Cắt Hồng Câu, Lưu, Hạng giảng hòa
Hội Cổ Lăng, Hán Sở tái chiến
Hán vương nghe Trương Lương nói đến việc giải hòa để đưa Thái công về nước liền hỏi :
- Ai có thể qua Sở thương thuyết được việc này ?
Hán vương vừa hỏi dứt lời, có một người bước ra tâu :
- Hạ thần xin lãnh trách nhiệm ấy.
Hán vương xem lại thấy đó là Hầu công.
Hầu công vốn người Lạc Dương, gặp lúc nhà Tần loạn lạc, không chịu ra làm quan, từ nhỏ đã có sẵn khí phách, và có tài nói giỏi, được dân chúng trong vùng mến phục . Sau đó, nhân lúc Hán vương đem quân đánh Sở, đi qua Lạc Dương, Hầu công dẫn bọn Ðổng Công, Tam lão vào vết kiến. Nay thấy Hán vương muốn sai người sang Sỡ giảng hòa, Hầu công ra nhận trách nhiệm ấy.
Trung Lương nói :
- Hạng vương tính nóng như lửa, không đủ kiên nhẫn ngồi nghe lời phải trái. Hiền công sang đó, nếu lỡ một lời nói không hợp, chẳng những tánh mạng Thái công không an toàn mà còn làm nhục đến mệnh vua, xin Hiền công nghĩ lại.
Hầu công nói :
- Tiên sinh nói như vậy chẳng là Hạng vương không thể yết kiến được Thái công không thể đón về được, còn tôi đây, chúa thượng nuôi bấy lâu dưới trướng là vô dụng ư ?
Hán vương nói :
- Người này đã có khí phách như thế, tất việc lớn thành được.
Liền viết thư đưa cho Hầu công.
Hầu công từ biệt Hán vương sang dinh Sở.
Hạng vương nghe Hầu công đến, biết là Hán vương sai đến giảng hòa, liền sai quân đao phủ dàn ra hai bên, còn mình chống gươm ngồi trên trướng, trợn mắt tròn vo, oai phong lẫm hệt.
Hầu công ung dung từ ngoài bước vào miệng cười khúc khích.
Hạng vương nổi giận mắng :
- Ngươi là sứ giả nhà Hán, sang đây giảng hòa mà dám tự đắc như thế, không sợ chết sao ?
Hầu công đáp :
- Ðại vương là một vị vua vạn thắng, oai vũ lẫy lừng, ai ai lại không biết ! Vậy mà nay thấy tôi là một đứa bần sĩ, mặt không khí sắc, tài còn xa với Quản, Nhạc, mà lại dàn quân đao phủ để thị uy. Dẫu Ðại vương không làm như thế thì kẻ bần sĩ này cũng đã khiếp sợ rồi ? Huống hồ Ðại vương thị uy như thế, thì tôi nhịn cười sao được.
Hạng vương thấy Hầu công tâng bốc mình, thích ý, ném gươm xuống đất, đuổi bọn đao phủ ra rồi hỏi :
- Nhà ngươi sang đây định ý thế nào ?
Hầu công đáp ;
- Tôi sang đây để bàn với Ðại vương bãi việc binh nhung, khiến cho hai nước Hán, Sở giao hòa thiên hạ khỏi phải chìm trong bể điêu linh, tang tóc. Hiện có bức thư của vua Hán gửi đến cho Ðại vương.
Hạng vương đổi giận làm vui, tiếp thư mở ra xem.
Trong thư viết :
" Hán vương kính đệ tâm thư dâng Hạng vương nhã giám.
Bang tôi nghe nói làm vua cốt mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân, tạo cho xã hội một cảnh thái bình thịnh trì. Nếu dân không được an cư lạc nghiệp, thì nhiệm vụ làm vua không tròn.
Tôi cùng quý quốc mấy năm tranh hùng, trải hơn bảy mươi trận đánh, xương khô phơi đầy bãi, máu nhuộm đỏ cỏ cây. Nếu nghĩ đến dân thì cảnh ấy là một vết thương cho những ai cầm đầu thiên hạ.
Nay tôi sai Hầu công sang quý quốc giảng hòa, lấy Hồng Câu làm giới hạn, từ Hồng Câu về Tây thuộc Hán, từ Hồng Câu về Ðông thuộc về Sở. Hai bên ai giữ nước ấy, bãi việc đao binh, cùng nhau hưởng cảnh thanh nhàn, muôn dân cũng nhờ đó thoát khỏi vòng máu lửa, vui với gia đình. Quý quốc nên sớm quyết định " .
Hạng vương xem thư xong, nghĩ thầm :
- Lâu nay ta cùng Hán giao tranh, quân mã mỏi mòn, lương thực đã gần hết, nếu không tạm nghỉ để tăng cường quân lực thì không thể nào thắng nổi. Chi bằng nhân cơ hội này cùng Hán giao ước, hai bên bãi binh, ta trở về Bành Thành sống yên ổn, rượu ngon gái đẹp, chẳng thú vị lắm sao ?
Nghĩ rồi nói với Hầu công :
- Ta vẫn có ý định cùng Hán vương tranh đấu đến cùng. Nay thấy lời nói của Hán vương có vẻ khiêm tốn, hiểu được lẽ phải. Vậy ta sẽ cho người đến ước định bờ cõi cùng với Hán vương thảo bản điều ước, mỗi bên giữ một bản để làm bằng. Ngươi trở về đi. Ngày mai ta sẽ cùng Hán vương tương kiến.
Hầu công bái biệt Bá vương trở về dinh Hán, thuật lại mọi điều.
Hán vương mừng rỡ. Tiếp đó lại có sứ Sở đến, chiếu sự ước hẹn viết ra hai tờ giao ước, đợi lúc hai vua gặp nhau để trao đổi.
Hán vương nói :
- Ngày mai ta sẽ cùng Bá vương gặp mặt để nối lại tình anh em như cũ. Cuộc gặp mặt là cuộc thân hữu, hai bên không cần phải bày đại binh, không cần phải mặc giáp trụ . Nhà ngươi về nói lại với Bá vương biết, điều cốt yếu là phải đưa Thái công về Hán, thì cuộc giao ước mới tốt đẹp
Sứ giả nói :
- Tôi và Hầu công trở về tâu lại với Bá vương, chắc Bá vương cũng chẳng có ý lưu Thái công lại bên đó làm gì.
Hán vương bèn trọng thưởng cho sứ giả, rồi sai Hầu cùng sang dinh Sở tỏ bày ý nguyện.
Hạng vương thấy Hầu công cùng sứ giả trở về liền hỏi :
- Hầu công lại sang đây có việc gì ?
Hầu công nói :
- Chúa thượng tôi muốn xin Ðại vương một lời hứa là ngày mai lúc tương ngộ, xin Ðại vương giao trả Thái công và Lã Hậu về Hán, cho cuộc giao trả được trọn vẹn.
Hạng vương nói :
- Lời ta đã hứa lẽ nào làm sai. Ngươi về tâu lại với Hán vương, không phải lo việc ấy .
Sau khi Hầu công từ giã Hạng vương, Chung Ly Muội và Quý Bố đến nói :
- Tuy rằng Ðại vương nên cùng Hán giảng hòa, song chớ nên giao trả Thái công vội. Hán vương là kẻ phản phúc, không đủ tín nghĩa. Nếu trả Thái công e Hán vương sanh lòng phản trắc.
Hạng vương nói :
- Ta lấy Thái công làm kế lui binh Hán, thiên hạ chê cười. Ðó là một vết nhơ cho thanh danh ta rồi. Nay lời ta đã hứa, lẽ nào không thi hành !
Hạng Bá nói :
- Thái công bị giam ở Sở, Ðại vương không giết, đủ tỏ lòng nhân của Ðại vương rồi. Nay lại cho về nước ơn ấy như trời biển, lẽ nào Hán vương còn đem lòng phản phúc ?
Hạng vương nói :
- Lời ấy phù hợp với ý nghĩ của ta.
Ngày hôm sau, Hạng vương truyền văn võ, tướng sĩ đều mặc thường phục, đi dàn ra hai bên, Thái công và Lã hậu theo sau ngựa.
Bên kia Hán vương cũng không dùng đồ giáp binh gì cả.
Hai vua gặp nhau cùng làm lễ tương kiến, rồi mỗi người cầm một tờ hiệp ước, tự tay trao đổi nhau.
Hạng vương nói :
- Từ nay Sở và Hán không còn giao tranh nữa, bên nào nấy giữ lấy cõi bờ của mình. Phần tôi , tôi sẽ đem quân về phía Ðông.
Nói xong, sai tả hữu dẫn Thái công và Lã hậu giao cho Hán vương.
Hán vương mừng rỡ ra đón, rồi đến tạ ơn Bá vương và nói :
- Thân phụ tôi lâu nay nương tựa dưới cờ Ðại vương, nhờ ơn nuôi dưỡng, ơn ấy chẳng bao giờ tôi dám quên.
Ðoạn, hai vua từ giã trở về dinh. Cách đó vài ngày, có tin Hạng vương thu binh về Ðông .
Hán vương được tin ấy, vội truyền lui binh về Tây.
Trương Lương bước đến can :
- Mấy năm, Ðại vương chiến đấu vất vả, các tướng sĩ theo phò Ðại vương những mong được một ngày về Ðông xúm họp với quê hương, rạng danh nơi đất tổ. Nay Ðại vương một sớm cùng Sở giảng hòa kéo binh về Tây, tướng sĩ ai nấy đều nhớ cha mẹ vợ con tất sẽ trốn về quê cả Ðại vương cô thế, làm sao giữ nổi giang san. Vả lại, nay Thái công đã về Hán , thế quân lừng lẫy, thiên hạ theo về, cái cơ được thua đã đương nhiên, việc gì lại chia đất giảng hòa. Cổ nhân đã nói : trời không hai mặt, đất chẳng hai vua, thiên hạ không khuông phò hai chúa . Ấy vậy Ðại vương nên tiếp tục nghiệp lớn để cho thiên hạ sớm hưởng một cuộc đời thanh bình thạnh tri.
Hán vương nói :
- Ta đã cắt Hồng Câu giao ước với Sở, nay lại bội ước thì còn gì tín nghĩa.
Trương Lương nói :
- Kẻ có chí lớn không nên câu nệ điều nhỏ. Việc cắt đất giảng hòa chẳng qua là một âm mưu của ta để đưa Thái công và Lã hâu về nước. Trong thiên hạ ai chẳng biết lẽ ấy. Chỉ có Hạng vương lầm kế mà thôi. Trên trường chiến đấu, dùng trí dũng để thắng không phải là thất tín. Nếu sự nghiệp nửa đường mà bõ đi , công khó của Ðại vương và chúng tôi đều vô ích.
Trần Bình, Lục Giả , Tùy Hà và các mưu sĩ cũng đều tỏ ý :
- Lời nói của Tử Phòng rất phải Ðại vương cất quân thiên hạ theo về, chư hầu ngưỡng vọng là mong Ðại vương thống nhất bờ cõi, đập tan bạo lực của Hạng vương nếu chia đất cầu hòa đó mới là chuyện mất tín nghĩa.
Hán vương thấy các tướng đều nhất quyết đánh Sở, không biết nghĩ sao, đành phải nghe theo, truyền sắm sửa binh mã để cùng Sở quyết chiến.
Nhắc lại Hạng vương, kéo quân về Bành Thành, lòng thấy khoan khoái như trút tất cả những gì cực nhọc trong mấy năm qua, truyện mở tiệc khoản đãi quần thần , rồi ngày nào cũng ở trên lầu cùng Hoàng hậu Ngu Cơ say sưa tửu sắc. Lại cho các tướng về nhà nghỉ ngơi coi như không còn chinh chiến nữa Chu Lan thấy vậy dâng sớ can :
" Xưa nay, các bậc thánh đế minh vương, an không quên nguy , trị không quên loạn. Dẫu nước nhà vô sự, việc võ bị cũng chẳng chút trễ tràng .
Huống hồ hôm nay Lưu Bang, dưới trướng bọn mưu thần toàn là những kẻ quỷ quyệt , trao trở khó lường. Nếu
Lưu Bang lại nghe lời bọn mưu thần dấy động can qua, trong lúc Ðại vương giải giáp nghĩ ngơi , quân binh trể biếng thì làm sao chống nổi ?
Thiết nghĩ dầu Ðại vương có muốt an hưỡng nơi một góc trời cũng phải tu nhân tích đức , rèn luyện võ nghệ , kén chọn kẻ tài trí sung vào dưới trướng , sớm hôm lo việc nước thì mới giữ được giang sơn .
Một tấm lòng trung , mấy lời chân thật , xin Ðại vương xét cho " .
Hạng vương xem sớ, trầm ngâm một lúc rồi gọi Chu Lan vào nói :
- Lưu Bang đã cùng ta thề ước, lẽ nào lại bội tín như ngươi quá lo xa . Tuy nhiên ta cũng sẽ chuẩn y lời sớ của nhà ngươi để không xảy ra điều ân hận.
Liền đòi Chung Ly Muội đến nói :
- Chu Lan dâng sớ khuyên ta đừng bỏ việc dở, phòng Hán vương sanh biến tâm . Vậy các ngươi nên ra vũ trường luyện tập ba quân đề phòng sanh biến.
Chung Ly Muội lãnh chỉ thao luyện quân mã .
Giữa lúc đó, Hán vương đã hội quân nơi Cố Lăng cùng với Trương Lương, Trần Bình bàn việc đánh Sở.
Hán vương nói :
- Bội ước với Sở cũng được, song hiện nay ta cùng Sở giảng hòa, bọn Hàn Tín và binh mã các chư hầu đều kéo về, vậy làm cách nào mà triệu tập ?
Trương Lương nói :
- Ðại vương nên một mặt đưa thư bội ước với Sở, một mặt sai người đi gọi binh mã các xứ. Ðợi khi binh mã các lộ chư hầu tập họp đông đủ, bấy giờ mới tuyên chiến.
Hán vương nói :
- Ta thề ước với Sở, bây giờ lại tuyên chiến, thiên hạ thấy rõ lòng phản bội của ta. Ta muốn làm cách nào cho Sở cử binh đánh ta trước, có được chăng ?
Lục Giả bước ra nói :
- Tôi xin lãnh thư sang Sở, dùng ba tấc lưỡi, khích cho Hạng vương khởi binh đánh trước, để tránh cho Hạng vương lời dị nghị trong thiên hạ.
Hán vương nói :
- Không nên ! Hạng vương là người nóng tính, thấy ta bội ước tất nổi giận giết nhà ngươi mất.
Lục Giả nói :
- Chẳng hề chi, tôi đã có cách bảo tồn tánh mạng.
Xin Ðại vương chớ lo.
Hán vương lòng nghi ngại, nhưng không có cách nào hơn , cuối cùng đành phải sai Lục Giả làm sứ sang Sở.
Lục Giả lãnh thư, đến Bành Thành vào yết kiến.
Hạng vương cho vào, hỏi :
- Lục Ðại phu sang đây có việc gì vậy ?
