồn Tây Hầu Cơ Xương là ông Thánh biết rõ đường họa phước, thông hiểu mọi âm dương. Nay thần thiếp dùng thịt này làm bánh cho ngon, bệ hạ sai người đem tặng . Nếu Cơ Xương không biết, ăn thịt con thì Cơ Xương chỉ là kẻ phàm phu tục tử, không có gì đáng kể, bệ hạ tha tội cho về nước để được tiếng nghĩa nhân. Còn nếu Cơ Xương quả biết thịt con mà không ăn , thì Bệ hạ cũng nên giết phứt đi để trừ hậu họa.
Vua Trụ nói :
- Ái khanh là người cơ trí, nói rất hiệp ý trẫm.
Liền truyền đem thịt Bá Ấp Khảo làm bánh đưa sang tặng Tây Bá Hầu.
Nói về Tây Bá Hầu bị cầm nơi Dũ Lý đến nay đã bảy năm , thường ngay đóng cửa làm sách Diệc là loại sách về bói toán , có ý truyền lại đời sau. Nhân khi rảnh, Tây Bá đem đàn ra khảy , nghe tiếng đàn kêu chan chát, biết có việc chẳng lành, liền cất đàn lấy tiền ra gieo quẻ .
Sau khi bói xong, Tây Bá khóc và than :
- Ôi con ta đã bỏ mạng rồi ! Bởi không nghe lời ta nên phải mang hại. Giờ đây, nếu ta không ăn thịt con thì chết, bằng ăn thịt con thì nuốt sao vô.
Lời xưa có nói :
- Hùm dữ cũng chẳng ăn thịt con . Ta chưa phải là loài cầm thú !
Than thở một lúc, Tây Bá oán trách kẻ đã bày mưu độc, khiến cha con phải đành mang tiếng bất nhân.
Buồn quá, Tây Bá lấy viết mực ra làm một bài thơ điếu như sau :
Muôn dặm đến Triều Ca
Một mình đi viếng cha
Chưa vào thành Dũ Lý
Trước túi chốn chương tòa
Quyết ném đờn trừ quỉ
Ðành liều mạng , hóa ma
Măng khô tre thảm thiết
Thương trẻ động lòng già
Tây Bá Hầu viết bài thơ ngũ ngôn, ai nấy đều không hiểu .
Bỗng có Thiên sứ đến, Tây Bá Hầu mừng rỡ ra chào. Thiên sứ nói :
- Bệ hạ thấy hiền hầu bị giam cầm đã lâu nên đem lòng thương sót nay săn được ít thịt nai, gởi đến hiền hầu một thố, hiền hầu dùng đỡ gọi là tình vua tôi.
Tây Bá lạy tạ và nói :
- Nhờ ơn Thiên tử cho bánh thịt nai, tôi xin cầu chúc bệ hạ sống muôn năm ngõ đặng trị vì bốn biển.
Lạy rồi lấy ba chi bánh ăn. Sứ thần thấy vậy cười thầm :
- Ai cũng đồn Tây Bá Hầu xem quẻ như thần , đoán việc như Thánh , té ra ăn thịt con mà không biết.
Tây Bá vương nói với Thiên sứ :
- Tôi không dám đến lạy tạ, vì là kẻ có tội, xin ngài thương tình tâu giùm răng tôi khao khát bấy lâu được Bệ hạ ban vật quí. Nói rồi giã từ, Thiên sứ ra về.
Người sau có bài thơ như vầy :
Từ thuở dời chân dặn rõ ràng
Ðừng thăm mà mắc họa liên can
Những ngờ dâng lễ tìm đầu bạc
Hay nói liều thân xuốnq suối vàng
Gián Chúa dạn dày gan bảy lá
Thương con chan chứa lụy đôi hàng
Hồn oan theo gió còn linh hiển
Sử sách đề tên để thế gian
Tây Bá Hầu ăn bánh rồi buồn bã vào phòng ngủ.
Bấy giờ Trụ Vương đang đánh cờ với Bí Trọng , Vưu Hồn , tại đền Hiển Ðức , xảy thấy thiên sứ bước vào tâu việc Tây Bá Hầu ăn hết bánh và tạ ơn .
