Có thể nói đây là những bức ký họa chân dung các tôn giáo lớn trong đời sống nhân loại. Nó đã lột tả được cái thần, cái cốt lõi của các tôn giáo -- một vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp và tinh tế. Những nét phác họa sắc sảo, những điểm nhấn mạnh trong các chân dung của tác giả đã đem đến cho chúng ta những hiểu biết sơ đẳng, căn bản, giúp ta vượt qua những ngộ nhận mà ta dễ mắc sai lầm qua những mảnh vụn rời rạc, chắp vá mà ta biết được, hiểu được hoặc nghe được từ những kiến thức nghe nói vu vơ khó có thể tin cậy được.
Đúng như tác giả lấy hình ảnh dòng sông có những cuộn xoáy tù hãm để ví với dòng đời -- một hình tượng thật chính xác, dễ hiểu cho những ai muốn tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời. Thoát ra khỏi những cuộn xoáy tù đọng để trôi chảy với mênh mang dòng đời không phải là công việc dễ dàng -- như tác giả viết trong chương kết luận, khi chúng ta sinh ra đời là trắng, đen, vàng..., người Âu, Mỹ, Á,... Dù muốn hay không, ta đã tập nhiễm nền văn hóa truyền thống, phong tục bản địa, đâu dễ gì có điều kiện để nhìn ra bốn phương, những chân trời lạ, nói gì đến trực nghiệm để hiểu được muôn vàn.
Nhịp sống đương đại đang trong cuộc xoáy chủ nghĩa vật chất tù hãm đưa nhân loại đến những xung đột nhiều mặt, và đừng nên quên rằng ta nhiều người sẽ ít. Cho nên tôn giáo vẫn đang gánh vác nhiệm vụ của nó bằng cách nói đến "chia sẻ", "thương yêu người hàng xóm". "thiểu dục tri túc", "tình anh em", vân vân....
Bởi lẽ đó, hiểu mình để đi đến hiểu người đòi hỏi nỗ lực phi thường và hiểu người để đi đến hiểu mình cũng cần nhiều công lao khó nhọc, vượt lên chính bản thân mình. Và chính điều đó là một nét tuyệt đẹp tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào. Dù tin hay không tin thì tôn giáo luôn luôn là giấc mơ đẹp nhất của nhân loại -- vươn tới tìm hiểu cái sâu xa nhất của sự sống, nguồn gốc sự sống, tìm lại bản thể, khao khát hòa mình vào với thiên nhiên, vũ trụ...
Đắm mình trong vẻ đẹp tôn giáo, tôi trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách quý này với hy vọng giúp bạn đọc được một phần nào trong việc tìm hiểu các tôn giáo lớn trong nhân loại.
Tự biết khả năng còn nhiều hạn chế nhưng với tấm lòng nhiệt thành, chúng tôi cố gắng hoàn thành tác phẩm này, mong mang được ít nhiều lợi lạc cho người đọc.
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ Chư Tôn Đức đã khích lệ và góp nhiều ý kiến bổ ích. Đặc biết chúng tôi xin tri ân Đạo Hữu Trần Quốc Cường đã bỏ nhiều công phu để hiệu đính sửa chữa những thiếu sót sai lầm, một đóng góp to lớn trong việc phát hành tác phẩm này.
Chúng tôi xin chân thành Tiến Sĩ Bình Anson đã tích cực giúp đỡ, điều chỉnh, sắp xếp cách trình bày.
Chúng tôi cũng xin chân thành tri ân các Đạo Hữu Kỳ Châu -- Diệu Thức cùng các bạn đạo tại Houston, Texas, Đạo Hữu Chơn Phổ Nguyễn Thị Phương -- Đạo Hữu Nguyễn Công Hiền , B. S. Hoàng Giang, L.S Đỗ Đình Phúc, Đạo Hữu Trần Minh Lợi, Đạo Hữu Hoàng Trí Phan Thông Hảo, Đạo Hữu Nguyên Khiêm Lương Thanh Kiểm, Diệu Chơn Lương Thị Mai, Nguyễn Mạnh Cương, Nguyễn Thị Mai Hương, Nguyễn Thị Mai Trang, Nguyễn Hữu Tuấn, Nguyễn Thị Mai Trinh, Nguyễn Thị Thúy, Nguyễn Hữu Nhung, Nguyễn Cung Thị Hỷ, Nguyễn Thế Nhiệm, và Diệp Liên Phát đã phát tâm cúng dường ấn tống cuốn sách này.
Chúng tôi xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên Ngôi Tam Bảo thùy từ gia hộ quý Đạo Hữu cùng bửu quyến thân tâm thường lạc, hạnh phúc và các hương linh Ninh Viết Khánh pháp danh Tuệ Tường, Bùi Kim Hạnh pháp danh Diệu Ngôn, Châu Nguyệt Vân Thu, Nguyễn Mỹ Linh, Phương Thị Tính pháp danh Diệu Thủy, Nguyễn Thi Thái, và Hồng Thị Sai pháp danh Diệu Hồng vãng sanh Cực Lạc Quốc.
Sau cùng chúng tôi kính mong Chư Tôn Thiền Đức, các bậc thức giả cao minh, các bậc thiện trí thức hoan hỉ bổ chính những sai lầm thiếu sót để tác phẩm được hoàn chỉnh trong kỳ tái bản.
Hầu hết chúng ta ràng buộc niềm tin của mình vào những tín ngưỡng nhất định. Chúng ta hay coi những tôn giáo khác là kém thanh khiết và chân chính. Chúng ta quên rằng người phương Đông thấy nhiều đức tin của chúng ta không thể tin được.
Dù sao cũng không nên đánh giá tôn giáo bằng biểu hiện thấp nhất của nó -- tôn giáo phải được đánh giá bằng biểu hiện cao nhất của nó. Và nhìn vào những người sáng lập vĩ đại của những tôn giáo lớn, chúng ta thấy các ngài có nhiều quan điểm giống nhau. Vinh danh vị này không có nghĩa là làm ô danh vị kia...
-ooOoo-
LỜI NÓI ĐẦU
Những nhà tiên tri là những người sống ngoài phạm vi thông thường của xã hội. Các ngài không bị ràng buộc vào cách cư xử và cung cách của người dân bình thường mà ra đi để tầm nhìn của các Ngài có những chân trời rộng lớn hơn. Các Ngài thiết lập những con đường mới. Tôn giáo của các Ngài phóng khoáng và vươn xa.
Các thầy tu là những người chăm sóc gần gũi các bệ thờ theo tục lệ. Họ là những người bán hàng hóa được giao cho họ và là người phân phát phong tục. Họ không sáng tạo nhưng gìn giữ.
Tất cả các tôn giáo đều có những nhà tiên tri và thầy tu -- ít nhà tiên tri nhưng nhiều thầy tu. Những trụ sở như đền, chùa, nhà thờ và giáo đường là mối quan tâm của thầy tu; cải cách, thiên khải, và những hiểu biết sâu sắc mới mẻ là thịt và thức uống của các nhà tiên tri.
Cơ Đốc Giáo (giống như tất cả tôn giáo khác) là một tôn giáo nhiều mặt. Qua nhiều thế kỷ, nó đã có tiêu chuẩn đánh giá đầy đủ cả về nhà tiên tri lẫn thầy tu -- các thầy tu chiếm đa số. Hầu hết trong chúng ta đều được dạy tôn giáo bằng phương tiện của một thể chế nào đó, và chúng ta dễ đi đến tin vào sự giải thích về tôn giáo của thể chế đó. Chúng ta thắt chặt niềm tin của chúng ta vào niềm tin của giáo đường (nhà thờ của chúng ta), vào một loạt đức tin, vào những hình thái và kiểu mẫu cố định. Chúng ta có khuynh hướng ngờ vực những người khác không phải người nhà -- coi những người khác là "kém thanh khiết" hay kém chân chính. Tôn giáo thông thường vốn chia rẽ: nó làm người ta cách biệt nhau, đôi khi có chủ ý (với tín ngưỡng và chính thể) và thường vô ý thức nhiều hơn (bởi sự nuôi dưỡng lòng tự hào rằng chúng ta là chủ sở hữu chân lý tôn giáo).Tôn giáo thầy tu giống như quốc gia chủ nghĩa: tự tồn và ý thức về bản thân.
Khi chúng ta nhìn qua biên giới tới các tôn giáo khác, chúng ta hay khinh miệt bằng sự tự khẳng định cao độ. Chúng ta thích vạch ra đức tin của người dân trong các khu vực địa dư và văn hóa khác là khờ khạo và dị đoan như thế nào, những vị thần của họ non nớt ra sao, sự tu hành của họ kỳ cục làm sao. Chúng ta quên rằng nếu một người phương Đông nhìn chúng ta bằng cao độ của người đó thì người ấy sẽ thấy nhiều những cách tu tập Cơ Đốc Giáo và cả đến đức tin của chúng ta đều không thể tin được và nhiều tập quán tôn giáo của chúng ta rất kỳ cục.
Đánh giá bất cứ tôn giáo nào bằng sự biểu hiện thấp nhất của tôn giáo ấy là không công bằng. Tất cả các tôn giáo đều có những đỉnh cao và vùng đất thấp, và những đỉnh điểm sẽ được nhìn thấy rõ ràng ở những bậc sáng tạo, những vị sáng lập, và văn học vĩ đại của các ngài. Thước đo một tôn giáo là lý tưởng tốt đẹp nhất của tôn giáo ấy. Chúng ta mong mỏi những người khác đánh giá tôn giáo của chúng ta bằng biểu hiện tốt đẹp nhất của nó; và, đổi lại, với một sự lịch sự sơ đẳng, chúng ta phải suy xét những tôn giáo khác bằng những điều tốt đẹp nhất của tôn giáo ấy. Một người Cơ Đốc Giáo luôn luôn thích Jesus ở Nazareth đại diện cho tôn giáo của mình khi được đánh giá; và những người có tín ngưỡng khác cũng phải chọn những nhà tiên tri tốt nhất đại diện cho họ khi đem so sánh.
Nếu chúng ta giải quyết trong tinh thần ấy, chúng ta sẽ thấy những nhà tiện tri vĩ đại của tất cả các tôn giáo lớn giống nhau biết bao, các ngài chỉ hướng cho con người, đức hạnh được đánh giá giống nhau làm sao, và, có lẽ những vị thần tốt nhất của tôn giáo ấy cho thấy đặc tính không giống như những nét tốt nhất mà chúng ta biết. Những phép ẩn dụ của các tôn giáo khác nhau rất nhiều. Tất cả các tôn giáo phát triển mạnh trong những ẩn dụ thích hợp với thời gian, không gian và văn hóa riêng. Nhưng ẩn dụ là những phương tiện không phải là cứu cánh. Thượng Đế bao giờ cũng nhiều nghĩa hơn bất cứ một ẩn dụ nào.
Tin vào một Thượng Đế xứng đáng là tin vào Thượng Đế của tất cả mọi người, bất kể là nòi giống hay xứ sở nào; một Thượng Đế không cách biệt tinh thần hiến dâng của con người ở bất cứ đâu.
Có rất nhiều nhà tiên tri thần thánh. dù cho ánh sáng được truyền rực rỡ qua một số người này nhiều hơn qua một số người khác.Vinh danh một trong các ngài với lòng kính ngưỡng sâu xa không có nghĩa là làm ô danh các vị khác. Chúng ta cần biết nhiều hơn về những nhà tiên tri của các tôn giáo lớn, các ngài đã truyền ánh sáng thiêng liêng, cả khi chúng ta khao khát muốn biết nhiều hơn nữa về thông điệp trong sáng của vị sáng lập ra tôn giáo của mình. Chúng ta có thể đem lòng nhân ái đến những ai quá do dự không hiểu được những nhà tiên tri của họ, và những người là các thầy tu nhưng đã bị lạc vào những chi tiết kém cỏi về tôn giáo của họ.
Dường như đối với tôi, cuốn sách này là một cuốn sách tiên tri. Trong khi trình bày tôn giáo thầy tu, nó thiết lập những quang cảnh tiến tới sự tiên tri trong tất cả những tôn giáo ấy. Tiên tri về mục đích hiển nhiên của nó: để kích thích sự đánh giá nồng nhiệt hơn về các nhà tiên tri vĩ đại và tài liệu tiên tri vĩ đại. Tiên tri về khát khao hiển nhiên của nó: thúc đẩy thái độ mà nhân loại phải trau dồi trước, trong khi văn hóa tác động đến văn hóa, trong khi người ta cũng bị lôi kéo vào việc trao đổi thông tin và ý thức về một vận mệnh chung. Trên con đường mà thế giới đang đi, chúng ta sẽ trưởng thành lên về tinh thần, về khoan dung và tình huynh đệ. Không có sự lựa chọn nào khác để tồn tại.
Chính tôi tin rằng nếu các các vị sáng lập ra các tín ngưỡng vĩ đại hiểu chúng ta ngày nay, các ngài hẳn đã đi qua những biên giới mà những đệ tử của các ngài đã thiết lập nên; các ngài sẽ phải ngồi vào bàn để trình bày những đồng thuận và phân biệt chân lý đằng sau nhiều ẩn du. Các ngài sẽ thấy hợp nhau trong một thế giới tinh thần chung, một Thượng Đế chung.
Nhiều người chúng ta thấy rằng con người giống nhau về những khát vọng sâu xa như thế nào. Nếu quí vị trao đổi ý kiến với một người tự do thuộc tín ngưỡng Do Thái, quý vị sẽ thấy người ấy gần gũi với chính quý vị (nếu chính quý vị có cơ hội hít thở không khí trong lành mà vị tiên tri hít thở). Quí sẽ không ngạc nhiên nếu một người trong số bạn của quí vị gọi chính anh ta là Cơ Đốc Giáo hay Phật Giáo, nếu bạn biết một số điều cốt lõi của mỗi tín ngưỡng. Qúy bạn sẽ tham dự một buổi lễ đơn giản tại hội quán Ramakrishna ở thành phố Nữu Ước với cảm nghĩ là vị sáng lập ra tôn giáo của bạn cũng hiện diện trong căn nhà của Thượng Đế này. Và quí bạn sẽ đánh giá cao lời xác nhận của Ấn Giáo là chân lý tỏa sáng rực rỡ hơn khi nó tỏa sáng từ nhiều góc độ, giống như kim cương có nhiều mặt. Bạn sẽ khâm phục trước lời khuyên bảo của Ấn Giáo kêu gọi bạn đừng bỏ di sản đạo lý của chính bạn, nhưng hãy nhìn vào điều đó với sự giúp đỡ của vị tiên tri vĩ đại nhất của nó thay vì tín điều của các thầy tu.
Tiến Sĩ Ross có khả năng xuất sắc chỉ ra con đường tiến tới một niềm tin rộng lớn hơn. Giáo Sư về Tôn Giáo Thế Giới tại Đại Học Miền Nam California, ông là tác giả tác phẩm The Meaning of Life in Hinduism and Buddhism (Ý Nghĩa Đời Sống Trong Ấn Độ Giáo và Phật Giáo), và Addressed To Christians: Isolationism vs. Word Community (Gửi người Cơ Đốc Giáo: Chủ Nghĩa Biệt Lập Chống lại Cộng Đồng Thế Giới), và đồng tác giả tác phẩm Ethics and the Modern World (Đạo Đức và Thế Giới Tiên Tiến). Ông hiểu lịch sử tôn giáo của chính ông rất tường tận, và sự nghiên cứu của ông đã đưa ông đến gần gũi hơn với các đấng tiên tri và tài liệu tiên tri của những tôn giáo lớn khác.
Bà Hills là một bà giáo trường công lập và là một thành viên của ban giáo dục tôn giáo của một số nhà thờ lớn. Sau khi học chuyên về tôn giáo tại Đại Học Southern California, bà đã tiếp tục học để lấy bằng Thạc Sĩ tại Đại Học này.
Hai người cùng nhau phát hành cuốn sách vạch ra con đường chính đáng cho những ngày sắp tới.
Vergilius Ferm
The College of Wooster
Wooster, Ohio, U.S.A.
-ooOoo-
LỜI CẢM ƠN
Các tác giả bày tỏ lòng cảm kích về sự giúp đỡ của Sophia L. Fahs đã biên tập toàn bộ bản thảo này. Lòng cảm kích với Jeanette Perkins Brown đã có những đề nghị hữu ích trong lúc sơ khởi, Rabbi Edwin Zerin đã duyệt tài liệu Do Thái Giáo và đã có những lời bình luận quí báu. Và Giáo Sư Paul Irwin của Trường Tôn Giáo, Đại Học Southern California, đã có những đề nghị thích hợp cho toàn bộ dàn bài.
-ooOoo-
DẪN NHẬP
1. CHÚNG TA NHÌN CUỘC ĐỜI
Một câu chuyện kể về ba người bị đắm tầu lưu lạc trên một hòn đảo tại South Seas (Biển Nam). Khi thuyền đụng phải bãi san hô vỡ tan từng mảnh, thực phẩm, quần áo và dụng cụ đều bị mất trên biển. Ba người thủy thủ kiệt sức sống sót này trôi giạt vào bờ biển tránh khỏi những cơn sóng dữ. Sau khi bị bất ngờ, họ bắt đầu đánh giá lại tình hình. Bên kia bãi cát là một rừng cây, rồi đến những rìa đá và những vách đá dốc. Không có một dấu hiệu nào cho thấy có người ở chung quanh đây. Chỉ có âm thanh của biển động và tiếng kêu của con mòng biển.
Không một người nào có địa bàn. Máy vô tuyến của họ đã bị mất lúc thuyền đắm. Sự cần thiết trước mắt là xem đảo có người ở không. Thực phẩm không thành vấn đề, họ thấy trái cây miền nhiệt đới đầy dãy. Nhưng họ hoàn toàn thất vọng vì không biết họ hiện ở đâu. Họ hiểu rằng phải tìm ra người có thể giúp họ manh mối về nơi chốn hiện nay của họ. Họ quyết định một người đi dọc theo bờ biển, một người thứ hai cũng đi theo bờ biển phía ngược lại, còn người thứ ba thâm nhập phía chân đồi. Mỗi người đã phát hiện có dấu vết người ở -- dấu chân, đồng ruộng, hay khói bốc lên từ một làng xa xa nào đó.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, người thứ ba đã khám phá ra dấu hiệu có người ở -- khói bốc lên từ một cái chòi nhỏ ở phía sườn núi. Người này liền báo cho hai người bạn biết và cả ba lên đường tiến vào làng. Những người trên đảo này tỏ ra rất thiện cảm. Sau nhiều tuần, ba người này đã đi nhờ trên một chiếc thuyền nhỏ đưa họ về quê hương của họ.
VŨ TRỤ RIÊNG TÁCH BIỆT CỦA CHÚNG TA
Bạn và tôi cùng ở trong một tình cảnh. Không có chọn lựa, chúng ta đều bị quăng vào "hòn đảo" gọi là trái đất. Giống như người bị đắm tàu chúng ta hoặc là cảm thấy buồn phiền cho thân phận mình hoặc là bắt đầu nhìn quanh cố xác định vị trí của chúng ta. Chắc chắn là chúng ta không phải tìm người, vì họ thường bao quanh chúng ta. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta thấy khó mà tìm được người có thể giúp chúng ta tìm ra đúng vị trí của chúng ta hay giúp chúng ta tới nơi đến của chúng ta.
Khi còn nhỏ, chúng ta cho rằng cha mẹ có thể trả lời mọi chuyện là điều tất nhiên những cái mà cha mẹ biết câu trả lời. Khi lớn lên đôi khi chúng ta giải quyết vấn đề theo cách cha mẹ chúng ta giải quyết. Đôi khi chúng ta quên rằng cha mẹ cũng không thể biết tất cả những câu trả lời về tất cả những vấn đề của đời sống. Họ cũng sống trên hòn đảo này. Và không ai hỏi cha mẹ là các người có muốn ở đây không. Thấy chính mình ở đây, họ bắt đầu cố gắng hết sức mình. Họ đã đã tìm thấy một số câu trả lời qua cuộc sống.
Chúng ta được dẫn dắt trong lúc thiếu thời bởi sự hiểu biết mà họ đã học hỏi, dù là một phần. Nhưng chúng ta không thể dẫn dắt cuộc sống an toàn chỉ bằng ý kiến của những người ngẫu nhiên sống trước chúng ta. Chúng ta cũng không thể chấp nhận những ý kiến đó một cách mù quáng. Chúng ta phải nhớ rằng câu trả lời có thể là của chúng ta chỉ khi chúng ta làm câu trả lời đó thành một phần kinh nghiệm của chúng ta. Không có cha mẹ hay thầy giáo nào có thể sống cho chúng ta. Có nhiều điều chúng ta chỉ có thể học hỏi được qua cuộc sống và học hỏi vì chính mình.
CHÚNG TA CÓ THỂ THÀNH THẬT VỚI CHÍNH MÌNH KHÔNG?
Một số người hình như sống ngày này qua ngày khác mà không bỏ thì giờ để nghĩ về việc này. Họ dường như không bao giờ quan tâm đến thế giới mà họ sống hay nơi chốn của họ trong đó. Cuộc sống của họ được kiểm soát bằng thói quen, và dường như họ không cần tìm kiếm sự cải thiện nào. Thật là bất hạnh khi điều này xẩy ra cho bất cứ người nào, vì người đó mất cơ hội để phát triển và tiến bộ. Không ngưng tìm kiếm câu trả lời tốt đẹp hơn về bản chất của cuộc sống và vũ trụ làm tăng thêm thú vị cho cuộc sống. Còn nhiều rộn ràng hơn là phải chấp nhận những câu trả lời cũ kỹ và phong tục tập quán chỉ vì chúng xưa rồi.
Ai đó có thể ngừng không thắc mắc hay nghi ngờ vì người lớn làm cho người ấy mất can đảm. Đôi khi, thầy giáo và cha mẹ quá mệt, quá bận, hay quá nôn nóng không lưu tâm đến những câu hỏi của người trẻ. Cho nên sau một thời gian người ấy không còn hỏi nữa. Có những người lại quá chú tâm đến những hoạt động xã hội, thể thao, hay công việc đến nỗi họ không màng tới những băn khoăn sâu xa về bản chất của mọi sự.
Tuy vậy những câu hỏi trong lòng chúng ta. Đời sống là gì? Làm sao ta đến đây? Thượng Đế như thế nào? Sự khác biệt giữa phải và trái là thế nào? Tình thương yêu là gì? Việc gì xẩy ra khi chúng ta chết? Có nhiều câu hỏi giống như vậy được hỏi bởi người ở mọi nơi và ở mọi thời đại.
Nếu chúng ta thành thật với chính mình, hãy để những câu hỏi đó thâm nhập phần nào vào chú ý và cố gắng của chúng ta. Tìm câu trả lời tức là cách chúng ta học. Đừng bao giờ cảm thấy xấu hổ khi đưa ra câu hỏi. Chúng ta cũng đừng bao giờ cảm thấy ai đó dù nổi tiếng đến đâu, đã tìm thấy tất cả những câu trả lời cho chúng ta rồi. Để được sống trọn vẹn, tất cả chúng ta phải biết ý nghĩa của cuộc đời và cố gắng tìm ra một số câu trả lời vừa ý. Nghi ngờ và những câu hỏi là những dấu hiệu lành mạnh của sự thành thật với chính mình và là một thước đo sự cố gắng tăng trưởng sự tự hiểu biết của chúng ta.
TÔN GIÁO CÓ CÂU "TRẢ LỜI" KHÔNG?
Một số người nói về tôn giáo như thể tôn giáo có tất cả câu trả lời, nhưng sự khẳng định này chỉ đem đến nhiều câu hỏi hơn. "Tôn giáo" là gì? Có phải là đi nhà thờ, tụng kinh, nghe những lời cầu nguyện, học cách cầu nguyện không? Khi người ta nói về Thượng Đế họ muốn nói gì? Do đâu người ta có được ý niệm về Thượng Đế? Làm sao chúng ta biết những ý niệm ấy đúng hay không đúng? Tại sao chúng ta nên cảm thấy chúng ta phải tin theo một cách nào đó?
Không có tôn giáo nào có tất cả những câu trả lời, dù rằng có mục sư hay các thầy tu đôi khi nói là có. Tất cả các tôn giáo đều cố gắng đưa ra những câu hỏi quan trọng nhất. Tôn giáo cũng cung cấp những ghi chép về cách trả lời những câu hỏi căn bản của một số người. Nhiều người nghĩ rằng tôn giáo của chính họ cống hiến câu trả lời tốt nhất cho câu hỏi của mọi người. Nhưng những đạo sư tôn giáo khôn ngoan không nói như vậy. Thay vào, các vị này khuyến khích người ta nên tìm hiểu ý nghĩa của cuộc đời như chính các vị ấy đang làm.
CHÚNG TA CÓ THỂ HỌC ĐƯỢC GÌ Ở NGƯỜI KHÁC?
Khi chúng ta tìm câu trả lời về những băn khoăn của chúng ta, thường rất hữu ích nếu tìm kiếm ngoài chúng ta. Nhiều người thuộc các văn hóa và tôn giáo khác đã tìm thấy những đầu mối quan trọng về ý nghĩa của cuộc đời. Ý tưởng của họ có thể cung cấp cho ta những đề nghị có giá trị. Nghiên cứu những ý tưởng này giúp chúng ta nhiều hơn là chỉ nghiên cứu một câu trả lời -- độc nhất câu trả lời của quốc gia hay tôn giáo riêng của chúng ta. Nó sẽ mở ra cho chúng ta con đường ngắn hơn tiến tới trí tuệ mà những người khác đã thu hoạch được.
Chúng ta phải chọn kỹ lưỡng người mà ta cậy nhờ vì đời sống không cho chúng ta có thì giờ để kiểm tra tất cả tổ tiên chúng ta và khảo sát tất cả những tôn giáo của những thế hệ khác. Chúng ta phải chọn những người đã cố gắng tỏ ra thành thật trong việc tìm kiếm. Chúng ta không muốn mất thì giờ với những vị thầy không thành thật và tự cho là quan trọng, dù là cổ hay kim.
Chúng ta cũng chẳng muốn bị lạc vào cuộc thám hiểm khu nhà ổ chuột giữa những người mà chúng ta đang nghiên cứu tôn giáo của họ. Nếu chúng ta muốn khám phá Beethoven có viết nhạc mà ta thích không, ta cần phải nghe những bản giao hưởng và xô nát của ông. Chúng ta không nên quan tâm đến sự việc ông thường đi quanh quẩn với cái cà vạt có vết trứng. Cùng một cách như vậy, nếu chúng ta muốn tìm những đề nghị hữu ích từ người khác, chúng ta cần phải quan sát quan niệm về đời sống của họ. Chúng ta không nên bận tâm về cách ăn mặc, hay phong tục khác biệt với chúng ta.
Khoa học gia, nghệ sĩ, kỹ sư, thầy giáo, triết gia và các nhà thần học -- tất cả, bất kể đến nòi giống, ngôn ngữ, xứ sở, đều đang cố gắng tìm ra ý nghĩa mới về cuộc sống. Một ngày nào đó chúng ta sẽ có một bức tranh toàn vẹn hơn bức tranh chúng ta có ngày nay. Vào lúc đó, như thể là chúng ta sẽ vẫn còn cố gắng ghép trò chơi lắp hình. Một số người đang ghép một góc của trò chơi, một số ở một góc khác, vân vân... Nhiều người chúng ta lưu ý nhiều đến những chi tiết nhỏ nhặt, mà quên đi toàn bộ bức tranh. Chỉ trong những lúc tưởng tượng nhiều hơn, chúng ta mới cố gắng có một cái nhìn về toàn bộ đời sống.
Hầu hết mọi người bao giờ cũng nhìn vào tôn giáo của mình vì một cảm giác nào đó về toàn bộ bức tranh của đời sống, mặc dầu vô số mảnh chưa được lắp vào. Có lẽ chúng ta sẽ học hỏi một chút ít của tôn giáo khác, điều đó có thể giúp chúng ta hiểu nhiều hơn.
TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI NGHIÊN CỨU ĐỜI SỐNG
Lúc còn nhỏ, chúng ta rất quan tâm đến những hoạt động trước mắt hàng ngày. Nhưng khi là thanh niên, chúng ta bắt đầu khám phá ra là trong khi các hoạt động riêng rẽ là quan trọng thì chúng là một phần của toàn bộ cuộc sống. Và cuộc sống của chúng ta là một phần của cái gì đó lớn hơn -- cuộc đời mà trong đó tất cả chúng sinh đều chia sẻ. Chúng ta trở nên quan tâm hơn về cuộc đời là gì và chúng liên quan đến những cuộc đời khác ra sao. Chúng ta bắt đầu khám phá ý nghĩa cuộc đời. Chúng ta chú tâm đến suy nghĩ độc lập hơn trước đây
Đời sống của chúng ta càng trở thành một vấn đề tiến bộ của chính chúng ta, và nếu chúng ta nghĩ về điều này, chúng ta làm cho đời sống của chúng ta có ý nghĩa. Bởi vì con người ở bất cứ ở đâu cũng thấy rằng cuộc sống có ý nghĩa là mục đích của tất cả mọi người, họ đã phát triển tôn giáo để giúp họ quyết định cái gì thực sự quan trọng. Tôn giáo trên thế giới ngày nay đã hiến dâng cho chúng ta nhiều cái khi ta tìm kiếm ý nghĩa và các câu trả lời. Tất cả những cuộc tìm kiếm mối quan hệ đúng với chính họ, với những người khác, và với thế giới của con người là một phần của sự tìm kiếm chung mà chúng ta cũng có dính líu.