- Ngày trước, Hán vương vì muốn đón Thái công và Lã hậu về Hán, nên giả cách cùng Ðại vương giảng hòa. Nay Hán vương sanh lòng tráo trở, hội binh nơi Cố Lăng để cùng Ðại vương quyết chiến, lại sai hạ thần đi sứ, hạ chiến thư. Hạ thần trộm nghĩ, Ðại vương oai võ lẫy lừng, thiên hạ cúi đầu tùng phục, Hán vương được một nửa đất cũng đã đủ lắm rồi, còn sinh tâm tranh chấp, thật không biết sức mình. Hạ thần bất đắc dĩ phải dem chiến thư đến đây dám đâu xúc phạm Ðại vương.
Nói xong dâng thư cho hạng vương. Hạng vương mở ra xem.
Thư rằng :
" Hán vương, Lưu Bang gởi Bá vương tri khán.
Ngày trước, Thái công , Lã hậu ở Sở, được nhờ nhà vua chăm nuôi tử tế, song nhà vua lại giữ mãi không cho về nước, dùng kế hăm dọa, đem ra trận đặt lên thớt nấu dầu , hành động ấy quả nhân không sao nguôi được những muốn đánh mấy trận, lấy đầu kẻ vô liêm sĩ ấy.
Tuy nhiên, đánh chuột kiêng đồ ngần ngại mãi , bất đắc dĩ phải giảng hòa chia đất, đó chỉ là cái kế để đón Thái công về mà thôi.
Bởi lẽ đạo làm con, dù bỏ mình mưu cầu hạnh phúc cho song thân cũng chẳng quản, huống hồ là dùng trí thuật .
Lấy trí thắng kẻ ngu, lấy lợi mê hoặc kẻ gian, làm cho cá phải cắn câu. chim mắc vào lưới , chính là các việc giảng hòa của quả nhân vừa làm đó .
Nay Thái công , Lã hậu đã về nước, không còn phải lo ngại gì nữa, quả nhân lại xổ cờ, gióng trống, cùng quý quốc tranh phong. Quân Hán đã tập họp nơi Cố Lăng, nếu quân Sở không sợ thì mau đem binh đến quyết chiến Xin chớ sai lời ".
Hạng vương xem thư xong nổi giận xé tan thư và quát lớn :
- Lưu Bang là đứa thất phu, dám đang tâm bội ước lại định cùng ta quyết chiến. Ta từ lúc khởi binh nơi Cối Kê, chưa hề lui bước trước địch quân. Lưu Bang chăng qua chỉ là một tên tiểu nhân đắc ý, ta quyết bắt nó trị tội.
Nói xong, truyền cho Lục Giả trở về hẹn sẽ kéo binh đến giao chiến.
Lục Giả từ giã Hạng vương trở về Cố Lăng yết kiến Hán vương tâu :
- Hạng vương rất giận dữ , sắp đem quân đến hội chiến, xin Ðại vương định liệu .
Hán vương nghe Lục Giả nói, lòng lo lắng, vội đòi Trương Lương và Trần Bình vào nói :
- Chiến thư đã hạ , Hạng vương sắp kéo đại binh đến đây, bọn Hàn Tín lại không thấy về, bây giờ nên tính lẽ nào ?
Trương Lương nói :
- Binh mã Ðại vương hiện khá đầy đủ . Vậy một mặt chia cho các tướng quản lĩnh, dự bị đánh Sở, một mặt sai người thúc giục Hàn Tín đem quân về tiếp ứng.
Chưa đi được mấy ngày có quân thám thính về báo :
- Hạng vương cử hơn ba mươi vạn quân, từ Từ Châu kéo sang, đi đến đâu các phủ huyện đều chạy trốn, không nơi nào dám ngăn cản. Hiện binh Sỡ đang hạ trại cách Cố Lăng ba mươi dặm.
Hán vương nói :
- Quân Sở mới đến, nhuệ khí đang hăng, ta không nên đánh vội .
Trần Bình nói :
- Ðại vương luận rất phải. Quân ta chỉ nên canh phòng cẩn mật chờ quân Sỡ trễ biếng sẽ giao tranh.
Ba quân tuân lệnh, đâu đó giữ gìn nghiêm nhặt, không xuất trận.
Hạng vương an dinh hạ trại xong, cho quân sĩ đi thám thính, thấy quân Hán bất động, lòng sinh nghi, hội các tướng bàn bạc :
- Hán vương đã sai người hạ chiến thư, vậy mà ta đem quân đến đây, họ lại bất động là sao ?
Quý Bố và Chung Ly Muội nói :
- Ðó là kế của Hán vương, đợi lâu ngày quân ta chểnh mảng mới xuất quân đó.
Chu Lan nói :
- Không phải như thế. Quân ta từ xa kéo đến thế đang hăng, còn quân Hán thì Hàn Tín chưa về, nên cố diên trì chờ đợi, chưa dám xuất trận. Ngày mai, Ðại vương nên đem quân cùng Hán giao tranh để tiêu hao lực lượng của họ.
Hạng vương khen phải. Ngày hôm sau truyền lệnh mở cờ gióng trống, kéo đến đánh Hán.
Hán vương nghe báo, vội vã sai Vương Lăng, Phàn Khoái, Quán Anh, Lư Quán dẫn binh ra nghênh chiến.
Hạng vương đến trước trận, gọi Hán vương ra nói chuyện.
Tướng Hán đáp :
- Chúa thượng ta sai chúng ta đến đây bắt vua Sở đem về nấu dầu để trả lại cái thù của Thái công ngày trước
Hạng vương nổi giận, vung đao xông vào đánh. Bốn tướng Hán cùng nhau kéo vào một lượt. Ðánh được vài mươi hiệp, bốn tướng Hán không cự nổi, phải kéo lui về .
Bá vương thúc quân đuổi theo.
Vừa được mươi dặm thì quân Hán có hơn mười viên kiện tướng là bọn Ngân Hấp, Chu Xương, Cao Khởi, La Mã Thông... xông ra, chặn Hạng vương lại đánh.
Bấy giờ, bên Sở bọn Quý Bố, Chung Ly Muội cũng đã đuổi đến kịp, xông vào trợ chiến với Hạng vương.
Hai bên đánh nhau rất hăng, chiêng trống vang trời.
Bỗng trong dinh Sở có một tiếng pháo lệnh, Chu Lan xuất lĩnh một cánh binh, kéo ra tràn vào trận Hán, đánh quân Hán đứt ra làm nhiều đoạn.
Hạng vương thừa thắng chém giết quân Hán rất nhiều , các tướng Hán biết không cự nổi bỏ chạy vào thành Cố Lăng đóng chặt cửa lại .
Quân Sở đuổi đến dưới thành, nói với tướng sĩ :
- Dịp này không nên bỏ lỡ, phải bắt cho được Lưu Bang rửa hận.
Các tướng nói .
- Ðại vương đốc xuất quân sĩ đánh từ buổi sáng đến giờ ai nấy đều mỏi mệt. Vậy phải đóng trại cho quân sĩ nghỉ ngơi một đêm, rạng ngày hôm sau sẽ công thành.
Thành Cố Lăng là một thành nhỏ, trơ trọi, phá vỡ không khó .
Hạng vương nói :
- Nếu đóng trại nghỉ ngơi đêm nay các tướng phải đề phòng cẩn mật, kẻo quân Hán kéo vào cướp trại thì nguy.
Các tướng đều tuân lệnh cho quân hạ trại dưới thành.
Bấy giờ Hán vương ở trong thành Cố Lăng thấy quân thua chạy về, các tướng đều hết vía, lòng bối rối, bàn với Trương Lương và Trần Bình :
- Cố Lăng là thành nhỏ, quân Sở vây thành làm thế nào thoát được Các ngươi có kế gì chăng ?
Trương Lương nói :
- Quân Sở đóng trại chưa xong, trời đã tối, đêm nay nên thừa dịp sai một số dũng tướng kéo quân ra, lựa phía nào quân Sở ít ỏi, đánh tháo chạy về Thành Cao để tránh cái nhuệ khí của địch. Trong lúc trời tối, tôi chắc quân Sở không dám đuổi theo.
Hán vương nói :
- Nếu vậy ta phải định liệu gấp mới được.
Trương Lương liền truyền lệnh các tướng lĩnh bị binh mã, dự bị thoát ra ngoại thành, đồng thời sai một tiểu hiệu lên mặt thành xem thế địch quân.
Tên tiểu hiệu sau khi quan sát khắp nơi trở lại nói :
- Cửa phía Bắc, quân Sở thưa thớt, có thể đánh ra được Hán vương liền sai Phàn Khoái , Chu Bột, Sài Võ, Ngân Hấp, bốn tướng mở cửa thành phía Bắc dẫn quân ra một lượt.
Sau đó, Hán vương cùng đoàn tùy tùng đều kéo theo.
Tướng Sở đóng quân ở phía Bắc là Hoàn Sở, vì lúc đêm tối quân sĩ suốt ngày mỏi mệt, lại không chuẩn bị trước nên không cự lại.
Ðến. lúc đại binh Hạng vương hay, kéo đến tiếp ứng thì quân Hán đã thoát khỏi vòng vây.
Chung Ly Muội bàn với Hạng vương :
- Lúc tối tăm sợ có quân mai phục ta chớ đuổi theo đợi trời sáng sẽ liệu .
Hạng vương theo lời, không cho quân mình truy kích , nhờ đó Hán vương cùng các tướng chạy trốn được xa .
Chạy hơn tám mươi dặm, trời mới rựng sáng Trần Bình bàn với Hán vương :
- Tuy tướng sĩ suốt đêm chạy vất vả song chớ nên đóng quân nơi đây phải chạy đến Thành Cao mới được.
Hán vương nói :
- Nếu đến Thành Cao, quân Sở lại kéo đến vây nữa thì biết làm thếnào ?
Trương Lương nói :
- Việc ấy không lo. Quân ta về Thành Cao độ ba ngày quân Sở ắt phải lui.
Hán vương hỏi : .
- Tiên sinh có kế gì lui được quân Sở ?
Trương Lương tâu :
- Quân Sở chiếm đâu không thể giữ đất được, vì đường vận lương từ Bành Thành đến đây rất khó khăn.
Vả lại vừa rồi tôi được tin Bành Việt đem quân chận đường vận lương của Sở rồi Muốn chắc ý tối lại sai hai tướng Trương Thương, Trang Tà lẻn đốt kho lương của Sở rồi , vì vậy không bao lâu quân Sở phải kéo về .
Hán vương nghe nói an lòng , truyền quân mã thẳng đường đến Thành Cao.
Sáng ngày hôm sau, Hạng vương được tin quân Hán bỏ Cố Lăng về Thành Cao, liên đốc quân đến vây.
Sau ba ngày công phá, bỗng có Chung Ly Muội và Quý Bố chạy đến báo :
- Hiện nay trung quân bị thiếu lương. Vừa rồi lại có tin kho lương Liễu Thôn bị quân Hán cướp đốt rồi . Nếu nay mai Hàn Tín kéo quân đến đây quân ta không thể nào rút lui được , ắt phải chết đói .
Hạng vương nói :
- Ta đã lo việc thiếu lương thực. Nay kho Liễu Thôn bi đốt thì còn đóng quân ở đây làm sao được.
Liền truyền lệnh lút quân về, sai Hoàn Sở . Ngu Tử Kỳ đi đoạn hậu đề phòng quân Hán đuổi theo .
Ba quân lớn nhỏ đang lúc lo thiếu lương chợt có lệnh giải binh tức thời như gió cuốn mây bay, chưa đầy nửa ngày đã rút về hết sạch . Quân Hán ở trên thành thấy quân Sở rút về, vội vào báo cáo với Hán vương.
Hán vương nói :
- Nếu quân Sở rút lui, ta nên truy kích để tiêu hao lực lượng địch.
Trần Bình nói :
- Không nên ! Quân Sở rút về, tất có sai dũng tướng đi đoạn hậu, nếu đuổi theo trúng kế. Vả lại quân Sở không phải thua trận mà rút, lực lượng còn đang mạnh lắm.
Hán vương khen phải, không truyền quân truy kích.
Hạng vương kéo quân về đến Bành Thành, gọi người coi kho lương đến khiển trách, rồi chém đầu răn chúng
Từ đó, Hạng vương lo việc tăng gia binh bị đề phòng khi xuất chinh.
Bấy giờ, nơi Thành Cao, Hán vương cũng đang lo củng cố quân ngũ, ngày đêm bàn việc tác chiến.
Một hôm, Hán vương đòi Trần Bình và Trương lương vào nói :
- Hàn Tín, Anh Bố và Bành Việt, ba người ấy cho gọi mãi mà không đến, nay phải làm thế nào ?
Trương Lương nói :
- Hàn Tín tuy phong vương vị, nhưng chưa phong cho một mảnh đất nào. Bành Việt thì đã từng lập công to, nhưng chưa phong tước còn Anh Bố từ khi bỏ về Hán, Ðại vương chưa lúc nào dùng trọng lễ hậu đãi. Ðối với ba người ấy đều là những kẻ vì lợi quên nghĩa, tham mà tự kiêu. Nếu nay Ðại vương hậu ban tước thưởng, cắt đất phong cho , khiến cho họ đều có phong ấp để cai trị riêng, ắt họ phải hả lòng cố sức đem thân giúp Ðại vương diệt Sở .
Hán vương nói :
- Lời Tiên sinh luận rất phải, hiểu thấu được tâm trạng ba kẻ ấy. Vậy phiền Tiên sinh đem ba đạo phù hịch, gia phong cho Hàn Tín làm Tam Tề vương, cai trị quận Lam Trì. Tất cả lương tiền, dân chúng quận ấy đều thuộc về quyền sử dụng của Hàn Tín. Bành Việt thì phong làm Ðại Lượng vương tất cả sản vật trên đất Lương do quyền thống trị của Bành Việt. Còn Anh Bố thì làm Hoài Nam vương thống trị mảnh đất Hoài Nam.
Hịch văn viết xong, Trương Lương lãnh mệnh đi ba nơi ấy .
Trương Lương cố sức họp chư hầu
Tả Xa trá hàng lừa Hạng Vũ
Trương Lương lảnh các tờ hịch của vua Hán, trước hết đến nước Tề, tin cho Hàn Tín biết.
Hàn Tín vội mời Trương Lương vào bệ kiến.
Trương Lương nói :
- Ngày nay không phải như trước Nguyên soái là chúa một nước, tọa trấn hơn bảy mươi thành, tôi đâu dám ngồi bình diện.
Hàn Tín vừa cười vừa đáp :
- Tín tôi không nhờ Tiên sanh thì đâu có vinh dự như ngày hôm nay. Vả lại Tiên sinh là bậc tôn sư, Tín tôi phải đối đải như bậc thầy mới đáng, đâu dám cậy vương tước mà tự tôn mình.
Trương Lương liền trao tờ hịch cho Hàn Tín xem.
Hàn Tín mở ra đọc, lòng phấn khởi, truyền mở tiệc đãi đằng.