Vua Trụ nói với Bí Trọng :
- Ta nghe đồn Tây Bá bói hay , trăm quẻ không sai một, nay ăn thịt con mà không biết, thế thì không phải là Thánh . Trẫm nghĩ lại cầm tù Cơ Xương đã gần bảy năm , nay cũng nên cho va về nước, chứ giam giử một kẻ ngu si như vậy chẳng ích gì .
Bí Trọng tâu :
- Cơ Xương bói hay lắm lẽ nào chẳng biết thịt con ? Chắc Cơ Xương là kẻ trí , không ăn sợ họa đến mình, nên phải dùng đỡ , xin Bệ ha suy đi nghĩ lại, kẻo mắc kế hắn.
Trụ Vương nói :
- Nếu Cơ Xương biết thịt con lẽ nào lại ăn như vậy ? Dù hùm dữ cũng chẳng nở ăn thịt con huống hồ một người hiền ?
Bí Trọng tâu :
- Cơ Xương ngoài mặt tuy làm bộ thật thà , nhưng bên trong thừa điều dối trá . Nhiều người lầm kế , ít kẻ rõ được lòng gian,
xin Bệ hạ cầm Cơ Xương lại làm chắc, ví như cọp ngồi trong rọ , chim ở trong lồng, còn thả ra tôi e họa tới . Vả lại phía Ðông và phía Nam còn đang có loạn , dẹp hơn mấy năm nay chưa xong . Nếu Cơ Xương về nữa thì lại thêm một mũi giặc.
Vua Trụ khen :
- Lời khanh bàn rầt hợp ý trẫm. Ấy là tại vận mạng của Tây Bá Hầu chưa mãn nên khiến tôi nịnh ngăn trở như vậy .
Người sau có bài thơ :
Bảy năm chưa đũ vận còn suy
Bí Trọng bày ra tiếng thị phi
Nếu chẳng Nghi-Sanh dâng hối lộ
Làm sao Tây Bá lại Tây Kỳ.
Lúc nầy quân theo Bá Ấp Khảo hay việc giết chủ , liền trốn về nước .
Cơ Phát là vị Công tử thứ hai đang ngồi trên điện bàn việc nước thấy quân về quỳ lạy khóc, lật đật hỏi :
- Việc gì bi lụy như vậy hãy nói mau ?
Quân nhân thưa :
- Ðệ nhất công tử vào triều cống sứ chưa rõ mặt Chúa công , không biết vì sao Vua Trụ phân thây công tử.
Cơ Phát chết điếng trên ngai , qua một lúc mới khóc lên được.
Ðại tướng công là Nam cung Hoát nổi giận hét lớn :
- Ấu chúa đi cống lễ, Trụ Vương lại phân thây như vậy đã cắt nghĩa chúa tôi gây ra thù oán. Nay bên Nam cũng làm phản và phía Nam cũng trở lòng, chăng ta nhân cơ hội này kéo muôn binh xuống đánh Nam ải trước đánh vua dữ sau làm chúa hiền , đồi loạn ra bình cứu dân trong cảnh khốn đốn .
Các tướng võ đồng gật đầu nghiến răng đồng ý với Nam Cung Hoát, Các tướng lảnh lúc này lòng rối như tơ không biết đường nào suy xét nữa .
Táng Nghi Sanh bước đến thưa :
- Xin Công tử yên lòng nghe hạ thần tâu việc .
Cơ Phát hỏi :
- Quan Ðại Phu có kế gì hay hãy nói thử ?
Táng Nghi Sang thưa :
- Xin Công tử chém Nam Cung Hoát trước rồi mới mưu việc được .
Cơ Phát và các quan đều ngơ ngáo hỏi :
- Nam Cung Hoát có tội gì mà chém ?
Táng Nghi Sanh nói :
- Nam Cung Hoát là tôi phản chúa đòi cử binh , ỷ mạnh không mưu. Nếu chúng ta báo thù thì Chúa công không khỏi bị chết ở thành Dũ Lý. Ðã khiến làm điều hại như vậy còn để làm chi.