Chúng ta chấp nhận sự thách thức trong việc truy tầm ý nghĩa cuộc sống, nêu ra những câu hỏi và tìm kiếm không ngưng nghỉ và vui với những câu trả lời mà ta có thể chấp nhận. Khi chúng ta làm, chúng ta sẽ có được cảm hứng của những người đã hỏi và trả lời ở những thời đại khác hay ở những nơi khác. Hãy xem họ đã nói gì với chúng ta và hãy sử dụng những gì giúp chúng ta tiếp tục truy tìm cách sống tốt hơn.
Hàng ngàn năm qua, dân Ấn Độ, trẻ hay già đều băn khoăn về cùng câu hỏi liên quan tới chúng ta ngày nay. Đôi khi họ cố đoán con người từ đâu đến và con người đi về đâu sau cuộc sống. Họ cũng đặt thêm vấn đề như chúng ta. Thế giới được tạo ra như thế nào và tiếp tục ra sao? Mục đích của thế giới là gì? Sự khác biệt giữa đúng và sai là gì? Tôi là gì? Vị trí của tôi trong thế giới này là gì? Làm sao tôi có thể tìm ra chính tôi?
Qua nhiều thế kỷ, người Ấn Độ tiếp tục tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi ấy, họ tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ kinh nghiệm của họ trong cách sống. Mỗi thế hệ đưa ra một số đề nghị tiếp theo về loại cuộc sống tốt nhất và lối sống tốt nhất trong vũ trụ. Sau này, người ta quyết định một số các đề nghị ấy phải được viết ra để họ không quên và thay đổi vì đôi khi chúng vô tình chỉ được nói bằng miệng. Những đề nghị trên giấy tờ trở thành kinh của Ấn Độ Giáo. Một số kinh cổ đến nỗi không ai biết khi nào chúng được đưa ra lần đầu tiên những câu trả lời khả dĩ cho câu hỏi của con người.
Những kinh sách cổ nhất là những câu thơ và những bài thánh ca cổ, gọi là Vệ Đà được coi như có khoảng 3000 năm trước. Brahamanas -- luật lệ mà những thầy tu thi hành trong nghi lễ thờ cúng, có vào khoảng giữa 1200 và 1000 năm trước công nguyên. Kinh Upanishads (U Bà Ni Sà Đa) có vào khoảng 800 năm trước công nguyên, là những câu trả lời của các giáo sĩ sống ẩn dật nổi tiếng vào thời gian đó trước những câu hỏi về đời sống và vũ trụ. Những thiên Anh Hùng Ca vĩ đại là những câu thơ triết lý và đạo lý về những anh hùng truyền thuyết và các vị thần. Những thiên anh hùng ca này là những truyện cổ được kể lại qua nhiều thế hệ trước khi cuối cùng được viết vào thế kỷ đầu công nguyên. Một chương ngắn của Thiên Anh Hùng Ca, Dáng đi Bhavagavad Gita, trở thành một phẩm tôn giáo được ưa thích ở Ấn Độ.
Nếu các bạn nhìn tất cả kinh sách này cùng một lúc, bạn sẽ thấy "kinh thánh" của Ấn Độ Giáo dài hơn kinh thánh của Cơ Đốc và Do Thái Giáo nhiều. Mặc dù những phẩm Ấn Độ Giáo đã được dịch sang Anh Ngữ từ nguyên bản tiếng Phạn, rất có thể có những phần của kinh này bạn không thể hiểu được nếu không có sự giải nghĩa của Ấn Giáo. Bạn có thể rất thích thú với nhiều đoạn trong kinh này vì nó chứa đựng những câu chuyện và đề nghị nhắm vào trả lời những câu hỏi mà con người ngày nay vẫn đang hỏi, tại Ấn Độ và tại Hoa Kỳ.
Những chuyện trong những sách này cho thấy rất nhiều người Ấn Độ đã tìm kiếm những câu trả lời. Thí dụ, họ cho thấy người Ấn Độ quý trọng trí tuệ. Trong số những người này có những sinh viên vĩ đại -- không phải trong ý thức của những người được giao cho bài vở tại trường học, mà cho những người không có trường học như chúng ta. Những sinh viên này là những người nghiên cứu và làm sáng tỏ những sự việc chung quanh họ, làm như vậy, họ trở thành uyên bác. Những người bình thuờng nhận xét rằng những người uyên bác hầu như thành công trong cuộc sống. Họ không khó chịu với những việc tầm thường, và cũng chẳng nôn nóng tìm cách để có hạnh phúc. Họ bằng lòng - ở nhà với chính họ. Vì đối với dân chúng điều này dường như là hạnh phúc duy nhất đúng và lâu dài đạt được, người có trí tuệ hồ như trở thành người anh hùng quốc gia.
Trí tuệ được quý trọng đến mức người ta sẵn sàng làm mọi thứ để đạt được nó. Có một câu chuyện Ấn Độ về một vị trưởng giả đã đem tài sản -- 1000 con bò, đồ trang sức quý giá đắt tiền, một cỗ xe với nhiều con la, và cả đứa con gái của ông -- để trả cho một bậc hiền triết nổi tiếng đã dạy ông về ý nghĩa cuộc đời. Người Ấn Độ mô tả người không trí tuệ như con ếch ở trong giếng khô, hay giống như con cá không có nước.
Một câu chuyện trong kinh Upanishads (U Bà Ni Sa Đà) nói về một thanh niên bất hạnh đến học hỏi một vị thầy uyên bác. Đầu tiên thầy này hỏi anh thanh niên những gì anh đã biết rồi. Anh thanh niên trả lời bằng tên sách cùng những đoạn trong sách mà anh nhớ được. Rồi anh buồn rầu nói thêm: "Tôi biết tất cả những thứ này, nhưng tôi không biết chính tôi. Tôi không có hạnh phúc. Xin làm ơn giúp tôi khắc phục được cái bất hạnh này." Vị thầy đồng ý giúp anh, vạch ra khó khăn là do anh đã tìm trí tuệ trong những lời nói hiểu biết về cuộc đời thay vì tìm ý nghĩa trong cuộc sống. Sau một thời gian, dưới sự kèm cặp của vị thầy, anh thanh niên nghiên cứu và thiền định về chính mình và những phản ứng về kinh nghiệm hàng ngày. Anh trở nên hạnh phúc hơn, và sau thời gian học tập, anh cảm thấy đủ khôn ngoan để tự mình tìm kiếm.
Cái gì là hạnh phúc mà người thanh niên tìm thấy trong việc tự nghiên cứu và nhiều người Ấn chuyên cần tìm kiếm ngày nay? Đó chính là điều mà họ quan sát ở những người uyên bác nhất của họ. Tất cả chúng ta đều biết dù sao đi nữa có người không bao giờ có đủ khả năng để giải quyết một việc trong một thời gian quá dài. Người ấy luôn luôn tìm kiếm một thứ gì mới và hứng thú hơn để làm tiếp. Chúng ta biết có người lại ung dung tự tại ở hầu hết bất cứ nơi nào người đó thấy chính mình. Dường như người đó có sự thỏa mãn sâu xa trong tâm khảm. Những người Ấn Giáo nhất trí nói rằng người bạn thứ hai trong số bạn bè của chúng ta hạnh phúc hơn, vì người ấy biết mình hơn.
Giống như người sinh viên trẻ tuổi không hạnh phúc, tất cả đều không bằng lòng khi họ chỉ biết những sự việc có thật, sách vở hay sự vật. Hạnh phúc chỉ có thể đến từ sự hiểu biết chính mình. Cái gì có nghĩa là chính mình? Bạn là ai? Đầu tiên "Bạn" là cái mà người ta nhìn và nghe: cách bạn nhìn, giọng nói của bạn, cử chỉ của bạn, tài ba của bạn. Tất cả các thứ đó có phải là bạn không? Người Ấn Độ giáo trả lời là bạn còn nhiều hơn thế nữa. Nếu bạn nhìn vào gương, hay nghe giọng bạn qua ghi âm phát thanh, hay nhìn bạn trong cuốn phim gia đình, bạn đồng ý với những thứ này. Bạn còn nhiều hơn những cái đó.
Thêm vào phần cá tính của bạn mà người ta nhìn và nghe, còn có bản chất bất thường. Người Ấn Giáo nói có ba mức tính khí thông thường. Mức thấp nhất là tính trì trệ, không muốn thay đổi, hay lười biếng. Mức thứ hai là tính hung hăng, có khả năng bị kích động bởi sức mạnh bên ngoài. Mức thứ ba, mức tốt nhất là tinh thần trầm tĩnh, có khả năng giữ được an nhiên không bị sao xuyến bởi các sức mạnh bên ngoài. Mỗi người đều có một chút ở mỗi một mức độ trong tính khí của mình. Mục đích là loại trừ tính trì trệ và tính hung hăng ra khỏi tính khí của bạn để bạn có thể bình tĩnh và trầm lặng.
Điều này cũng giống như sự nhấn mạnh của người Mỹ về sự tĩnh tâm. Người ta hạnh phúc hơn nhiều khi không bị phiền nhiễu bởi mỗi biến chuyển buồn phiền nhỏ nhặt. Họ có thể nghiên cứu và biết mình rõ hơn khi họ có một tính khí điềm tĩnh. Và họ sẽ không tiến bộ chút nào để có hạnh phúc thực sự cho đến khi họ muốn phát triển cố gắng cần thiết.
Nếu bạn chưa từng bỏ thì giờ nhìn vào bên trong bạn, và cố gắng thăm dò cái bên trong, bạn sẽ nhận thức rằng những sự việc mà chúng ta đã nói đến không phải tất cả là để cho bạn. Bạn có một số thái độ nào đó đối với chính bạn, và những thái độ này là một phần của chính bạn. Dù lúc nào bạn cũng hãnh diện hay xấu hổ, dù bạn mong chờ hay khiếp sợ cuộc đời còn lại của bạn, dù bạn làm nhiều điều phải hơn, hay nhiều điều trái hơn theo tiêu chuẩn của chính bạn -- những sự việc này giúp hình thành cảm nghĩ về chính bạn.Theo người Ấn Đô Giáo, cảm nghĩ về chính bạn nảy sinh từ cách bạn nhìn, và bạn nói và từ tính khí của bạn. Những cảm nghĩ ấy và những sự việc nảy sinh hình tướng hình thành cái mà ta gọi là cái "Ngã bên ngoài".
Ngoài cái ngã bên ngoài, có một cái ngã cốt lõi mà bạn phải biết để được thực sự hạnh phúc. Cái ngã rất quan trọng bên trong là cái Ta. Cực kỳ khó khăn cho bất cứ ai muốn giúp bạn hiểu cách biết cái Ta. Đó là vì chỉ mình bạn có thể biết hoàn toàn cái ngã bên trong của bạn. Các đạo sư Ấn Độ Giáo đã đưa ra một ít gợi ý để giúp ta trong việc tìm cách tự biết mình. Họ nói rằng vì cái Ta là tinh thần bên trong của con người, nó nằm dưới tất cả những kinh nghiệm phù du của cuộc đời. Nó vẫn là bản chất không thay đổi thường còn của bạn. Tất cả những phẩm chất tạo thành cái ngã bên ngoài đều được thu thập chung quanh cái lõi chính, cái Ta, và bị tác động bởi cái Ta này. Nhưng cái Ta lại không bị tác động bởi các phẩm chất ấy.
Một số sự việc tuyệt vời xẩy ra khi người ta biết cái gì là căn bản và cốt lõi trong chính mình. Người đó biết rằng công việc hàng ngày, trước đây có thể đã làm người ấy khó chịu rất nhiều, không thực sự quan trọng. Đó là vì người ấy đã biết được là trung tâm thực sự của cuộc đời người ấy không bị tác động bởi chúng. Người ấy biết nhìn xa trông rộng hơn về kinh nghiệm của mình. Người ấy có tầm nhìn cuộc đời. Người ấy trở nên không thành kiến và ít cảm xúc. Người ấy có thể chọn lựa và phán xét những biến chuyển một cách chín chắn hơn, vì người ấy không bị mù quáng bởi những cảm xúc và thái độ của chính mình. Người Ấn Giáo nói rằng người ấy đã có một bước tiến rất quan trọng tiến tới sự đóng góp quan trọng nhất của con người -- trí tuệ.
CÁI GÌ LÀ THỰC?
Những người Ấn Độ Giáo nghiên cứu câu hỏi về cái ngã thực sự là gì, đồng thời họ cũng băn khoăn về thế giới của họ. Nó là loại thế giới gì? Sức mạnh nào đã tạo ra thế giới này và vẫn làm cho nó tiếp diễn? Họ nhìn chung quanh và thấy cây cối, núi non, đồng bằng và sông ngòi. Họ thấy mưa và gió. Ho biết đến tất cả những sinh vật cùng chia sẻ với họ trên trái đất.
Họ hiểu rằng không thể nói thế giới là một trong những thứ đó. Cũng chẳng phải thế giới là tất cả những thứ mà họ nhìn thấy, cảm thấy và biết đến. Thế giới còn nhiều hơn tất cả những thứ này. Sức mạnh làm thành thế giới và làm thế giới tiếp tục đương nhiên nhiều hơn những thứ trong thế giới. Nhưng thế giới này, họ quyết định, là một bằng chứng của sức mạnh đó, giống như chính họ. Tất cả mọi thứ trong toàn thể vũ trụ, kể cả họ, là kết quả vận hành của lực sáng tạo và tiếp diễn. Tất cả mọi thứ đều họ hàng với nhau, rồi vì tất cả đều có cùng một nguồn gốc.
Tư tưởng như vậy khiến họ kết luận là có một sự đồng nhất căn bản của tất cả sự sống và tất cả kinh nghiệm. Người Ấn Độ Giáo sẽ nói với chúng ta tất cả những khác biệt bên ngoài mà người ta cho là quá quan trọng chỉ là tầm thường và tạm bợ. Những thứ đó dường như là quan trọng vào thời điểm này, nhưng chẳng mấy chốc chúng biến đi hay thay đổi. Thí dụ, tất cả chúng ta có thể phân biệt một chúng sinh và những nguyên tố của trái đất. Tuy nhiên, lúc chết tất cả chúng sinh đều phải quay về thành nguyên tố. Không có một ngoại lệ nào cả. Người Ấn Độ Giáo nhắm vào minh họa như vậy là cố gắng nói rằng ngay từ lúc khởi thủy đã có sự đồng nhất (không có khác biệt). Cuối cùng sẽ có sự đồng nhất. Chỉ là một vấn đề thời gian.
Trong Rig Veda (Vệ Đà) có một bài thánh ca Ấn Giáo về Sáng tạo, bài này giải thích thế giới xuất hiện ra sao. Bài thánh ca này nhấn mạnh đến sự đồng nhất lúc khởi thủy, và không có sự khác biệt nào:
Chẳng phải sự hiện hữu, cũng chẳng phải điều trái ngược của nó,
Chẳng phải trái đất, chẳng phải vòm trời xanh thiên đường, chẳng phải cái gì ở bên kia
Chẵng phải cái chết, cũng chẳng phải bất tử, Ngày là đêm, đêm là ngày, chẳng phải ngày, chẳng phải đêm
Đã tới để bắt đầu.
Bài thánh ca tiếp tục nói về sức mạnh đằng sau thế giới này:
Rồi cái đó, nguồn gốc nguyên thủy
Của Ánh Sáng - bất động -- nghỉ ngơi và hành động nối tiếp
Bao trùm trong niềm vui lặng lẽ. Bên cạnh nó
Trong vũ trụ bao la, không có gì cả.
Điều quan trọng mà bài thánh ca nhấn mạnh là sự đồng nhất tối cao của Cái đó (hay cái duy nhất đó), tất cả đều nằm đằng sau hay vượt qua cả hiện hữu và không hiện hữu. Trong cái đó không có khác biệt. Nghỉ ngơi và hành động nối tiếp, thí dụ. Mọi thứ đều thống nhất.
Người Ấn Giáo dùng Cái đó để chỉ Đấng tối thượng, Bà La Môn. Họ dùng đại từ vô tính để tránh bất cứ ý niệm nào về Thượng Đế hay Đấng Sáng Tạo giống như người hay Nguyên Tắc Thứ Nhất. Họ tin rằng Bà La Môn là thực tại tối thượng ở phía bên kia và vượt qua mọi sự vật mà con người tìm ra là "thực" khi chứng thực chứng qua giác quan.
Đây là một quan niệm về Thượng Đế khác với Thượng Đế của hầu hết người Cơ Đốc Giáo và Do Thái Giáo. Nhiều người dùng từ "Thượng Đế" để chỉ một Thượng Đế được nhân cách hóa -- đó là, một Thượng Đế có những đặc tính như người. Thí dụ, chúng ta thường quen với những thành ngữ như, "Thượng Đế thương yêu", "Thượng Đế Nhân Từ", "Bộ Mặt Thượng Đế", "Tay Thượng Đế". Người Ấn Giáo nói miêu tả cá tính con người như vậy là phẩm tính con người ngưỡng mộ ở nơi người khác. Và vì họ tin Thượng Đế thiện vô cùng tận, người ta phỏng đoán Thượng Đế có vô số những phẩm tính đáng ngưỡng mộ. Người Ấn Giáo nói, nhưng Thượng Đế -- nếu chúng ta dùng từ ấy để chỉ thực tế và bản chất thực sự của vũ trụ -- thì vượt quá sự tượng trưng con người như vậy. Và đó là điều mà họ cho là Bà La Môn, hay Cái đó.
Trong Ấn Độ Giáo có những vị thần cá nhân được tôn thờ bởi những người thích làm như vậy. Thường chính là những vị thần này mà chúng ta được biết đến trong sách vở về Ấn Độ Giáo. Theo huyền thoại người Hin đu, những vị thần có vợ (cũng được thờ cúng), và họ cũng sống giống như chúng sinh. Trong số các thần này, có ba vị được tôn sùng nhất ngày nay bởi người Ấn Giáo. Ba vị cùng nhau tạo thành Ba ngội: Phạm Thiên, Đấng sáng tạo; Vishnu, Đấng cứu rỗi; Shiva, Đấng phá hoại và khôi phục.
Người Ấn Độ Giáo tin là sự sáng tạo thế giới là việc tiếp diễn mà con người chia sẻ, không phải là một thứ gì xẩy ra đã lâu trong quá khứ. Cho nên, họ tin ba vị thần làm việc để thi hành việc sáng tạo tiếp diễn. Cuối mỗi chu kỳ hay thời gian dài sáng tạo Thần Shiva tiêu diệt thế giới cũ. Phạm thiên tạo thế giới mới. Trong chu trình này, con người gặp khó khăn không thể tự giải quyết một mình được, thần Vishnu xuất hiện như một con người hay dưới một hình thái khác, với thần thông đặc biệt, đem đến sự giúp đỡ cần thiết.
Nhiều vị thần và nữ thần khác cũng được tôn thờ theo bất cứ cách nào con người thấy thích hợp, với cầu nguyện, tán dương và lễ vật. Những người sùng đạo kêu cầu các vị thần này phù hộ tất cả các giai đoạn của cuộc đời. Tuy nhiên cả đến trong khi họ thờ cúng các vị thần cá nhân, những người trí thức Ấn Độ Giáo biết rằng các vị thần thực chất là lý tưởng của con người mà con người tưởng tượng ra trở thành thực tế khách quan. Những vị thần này thực sự không hiện hữu dưới hình thức mà con người nghĩ rằng các vị thần hiện hữu. Chức năng thực sự của việc thờ cúng những vị thần cá nhân là để hướng dẫn người lễ bái có kiến thức về Bà La Môn, Bà La Môn vượt qua tất cả những băn khoăn và ức đoán của con người về vũ trụ.
Người ta thường đưa ra câu hỏi rắc rối nhất trơng tất cả những câu hỏi: "Tại sao thế giới được tạo ra? Theo những người Ấn Độ Giáo con người không tìm được câu trả lời rốt ráo, về điều đó bài thánh ca về sự Sáng Tạo của họ ghi câu trả lời:
Chao ôi, vô ích thay là những lời nói, và yếu đuối thay những tư tưởng cực đoan!
Ai ở đấy mà thật sự biết, và ai có thể nói được,
Thế giới khó dò này từ đâu đến, và từ nguyên nhân nào?
Không, cả đến những vị thần cũng không phải! Vậy Ai, có thể biết?
Nguồn gốc mà từ đó vũ trụ này xuất hiện,
Nguồn gốc đó, một mình nguồn gốc đó có thể gánh vác --
Không ai ngoài: Cái đó, một mình Cái đó, Chúa tể của những thế giới,
Trong cái ngã sở chứa đựng, không tỳ vết
Như những bầu trời trên cao, Cái đó một mình biết
Chân lý của cái gì thì chính Cái đó làm thành -- ngoài ra không ai cả!
Nhưng nếu con người không biết lý do sáng tạo ra thế giới, họ có thể biết điều gì đó quan trọng hơn. Họ có thể biết Phạm Thiên. Kinh Ấn Độ Giáo đầy những gợi ý về cách một người có thể sống cuộc đời của mình để trải nghiệm sự đồng nhất cơ bản đó là mô hình của tất cả sáng tạo. Khi bạn biết cái Ta, "ngã bên trong" của chính bạn, bạn cũng biết trung tâm của vũ trụ, Phạm Thiên, Cái "ngã bên trong" của tất cả sáng tạo. Người ta có thể biết Phạm Thiên chỉ bằng cách hiểu chính mình. Người theo Ấn Giáo nói. "Ai biết chính mình sẽ biết Thượng Đế"
Một bản thánh kinh mô tả việc trên như sau:
Tinh thần trong tôi nhỏ hơn hột giống cây mù tạc,
Tinh thần trong tôi lớn hơn quả đất này, bầu trời và thiên đường, và tất cả những thứ đó gom lại. Đó là Phạm Thiên.
Hạnh phúc nằm trong hướng tìm ra ý nghĩa thực sự: cái ngã thực sự, bản chất thực sự của vũ trụ. Bà La Môn tự nó biểu lộ ở nhiều cách -- ở con người qua cái Ta. Nhưng Bà La Môn không phải là một trong những biểu lộ: Cái đó vượt qua tất cả. Khi một người thực sự hiểu biết cái Ta, thì người ấy có thể hiểu Bà La Môn. Khi người ấy biết cả hai, người ấy thấy cái Ta và Bà La Môn hợp nhất. Và con người nhận thức được kiến thức tối thượng, đạt hạnh phúc tối thượng. Tất cả những sinh vật cùng những sự sáng tạo của trái đất cũng giống như thế, quan tâm đến toàn bộ Bà La Môn. Không có nhiều dạng, không có khác biệt thực sự trong bất cứ phần nào của thực tại. Tất cả đều giống nhau. Tất cả là một. "Đó là Bà La Môn".
3. TÔI CÓ VỊ TRÍ GÌ TRONG VŨ TRỤ?
Tại sao tôi không được sung sướng?
Tại sao tôi làm quá nhiều lầm lỗi?
Tại sao tôi thường quá sợ hãi?
Đó là những câu người ta tự hỏi hay hỏi những người khác khi họ nghĩ về những cách sống trong cuộc đời. Hàng ngàn năm qua, con người ở mọi chủng tộc, mọi quốc gia dường như đã đưa ra những lời giải thích tốt về cách đạt được hạnh phúc. Tuy nhiên, người ở mỗi thế hệ và ở mỗi xứ sở, sống không hạnh phúc và đôi khi cuộc sống không ra gì -- theo lời thú nhận của chính họ.
Người Ấn Độ Giáo nói một trong những lý do lớn nhất cho bất hạnh phúc của con người là ảo tưởng (maya). Mỗi người sinh ra trên cõi đời này đều bị bối rối và thấy khó mà biết được những việc quan trọng bằng kinh nghiệm của mình vì ảo tưởng. Thế giới này là ảo tưởng (maya) có ý nghĩa là lúc nào cũng thay đổi thành một cái gì khác và sự thay đổi cứ tiếp diễn không ngưng nghỉ. Không ai có thể biết thế giới này là gì, vì thế giới chẳng bao giờ là cái gì nghĩa là nó không bao giờ đứng yên đủ lâu để có thể nghiên cứu và giải thích; nó lúc nào cũng đang bắt đầu. Cho nên con người dễ dàng trở thành say mê luyến chấp nhiều vào cái thực ra rất tầm thường.
Người Ấn Độ Giáo không có ý nói thế giới này không quan trọng nhưng họ nhấn mạnh vào sự thật là thế giới mà ta nhìn thấy không phải là thế giới thực sự. Thế giới đó luôn luôn làm cho ta bối rối. Thí dụ bạn nhìn đường rày trên nền đường sắt, bạn sẽ thấy những đường sắt ấy gặp nhau ở một khoảng cách xa. Thật ra chúng không gặp nhau, nhưng dưới mắt bạn, nó dường như gặp nhau.
Mắt, tay, tai, sờ mó -- tất cả những thứ đó đánh lừa ta nhiều lần. Làm sao chúng ta có thể quá chắc rằng thế giới mà ta "biết" qua kinh nghiệm đầu tay của ta là thế giới thực sự? Chúng ta không thể chắc chắn được, người Ấn Độ Giáo trả lời như vậy. Vì lẽ chúng ta thường bối rối bởi sự thật hiển nhiên, chúng ta phải học cách giải thích tất cả kinh nghiệm của chúng ta để tìm ra thực tế.
Dù người uyên bác có cẩn thận giải nghĩa đến thế nào đi nữa về nguy cơ nhầm lẫn vì ảo tưởng và tầm quan trọng của việc hiểu biết về cái Ta và Bà La Môn, vẫn có những người sống một đời khổ sở. Những người Ấn Độ Giáo quan tâm đến những người bất hạnh này. Tại sao việc này xẩy ra? Làm thế nào có thể ngăn chặn nó? Họ băn khoăn với những sự việc như vậy vì sự bất bình đẳng về khả năng giữa con người, những sự không bằng nhau trong niềm vui và đau đớn. Họ muốn có sự giải thích hợp lý.
Họ kết luận rằng gần như vô nghĩa khi nói việc ấy là do rủi ro hay may mắn, hay Bà La Môn chịu trách nhiệm về những bất bình đẳng ấy. Việc đó làm cho Bà La Môn không công bằng và độc đoán. Nó không làm người hỏi thỏa mãn khi nói rằng tất cả những khác biệt sẽ được giải quyết ở cõi bất diệt nào đó trên "thiên đường" hay "địa ngục", vì con người ta dường như không rơi vào hai nhóm "thiện" và "ác" riêng biệt.
Người Ấn Đô Giáo đã tìm thấy câu trả lời thỏa mãn trong niềm tin vào sự đầu thai (hay nhập hồn). Mỗi người đều có rất nhiều kiếp sống và sẽ tiếp tục có nhiều kiếp sống -- đủ để khám phá ra mình thực là ai. Đời là trường học cho con người; trong trường đời này con người biết đến cái Ta và Bà La Môn. Khi họ đạt được kiến thức này, con người rời bỏ trường đời. Người đó không cần phải tiếp tục vào nữa; người đó đã học xong.
Người Ấn Độ Giáo miêu tả đời sống như một dòng suối hay con sông, nó chảy không ngừng, không có khởi đầu và cũng không có tận cùng. Tất cả mọi thứ đều là một phần của dòng: đất đá, cây cối, muông thú, con người và vân vân... Mọi thứ hiện hữu đời này qua đời khác cho đến khi có kiến thức về sự đồng nhất của cái Ta và Bà La Môn. Mỗi người sẽ có nhiều cơ hội để đi đến tự biết mình khi cần thiết. Thuyết đầu thai đem hy vọng cho tất cả mọi người. Không ai có thể bị trừng phạt trong một thời gian vô hạn vì một số lỗi lầm có hạn.
Có một định luật vũ trụ hoạt động suốt cuộc đời. Gieo gì phải gặt nấy ở một lúc nào đó và ở một chỗ nào đó. Đó là định luật: mỗi hành động, mỗi ý định hành động, mỗi thái độ đều mang quả của riêng nó. "Người trở thành thiện do những hành động thiện và trở thành ác do những hành động ác", một câu trong những tác phẩm thiêng liêng của người Ấn Độ Giáo viết. Câu này có nghĩa là mỗi người phải chịu trách nhiệm về hoàn cảnh chính mình, dù người ấy bối rối, lúng túng và bất hạnh -- hay hạnh phúc. Chúng ta muốn đổ lỗi cho một người khác, có lẽ cha mẹ chúng ta. Hay chúng ta muốn đổ lỗi cho ông bà chúng ta và cả đến Bà La Môn. Nhưng đổ lỗi chỉ là tránh vấn đề thực tế. Bạn là bạn vì những cái mà bạn đã làm trong quá khứ. Đối với người Ấn Độ Giáo, đương nhiên, quá khứ gồm tất cả những kiếp sống trước của bạn. Mỗi người có thể cắt đứt quá khứ bằng cách trải rộng tâm mình và giành được kiến thức về cái ngã thực sự của mình.