Trương Lương nói :
- Hiện nay Bá vương thế cô, sức yếu, Chúa thượng hối hận việc cắt Hồng Câu giao ước, nên đã cùng Sở giao binh. Vừa rồi, Chúa thượng đốt kho lương thực của Sở, khiến cho quân Sở phải giải binh, kéo về Bành Thành. Tôi tưởng lúc này Nguyên Soái cũng nên đem quân đến hội với Chúa thượng, ra công diệt Sở, định thiên hạ, để cùng nhau chung hưởng thái bình. Sở có chết thời ngôi của Nguyên soái mới vững chắc.
Hàn Tín nói :
- Ngày trước hội binh ở Quảng Võ đã sắp phá được Sở, nhưng vì muốn đón Thái công về nước, nên Chúa thượng giảng hòa với Sở, do đó, Tín tôi phải kéo binh về.
Nay Chúa thượng có ý ấy, còn gì làm cho tướng sĩ hân hoan hơn. Sớm tối tôi sẽ đem quân diệt Sở, để Chúa thượng ngồi giữa Trung quốc, vỗ yên bốn cõi, lên ngôi Thiên tử thống lảnh chư hầu, giang sơn về một mối, bá tánh vui một lòng.
Trương Lương nghe Hàn Tín nói đứng dậy tỏ ý cảm tạ và nói :
- Nguyên Soái có ý ấy thật là phúc cho xã tắc , lẽ ra Lương tôi phải tiển Nguyên Soái lên đường nhưng Lương tôi còn phải qua hai xứ nơi Anh Bố và Bành Việt, giục họ điều binh về trợ Nguyên Soái.
Hàn Tín mừng rỡ nói .
- Thế thì Tín tôi xin đem binh về Thành Cao trước để tiện việc thao luyện quân mã.
Trương Lương bèn từ biệt Hàn Tín đi sang Hoài Nam yết kiến Anh Bố.
Anh Bố mời Trương lương vào tương kiến. Trương Lương đem tờ hịch Hán vương trao cho anh Bố.
Anh Bố mở ra đọc, thấy Hán vương phong cho dải đất từ cửa gianh trở xuống, quản thủ một vùng rộng lớn, lòng mừng khấp khởi, quay mặt về phía Tây lạy tạ ơn vua rồi đặt tiệc khoản đãi Trương Lương.
Trương Lương nói :
- Tướng quân làm vua nơi đây, ngôi nhân thần như thế đã là tột bực. Song Hạng vương chưa diệt được, chắc lòng tướng quân chưa yên. Hiện nay Hàn Nguyên soái đã đem quân đến Thành Cao đánh Sở, Tướng quân nên đem binh trợ lực, sớm trừ Hạng vương. Sở có diệt thì ngôi tướng quân mới vững vàng.
Anh Bố nói :
- Hạng vương là người thù của tôi lẽ nào tôi quên được .
Nói rồi liền điểm quân đến Thành Cao.
Trương Lương lại cùng kẻ tùy tùng sang Ðại Lương yết kiến Bành Việt.
Bành Việt hay tin mừng rỡ, sắm sửa tiếp đón Trương Lương rất hậu.
Trương Lương trao hịch văn của Hán vương cho Bành Việt, có kèm theo chiếu thư phong Bành Việt làm Lương vương.
Bành Việt sai tả hữu đặt hương án, và mở ra đọc.
Chiếu rằng :
" Kẻ làm tôi mong hưởng lộc vua, kẻ có công mong ngày đền đáp, đó là lẽ công bằng. Xét vì Tướng quốc Bành Việt phò Hán đã lâu, công lao rất lớn, nhiều lần đánh chẹt đường vận lương của Sở, khiến cho nghiệp Hán vững vàng, quân thù khiếp đảm.
Nay phong cho làm Ðại Lương vương, cai quản năm mươi quận đất Lương, hưởng lộc đời đời.
Nhà ngươi nên gìn lòng trung chớ trái mệnh trẫm. "
Bành Việt đọc chiếu xong, cúi lạy tạ ơn, lòng hân hoan khôn xiết, vội sai bày tiệc khoản đãi Trương Lương.
Trương Lương nói :
- Tướng quân lâu nay có công rất lớn, vì vậy Chúa thượng sai tôi đến đây phong thưởng. Theo ý tôi, tướng quân nên tỏ lòng tri ân bằng cách cử binh đến Thành Cao, họp với Hàn Nguyên Soái để diệt Sở. Bởi vì, Sở chưa diệt dân chúng còn trong cảnh lầm than, dẫu có hưởng lộc cao sang đến đâu, kẻ anh hùng vẫn chưa thỏa dạ.
Bành Việt nói :
- Lời Tiên sinh dạy rất phải, vậy xin Tiên sinh lưu lại đây vài hôm, tôi sắp xếp binh mã xong sẽ thượng lộ.
Trương Lương cố chối từ, nhưng Bành Việt vẫn nài nỉ, Trương Lương phải ở lại mấy hôm.
Trong lúc thừa nhàn, Trương Lương dạo xem phong cảnh Ðại Lương, thấy sông núi bao quanh, hình thế hùng tráng, thật là yết hầu của đất Cửu Châu, then móng của Trung Quốc.
Trương Lương chợt nghĩ :
- Bá vương không đóng đô ở Hàm Dương lại đóng đô ở Bành Thành, không giữ ở Ðại Lương mà lại ở Từ Châu, không lấy thóc kho Ngao Thương mà lại lấy thóc kho Liễu Thôn, đó là cái cớ khiến cho Bá vương mất thiên hạ vậy !
Trương Lương ở chơi mấy ngày rồi giã từ trước khi Bành Việt hội binh phá Sở.
Nhắc lại Hàn Tín, từ khi tiếp được hịch văn của Hán vương, liền hiểu dụ các huyện, thu góp lương thảo rồi kéo binh đến Thành Cao.
Lúc bấy giờ Khoái Kiệt đã lâu vẫn đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, nay nghe tin Hàn Tín sắp khởi binh phá Sở, liền đến trước phủ, nói với kẻ tả hữu xin vào yết kiến Hàn Tín.
Hàn Tín mời vào hỏi :
- Tiên sinh đã lâu, ra đi không về, trách Tín tôi không nghe lời dạy. Nay Tiên sinh trở về đây, hẳn có điều chi dạy bảo ?
Khoái Kiệt nói :
- Tôi chịu ơn của ngài, không nỡ để cho ngài sa vào tai vạ vì vậy không nể xấu hổ, đến đây tương kiến, xin ngài chớ quở trách.
Hàn Tín hỏi :
- Tai vạ gì vậy ?
Khoái Kiệt nói :
- Ngài đóng quân nơi đây, Hán vương mấy lần bị Sở vây khổn, mà ngài không tiếp cứu. Vì vậy, Hán vương buộc lòng phải sai Trương Lương đem hịch văn đến gia không cho ngài làm Tam Tề vương. Việc gia phong ấy chẳng qua là dùng miếng mồi ngon nhử cho ngài đem binh phá Sở đó thôi. Lúc ngài đã phá Sở xong rồi, Hán vương sẽ nhớ lại việc cũ nghi cho ngài là kẻ mưu tâm bắt bí để định bá đồ vương, thế nào cũng tìm mưu trừ ngài đi để khỏi lo hậu quả. Chừng ấy chẳng những vương vị của ngài bị mất, mà tấm thân của ngài cũng khó bảo tồn được . Ðó là một tai vạ, xin ngài xét lại.
Hàn Tín hỏi :
- Theo ý Tiên sinh thì nên thế nào ?
Khoái Kiệt nói :
- Không nên diệt Sở, ngài nên chiếm cứ đất Tề, chia thiên hạ làm ba, giữ lấy thế chân vạc thì địa vị ngài mới vững.
Hàn Tín nói :
- Trương Lương thân hành đến triệu tôi. Tôi đã nhận lời, nếu không đi thì trái mệnh vua, bội ân, phản phúc. Lời,nói của Tiên sinh cũng có lý, song lòng Tín này không thể ăn cơm đá bát được.
Khoái Kiệt nói :
- Bây giờ ngài không nghe lời tôi, tất có ngày hối hận.
Hàn Tín bỏ đứng dậy, khoác áo vào nhà trong, rồi sai người đưa Khoái Kiệt ra.
Khoái Kiệt lại vẫn giả cách điên rồ đi lang thang như cũ, và làm một bài ca, hát nghêu ngao ở chợ rằng :
Hán vương nguy khốn, không về cứu
Chia đất phong vương, mới ra quân
Tuy người mưu trí
Nhưng việc không thông
Gây lấy tội
Họa Vào thân
Vạc dầu Lịch Sinh còn đó
Thời gian có xóa được không
Sở chưa diệt thân ông còn
Sỡ bị mất, thân ông diệt
Trong cơ mưu ai biết được lời ta
Sao bằng giữ nước Tề
Thiên hạ chia làm ba
Ngồi cao trông thế sự
Ngao cò tranh lẫn nhau
Ngư ông thu cả cặp
Ngồi không mà thành công
Nay bỏ phí nghiệp lớn
Nhảy vào lò lửa hồng
Lời ta lời sắt đá
Không nghe khờ dại lạ !
Thiên hạ khinh ta điên
Nhưng ta thật khôn quá
Kẻ điên chẳng nghe lời
Ta lo tránh tội vạ
Lòng vũ trụ thênh thang
Núi non đầy hoa lá
Khoái Kiệt hát nghêu ngao mãi ở chợ. Quân sĩ thấy vậy vào báo với Hàn Tín.
Hàn Tín nói :
- Ôi ! Chẳng qua là những lời đã nói với ta hôm nọ còn nghe làm gì.
Bèn phát hiệu khởi binh, kéo về Thành Cao, vào tạ ơn Hán vương về việc phong đất, rối đóng trại ngoài thành để thao luyện quân sĩ.
Chẳng bao lâu, Trương Lương cũng về đến, vào yết kiến Hán vương, thuật lại mọi việc.
Hán vương khen ngợi, nói :
- Nếu không nhờ Tiên sinh đi chuyến này thì ba tướng ấy đâu có hăng hái giúp ta.
Trương Lương nói :
- Ðó không phải là tài năng của tôi, mà chính là lòng nhân đức của Ðại vương, khiến cho lòng người không nỡ phản phúc. Ðại vương đã thắng thiên hạ bằng đạo đức vậy
Cách mấy ngày sau, Anh Bố và Bành Việt lục tục kéo quân đến, vào triều kiến và tạ ơn Hán vương.
Hán vương dùng lời ngon ngọt vỗ về, và bảo hai người tùy tiện an dinh hạ trại, dưới quyền quản lãnh của Hàn Tín.
Bấy giờ, các trấn chư hầu cũng đều hứa hẹn đến họp quân từ Thành Cao đến Huỳnh Dương một dải đường dài mấy trăm dặm đều là quân Hán.
Hàn Tín kiểm điểm quân mã, ghi nhận như sau :
Quân Yên vương 15 vạn, quân Anh Bố 5 vạn, quân Bành Việt 5 vạn, quân nước Ngụy 20 vạn, quân Tiêu Hà 16 vạn, quân Trang Tà 3 vạn, quân Lạc Dương 5 vạn, quân Tam Tần 6 vạn, quân của Hán vương 20 vạn, quân của Hàn Tín 15 vạn. Tổng cộng cả thảy hơn một trăm vạn. Các danh tướng hơn tám trăm viên, các đại thần mưu sĩ hơn năm mươi người.
Hán vương thấy bản danh sách ấy, lòng mừng rỡ, liền khiến Tiêu Hà và Trần Bình đem thóc Ngao Thương tam Tần vận đến, cấp phát cho quân sĩ, kẻ nào nghèo khổ được thêm phần phụ lãnh kẻ nào tật nguyền, chết chóc, được cấp cho gia quyến chi dùng. Ba quân lớn nhỏ nhảy nhót vui mừng. Ðó chính là cái nhân đức mà Hán vương đã biết dùng nó để thu thiên hạ .
Sau khi kiểm điểm quân mã xong, Hán vương triệu Hàn Tín đến để bàn kế.
Hán vương nói :
- Binh lương đã sung túc, chẳng hay Nguyên Soái đã có phương lược nào phá Sở chăng ?
Hàn Tín nói :
- Quân tướng càng đông, việc điều khiển càng phải thận trọng. Hạ thần còn phải cân nhắc các tướng tùy tài mà giao việc, phân công. Lúc nào hạ thần làm việc ấy xong, sẽ tâu với Ðại vương nghênh giá xuất chinh.
Hán vương hỏi :
- Lần này không hạ chiến thư, khích Hạng vương đến đây sao ?
Hàn Tín đáp :
- Hạng vương đã mấy lần kéo quân đến đây, quân lương hao hụt. Nay nghe tin quân chư hầu hội chiến, lẽ nào dám đến. Ðại vương phải thân hành đến Bành Thành đóng quân để giao tranh. Phần tôi, tôi sẽ quản thủ binh mã lập bày thế trận để đối địch.
Hán vương rất hài lòng, chờ đợi Hàn Tín sắp xếp các tướng lãnh.
Bấy giờ có quân tế tác về Bành Thành, báo với Hạng vương :
- Hán vương họp quân chư hầu, gồm trăm vạn, đóng từ Thành Cao đến Huỳnh Dương dài hơn trăm dặm, đêm ngày lửa đốt rực trời, lương thực từ Ngao Thương và Trần Lưu chở đến không lúc nào dứt.
Hạng vương nghe báo thất kinh, hồi tưởng lại lời khuyên của Phạm Tăng trước kia bảo phải giết Lưu Bang để sau này khỏi mang họa. Lời ấy đến nay Hạng vương mới thấy là quan trọng.
Liền đòi bọn Hạng Bá, Quý Bố, Chung Ly Muội và Chu Lan vào hội diện.
Hạng vương nói :
- Hán vương họp chư hầu hơn trăm vạn, còn quân ta chỉ có ba mươi vạn, quân mã các nơi chưa đến, biết cách nào đối địch ?
Các tướng nói :
- Giang Ðông là nơi Ðại vương khởi binh, lòng người lâu nay vẫn kính mến, vậy phải sai người đến miệt Cối Kê tuyển chọn một số binh mã. Còn Chu Ân trấn thủ nơi đó lâu nay, đã mấy lần đòi đến mà hắn không bệ kiến nay nên bắt hắn phải đoái công chuộc tội, thống lĩnh binh mã bản bộ đến đây hội chiến với Hán .
Bá vương nói :
- Chu Ân, lâu nay ở Thư Lục, nghe nói cùng Anh Bố tương đắc lắm, nay Anh Bố đã hàng Hán thì tin Chu Ân sao được . Chi bằng lừa hắn đến đây, rồi giết đi để trừ họa.
Hạng Bá nói :
- Lời Ðại vương luận rất đúng.
Bá vương liền sai quan Thiên Hộ là Lý Ninh đem hai đạo hịch văn đi gọi Chu Ân và đi lấy quân Ngô, lại dặn phải mau mau trở về.
Lý Ninh đến Thư Lục, vào yết kiến Chu Ân trao tờ hịch của Bá vương.