Nam cung Hoát biết lỗi lui ra, các tướng lãnh cũng đều ngậm miệng.
Táng Nghi Sanh nói :
- Xưa Chúa công đi có dặn đợi mãn hạn bảy năm thì về chẳng cho ai đến viếng. Bỡi Công tử thương nhớ Chúa công, chẳng nghe lời can gián, nên mới bị bỏ mình . Bây giờ phải viết thư sai người bí mật đến dâng cho Bí Trọng , Vưu Hồn . Hai người nầy là tôi nịnh , hễ được của hối lộ thì ắt tâu cho Chúa công khỏi tội . Chừng Chúa công về nước dùng đức mà dụ dân làm cho vua Trụ hết thời rồi sẽ đem binh lấy ải . Nếu vội vàng thì không nên việc .
Cơ Phát nghe nói khen :
- Khanh luận phải lắm song không biết phải dùng vật chi để dâng cho Vưu Hồn , Bí Trọng ?
Táng Nghi Sanh thưa :
- Châu sáng ngọc lành , vàng ròng đai tốt. Lễ phân hai mớ, tướng dụng đôi người là Thái Ðiên và Hoằng Yêu , giả dạng khách thương đem dến . Thái Ðiên dâng lễ cho Bí Trọng , Hoằng Yêu dâng lễ cho Vưu Hồn như vậy nội trong ít ngày Chúa công ắt về nước .
Cơ Phát khen phải truyền sắm đủ lễ sai ngươi bí mật ra đi.
Người sau có bài thơ khen :
Ngọc lành châu sáng với vàng ròng
Ém miêng tôi gian việc mới xong
Quả thiệt thầ tiên hay cứu mạng
Làm cho quỷ sứ phải xuôi lòng
Ðua tài với cọp thần như kiến
Ðưa thuốc cho hùm nọc quá ong
Mới biết mưu cao hơn sức mạnh
\/ăn Vương chức trọng sắt dà phong
Thái Ðiên và Hoằng Yêu được Cơ Phát sai khiến liền giả làm thương gia, đến thành Triều Ca lập tức. Cách ít ngày sau lại người nầy tìm được cách liên lạc với Bí Trọng, Vưu Hồn , đem dâng lễ vật.
Bí Trọng thấy Thái Ðiên liền hỏi :
- Ngươi là ai vậy ?
Thái Ðiên nói :
- Tôi làm chức Thần Võ tướng quân ở Tây Kỳ vâng lệnh Táng Nghi Sanh đến dâng lễ vật cho quan lớn.
Bí Trọng tiếp lấy bức thư của Táng Nghi Sanh, mở ra xem . Trong thơ đại ý viết :
" Tôi là Táng Nghi Sanh ở Tây Kỳ cúi lạy dâng thư cho Bí ân công Thượng Ðại phu .
Lâu nay tôi hằng nghe danh quan Thượng Ðại phu , song chưa thấy mặt , lấy làm tiếc . Chúa tôi là Tây Bá Hầu vì nặng lời can vua được quan Thượng Ðại phu thương tình tâu xin không giết, cho ở thành Dũ Lý đã gần bảy năm, ơn ấy chúng tôi Tây Kỳ không thuở nào quên. Tôi không được phép vào chầu Thiên Tử để đền ơn trời biển , nên sai Thái Ðiên đem chút lễ mọn đến dâng, xin quan Thượng Ðại phu nghĩ tình dung nạp. Chúa tôi nay đã già tuổi tác cũng chẳng được bao nhiêu nữa, nếu quan Thượng Ðại phu nghĩ tình tâu với Thiên Tử một tiếng để cho Chúa tôi về nước, đoàn tụ với mẹ già chôn xương nơi cố quốc thì cả dân xứ Tây Kỳ nầy thảy đều mang ơn " .
Bí Trọng thấy lễ vật quá nhiều, lòng tham nổi dậy ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi nói với Thái Ðiên :
- Ngươi về thưa với Táng Nghi Sanh ta nhận lễ thế nào cũng tâu với Thánh hoàng cho Chúa ngươi về nước. Ta không viết thơ hồi âm vì sợ lưu tiếng khó lòng. Chẳng sớm thì muộn , thế nào việc cũng xong .