Những tài liệu của người Ấn Độ nhấn mạnh rằng ta phải nỗ lực để biết cái Ta nếu ảnh hưởng về bất hạnh trong quá khứ sẽ được bỏ đi hay loại bỏ. Nhưng người ta thường không lấy điều này làm mục đích của mình. Họ không lưu tâm đến bản chất thực sự của mình, và đây là tội lỗi chính mà họ phải chịu. Họ không hay biết gì về khả năng thực sự của mình. Nhiều người trong chúng ta bị chìm đắm trong đường mòn của thói quen và để những hành động và thái độ quá khứ ngự trị chúng ta theo cách chúng ta phản ứng với tình huống hiện tại thay vì khao khát mục tiêu cao cả hơn. Việc này giống như người trèo núi thất bại không tới được mục tiêu vì sợ cao nên quên đi cái ham thích của chính mình là trèo núi.
Nhiều người sống không nghĩ gì về việc này mà chỉ phản ứng theo cách mà họ thường có. Người Ấn Độ Giáo mô tả những người này là "vội vã như có ma quỷ trong đầu; bị cắn bởi thế gian này như ta bị cắn bởi con rắn lớn". Khi một người thấy mình chạy loanh quanh một cách xao lãng như vậy, người ấy phải ngưng lại và tự nhắc mình, "Đó không phải là bản tính thực sự của tôi. "Đôi khi người ta làm những việc mà chính người ta không hiểu. "Tại sao tôi làm cái đó?" Ta tự hỏi sau này. Đôi khi như thể cánh cửa đóng bên trong đột nhiên mở tung ra và những thứ bị tắc nghẽn bên trong đổ tung ra trước khi chúng ta ngưng chúng lại. Thỉnh thoảng những vụ nổ bên trong kèm theo nhiều bộc lộ cảm xúc: chúng ta giận dữ, chúng ta buồn bã, chúng ta ủ rũ, chúng ta nổi cơn thịnh nộ. Những hành động như vậy không phải lối lựa chọn khôn ngoan mà đó là gánh nặng của thái độ và hành động trong quá khứ mà ta mang theo. Cách vượt qua ảo tưởng lẫn ảnh hưởng của quá khứ là ngưng ngay lại và hỏi, "Nhưng tôi thực sự là cái gì? Cái gì là cái Ta?"
CHẾ ĐỘ ĐẲNG CẤP VÀ NHIỆM VỤ
Theo giáo lý Ấn Độ Giáo, mỗi người có một vị trí riêng trong cuộc sống và trách nhiệm riêng biệt. Mỗi người được sinh ra ở một chỗ với những khả năng riêng biệt vì những hành động và thái độ trong quá khứ. Điều này giải thích nguyên mẫu xã hội Ấn Độ và nó bao gồm cái gọi là đẳng cấp. Có bốn đẳng cấp chính, ghi trong các tác phẩm Ấn Giáo: (1) nhóm trí thức - thầy tu, (2) tầng lớp quý tộc, kể cả quân nhân, (3) nhóm hành chính gồm có những nhà buôn và địa chủ; và (4) số lớn dân chúng làm những việc thông thường trong xã hội. Giai cấp gọi là "tiện dân" hay "người bị ruồng bỏ" (mới đây bị hủy bỏ do luật của Ấn Độ) gồm có những người có nguồn gốc thuộc những phân nhóm khác của giai cấp thứ tư, quần chúng nhân dân. Do những điều kiện xã hội và kinh tế khác nhau, họ "mất đẳng cấp", hay mất vị trí trong xã hội.
Trong bốn đẳng cấp, có mười hai nhánh. Qua nhiều năm, hơn một ngàn thứ bậc đẳng cấp đã xuất hiện trong đời sống xã hội Ấn Độ, nhưng tất cả đều thuộc một trong bốn nhóm chính. Trong đời sống xã hội bình thường, ranh giới đẳng cấp thường phản ảnh bất công thực sự và thành kiến nặng nề. Nhiều người Ấn Độ Giáo chín chắn ngày nay nhận thức là sự lạm dụng đã lén vào chế đô này. Vào thế kỷ thứ hai mươi, nhiều cố gắng đã được thực hiện theo chiều hướng loại bỏ một số bất công trắng trợn. Ngài Gandhi là người đã đem hết sức lực để phục hồi "tiện dân" vào địa vị có đẳng cấp.
Hệ thống đẳng cấp dùng để đem lại cho mỗi người một chỗ thích hợp trong xã hội, với một số nhiệm vụ phải thi hành theo cách tốt nhất mà người ấy có thể. Giống như không có ai có thể là một người khác nào đó, cũng chẳng có thể rút mình ra khỏi đẳng cấp này trong đời sống để đi vào một đẳng cấp khác. Trong những lần tái sanh tiếp diễn, người ấy có thể cải thiện vị trí của mình -- nếu người ấy làm tốt bổn phận hiện tại của mình. Tại Ấn người ta cũng dạy rằng ngay cả những người thuộc đẳng cấp thấp nhất cũng có thể đạt được kiến thức đầy đủ về cái Ta, nếu họ cố gắng ra công đủ. Bằng cách đó họ có thể giành được cảm tưởng thỏa mãn lớn nhất mà đời hiến dâng cho họ.
4. MỤC ĐÍCH ĐỜI TÔI SẼ LÀ GÌ?
Một câu hỏi khác nảy sinh nhiều lần trong tâm trí người Ấn Độ: "Đời tôi để làm gì? hoặc "Tôi phải làm gì với đời tôi? Những người Ấn Độ Giáo chín chắn đi đến chỗ tin rằng có bốn mục tiêu cơ bản, gồm có tất cả những phần có giá trị về hoạt động của con người và mang lại mục đích cho mỗi đời sống.
Mục đích quan trọng nhất mà mỗi người phải vươn tới là thoát khỏi ảnh hưởng của bất hạnh trong quá khứ. Mỗi người đều có mục tiêu căn bản suốt cuộc đời là thoát khỏi ảo tưởng thông qua sự hợp nhất với Bà La Môn. Để giúp con người tiến tới đạt được mục tiêu này, có những mục tiêu khác ít quan trọng phải được thi hành trên con đường đó.
Một trong những mục tiêu này là đời sống lạc thú, thực hiện tất cả những ham thích bình thường của con người, kể cả ham thích rất quan trọng bắt nguồn từ nhục dục. Người Ấn Độ Giáo không bác bỏ kinh nghiệm giác quan về cuộc đời -- phát triển quan hệ sáng tạo với người khác, biết thẩm mỹ, biểu lộ tình dục. Những người Ấn Độ Giáo coi trọng kinh nghiệm này khi được dùng đúng cách và không được coi như là những mục tiêu duy nhất của đời sống. Đời sống lạc thú là một trong bốn mục tiêu của con người.
Một mục tiêu khác của con người là tham gia vào hoạt động kinh tế hay phúc lợi công cộng, bao gồm một số công việc hay nghề nghiệp có giá trị. Mỗi người có bổn phận với chính mình và với xã hội để làm một số công việc có ích. Vì việc này người ấy sẽ nhận được tiền cần thiết cho nhu cầu hàng ngày, và thông qua đó người ấy đóng góp vào phúc lợi chung. Trách nhiệm kinh tế của một người đối với cộng đồng không được coi thường là không quan trọng vì nó là một trong bốn mục tiêu của đời sống.
Thành tựu quan trọng thứ tư cho mỗi người Ấn Độ Giáo là sống đúng luân lý hay sống đạo đức. Ta có bổn phận đối với chính ta và đối với người khác để làm những gì được trông đợi ở chính mình về luân lý và đạo đức. Bổn phận đã được phân định khá rõ ràng tại Ấn Độ, cho mỗi một đẳng cấp có một luật lệ hành động và thái độ mà mỗi thành viên phải thi hành. Và đối với luật lệ này, một người phát nguyện bằng nỗ lực của mình nếu muốn đạt một đời sống tốt đẹp.
Một phần lớn giáo lý Ấn Độ Giáo đề cập đến khái niệm bổn phận luân lý. Vì người Ấn Độ Giáo nhấn mạnh đến sự đồng nhất của tất cả cuộc sống, họ tin một người quan trọng đối với tất cả những người khác. Điều này có nghĩa là mỗi người phải học hỏi để vượt qua quyền lợi vị kỷ của mình. Khi quyết định phải làm gì, hầu hết mọi người muốn nói, "Tôi sẽ có lợi gì từ việc này?" Người Ấn Độ Giáo nói chúng ta tìm hạnh phúc lâu dài khi chúng ta làm một việc vì đối với chúng ta trong hoàn cảnh của chúng ta đó là điều chính đáng không quan tâm đến lợi lộc mà ta nhận được.
"Bạn có quyền làm việc và chỉ làm việc không thôi, chứ không phải thành quả của nó. Ham thích thành quả của làm việc không bao giờ là động cơ để làm việc... Khốn khổ thay cho những ai làm việc vì kết quả." Câu trên đây được viết trong bản kinh thiêng liêng của họ.
Chúng ta thường nói hơi giống nhau khi nhận thấy rằng, người chơi vì thích chơi sung sướng hơn là người chơi để thắng. Càng mê thắng cuộc thì lại càng thua. Mặt khác nếu chơi để mà chơi, kết quả sẽ tự nó lo liệu. Được hay thua, người ấy sẽ thỏa mãn về cuộc chơi. Người Ấn Độ Giáo nói điều đó giống như tất cả những hoạt động trong đời. Điều quan trọng là chúng ta cảm thấy cái chúng ta làm và cách thức chúng ta làm -- không phải là cái mà ta đạt được từ việc đó.
NHỮNG GIAI ĐOẠN TRONG ĐỜI NGƯỜI
Những người Ấn Độ Giáo thời cổ đã biết có những thời kỳ trong đời sống của một con người có thể đạt được mục tiêu dễ dàng hơn thời kỳ khác. Họ chia đời sống thành một số giai đoạn, rồi họ cố gắng vạch ra những lạc thú hay hành động thích hợp cho mỗi giai đoạn. Chỉ dẫn về bốn mục tiêu sẽ được cung cấp tùy theo sự sẵn sàng học hỏi về những mục tiêu này và khả năng để hoàn thành mục tiêu vào lúc ấy.
Thí dụ, trẻ nhỏ không cần phải lo lắng về những bổn phận kinh tế và đạo đức sau này của nó đối với xã hội. Trẻ nhỏ sẽ có thì giờ học hỏi về những thứ ấy khi trưởng thành. Trẻ nhỏ cũng chẳng cần sẵn sàng cho việc thực hành tôn giáo của người lớn. Cho nên, sẽ là dại dột đi trông đợi đứa trẻ hoàn thành những mục tiêu của người lớn. Những người có bổn phận đối với những luật lệ đẳng cấp đòi hỏi họ phải bỏ nhiều thì giờ và nỗ lực vào hoạt động kinh tế không phải quá lo lắng về mục tiêu quan trọng nhất là thống nhất cái Ta với Bà La Môn. Điều này rất đúng cho nhóm đẳng cấp thấp nhất, công nhân. Tuy nhiên, những người Ấn Độ không bao giờ cho rằng những người thuộc đẳng cấp thấp nhất không thể hiểu được sự thống nhất này trong đời sống hiện taị của họ. Hoàn toàn không được đòi hỏi họ vì họ đã quá bận với những trách nhiệm khác.
Tất cả nam giới của ba đẳng cấp cao hơn được khuyên nhủ theo đuổi kế hoạch sống đã được đề nghị, qua đó họ có thể đạt được tất cả mục tiêu. Những đạo sư thời cổ phát triển kế hoạch này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nghiên cứu và làm sáng tỏ đời sống. Theo kế hoạch này, người ta sẽ lần lượt trải qua các giai đoạn là học sinh, chủ hộ, người nghỉ hưu, và đang đi khỏi kiếp trầm luân tinh thần.
Giai Đoạn Học Sinh. Thời gian bỏ ra trong giai đoạn này thì khác nhau, tùy theo đẳng cấp riêng. Tất cả nam giới trẻ của những đẳng cấp cao hơn đều phải sống một thời gian với vị gia sư tôn giáo dạy về trí tuệ cổ xưa của Ấn và hướng dẫn đọc sách thánh. Mỗi học sinh được giúp đỡ trực tiếp học về ý nghĩa cuộc đời và được khuyến khích tìm một chỗ thích hợp trong đó.
Theo truyền thống, không một người thanh niên nào đang còn ở trong giai đoạn học sinh lại lập gia đình. Tuy nhiên, ở Ấn Đô thời nay, nhiều tập tục cổ không được nghiêm túc gìn giữ như trước đây. Ngày nay một số cuộc hôn nhân nay xẩy ra trước khi người thanh niên hoàn tất giai đoạn học sinh thường lệ -- nhưng số này cũng chỉ là số ít nếu đem so sánh. Nhiều bậc cha mẹ người Ấn vẫn chọn vợ cho con. Vì những sắp xếp lứa đôi do cha mẹ, thường thường khi đôi lứa này còn rất trẻ, người thanh niên không bị mất thì giờ học hành để tìm hiểu người vợ tương lai của mình.
Nói chung, không có một thói quen xã hội nào có thể so sánh được với hò hẹn tại Hoa Kỳ ngày nay. Người lớn không có ý cho rằng giới trẻ không lưu ý đến người khác giới. Họ chỉ lo liệu để mối quan tâm này sẽ không bị khơi gợi quá mức trước khi những thanh niên này sẵn sàng biết trách nhiệm về con cái. Đối với ba đẳng cấp trên, điều này thường có nghĩa là sau khi người thanh niên đã qua giai đoạn học sinh của đời họ. Hiện nay luật của Ấn Độ qui định người con gái ít nhất phải mười lăm tuổi trước khi có thể đi lấy chồng; con trai không thể lấy vợ trước mười tám tuổi.
Có những lý do tại sao giai đoạn học sinh lại đã quan trọng phải được hoàn tất. Mỗi người đều có khả năng tự nhiên để lo lắng về đời sống và nêu câu hỏi về cuộc đời. Nhiều những câu hỏi này lớn đến mức chưa có ai có thể tìm được một phần câu giải đáp, nhưng con người dường như bằng cách này hay cách khác cố gắng tìm câu trả lời, để học hỏi và tiếp tục học hỏi. Giai đoạn học sinh xúc tiến tiến trình học tập.
Theo người Ấn Độ Giáo, việc này cũng cho thêm một may mắn, cái mà họ gọi là "sự ra đời lần thứ hai". Sự ra đời lần thứ nhất là một biến cố mà ta không kiểm soát được, nhưng sự ra đời lần thứ hai là một phần của sự thành công do nỗ lực của chính mình. Người Ấn Độ gọi đó là tái sinh tinh thần: người thanh niên bắt đầu thấy có ý nghĩa cuộc đời. Chủ yếu là ta phải hiểu ý nghĩa cuộc đời trước khi ta gánh vác bổn phận gia đình.
Giai Đoạn Chủ Hộ. Mặc dầu ta phải giữ sự ham muốn học hỏi của học sinh, nhưng ta không thể ở mãi với vị đạo sư. Không bao lâu, người học sinh thành gia thất và phải nắm trách nhiệm làm cha mẹ. Trong giai đoạn chủ hộ, người Ấn Độ Giáo có thể đạt được ba trong số bốn mục tiêu của cuộc đời. Họ có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong lạc thú, vì quan hệ hôn nhân giúp giải tỏa tất cả những sức lực và ham muốn căn bản con người. Vì là một thành viên trong gia đình đòi hỏi người ấy phải đóng góp phần mình vào sự ổn định kinh tế của xã hội do năng xuất. Và chắc chắn người chủ hộ có cơ hội chu toàn bổn phận theo luật lệ đạo đức của đẳng cấp mình. Nếu Ấn Độ đã thay đổi chậm chạp qua nhiều năm, thì đó là vì quyền lợi và bổn phận riêng biệt họ phải tuân theo đã ràng buộc từng người ở từng đẳng cấp.
Giai Đoạn Nghỉ Hưu. Ba mục tiêu có thể đạt được trong giai đoạn chủ hộ rất quan trọng. Nhưng những mục tiêu này phải đóng góp vào một mục tiêu lớn hơn -- tìm ra cái ngã thực sự và bản chất thực sự của vũ trụ. Cho nên, người Ấn Độ Giáo cung cấp cho bước thứ ba, rút lui khỏi đời sống công cộng, và vào thời điểm này người ta (cùng với vợ, nếu họ muốn như vậy) có thể quay trở lại những lợi ích của một học sinh. Sau khi đứa cháu đầu tiên sinh ra, ta được phép rút khỏi công việc hay hoạt động nghề nghiệp, không còn phụ trách trách nhiệm trực tiếp về gia đình, và về sống ẩn dật trong rừng để nghiên cứu. Trong một nhóm những người về hưu có cùng khuynh hướng, người học sinh trung niên bây giờ có cơ hội đẩy mạnh hơn nữa những câu hỏi trong những ngày còn là học sinh: Ý nghĩa của đời sống là gì? Thượng Đế như thế nào?
Không phải mọi người tại Ấn Độ có thể tiếp tục tới giai đoạn này. Những người của đẳng cấp cao có nhiều may mắn hơn để tiếp tục vì hoàn cảnh kinh tế thuận lợi hơn. Người dân Ấn Độ sống trong nhóm gia đình lớn thay vì gia đình một vợ một chồng như người Mỹ thường sống. Nếu một người rời bỏ đại gia đình, người ấy không thấy thiếu thốn nhiều như trong kiểu gia đình một vợ một chồng. Ngay cả tại Mỹ quốc, một số người thôi không kinh doanh nữa sau khi con cái có gia đình. Ở Ấn Độ, một người nghỉ hưu không những rút lui khỏi công việc mà cũng rút lui khỏi những hoạt động thường nhật của một người chủ hộ hay giai đoạn gia đình. Người ấy đã bỏ những nhu cầu về những loại thú vui và hoạt động trước đây. Người ấy muốn ngẫm nghĩ, nghiên cứu và thiền định.
Giai Đoạn Người Hành Hương Tinh Thần Giai đoạn thứ tư có thể được thực hiện -- nhưng ít người đi vào giai đoạn này. Nếu người ấy cảm thấy sẵn sàng làm được việc này, người ấy có thể rời bỏ nơi ẩn dật, làng xóm và nhóm bè bạn tương đắc. Mang theo gậy và bình bát khất thực, người ấy lang thang chỗ này đến chỗ kia không có lo âu hay không lo lắng- ăn bất cứ cái gì được cho từ ân tình của những người dân trong làng mà người ấy đi qua. Người ấy giúp dân bằng cách chia sẻ trí tuệ của mình về ý nghĩa đời sống hay bằng sự hiện diện của mình. Người ấy có thể sống một thờì gian làm gia sư cho học sinh trẻ; nhưng khi đã hoàn tất nhiệm vụ, người ấy lại cất bước lên đường lang thang.
Người Tây Phương thường hay khinh miệt lý tưởng này. Tuy nhiên, vì những người Ấn Độ biết chuyện Jesus vạch ra, Jesus cũng đòi hỏi như vậy nơi các đệ tử thân cận của mình. Họ phải từ bỏ mọi thứ -- kể cả bổn phận gia đình - để theo Jesus. Với những ai sẵn sàng theo bước đi, Ngài mời: Hãy rời bỏ mọi thứ. Tìm kiếm ý nghĩa còn quan trọng hơn bất cứ thể chế nào - cả đến gia đình. Người Ấn Độ Giáo đi hành hương lang thang bộc lộ lòng tin vững chắc này một cách ấn tượng khi người ấy rời bỏ mọi dấu vết của tiền kiếp, hoàn toàn tận tụy vào cố gắng hiểu cái ngã thực sự. Sự cố gắng này có thể dẫn đến khổ sở vật chất và cô đơn, những những người Ấn Độ Giáo hành hương tin những điều ấy không quan trọng, vì cái Ta nằm bên kia an nhàn và tình bè bạn.
Ấn Độ Giáo dạy chúng ta rằng chúng ta có thể tìm thấy cái ngã thực sự chỉ khi chúng ta tìm kiếm một cách thành thực. Sự tìm kiếm bắt đầu trong những ngày còn là học sinh. Nó tiếp diễn qua thời kỳ gia đình và thời kỳ nghỉ hưu. Việc tìm kiếm không dính líu gì đến việc từ bỏ bất cứ thứ gì tự nhiên. Ta không nên cố gắng trấn áp hay triệt phá một phần đời sống của mình, cảm nghĩ của mình hay cảm xúc của mình. Ta nên cố gắng hiểu mọi ham muốn, thôi thúc, và những cảm nghĩ xem chúng là gì.
Đối mặt với những điều này một cách thành thật, người ta có thể khám phá ra nhiều thứ về chính mình. Khi người ấy khám phá ra mình là gì, người ta khám phá ra khả năng làm gì nhất. Làm điều đó với tất cả tâm tư chỉ vì muốn làm việc đó, và làm việc đó với lòng thương yêu, người ta khám phá ra người ấy đang thờ phụng. Để tôn thờ Thượng Đế là đồng thời tìm thấy cái ngã thực sự và ý nghĩa của nó. Những giá trị này chỉ có thể tìm thấy bởi có lòng ham thích thành thật muốn biết những câu trả lời về những câu hỏi căn bản của mình, kế hoạch và sống cuộc đời chu toàn mục tiêu cao nhất của mình.
5. TÔI SẼ THỜ PHƯỢNG NHƯ THẾ NÀO?
Qua nhiều thế kỷ Ấn Độ Giáo người bình dân ở Ấn đã lắng nghe lời khuyên của các học giả và các nhà hiền triết của họ. Họ đã nghe những câu trả lời của những nhà học thức này về câu hỏi đời sống và ý nghĩa của nó. Và họ đã cố gắng hết sức để áp dụng những câu trả lời ấy như chính của họ. Nhưng có nhiều người tại Ấn cũng như ở nơi khác, không thể làm tôn giáo thành công việc chính của họ. Họ phải cày bừa để có thực phẩm cho gia đình và cho những người khác -- và cả cho các thầy tu cũng phải ăn. Có một số phải trông nom cửa hàng, nếu không tất cả sự buôn bán sẽ ngưng. Có những phụ nữ bị nam giới coi như không có khả năng đạt được kiến thức mà những nhà hiền triết coi là thiết yếu.
Những người này phải làm gì? Họ mong ước có một đời sống hạnh phúc. Họ mong muốn sống ở mức độ tốt nhất. Trên tất cả họ mong muốn được giải thoát khỏi chuỗi tái sinh vô tận, họ sợ họ cứ phải sống đời này đến đời khác làm việc và lo lắng. Có một cách nào để những người này biết đến sức mạnh vĩ đại trong vũ trụ, mà không phải bỏ thì giờ của họ vào việc tìm kiếm? Có cách nào sống hòa hợp với định luật vũ trụ mà không phải bỏ tiền bạc và thì giờ để nghiên cứu với một đạo sư uyên bác?
SỰ GIÚP ĐỠ CỦA CÁC THẦN VÀ NỮ THẦN
Với những người giống như hạng người này, Bà La Môn thật khó để mà hiểu được; Bà La Môn dường như mênh mông và xa xôi. Đối với những người này thế giới dường như thân hữu hơn nếu họ có một vị thần riêng đứng "về phía họ". Họ muốn có một vị thần để cầu nguyện, dâng lễ vật và tôn vinh trong những buổi lễ đặc biệt. Họ cảm thấy với một vị thần như vậy sẽ giúp họ thành công trong những công việc làm ăn và trong đời sống tinh thần. Vì những người uyên bác nói rằng mọi thứ phản ảnh Bà La Môn, người dân coi thần và nữ thần của họ là thiêng liêng. Và nhiều người cảm thấy một vị thần như vậy hoàn toàn thuộc về Bà La Môn mà họ cần phải biết.
Và qua nhiều thế kỷ, một số thần riêng tư trở thành rất đại chúng với người Ấn Độ Giáo. Trong ba ngôi, thần Shiva (Thần phá hoại và phục hồi) và thần Vishnu (Thần cứu tinh) được đặc biệt tôn thờ. (Thần Vishnu được tôn kính dưới dạng thức hóa thân Rama hay Krishna). Những người thờ cúng cũng tìm sự giúp đỡ từ những phu nhân của các thần. Một số những nữ thần quan trọng là Durga, Lakshmi, Sita và Radha. Nữ thần nổi tiếng nhất là Kali, Thánh Mẫu của Ấn Độ. Nhiều đền thờ được xây để tôn vinh nữ thần này, và được thờ cúng như người mẹ chung và là kẻ thù làm tất cả những người tội lỗi sợ hãi.
Có nhiều chư thiên ít nổi tiếng được thờ trong những điện thờ cũng được cầu nguyện và được hiến dâng lễ vật. Giữa những chư thiên này có thần súc vật, thần thiên nhiên, và các anh hùng huyền thoại. Tính về con số các vị thần được thờ cúng tại Ấn Độ lên tới con số vài trăm vị. Mỗi gia đình chọn một vị thần hay nữ thần để thờ cúng riêng. Trong khi những thành viên trong gia đình có thể cầu nguyện hay hiến dâng lễ vật đến các vị thần khác, họ không bao giờ quên hàng ngày sùng kính vị thần của gia đình tại điện thờ ở nhà.
Những vị thần và nữ thần này dường như thân cận với con người hơn là Bà La Môn, vì người ta nghĩ rằng những vị thần và nữ thần hiểu được thất bại và hy vọng của con người. Cho nên du khách tới Ấn Độ nhìn thấy hình ảnh của nhiều thần đang dùng ẩm thực được mặc lễ phục và được mang đi dạo. Về tất cả những hoạt động này, có những nghi lễ, bài thánh ca và lời cầu nguyện thích hợp. Ở một chỗ nào đó trong Ấn Độ Giáo có một chư thiên mà người hèn mọn nhất có thể tôn thờ một cách thoải mái.
Bằng cách đó, số đông tín đồ Ấn Độ Giáo trả lời câu hỏi của họ về thế giới như thế nào và sức mạnh gì đằng sau nó. Khi họ nhìn thấy một cơn bão, họ tin đó là công việc của một trong các vị thần. Khi họ bắt đầu một công việc mới, họ tin là một vị thần khác trong số những vị thần sẽ giúp đỡ họ. Đối với một số người, thế giới tồn tại với thần và nữ thần, những người được thương yêu và an ủi.
Điều mà người Ấn Độ Giáo trung bình muốn nhất là sự giúp đỡ ra khỏi kiếp trầm luân trong đời người. Người ta tin rằng người ta có thể mong muốn sống trong hết xác thân này đến xác thân kia cho đến khi người ấy học hỏi đủ về bản chất thực sự của chính mình và về đời sống. Và vì biết không thể dành nhiều thì giờ như các nhà hiền triết và các thầy tu về thiền định và nghiên cứu, người ta tìm con đường tắt để được giúp đỡ. Người ta hy vọng tìm được cách cho mình công đức đặc biệt với các thần -- nhất là với các thần Kali, Vishnu, và Shiva. Người ta tin rằng vì những vị thần là hình ảnh của Tinh Thần Tối Thượng Bà La Môn nên người thờ cúng thực sự được giúp đỡ.
Một số đường tắt được triển khai bởi những người Ấn Độ Giáo mộ đạo. Đó là lý do tại sao các du khách đi Ấn Độ trở về với những câu chuyện lạ lùng trái tai chúng ta. Họ kể lại dân chúng xúm nhau tắm tại Sông Hằng, con sông lớn nhất tại đấy và tại các sông và các suối khác. Người Ấn Độ Giáo đến tắm vì họ tin rằng là để được tẩy uế, rửa sạch những tội lỗi quá khứ và cho họ công đức với các vị thần. Thậm chí bờ sông cũng được coi là thiêng liêng. Một số người Ấn Đô Giáo hy vọng được an tâm hay địa vị tốt hơn ở kiếp sau bằng cách đi bộ quãng đường thật dài dọc theo các bờ sông.
Thành phố Benares là một thành phố thiêng liêng của người Ấn Độ Giáo. Họ tin rằng một người chết trong vòng 10 dậm của thành phố này thì những lỗi lầm ở những tiền kiếp của họ sẽ được các thần tha thứ. Người ấy có thể sống nhiều năm ở một trong những tầng trời mà Người Ấn Độ Giáo nói đến. Nhưng sau khi "nghỉ ngơi" theo kế hoạch đầu thai, người ấy phải trở về trái đất để sống những kiếp sống cần thiết cho mình để đạt được sự tự biết mình đầy đủ và kiến thức Bà La Môn.