Chu Ân mở ra đọc. Hịch như sau :
" Lâu nay nhà ngươi trấn giữ ở Thư Lục , quân binh được an toàn, khỏi phải vất vả cực nhọc. Nay quân Hán cùng Sở hội nên, thế trận rất lớn, ta sai Lý Ninh đến đòi ngươi, dẫn quân bản bộ đến Bành Thành để giúp sức đánh Hán. Nhà ngươi trước đây đã nhiều lần bê tha, nay chớ noi gương cũ mà trọng tội "
Chu Ân xem hịch, lòng không vui, thầm nghĩ :
- Bá vương lực yếu, thế cô, lẽ ra phải dùng đạo đức chinh phục nhân tâm, lại cứ mãi cái thói dùng uy vũ hăm dọa . Nếu ta đem quân đến Bành Thành không khỏi mất mạng. Chi bằng nhân dịp này chiếm lấy Thư Lục, ngồi xem Hán, Sở tranh hùng. Ðợi cho Hán diệt Sở rồi, ta sẽ dựa vào Anh Bố hàng Hán, ắt công hầu chẳng mất.
Nghĩ rồi nói với Lý Ninh :
- Ðất Thư Lục có nhiều giặc cướp, tôi trấn nơi đây hàng ngày phải đi đánh dẹp khắp nơi, nay bỏ ra đi không tiện. Xin ngài trở về tâu lại với Bá vương, lúc nào tôi dẹp giặc cướp xong sẽ đem quân hội chiến.
Lý Ninh nói :
- Việc có khi gấp có khi hưỡn. Giặc cướp nơi Thư mục là chuyện nhỏ, còn việc Sở hưng binh chống Hán là việc lớn, và rất nguy cấp. Tướng quân không nên lấy việc nhỏ mà làm hư chuyện lớn.
Chu Ân nói :
- Tôi có nhiệm vụ trấn thủ mảnh đất này chứ không có nhiệm vụ đi đánh Hán vương. Nhiệm vụ của tôi, tôi phải làm tròn trước đã. Vả lại, tôi muốn dùng mảnh đất này dưỡng lão, không thể đi xa được.
Lý Ninh biết Chu Ân đã sinh biến tâm, không nói lời nào nữa, giã từ sang Cối Kê.
Quan Thái thú Cối Kê là Ngô Dan, tiếp được tờ hịch, mở ra xem, biết Bá vương định lấy quân Ngô để cùng Hán quyết chiến liền đòi tả hữu phân bố công việc, truyền xuống các quận huyện tuyển lựa binh mã.
Chỉ trong mấy bửa đã thu thập được tám vạn binh, Ngô Dan liền sai phó tướng là Trịnh Hanh quản lĩnh, cùng Lý Ninh dẫn đến Bành Thành, yết kiến Hạng vương.
Lý Ninh kể lại việc Chu Ân kháng lệnh, không chịu hội binh. Hạng vương tức giận, muốn đem binh giết Chu Ân trước, rồi mới đánh Hán .
Hạng Bá nói :
- Chu Ân chẳng qua là một bệnh ghẻ lở ngoài da, có gì mà ngại. Ðại vương kíp mang binh mà đánh Hán, chớ nên chậm trể.
Hạng vương theo lời Hạng Bá, kiểm điểm binh mã cả thảy được năm mươi vạn, định ngày xuất chinh.
Giữa lúc đó, Hàn Tín 10 sai người thăm dò địa thế để liệu việc đóng quân.
Tất cả các miệt xung quanh Bành Thành đều là những chỗ không dụng võ được, chỉ có vùng Cửu Lý, núi đồi hiểm trở, có thể dùng làm chiến trường được, vì vậy Hàn Tín sai người đến lấy bản đồ.
Sai nhân đem bản đồ Cửu Lý về trình. Hàn Tín xem xong mừng lắm, gọi Lý Tả Xa đến nói :
- Núi Cửu Lý thật ưu thế. Phía tả có gò đống, phía hữu có núi đầm, trước mặt có chiến ứng, phía sau có ẩn phục, làm một chiến trường rất tốt. Song không biết cách nào để lừa Hạng vương vào đó . Tiên sinh có kế chi chăng ?
Tả Xa nói :
- Hạng vương lừa rất dễ. Tuy nhiên, quần thần không để Hạng vương bị lừa như vậy đâu . Nếu họ đào hào đắp luỹ cố thủ không ra đánh, quân ta đông, tổn phí nhiều, không thế nào tập trung lâu được. Họ đợi lúc quân ta thiếu thốn, kéo quân ra phản công tất quân ta phải thua.
Hàn Tín bấm trán suy nghĩ một lúc rồi hỏi :
- Tiên sinh có kế gì khiến cho Hạng vương kéo binh đến đánh chăng ?
Tả Xa nói :
- Nay phải có người trá hàng, đến đó bày mưu cho Hạng vương, đem cái lợi trước mắt mà nhử, may ra Hạng vương vì nông cạn, sa vào cái mưu của Nguyên Soái.
Hàn Tín mừng rỡ nói :
- Người đi trá hàng phải là Tiên binh mới mong thành công. Vậy Tiên sinh có vui lòng giúp đỡ chăng ?
Tả Xa nói :
- Bấy lâu hầu hạ dưới trướng mang ơn tri ngộ. Nay dẫu khổ cực đâu dám chối từ. Thế thì ngay lúc tôi ra đi, Nguyên Soái phải đem quan bố trận mới được.
Hàn Tín nhận lời, Tả Xa liền giả biệt, đem theo những binh mã cũ của nước Triệu, tìm đường tắt thẳng đến Bành Thành.
Ðến nơi, Tả Xa nói với bọn quân canh :
- Tôi là Quảng Vũ Quân nước Triệu cũ, tên Lý Tả Xa, muốn vào yết kiến lão Ðại vương.
Quân canh vào báo với Hạng Bá.
Hạng Bá nghĩ thầm :
- Lý Tả Xa là kẻ mưu sĩ của nước Triệu trước kia, nay đến tương kiến chắc có điều gì quan trọng . Nghĩ rồi sai tả hữu mời Tả Xa vào.
Hai bên thi lễ xong, Hạng Bá hỏi :
- Lâu nay nghe ông ở bên Tề làm mạc khách của Hàn Tín, chẳng hay có việc gì lại hạ cố đến đây ?
Tả Xa đáp :
- Triệu vương không nghe lời tôi, sai Trảm Dư đem địch với Hàn Tín, nên bị Hàn Tín dùng trận bối thủy chém chết. Tôi không có chỗ nương thân, đành phải ở với Hàn Tín làm mưu sĩ, chẳng ngờ, nay Hàn Tín được Hán vương phong chức Tề vương, ngông nghênh, hợm hĩnh, ỷ mình tài trí, không kể đến ai. Tôi buồn lòng bỏ đi, đến đây xin tình nguyện nương thân dưới cờ. Tôi tuy bất tài song xin lấy cái chết để rửa lòng uất hận. Tôi liệu mưu kế Hàn Tín không qua nổi mắt tôi.
Hạng Bá nói :
- Trong lúc hai nước giao tranh, những mưu mô dối gạt rất nhiều, Tiên sinh sang đây biết đâu cũng để trá hàng, dò xem quân tình của Sở, tôi sao tin được ?
Tả Xa nói :
- Ngài lầm rồi ! Tôi chẳng qua là một kẻ mưu sĩ, biết gì đến việc quân binh. Vả lại, nếu ngài dùng tôi, tôi sẽ đem mưu kế ra bàn, nghe hay không là tùy ở ngài, tôi có quyền gì bắt ngài phải theo. Còn như việc dò xét quân cơ, ngày nào Hàn Tín chẳng sai người theo dõi, hà tất tôi phải sang đây trá hàng để làm cái chuyện đó. Tôi chỉ tiếc một điều là tôi xét lầm độ lượng của ngài. Ðường đi đã lỡ, tấm thân lạc lõng bơ vơ thà chết cho an thân.
Nói xong, rút thanh kiếm đeo bên mình, toan tự vận.
Hạng Bá vội đứng dạy ôm lấy Tả Xa, tự nhận lổi mình, và nói :
- Trong lúc hai nước giao tranh, Tiên sinh từ dinh Hán sang đây, tài nào tôi không nghi ngờ. Tiên sinh chớ có trách.
Liền mời Tả Xa lên ngôi, đặt tiệc khoản đãi, và lưu lại ở đó ngủ một đêm.
Ngày hôm sau, Hạng Bá vào yết kiến Bá vương, kể việc Tả Xa đến đầu và xin giúp mưu lược chống với quân Hán.
Bá vương nói :
- Ta đang lúc thiếu người mưu sĩ, nay được Tả Xa về hàng thì còn gì may mắn hơn.
Liền cho Tả Xa vào triều kiến và hỏi :
- Ta vốn nghe tiếng Quảng Vũ Quân, lòng mong được hội kiến, nay nhà ngươi đến đây thực là may lắm.
Tả Xa nói :
- Tôi ở nước Triệu, nhưng Triệu vương không biết dùng, phải sang làm mạc khách với Hàn Tín. Hàn Tín cũng lại không biết dùng, nên bơ vơ chiếc thân bốn bể.
Nay đến đây được Ðại vương trọng dụng, chẳng khác nào con gặp cha mẹ, tôi nguyện đem hết tâm sức dẫu chết
cũng chẳng màng.
Bá vương nói :
- Nhà ngươi đã thực tâm theo ta, vậy sớm tối phải chầu bên cạnh để cùng nhau bàn bạc.
Từ đó, Bá vương lưu Tả Xa làm mưu sĩ. Lại thấy Tả Xa nói năng lưu loát, khí phách hơn người, lòng không chút gì ngờ vực.
Trong thời gian ấy, Hán vương thấy đóng quân lâu ngày mà chưa xuất trận, nên triệu Hàn Tín đến hỏi :
- Ðại binh đóng đã lâu, tốn kém quá nhiều, ta muốn ra quân cùng Sở giao tranh, Nguyên Soái có ý chi chăng ?
Hàn Tín nói :
- Khi tôi phá Triệu có chiêu tập được hai người rất dũng cảm, bấy lâu, sai dùng rất đắc lực. Nay nếu sai làm tiên phong chắc nên việc.
Hán vương nhận lời, tnlyền cho hai người ấy vào yết kiến.
Hai người bước vào, Hán vương thấy hai trang sức vóc to lớn, diện mạo đường đường, liền hỏi họ tên quê quán.
Hai tướng ấy một người họ Khổng tên Hy, một người họ Trần tên Hạ, từ lúc nhỏ chỉ theo nghề cung kiếm, nhân lúc nhà Tần loạn lạc ẩn náu nơi Ðăng Vân, núi Thái Sơn, sau nghe Hàn Tín chiêu nạp hiền sĩ tìm đến hầu hạ dưới trướng.
Hán vương mừng rỡ, phong Khổng Hy làm Liên Hầu, Trần Hạ làm Hạ Hầu, sai xuất binh ba vạn quân đi tiên phong gặp núi mở đường, gặp sông bắc cầu.
Hai tướng dập đầu lạy tạ, lãnh binh đi trước. Hàn Tín cũng thống hnh đại binh kéo theo sau ra khỏi Thành Cao. Người ngựa nối liền nhau mấy trăm dặm đường, quân kỳ phất phới, gươm giáo sáng lòa.
Dọc đường, bá tánh vẫn không bị quân binh làm bận rộn chút nào. Thật xứng đáng là một đoàn quân vì nghĩa.
Nàng ngu Cơ viết thư khuyên Hạng Vũ
Núi Cửu Lý quân phục vây Sở vương
Mùa thu, năm thứ năm nhà Ðại Hán, Hán vương đem đại binh ra khỏi Thành Cao, Hàn Tín thống lĩnh ba quân tấn phát.
Quân Hán kéo đến chân núi Cửu Lý, Hán vương sai thiết lập dinh trại, rồi khiến người đến Bành Thành dò xét địch quân.
Hàn Tín lập một cái lầu cao, treo một tấm biển trên đề một bài thơ :
Sở diệt, Lưu hưng
Ý trời đã định
Một trận tranh phong
Hạng vương mất mạng
Quân thám thính trông thấy, trở về báo với Hạng vương và có chép lại bài thơ đệ trình cho Hạng vương xem .
Hạng vương nổi giận, xé tan bài thơ, hét lớn :
- Nếu không giết được thằng luồn khố quyết không kéo quân về.
Nói xong, truyền tướng sĩ ngay chiều hôm ấy khởi binh.
Quý Bố và Chu Lan đồng can :
- Ðó là kế của Hàn Tín khiêu khích để dụ quân ta.
Nếu khởi binh tất trúng kế Hàn Tín.
Hạng vương Trói :
- Ta suốt đời dọc ngang thiên hạ, chưa chịu nhục bao giờ. Nay Hàn Tín dám nhục mạ ta như thế mà ta cứ đóng quân nơi đây, còn mặt mũi nào trông thiên hạ ?
Chu Lan nói :
- Binh Hán thế rất mạnh, lại thêm có Hàn Tín rất nhiều quỉ kế, Ðại vương chớ nên khinh địch . Cứ như ngu ý Ðại vương chỉ nên đào hào, đắp lũy cố thủ. Ðợi quân địch đóng lâu ngày, lương thực mỏi mòn, quân cơ trể biếng, chừng ấy ta sẽ kéo đến đánh. Nếu Ðại vương nóng giận ắt hẳn hỏng việc lớn.
Hạng vương trầm ngâm không quyết, khoác áo trở về cung, mặt mày buồn bã.
Nàng Ngu Cơ ra đón, thấy vẻ mặt Hạng vương không vui, liền hỏi :
- Thiếp có nghe nói quân Hán kéo đến gần lắm, chẳng hay Ðại vương định chống cự bằng cách nào ?
Hạng vương đem lời nói của Chu Lan thuật lại.
Ngu Cơ nói :
- Lời của Chu Lan nói rất phải. Nếu Ðại vương nghe theo mưu ấy, xã tắc sẽ bền vững, bằng không khó lòng thắng được quân Hán, mà Bành Thành cũng không giữ nổi.
Hạng vương nói :
- Thôi, để sáng mai ta sẽ cùng quần thần bàn tính lại
Ngày hôm sau, Hạng vương triệu tập quần thần đến nói :
- Chu Lan khuyên ta đừng nên giao chiến, các ngươi thấy lời ấy như thế nào ?
Lý Tả Xa nói :
- Nếu Ðại vương không cử binh giao chiến tất quân Hán cho là Sở ta yếu thế, kéo binh đến đánh Bành Thành.
Bành Thành mất, Ðại vương còn biết chạy đi đâu ? Cái kế ngày nay phải tìm địch mà đánh để địch khỏi tính đến đánh nơi cơ sở chính yếu của ta. Nếu thắng, Ðại vương tạo được cơ hội, bằng bại, sẽ trở về thủ Bành Thành, cũng chẳng muộn.
Chu Lan nói :
- Lời luận ấy rất nông cạn. Tôi thiết tưởng quân Sở nay đã ít mà kéo đi xa, lực lượng hao mòn, rủi bị thua, ba quân thất đởm, còn tinh thần nào giữ thành.
Tả Xa nói :
- Chính ta cố thủ, không dám xuất chinh mới là làm cho ba quân nhụt chí, và làm cho thiên hạ chê cười quân ta sợ quân Hán.
Hạng vương nói :
- Lời Tả Xa luận rất phải.
Liền truyền lệnh khởi binh, nhắm núi Cửu Lý tấn phát.