Thái Ðiên từ tạ lui ra quán dịch đợi tin Hoằng Yêu .
Trong lúc đó Hoằng Yêu cũng dâng lễ cho Vưu Hồn và cũng được Vưu Hồn hứa như vậy.
Khi Hoằng Yêu trở ra quán dịch , hai người kể lại sự việc vừa qua cho nhau nghe , rồi cùng trở lại Tây Kỳ.
Bí Trọng và Vưu Hồn tuy cùng một đường lối , nhưng mỗi khi có việc hối lộ lại giấu nhau , không dám nói . Vì vậy phần ai nấy giữ .
Ngày kia vua Trụ đánh cờ với Vưu Hồn , Bí Trọng thắng luôn hai bàn một lúc , lòng vua phơi phới , truyền mở tiệc vui vầy .
Ðang khi ăn uống! Trụ vương vui miệng nói :
- Bá Ấp Khảo đờn rất hay con vượn bạch múa cũng thật khéo ước gì trong bữa tiệc nầy có tiếng đờn, tiếng ca của chúng
nó mới thú vị.
Ba người cùng cười Vua Trụ lại nói thêm :
- Chỉ tội nghiệp có lão thầy bói dỡ làm tuồng hay, ăn thịt con mà không biết, ngỡ là thịt nai.
Bí Trọng nhân dịp ấy , tâu :
- Tôi nghi Cơ Xương bị cầm nơi Dũ Lý, có lòng oán hận bệ hạ, nên thường ngày bí mật cho người đến dò xét luôn.
Trụ Vương hỏi :
- Khanh nghĩ thiên hạ đồn Cơ Xương thế nào ?
Bí Trọng tâu :
- Khắp cả dân trong thành Dũ Lý đều ca tụng Cơ Xương là kẻ trung nghĩa. Cứ hằng tháng, vào ngày Sóc , Vọng đều thắp hương cầu cho Thiên tử nước thạnh dân yên, mưa hòa gió thuận, bốn phương lặng lẽ, trăm họ bình yên. Họ còn ca tụng Cơ Xương là ngươi chung thủy , gần bảy năm giam cầm không một lời oán than.
Trụ Vương hỏi :
- Trước kia khanh bảo Cơ Xương là kẻ nham hiểm ngoài mặt thật thà, trong lòng gian trá , sao nay lại nói Cơ Xương trung liệt ?
Bí Trọng tâu :
- Trước đây tôi lầm tưởng Cơ Xương như vậy nên mới sai người đi dọ thám. Chẳng ngờ Cơ Xương quả là bậc quân tử khác
đời. Thật là đường dài mới biết sức ngựa, sống lâu mới rõ bụng người.
Trụ Vương quay lại hỏi Vưu Hồn :
- Khanh xét lời nói ấy thế nào ?
Vưu Hồn sẳn dịp tâu liền :
- Lời nói của Bí Trọng quả đúng sự thật. Từ lúc Cơ Xương bị cầm nơi Dũ Lý thường dạy dỗ nhân dân, khiến nhiều kẻ trung
thành nhiều người hiếu đạo. Bởi Cơ Xương ở phải, nên dân chúng mới noi theo. Dầu Bí Trọng không tâu, hạ thần cũng trình cho Bệ hạ rõ.
Trụ Vương hỏi .
- Bây giờ có nên tha cho Cơ Xưong về nước hay không ?
Bí Trọng tâu :
- Tha hay không là quyền của Bệ hạ chúng tôi đâu dám bàn đến. Chúng tôi chỉ thấy giam cầm người hiền lâu ngày rất tội nghiệp. Nếu Bệ hạ tha Cơ Xương về nước dĩ nhiên Cơ Xương không thể quên ơn. Rất đỗi bị giam cầm mà chưa oán trách, thì nếu được tha lẽ nào phản bội .