Qua nhiều thế kỷ tìm cầu công đức, những tín đồ Ấn Độ Giáo đã thêm những tập tục tôn giáo khác vào. Con bò được đối xử như một con vật linh thiêng, và những buổi cầu kinh được dâng cho nó. Khỉ không bao giờ bị hãm hại, vì chúng cũng linh thiêng. Một số cây được dâng lời cầu nguyện. Những người uyên bác Ấn giải thích điều này bằng cách nói rằng cái Ta hiện diện trong mọi thứ sống. Một số con vật bên cạnh nào đó có thể là sự hiện diện đời sống của cái Ta dùng làm nơi ở của một người thân của bạn ở tiền kiếp.
Đức Gandhi -- được đồng bào ông gọi là Mahatma hay "Linh Hồn Vĩ Đại"-- nói tôn thờ bò là sự đóng góp đặc biệt của Ấn Độ Giáo vào ý tưởng tôn giáo thế giới. Ngài giải thích nhiều tôn giáo dạy thương yêu người, nhưng chỉ có một mình Ấn Độ Giáo dạy thương yêu loài vật. Cho nên, nhiều người Ấn Độ Giáo sùng đạo không bao giờ ăn thịt. Giết một con vật để lấy thịt là sai, họ cảm thấy con vật cũng có quyền sống như con người.
BA CÁCH THỜ PHƯỢNG
Nhiều người chín chắn theo tín ngưỡng Ấn Độ Giáo không tin là tất cả sự thờ phượng của người bình dân đều hữu hiệu. Họ cũng bình phẩm như những du khách đến Ấn Độ nói rằng một số những tu tập đạo lý là vô lý và thiếu hiểu biết. Những người Ấn Độ Giáo chín chắn này coi một số tu tập tôn giáo bình dân chỉ là mê tín dị đoan. Họ tin rằng có ba cách để sống một cuộc đời lương thiện. Một là hành thiện. Một nữa rất quan trọng là kiến thức về thực tế. Cách thứ ba là hoàn toàn thành tâm.
Mọi người đều có thể làm những hành vi thiện. Kẻ nghèo khổ nhất của đẳng cấp thấp nhất cũng có thể làm nhiều hành vi thiện như một thầy tu giới hạnh trong một ngôi chùa giàu nhất trên xứ sở này. Đối với người Ấn Độ Giáo, phần làm những hành vi thiện là làm tròn nhiệm vụ tốt nhất với khả năng của mình. Ai cũng có chỗ trong đời sống, và chỗ của bạn là do bạn giữ. Hãy giữ chỗ đó -- và trên con đường đi qua thế giới này, hãy năng dừng lại để giúp đỡ người và vật.
Hạnh phúc duy nhất xứng đáng với danh tiếng đó bắt nguồn từ kiến thức về thực tại -- mục tiêu tối thượng của mỗi người Ấn Độ Giáo.
Đối với cứu cánh này, con người ta thoát ly gia đình, đi vào rừng để nghiên cứu và thiền định. Một số từ bỏ tất cả những ràng buộc trần tục -- ngay cả tang lễ của chính họ- đi lang thang về miền đồng quê để tìm chân lý. Một số người nghiên cứu Du Già, một hệ thống huấn luyên về thiền định. Những người này tập thở và những bài tập tư thế không biết mệt mỏi (chuyên cần hơn những ngôi sao bóng tròn, bóng rổ, điền kinh của chúng ta nhiều trong việc tập luyện). Khi họ đạt được khả năng hoàn toàn vô thức về chính bản thân họ, họ sẵn sàng biết cái Ta.
Cách dễ nhất để sống một cuộc đời lương thiện là thương yêu tất cả mọi thứ sống, và thương yêu các thần. Sống một cuộc đời thương yêu không vị kỷ, một người trở nên hoàn toàn tận tụy với các thần. "Thuơng yêu người dẫn đến thương yêu Thượng Đế", người Ấn Độ Giáo nói như vậy. Một số cố gắng tăng cường tình thương yêu của mình đến vị thần được chọn lựa bằng cách nhìn nhận họ trong những vai trò như: cha mẹ, sư phụ, bạn bè, đứa trẻ, người bạn đời hay người yêu. Nếu hoạt động sùng đạo như vậy đem người thờ phượng đến gần bản chất thực sự của chính mình hơn, thì nó cũng mang người ấy tới gần Bà La Môn hơn. Có một số người Ấn Độ Giáo cảm thấy trong đời họ đạt được tính chín chắn để thờ phượng trực tiếp Bà La Môn. Nhưng thường thường sự tôn sùng về tình thương yêu được tập trung vào một trong những vị thần cá nhân.
RAMAKRISHNA
Một trong những người Ấn Độ Giáo đáng chú ý thời gian mới đây là một người tên là Ramakrishna. Ông thờ phượng theo cung cách của tất cả ba con đường. Về mình ông tuyên bố, "Ai là Rama và Krisna bây giờ là Ramakrishna". Ông được coi là hóa thân của vị thần tối thượng Vishnu, cùng với hai dòng dõi siêu phàm rất đại chúng khác. Khi ông còn trẻ, ông bị người anh khiển trách vì không chuyên cần nghiên cứu để có thể đạt được kiếp sống như một thầy tu. Ramakrihna trả lời:" Và tôi sẽ phải làm gì với một kiến thức chỉ để kiếm cơm? Tôi muốn giành được sự thông thái có thể soi sáng tâm tôi và cho tôi niềm thỏa mãn mãi mãi."
Khi ông xây được một ngôi chùa do một góa phụ giàu có thiện cảm ủng hộ, Ramakrishna tiếp tục lối sống tận tụy nhất. Ông trở nên người sùng bái Kali, Thánh mẫu, tượng trưng trong văn hóa dân gian của người Hindu như phu nhân của thần Shiva. Ông đã vượt qua tất cả những nghi thức và nghi lễ thông thường hiểu được đời ông là sự bày tỏ lòng nhiệt thành tôn giáo mãnh liệt kiên trinh
Ông bắt đầu thấy việc quan trọng là phải tiến tới mục tiêu tôn giáo mà tất cả các giáo phái Ấn Độ Giáo coi là quan trọng. Ông tôn thờ qua những phương pháp tập luyện tự kiểm soát Du Già, bằng sự khám phá ra ý nghĩa sâu sắc nhất về lạc thú, và bằng sự từ bỏ tất cả những thú vui vật chất, và qua lòng thương yêu Krishna thật mãnh liệt và sung sướng. Ông lần lượt áp dụng từng phương pháp và tiếp tục hành trì cho đến khi ông thành công trong việc thống nhất cái Ta với Bà La Môn.
Khi việc này đã xong, lòng nhiệt huyết của ông mang ông đến những cố gắng nhằm gặt hái những giá trị tinh thần của các tôn giáo khác. Ông lần lượt trở thành người Phật Tử, người Hồi Giáo, và người Cơ Đốc Giáo. Từ kinh nghiệm đó, ông trở nên tin rằng mục tiêu của tất cả tôn giáo đều giống nhau. Một đoàn thể nhà sư được đặt tên Ramakrishna hoạt động ở Ấn Độ,và nhiều nơi khác trên thế giới gồm cả Hoa Kỳ. Người ta tưởng nhớ đến ông vì niềm tin của ộng trong sự thống nhất tất cả tôn giáo và sự nhấn mạnh của ông về tầm quan trọng trong việc tìm cầu tinh thần.
NGƯỜI ẤN ĐỘ GIÁO THỜ PHƯỢNG QUA HÀNH VI THIỆN
Gần đây, người Ấn Độ Giáo ngày càng hướng nhìn ra thế giới bên ngoài. Ấn Độ đã bắt đầu xác định đúng vị trí của mình là một quốc gia quan trọng. Phong trào này đã được sự giúp đỡ rất nhiều bởi những cố gắng và cuộc đời của một người Ấn Độ Giáo rất sùng đạo -- Ngài Gandhi. Trước khi bị ám sát vào năm 1948, phần lớn thế giới bắt đầu trông đợi Mahatma Gandhi hướng dẫn cách áp dụng nguyên tắc tôn giáo vào tình hình chính trị. Phần lớn trong đời Ngài, Ngài đã dấn thân vào trong việc tranh đấu để cải thiện hoàn cảnh cho dân tộc Ấn. Ngài làm được rất nhiều cho quốc gia qua tuyệt thực, cầu nguyện, hội họp hơn là qua tuyên truyền, khủng bố và nổi loạn võ trang. Khi cái chết của Ngài xẩy ra do bàn tay của một người Ấn Đô Giáo cấp tiến không chiụ nổi việc Ngài khẳng định rằng không được sử dụng bạo lực để chống lại người Hồi Giáo tại Ấn Độ.
Chính động lực tôn giáo đã làm cho đời Ngài trở thanh tấm gương hấp dẫn cho triệu triệu người đồng đạo Ấn Độ Giáo của Ngài và là trung tâm của sự chú ý cho quần chúng khắp trên thế giới. Gandhi cảm thấy lối sống tốt nhất cho chính Ngài là lối sống của những hành vi thiện. Khi Ngài 34 tuổi, Ngài phát nguyện lời thề giữ trong sạch dù nghèo khổ. Ngài đã tận tâm phụng sự đồng bào của Ngài. Cho nên không một công việc nhỏ mọn nào là Ngài không làm. Mặc dù Ngài thuộc đẳng cấp buôn bán, Ngài đã bỏ tất cả những sự phân biệt đẳng cấp đằng sau.
Chính khách thánh thiện này có một mơ ước là cố gắng làm cho thế giới chuyển mình. Thế giới lý tưởng, Ngài nghĩ, phải đạt cho được bằng phương tiện hòa bình chứ không phải bằng chiến tranh. Tất cả những tôn giáo, tất cả những cộng đồng, tất cả các dân tộc phải có đặc quyền đồng đều. Gandhi nhấn mạnh về chân lý và bất bạo động trong mỗi lĩnh vực cuộc đời. Trong sự nhấn mạnh của Ngài, Ngài tập trung ánh sáng mặt trời chân lý vào sự bất bình đẳng trong hệ thống đẳng cấp và tính không đẳng cấp, những giai cấp này được coi như một vết thương trên gương mặt Ấn Độ hiện đại.
Ngài đi đến chỗ cảm thấy rằng dân Ấn Độ bị tước đi quyền được hưởng nền văn hóa duy nhất của họ, cho nên Ngài khởi xướng phong trào dẫn đến giành độc lập từ sự cai trị của người Anh. Những sự thay đổi ông thực hiện không có hiệu lực do môi trường của thói quen khổ hạnh: nhịn đói và tự hành xác để hối lỗi và từ bỏ những tiện nghi vật chất. Quả thật Ngài không sống vì bản thân mình mà sống vì chân lý và bất bạo động.
Tiếng nói vì dân của Ngài hiệu quả đến nỗi chắc chắn một số tác phẩm của Ngài một ngày nào đó sẽ nằm trong số những tác phẩm thiêng liêng của Ấn Độ. Ngài được miêu tả bởi những đệ tử của Ngài như vị cứu tinh của dân tộc -- một thiên thần giáng thế. Về mình, Ngài đơn giản nói, "Tôi là người của hòa bình".
ẢNH HƯỞNG CỦA ẤN ĐỘ GIÁO
Chúng ta đã dành thời gian nhìn vào Ấn Độ Giáo và thấy: các thần và nữ thần, những hình ảnh và biểu tượng, những chùa chiền và những nơi thiêng liêng, những nghi thức và lễ vật. Chúng ta cũng ngưng lại để nhìn vào Ramakrishna và Gandhi, hai con người tinh thần vĩ đại đã giúp đỡ người ta lưu ý đến sự cần thiết của lối sống đạo lý. Bằng cách ấy, hai người này đã cải thiện tôn giáo và xứ sở của họ. Nơi nào tôn giáo tạo được sự khác biệt thực sự trong đời sống người dân, tôn giáo trở thành một lực lượng thực sự huy hoàng. Ấn Độ Giáo là một lực lượng như vậy. Một trong những tôn giáo cổ nhất trên thế giới -- một số người nói tôn giáo cổ nhất -- Ấn Độ Giáo đã có hàng thế kỷ giúp đỡ người dân trả lời những câu hỏi sâu xa nhất của họ.
Tôi thực ra là gì? Trong cái ngã bên trong của bạn, người Ấn Độ Giáo trả lời, bạn là một phần của Thượng Đế.
Đời tôi là gì? Người Ấn Độ Giáo trả lời đó là sự truy tìm cho đến khi tìm ra Thượng Đế trong chính bạn.
Làm sao tôi có thể có hạnh phúc? Chỉ khi bạn trở nên hiểu biết Thượng Đế, người Ấn Độ Giáo trả lời.
Làm sao tôi có thể biết được Thượng Đế? "Ai biết được chính mình sẽ biết Thượng Đế"
Cách thờ phượng nào là tốt nhất? Người Ấn Độ Giáo đã nói: Trâu bò có nhiều mầu sắc, nhưng tất cả sữa của chúng giống nhau... hệ thống tín ngưỡng khác nhau, nhưng Thượng Đế chỉ là một."
Vào giữa thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên, nhiều người tại Ấn Độ đã bắt đầu sử dụng đường tắt trong tôn giáo được mô tả trong Chương trước về sự thờ phượng của người Ấn Độ Giáo. Nói chung đó là thời kỳ tan vỡ ảo tưởng. Chắc là vì người dân hoàn toàn vỡ mộng về cuộc sống, họ ngày càng sợ hãi đầu thai. Một số người quên cả câu hỏi nghiêm túc nhất là gì, trong nỗ lực điên cuồng để tự cứu lấy mình và ra khỏi 100,000 kiếp sống mà họ cảm thấy họ bị đọa. Mỹ thuật lúc đó cho thấy người dân quý bò, hươu nai, ngựa, lợn, khỉ và voi. Những người khác tự hành xác mình -- đứng nguyên một chỗ rất lâu, nhìn chằm chằm vào mặt trời Ấn Độ gay gắt, hay nuốt khói và lửa.
Nhiều thầy tu không giúp ích đặc biệt gì. Chính các thầy tu cũng bận tâm với con đường tắt trong đời sống tôn giáo. Họ không coi thiên hướng thầy tu của họ là quan trọng. Trong một bức tranh vào thời gian ấy, một vài con chó tượng trưng cho các thầy tu được đem trình bày trong một cuộc diễu hành lớn. Họ tụng lời cầu nguyện: "Om, hãy để cho chúng tôi ăn! Om, hãy mang thực phẩm cho chúng tôi! Vị Chúa tể của thực phẩm, hãy mang thực phẩm đến, hãy mang thực phẩm đến! (Om là từ tắt nhất để chỉ Thượng Đế). Người dân bày tỏ xa hơn nữa ý kiến thấp hèn về các thầy tu trong câu tục ngữ Ấn Độ: "Vishnu nhận những lời cầu nguyện khô khan, trong khi các thầy tu ăn ngấu nghiến các lễ vật".
Ấn Độ Giáo sau này giành lại được địa vị lãnh đạo tại Ấn, nhưng trong thời gian này, nhiều người không thể tìm ra câu trả lời thỏa mãn về những khó khăn xáo trộn trong đời sống. Vì sự bất toại nguyện này, chẳng mấy chốc có nhiều cải cách tôn giáo xuất hiện trong cố gắng giải thoát cho Ấn Độ Giáo khỏi tính nông cạn của nó. Một trong những cải cách này là sự khởi đầu của Phật Giáo.
THÁI TỬ CỒ ĐÀM
Vào thời điểm này, khi những người chín chắn nghi ngờ tôn giáo quê hương của họ, vị thái tử tên Gautama (Cồ Đàm) ra đời. Ngài là con một của tiểu vương Flinch giàu có thuộc đẳng cấp chiến binh, và cha mẹ Ngài hy vọng Ngài sẽ trở thành người trị vì đất nước. Cha Ngài sợ Ngài có thể làm những gì mà đẳng cấp cao đã làm -- trở thành người đi tìm đạo lý, hay người thoát ly khỏi kiếp trầm luân từ bỏ cuộc đời. Tham vọng to lớn là người con phải theo bước chân mình, người cha đã làm tất cả những gì có thể làm được để bảo vệ Đức Cồ Đàm trước những ảnh hưởng có thể dẫn Ngài từ bỏ cuộc đời vương giả.
Vì nhiều huyền thoại về lúc thiếu thời, rất khó biết sự thực về Đức Cồ Đàm. Nhưng dường như rất rõ ràng Ngài là một thanh niên thông minh và thành thực, nhậy cảm đối với tất cả những biến chuyển chung quanh Ngài. Cũng có thể là vì sự nhậy cảm đó, mà cha Ngài cố gắng bảo vệ Ngài không muốn cho Ngài biết tội lỗi và bất hạnh tồn tại bên ngoài bức tường thành. Những câu chuyện cho chúng ta biết cha mẹ Ngài bao vây Ngài bằng lối sống xa hoa và tất cả thú vui vật chất. Cha mẹ Ngài muốn làm cho Ngài cảm thấy tất cả đời sống đều hạnh phúc và lạc thú, chẳng có lý do gì mà buồn hay thậm chí quá nghiêm trang -- Cha mẹ Ngài hy vọng Đức Cồ Đàm hoàn toàn chấp nhận đời sống vương giả, và sẽ không bao giờ nghi ngờ đến những khác biệt về cuộc đời của người khác.
Tuy nhiên, giống như mọi thanh niên, Đức Cồ Đàm muốn sống một cuộc đời theo cách riêng của mình bất chấp dự định của cha mẹ Ngài. Trong khi đi qua một công viên - theo chuyện kể lại -- Ngài nhìn thấy bốn việc in sâu vào ấn tượng của Ngài. Những sự việc này làm Ngài sửng sốt hơn bất cứ kinh nghiệm nào trước đây mà Ngài đã từng trải qua.
Đầu tiên Ngài nhận thấy một người già nua run lẩy bẩy, răng rụng, tóc bạc, lưng còng, chống trên một cái gậy. Lần đầu tiên, Ngài hiểu ra là tuổi già đến với tất cả mọi người. Sau đó, Đức Cồ Đàm nhìn thấy một người bệnh, thật gớm ghiếc khi nhìn thấy. Đức Cồ Đàm trở nên choáng váng hơn, Ngài băn khoăn phải chăng trước sau ai cũng phải đau khổ. Một cảnh khó chịu thứ ba là một xác chết nằm bên vệ đường. Hiển nhiên là lần đầu tiên cái chết trở thành có thật đối với vị thái tử trẻ tuổi. Sau khi những cảnh này đã khiến cho thái tử suy nghĩ buồn rầu về cái vô thường của đời sống và sắc đẹp. Ngài tình cờ gặp một nhà sư, ăn mặc tề chỉnh với một vẻ mặt thanh thoát. Đó chính là lúc ý định rời đời sống hoàng cung trở thành thực sự đối với Đức Cồ Đàm.
Những huyền thoại cho biết cha Ngài đã cố gắng như thế nào để đánh lạc hướng thái tử về suy nghĩ nghiêm chỉnh đó. Những vũ nữ xinh đẹp được đưa vào hoàng cung để thái tử giải trí với những vũ điệu và ca nhạc. Cố gắng loại bỏ những suy nghĩ nghiêm trang của Ngài, những vũ nữ này ra sức nhảy múa cho đến khi gục ngã vì kiệt sức. Khi Đức Cồ Đàm nhận thấy sự biến đổi to lớn về bề ngoài của họ vì họ nằm trong những tư thế thô kệch khi ngã xuống, một lần nữa Ngài lại thấy sự buồn rầu và xấu xa của đời sống. Ngài nhất quyết bỏ hoàng cung êm ấm ngay tức khắc. Mặc dù con nhỏ và người vợ trung thành, bất chấp sự canh phòng cẩn mật của lính canh của cha Ngài, Đức Cồ Đàm đã rời bỏ cung điện và tìm sự vắng vẻ trong rừng. Ngài đã không trở về qua nhiều năm và cho đến khi nhiều thay đổi đã xẩy ra trong đời Ngài.
CÔNG CUỘC TÌM KIẾM CỦA ĐỨC CỒ ĐÀM
Đức Cồ Đàm đã rời bỏ cung điện với tâm tư tràn đầy câu hỏi: Đời sống là gì? Tại sao có sự bất hạnh? Trong những khu rừng Ấn Độ quạnh quẽ và vô tận, Ngài đã tìm kiếm những người uyên bác có thể giúp Ngài tìm ra câu trả lời. Ngài hy vọng tìm được sự thỏa mãn mà Ngài nhìn thấy trên gương mặt nhà sư ngày nọ tại công viên. Vì dường như nhà sư đã tìm thấy sự thỏa mãn này trong đời sống tôn giáo, Ngài quyết định cũng tìm tôn giáo.
Trong vài năm Ngài đã học hỏi với những đạo sư giỏi nhất mà Ngài tìm thấy. Là một học trò giỏi, chẳng bao lâu Ngài đã có học thức bằng các vị đạo sư. Một trong các vị đạo sư, khâm phục sự hiểu biết của Ngài, mời Ngài ở lại cộng tác để dạy người khác. Nhưng Đức Cồ Đàm cảm thấy Ngài chưa thể dạy người khác khi Ngài chưa tìm ra câu trả lời mà chính Ngài đang tìm kiếm. Ngài biết rõ kinh sách, nhưng Ngài không tim thấy sự thỏa mãn. Ngài biết tập luyện về Du Già, những cũng không thấy hài lòng.
Ngài vẫn bị những câu hỏi nóng bỏng dầy vò: Tại sao có bất hạnh? Làm sao con người được hạnh phúc?
Ngài chuyên cần hơn vào sự tu tập khổ hạnh. Ngài đã bỏ lại tất cả những lạc thú vật chất. Ngài buộc mình ăn càng ngày càng ít đi, và thiền định ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng, huyền thoại cho biết, Ngài chỉ sống bằng một hột gạo một ngày, và bỏ tất cả thì giờ vào thiền định và nghiên cứu. Sau sáu năm kiên trì tìm kiếm và tích cực hy sinh, cái chết chỉ là gang tấc. Thế mà Ngài vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Một hôm Ngài ngất đi vì gần chết đói.
Việc này chứng tỏ đỉnh điểm trong đời sống Đức Cồ Đàm, vì Ngài đã nhìn thấy tất cả sự vô ích về những cái mà Ngài đang làm. Nếu Ngài tiếp tục chủ nghĩa khổ hạnh, Ngài sẽ chết và không tìm ra câu trả lời. Điều mà Ngài đang làm, Ngài nhận định, quả là điên rồ như cố gắng buộc không khí thành nút. Ngài phải trực tiếp đi thẳng vào vấn đề.
Một vài người bạn theo Đức Cồ Đàm, ngưỡng mộ Ngài vì lòng nhiệt huyết tôn giáo của Ngài, khi thấy Ngài quyết định ăn trở lại bèn bỏ đi. Bây giờ Ngài một mình lẻ loi với những tư tưởng của chính mình. Ngài ngồi dưới gốc cây và bắt đầu suy nghĩ về vấn đề bất hạnh và khổ đau. Quá bối rối sau sáu năm tìm kiếm giải pháp, Ngài quyết định tìm câu trả lời qua tư tưởng và thiền định trước khi rời bỏ nơi này.
ĐỨC CỒ ĐÀM TRỞ THÀNH PHẬT
Sau một ngày và gần một đêm, Ngài đã tìm thấy câu trả lời. Ngài đã trở thành giác ngộ với kiến thức mới. Ngài đã trở thành Phật "một người giác ngộ". Trong niềm vui về sự hiểu biết mới của Ngài, Ngài nói lớn, mặc dù taị đấy không có người nào. Ngài nói ta không còn phải chịu bất hạnh của đời sống hiện tại và không còn phải tái sinh liên tiếp trong cuộc sống. Vì Ngài đã đạt được tuệ giác về sự đau khổ của con người -- bản chất của khổ đau, nguyên nhân, và sự chấm dứt khổ đau. Ngài đã thoát khỏi cái vòng bất tận của phiền não và khổ đau, thoát khỏi cảm giác của buồn phiền và chán ghét -- được tự do sống.
Rồi Đức Phật Cồ Đàm băn khoăn ta phải làm gì. Ta có nên dạy người khác điều mà ta phát hiện sau nhiều năm tìm kiếm? Có người nào hiểu Ngài không? Ngài quyết định tin vui Ngài có được bây giờ phải được chia sẻ với những người sốt sắng tìm kiếm. Cho nên Ngài đi về Benares (Ba La Nại), nơi Ngài sẽ tìm lại năm người đồng tu với Ngài trước đây đã bỏ Ngài khi Ngài quyết định từ bỏ con đường khổ hạnh.
Họ là những người đầu tiên được nghe những điều mà Ngài đã khám phá ra. Bài pháp đầu tiên mà Ngài giảng cho họ được biết là Chuyển Pháp Luân. Bài pháp này nói về vấn đề khổ đau và cách vượt khổ đau. Những điểm mà Đức Phật nhấn mạnh đến trong bài pháp đầu tiên này, trong niềm vui phấn khích về sự tỉnh thức của Ngài, đã hình thành những khái niệm căn bản của Đạo Phật. Đạo Phật là tôn giáo của những người tìm sự tỉnh thức (giác ngộ).
CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO
Con đường mà Đức Phật Cồ Đàm tìm ra được miêu tả là "Trung Đạo" giữa những cực đoan. Những cực đoan phải tránh một mặt là đời sống quá ham mê nhục dục, và mặt khác là đời sống quá khổ hạnh. Cả hai cực đoan này dẫn đến mất quân bình trong cuộc sống. Cả hai cũng chẳng dẫn đến mục tiêu thực sự thoát khỏi khổ đau. Nhiều người chẳng bao giờ nhận ra quá ham mê sang giàu và thú nhục dục đã ảnh hưởng đến những câu hỏi và mục tiêu thực sự của họ. Một số người thấy cái tai hại của sự ham mê quá mức đã đi đến chỗ coi bất cứ thứ gì đem lại khoái lạc là nguy hại. Cả hai nhóm đều phản ứng quá mạnh trước sự khao khát của nhân loại.
Đức Cồ Đàm khám phá ra chẳng cực đoan nào là khôn ngoan vì chẳng cực đoan nào mang lại hạnh phúc cả. Quá ham mê có cùng kết quả cuối cùng trên con người giống như để cho dây đàn vi ô lông quá trùng. Mặt khác tự hành xác cùng cực có kết quả giống như dây đàn vi ô lông quá căng đến mức phải đứt. Trong cả hai trường hợp đàn không kêu thích hợp. Không có âm thanh vì hoặc là quá trùng hoặc là quá căng. Chính vì thiếu hòa hợp hay hài hòa mà Đức Cồ Đàm coi đó là khổ đau của con người. Để giúp con người tìm ra sự hòa hợp bên trong chính họ và hòa hợp với vũ trụ mà Ngài bắt đầu dạy.
Trước thời Đức Phật Cồ Đàm, những nhà triêt học Ấn dạy rằng con đường đi tới tự biết mình mỏng như lưỡi dao cạo. Đức Cồ Đàm khám phá ra ý nghĩa của điều này cho chính Ngài và nghĩ ra một con đường cụ thể hơn để dạy người khác. Tuy nhiên trong những lời dạy của Ngài, Ngài không bao giờ rời xa truyền thống Ấn Độ. Một số người và một số sách có cảm tưởng Đức Cồ Đàm cố gắng bắt đầu một tôn giáo mới, hoặc Ngài hoàn toàn không đồng ý với những đạo sư đương thời. Việc này không phải như vậy.
Đức Cồ Đàm chỉ đi vào sự nghiên cứu tìm tòi đạo lý với một câu hỏi khác: Điều gì đã khiến cho nhiều người không hạnh phúc? Ngài đã mang câu hỏi này đến các vị đạo sư giỏi nhất mà Ngài tìm gặp nhưng Ngài cũng không thể giải quyết được vấn đề với điều mà các đạo sư dạy Ngài. Vậy nên Ngài không còn ngưỡng mộ các triết gia chỉ nói về giải thoát khổ đau. Đức Cồ Đàm muốn nhắc nhở họ là họ đang chơi đùa với những chữ nghĩa. Ngài dặn bè bạn của Ngài đề phòng các trường phái triết lý, vì các vị đạo sư có khuynh hướng chỉ coi trọng những lời nói của mình.
Muốn tìm con đường Trung Đạo hòa hợp với cuộc sống, Đức Phật tuyên bố, mỗi người phải tự mình thận trọng tìm kiếm -- không nên bỏ thì giờ vào việc tranh cãi. Mỗi người phải thăm dò và trải nghiệm. Đức Phật nói, "người ta có thể đạt được hạnh phúc nếu thực hành việc tìm cầu".