Vừa ra khỏi thành, chợt có trận gió thổi đến rất mạnh, làm gãy cây đại kỳ. Ba quân đều giật mình, kinh sợ Con ngựa Ô truy của Hạng vương, đến dưới lầu bỗng hét lên mấy tiếng.
Chu Lan, Hạng Bá thấy vậy, bàn với nhau :
- Cờ gãy, ngựa hét không phải là điềm tốt, chúng ta phải cố can vua đừng tiến tới.
Hạng vương vừa đến Tây Quan, thấy Hạng Bá, Chu Lan cùng các tướng đình binh, quỳ xuống đất.
Hạng vương hỏi :
- Việc gì thế ?
Hạng Bá tâu :
- Ðại vương vừa ra khỏi thành, đại kỳ bị gãy, ngựa cỡi hét vang, đó là diều tối ky trong việc hành quân. Ðại vương nên hoãn lại, cho người dò xét địch tình, rồi sẽ lựa ngày khác xuất phát.
Hạng vương nói :
- Xưa vua Trụ mất nước vì ngày giáp tý, nhưng vua Vũ được nước cũng vì ngày giáp tý . Cờ gãy, ngựa hét chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên, lẽ đâu đại binh kéo đi muôn dân đều biết, mà lại kéo về.
Nói xong, giục binh mã tiến đi. Vừa lúc đó có tin Hoàng hậu sai người đưa thư đến.
Hạng vương cười lớn nói :
- Ngự thê lại đưa thư nói gì đây ?
Liền bóc thư ra xem, thì thấy chính những dòng chữ của Ngu Cơ đã viết như sau :
" Vua Văn vương nghe lời can của bà phi hậu làm nên bậc thánh. Vua Ðại Vũ đọc bài trâm của La Bồ Sơn mà dấy nghĩa. Nói chung các bậc vương xưa dựng nên nghiệp lớn, cũng nhờ nghe lời can ngăn của mọi người. Thiếp tuy phận đàn bà, kiến thức nông cạn, song nghe Hàn Tín mưu gian kếquỉ, Ðại vương cần phải thận trọng lắm mới được. Lời nói của Chu Lan đúng là lời trung thành, sáng suốt, Ðại vương chớ nên bỏ qua. Hơn nữa , chuyến đi này gió lớn gãy cờ, ngựa truy gầm thét, đó là điều bải thương. Vậy Ðại vương dừng binh xét sửa, tìm kế khác giao tranh, tránh được cái bất lợi ngày nay. Ðược vậy, thiếp xin đội ơn muôn thuở. "
Hạng vương xem thư xong có ý dùng dằng, Tả Xa liền bước tới nói :
- Tôi vừa có người nhà ở Bái Quận đến đây, nói rằng Hán vương dẫn một toán quân về Thành Cao, Hàn Tín cũng có ý đem quân trở về. Tôi nghĩ đó là vì quân Hán nhiều quá, lương không đủ dùng, sợ đại binh của Ðại vương kéo đến, khó bề chống chọi . Binh pháp có nói : " Binh đã, tướng lụt " huống hồ lại thiếu lương thì làm sao đóng quân lâu được. Nếu Ðại vương thừa dịp này tấn binh, thế nào cũng trọn thắng.
Hạng vương nghe lời nói của Tả Xa, quyết ý tấn binh. Các quan không ai còn dám ngăn trở nữa.
Chẳng bao lâu, quân Sở kéo đến núi Cửu Lý, cách năm mươi dặm hạ trại. Hạng vương sai người đến dinh Hán thám thính.
Quân thám thính về báo :
- Ðại binh của Hán vương đóng ở gò Thê Phương, suốt ngày đàn hát rượu chè, còn đại binh của Hàn Tín đóng nơi núi Cửu Lý, suốt ngày thao luyện, không có ý rút về . Dinh trại san sát không chỗ nào dứt.
Hạng vương ngơ ngác, cho đòi Tả Xa đến hỏi, nhưng Tả Xa chẳng thấy đâu nữa cả.
Quân tuần vào báo :
- Tả Xa đã đem bọn tùy tùng đi trốn, chạy về hướng Bắc, chúng tôi đuổi theo nhưng không kịp.
Hạng vương nổi giận hét :
- Tả Xa quả là người của Hàn Tín sai đến trá hàng để dò xét quân tình.
Liền đòi Hạng Bá đến trách :
- Nhà ngươi không rõ lai lịch của Tả Xa, cớ sao lại tiến cử vào ta. Ta không có thì giờ xét kỹ, tin lời xảo ngôn của nó, đến nỗi lầm lỡ việc lớn.
Hạng Bá nói :
- Tôi vẫn nghe danh của Tả Xa tưởng hắn đầu hàng thật, không ngờ bị mắc gian kế. Thực tội của tôi rất trọng.
Chu Lan tâu :
- Quan Tư Mã (Hạng Bá) chỉ vì lòng ngay, không rõ được gian ý của địch. Nay đại binh đã đến đây, chỉ nên bàn cái kế xuất chiến, không nên hối lại việc trước mà bê trễ quân cơ .
Hạng vương theo lời, miễn tội cho Hạng Bá và trọng thưởng cho bọn Chu Lan, rồi trở vào trướng, thăm Ngu Cơ và nói :
- Tả Xa trá hàng, lờn quân ta đến đây. Ta hối hận vì không nghe lời ngự thê !
Ngu Cơ nói :
- Lời nói của thiếp không nên nhắc đến nữa, chỉ mong Ðại vương gắng sức, xuất chinh, yêu thương tướng sĩ, khiến họ tận tâm giúp sức, xây dựng cơ đồ, sớm đem lại nước nhà thái bình thịnh trị.
Hạng vương nói :
- Lời của ngự thê quả là một kẻ hiền đức, có thể an ủi ta nơi mũi đạn đầu tên.
Ngày hôm sau Bá vương triệu các tướng vào trướng, nói :
- Các ngươi theo ta đến nay trải bao chiến trận, chưa bao giờ bị nhục. Ngày nay, quân Hán thế to, khinh bỉ ta quá lắm. Tuy nhiên phải thận trọng lắm mới được Chung Ly Muội dẫn ba vạn binh đóng ở phía tả, Quý Bố lãnh ba vạn binh đóng ở phía hữu, Hoàn Sở làm tiền bộ, Ngu Tử Kỳ làm hậu ứng. Hễ địch thua chớ đuổi xa , hễ ta thua quay vào cứu viện. Cốt đánh kéo dài thời gian, để cho quân địch thiếu lương phải chạy.
Chư tướng phục lạy nói :
- Sự thầm toán của Ðại vương, chúng tôi không thể theo kịp.
Nhắc lại Hàn Tín từ lúc kéo quân đến đóng nơi núi Cửu Lý, ngày đêm thao luyện, phân bố các nẻo, chỗ nào quan hệ đều có phục binh, mỗi tướng đều lãnh một trách nhiệm, tùy cơ ứng dụng.
Chẳng bao lâu, lại có tin Lý Tả Xa trở về.
Hàn Tín vội mời vào dinh, Tả Xa kể hết mọi việc mình đã làm, và các việc hư thực nơi dinh Sở.
Hàn Tín nói :
- Nếu không nhờ Tiên sinh đi chuyến này, Hạng vương chẳng dám đến đây. Nay Hạng vương đã đến đây rồi, phải làm thế nào gạt Hạng vương vào trận địa. Tiên sinh có kế gì chăng ?
Tả Xa nói :
- Việc nay chắc Nguyên Soái đã có diệu kế rồi, chăng qua hỏi thừ tôi thế thỏi. Tôi cũng có một kế, nhưng sợ không hợp với ý Nguyên Soái chăng ?
Hàn Tín nói :
- Hạng vương đã mấy lần bị tôi dùng kế, nay khó mà gạt được. Nếu lúc giao chiến, giả thua bỏ chạy, Hạng vương sẽ không bao giờ dám theo nữa.
Tả Xa nói :
~ Ðúng vậy. Song tánh nóng giận của Hạng vương văn không thay đổi. Ðó là nhược điểm của đối phương . Ngày mai thế nào Hạng vương cũng gọi Chúa thượng ra trận, Chúa thượng sẽ dùng lời khích lệ rồi bỏ chạy vào trọng địa. Nếu Hạng vương không đuổi theo, tôi sẽ xông ra cười rất lớn. Hạng vương thấy tôi nghĩ đến chuyện trá hàng vừa rồi tất không thể nhịn được.
Hàn Tín nói :
- Tiên sinh nói rất hợp ý ta. Liền cùng Tả Xa đến lại yết kiến Hán vương, kể rõ lời bàn lúc nãy.
Hán vương nói :
- Nếu muốn ta ra khích Hạng vương thì sai tả hữu bảo vệ cho kỹ càng mới được.
Hàn Tín nói :
- Thế thì nên sai Khổng Hy, Trần Hạ, hai tướng ấy theo phò Ðại vương ắt khỏi lo. Ðại vương nên dụ Hạng vương đến Cai Hạ, tôi phục binh đợi sẵn ở đó.
Vua tôi bàn định xong, Hàn Tín trở về trung quân, truyền các tướng đến lãnh quân lệnh.
Các tướng họp mặt đông đủ , Hàn Tín nói :
- Chúa thượng từ khi ở Bao Trung ra, cùng Hạng vương giao tranh đã năm năm, trải hơn bảy mươi trận chịu muôn cay nghìn đắng, nay họ Hạng lực yếu thế cô được thua chỉ ở trận này, vậy các tướng nên cố sức để tạo thành nghiệp lớn, an hưởng lộc trời, muôn đời bền vững.
Các tương đồng thanh hoan hỉ. Hàn Tín chiếu theo bát quái trận bố trí như sau :
"càn" là trời, sai Ðại tướng Vương Lăng, lãnh mười sáu viên phó tướng, quân bốn vạn, cờ xí sáu mươi bốn lá, mai phục hướng Tây. "khảm" là nước, sai Ðại tướng Lư Quán lãnh mười sáu viên phó tướng, quân bốn vạn, cờ xí sáu mươi bốn lá, mai phục hướng Tây - Bắc.
"Cấn" là nước sai Ðại tướng Tào Tham, cũng lãnh một số phó tướng và quân mã như trên, mai phục hướng Tây - Nam
"Chấn" là sấm, sai Ðại tướng Anh Bố, cũng lãnh một số phó tướng và binh mã như trên, mai phục ở phương Ðông
"Tốn" là da, sai Ðại tướng Bành Việt, cũng lãnh một số phó tướng và binh mã như trên, mai phục hướng Ðông - Nam.
"ly" là lửa, sai Ðại tướng Chu Bột, quản lãnh số quân tướng như trên, mai phục hướng Ðông - Bắc. "khôn" là đất, sai Trương Nlũ, lãnh một số quân, tưóng như trên, mai phục phía chính Nam.
"Ðoài" là đầm sai Trang Tà, lãnh một số quân tướng như trên, mai phục hướng lãnh Bắc.
Trước bày bát quái xong, sau lại bày ngũ hành, tả phù, hữu bật đều án theo phương hướng .
Hạ Hầu Anh, lãnh binh mười vạn, theo Hán vương làm quân cứu ứng.
Trương Lương, lãnh bình mười vạn, ở phía tả làm quân phòng vệ.
Trần Bình, lãnh quân mười vạn, ở phía hữu làm quân cứu ứng.
Khổng Ly. Trần Hạ lãnh mười vạn binh, làm tả chi hữu dực của Hán vương.
Lã Mã Thông, La Huống lãnh hai vạn binh, điều khiến mười hai viên tướng mạnh, làm mười hai phương . Sài Võ lãnh hai vạn binh, phân thành hai mươi tám vì sao, án theo nhị thập bát tú.
Nhâm Ngao lãnh hai vạn binh coi giữ đại trại của Hán vương.
Lưu Trạch dẫn ba nghìn binh, đóng nơi núi Kê Minh, trương cờ xí, giả làm thanh thế.
Lưu Giao lãnh năm ngàn quân đi tuần tiễu ở hậu quân.
Bạc Chiêu, Tôn Nhã Hoài, Cao Khởi, Trương Thương, Thích Tư, mỗi người đều lãnh hai nghìn quân do con đường nhỏ đến phía tả Từ Châu, đợi quân Sở bỏ thành kéo ra, thì đoạt thành, bắt gia quyến của Hạng vương.
Các tướng đều tuân lệnh, bày thành trận thế.
Bỗng có một người bước ra nói lớn :
- Nguyên Soái khinh tôi là kẻ vô dụng sao ?
Hàn Tín nghe tiếng biết là Phàn Khoái, liền nói :
- Không phải tôi quên tướng quân đâu ! Tôi chưa phân công cho tướng quân là muốn giao cho tướng quân một việc lớn. Song tôi lại sợ, nếu tướng quân không thận trọng thì trăm vạn hùng binh phải tan rã hết.
Phàn Khoái nói :
- Nguyên Soái có việc gì sai bảo xin cứ an tâm, tôi chẳng bao giờ dám thất trách.
Hàn Tín nói :
- Trận thế bố trí đã xong chỉ còn việc điều khiển. Vậy tướng quân lãnh ba vạn quân, lên núi Cửu Lý, đóng quân nơi chỗ cao dùng lá đại kỳ làm hiệu cho các tướng trông theo. Hễ thấy Hạng vương chạy về hướng nào thì phất cờ chạy về phía ấy để vận chuyển ba quân.
Phàn Khoái nói :
- Ban ngày sáng thì trông hiệu kỳ được, còn ban đêm phải làm thế nào ?
Hàn Tín đáp :
- Ðêm thì dùng đèn lồng lớn, dựng ở đỉnh núi, xây theo bốn mặt.
Phàn Khoái tuân lệnh, âm thầm kéo quân tấn phát.
Bấy giờ nơi dinh Sở, Hạng vương cũng đòi bọn Quý Bố, Chung Ly Muội, Chu Lan vào phân phối binh mã.
Hạng vương nói :
- Tại sao người dò thám quân Hán, quả quyết thế quân Hán lớn lắm, còn ta chỉ có năm chục vạn quân. Vậy ta lãnh hai chục vạn đi trung quân, còn ba chục vạn giao các tướng chia làm sáu đạo quản lãnh. Chung Ly Muội và Chu Lan phải theo ta hộ vệ.
Phân phối xong, Hạng vương lên ngựa, kéo quân ra trước trận.
Một trận thư hùng, Hạng vương lầm chước quỉ
Ba quân tan tác, Tử Phòng hiến khúc tiêu
Hạng vương xuất trận, gọi Hán vương ra đấu chiến.
Hán vương cũng mặc giáp trụ, lên ngựa xông ra, tả hữu có bọn Khổng Hy, Trần Hạ hộ vệ.
Hạng vương thấy mặt Hán vương liền hét lớn :
- Lưu Bang, ngươi đã thất hứa ở Cố Lăng, ta tha cho khỏi chết, sao lại còn dám bội ước cùng ta giao tranh ?
Bấy lâu nay, ta cùng ngươi chưa hề thử sức, chẳng biết võ nghệ của ngươi đến bực nào.