Vưu Hồn thấy Bí Trọng cố gỡ tội cho Tây Bá Hầu hiễu ngay Bí Trọng đã ăn của hối lộ khá nhiều rồi . Nhân dịp nầy, Vưu Hồn cũng muốn làm một cái gì đặc biệt để lưu tình với Tây Bá, liền xen vào nói :
- Như Bệ hạ muốn tha Tây Bá về xứ thì cũng nên lưu chút nhân tình. Nay Văn Hoán đánh rnãi ải Du Hồn, Ðậu Dung chống
bảy năm đã mỏi mệt . Ngạt Thuận phá ải Tam Sơn, Cửu Công chống giử lâu ngày cũng đã mỏi mệt . Theo ý hạ thần thì Bệ hạ nên phong Vương cho Tây Bá, cấp bút việt cờ mao, truyền Tây Bá đem quân đánh Ðông dẹp Bắc. Tây Bá là người hiền, đã được lòng quân sĩ, lại nói gì thiên hạ cũng nghe, dùng Tây Bá dẹp giặc chẳng khác nào dùng chánh đẩy lui tà. Hạ thần dám chắc Tây Bá chưa đánh , quan giặc đã tan, thật có lợi cho Bệ hạ.
Vua Trụ khen :
- Vưu Hồn đáng mặt kẻ tài trí, luận rất hiệp ý trẫm , còn Bí Trọng ưa trung ghét nịnh , Cơ Xương sẽ mang ơn.
Nói rồi truyền chỉ đến thành Dũ Lý, tha tội Tây Bá Hầu lập tức.
Tây Bá Hầu tiếp được chiếu chỉ liền nhắm phương Bắc lạy tạ ơn. Dân trong thành hay được tin Tây Bá khỏi tội về nước mến đức không cùng, khiêng rượu và lễ vật đến tiễn chân đông nức.
Các vị bô lão thay mặt cho dân , nói :
- Thiên tuế ngày nay về nước chẳng khác rồng ra biển , phượng đậu cành ngô. Mấy năm nhờ ơn dạy dỗ , kẻ già nguời trẻ đền rõ đạo hiếu trung, con gái đàn bà đều giữ gìn danh tiết, nay Thiên tử về xứ , chẳng lẽ chúng tôi không mừng. Nói rồi sa nước mắc ròng ròng.
Tây Bá nói :
- Bảy năm sống chung trong thành Dũ Lý, tôi nhờ bá tánh hết lòng giúp đỡ mới được ngày nay , ơn ấy tôi chưa biết ngày nào trả được, xin các ông chớ nhọc lòng đưa đón . Nếu còn nhớ nhau thì xin giữ lấy nề nếp xưa nay , để khỏi điều tội lỗi.
Tây Bá nói xong từ giã khắp dân chúng trong thành xong thẳng đến Triều Ca yết kiến vua . Vừa ra khỏi thành đã thấy các quan đến đón, cùng nhau mừng rỡ hỏi thăm.
Trụ Vương truyền đòi Tây Bá vào chầu. Tây Bá mặc đồ trằng quỳ trước sân nói :
- Tôi là Cơ Xương, kẻ có tội, nay nhờ Bệ hạ mỏ đức tải sanh xin chức Bệ hạ sống lâu muôn tuổi .
Trự Vương phán :
- Ðã bảy năm, khanh bị cầm nơi Dũ Lý không oán trách trẫm còn cầu chúc cho trẫm sống lâu , thiên hạ thái bình , thật là một đấng tôi trung . Trẫm đã phụ khanh nhiều lắm . Nay trẫm quyết định tha tội cho khanh , cấp cờ mao, búa việt , nhờ khanh đem binh chinh phục các nơi , lấy đức vỗ an lê thứ . Ðược như vậy trẫm sẽ không phụ lòng. Bắt đầu ngày mai trẫm phong cho khanh làm chức Văn Vương cho dạo khắp Triều Ca ba ngày để phô trương quan tước, sau đó sẽ truyền hai viên quan võ, hộ tống khanh về nước .
Tây Bá Hầu lạy tạ, đội áo mão tước Vương , đến đền Long Ðức cùng các quan dự tiệc. Văn võ tụ họp đủ mặt chúc mừng.