7. TẠI SAO TÔI KHÔNG HẠNH PHÚC?
Ngay cả trẻ em cũng khổ đau. Khi chúng không thoải mái, chúng khóc. Khi chúng lớn hơn chúng tìm các cách khác để bày tỏ cái không thoải mái của chúng. Nhưng không có vấn đề khổ đau với một em nhỏ vì em không thực sự nghĩ về việc ấy. Em chỉ phản ứng. Khổ đau trở thành vấn đề chỉ khi người ta tự hỏi, "Tại sao tôi đau khổ?" hay hầu hết chúng ta thường nói, "Tại sao tôi không hạnh phúc?"
Thường thường khi chúng ta ở khoảng 10 tuổi hay hơn một chút, ít nhất cũng có một vài dịp chúng ta khổ đau và cũng băn khoăn, "Tại sao sự đau khổ này? "Hiển nhiên, Đức Cồ Đàm không nảy ra câu hỏi này một cách nghiêm chỉnh đến khi Ngài vào khoảng ba mươi tuổi. Chắc là vì cha mẹ Ngài cố gắng ngăn chận Ngài nếm trải bất cứ gì không lạc thú.
Những thanh niên lớn lên trong môi trường được bảo hộ quá mức thường không biết đến việc phải đối mặt với bất hạnh thực sự. Con người có cá tính khác nhau, và nhịp độ thay đổi từ thiếu niên sang thanh niên cũng không ai giống ai. Nhưng trước sau, mỗi người đều phải đối mặt với câu hỏi về lý do khổ đau -- của chính mình và của người khác.
Toàn bộ sự đóng góp của Đức Cồ Đàm vào kiến thức nhân loại tập trung vào vấn đề đau đớn và bất hạnh. Kiến thức mới mà Ngài trở thành giác ngộ đêm đó dưới gốc cây, là lý do về khổ đau và cách vượt qua khổ đau. Bài pháp đầu tiên Ngài nói về kiến thức này với những người đồng tu với Ngài trước đây đã bỏ Ngài đi về Ba Lã Nại. Những điều Ngài đề cập đã trở thành những nguyên tắc chủ yếu của Đạo Phật ngay cả đời nay, và những nguyên tắc này được gọi là Tứ Diệu Đế. Chân lý thứ nhất mà Ngài cố gắng giải thích cho bạn Ngài là sự thật về khổ đau.
CHÂN LÝ CAO QUÝ THỨ NHẤT
Sinh là khổ; hoại là khổ; bệnh là khổ; chết là khổ; sự hiện diện của những đối tượng mà ta ghét, sự chia lìa với những đối tượng mà ta yêu thích làm ta khổ, không đạt được mong muốn là khổ. Bám níu vào sự sống là khổ.
Khi nghiên cứu danh sách này, rõ ràng Đức Cồ Đàm nói về kinh nghiệm của mọi người chứ không phải kinh nghiệm của mình Ngài. Sinh nở thật không thoải mái cho cả mẹ lẫn con, tuy đứa trẻ dường như không ý thức được việc này. Sự ra đời một khái niệm mới, hay một "ngã" mới hay cá tính mới, cũng có thể rất đau đớn; vì những thói quen cũ và khái niệm cũ rất khó bỏ. Tàn tạ cũng đau đớn, dù là sự tàn tạ của một cái răng hay sa sút về đạo đức và niềm tin của con người. Ốm đau thật phiền toái, cả thể xác lẫn tinh thần. Cả cái chết lẫn nỗi sợ chết cho chính chúng ta hay cho người cũng là đau khổ. Sự hiện diện của đối tượng mà ta ghét hoặc sự vắng mặt của đối tượng mà ta yêu cũng là một trải nghiệm đau khổ. Không đạt được điều mong muốn mà chúng ta đặt ra khiến chúng ta rất đau khổ. Và khi chúng ta có thêm nhiều hiểu biết về đời sống, chúng ta trở nên tỉnh thức rằng bám níu vào bất cứ gì có thể khiến chúng ta đau khổ.
Thật đáng tiếc là quá nhiều người nói rằng Đức Phật bi quan về đời sống hay Ngài nói tất cả đời sống là khổ đau. Nếu chúng ta giải thích xác đáng lời Ngài nói như đã được ghi lại thì điều đó không phải là điều Ngài nói. Ngài đã dạy rằng mọi thứ chứa đựng khả năng khổ đau; mỗi quãng đời có thể đưa đến sự không hòa hợp cho một người. Đức Phật không nói tất cả đời sống đều khổ đau.
Rõ ràng sự giải thích của Đức Cồ Đàm về khổ đau vượt qua cái khổ đau thể xác đơn thuần. Ngài nhấn mạnh nhất về cái khổ đau của tâm và những cảm xúc. Đây là cái bất hạnh sâu xa nhất. Đức Cồ Đàm tin rằng người không có hòa hợp trong cuộc sống cảm thấy cái khổ đau này. "Nếu tôi không hạnh phúc, đó là vì tôi không sống hòa hợp. Nếu tôi không sống hòa hợp, đó là vì tôi không biết cách chấp nhận thế giới là như thế. Có lẽ tôi đang mong muốn những thứ trên thế gian mà tôi không có quyền mong muốn. Có lẽ tôi đang bám níu quá mạnh vào một phần thế giới của tôi, bởi vậy mất sự tiếp xúc với toàn bộ bức tranh".
Đức Cồ Đàm cố gắng lấy điểm bắt đầu là thực tế kinh nghiệm có thật, mà không ai có thể nghi ngờ, và mỗi người có thể hiểu cho chính mình. Ngài nói, trong tất cả kinh nghiệm của con người, trừ phi có một sự hiểu thấu thực sự, có một yếu tố đau đớn. Ngài chuyển lời mời: "Hãy tìm hiểu cho chính mình nếu điều này không đúng với đời bạn". Ngài yêu cầu mỗi người hãy xem không phải chỉ có Ngài trong tình trạng khó khăn. Tất cả mọi người, vào lúc nào đó trong đời sống, phải đối mặt với sự thật chung này -- sự không hòa hợp của họ. Đó không phải chỉ là "bất hạnh của tôi"; đó là vấn đề mà tất cả con người đều có. Đức Cồ Đàm nhắc nhở bạn rằng "cái phiền não" của tôi là cái "phiền não của thế giới" -- và cái phiền não của thế giới là cái phiền não của tôi.
CHÂN LÝ CAO QUÝ THỨ HAI
Đức Cồ Đàm nói với đệ tử của Ngài, "Ta chỉ dạy hai điều, khổ đau và thoát khỏi khổ đau". Ngài giống như một bác sĩ đến khám bệnh nhân. Đầu tiên bác sĩ xem người bệnh cảm thấy thế nào. Rồi bác sĩ chẩn đoán nguyên nhân của bệnh. Đức Cồ Đàm giống như một thầy thuốc giỏi, tiến vào Chân Lý Cao Quý Thứ Hai, nguyên nhân của khổ đau.
Đó là Chân Lý Cao Quý về nguồn gốc của khổ đau. Chính sự khao khát thèm muốn gây ra sự tái tạo những cái bắt đầu trở thành. Cái khao khát thèm muốn này đi kèm bởi khoái cảm nhục dục và tìm cầu thỏa mãn nơi đây, nơi kia. Nó mang dạng thức thèm muốn để làm vừa lòng giác quan, hay thèm muốn sự phát đạt.
Khổ đau là kết quả của thái độ lầm lẫn đối với thế giới và những kinh nghiệm của chúng ta trong thế giới. Thế giới không xấu, nhưng thái độ thèm muốn đã làm thế giới hình như xấu. Cái thèm muốn này, hay ham muốn thái quá làm chúng ta thành nô lệ cho bất cứ gì chúng ta thèm muốn. Ai ai cũng nhìn thấy nguyên lý này hoạt động -- thèm muốn ăn uống, thèm muốn nổi tiếng. thèm muốn thành công. Tất cả làm chúng ta mất tự do để lựa chọn một cách khôn ngoan. Điều mà Đức Phật Cồ Đàm muốn người ta thấy là ai thèm muốn thì không thể được tự do và bởi vậy không thể có hạnh phúc thực sự.
Quý vị có thể nói hồ như có hạnh phúc trong khi thực hiện mọi ham muốn. "Nếu tôi có mọi thứ tôi muốn và làm mọi thứ muốn làm, tôi sẽ hạnh phúc." Nhưng loại hạnh phúc đó lại là gây ông đập lưng ông, vì nó không đem thỏa mãn sâu xa hơn mục tiêu thực sự của con người. Chúng ta thường thấy người ngày càng lệ thuộc nhiều vào những niềm vui giả tạo vì họ thực sự sợ phải đối mặt với bất hạnh sâu xa hay bất an trong chính họ.
Đức Cồ Đàm khuyên mỗi người hãy tự mình tìm ra sự khác biệt giữa hai loại hạnh phúc. Và Ngài nói về những quan sát của chính Ngài.
Khi theo đuổi hạnh phúc, tôi nhận thấy những tính xấu phát triển và những tính tốt mất đi, vậy nên tránh loại hạnh phúc này. Và khi theo đuổi hạnh phúc, tôi nhận thấy tính xấu mất đi, và tính tốt phát triển, thì loại hạnh phúc này nên theo.
Ngài đưa ra thêm lời khuyên cho những người tìm cầu hạnh phúc. Ngài nói, thèm muốn dẫn đến bất hạnh gây ra bởi sự ngu muội về những nhu cầu thực sự của chúng ta. Nếu chúng ta không ngu muội như vậy, chúng ta sẽ không làm cho mình bất hạnh khi theo đuổi những thứ không bao giờ toại nguyện. Điều này đem chúng ta trở lại cùng câu hỏi đã được nêu lên qua nhiều thế kỷ trước đây bởi những người Ấn Độ thông thái: "Tôi thực sự là ai?". Đức Cồ Đàm đồng ý với họ là con người không phải chỉ là cảm nghĩ và tư tưởng. Một người khôn ngoan bao giờ nói về bất cứ cảm nghĩ nào, "Điều này không phải là tôi thực sự." Đức Phật dạy hoạt động đáng giá trong đời sống dẫn đến có nhiều kiến thức hơn về cái ngã thực sự, vì điều này đem hạnh phúc.
Những thứ mà con người thường ham thích không thỏa mãn nhu cầu thực sự của họ. Một câu chuyện Phật
Giáo kể lại, trong một cuộc hành trình, Đức Cồ Đàm tình cờ gặp 30 người đàn ông đang chạy. Ngài liền ngưng họ lại và hỏi họ gặp chuyện gì, và họ liền kể lại câu chuyện. Trong khi họ đang cùng nhau đi chơi và ăn ở ngoài trời, một trong những người bạn nữ của họ đã trốn đi cũng những tư trang của người khác nên những người này nóng lòng chạy đuổi theo người ăn cắp.
Đức Phật liền hỏi một câu: "Các bạn nghĩ xem điều nào tốt hơn -- đuỗi theo người đàn bà hay đi tìm cái ngã?" Những người đàn ông này quyết định tìm cái ngã thực sự quan trọng hơn chạy theo đồ vật. Câu chuyện kể, những người này trở thành đệ tử của Đức Phật.
Giống như ba mươi thanh niên trẻ, chúng ta có thể phí phạm sức lực của chúng ta vào việc tìm kiếm vô bổ. Nếu chúng ta khôn ngoan, chúng ta ngưng lại và tự hỏi, "Cái gì thực sự đáng truy tìm?" Câu trả lời của Đức Cồ Đàm rất trực tiếp: Chúng ta phải tìm nguyên nhân của sự thèm muốn của chúng ta, rồi chúng ta tìm cách loại bỏ nguyên nhân.
CHÂN LÝ CAO QUÝ THỨ BA
Khổ đau chấm dứt với sự chấm dứt hoàn toàn thèm muốn.
Con người không phải làm nô lệ cho thèm muốn của mình, Đức Cồ Đàm nói như vậy. Người ta có thể làm một việc gì đó về bất hạnh của mình. Mỗi người có một sự lựa chọn về cách sống. Người ta có thể sống bằng những hoạt động đơn giản, không gây ra vấn đề thường lệ, những hoạt động này nảy sinh vì thèm muốn. Hay người ta có thể chọn sự phản ứng của mình trên cơ sở của mỗi trạng huống gặp phải. Trong trường hợp thứ nhất, người ta hành động do "nhu cầu" bề mặt, không biết về nhu cầu thực sự của mình. Trong trường hợp thứ hai, người ta có thể nhận thức được tiềm năng thực sự của mình. Sự lựa chọn tùy theo cá nhân, và do chính người ấy sẽ gặt hái kết quả.
Thí dụ, người ta có lần thấy rằng ăn thứ gì đó mình thích có thể khiến tâm trí người ấy thoát khỏi phiền toái. Sau này, dù người ấy có thể chọn cách ăn thứ gì tốt mỗi lần cảm thấy không hạnh phúc. Nhưng loại hành xử đó có thể rất khó giải quyết vấn đề. Thực tế là người ấy chỉ thêm vào những phiền toái mà không biết, vì người ấy có thể mắc chứng khó tiêu và quá mập và đầy những vấn đề không bao giờ được giải quyết. Đó là loại tình huống mà Đức Cồ Đàm đang suy xét khi Ngài nói, "khao khát thèm muốn gây nên sự tái tạo của những cái bắt đầu trở thành"trong Chân Lý Cao Quý Thứ Hai của Ngài. Tránh vật lộn thực sự trong lòng với mỗi khó khăn, khi nó khiến cho mình vấp phải vấn đề mới do một vấn khác. Người ấy xây đắp vấn đề mới trên nền móng của tất cả những vấn đề chưa được giải quyết. Làm như vậy, người ấy tiếp tục tái tạo bất hạnh của mình.
Khi người ta gặp một vấn đề mới trong cùng một chiều hướng vô ích như vấn đề cũ, người ấy tạo ra những hành động vô ích và những thói quen bất thiện. Điều này có thể dẫn đến hạnh phúc trường cửu không? Đức Phật trả lời, không. Ngài nói, những hành động và những thói quen như vậy phát xuất từ những ham muốn không được xem xét và không có gì ngăn cản. Chúng dẫn đến giạ tăng bất hạnh. Chúng cứ xuất hiện trong đời sống con người nhiều lần, trong những chiều hướng mới, và cả trong kiếp sống mới, theo giáo lý của Đức Phật.
Phật Tử giống như người Ấn Độ Giáo, tin tưởng vào tái sinh. Những hành động vô ích và những thói quen bất thiện phải được loại bỏ hay khắc phục trước khi có thể giải thoát khỏi cái vòng vô tận của kiếp sống cấu thành phần lớn khổ đau của con người. Đó là một phần mà Đức Cồ Đàm ý nói bởi câu "bám níu vào cuộc sống" trong Chân Lý Thứ Nhất của Ngài. Toàn bộ hệ thống tái sinh và tất cả bất hạnh có thể chấm dứt đối với một người khi người ấy chấm dứt sự thèm muốn không có gì ngăn ngại.
Sự khao khát, sự phẫn uất, sự mê đắm -- đây là những dấu ấn của thèm muốn. Những hành động phát xuất từ chúng dẫn đến bất hạnh. Hạnh phúc đạt được bằng cách chấm dứt thèm muốn. Xây dựng tính nết con người hôm nay quyết định hạnh phúc người ấy sẽ đạt được ở ngày mai. Người Phật tử có thể nói thêm rằng loại cuộc đời mà người ta sống hôm nay quyết định một phần vận hội hạnh phúc ở kiếp luân hồi tới. Người Phật Tử không nói "một người" hay một "linh hồn" -- ngay cả đến Cái Ta Ấn Độ Giáo -- khi chuyển qua kiếp khác. Chính ảnh hưởng của kiếp quá khứ tái sinh vào kiếp tới. Khi một đứa trẻ đến tuổi trưởng thành, chúng ta biết ảnh hưởng từ lúc nhỏ của nó quyết định phần lớn việc nó trở thành loại người trưởng thành nào. Người Phật Tử cũng nói thêm rằng điều gì đúng trong một kiếp sống thì sẽ đúng cho tất cả các kiếp sống có thể hiểu được, vì kiếp sống trần gian này chỉ là một đoạn trong nhiều đoạn khác.
Ta có thể thấy khó mà hiểu được lý thuyết Phật giáo về những ảnh hưởng quá khứ và sự luân hồi kéo dài qua nhiều kiếp sống. Nhưng rất dễ thấy rằng một lý thuyết như vậy đóng góp vào sự hiểu biết của chúng ta về kiếp sống của mình bây giờ. Những gì mà chúng ta là hôm nay được quyết định bởi mọi thứ đã đi vào quá khứ của ta, kể cả lịch sử nhân loại. Chúng ta sẽ là gì ngày mai được quyết định ở hôm nay bởi sự lựa chọn của chúng ta. Người Phật Tử nói, chúng ta sẽ có sự lựa chọn tốt nhất khi chúng ta chọn lựa một cách thận trọng, khắc phục tính ích kỷ và những dục vọng mãnh liệt.
8. LÀM SAO TÔI CÓ THỂ TÌM THẤY HẠNH PHÚC?
Nếu Đức Phật Cồ Đàm chỉ nói, "Chấm dứt những dục vọng dẫn đến bất hạnh, thì tức là Ngài đã không để lại cho các đệ tử của Ngài một sự giúp đỡ thực sự nào. May mắn là Ngài không ngừng lại việc dạy bảo bằng lời khuyên. Ngài hiểu hầu hết mọi người cần được giúp đỡ để biết cách ngăn chặn thèm muốn. Bài thuyết giảng đầu tiên của Ngài kết thúc với Tứ Diệu Đế quan trọng. Đưa ra lời tuyên bố cuối cùng về chân lý mà Ngài đã khám phá ra, Đức Cồ Đàm mô tả phương pháp mà con người có thể ngăn chặn thèm muốn. Từ thời Đức Phật Cồ Đàm, phương pháp này được gọi là "Bát Chánh Đạo". Tám bước này là phương pháp đặc trưng mà Đức Cồ Đàm đề nghị cho con người để tự giải thoát khỏi những nanh vuốt của dục vọng của chính mình.
(1) Chánh Kiến
Đức Cồ Đàm nói, bước thứ nhất tiến tới hạnh phúc là quan điểm đúng (chánh kiến) về bất hạnh. Trước khi có tiến bộ, người ta phải nhìn vào vấn đề xem vấn đề đó là gì. Khi thấy chính sự không hiểu biết của mình về những sự việc có thật trong đời mình đã gây ra phiền toái, và khi chấp nhận trách nhiệm về phiền toái ấy, thì ta đã đi vào con đường đúng. Đức Cồ Đàm không cho rằng Ngài đã tìm ra con đường độc đáo đi tới hạnh phúc. Ngài miêu tả con đường đó đã có từ xưa. Nhưng Ngài cảm thấy đa số người ta không ý thức được con đường này.
Đức Cồ Đàm nói, chừng nào chúng ta nhìn đời từ quan điểm sai lầm (tà kiến) chúng ta còn tiếp tục tham dục những thứ mà ta tưởng rằng những thứ đó làm chúng ta hạnh phúc. Đó là con đường tự lừa dối mình. Chúng ta phải học cách nhìn cho chính mình tại sao có ảo tưởng. Rồi chúng ta sẵn sàng đi vào bước thứ hai mà Đức Cồ Đàm gọi là chánh tư duy (khát vọng đúng).
(2) Chánh Tư Duy
Mọi người đều khao khát một cái gì đó. Cái khó khăn là hầu hết chúng ta, trong hoàn cảnh tinh thần và tình cảm rối rắm, đã khao khát những điều sai trái. Chúng ta đã không tập trung khao khát và nỗ lực của chúng ta vào mục tiêu đáng giá. Nhưng khi chúng ta từ bỏ những giá trị sai lầm dẫn chúng ta tới bất hạnh, chúng ta sẵn sàng chọn giá trị thực sự. Đức Phật vạch rõ lòng tốt và tình thương là chân giá trị. Những giá trị ấy chỉ có thể đạt được khi người ta vượt qua được vấn đề quan tâm đầu tiên của mình là cái "Ta", "Tôi" và "Của Tôi". Chỉ sau khi thôi không còn cho mình là trung tâm thì lòng tốt và tình thương chân thật xuất hiện ở mức tự phát và tự do.
Hai bước đầu tiên của Đức Phật trên con đường Trung đạo nói về tầm quan trọng của việc cải thiện thái độ. Ba bước kế tiếp nói về loại hạnh kiểm phải bắt nguồn từ thái độ đúng.
(3) Chánh Ngữ
Bước thứ ba là chánh ngữ. Người đi theo con đường Bát Chánh Đạo của Đức Phật thì không còn thích thú thị phi, phỉ báng, và lăng mạ hay chuyện vu vơ. Lời nói nặng sẽ được kiểm soát, ân cần và thận trọng, vì nó xuất phát từ thái độ tử tế đối với người khác. Một số người phạm tội do điều mà họ nói còn tồi tệ hơn cả những kẻ phạm tội chai lì làm. Đức Phật công nhận, giống như những nhà tâm lý học hiện đại công nhận, đây là một chướng ngại cho sự trưởng thành chân chính.
(4) Chánh Nghiệp (Hành Xử Đúng)
Bước kế tiếp trong Bát Chánh Đạo của Đức Phật là bước quan trọng của chánh nghiệp. Đức Phật không mô tả tường tận phạm vi của bước này. Nhưng những đệ tử của Ngài đã từng bước thảo một danh sách những gì ta không nên làm. Một bản liệt kê tiêu biểu nói không được giết, trộm cắp, tà dâm, nói dối hay dùng các chất say. Tuy nhiên, những lời dạy bảo cấm đoán này có liên quqn đến tầm quan trọng về hành xử mà Đức Cồ Đàm nói. Ngài biết rằng khuyến khích người ta làm một số điều quan trọng hơn là ra lệnh cho họ không được làm này nọ.
Đối với Đức Cồ Đàm, chánh nghiệp (hành xử đúng) có nghĩa là tình thương. Đức Cồ Đàm dạy rằng "tất cả những gì chúng ta có chính là kết quả những gì mà chúng ta nghĩ". Cho nên chúng ta không nên chứa chấp những cảm nghĩ của oán giận hay thù hận. Cảm nghĩ và tư tưởng làm hỏng cơ hội được hạnh phúc như hành động. "Nó hành hạ tôi, nó đánh bại tôi, nó làm tôi tiêu tan, nó cướp đoạt tôi -- ở những người chứa chấp những tư tưởng ấy, thù hận không bao giờ chấm dứt," Đức Cồ Đàm cảnh báo chúng ta. Vì Ngài khám phá ra rằng bất cứ lúc nào "hận thù cũng không chấm dứt hận thù, hận thù chỉ chấm dứt bằng tình thương". Và Ngài nói trong một dịp khác, "Hãy để cho con người vượt qua giận dữ bằng tình thương, hãy để cho con người khắc phục tội lỗi bằng điều thiện."
Đức Cồ Đàm thường nói với bạn bè rằng ngay cả khi bị đánh đập vũ phu, hoặc bị lăng mạ hay bị đánh bằng gậy gộc, bị ném đá, cũng không nên đánh lại hay có những tư tưởng hận thù. "Nếu ai chửi rủa bạn, bạn phải dẹp đi tư tưởng hận thù, và quyết tâm, 'Tâm ta sẽ không bị xáo trộn và không một lời giận dữ nào sẽ thoát ra từ môi chúng ta. Tôi vẫn tử tế và thân hữu và có những tư tưởng thương yêu và không thù oán giấu giếm nào.' Nếu bạn bị đánh bằng quả đấm, bằng đá, bằng gậy gộc, bằng gươm, bạn phải ném tư tưởng hận thù và gìn giữ tâm bạn với lòng thương yêu không có một thù oán giấu giếm nào."
(5) Chánh Mạng
Đối với một người thực sự tha thiết tìm cầu chân hạnh phúc, bước thứ năm là một bước kế tiếp hợp lý. Đó là kế sinh nhai đúng (chánh mạng). Đức Cồ Đàm tin rằng, có một số công việc mà người ta làm không thể không làm hại nghiêm trọng chính mình và người khác. Bất cứ một công việc nào làm tổn thương sự sống dưới bất cứ hình thức nào cũng không nên theo. Với người Phật Tử, việc làm ăn này gồm có: nghề đồ tể, người bán độc dược (ma túy, các chất say, và tương tự), buôn bán nô lệ, hay người chủ nô lệ. Ta không nên tham gia vào việc cất rượu hay phân phối rượu. Cũng chẳng nên làm quân nhân.
Điều này trái ngược hẳn với giáo lý của Ấn Độ Giáo mà Đức Cồ Đàm rất quen thuộc. Người Ấn Độ Giáo tin rằng một người sinh ra để làm nghề nghiệp thích đáng của mình. Nhưng Đức Phật tin rằng ta không nên cản trở người khác tìm cách thích ứng vừa ý nhất với cuộc sống. Vì thế, người ta có thể phải thay đổi nghề nghiệp. Chính Đức Phật có chung quanh Ngài những người đã từ bỏ đời sống gia đình và nghề nghiệp thường lệ để đi vào lối sống tu viện. Ngài cho rằng lý tưởng là tất cả những người thành thật tìm cầu đạo lý đều làm như vậy. Bằng cách đó, chắc chắn họ sẽ tìm được sự thỏa mãn lâu dài. Tuy nhiên sau này một đoàn thể cư sĩ được thành lập. Qua nhiều năm, ngày càng nhiều những người Phật Tử tiếp tục sống với gia đình, tìm những công việc thích hợp, hơn là bỏ lại những thứ như vậy để vào tu viện.
(6) Chánh Tinh Tấn
Bước thứ sáu là một bước vượt quá tầm mức hạnh kiểm. Ấy là Chánh Tinh Tấn, và đối với Đức Phật, những từ này có một ý nghĩa đặc biệt. Chánh Tinh Tấn có nghĩa là ta phải tìm cho chính mình một tốc độ riêng trên con đường Bát Chánh Đạo đi tới chân hạnh phúc. Người tìm cầu đạo lý không hành động quá chậm chạp hay quá vội vàng. Không có hạnh phúc nào đạt được trong cố gắng bắt kịp người khác. Bạn chính là bạn, có nhu cầu của riêng bạn và nhịp độ của chính bạn. Nhiệm vụ học hỏi để biết những cái ngã thực sự của chúng ta là học cách đi ở tốc độ tốt nhất.
(7) Chánh Niệm
Bước Thứ Bẩy của Đức Cồ Đàm là Chánh Niệm. Ngài tuyên bố rằng chính tâm dẫn con người vào hầu hết đời sống bất hòa. Đức Phật cho rằng, dục vọng thể chất làm quẫn trí, nhưng thường là vì tưởng tượng mạnh mẽ tạo quá nhiều dục vọng. Thèm muốn ăn uống tự nó không làm người ta bất hạnh. Bất hạnh phát triển khi ăn quá nhiều hay quá ham muốn ăn uống. Một phần của chánh niệm có nghĩa là học cách nghiên cứu dục vọng thể chất và tất cả mọi thứ khác xem chúng thực sự là gì không phải như tưởng tượng làm chúng biến thành.
Mục đích của Đức Phật là dạy con người rằng những đối tượng lôi cuốn giác quan có sức mạnh làm chúng ta không hạnh phúc vì chúng có thể dẫn đến tham dục thái quá. Ngài thấy rằng những người đàn ông bình thường có thói quen "lý tưởng hóa" phụ nữ. Ngài dặn dò các đệ tử của Ngài hãy vượt qua thói quen nô lệ về bộ mặt đẹp. Chuyện được kể lại về một người lữ khách một lần hỏi một nhà sư Phật Giáo, "Xin Ngài cho biết, Ngài có trông thấy một phụ nữ đi bộ dọc theo con đường này không?" Nhà sư trả lời, "Tôi không thể nói liệu đó là một phụ nữ hay nam giới đi qua con đường này. Điều mà tôi biết là một bộ xương đi qua con đường này". Đó là Chánh Niệm Phật Giáo dẫn tới chỗ cực đoan.
Đức Phật Cồ Đàm hy vọng những người hành trì Bát Chánh Đạo sẽ phát triển tính bình tĩnh trong việc tìm cầu hạnh phúc. Bằng cách đó, mỗi người hãy học cách lùi xa khỏi chính mình và quan sát những đam mê của chính mình mà không bị kích thích như khi nhìn các vì sao trên trời. Mỗi người phải tập coi những xúc cảm của mình xem chúng là gì, cả bên ngoài lẫn bên trong. Vấn đề này nhắc đến cả cảm nghĩ đau đớn lẫn cảm nghĩ vui sướng. Nhà sư Phật Giáo cố gắng luôn nhớ rằng cảm nghĩ tồn tại rất ngắn ngủi, nó đến rồi đi. Bằng cách này nhà sư có thể giữ vững mình không bị xáo trộn bởi cảm xúc, không thèm muốn, hay bám níu vào thứ gì. Những ai có thể chấp nhận cảm nghĩ của mình trong một cách khách quan này, sẽ ít bị xúc động bởi những thứ đó.