Hán vương nói :
- Việc dùng binh cần ở mưu lược chứ đâu phải ở sức mạnh. Ta xem ngươi như một giống hổ lang, chỉ khoe khoang võ nghệ mà không có chút gì khôn ngoan cả.
Hạng vương giận dữ, vung đao đâm tới, Khổng Hy và Trần Hạ lướt ra đỡ thương ngăn lại, đánh.
Quân sĩ hai bên lui ra năm mươi thước. Hạng vương hét lên một tiếng, đâm Trần Hạ một đao, té nhào xuống đất, Khổng Hy định xông vào cứu, nhưng đã bị một đường thương của Hạng vương chém tới quá gấp. Khổng Hy cúi rạp mình để tránh, ngọn đao chém phớt qua chóp mũ, làm cho mũ Khổng Hy rơi xuống đất.
Khổng Hy thất kinh, phóng ngựa chạy, may nhờ có hai tướng Ngân Hấp và Sài Võ cản Hạng vương lại kịp nên Khổng Hy mới khỏi chết.
Hạng vương tức giận, xông vào đánh Ngân Hấp và Sài Võ .
Trong lúc đang giao tranh, Hạng vương nghe có tiếng gọi tên mình chưởi mắng, liền quay đầu lại, thấy Hán vương đang gò ngựa đứng trên một đồi cao, dương oai, diệu võ.
Hạng vương tức giận, bỏ Ngân Hấp và Sài Võ, giục ngựa rượt theo Hán vương.
Hán vương thấy vậy, vội vã chạy về hướng Ðông Bắc.
Hạng vương xua quân đuổi theo. Ðuổi được năm dặm, thấy quân Hán rải rác đóng dày.
Quý Bố vội ngăn Hạng vương lại nói :
- Hán vương tuy chạy nhưng binh mã vẫn không chịu lui, e rằng Hàn Tín dùng mưu dụ ta, xin Ðại vương chớ vào sâu nội địa của địch.
Hạng vương khen phải, quảy ngựa trở lại.
Bỗng thấy Lý Tả Xa hiện đến trước mặt, cười khanh khách nói lớn :
- Tôi xin chào Ðại vương đó . Lúc tôi còn ở Sở, được Ðại vương hậu đãi, nay đến đền ơn, Ðại vương đầu Hán, tôi sẽ tâu với Hán vương tha cho tội tru lục.
Hạng vương giận dữ, mắng :
- Ðứa thất phu này dám lợi dụng lòng tin của ta, âm mưu lừa gạt. Ta muốn phân thây ngươi ra muôn mảnh cho hả giận. Nay ngươi lại dẫn xác đến đây, chạy đi đâu cho thoát.
Dứt lời, thúc ngựa đuổi theo bắt Tả Xa. Ban đầu, thấy Tả Xa chạy chờn vờn phía trước, nhưng sau đuổi được mười dặm, không thấy Tả Xa đâu nữa, chỉ thấy quân Hán bốn mặt ầm ầm kéo đến bổ vây.
Hạng vương nhờ bọn Quý Bố, Chung Ly Muội hộ tống, cố gắng chống cự, nhưng không làm sao chạy thoát.
Càng đánh, quân Hán càng vây phủ đông hơn, bốn bề mù mịt, tiếng quân la ó vang trời.
Một lúc sau, đạo quân của Hàn Tín lại kéo đến nữa, tinh kỳ phất phới gươm giáo sáng lòa, như một đám rừng gươm .
Hạng vương chống đỡ một lúc thấy quanh mình quân sĩ chết rụi hết, chỉ còn mấy nghìn ky binh, lớp bị thương, lớp mất binh khí , hớt hải theo sau không còn tinh thần mà kháng cự nữa, Hạng vưong nói với Chung Ly Muội và Quý Bố :
- Thôi, chuyến này ta dã lầm tay Hàn Tín rồi, cơ đồ ắt hưu chỉ.
Ðang cơn rối loạn, bỗng thất hên ngoài có một toán quân Sở đánh vào, thế rất mạnh, khiến cho quân Hán phải vẹt ra hai bên. Cầm đầu toán quân ấy là Chu Lan.
Hạng vương trông thấy Chu Lan mừng rỡ hỏi :
- Nhà ngươi không cứu ứng thì chắc mạng ta chẳng còn.
Chu Lan nói :
- Hàn Tín lập trận trường bát quái, gạt Ðại vương vào trọng địa. Muốn phá trận này phải có đầy đủ binh lực. Nay quân ta quá ít nên tôi thừa cửa sanh đánh vào giải cứu xin Ðại vương hãy theo tôi ra khỏi trận kẻo nguy tính mạng.
Hạng vương liền theo Chu Lan trở ra. Nhờ toán quân của Chu Lan, đốc thúc đánh phá vòng vây thoát ra ngoài trận, về đến dinh Sở thì trời đã tối.
Ngu Tử Kỳ đón vào trại, nàng Ngu Cơ bước ra tiếp rước, và nói :
- Ðại vương thoát khỏi trận này, lòng thiếp không còn gì mừng hơn.
Hạng vương nói :
- Tuy thoát chết, song thế quân Hán quá to, ta không thể đóng đây lâu được, nửa đêm hôm nay kéo về Bành Thành chỉnh đốn quân mã rồi sẽ liệu kế.
Ngu Tử Kỳ nói :
- Tôi vừa nghe tin có một cánh quân Hán đến Bành Thành cướp lấy cung quyến, chẳng biết tin ấy có thực chăng ? Bây giờ Ðại vương muốn về Bành Thành e bất tiện. Nhân lúc binh mã còn hơn hai vạn, ta bỏ Bành Thành, kéo về miệt binh Sở, Hồ Tương đóng quân, chỉnh đốn quân mã, chiêu hiền đãi sĩ, lo kế phục hưng là hơn.
Hạng vương nói :
- Cung quyến ta đều ở Bành Thành, tin ấy chưa xác thực, ta muốn lén về Bành Thành thu thập cung quyến rồi kéo đến đóng nơi Lỗ Quận, tại Sơn Ðông. Nơi đó không xa cách lắm, có thể tiếp tế lương thực được.
Các tướng nói ;
- Ðại vương tính như vậy rất phải.
Hạng vương ra lệnh cho quân sĩ nấu cơm ăn, rồi theo đường nhỏ kéo rốc về Bành Thành.
Ðại quân đi vừa đến Tiêu huyện cách Bành Thành đô năm trăm dặm thì đêm đã tàn. Xa xa phất phới tinh kỳ, và vang lại tiếng hò reo của quân sĩ.
Hạng vương thất kinh hỏi các tướng :
- Tại sao có quân Hán đóng nơi đây. Hay là chư hầu hợp binh với quân Hán ?
Chung Ly Muội nói :
- Các lộ chư hầu đều phản Ðại vương, phò Hán. Cái nguy cơ ấy khó tránh. Quân chư hầu đã đóng nơi đây tức là Bành Thành không còn. Vậy xin Ðại vương cùng chúng tôi thu góp tàn quân chạy xuống miền Giang Ðông, để liệu thế tiến thủ, không nên lưu luyến cung quyến, ở mãi nơi đây mà mang hại.
Chu Lan nói :
- Lời Chung Ly Muội nói rất có lý, xin Ðại vương xem đó là một quốc sách.
Hạng vương tức giận dậm đất nghiến răng nói :
- Ta từ khởi binh đến nay chưa có tướng nào địch nổi cây đao của ta. Nay tuy quân Hán đông. Song tướng Hán là bọn bất tài, lẽ nào lại bỏ trốn để mất thanh danh ?
Các ngươi cứ đi theo ta, xem ta giao chiến với tướng Hán.
Nếu kẻ nào dám đánh với ta ba mươi hiệp ta sẽ tự sát, không thèm sống trên đời này nữa .
Các tướng thấy Hạng vương nóng giận, không ai dám can ngăn, vội điều động quân mã theo Hạng vương trợ chiến .
Khi gần đến Bành Thành, có tên tiểu hiệu chạy đến báo :
- Bành Thành đã về tay quân Hán rồi, trên thành cắm toàn cờ Hán.
Hạng vương nghe nói bước xuống ngựa, sửa lại mũ áo rồi hét lên một tiếng như sấm nhảy thóc lên lưng Ô truy quảy ngựa thẳng đường chạy về lúa núi Cửu Lý.
Quân Hán đang đóng nơi núi Cửu Lý thình lình thấy Hạng vương vùn vụt kéo quân đến, vội vã phi báo.
Phàn Khoái hay tin, tức thì điều dộng cây đại kỳ quân Hán bốn mặt bổ vây. Các đạo binh trấn tám hướng đánh ập vào một lượt.
Hạng vương không hề sợ hãi, tay cầm đại đao vung tít tới lui hùng hổ, chẳng khác nào một mãnh thú vùng vẫy giữa rừng xanh.
Tướng Hán tuy đông, nhưng không có ai dám đến tan. Lớp này thua lớp khác lại ứng chiến.
Trong khoảng một ngày, Hạng vương đánh lui hơn 60 viên tướng Hán, mà ngọn đao không hề nhụt, ngựa không hề lui.
Hạng vương quay lại hỏi các tướng Sở :
- Sức ta địch vạn năng . Các ngươi có thấy ta yếu đi tí nào chăng ?
Các tướng nói :
- Ðại vương quả có sức mạnh vạn năng, song giao chiến cả ngày, giờ đây tướng Hán đều lui ra ngoài cả, Ðại vương cũng nên đóng dinh nơi đây để cho Hoàng hậu tạm nghỉ.
Hạng vương theo lời, tạm thời đóng trại giữa trận rồi sai Ngu Tử Kỳ mời Ngu Cơ đến hội kiến.
Hạng vương nói :
- Hôm nay ngự thê bị quân Hán cướp thành, vậy tối không có chỗ an nghỉ, chắc là mệt nhọc lắm.
Ngu Cơ nói :
- Tiện thiếp nhờ thiên uy của Ðại vương bảo vệ, và nhờ các tướng săn sóc, không đến nỗi mệt nhọc lắm. Song thấy trong một ngày, Ðại vương địch hơn sáu mươi viên tướng Hán, vậy cũng nên nghỉ ngơi, an dưỡng mình rồng.
Hạng vương nói :
- Ngày trước ta đi đánh Chương Hàm, chín ngày chưa được một bữa ăn no, thế mà ta còn thắng huống chi nay chỉ có một ngày.
Các tướng nghe nói đều thương xót. Chu Lan bước đên tâu :
- Ðại vương tuy ngày nay được thắng, song quân Hán còn to thế lắm, bốn mặt vây đánh rất gấp, đêm nay nên phòng quân địch đến cướp trại.
Hạng vương nói :
- Lời ấy chính hợp ý ta.
Liền truyền ba quân lớn nhỏ trong đêm phải bớt ngủ, đề phòng cẩn thận.
Ðoạn sai đem rượu thịt đến để cùng Ngu Cơ giải trí .
Giữa lúc đó, nơi dinh Hán, Hàn Tín thấy các tướng hợp sức vẫn không địch nổi Hạng vương lòng lo lắng, gọi Lý Tả Xa đến nói :
- Cái sức mạnh vạn năng của Hạng vương dầu hàng trăm dũng tướng cũng không thể địch nổi. Nay tôi định sẽ cùng Hạng vương giao chiến nữa, cứ vây riệt Hạng vương giữa vòng vây, trong vài ngày hết lương, thế nào Hạng vương cũng đầu hàng. Người dẫu mạnh đến đâu mà đói khát cũng phải yếu đuối .
Lý Tả Xa nói :
- Ý Nguyên soái cũng phải, song tôi chỉ sợ một điều, lúc hết lương, trong thế nguy, Hạng vương lại ra sức mở vòng vây, tướng lĩnh bên ta có ai dám địch. Hiện nay dưới tay Hạng vương còn có bọn Quý Bố, Chung Ly Muội, Chu Lan trung thành phò tá. Nay phải làm sao bọn đó cũng như quân sĩ bỏ rơi Hạng vương thì mới có cơ hội bắt Hạng vương được.
Hàn Tín nói :
- Mưu của Tiên sinh rất cao, song tìm cách làm cho quân tưóng bỏ rơi Hạng vương không phải dễ. Ðiều này thai nhờ mưu Trương Tử Phòng mới được.
Liền sai Lục Giả đến mời Trương Lương.
Một lát sau, Trương Lương đến và cùng Hàn Tín tương kiến.
Hàn Tín nói :
- Luôn mấy ngày đánh với Hạng vương, các tướng Hán không ai địch nổi. Lại thêm bọn Quý Bố, Chu Lan, Chung Ly Muội một lòng giúp đỡ. Nếu để Hạng vương thoát ra được, trốn về Giang Ðông lo việc phục hưng thì chiến sự kéo dài biết bao giờ yên. Trước tình hình nan giải ấy, chúng tui phải mời Tiên sinh đến để cho chúng tôi một lời chỉ giáo.
Trương Lương nói :
- Việc đó chẳng khó gì. Bây giờ cứ làm cho các tướng và quân Sở phân tán, rời bỏ Hạng vương. Hễ Hạng vương bị cô lập ta có thể bắt được dễ dàng.
Hàn Tín nói :
- Chúng tôi cũng nghĩ vậy, song chẳng biết kế nào để làm cho binh tướng Sở ly tán ?
Trương Lương đứng dậy, kéo ghế đến gần Hàn Tín, nói nhỏ :
- Tôi thuở nhỏ qua chơi Hạ Bì, gặp một dị nhân thổi ống tiêu rất giỏi, âm điệu vừa du dương vừa tha thiết.
Nhân lúc giao bôi, tôi học được khúc tiêu ấy. Tiếng tiêu thổi lên có thể làm cho người ta động lòng nhớ quê. Người vui nghe nó càng vui Người buồn nghe nó thì mối buồn càng thắm thía. Nay đương độ thâm thu, hiu hắt gió vàng, cỏ cây trút lá, người xa cách quê hương nghe nó không khỏi động lòng. Tôi sẽ nhân lúc đêm tàn canh vắng vào núi Kê Minh thổi ống tiêu lên, binh tướng Hạng vương không thể nào còn nghĩ đến việc chiến chinh nữa.
Hàn Tín nói :
- Tiên sinh có tài như vậy tưởng không còn gì quý hóa hơn.
Trương Lương từ tạ Hàn Tín, trở về dinh. Ngày hôm sau, Hàn Tín đóng quân lại, không cùng quân Sở giao chiến nữa, bốn bề đặt nhiều chiến xa, tăng thêm giáp sĩ vây phòng rất cẩn mật.
Giữa lúc đó, Hạng vương thấy quân tình yên ổn cũng không ra trận.
Bọn Quý Bố, Hạng Bá vào dinh yết kiến, và tâu :
- Hiện nay quân hết lương, ngựa hết cỏ, người người đều thán oán. Nếu địch quân thừa dịp cho người lẻn vào trong quân buông lời dèm xiểm, tất lòng quân sinh biến. Vậy xin Ðại vương đốc thúc ba quân cùng chúng tôi, cố sức mở vòng vây lánh sang Tương Giang hoặc Giang Ðông, rồi hãy mưu tính kế lâu dài.
Hạng vương nói :
- Quân sĩ hết lương là việc nguy khốn, ý kiến các ngươi rất phải, song chi sợ quân Hán thế mạnh, không thể giải vây được chăng ?