Trong lúc dự tiệc, Văn Vương tỏ ý cảm tạ ơn vua, bá quan đều khen ngợi.
Tiệc mãn, Văn Vương tuân lệnh đi tham quan ba bửa , cỡi ngựa dạo khắp thị thành , dân chúng khắp Triều Ca hay tin đều ra đường đón xẹm mặt, và thì thầm :
- Thật ông trời có mắt . Người trung liệt trước sau cũng được đền bù.
Văn Vương đang dạo chơi , xảy thấy trước mặt bóng cờ phất phới tiếng nhạc ngựa vang vầy, giáo gươm lố nhố không rõ là đạo binh nào, liền hỏi kẻ tùy từng :
- Binh nào kéo đến Tnêu Ca như vậy .
Quân hầu thưa :
- Ðó là đạo quân của Võ Thành Vuơng Hoàng Phi Hổ hàng ngàv đi tập luyện ở thao trường.
Văn Vương vôi vàng xuống ngựa , đứng nép bên đường, vòng tay đợi Hoàng Phi Hổ đến xá dài một cái, và nói :
- Tôi là Cơ Xương xin ra mắt.
Hoàng Phi Hổ cũng lật đật xuống ngựa, nắm tay Văn Vương nói :
- Tôi không kịp tránh đường , xin Ðại Vương miễn chấp .
Văn Vương nói :
- Võ thành Vương dạy quá lời. Tôi là kẻ có tội vừa được vua rải đức ban ơn phong tước Vương, có gì phải nhọc lòng ngài như vậy.
Hoàng Phi Hổ nói :
- Ðây cũng gần tư dinh của tôi , xin mời hiền vương quá bộ chơi, uống chén rượu lạt trao đổi tâm tình, chẳng biết hiền vương có vui lòng không ?
Văn Vương nói .
- Võ Thành Vương đã dạy, tôi đâu dám trái lời.
Hoàng Phi Hổ dắt tay Văn Vương rước về tư dinh, hối quân mở tiệc đãi đằng. Hai người ngồi đối diện tỏ khúc tâm tình cho đến lúc trời tối mịt , quân thắp đèn nến bưng ra , Hoàng Phi Hổ mới nhớ việc quan trọng mình sắp bàn với Văn Vương, liền đuổi quân hầu ra hết , kề tai nói nhỏ .
- Hiền vương ơi ! Hôm nay tuy là ngày vui, song lúc này vui buồn lẫn lộn, kỷ cang bị tửu sắc và nịnh thần làm đổ vở mất
rồi . Hiền vương may mắn được vua tha tội, phong chức Văn vương, đó là trời giúp người ngay , sao hiền vương không tự xét minh sớm lánh mặt, dạo phố khoe quan làm chi . Hiền vương về nước sớm được ngày nào chẳng khác rồng ra biển, cọp vào rừng, còn ở đây tai họa có thể rơi xuống không lường trước nổi .
Văn Vương nghe nói tay chân bãi hoải trán toát mồ hôi , trìu mến nhìn Hoàng phi Hổ , nói :
- Ngài có lòng thương tôi như vậy dẫu chết tôi cũng chưa quên . Tôi cũng biết lúc nầy Bệ hạ vui buồn bất thường lắm, cũng
muốn xa lánh chốn Triều Ca, ngặt vì trốn đi thì không làm sao qua được năm ải...
Hoàng Phi Hổ nói :
Chuyên ấy không khó gì. Tôi có thể giúp đỡ hiền vương được. Liền lấy cờ , lệnh tiễn trao cho Văn Vương, và dặn :
- Phải thay đổi áo quần giả dạng người có việc gấp đi đêm, thì qua năm ải không ai cản trở.
Văn Vương mừng rỡ nói :
- Ơn Võ Thành Vương như trời biển , không biết ngày nào tôi mới đền đáp nổi .
Bây giờ đã đầu canh hai Hoàng Phi Hổ truyền đòi hai tướng Long Hoàn và Ngô Khiêm đến đưa Văn Vương ra khỏi thành Tây lập tức.