(8) Chánh Định
Bước cuối cùng của Bát Chánh Đạo được gọi là Chánh Định. Đức Cồ Đàm tán thán một số tập luyện Du Già đang thịnh hành vào thời Ngài. Tuy rằng Ngài không tìm thấy trong Du Già câu trả lời đầy đủ trước câu hỏi của Ngài về Bất Hạnh, Ngài đã được giúp đỡ bởi sự tu tập này để "an" tâm. Cho nên Ngài nói với các đệ tử của Ngài về giá trị của sự tu tập này.
Sự tập luyện Du Già được dạy cho từng cá nhân. Nó liên quan đến việc học cách lắng được những vọng tưởng của tâm cho đến khi người đó có thể đi thẳng vào kiến thức về nhu cầu thực sự của mình. Sự định tâm này do Đức Cồ Đàm chỉ dạy không phải là một tiến trình lập luận hay lô gic học. Nó là một cách hiểu biết khác -- bằng tuệ giác hay trực giác. Vì Đức Cồ Đám công nhận con người thay đổi nhiều về tính khí, Ngài đưa ra nhiều kiểu huấn luyện tâm để Chánh Định. Những phương cách này được phát triển bởi đệ tử của Ngài trong việc tu tập Du Già vẫn quan trọng đối vói những Phật Tử nhiệt tâm ngày nay.
NIẾT BÀN
Đức Cồ Đàm nhấn mạnh người hành trì nghiêm túc Bát Chánh Đạo sẽ đạt được Niết Bàn. Nghĩa hẹp của Niết Bàn là sự dập tắt thèm muốn, hận thù và tham lam. Như chúng ta đã thấy, đối với Đức Phật, sự dập tắt thèm muốn, và những thái độ không thích hợp là chân hạnh phúc. Niết Bàn có một nghĩa khác rất quan trọng đối với hầu hết các Phật Tử. Đó là thoát khỏi tất cả luân hồi trong tương lai, thoát khỏi "Vòng Trở Thành".
Vì người Phật Tử không nói đến linh hồn hay Cái Ta, cho nên họ ngần ngại nói về Đấng Tối Thượng như Phạm Thiên. Họ cảm thấy những vấn đề này không thể xác định chắc chắn được. Họ cho rằng, nói suông không quan trọng. Hiểu biết và tìm hiểu mới quan trọng. Nhưng dù có hay không có một linh hồn hay đấng Tối Thượng người Phật Tử tin có tái sanh. Vì những ảnh hưởng và các khuynh hướng thói quen của kiếp này sẽ tiếp tục tự tái sinh dưới hình thức này hay hình thức khác trong thời gian không hạn định của tương lai.
Niết Bàn không phải là nơi chốn. Nó là một trạng thái của tâm. Niết bàn đạt được sau những trầm tư nghiêm túc và nỗ lực mãnh liệt. Trầm tư là một trong những công đức chính của Người Phật Tử. Vô tư đáng trách. Người Phật Tử so sánh người vô tư với con khỉ cuồng nhiệt tìm kiếm thức ăn trong rừng.
Niết Bàn không có nghĩa là mất ý thức cá nhân vào lúc chết, vì Đức Cồ Đàm đã đạt niết bàn, và đã bỏ nhiều năm cố gắng giúp người khác đạt Niết Bàn. Tuy nhiên người Phật Tử sớm thấy cần nói về Niết Bàn tối hậu. Niết Bàn này có thể đạt được sau khi chết. Họ gọi đó là Parinirvana (Vô dư niết bàn).
Một người thực sự hạnh phúc là người đã đem cả tư tưởng và nỗ lực cần thiết để thực hiện Niết Bàn. Đức Phật không kính trọng chức tước hay đẳng cấp -- ngay cả đến những đẳng cấp thượng lưu của Ấn Độ. Ngài nói người ta không thể tiến tới hạnh phúc bằng dòng dõi gia đình mà người ấy được sinh ra. Phải chăng chính Ngài đã sinh ra không phải là một Thái Tử, thế mà có lúc Ngài đã từng là người bất hạnh nhất trong những người bất hạnh? Không phải bởi dơng dõi, không phải bởi của cải, mà là người ta phải khám phá ra cách vượt qua khổ đau. Bằng tìm cách vượt qua tham dục bất thiện, bằng cách duy trì việc tu tập Bát Chánh Đạo, bằng kiến thức của chính mình -- bằng những thứ này, ta đạt được hạnh phúc trường cửu.
9. CON ĐƯỜNG NÀO TÔI PHẢI ĐI?
Ngày này một phần năm người trên thế giới là Phật Tử. Chuyện về tôn giáo của họ quay về từ ngày Đức Cồ Đàm ngồi dưới gốc cây Bồ Đề và đứng lên với sự hiểu biết mới về đời sống. Phật giáo bắt đầu khi năm đệ tử của Đức Cồ Đàm nghe Ngài kể về kinh nghiệm của Ngài. Năm người này lại trở thành đệ tử của Ngài, lần này với quyết tâm thực sự. Nếu họ giữ những tin tức tốt đẹp này cho mình họ thôi, thì Phật Giáo đã không bao giờ bắt đầu được. Có thể nói là họ vui vẻ kể lại tất cả những gì họ nghe được. Số đệ tử của "vị Giác Ngộ" từ từ phát triển
Đức Cồ Đàm đã dành phần cuộc đời dài còn lại của Ngài vào việc giảng dạy và tổ chức các nhóm đệ tử của Ngài. Cuối cùng, khi Ngài trên 80 tuổi, Ngài từ trần. Những đệ tử buồn bã của Ngài tiếp tục hội họp và nghiên cứu, đồng thời cùng nhau hành thiền tưởng nhớ đến những lời dạy và các cuộc hội họp của Ngài. Đầu tiên họ theo sát giáo lý của Ngài. Họ cho thấy sức mạnh ảnh hưởng của Ngài bằng cách duy trì những điều mà họ phải làm giá như Ngài vẫn còn sống với họ.
Dần dà một số bắt đầu thấy và trình bày những điều nhắc họ về bậc thầy của họ. Những điều này trở thành các biểu tượng của Phật Giáo. Cây Bồ Đề, "Cây Trí Tuệ", nhắc nhở người Phật Tử nhớ đến sự giác ngộ của Ngài. Bông sen nở nhắc nhở bất cứ ai cũng có thể hướng thượng, tinh khiết trước bất cứ gì bao quanh. Bánh xe luân hồi Phật Giáo là sự tưởng nhớ đến bài pháp đầu tiên về chân lý bất diệt và cái vòng vô tận của sự trở thành. Những nhà sư quay bánh xe là biểu tượng để định luật của việc đưa chân lý bất diệt vào sự chuyển động.
Có lúc trong những năm đầu Ngài nhập diệt, đệ tử của Đức Cồ Đàm viết những lời Ngài nói và lời dạy của Ngài chia thành ba tạng. Kinh sách này được gọi là Tam Tạng Kinh Điển có nghĩa là "ba tạng chứa". Những vị đạo sư Phật Giáo quan trọng khác giải thích một số các kinh tạng này. Họ cũng nói những điều mà người Phật Tử mong ước nhớ lại. Có những điều được thêm vào kinh thánh.
Dần dà, những người đệ tử của Đức Cồ Đàm bắt đầu có ý kiến khác nhau về những gì là quan trọng nhất trong sự tìm cầu hiểu biết về đời sống. Những sự bất đồng ý kiến lúc đầu nảy sinh và phát triển thành hai tông phái lớn. Tông phái Phật Giáo tự cho rằng thay đổi ít so với hình thái giáo lý của Đức Phật là Tiểu Thừa hay Nam Tông. Tiểu Thừa Phật Tử, phần lớn cư ngụ tại Thái Lan, Ceylon, và Miến Điện. Tông Phái lớn hơn là Đại Thừa hay Bắc Tông Phật Giáo phát triển tại vùng rộng lớn của Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn, và Tây Tạng.
Hai thuật ngữ này có một ý nghĩa lý thú. Tiểu Thừa có nghĩa là "cỗ xe nhỏ" và một số ít người có thể thoát khỏi đời sống khổ đau bằng giới luật nghiêm ngặt. Đại Thừa có nghĩa "cỗ xe lớn" và có nghĩa nhiều người có thể làm tròn nhiệm vụ đòi hỏi trên con đường giải thoát.
Cả hai tông phái này không phải là một lực chính trong đời sống tôn giáo Ấn Độ, quê mẹ của Phật Giáo. Một thời gian dài sau khi Đức Cồ Đàm nhập diệt, người dân nhìn nhận Phật Giáo như một tôn giáo riêng rẽ tách khỏi Ấn Độ Giáo. Sau khi các nhà sư truyền giáo mang lý tưởng Phật Giáo đến những vùng đất khác, người dân Ấn dần đà bắt đầu bác bỏ lý tưởng này như một tôn giáo riêng rẽ, vì hầu hết giáo lý ấy không bao gồm một số khái niệm và tu tập đã là một phần truyền thống và xã hội của họ từ nhiều thế kỷ. Vì một số khái niệm của Đức Phật được hành trì bởi một số Ấn Đô Giáo, ảnh hưởng của vị hoàng tử cao quý, thâm trầm vẫn tồn tại tại ở Ấn Độ hiện đại. Tuy nhiên sự đóng góp của Đức Phật vào chân lý tôn giáo phát triển rộng lớn ở các vùng đất khác. Và trong những vùng đất khác này của Viễn Đông, Phật Giáo đã đạt được nhiều vinh quang tràn đầy.
TIỂU THỪA PHẬT GIÁO: CON ĐƯỜNG CỦA TỰ LỰC
Ở Thái Lan, Ceylon và Miến Điện, có nhiều Phật Tử thuần thành, họ tự tin vào lối sống dạy bởi vị giáo chủ, Đức Cồ Đàm. Nền tảng cơ bản trong niềm tin của họ là ta chịu trách nhiệm về sự cứu độ của mình. Quá khứ, hiện tại, tương lai của mình -- tất cả đều do chính mình. Như Đức Phật dạy, họ tin như vậy. Không có thần thánh nào sắp xếp sự cứu độ này. Không ai có thể làm việc đó cho mình.
Người Phật Tử Tiểu Thừa mộ đạo thực sự là A La Hán mà bổn phận đầu tiên là tự cứu độ. Người ấy hành trì chuyên cần để giải thoát khỏi phiền não của nhiều kiếp. Người ấy tự mình dấn thân vào sự tìm cầu giải thoát bằng cách tập trung vào lời dạy và triết lý từ giáo lý của Đức Cồ Đàm. Những nhu cầu về vật chất như ăn, ở, và quần áo đều hạn chế đến mức tối thiểu. Cả đến những thứ này cũng thường được tiếp tế bởi các tín đồ khác, những người không thể phá tất cả những ràng buộc theo cách A La Hán làm. Họ hy vọng giành được công đức do sự giúp đỡ A La Hán.
Giống như tất cả các tôn giáo khác, có một số ít người có thể và đặt mọi thứ khác đứng sau việc tìm cầu đạo lý. Công nhận sự thật này, những nhà sư dạy dân chúng không có cách nào khác hơn là học hỏi chân lý mà Đức Phật dạy cho họ. Không có thầy tu trong cộng đồng Phật Giáo Tiểu Thừa nhưng có một đoàn thể tăng già tích cực. Họ dạy dân chúng điều họ coi là thiết yếu: phát triển tinh thần hàng ngày và bầy tỏ lòng khả ái đối với mọi thứ. Những người Phật Tử ngày nay học hỏi điều Đức Cồ Đàm dạy cho người cư sĩ đã tập trung đông đảo để học tập giáo lý từ Ngài. Họ được yêu cầu giữ năm giới đầu tiên của đoàn thể tăng già cổ xưa. Họ cũng được dạy tụng lời nguyện Phật Giáo rất phổ biến về "Qui Y "
Tôi qui y Phật
Tôi qui y Pháp
Tôi qui y Tăng
Những lời dạy của các nhà sư truyền bá khắp các vùng đất Tiểu Thừa Phật Giáo vì hầu hết tất cả thanh niên trẻ đều tu học một thời gian trong các tu viện như một phần học hành của họ. Nơi đây họ tham dự vào phần nghiên cứu vào những buổi lễ tôn giáo, trong thiền hành và tất cả các hoạt động khác của tu viện. Những nhà sư dạy họ nhấn mạnh vào khái niệm quan trọng nhất trong Phật Giáo Tiểu Thừa -- đó là họ phải học để chịu trách nhiệm về sự phát triển đạo lý của mình. Họ được khuyến khích nghiên cứu và đặt thành vấn đề các truyền thống đạo lý. Họ sẽ không chấp nhận lý thuyết hay tu tập không giúp ích gì cho việc tìm cầu đạt Niết Bàn. Họ học hỏi những giá trị của sự tự chủ và ôn hòa trong tất cả mọi sự việc.
Sau việc học hành như vậy, một số thiếu niên quyết định xin được thọ giới và sống như một nhà sư trong suốt cuộc đời còn lại. Mọi người vui với chiều hướng của biến chuyển này, vì tất cả các tín đồ cảm thấy đó là con đường duy nhất bảo đảm sự giải thoát khỏi cái vòng vô tận đau khổ của kiếp sống. Tuy nhiên, gia đình buồn phiền vì rút cục là mất đứa con, tự an ủi bằng cách nhớ rằng không nên bám níu quá nhiều vào bất cứ thứ gì. Họ biết rằng đứa con trai ấy đang làm việc để đạt Niết Bàn. Có những cuộc lễ long trọng để đánh dấu những nguyện sống cuộc đời tu viện. Các chàng trai làm lớn chuyện Từ Bỏ Vĩ Đại mà Đức Cồ Đàm đã làm, từ bỏ gia đình và vương quốc, khoác áo nhà sư và mang bình bát khất thực, quyết tâm đi tìm sự giải thoát.
Người Phật Tử tin rằng những lời dạy của Đức Cồ Đàm vẫn áp dụng cho đời sống ở thế kỷ hai mươi vì giáo lý ấy xuất phát thẳng từ sự vật lộn với cuộc đời của Đức Cồ Đàm. Vì trí tuệ của Ngài đạt được trực tiếp từ cái xẩy ra cho Ngài chứ không phải do sách vở, ngày nay những người Phật Tử Tiểu Thừa được khuyến khích đi theo cùng loại tiến trình học tập Ngài đã làm. Hầu hết họ xác quyết vị giáo chủ của họ rất đúng về sự hiểu biết bản chất của phiền não và cách để vượt qua nó. Cho nên người Phật Tử hết thế này đến thế hệ khác thấy giáo lý cổ xưa vẫn giá trị. Đó là lý do tại sao những người Phật Tử Tiểu Thừa ngày nay vẫn rất gần gũi với tinh thần của những người Phật Tử lúc phôi thai ở Ấn Độ cổ xưa.
Giống như hầu hết các tôn giáo, Phật Giáo Tiểu Thừa đã cùng hòa hợp với người dân lâu đời đến nỗi một số tập tục xã hội ngày này dường như là một phần của tôn giáo này. Cả đến trẻ em cũng được dạy sự cần tự chủ, kính trọng Phương Đông và sự thờ kính cha mẹ, giản dị trang nhã về con người và nhà cửa, sự thanh thản về xúc cảm và cư xử. Trong một số nhà và chùa có các thần tượng hay những tượng Phật, ngoài ra người ta đặt những bông hoa trắng tượng trưng sự tôn kính.
Tràn đầy tất cả những công trình xây dựng nhiều mầu sắc nhưng yên tĩnh của Phật Giáo Tiểu Thừa là những khái niệm thiết yếu. Con người tự mình phải hiểu biết về sự giải thoát của chính mình, hãy bắt đầu ngay từ bây giờ. Người ấy phải tỏ ra đồng cảm và hòa thuận trong các cuộc tiếp xúc với tất cả chúng sinh. Người ấy phải học cách kiểm soát tất cả tư tưởng và hành động của mình, vì đây là những thứ này làm thành chính con người ở cõi đời này và chúng ảnh hưởng đến tất cả những kiếp kế tiếp.
Không có hành động hay tư tưởng nào ngăn chặn ta hoàn thành việc đó. Nó tiếp tục trong cái nó là nguyên nhân xẩy ra. Nếu bạn trở nên nóng giận và sỉ vả một người bạn, đó không phải là sự chấm dứt của hành động và lời nói. Người bạn, bị xúc phạm bởi sự nóng giận của bạn, có thể phản ứng lại bằng giận dữ với bạn hay cả đến với người khác. Trên phương diện đó, hành động này tiếp tục và sống dựa vào những hành động khác. Con đường của hành động tử tế cũng diễn ra như vậy. Khi bạn tỏ lòng tốt với một người khác hay cả đến một con vật, khiến người nhận được sự tử tế cũng hành động cùng một cách đối vối bên thứ ba.
Ta gặt cái ta gieo: Người Phật Tử tin rằng tính nết hình thành những tư tưởng và hành động mà ta đã gieo. Kết quả của tư tưởng và hành động là cái được tái sinh -- không phải cái "tôi tinh thần" hay linh hồn. Ta chỉ nhớ lại cuộc đời mà Ngài Cồ Đàm sống, Ngài đã làm gương hơn là chỉ bằng lời nói. Ngài đã chứng tỏ tất cả con người có thể giáo dục lấy mình đến giác ngộ và Niết Bàn. cho dù mất hơn một kiếp sống. Tác động của tư tưởng và hành động thiện và nhân ái của Đức Cồ Đàm vẫn tiếp tục cho đến ngày nay và mọi thời đại dù Đức Cồ Đàm đã tự giải thoát khỏi vòng tái sinh. Mọi người đều có thể làm những gì như Đức Cồ Đàm đã làm.
ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO: CON ĐƯỜNG TƯƠNG TRỢ
Theo đường lối riêng, Đại Thừa Phật Giáo khác hẳn Tiểu Thừa Phật Giáo. Phật Giáo Bắc Tông này khởi đầu ngay những năm sau cái chết của Đức Cồ Đàm, khi những đệ tử của Ngài khao khát những ngày đã qua lúc Ngài ở với họ. Lúc nào họ cũng tưởng nhớ đến Ngài với lòng tôn kính. Một số đệ tử sớm đi đến chỗ gắn tầm quan trọng đặc biệt vào bất cứ gì làm họ nhớ đến đời sống của Ngài. Những nơi hội họp của họ dần dần bắt đầu giống như chùa. Những sự thay đổi sâu xa xẩy ra trong sự giải thích thánh kinh. Những hình thái mới này của Phật Giáo mang tên Đại Thừa. Đại Thừa nảy sinh để đáp ứng nhu cầu tinh thần về người dân bình thường bình dị, chăm chỉ làm việc.
Phật Tử Đại Thừa tin là họ đúng trong nỗ lực giúp đỡ sự phát triển tôn giáo. Họ chỉ vào tấm gương phục vụ không vị kỷ của chính Đức Phật trong việc dạy người khác cách tìm đường tới Niết Bàn cả đến khi Ngài đã tự mình đạt được mục tiêu. Tình thương yêu như Ngài đã chứng tỏ trở thành giáo lý tối thượng của các trường phái và các phái Đại Thừa Phật Giáo. Đại Thừa Phật Giáo không lý tưởng hóa A La Hán, người "nay đây mai đó một mình như con tê giác" tìm kiếm Niết Bàn. Thay vào đó, họ tỏ lòng kính yêu vị thánh từ bi, một Bồ Tát. Đó là một người chia sẻ những khổ đau và hy vọng của tất cả chúng sinh nên đã tự mình không vào Niết Bàn cho đến khi tất cả những người khác có thể vào Niết Bàn với Ngài. Đó là lý tưởng chiếm ưu thế trong Phật Giáo Trung Hoa và Nhật Bản.
Chuyện về Đức A Di Đà (hay A Mi Đà như được gọi tại Nhật Bản) minh họa vị trí của Bồ Tát trong Đại Thừa Phật Giáo. Mặc dù A Di Đà nguyên thủy là một Bồ Tát, bây giờ Ngài đã thành Phật, vì trong Đại Thừa Phật Giáo có rất nhiều Phật. Đức Phật A Di Đà đứng kế Đức Cồ Đàm trong tâm người Phật Tử Bắc Tông. (Ở vùng bắc, Đức Cồ Đàm được gọi là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nghĩa là "bậc hiền triết của dòng họ Sakya" mà gia đình Ngài thuộc dòng họ ấy). Theo huyền thoại, A Di Đà là người sống vô lượng kiếp trước. Ngài phát nguyện đem cả trí tuệ và công đức để cứu những người khác. Qua nhiều năm, Ngài xây đắp cái có thể gọi là "Kho Tàng Công Đức", một tài khoản khổng lồ điều thiện. Phật Tử Đại Thừa tin rằng bất cứ ai cần công đức có thể rút ra từ tài khoản ấy bằng cách thiền định về từ bi của Đức A Di Đà và niệm tên Ngài.
Trong các tác phẩm Phật Giáo, tài khoản này thường được đề cập đến như chiếc "Thuyền chở Nguyện của Đức A Di Đà". "Chiếc "Thuyền chở Nguyện "được trù tính để chở người vượt qua lũ lụt của cuộc đời tới "miền đất thanh tịnh" hay Tây Phương Cực Lạc, nơi Đức A Di Đà thành lập cho tất cả những ai có niềm tin nơi Ngài. A Di Đà là hình ảnh trung tâm của một số trường phái và giáo phái trong Đại Thừa Phật Giáo. Những nhóm này gồm có cái được gọi là "Miền Đất Thanh Tịnh" của Phật Giáo, vì họ tin rằng bất cứ ai có niềm tin nới Đức A Di Đà sẽ vào Tây Phương Cực Lạc khi chết và, như vậy thoát khỏi vĩnh viễn phiền não và tái sinh.
Bồ Tát nổi tiếng nhất là Quán Âm (Nhật Bản gọi Kwannon) là vị nữ thần từ bi. Chuyện cổ nói với người Phật Tử Đại Thừa rằng Ngài sống từ xa xưa. Ngài tràn ngập tình thương và khả ái đối với tất cả nhân loại đến mức Ngài đã phát nguyện giúp đỡ bất cứ người nào bất cứ ở đâu cần tới Ngài. Thâm chí Ngài không vào cực lạc lúc nhập diệt. Thay vào thiên đàng Ngài tới sống tại một hòn đảo, nơi đây hiện có một ngôi chùa tượng trung sự có mặt của Ngài. Người Phật Tử có thể cầu nguyện Ngài giúp đỡ trong việc gom góp đủ công đức để tránh khỏi tái sinh. Một số Phật Tử hành hương đến ngôi chùa này tại hòn đảo của Ngài ở Biển Đông Trung Hoa.
Lý tưởng căn bản của cả hai câu chuyện là sự tương trợ. Người Phật Tử nói cho chúng ta biết những huyền thoại này được viết bằng truyện tranh. Những huyền thoại này cho chúng ta thấy chúng ta không độc lập. Chúng ta là một phần của sự tùy thuộc lẫn nhau trong tất cả đời sống. Ảnh hưởng của tư tưởng và hành vi của tôi quấn vào ảnh hưởng của bạn. Không ai là một hải đảo riêng biệt, một mình trong biển cả đời sống. Mỗi người là một phần của lục địa. Một nghệ sĩ vẽ bức tranh tượng trưng đời sống của chúng ta sẽ không vẽ những đường thẳng kéo dài từ mỗi người chúng ta đến thiên đường nào đó ở trên. Người ấy vẽ một mạng lưới, những đường thẳng phức tạp, vì mỗi cá nhân đóng góp phần mình vào cho người khác. Cho nên, người Phật Tử tin rằng Đức A Di Đà và Đức Quán Thế Âm cho công đức của họ cho tất cả.
Một nhà thi sĩ Phật Giáo đã bày tỏ rất đẹp đẽ ý tưởng về Bồ Tát là gì và Bồ Tát làm gì:
"Tôi là người che chở cho người không được che chở, hướng dẫn viên cho người lạc đường, là con tàu, bờ đê, cây cầu cho những người tìm vào bờ; là ngọn đèn cho những ai cần đèn, giường nằm cho những ai cần giường, thuộc hạ cho những ai cần thuộc hạ.
Nếu tôi không làm trọn lời nguyện của tôi bằng hành động, tôi sẽ là sai với tất cả chúng sinh. và dù số phận của tôi thế nào... Nếu tôi không nỗ lực ngay hôm nay, tôi sẽ gục ngã."
Bất kỳ ở đâu, Đại Thừa Phật Giáo cũng lôi cuốn một số đông tín đồ, có những nhà sư, triết gia và sinh viên. Cũng có một tổ chức tôn giáo có nhiều thần, có chùa, thầy tu và các cuộc lễ. Vẫn ham thích trở thành một nhà sư nếu có thể được nhưng cũng có nhiều cách để một cư sĩ tham gia tôn giáo. Có những nghi thức cho sự thờ phượng riêng và các thời kinh được hướng dẫn bởi các nhà sư. Một số hệ phái có những bài thuyết giảng và những âm điệu tụng niệm trong các thời kinh. Một số có những lớp học chủ nhật. Ở một vài nơi, Hội các thiếu niên Phật tử (Gia Đình Phật Tử) là nét đặc thù. Một số thành phố lớn tại Hoa Kỳ có những nhà thờ Phật, nơi đây bạn có thể thấy một số các hình thức thờ phượng mới.
Hầu hết Phật Tử Đại Thừa nhấn mạnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không phải chỉ là người đã sống vào một thời gian nào đó hay ở một nơi nào đó. Ngài nhiều hơn thế nhiều. Ngài khám phá ra chân lý bất diệt. Bất cứ lúc nào một người phụng thờ Đức Phật, tức người ấy thực sự phụng thờ Phật Tánh bất diệt mà Đức Cồ Đàm đã khám phá ra. Vạn vật không phải được sắp đặt đến mức khám phá này chỉ xuất hiện ở thời đại chúng ta. Phật Tử Đại Thừa tin có nhiều Phật ở các thời đại khác. Họ đang mong đợi sự thị hiện của Đức Di Lặc, Đức Phật vị lai ở thời đại kế tiếp. Tóm lại, họ nói về vô lượng Đức Phật, những Đức Phật đã khám phá ra chân lý cho con người ở mọi thời đại. Họ có cùng Phật tánh, cái có thể tìm thấy ỏ mọi người. Tất cả đều có thể đạt giác ngộ hay Phật Qủa. Nhiều người nói Bồ Tát là các Đức Phật của thời đại tương lai.
Có một khía cạnh khác trong Phật Giáo Đại Thừa khác hẳn những lý tưởng mà chúng ta đã khảo sát, được gọi là Thiền theo Trung Hoa và Zen ở Nhật Bản. Ở Nhật Bản có ngôi nhà thờ hoạt động dựa vào triết lý của nó nhưng chủ yếu nó là một trường phái về tư tưởng thích hợp với nhiều nhà sư. Thiền không nhấn mạnh bất cứ một ý tưởng nào về đấng cứu tinh, Thiên Đường Tây Phương, niềm tin hay thượng đế. Các triết gia Thiền nói rằng tất cả những ý tưởng và tu tập giống như cái vỏ cần phải phá vỡ ra nếu muốn ăn trứng. Người ta bám níu vào các ý tưởng và tu tập, quên đi điều họ muốn giải thích và trình bày. Bám níu vào ý tưởng giống như bám níu vào gió hay giữ gió trong hộp. Gió tránh bạn. Chân lý cũng giống như vậy, nếu bạn tự giới hạn vào một tư tưởng hay một hành động.
Đối với người Phật Tử Thiền, thầy giáo, sách vở, và kinh thánh chỉ là những lời gợi ý -- giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Trẻ nhỏ thường nhìn vào ngón tay chỉ hơn là nhìn vào vật được chỉ. Hầu hết những người lớn cũng bận tâm nhiều đến cái chỉ hơn là đến cái được chỉ. Tâm, miệng, mắt, tai và tay cung cấp cho chúng ta ý kiến, cảm tưởng và hành động. Nhưng những thứ này chỉ là cách để mô tả hoặc trình bày điều đã xẩy ra cho chúng ta. Cái nguy hiểm là chúng ta bị ràng buộc vào ý kiến, ấn tượng và hành động, mà quên đi kinh nghiệm tạo ra chúng. Đó cũng giống như đặt quá nhiều giá trị vào khung hình hơn là vào cái hình được thiết kế để làm cho nổi bật. Hay cững giống như trân quý cái bìa sách và quên đi câu chuyện trong sách.
Người Phật Tử tu Thiền nói rằng bạn chỉ tìm thấy chân lý bằng kinh nghiệm chứ không phải nghĩ về chân lý hay nghe ai kể về kinh nghiệm của người ấy. Muốn hiểu ý nghĩa cuộc đời, ta phải sống, chứ không phải hình thành các lý thuyết về nó. Một hôm một đạo sư Thiền nổi tiếng muốn gây sửng sốt cho đệ tử của Ngài bằng cách ném tất cả tượng Phật vào lửa để căn phòng được ấm hơn. Đây là cái mà Thiền nói là mọi người phải làm với tất cả khái niệm của mình - đốt chúng đi để chúng không chứa đầy tâm ta quá mức. Phải đập tan mọi lý thuyết như đập tan thần tượng bằng đất sét. Người tu Thiền còn dạy rằng nếu nói đến chữ "Phật", phải súc sạch miệng mình.