Quý Bố nói :
- Tôi xem tám nghìn tử đệ, lâu nay theo phò Ðại vương, xông pha trăm trận, vẫn một lòng một dạ . Nếu nay vì nguy biến mà mở huyết lộ thoát thân, ai ai cũng hăng hái.
Hạng vương nói :
- Nếu các tướng quân và ba quân đã có lòng hy sinh với ta như thế thì chắc vòng vây quân Hán phải vỡ.
Liền truyền lệnh sáng hôm sau mở vòng vây thoát nạn.
Quân sĩ được lệnh, ai nấy đều hăng hái, lo sửa sang binh khí, lương thực gói theo mình, nhao nhao không ngủ.
Ðêm càng khuya, gió thu càng lạnh lẽo, trăng thu buồn bã nhả ánh sáng màu vàng nhạt, rắc trên ngọn cây cao.
Bỗng từ xa, một giọng tiêu buồn vang đến, kèm theo khúc bi ca nỉ non, réo rắt. Tiếng tiêu như gợi vào lòng người một mối buồn viễn chinh . Quân Sở mặt mày ngơ ngác nhìn nhau, hồi lâu xúm lại thì thầm :
- Bọn chúng ta tòng quân lâu ngày bỏ nhà, xa vợ con, theo Bá vương những tưởng có ngày thanh bình đoàn tụ . Ngờ đâu, binh thế mỗi lúc một tiêu tan. Nếu ở mãi như vầy, không chết giữa trận tiền cũng chẳng có ngày nào hưởng được thú vui đầm ấm của gia đình .
Tiếng thì thầm chuyền đi mãi khắp dinh trại.
Trong lúc đó, giọng tiêu càng réo rắt, càng thê lương, như những tiếng chinh phụ đang mong chồng nỉ non trong canh dài cô quạnh.
Tiếng tiêu đó chính là tiếng tiêu của Trương Lương đã thổi trên núi Kê Minh, khiến cho kẻ có lòng sắt đá đến đâu cũng phải yếu mềm như cành liễu non trước cơn gió lốc .
Tiếng tiêu ấy kèm theo bản bi ca như sau :
Ðêm thu mù mặt trời sương
Có người thiếu phụ quê hương lạnh lùng
Sa trường vó ngựa
Trầy gót binh nhung
Con thơ nheo nhóc mịt mù dặm xa,
Cơ hàn, đau đớn mẹ cha
Canh khuya vò vỏ tuổi già đợi con
Chí trai vạn dặm
Hồ thỉ bốn phương
Nhưng con đi đã lầm đường
Giúp người tàn bạo không thương dân tình
Mơ màng nữa giấc ba sinh
Một đi một nhớ một mình canh thâu
Ðêm ấy vừa tàn canh, quân Sở đứa khóc, đứa buồn mặt mày ủ rũ, ngồi đứng không an.
Chúng bàn nhau rằng :
- Chúng ta nên bỏ trốn khỏi cảnh này là hơn. Nếu quân Hán bắt được, chúng ta nên tỏ thật nỗi tình, xin về quê quán, chắc Hán vương cũng không nỡ giết chúng ta .
Ba quân bàn tán nhau, rồi không nghe lệnh các tướng, cùng nhau bỏ trốn đi hết. Chỉ trong chốc lát, dinh Sỡ trống không.
Các tướng thất kinh, muốn vào tâu với Hạng vương, nhưng thấy Hạng vương đang cùng Ngu Cơ ngủ say trong trướng , không dám vào.
Các tướng bàn nhau :
- Tình thế nguy ngập lắm rồi, nếu quân Hán biết việc này, đổ dồn lại đánh thì chúng ta tất bị bắt. Chi bằng lộn vào đám quân, trốn ra khỏi vòng vây, sau này kiếm kế giúp cho Ðại vương trả thù.
Chung Ly Muội nói :
- Lời các ông nói rất phải.
Rồi đó, các tướng thu góp hành trang bỏ ngựa lại, cùng với quân sĩ lẩn trốn.
Trong số đó có Hạng Bá nghĩ mình ngày trước ở Hồng Môn có cứu Trương Lương, sau lại cùng Hán vương kết nghĩa thông gia , nay đến Trương Lương xin hàng, nếu không được phong Hầu củng không đến nỗi tuyệt giòng họ Sở.
Nghĩ như vậy, Hạng Bá liền đeo gươm, ra khỏi dinh , tìm Trương Lương xin hàng .
Còn Chu Lan và Hoàn Sở bàn với nhau :
- Chúng ta chịu ơn tri ngộ của Bá vương, dù chết cũng không nên bỏ. Bọn kia đều là lũ tham sống sợ chết, lúc bình tranh nhau hưởng lộc, lúc biến rủ nhau bỏ đi.
Chúng ta bây giờ gom góp những tên quân còn lại, giữ vững lấy trung quân, đợi Ðại vương thức dậy, liều chết, thoát nạn. Nếu không may, trời không giúp Sở, Ðại vương ngộ nạn thì chúng ta cũng chết theo cho trọn đạo.
Hai người bàn xong, đi thu góp những tên quân còn sót lại ước tám trăm tên, cố thủ cửa trại.
Chẳng bao lâu, Hạng vương thức dậy, nhìn quanh thấy dinh trại trống không, thất kinh chạy ra ngoài hỏi :
- Quân Hán đã chiếm được trại Sở rồi hay sao mà quân lính mất hết vậy ?
Chu Lan và Hoàn Sở chạy đến, vừa khóc vừa nói :
- Quân ta bị Hàn Tín dùng kế thổi ống tiêu, làm cho lòng quân tan rã, cả đến các tướng cũng bỏ trốn, chỉ còn hai chúng tôi và tám trăm quân ở lại đây hầu hạ Ðại vương. Xin Ðại vương phải đánh gấp phá vòng vây, chậm trễ quân Hán kéo đến không thế thoát được.
Hạng vương nghe nói đôi dòng nước mắt chảy ràn rụa, bước vào trướng thuật lại đầu đuôi câu chuyện với Ngu Cơ.
Nàng Ngu Cơ cũng không cầm được giọt lệ, thở dài nói :
- Trời cố diệt chúng ta chăng ?
Ngu Cơ liều thân nơi Cai Hạ
Hạng vương tự vận bến Ô Giang
Hạng vương thấy Ngu Cơ khóc sướt mướt, cầm tay nói :
- Tướng sĩ nay đâ trốn hết, quân Hán vây đánh rất ngặt. Ta định từ giã nàng, liều mình xông ra trận. Tuy nhiên, lòng lại không nỡ, vì hai ta sống với nhau đã bao năm, chưa từng rời nhau sớm tối, dẫu trong thiên binh vạn mã cũng vẫn có nhau. Nay một phút muốn vĩnh biệt với nàng, lòng ta thấy quyến luyến.
Ngu Cơ khóc nghẹn ngào, và nói :
- Thiếp đội ơn Ðại vương thương tưởng, nguyện khắc cốt ghi lòng. Nay chẳng may trên bước đường ly loạn, dẫu chết cũng khó rời nhau.
Bá vương lau nước mắt, truyền quân bày tiệc rượu ở trung quân để cùng với Ngu Cơ đối ẩm.
Hơi men không sưởi ấm được lòng người trong phút não nề, Hạng vương buồn bã ngâm nấy câu thơ :
Tấm thân lấp biển, vá trời
Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang
Giờ đây mưa gió phủ phàng
Anh hùng mạt lộ giang sơn tiêu điều
Hạng vương ngâm thơ xong, mời Ngu Cơ uống mấy chén rượu.
Ngu Cơ cũng ngâm lên mấy câu thơ buồn như sau :
Cát đằng nương bóng cội cùng
Bấy lâu khắn khít thủy chung một lòng
Tơi bời vì ngọn gió Ðông
Cội tùng xiêu vẹo, cát đằng bơ vơ
Bá vương cùng Ngu Cơ uống rượu ngâm thơ mãi cho đến lúc tàn canh, bên ngoài trời rựng sáng .
Chu Lan và Hoàn Sở từ bên ngoài bước vào giục :
- Trời sắp sáng rồi, xin Ðại vương lo khởi hành .
Hạng vương đứng dậy, từ biệt Ngu Cơ nói :
- Thôi ! Ðã đến lúc tôi phải đi, ngự thê ở lại bảo trọng lấy thân thể.
Ngu Cơ quỳ gối nói :
- Thiếp xin theo Ðại vương, để cùng nhau sinh tử.
Hạng vương nói :
- Trong chốn muôn quân nghìn tướng, phận liễu bồ làm sao chịu được cực nhọc. Trước kia binh tướng còn nhiều có người bảo vệ, nay ta đơn thương độc mã làm sao có thể mang nàng theo được.
Hạng vương rút thanh kiếm đeo bên mình, đưa cho Ngu Cơ. Ngu Cơ tiếp lấy, đứng dậy nói :
- Thiếp mang ơn Ðại vương không biết lấy gì đền đáp. Nay trong cơn nguy khốn, nếu thiếp đi theo Ðại vương không khỏi làm cho Ðại vương bận bịu, mang hại vào thân.
Nói xong, đâm lưỡi gươm vào cổ tự vận.
Hạng vương đau lòng, hét lên một tiếng, toàn thân run rẫy .
Chu Lan và Hoàn Sở bước lại đỡ Hạng vương và nói :
- Xin Ðại vương lấy giang san làm trọng, đừng quá bi lụy như thế.
Hạng vương nghiến răng, vung đao lên ngựa ra khỏi dinh, cùng tám tràm quân xông vào trận địch.
Quân Hán được tin, chạy về trung quân phi báo.
Hàn Tín liền thống xuất đại binh, hợp với các tướng kéo đến phủ vây.
Hạng vương một mình, cời ngựa Ô truy, vung đao xông đến, gặp tướng đánh tướng, gặp quân chém quân, như vào chỗ không người. Ai nấy thấy vậy sợ hãi, không dám ngăn cản.
Hạng vương thoát ra được tám vòng vây, ngoảnh lại thấy Chu Lan và Hoàn Sở đã lạc đâu mất, sau lưng mình chỉ còn vài mươi quân kỵ.
Hạng vương vẫn không nản lòng, vừa giục ngựa xông tới, vừa đâm chém.
Hàn Tín cùng các tướng Hán thấy vậy bảo nhau :
- Hạng vương có sức mạnh như thần, lại gặp lúc cùng quẫn, nếu chết khó ai địch nổi. Chi bằng vây hai tướng Chu Lan, Hoàn Sở để cho Hạng vương hoàn toàn cô lập
Các tướng liền bỏ Hạng vương xúm lại vây Chu Lan và Hoàn Sở.
Chu Lan và Hoàn Sở sức yếu làm sao địch lại, chống đỡ một lúc, biết không thể thoát được, ngửa mặt lên trời nói lớn :
- Ðại vương ôi ! Chúng tôi đã kiệt sức rồi.
Nói xong, hai tướng rút gươm tự sát.
Giữa lúc đó, Hạng vương thoát ra khỏi trận theo sau chỉ con hơn vài chục tên quân, nhắm hướng Ðông mà chạy.
Chạy được mấy dặm, đến vùng ảm Lăng đường sá ngoằn ngoèo, không rõ phương hướng, chung quanh toàn là sông ngòi và bụi bờ mù mịt.
Chợt gặp một lão nông đang đứng bên đường, Hạng vương hỏi :
- Sang Giang Ðông đi về phía nào ?
Lão nông trông thấy người áo mũ khác thường, đoán biết Bá vương, nghĩ thầm :
- Ông ta đóng đô nơi Bành Thành đã mấy năm, chẳng có ân đức gì với bá tánh, chỉ chuyên dùng vũ lực chém giết đánh đập, dân chúng phải chịu nhiều tai ương thảm họa, nay bị quân Hán đuổi, ta không nên chỉ đường làm gì .
Trong lúc lão nông đang ngẫm nghĩ, chưa kịp đáp, Hạng vương hỏi tiếp :
- Ông lão đừng sợ, ta đây là Bá vương. Vì lâm trận bị quân Hán đuổi rất gấp, muốn tìm sang Giang Ðông, nhưng không thuộc đường.
Lão nông giả vờ trỏ tay về phía tả, là con đường cùng, nói :
- Nên chạy ngả ấy .
Hạng vương theo lời, giục ngựa dong ruổi. Ði được vài dặm, đường bị nghẽn, con ngựa sa xuống một vũng lầy rất lớn. May nhờ con ngựa Ô truy phi mình nhảy thoát.
Vừa lúc đó lại gặp một cánh quân Hán kéo đến, cầm đầu là Dương Hỷ.
Hạng vương gọi Dương Hỷ nói :
- Ta sa xuống vũng lầy vừa thoát khỏi, người mỏi ngựa mệt không thể đánh nhau được nữa, nhà ngươi trước kia đã từng theo ta mấy năm, nay lại phò Hán làm gì, hãy theo ta về Giang Ðông để chiêu tập binh mã, mong việc phục hưng. Lúc đó ta sẽ phong cho nhà ngươi làm Vạn Hộ hầu, giàu sang sung sướng.
Dương Hỷ nói :
- Ðại vương bạc ác, nhiều kẻ cản ngăn, nhưng không chịu nghe. Nay cớ sự như vầy, dẫu tôi có theo Ðại vương đến Giang Ðông, Ðại vương cũng không làm gì nên chuyện. Chi bằng theo tôi về hàng Hán, chắc Ðại vương không mất ngôi công hầu.
Hạng vương nổi giận, vung đao đâm Dương Hỷ, Dương Hỷ đưa thương ra đỡ. Ðánh được hai mươi hiệp, Hạng vương rút cây roi đeo sau lưng vụt Dương Hỷ một cái Dương Hỷ né không kịp bị sa xuống ngựa.
Hạng vương toan vung đao chém đầu thì có hai tướng Hán là Dương Võ, Lã Mã Thông đến kịp, cản lại cứu Dương Hỷ.
Hạng vương lại cùng hai tướng giao tranh.
Ðàng sau, Anh Bố, Bành Việt, Chu Bột chia quân vây bọc, Hạng vương không dám ham đánh, quảy ngựa chạy về hướng Ðông, ngoảnh trông lại còn có mười tên tùy tốt .
Bọn tùy tốt nói :
- Ðại vương giao chiến suốt ngày, người đói, ngựa khát trời lại sắp tối, chi bằng tìm chỗ ẩn thân để dưỡng sức . Chúng tôi đoán chừng nơi đây cây cối rậm rạp, quân Hán chưa dám mạo hiểm vào đây xáp chiến.
Hạng vương theo lời, gò ngựa lại, trông xa trong khóm rừng thấy có ánh đèn thấp thoáng, liền dẫn quân đến đó .
Khi đến nơi, thấy đó không phải nhà ở của dân chúng mà là một cổ viện.
Hạng vương nói :
- Tuy không phải nhà thường dân song cũng tạm nghỉ được.
Bọn tùy tốt theo Hạng vương bước vào trong.
Bên trong có tiếng suối róc rách chảy. Hạng vương lần đến thấy một cái khe nước trong vắt.