Các đạo sư Thiền biết rằng bằng lời nói từ miệng không thể dạy chân lý, Chân lý chỉ có thể tìm thấy bằng kinh nghiệm. Khi người trẻ tuổi hỏi về Niết Bàn hay Phật, các đạo sư thiền thường trả lời với bất cứ gì họ thấy trong tâm tuy là ngớ ngẩn. Hay họ có thể dùng "phép đột khởi" mà đánh đệ tử. Họ hy vọng với câu trả lời bất thần như vậy khiến người đệ tử ngộ được. Họ thường nhắc các đệ tử là tập trung vào một vấn đề không mang lại câu trả lời vì chỉ làm cho tâm bạn bối rối trong việc suy nghĩ. Bạn phải sống cuộc đời điều độ và khả ái, tiếp tục các công việc hàng ngày, học cách đặt vấn đề, các ấn tượng và tư tưởng của bạn. Đột nhiên một ngày nào đó, bạn sẽ ngộ.
TẦM VƯỢT XA CỦA PHẬT GIÁO
Không một vùng đất nào trên thế giới lại thay đổi nhanh hơn Viễn Đông. Hoàn cảnh trong những xứ sở Phật Giáo đã thay đổi nhiều lần từ khi Đức Cồ Đàm triển khai lần đầu tiên câu trả lời về điều bí ẩn tại sao con người đau khổ. Cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa Phật Giáo đã chứng tỏ có thể thích ứng với những hoàn cảnh thay đổi và với những dân tộc khác nhau. Thế giới ngày mai sẽ phát triển từ thế giới hôm nay. Cho nên Phật Giáo chắc chắn sẽ tiếp tục là một ảnh hưởng thực sự trong đời sống của những nước láng giềng Viễn Đông của chúng ta. Đại Thừa Phật Giáo đang mở rộng ảnh hưởng bằng cách gửi các nhà truyền giáo tới những vùng đất mới vối niềm tin là điều Đức Phật khám phá ra có thể giúp đỡ hầu hết mọi người.
"Tại sao tôi không hạnh phúc?" Đức Phật gợi ý: vì bạn tràn đầy mong muốn, cho đến khi sự mong muốn là sự khát khao thì nó không thể thỏa mãn được dù bạn đã được thứ bạn muốn.
"Làm thế nào tôi có hạnh phúc?" Bằng cách chấm dứt mong muốn. Giống như ngọn lửa tắt khi không thêm dầu thêm vào, cho nên sự bất hạnh của bạn chấm dứt khi nhiên liệu của tham dục thái quá bị lấy đi. Khi bạn chiến thắng được lòng ích kỷ, những thói quen và hy vọng dại dột, hạnh phúc thực sự sẽ hiện ra.
Trong chừng mực chúng ta có thể nhớ, tin tức về Trung Hoa đã là những tin về sự thay đổi cách sống của người dân: nội chiến, chiến tranh quốc tế, cách mạng, phát triển chính trị mới. Bao giờ những sự thay đổi như vậy cũng gây nhiều tổn hại đến toàn bộ đời sống của người dân. Ở Trung Hoa cũng như ở bất cứ nơi nào, tôn giáo bị bắt buộc phải thay đổi. Nhiều truyền thống cổ và các lễ hội và các khái niệm không còn được tôn trọng và tuân theo hay được hiểu biết bởi người Trung Hoa ngày nay.
Nước Trung Hoa cổ tương đối không bị đụng chạm bởi khoa học hiện đại và những tiến bộ giáo dục cho đến đầu thế kỷ thứ hai mươi. Tuy nhiên, nhiều thế kỷ trước, có một nhà hiền triết tên là Lão Tử, nhà hiền triết này tin và dạy rằng thế giới chuyển động theo kiểu siêu phàm phản ảnh của sự vận hành nhịp nhàng và trật tự của thiên nhiên. Lão Tử nói, toàn bộ trí tuệ và hạnh phúc cho con người là con người phải tự mình thích ứng với trật tự này và tự suy ngẫm về phản ảnh lối sống mà thế giới này vận động.
Đời sống và tư tưởng của Lão Tử đã ảnh hưởng sâu đậm vào đời sống và tư tưởng của người Trung Hoa. Không có Ngài thế giới sẽ nghèo nàn hơn. Những lời giáo huấn của Ngài cùng với lời dạy của những đệ tử sau này của Ngài tin tưởng như Ngài đã làm, tạo thành tư tưởng căn bản của Lão Giáo. Tuy nhiên khi ta nhìn lại một cách thận trọng vào quá khứ Trung Hoa -- vào khoảng 600 năm trước Công Nguyên -- chúng ta chỉ thấy hình bóng mờ ảo nhạt nhòa của nhà hiền triết, một nhà hài hước, một triết gia và một nhà tiên tri. Hình ảnh của Lão Tử trở nên gần gũi với huyền thoại. Tuy nhiên nhiều học giả cho rằng Ngài thực sự đã sống. Chuyện kể rằng Đức Khổng Tử đã đến thăm Ngài và hai triết gia này đã đàm luận với nhau. Lão Tử được ghi nhận trong các sách được viết vào thế hệ sau thế hệ Ngài. Theo truyền thống, chính Lão Tử được cho là tác giả cuốn Đạo Đức Kinh, một cuốn sách nhỏ có sức hấp dẫn mà nhiều cái Lão Giáo đã dựa vào.
Trước hết Lão Tử bị thúc đẩy nói ra vì Ngài nhìn chung quanh Ngài thấy nhiều người bối rối bởi những câu hỏi không được trả lời về đời sống. Những câu hỏi nầy cũng không khác nhiều với những câu mà bạn và tôi hỏi ngày nay. Giống như mọi câu hỏi căn bản của con người, những câu hỏi này được nhắc đi nhắc lại qua nhiều thế hệ. "Tôi là gì? Đời sống của tôi là gì? Phải chăng tôi đang sống cuộc đời đẹp nhất mà tôi có thể? Tôi sẽ ra sao? Làm sao tôi có thể làm tốt hơn? Kết quả cố gắng làm tốt hơn như thế nào?"
Người Trung Hoa nhìn vào thế giới một cách lạc quan và khi họ hỏi, họ hỏi bằng hy vọng và tin tưởng. Ho quan sát thấy thế giới là chỗ tốt cho con người. Ta có thể tin cẩn vào thế giới. Tất cả những kinh nghiệm trong các tiếp xúc hàng ngày với thế giới cho họ thấy thế giới có trật tự và có thể đáng tin cậy. Thiên nhiên không vân hành bằng ý thích chợt nảy ra. Người Trung Hoa dường như cảm thấy họ "thuộc về" thiên nhiên.
Tuy nhiên Lão Tử nhìn vào những người chung quanh Ngài và thấy một số người tranh đấu vì hạnh phúc mà không nhớ đến các truyền thống đã dạy họ. Ngài thấy người dân cố gắng thay đổi cái mà đời sống hiến dâng thay vì phải chấp nhận nó. Và Ngài nói: "Bạn tìm kiếm sự thông thái, tính tốt và sự bằng lòng. Những cái mà bạn cố gắng tìm kiếm những thứ ấy lại là mù quáng và khờ dại. Bạn không thể nào nhìn thấy sự thông thái là lòng tin, tính tốt là chấp nhận và bằng lòng là tính đơn giản? Đó là đường chuyển động của thế giới.
ĐƯỜNG CHUYỂN ĐỘNG CỦA THẾ GIỚI
Vào những ngày xa xưa hơn Lão Tử, con đường chuyển động của thế giới được đặt tên là Đạo, nghĩa đơn giản là "con đường" hay "đường đi". Nó được dịch là "thiên nhiên" hay "con đường của "thiên nhiên". Đó là quỹ đạo mà vũ trụ vận hành và có sự tồn tại. Con người là một phần của vũ trụ. Khi con người hầu như là tự nhiên, họ chuyển động theo luật tùy thuộc và tác động lẫn nhau trên khắp thế giới. Nếu Đạo được phép tự do hành hoạt trong con người thì mọi sự đều ở mức tốt nhất, vì Đạo có bản chất hoàn hảo: quân bình toàn hảo, hòa hợp toàn hảo. Chính là Đạo -- không có gì khác.
Đạo là nguồn gốc của tất cả mọi thứ được sáng tạo ra. Nó chịu trách nhiệm đưa tất cả mọi thứ vào sự tồn tại, kể cả thánh thần Trung Hoa. Bản thân Đạo chính không bao giờ được coi là thượng đế. Đạo là thực tế. Nó có trước bất cứ một vũ trụ nào. Nó tạo ra tất cả cuộc sống và tiếp tục giữ cuộc sống hành hoạt qua sự giải phóng ra năng lượng của nó. Thăng trầm, thủy triều lên xuống, tồn tại và suy tàn -- do sự luân phiên như vậy của năng lượng Đạo, cuộc sống bắt đầu và tiếp tục.
Dù vậy, Đạo không bao giờ bắt buộc con người phải hành động theo một đường lối nào đó. Đạo chỉ hành hoạt. Chỉ có vậy.
Đặt tên Lão Giáo như vậy vì Lão Tử và các môn đồ của Ngài khẳng định Đạo là con đường của đời sống. "Trở về với thiên nhiên "là mục tiêu của họ -- "thiên nhiên" được hiểu là con đường tự nhiên và thích hợp của mọi thứ. Những người theo đạo Lão lúc phôi thai đã hoàn toàn tin theo đường lối này đến mức tìm cách kêu gọi Trung Hoa chấm dứt các nghi lễ, các tập tục của con người và cả đến nền văn minh, vì đấy là kết quả của sự can thiệp vào thiên nhiên.
ĐƯỜNG CHUYỂN ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI
Những người theo Đạo Lão lúc phôi thai thường đề cập đến "Thời Đại Vàng Son" quá khứ khi con người sống trong hòa bình và hòa hợp vì họ sống thiên nhiên, thoát khỏi tính nhân tạo, giản dị -- nói tóm lại, người của Đạo. Những thứ tốt đẹp mà con người tìm thấy đã bị mất khi thời đại này qua đi. Con người chỉ có thể tìm lại chúng khi họ trở về với tính đơn giản,và tính thiên nhiên hoàn toàn là đặc điểm của Thời Đại Vàng Son.
"Thiên nhiên" là chìa khóa của tất cả những câu trả lời của người theo Đạo Lão về những vấn đề mà đời sống khiến chúng ta hỏi. Điều thiện cao tột bậc nhất và hạnh phúc chân thật của con người được tìm thấy do tuân theo lối sống của toàn bộ thiên nhiên, Đạo. Khi người ta sống tự nhiên, người ta thấy thoải mái trong nội tâm và có thể chấp nhận những gì đời sống hiến dâng. Khi người ta có tham vọng hay xông xáo, người ta mâu thuẫn với bản chất thực sự của mình. Trong cuộc nội chiến tiếp theo với chính mình, người ta đánh một đòn chí tử vào hạnh phúc có thể có của mình.
Trong khi Lão Tử bình tĩnh gợi ý là con người phải thư giãn và chấp nhận thế giới nó là như thế, thay vì cố gắng thay đổi nó, có nhiều người đã lớn tiếng không đồng ý. Những nhà cải cách và triết gia, Đức Khổng Tử trong số người này, đi khắp nơi và bảo những người nghe rằng con đường duy nhất để đạt hạnh phúc và thịnh vượng là đức hạnh. Khi mỗi người biết làm bổn phận của mình, và làm tròn trách nhiệm của mình, thì đất nước và dân tộc sẽ được phước lành. Họ cũng nói về thời đại vàng son quá khứ khi hạnh phúc là một luật lệ hơn là một ngoại lệ. Nhưng họ nói rằng giá trị của nó có thể được thực hiện một lần nữa khi người dân biết cách đối xử với nhau.
"Không phải thế, không phải thế!" Những người theo Đạo Lão lúc mới hình thành kêu lên. Đức hạnh, bổn phận -- chỉ đạt được bởi những ai tự mình đi và làm những gì đến một cách tự nhiên. Tại sao con người tranh đấu vì thiện tính? Thiện tính tự nó đến khi tất cả luật lệ được quên đi và nỗ lực chấm dứt. Không bao giờ đạt đức hạnh được bằng cách tìm kiếm nó. Bổn phận chỉ có thể thi hành khi bạn không cố gắng thi hành nó.
Lão Tử hầu như không đồng tình với những nhà cải cách tiêu biểu chỉ muốn thêm vào hết luật lệ này đến luật lệ khác cho cách sống thích hơn. Ngài nói, "chỉ sau khi người dân đã lầm đường lạc lối thì các nhà cải cách mới kêu gọi, hãy tử tế, hãy ngay thẳng! tôi sẽ nói với bạn cách làm". Khi một gia đình không yên ấm, cha mẹ bắt đầu nói với con cái phải biết tôn kính và vâng lời. Điều này cũng áp dụng cho các quốc gia, chỉ những lúc quốc gia rối loạn, người dân mới lo lắng về lòng ái quốc.
Thiên nhiên không bao giờ tranh luận về chiều hướng mà con người làm. Thiên nhiên chỉ tiếp tục là thiện. Và lập luận nào có thể thay đổi đường chuyển động của thế giới? Trọng lực không bàn thảo hay năn nỉ với chúng ta, nó chỉ hành hoạt. Bằng cách đó, thiên nhiên cho chúng ta thấy Đạo. Lão Tử chỉ ra rằng Đạo không bao giờ ép buộc, thế mà không có gì Đạo không hoàn thành. Chính xác là vì sự hoạt động không ngừng, không tranh đấu, không ép buộc của nó, Đạo là sức mạnh duy nhất.
Người sống theo Đạo sẽ không bao giờ dùng sức mạnh, vì sức mạnh đánh bại mục tiêu cao hơn của mình. Người muốn cố gắng làm cho thế giới thành cái mình muốn sẽ tự mình làm hại mình và những người khác trong mưu toan này. Ai khăng khăng tranh đấu vì một điều gì đó liên quan đến cố gắng của mình, chỉ mất gía trị của cái mà mình tìm kiếm. Như vậy người ấy làm hại lý tưởng của mình, làm thất bại mục tiêu của mình, và bị thất bại khổ sở.
Con người học hỏi từ ao nước đục. Dù quấy lên bao nhiêu cũng không thể làm nó trong lại được. Nhưng khi để mặc nó yên, tự nó trở nên trong. Cũng như vậy đối với con người và quốc gia. Những người cầm quyền đặc biệt phải hiểu điều này. Có lần Lão Tử nói người trị vì dân chúng giống như nấu một con cá nhỏ một cách nhẹ nhàng. Nấu quá mức, quấy đảo nhiều, cá sẽ rời thành từng miếng nhỏ hay mất hương vị của nó. Cũng như vậy với những người được cho là đi dạy người khác, những người ấy phải nắm khái niệm này. Người nào nghĩ rằng mình biết nhiều về người khác có thể nghĩ rằng mình khôn ngoan. Nhưng chỉ khi người nào biết mình mới nắm được sự thực và điều quan trọng.
CON NGƯỜI CÓ ĐẠO
Lão Tử và Trang Tử, một người theo Lão Giáo nổi tiếng sau này (vào khoảng 350-275 trước Công Nguyên), đã miễn cưỡng tuyên bố, Chánh Đạo không phải là Đạo có thể bày tỏ bằng lời. Không thể miêu tả con người của Đạo theo nghĩa đen. Tuy nhiên người ta thúc giục hai vị này định rõ nghĩa. Và Lão Tử đã vẽ một bức tranh bàng lời:
Đó là người thận trọng, giống như người vượt sông vào mùa đông;
Đó là người do dự, giống như người sợ hãi người láng giềng;
Đó là người nhũn nhặn, giống như người khách;
Đó là người mềm mỏng, giống như băng tuyết sắp sửa chảy.
Người theo Lão Giáo cảm thấy rằng miêu tả như vậy của người đĩnh đạc và thanh thản như vậy là rất đúng, không phải vì Lão Tử hay người nào đó đã nói như vậy -- mà là vì chúng phản ảnh bản chất của sự vật, Đạo.
Một hôm Trang Tử đang câu cá thì một vài viên quan to ở tỉnh Ngài đến thăm Ngài. Trong khi Ngài tiếp tục câu cá, họ tâng bốc Ngài về sự thông thái của Ngài và đề nghi Ngài một chức quan cao trong chính phủ, chức vụ này sẽ làm cho nhiều người thừa nhận và tôn kính Ngài. Vẫn tiếp tục câu cá Trang Tử hỏi các vị có biết con rùa thần đã chết trên ba nghìn năm mà hoàng tử giữ nó chắc chắn trong một cái hòm trên bàn thờ của tổ tiên. Rồi Ngài hỏi tiếp, "Quý vị có nghĩ rằng con rùa ấy thích chết và để cái xác còn lại của nó được tôn sùng hay thích sống và ve vẩy cái đuôi trong ao bùn lầy?"
Họ trả lời, "Thích sống và ve vẩy cái đuôi trong ao bùn lầy."
Trang Tử nói, "Quý vị đi theo con đường của Quý vị, còn tôi, tôi cũng thích ve vẩy cái đuôi trong bùn lầy ở cái ao của tôi"
CÁI GÌ ĐÁNG GIÁ? BA KHO BÁU
Vậy thì cái gì là có giá trị? Và vì cái gì người ta nên nỗ lực? Một người không thể chỉ ngồi khoanh tay và chờ đợi. Vì khi sống trong một nhóm người, ta phải nghĩ đến người khác. Những người theo Lão Giáo lúc đầu đã phải đương đầu với khó khăn đời sống hàng ngày. Họ biết họ phải sống theo triết lý của họ, cũng như phải suy nghĩ về triết lý này. Họ quyết định có ba thứ -- ba kho báu, họ gọi như vậy- đó là hướng dẫn tối thượng của con người đối với Đạo. Ba kho báu này là yêu thương, trung dung và khiêm nhường. Làm sao ba đức tính này giúp người có Đạo sống trong thế giới này? "Hãy thương yêu, ta có can đảm này; hãy trung dung ta có dư dật; không phiêu lưu đi trước thế giới ta là người đứng đầu các quan".
Người thấy Đạo trong chính mình, sẽ thấy Đạo nơi người khác và trong tất cả thế giới. Chính người này thấy phúc lợi thực sự của chính mình tốt đẹp cho tất cả mọi người. Điều thiện cho tất cả mọi người cũng là điều thiện cho chính mình. Đó là điều mà Lão Tử muốn nói về hãy thương yêu. Người có Đạo sẽ hành động bằng thiện tính đối với tất cả con người, đối với những người được gọi là tốt cũng như đối với những người được gọi là xấu, thậm chí đem tình thương đối với hận thù to lớn. Nếu không làm được điều này thì dù ta có xả trí hận thù đứng đắn thì một số hận thù hay kết quả của nó vẫn tồn tại. "Hãy thương yêu, ta sẽ trở nên can đảm." Con người có Đạo tin thế giới, và thế giới có thể được giao phó cho người ấy.
Trong tất cả tư tưởng và hành động, con người có Đạo phải rất điều độ. Thái quá về bất cứ hướng nào cũng là những chướng ngại cho sự vừa lòng. Người có Đạo không quyết định trước sẽ đi theo đường lối hành động nào trong những hoàn cảnh nhất định. Người có Đạo cũng không quyết định trước là sẽ không tự mình hành xử theo một đường lối nào đó. Người có Đạo bao giờ cũng nhớ rằng bất cứ cái gì nảy sinh ra khi nó là cách hành động hoặc suy nghĩ đơn giản nhất và tự nhiên nhất thì đó là đường lối phải theo. Theo chiều hướng đó, những hành động của người có Đạo bao giờ cũng đầy đủ và bao giờ cũng đúng. "Hãy điều độ, ta sẽ dư dật".
Lão Tử và các đệ tử của Ngài không bao giờ tìm địa vị cao trong cơ quan chính phủ, vì làm điều này trái ngược với niềm tin của họ. Ta không thể giúp người bằng cách cố gắng chỉ huy những hành động của họ. Và họ chỉ vạch ra cách ta có thể đạt được mục tiêu tốt hơn bằng cách tự mình giữ mình ở một địa vị tầm thường. Trong thế giới của chúng ta không có chỗ cho một số người vượt xa người khác. Chỉ có chỗ cho tất cả sống một cách tự nhiên và tương trợ lẫn nhau. Không để cho ai tìm kiếm lợi ích riêng tư hay thắng lợi cá nhân.
Thiên đường bất diệt, trái đất trường cửu.
Làm sao chúng lại như vậy? đó là vì chúng không nuôi nấng đời sống của chính chúng;
Đó là lý do tại sao chúng sống lâu.
Cho nên người Hiền tự đặt mình vào địa vị tầm thường; nhưng bao giờ cũng ở hàng đầu,
Ở ngoài thời cuộc; nhưng luôn ở đấy.
Không phải chỉ vì người Hiền không tranh đấu cho bất cứ cứu cánh riêng tư nào.
Mà là tất cả cứu cánh cá nhân có được hoàn thành không?
Những đặc tính này là những kho báu không bị chôn vùi ở một nơi nào sâu đến mức cần có thầy hoặc bạn hay triết gia đào lên cho chúng ta. Những kho báu này được tìm thấy khi chúng ta trở nên tỉnh thức về những điều này mà chúng ta thường không lưu tâm đến trong bản chất sâu xa của chúng ta. Chỉ cần bóc đi những lớp sợ hãi và thói quen và những khát vọng nông cạn, chúng ta sẽ tìm thấy những kho báu ấy. Thiếu những đức tính ấy cho chúng ta thấy một người bị ép buộc, không thiên nhiên và không hạnh phúc.
TÔI PHẢI LÀM GÌ?
Bổn phận phải thi hành, không phải vì người ta cảm thấy có bổn phận phải thi hành, mà nhiều hơn là vì không cảm thấy phải thi hành. Người có Đạo tuân theo việc đời tới mức cần đòi hỏi nhằm làm cho mình ít bị khó khăn nhất trong cách sống hòa hợp với Đạo. Rõ ràng là người ấy không thể sống hòa hợp nếu lúc nào cũng mưu toan tránh trách nhiệm và lật đổ chính quyền và thể chế. Cũng rất rõ ràng là người ấy không sống hòa hợp nếu luôn luôn trù tính giành lấy phần lớn trách nhiệm và cải cách hay củng cố những thứ chung quanh mình. Thế giới giống như nước xuýt lắm thầy nhiều ma. Người khôn ngoan từ chối không thêm gia vị vào hay khuấy nó lên. Người ấy thích đợi loại kết hợp thích ứng và tự nhiên.
Nhưng làm sao chúng ta có thể chỉ ngồi đợi để sự việc xẩy ra mà không hành động gì để giúp đỡ hay cản trở? Rất khó để làm nhưng cũng đơn giản thôi.
Nó cũng đơn giản và khó khăn như bải hoải. Trang Tử đưa ra lời khuyên:
Người ta cảm thấy một cảm giác vui thích trước khi mỉm cười, và mỉm cười trước khi nghĩ đến cách nên mỉm cười. Hãy cam chịu chuỗi sự việc đúng.
Thế giới này không phải của chúng ta để mà liều. Thế giới này là của bạn để sống và hiểu biết. Một hòa âm không sinh ra những nốt nhạc ngang tai, vang lên một mình. Nó sinh ra bằng những nốt nhạc nhũn nhặn, mềm dẻo hòa hợp một cách tự tin và thanh thản.
Trang Tử có lần nói một câu chuyện về một người bắt đầu cuộc sống độc lập chứ không sinh ra niềm tin vào Đạo. Anh ta quá sợ hãi cái bóng của mình và không thích tiếng bước chân mình đến nỗi quyết định bỏ trốn chúng. Tuy nhiên, anh ta càng di chuyển thì lại càng nhiều tiếng bước chân. Và mặc dù chạy thật nhanh, anh ta không bao giờ có thể bỏ xa bóng của mình. Cho nên anh ấy nghĩ mình chạy quá chậm. Anh ta chạy hết sức nhanh và không nghỉ. Kết quả anh ta yếu đi và cuối cùng thì chết. Anh ta không biết rằng có thể làm mất bóng mình trong bóng râm và chấm dứt tiếng bước chân bằng cách đứng nguyên một chỗ. Quả thực anh ta khờ dại. Trang Tử nói, "Bất hạnh cho những nhà cải cách và luân lý đi thuyết giảng về sự trong sạch và lòng tốt là họ chạy trốn cái bóng của chính họ".
CÁI GÌ ĐÚNG? CÁI GÌ THẬT?
Những người theo Lão Giáo nói rằng, khi ta thực sự ngưng không phân tích nó, làm sao ta có thể đòi đưa ra phép tắc về cách sống tốt? Làm sao ta có thể cảm thấy đủ tin tưởng vào kiến thức của riêng mình để làm một việc như vậy? Người tự phụ làm ra vẻ biết nhiều chắc chắn chỉ là vì cái tôi của mình. Người thật sự khôn ngoan là người không biết mình khôn ngoan. Suy nghĩ mà chúng ta biết, khi thực sự chúng ta không biết, là chứng bệnh đặc biệt mà mọi con người đều mắc phải. Chỉ khi chúng ta trở nên chán ngán tính kiêu ngạo và gian dối như vậy, chúng ta mới có thể chữa cho mình khỏi bệnh.
Mong mỏi giúp người làm việc này, Trang Tử thường sử dụng một chi tiết hài hước dễ hiểu. Ngài kể một câu chuyện một lần Ngài mơ như thế nào khi là một con bướm bay lượn vui chơi đó đây. Ngài không còn ý thức mình là con người nữa. Rồi đột nhiên tỉnh dạy và thấy mình nằm dài trên giường, vẫn là một con người. Tuy nhiên rồi Trang Tử tự hỏi mình, "phải chăng tôi là con nguời mơ thành bướm hay bây giờ tôi là con bướm mơ thành con người?"
Cái gì đúng? Làm sao tôi biết được đó là điều tôi biết? Đó là những câu hỏi không thể trả lời dứt khoát được bởi người thực sự khôn ngoan, dù rằng có nhiều nhà hiền triết tự cho mình là khôn ngoan đã đưa ra câu trả lời. Tất cả câu trả lời tùy thuộc vào thời gian, nơi chốn và hoàn cảnh. Người có Đạo không màng tới bản liệt kê câu hỏi; không lưu ý đến qui tắc hành xử; vượt lên luân lý và đạo đức. Người có Đạo không phục tùng quyền uy bên ngoài thuộc bất cứ loại gì. Họ chỉ nghe theo bản chất thiên nhiên sâu xa của chính mình. Làm như vậy họ không những tìm ra chân lý mà còn sống đúng chân lý. Vì trong bản tính sâu xa nhất của mình, Đạo đang hoạt động rõ ràng và mạnh mẽ. Không đi khỏi cửa mà người có Đạo vẫn có thể biết toàn bộ thế giới.
Những người tiền phong của Lão Giáo đã nói những lời như vậy, họ không thích nói chút nào. Họ biết những ấn tượng về cuộc đời của họ không thể truyền đạt bằng lời. Những ấn tượng của họ chỉ có thể hiểu thấu hoàn toàn bởi những ai chia sẻ những ấn tượng ấy bằng kinh nghiệm của chính họ. Mỗi người chúng ta có lúc thất bại khi định đưa những cảm nghĩ sâu xa nhất hay trực giác của mình thành lời. Vào những lúc như vậy, chúng ta có thể diễn tả bằng thi văn, bằng âm nhạc, hay một dạng thức nghệ thuật khác. Đó cũng đúng như vậy đối với người theo Lão Giáo. Nếu chúng ta muốn hiểu họ, chúng ta phải nhận thức là chúng ta đang đề cập đến thi văn về những ấn tượng. Những lời nói không có nghĩa được hiểu theo nghĩa đen, vì lời nói không thể chuyển tải những cảm tưởng một cách đầy đủ. Nhưng những lời của Lão Giáo có nghĩa phải được hiểu một cách nghiêm túc.
LÃO GIÁO, SỰ SÙNG BÁI ĐẠO LÝ
Sự miễn cưỡng dùng lời làm phương tiện cho cảm nghĩ của họ không phải không đúng chỗ. Hầu như lời nói được thốt ra hay những tín hiệu được vẽ trên giấy, khi nhược điểm của lời bộc lộ ý tứ của người nói và người viết. Người ta hiểu lời theo nghĩa đen, đi theo chúng đến từng chi tiết, giống những qui tắc mà những người Lão Giáo lúc phôi thai chế nhạo như thế. Bám níu vào những miêu tả về người có Đạo, người ta quên mất sự hòa hợp bên trong đã được mô tả lúc đầu. Nhớ "ba kho báu", người ta quên việc tìm chúng bị vùi lấp trong chính mình. Cố gắng theo Lão Tử và Trang Tử, người ta quên con đường để hiểu Đạo.