Hạng vương bảo bọn tùy tốt dắt ngựa cho uống nước và mài thanh bảo kiếm của mình để chuẩn bị rạng ngày chiến đấu.
Bọn tùy tốt yếu sức, không mang nổi thanh kiếm, Hạng vương phải tự mình đến suối cầm thanh kiếm liếc vào một tảng đá lớn .
Chỗ ấy là viện Hưng Giáo cách Ô Giang mười lăm dặm. Hạng vương lần theo hành lang bước vào trong viện, không thấy một bóng người nào.
Lần ra phía sau thì thấy. một vài ông lão đang ngồi quanh một lò sưởi.
Một tên lính hỏi :
- Sao trong viện hiu quạnh thế ?
Một ông già đáp :
- Bản viện nguyên trước có vài người ở. Gần đây nghe Sở - Hán tranh hùng, sợ hãi trốn đi hết. Chúng tôi là người trong thôn ấp sợ viện bỏ vắng lỡ mất trộm chăng nên lén ra đây coi chừng. Chẳng hay đêm khuya các người ra đây có chuyện gì ?
Tên lính nói :
- Nay có Tây Sở Bá vương bị quân Hán đuổi đến đây, bữa cơm tối chưa kịp dùng, định vào nghỉ tạm trong viện này một đêm, sáng mai sẽ đi sớm. Các ông có cơm thì đem dâng cho Bá vương dùng.
Các ông lão nghe nói có Hạng vương đến lật đật đứng dậy ra cửa phục xuống đất, mời Hạng vương vào nhà trong, nói :
- Chúng tôi là những kẻ nông phu ở thôn dã, không hiếu lễ xin Ðại vương tha thứ cho.
Hạng vương nói :
- Các ngươi ở đây có sẳn gạo không ? Ði thổi cơm cho mọi người ăn một bữa. Nếu bình được giặc, ta chẳng quên ơn.
Một ông lão tâu :
- Tâu Ðại vương, nơi đây thuộc đất Sở, Ðại vương lâm nguy đến đây dùng chút lương gạo của chúng tôi có gì là ân huệ.
Nói xong, vào trong lấy ra một thạch gạo, đem nấu cho Hạng vương và tùy tốt ăn.
Ăn xong, Hạng vương dựa lưng vào ghế đá nghỉ.
Chợt thấy một vầng mặt trời đỏ ối nổi lên mặt sông . Kế đó lại thấy Hán vương cởi mây năm sắc lờ lững đến nơi, ôm vầng mặt trời vào lòng, rồi lại cưỡi mây mà đi. Dưới chân hàng ngàn tia sáng tiếp nối không dứt. Hạng vương thấy Hán ôm vầng mặt trời bay lên, vội cởi áo nhảy ùm xuống nước, chực cướp lại, chẳng ngờ bị Hán vương co chân đạp vào mặt, Hạng vương ngã lăn xuống nước. Hán vương vẫn chậm rãi ôm mặt trời đi về hướng Tây.
Hạng vương giật mình thức giấc, thì ra đó là giấc mộng, lòng sợ hãi, thở dài nói :
- Ôi ! Mệnh trời đã vậy, không thể cưỡng lại được.
Vừa dứt lời, một tên tùy tốt chạy vào cấp báo :
- Quân Hán đã kéo đến cửa rừng rồi, xin Ðại vương tìm đường thoát hiểm.
Hạng vương vội vã mặc áo giáp lên ngựa, dẫn mười tên tùy tốt đánh ra cửa rừng.
Trời tang tảng sáng, quân Hán chia làm hai cánh, đánh bọc vào tướng đi đầu là Quán Anh xông đến chém.
Hạng vương hét lên một tiếng, con ngựa của Quán Anh sợ hãi thối lui mười bước.
Ðàng sau, Dương Võ, Lã Thắng, Sài Võ, Ngân Hấp đồng xông vào một lượt. Hạng vương vung đao vun vút, đánh dẹp , cả quân Hán, không tướng nào dám đến gần.
Tuy nhiên, biết mình cô thế, Hạng vương không ham đánh, bảo vệ bọn tùy tốt thoát vòng vây chạy trốn.
Chạy đặng mười dặm đến sông Ô Giang. Ðàng sau quân Hán đuổi theo, gươm giáo như rừng, tiếng reo hò dậy đất.
Hạng vương đưa mắt nhìn một lúc, sực nhớ giấc mộng vừa rồi, thở dài nói với ba quân :
- Cơ trời đã muốn tuyệt Sở, dẫu chống lại cũng chẳng ích chi. Tuy nhiên với sức mạnh của ta, chờ đến lúc kiệt quệ, ta cũng còn có thể thắng địch quân mấy trận nữa. Vậy để ta chém tướng địch mở vòng vây cho các ngươi thoát nạn, hẹn đêm nay gặp nhau nơi chân núi Ðông Sơn.
Bọn tùy tốt vâng lệnh. Liền lúc đó quân Hán đã ồ ạt kéo đến vây phủ. Hạng vương lui tới một mình chém luôn ba tướng Hán, và mấy trăm quân. Quân Hán sợ hãi phải lùi lại. Hạng vương nói với bọn tùy tốt :
- Sao chúng bay không chạy ra ngoài thoát nạn ?
Bọn tùy tốt đồng nói :
- Chúng tôi xin theo phò Ðại vương cho đến phút cuối cùng.
Lời nói ấy như an ủi lòng kẻ mạt lộ, Hạng vương lại vung đao đánh liều với quân Hán.
Ngày hôm ấy , Hạng vương đánh cả thảy chín trận, giết chín tướng Hán và chém chết một ngàn quân Hán, thoát ra khỏi vòng vây, cùng bọn tùy tốt chạy đến bờ phía Bắc Ô giang.
Quân Hán không dám đuổi theo gấp như trước nữa. Hạng vương gò ngựa đi thong thả, hỏi bọn tùy tốt :
- Ta đánh với quân Hán như thế nào ?
Bọn tùy tốt tâu :
- Ðại vương sức địch muôn người, thật là bậc anh hùng cái thế .
Ðến bờ sông, Hạng vương muốn qua đò, và người Ðình trưởng Ô giang cũng đã cắm thuyền đợi sẵn nơi đó.
Hạng vương hỏi :
- Sao ngươi biết ta đến đây đem thuyền đón ?
Người đình trưởng thưa :
- Tôi nghe Ðại vương thất trận, cơ đồ chỉ còn một con thuyền này, vì vậy đem thuyền đợi rước. Giang Ðông tuy nhỏ, nhưng đất vuông nghìn dặm, có thể làm chỗ phục hưng. Ðại vương sang đó, chiêu tập hào kiệt, tích thảo đồn binh thì cái cơ lấy lại thiên hạ không khó. Xin Ðại vương kíp sang đò, đừng để lỡ dịp.
Hạng vương thở dài, lắc đầu nói :
- Ta từ lúc khởi binh đến nay bách chiến bách thắng, nay lâm nguy chạy trốn thực là nhục.
Ðình trưởng nói :
- Hay Ðại vương sợ quân Hán đuổi theo, không thoát được ? Ở đây chỉ có một con thuyền của tôi mà thôi.
Ðại vương xuống thuyền tôi dong ra giữa vời, tức là coi như Ðại vương đã ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, không sợ gì nữa.
Hạng vương nói :
- Trời đã muốn cho ta tận diệt, ta còn sang sông làm gì. Dẫu trở về Giang Ðông, dân chúng còn yêu ta, để ta làm vua, ta cũng không còn mặt mũi nào trông thấy họ nữa.
Ðình trưởng thở dài, lặp bặp nói :
- Thành bại không luận anh hùng. Ðã có chí lớn chớ nên câu nệ việc nhỏ. Ðại vương đừng thẹn vì thất trận mà nên lo cho cái nhục mất nước. Xin Ðại vương sang sông kẻo muộn.
Hạng vương nhìn người Ðình trưởng, lòng bùi ngùi cảm động nói :
- Ta đã không thể sống nhục thì dẫu có sống cũng chẳng làm được việc gì nữa. Nhà ngươi nên bằng lòng vậy.
Người Ðình trưởng cắm thuyền phàn nàn mãi.
Hạng vương biết là kẻ có chí lớn, song tự thấy mình không đủ can đảm để sống nhục nên cầm tay người Ðình trưởng
nói :
- Ta có con ngựa quí, dùng đã mấy năm trong việc chiến chinh. Một ngày đi nghìn dặm, nó là một con thần mã rất khôn ngoan. Nay sợ quân Hán bắt được, mà giết đi thì không nỡ. Nhà ngươi nên đưa nó sang sông, đem về nuôi dưỡng. Sau nầy thấy nó cũng như thấy ta.
Dứt lời , sai tên tùy tốt dắt ngựa xuống thuyền.
Ngựa hí lên mấy tiếng, đưa mắt nhìn Hạng vương, ra vẻ quyến luyến không nở rời, Hạng vương lòng đau như cắt.
Vừa bước xuống thuyền người Ðình trưởng sắp buông chèo thì ngựa chúm bốn vó nhảy ùm xuống nước mất dạng.
Ai nấy kinh hồn, nhìn làn sóng của tràng giang như muốn ghi vào đáy những dòng lịch sử bất diệt.
Ðàng sau quân Hán reo hò kéo đến. Thuyền xuôi mái ra giữa dòng, Hạng vương chống gươm đứng nơi mé bờ, đưa mắt nhìn địch quân hùng hổ bao vây.
Bọn tùy tốt nói :
- Ðại vương đã không chịu qua sông, bây giờ phải làm cách nào để đối địch ?
Hạng vương không đáp, vung kiếm nhảy tới chém chết một lúc mấy trăm quân Hán.
Chợt thấy trong đám Hán tướng có Ðại tướng Lã Mã Thông vừa đến, Hạng vương gọi lớn :
- Nhà ngươi có phải là cố nhân của ta chăng ?
Lã Mã Thông đáp :
- Phải, tôi cùng Ðại vương khởi binh ở Cối Kê, nay vắng cách đã lâu ; lẽ ra tôi phò Ðại vương, nhưng vì Ðại vương lấy uy lực áp đảo sanh linh, lấy bạo lực trị thiên hạ, chánh sách đó không thuận lòng trời, hợp lòng người. Hán vương tuy không có uy vũ, song đạo đức tràn đầy, ai ai cũng mến. Trời dành thiên hạ cho kẻ có đức chứ không phải cho kẻ có uy vũ, do đó Ðại vương thất bại là phải. Tôi phò Hán không phải bội phản Ðại vương mà theo nguyện vọng của tôi.
Hạng vương nói :
- Ngày nay lòng ngươi đối với ta như thế nào ?
Lã Mã Thông nói :
- Tôi vẫn khâm phục cái tài kinh thiên vĩ địa của Ðại vương. Nếu trời không giúp Hán, thì không thể nào Ðại vương mất nước được. Tôi tuy theo bước đường lý tưởng, chuộng đạo đức, diệt bạo tàn, song vẫn xem Ðại vương là cố nhân.
Hạng vương nói :
- Lòng ngươi còn nhớ nghĩa xưa, ta không lấy gì đến đáp . Nghe rằng Hán vương treo giải trong quân, ai lấy được đầu ta phong làm vạn hộ. Vậy ta cho ngươi chiếc đầu của ta đem về lập công.
Nói xong, rút gươm đâm cổ tự vận.
Bọn Dương Hỷ, Dương Vó, Vương Ê , Lã Thông đều xông đến cắt đầu Hạng vương đem về dâng cho Hán vương.
Hạng vương sanh năm Tần Thủy Hoàng thứ mười lăm, đến năm Hán Cao Tổ thứ năm thì tự vận ở Ô Giang thọ ba mươi mốt tuổi.
Người sau có thơ rằng :
Sức mạnh kinh thiên vạn cổ truyền
Vẫy vùng yên mã đoạt giang biên
Hạ thành ai luận anh hùng sự
Mãnh hổ sa cơ cũng phải hèn
Lã Mã Thông cùng năm tướng xách đầu Hạng vương về dinh nạp cho Hán vương.
Hán vương trông thấy khóc òa, nói :
- Tôi cùng nhà vua kết làm anh em , sau vì tranh thiên hạ mà trở nên hiềm khích. Song nhà vua tuy bắt Thái Công, Lã hậu mà vẫn nuôi dưỡng tử tế, không hề xúc phạm, đó là hành động của bậc trượng phu, tôi không bằng được. Không ngờ nay nhà vua chết đi như vậy, tôi tiếc thương biết chừng nào.
Các tướng thấy lòng nhân đạo của Hán vương đều cảm phục.
Hạng vương đã chết, đất Sở đã định, Hán vương phong cho Lã Mã Thông làm Trung Thủy hầu, Vương Ê làm Ðỗ Diễn hầu, Dương Hỷ làm Xích Toàn hầu, Dương Võ làm Ngô Phòng hầu, Lã Thắng làm Niết Dương hầu.
Sai lập miếu thờ Hạng vương ở bến Ô giang, bốn mùa tế lễ.
Nhắc lại, Hạng Bá bỏ Sở sang đầu Trương Lương, Trương Lương vì thấy đang lúc binh nhung bận rộn,
không dám tâu với Hán vương, nay Sở đã diệt, liền dẫn Hạng Bá vào yết kiến, và tâu :
- Hạng Bá trong khi quân Sở tan rã, có đến xin đầu ở dinh hạ thần. Hạ thần trộm nghĩ Hạng Bá vốn có tình củ, lại là người có công ở Hồng Môn năm xưa nên lưu lại trong dinh, chờ Ðại vương xét định.
Hán vương nói :
- Hạng công đã từng giúp ta nhiều việc lớn. Ta đang định sai người đi tìm, chẳng ngờ Hạng công đến đây thật là may mắn.
Liền phong cho Hạng Bá làm Ðịch Vương Hầu, cải là họ Lưu.
Hạng Bá mừng rỡ tạ ơn.
Bấy giờ các nơi đã dẹp yên, duy còn nước Lỗ ở Sơn Ðông chưa bình được.
Hán vương nói :
- Lỗ là nước nhỏ, chẳng đáng kể, lúc nào kéo quân đến là lấy được ngay. Nay hãy bàn việc đóng đô đã.
Trương Lương tâu :
- Ðại vương không nên rút quân về vội. Nước Lỗ tuy nhỏ, nhưng có ẩn một mối hậu hoạn. Nếu không để ý e sau này hối không kịp.
Hán vượng ngạc nhiên hỏi :
- Một nước nhỏ như vậy, có gì tai hại về sau ?
Trương Lương đến gần Hán vương tâu nhỏ :
- Lỗ là một nước trị dân bằng lễ nghĩa, dân chúng được thuận hòa. Năm xưa, Sở Hoài vương phong cho Hạng vương làm Lỗ công, mà nước Lỗ lại là đất cũ của Hạng vương, dân chúng nước ấy có thể vì Hạng vương khởi binh báo thù. Các tay hào kiệt ở Ðông Ngô cũng nhiều, nếu họ kéo đến Kinh Sở, chiếm lấy Hồ Tương, ta không dễ gì dẹp đặng.
Hán vương thất kinh, nói :
- Nếu không có tiên sinh ta đã lầm việc lớn.