Điều này không đáng ngạc nhiên chút nào. Người ở thời thời Lão Tử chưa bao giờ thực sự bỏ tính dị đoan do sự bầy tỏ của Ngài hay của bất cứ đạo sư nào. Sự đòi hỏi của họ đầy những lo âu hàng ngày về công việc, bè bạn và gia đình. Thật dễ chịu và yên lòng khi xoa dịu những linh hồn lúc nào cũng hiện diện ở mọi nơi xung quanh họ. Những người này không có thì giờ, giáo dục, hay ham thích suy nghĩ tìm tòi về đời sống. Hầu hết mọi người, mọi nơi, và ở mọi thời đại, sống một cuộc đời không nghĩ sâu xa về cuộc đời.
Tuy vậy, hầu hết mọi người đều kính trọng những người suy nghĩ sâu xa, và đặc biệt là một ít những nhà tư tưởng nổi tiếng mà những lý tưởng của những người này hấp dẫn họ như một phần quan trọng của những gì phổ biến là đúng. Thường thường, vì lòng tôn trọng, họ đâm ra tôn kính và rồi, hầu như không cảm thấy, sùng bái. Vì vậy người ta sùng bái Lão Tử. Những thế hệ sau này coi Ngài như thánh. Họ quên mất là hạnh phúc mà Lão tử nói phải đạt được bằng quá trình mà Ngài đi theo -- phù hợp với chiều hướng của mọi sự -- Đạo. Dường như họ nghĩ có con đường tắt đi đến sự toại nguyện mà Lão Tử đã trải nghiệm.
Dần dà qua nhiều năm, tự biết mình và kiến thức đời sống đã là những mục tiêu của Lão Giáo bị bỏ lại đằng sau. Chưa bao giờ người theo Lão Giáo phát triển mạnh mối quan tâm chính của họ nằm trong sự xua đuổi lo âu và phiền muộn. Đúng, những người theo Lão Giáo lúc phôi thai cũng đã muốn điều này, nhưng là sản phẩm phụ của sự hòa hợp với bản chất của sự vật. Bây giờ người theo Lão Giáo mong muốn biến hạnh phúc thành một việc dễ dàng hơn. Và họ bắt đầu đưa ra linh đơn, tiên dược và nghi thức ma thuật nhằm giúp đạt được việc đó.
Lão Giáo trở thành sự tìm tòi linh đan thần diệu, phương thuốc chữa khỏi tất cả mọi bệnh tật, và kéo dài đời sống thảnh thơi. Những người theo Lão Giáo lúc phôi thai trước hết rút khỏi cuộc sống giả tạo và không thiên nhiên nhằm hiểu biết thực tế. Những thế kỷ sau này nối tiếp bởi những người theo Lão Giáo ẩn dật trước thực tế nhằm đi theo những tập tục dị đoan mà họ hy vọng sẽ thoát khỏi được bất hạnh. Những người Lão Giáo lúc phôi thai tán dương kiến thức và sự hiểu biết về Đạo, tìm cách hòa hợp với tính chất của mọi sự. Những người theo Lão Giáo sau này cố gắng can thiệp vào tiến trình thiên nhiên để đạt bất tử và thoát khỏi lo lắng.
Những người theo Lão Giáo khác, thất vọng về đời sống này trở thành người sống ẩn dật, sống chờ chết, theo điều mà họ tin rằng sự giải thích đúng giáo lý của Lão Tử là "không làm gì cả". Những người này chỉ có một số ít, số đông quần chúng bám vào ý nghĩa bình dân hơn của Lão Giáo -- dị đoan và ma thuật. Những người theo Lão Giáo chấp nhận Đạo của họ là nguồn vui mà lúc này họ tin và là niềm hy vọng cho họ trong tương lai sau khi chết.
Lão Tử dạy rằng con người không nên lo lắng hay phục vụ quỷ thần mà nhiều người tưởng rằng quỷ thần là tất cả. Thay vì, con người nên nghiên cứu để biết các chiều hướng của vạn vật. Không có gì có thể mang lại từ sự thờ phượng ngu tối và hãi hùng những quỷ thần như vậy. Người có Đạo không bị khó khăn gì bởi những quỷ thần tốt hay xấu. Những người làm ma thuật cố gắng bắt thiên nhiên làm theo ý muốn của mình. Và sức mạnh không bao giờ thành công. Thiên nhiên sẽ dạy cho họ điều này.
Nhìn vào cách sống hiện tại, chắc chắn Lão Tử rất đau buồn là điều đó đã đi đến chấm dứt những gì mà Ngài đã dạy. Ngài có thể có đầy cảm giác vô ích, điều có thể xẩy đến với bất cứ người đề xướng nào nhìn vào những gì đã phát triển do công lao của mình. Đạo, với tư cách là người khai sáng, đầy những thứ mà Ngài coi là ít đáng làm.
Tân Lão Giáo không thể tồn tại như một tôn giáo có hiệu quả, cho dù cựu Lão Giáo cổ xưa đã không tồn tại lâu dài. Dần dần, những người bị lôi cuốn vào tư tưởng Lão Giáo trở nên chán nản. Những người đi tìm sự tốt đẹp của xã hội loài người quay về với Đạo Khổng đưa ra sự giúp đỡ trực tiếp và thực tiễn trong vấn đề đó. Những người thích mặt thiền định của Lão Giáo, bắt đầu nghiên cứu Phật Giáo. Và Lão Giáo cổ điển được dạy bởi Lão Tử, thực tế đã ngừng tồn tại
Tôn Giáo của một người Trung Hoa bình thường ngày nay là một sự pha trộn nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau. Vai Trò của Lão Giáo trong sự pha trộn này đã là một khía cạnh vô tư và vui vẻ trong đời sống dân tộc. Hầu hết những ngày lễ tôn giáo, với những buổi lễ vui tươi bắt nguồn từ Lão Giáo ở quá khứ. Những buổi lễ này gồm có những cuộc lễ về sinh nhật đầy ý nghĩa -- nhất là sinh nhật của các bé trai -- hôn lễ, sự ra đời của đứa trẻ, và về một số mùa màng trong năm. Bây giờ có một nhóm thầy tu được huấn luyện để điều hành những người tự gọi mình là người theo Lão Giáo.
Đạo Lão của Lão Tử và Trang Tử sống hầu như dựa vào những thứ mà nó tiến dẫn cho những tôn giáo khác mạnh hơn và tồn tại lâu hơn. Khổng Giáo gộp niềm tin Lão Giáo vào lòng tốt căn bản của con người. Phật Giáo tại Trung Hoa vốn đã nhấn mạnh tầm quan trọng về hiểu biết nội tâm, được củng cố thêm và thay đổi một chút theo tôn giáo địa phương. Với tư cách là một triết lý tôn giáo, Lão Giáo đã phai, nhưng nó đã gửi đi nhiều sự hiểu biết rằng đời sống nội tâm của mình là đời sống quan trọng.
-ooOoo-
11. KHỔNG GIÁO: LỐI SỐNG HÒA HỢP VÀ KHUÔN PHÉP
Huyền thoại kể rằng khi Lão Tử đã rất già thì có một thanh niên học rộng ở tỉnh lân cận đến thăm. Người thanh niên trẻ này, đã bỏ hầu hết ngày tháng của mình vào việc nghiên cứu, đến để hỏi một số câu hỏi. Giống như Lão Tử, người thanh niên này quan tâm đến phẩm chất đời sống tại Trung Hoa. Anh ta cũng tin rằng lùi lại "những ngày xưa cũ tốt đẹp" của thời đại vàng son mà người ta đã có đời sống tốt đẹp hơn và xứ sở này nói chung sung túc hơn.
Người thanh niên trẻ tuổi này là Khổng Tử, và Ngài đã tiến tới niềm tin này qua con đường nghiên cứu và tìm tòi những tài liệu cổ của Trung Hoa. Khi Ngài thu thập và giải thích những tác phẩm kinh điển, Ngài đã tìm ra điều được coi là manh mối của đời sống hạnh phúc hơn ở những ngày ban sơ. Để thực sự hiểu triết lý Khổng Tử, chúng ta vẫn phải quay về với những bình luận của Ngài về những tác phẩm kinh điển này. Những sách văn tuyển, các câu chuyện về Khổng Tử và những lời bình luận của Ngài về tình trạng đời sống cũng nói về những đề xuất vì lợi ích cho người đồng hương của Ngài.
Cả Lão Tử lẫn Khổng Tử đều quan tâm đến những yếu điểm xã hội và luân lý của thế hệ các Ngài. Lão Tử vấp phải sự thách thức của lối sống có quan điểm căn bản là những thể chế và phong tục vào thời Ngài không thiên nhiên, do đó cần phải tránh... Khổng Tử, một người bảo thủ thực sự, dạy rằng điều tốt nhất trong quá khứ phải được gìn giữ và cải tiến cho thích đáng. Trong quá khứ có chìa khóa cho hiện tại và tương lai. Ngài không tìm cách thiết lập một tôn giáo mới hay một hệ thống đạo đức mới.
Khổng Tử cũng đối đầu với câu hỏi căn bản mà Lão Tử quan tâm. "Đời sống là gì? Làm sao tôi có thể sống hòa hợp tốt nhất trong thế giới này? Làm sao tôi có thể sống một cuộc đời hạnh phúc? Tôi là gì?" Một phần câu trả lời Khổng Tử quay về với thiên nhiên và Đạo cũng như Lão Tử đã làm. Ngài quan sát thấy tất cả các bộ phận của thiên nhiên hoạt động hòa hợp với nhau. Ngài khẳng định con người có thể học từ thiên nhiên. Bằng cách theo con đường của thiên nhiên và sự hòa hợp, con người có thể làm điều tốt nhất mà con người có thể làm được trong thế giới này.
Hòa hợp là lý tưởng của Khổng Tử, cũng là lý tưởng của Lão Tử. Khác biệt giữa hai người ở chỗ nào? Trước hết là cá tính của hai người khác hẳn nhau. Trong những vấn đề mà hai vị phải đối đầu, tính khác nhau về quan điểm quyết định sự khác biệt trong cách giải quyết mà họ đưa ra. Trong khi Lão Tử có khuynh hướng là "cá nhân chủ nghĩa", thì Khổng Tử tin rằng toàn bộ trách nhiệm của con người là xã hội. Con người không phải là người sống tách khỏi đồng loại. Cho nên hòa hợp đối với con người có nghĩa hòa hợp với những người khác. Lão Tử tin tưởng rằng trách nhiệm của con người là phải hiểu mình và phải trực tiếp hướng mình vào hòa hợp với Đạo. Nhưng Đức Khổng Tử tin rằng trách nhiệm của con người là cùng cộng tác với nhau và thi hành nhiệm vụ mà xã hội kỳ vọng ở nơi họ. Dĩ nhiên sự cộng tác như thế bám chắc vào Đạo, nhưng trình độ kinh nghiệm của con người lại là phương tiện qua đó con người bầy tỏ họ thống thuộc về vũ trụ. Khi người ta phát triển được khả năng hòa hợp với những người đồng loại, thì họ có thể hiểu được sự hòa hợp của vạn vật.
CẦN PHẢI CÓ LUẬT LỆ CHO CUỘC SỐNG
Khổng Tử thấy không phải tất cả mọi người đềụ cư xử một cách cộng tác và giúp đỡ lẫn nhau. Điều này, đối với tâm trí thực tiễn của Khổng Tử, có nghĩa đơn giản là họ cần một số tiêu chuẩn nhất định. Trong những tác phẩm của Ngài, Khổng Tử nhấn mạnh đến những tiêu chuẩn như vậy, Ngài nhắc lại, và giải thích những luật lệ truyền thống cổ của xã hội Trung Hoa. Ngài thấy không cần thêm những luật lệ mới. Nhiệm vụ của Ngài như Ngài đã dự tính là soạn thảo và truyền đạt cho hậu thế những tập tục và cách cư xử trước đây của xã hội Trung Hoa. Ngài không viết điều gì mới, vì Ngài tin tưởng và trân quý tổ tiên.
Tại sao những luật lệ đó lại cần thiết? Lúc đầu tất cả mọi luật lệ đều nảy sinh do nhu cầu của con người. Đây là chiều hướng mà tất cả những luật pháp có ích ra đời. Có những vấn đề khi cùng chung sống, và những luật lệ được soạn ra để giải quyết vấn đề. Ở đâu, có nhiều người chung sống với nhau thì ở đó có nhiều vấn đề hơn những nơi ít người. Chính quyền của một thành phố lớn phức tạp hơn chính quyền của một ngôi làng nhỏ nhiều. Trung Hoa đã có rất nhiều người. Nhờ có Khổng Tử Trung Hoa đã thu thập nhiều luật lệ. Tất cả những luật lệ này nhằm làm cuộc sống suông sẻ hơn. Những luật lệ này không bị ép buộc như luật lệ giao thông. Những luật lệ này giống phép xã giao hơn.
Luật lệ có nhiều ý nghĩa hơn khi nó rõ ràng rành mạch. Người thích sống trong một xã hội có trật tự cảm thấy thoải mái hơn khi luật lệ xã hội có nội quy rõ ràng và khi chúng định rõ thời gian và nơi chốn. Cứ thế, qua nhiều năm, những người theo Khổng Giáo coi trọng nhiều bản liệt kê luật lệ đặc biệt bao hàm mọi thứ từ chào hỏi và trò chuyện với bạn bè tới lễ lạy tổ tiên. Y phục và đàm luận được qui định. Cả đến tư thế và bước đi cũng được liệt kê, cho nên không ai cố gắng thành thật mà lại có thể không làm được điều phải. Đi theo những luật lệ này chứng tỏ ham thích thực sự cộng tác với người đồng hương của mình.
CÁCH SỐNG HÒA HỢP VỚI NGƯỜI KHÁC: QUÂN TỬ
Để cho người dân biết họ phải sống ra sao, Khổng Tử đưa ra mô hình "Người Quân Tử" hay một người cao quý hoặc sang trọng. Khổng Tử gọi người đó là "sang trọng" hay quân tử vì Ngài có niềm tin là coi những nhà cầm quyền là bậc thầy. Tuy nhiên, bất cứ ai vào bất cứ lúc nào cũng có thể sống như một người Quân Tử.
Người Quân Tử phát triển trong nhân cách của mình. Năm Đức Hạnh Kiên Định (Ngũ Thường) mà người ấy rèn tập cho đến khi chúng tự nhiên như hơi thở. Làm điều phải là một phần không thể tách rời của người quân tử. Khi Khổng Tử nói về chính Ngài rằng chẳng phải cho đến khi Ngài bẩy mươi tuổi Ngài mới đi theo tiếng gọi con tim mà vẫn không vượt qua ranh giới của lẽ phải, có lẽ Ngài quá khiêm tốn hay rất nhún nhường. Tuy nhiên, người theo đạo Khổng chân chính dành thì giờ cần thiết tạo nếp sống theo lẽ phải thành thói quen đến mức không ngưng nghỉ nghĩ đến việc làm điều phải.
(1) Thái đô chính đáng (Nhân). Đức hạnh thứ nhất trong Năm Đức Hạnh Kiên Định là thái độ người Quân Tử mong muốn hòa thuận với người khác. Người Quân Tử biết không thể làm tròn vai trò của mình trong đời sống trừ phi cộng tác và sẵn lòng giúp đỡ. Thái độ chính đáng biểu lộ qua hạnh kiểm. Con người có mầm mống thái độ như vậy ngay trong bản thân mình, nhưng nó phải được giúp phát triển. Đôi khi thái độ đức hạnh này được coi là phép tự chủ bên trong.
(2) Thủ Tục Chính Đáng (Lễ). Đức Hạnh Kiên Định thứ hai là thủ tục thích đáng. Người có một tâm hồn cao thượng đã tiến hành nghiên cứu về nguyên tắc hạnh kiểm. Người ấy biết cách áp dụng chúng vào từng sự việc xẩy đến. Người ấy biết tất cả phép tắc xã giao, những phép tắc này đưa ra cái mà mỗi hoàn cảnh xã hội qui định cho một người có lòng nhân ái đầy đủ. Người ấy biết tất cả những nghi lễ và nghi thức tập trung vào việc tôn thờ tổ tiên. Người ấy biết cách ngồi, cách đứng, cách nói chuyện, cách đi và cách biểu lộ diện mạo sắc thái của mình trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, những nghi thức và thủ tục này không giá trị nếu không có một thái độ thích đáng. "Người không có lòng nhân ái trong tâm, thì làm gì với những nghi lễ?"
(3) Kiến Thức Chính Đáng (Trí). Đức Hạnh Kiên Định thứ ba là kiến thức. Người Quân Tử là một người hiểu biết, vì con người phải được giáo dục nhằm ứng phó một cách đứng đắn. Mục tiêu của người theo Khổng Giáo là phát triển dần dần những phép tắc đã thuộc lòng thành thói quen. Những đề tài dạy người ta sửa chữa thói quen tinh thần là lịch sử, văn chương, và bổn phận công dân, đó là những cái hình thành những tác phẩm kinh điển Trung Hoa. Người Quân Tử đặt kế hoach giáo dục của mình gồm tất cả những thiết yếu như vậy. Qua nhiều thế kỷ, những tác phẩm kinh điển Trung Hoa là nền tảng giáo dục tại Trung Hoa. Thời đại tiên tiến đã thay vào những đề tài khác, nhưng người theo Khổng giáo vẫn dành cho các tác phẩm Cổ Điển một sự kính trọng.
Khi Khổng Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục, Ngài không đề xuất khái niệm mới. Ngài chỉ nhắc lại và nhấn mạnh vào điều tổ tiên đã nói. Trật tự xã hội tùy thuộc vào luân lý căn bản -- luân lý trong lời nói và hành động đứng đắn. Cũng giống như người xưa, Khổng Tử tin tưởng luân lý phải được áp dụng vào mọi bình diện cuộc sống, đồng thời nó cũng rất có ý nghĩa trên bình diện chính quyền. Vì người cầm quyền là thầy của tất cả. Những vị thầy này dạy luân lý một cách rất hiệu quả khi họ làm tấm gương tốt về luân lý và khi họ cai trị một cách nhân từ. Chỉ qua một quá trình như vậy thì cuối cùng thời đại vàng son mới sẽ đến, khi tất cả mọi người đối với nhau trong sự ân cần tử tế và coi trọng nhau.
(4) Dũng Khí Đúng Theo Luân Lý (Nghĩa). Theo Đức Hạnh Kiên Định thứ tư, người Quân Tử nên phát triển dũng khí luân lý cần thiết để trung thành với chính mình và đem lòng nhân ái tới xóm giềng. Mọi việc người Quân Tử làm bằng chí khí đó đóng góp đáng giá cho xã hội. Qua từng hành vi của người Quân Tử, mà quan hệ con người được cải tiến.
(5) Kiên Trì Chính Đáng (Tín). Đức hạnh cuối cùng của Năm Đức Hạnh Kiên Định là tầm quan trọng về tư cách của họ -- sự kiên định. Người Quân Tử đã hoàn thành bốn đức hạnh, và sẽ kiên quyết hoàn thành. Người Quân Tử bao giờ cũng tử tế và hữu ích. Người Quân Tử lúc nào cũng biết bổn phận của mình và bao giờ cũng biết cách làm bổn phận ấy. Vì người Quân Tử đã phát triển hạt giống đức hạnh trong bản tính của mình, cho nên sống hòa hợp với mọi thứ trong vũ trụ. Vì người Quân Tử có sự hòa hợp trong chính mình, cho nên là một phần của sự hòa hợp vũ trụ. Đó là lý do tại sao người Quân Tử bao giờ cũng làm điều phải đúng lúc.
LÒNG NHÂN ĐẠO HOÀN HẢO
Người theo Khổng Giáo thường nói về "lòng nhân đạo hoàn hảo". Con người có thể đạt được lòng nhân này vì người theo Khổng giáo tin là có cái gì đó trong mỗi người, ngay từ khi mới lọt lòng. Đó là một tính thiện bẩm sinh hay tính khả ái có thể được phát triển do những cảm nghĩ giúp đỡ người khác. Chính Mạnh Tử, một người theo Khổng Giáo nổi tiếng sau này, là người nhấn mạnh tính thiện bẩm sinh của con người. Khi Mạnh Tử và Khổng Tử nói về tính thiện của con người rút cục có nghĩa là con người thích hợp để sống với người khác. Đúng là có một quá trình sửa soạn lúc đầu, như chúng ta đã nhìn thấy. Cách cư xử, thói quen, kiểu suy nghĩ và những phán xét phải được cải thiện.
Khi một người tự giáo dục lấy mình để thành người Quân Tử, người ấy tử tế, hữu ích và có đạo đức. Hạt giống tính tốt trong chính con người ấy tạo thành các đức tính ấy. Cho nên có thể có nhiều hành động thiện mà người Trung Hoa thật hết hy vọng từng liệt kê tất cả chúng từng hành động một. Khuôn vàng thước ngọc của họ được nói lên bằng ngôn ngữ tiêu cực. Tuy nhiên, nó tràn đầy mối quan tâm vì người khác. "Đừng làm cho người khác điều gì mà bạn không muốn người ta làm điều ấy cho bạn"
QUAN HỆ CHÍNH ĐÁNG
Một phần cố gắng làm cho cách sống chính đáng dễ dàng cho mọi người, người theo Khổng Giáo nhấn mạnh năm quan hệ cá nhân quan trọng đòi hỏi phải khả ái và lịch thiệp. Những điều này đã từng được dạy cho từng học sinh, nhưng hệ thống giáo dục này đã bị gián đoạn vào đầu thế kỷ này. Tuy vậy nhiều người theo Khổng Giáo vẫn nghĩ rằng nếu ai nấy đều sử dụng năm Đức Hạnh Kiên Định trong năm mối quan hệ, thời đại vàng son thực sự sẽ bắt đầu. Nếu có hạnh phúc hay hòa hợp, mười người liên hệ trong những giao tiếp này phải sử dụng thái độ có đạo đức và đức hạnh đối với nhau:
(a) Chồng và vợ (Phu thê)
(b) Cha và con (Phụ tử)
(c) Anh và em (Huynh đệ)
(d) Vua và tôi (Quân thần)
(c) Bạn và bạn (Bằng hữu)
Xin lưu ý rằng cả hai phía điều mong mỏi là mối quan hệ. Mỗi phía đều chịu trách nhiệm về hành động, nói năng và suy nghĩ trên phương diện khả ái và hữu ích.
Một số người có thể nói rằng điều này chưa đủ. Những người khác trên xứ sở của họ và những vùng đất khác thì sao? Người theo Khổng Giáo giữ lý tưởng khoan dung và khả ái đối với tất cả láng giềng của mình và tất cả người khác trên trái đất. Nhưng cá nhân họ không giao tiếp với tất cả người khác. Phạm vi quen biết của người ấy có giới hạn. Chính vì lý do này mà năm quan hệ cá nhân được liệt kê. Một người hành động bằng lòng tốt và quan tâm đến một số ít người mà người ấy tiếp xúc thường xuyên thì tốt hơn nhiều là chỉ nói miệng về "thương yêu" tất cả con người. Người ấy không bao giờ biết tất cả mọi người. Một đời sống thiện là ở chỗ hành động thích hợp với những người mà ta gặp hàng ngày theo những kinh nghiệm hàng ngày.
TÌNH THƯƠNG YÊU VÀ HIẾU THẢO TRONG GIA ĐÌNH
Từ lâu trước thời điểm sách vở lịch sử bắt đầu, người Trung Hoa tin tưởng rằng bổn phận đầu tiên của một người là đối với cha mẹ. Trong những gia đình lớn theo phong tục Trung Hoa, cha mẹ, ông bà, và các cụ được coi như rất khôn ngoan, rất được thương yêu và rất được tôn kính. Cái chết của họ không giảm đi lòng kính trọng đối với các bậc ấy. Kính trọng tổ tiên là con đường trải rộng "cảm nghĩ gia đình" vượt qua cái chết. Khổng Tử và những người theo Khổng Giáo đã góp phần quan trọng trong việc giữ hiếu đễ tận tụy với cha mẹ đứng hàng đầu trong lý tưởng của Trung Hoa.
Trẻ em tại Trung Hoa không bao giờ được phép tự do lựa chọn và cư xử như trẻ em tại Phương Tây. Chúng được rèn luyện một cách tử tế nhưng rất kiên quyết ngay từ đầu nhằm làm cho chúng có thái độ và cách cư xử thích đáng. Không vâng lời hết sức ít có, và bất hiếu lại còn ít có hơn. Trẻ giữ hiếu với cha mẹ đến mức chấp nhận những quyết định của cha mẹ về chúng, kể cả việc lựa chọn chồng hay vợ. Người Trung Hoa tin rằng những vấn đề như thế cha mẹ khôn ngoan hơn con cái nhiều.
Đương nhiên, tính trung thành với gia đình đã thay đổi rất nhanh với những sự thay đổi khác vào thế kỷ hai mươi. Những phát triển chính trị mới đã gây ra sự đổ vỡ trong truyền thống gia đình cổ và còn có thể gây ra những thay đổi lớn hơn. Tuy nhiên, hiếu thảo là một phần của đời sống Trung Hoa từ lâu và vẫn còn ảnh hưởng tại Trung Hoa.
TÔN KÍNH TỔ TIÊN
Khổng Tử khuyến khích tôn kính và thờ cúng tổ tiên vì Ngài tin rằng việc ấy giúp cho con người phát triển thái độ và hạnh kiểm thích đáng. Khi một người dâng lễ vật trước linh vị người quá cố, người ấy nhớ lại nguồn gốc và tình thương yêu của người quá cố. Kinh nghiệm này giành được từ cảm nghĩ kính trọng và trung thành. Vì một người có hiếu vượt qua cái chết cho thấy mức tận tụy lớn hơn là chỉ kính trọng cha mẹ còn tại thế.
Nhiều người theo Khổng Giáo dâng lễ vật và những vật bị hiến tế để tưởng niệm người chết mà không bao giờ tin rằng thần hồn người chết hiện diện. Những người theo Khổng Giáo thấy việc làm này có giá trị vì việc làm ấy giúp họ xây dựng thói quen tốt về sự kính trọng người khác. Đồng thời việc ấy làm tăng thêm sức mạnh của xã hội. Vì hai lý do đó, Khổng Giáo bao gồm sự thờ cúng tổ tiên trong những mặt quan trọng về sự hành xử của con người.
CÁCH THỜ PHƯỢNG
Khổng Tử không tìm cách thay đổi hay nói nhiều về tín ngưỡng tôn giáo và những sự tu tập ở thời gian Ngài. Đơn giản là Ngài chấp nhận chúng như thế -- ở chừng mực chúng vẫn phụng sự xã hội. Ngài không màng tới khái niệm bình dân tôn giáo hay tập tục những cái bỏ qua kinh nghiệm và kiến thức thông thường. Ngài không thích nói về quỷ thần mà nhiều người thờ cúng vì mê tín dị đoan và sợ hãi. Một lần, Đức Khổng Tử nói với một môn đồ hỏi Ngài về quỷ thần, "Trong khi bạn không thể phụng sự con người, làm sao bạn có thể phụng sự được quỷ thần?" Đối vối Ngài, thật phí thì giờ để bận tâm về điều mà bạn không biết rõ ràng. Đời sống sau khi chết là một thí dụ khác. "Trong khi bạn không biết đời sống, làm sao bạn có thể biết được về cái chết". Ta không có thì giờ về những điều ta không thể biết, vì ngay cả biết xóm giềng cũng cần đến một đời người.
Khổng Tử không quan tâm đến khái niệm về Thượng Đế và những vấn đề khác trong thần học. Nhưng Ngài có một sự tận tụy thực sự đối với những buổi lễ tôn giáo cổ, vì Ngài tin những cuộc lễ này giúp xây dựng thái độ và thói quen cần thiết cho một hạnh kiểm thích đáng. Tôn giáo cá nhân của Ngài giới hạn vào sự thờ phượng tổ tiên, cách sống luân lý của Năm Đức Hạnh Kiên Định, và sự công nhận tôn thờ Ngọc Hoàng trên thiên đường. Phần lớn, Khổng Tử chấp nhận tôn giáo cổ Trung Hoa là sự tôn thờ pha trộn các thần thiên nhiên và tổ tiên.
Số đông người Trung Hoa thờ Trời như vị thần tối thượng hay một trong nhiều thần với sự giải thích khác nhau đối với bất cứ vị thần nào. Sự thờ phượng Ngọc Hoàng Thượng Đế đã là một sự thờ cúng hoàng gia, cai quản suốt trong lịch sử Trung Hoa của các vị hoàng đế với những nghi lễ về mùa màng. Rất ít người theo Khổng Giáo cùng với những nhà trí thức Trung Hoa khác, tham dự tích cực vào sự thờ phượng Ngọc Hoàng. Tuy nhiên họ có khuynh hướng ủng hộ những cuộc lễ của nhà Vua là có giá trị vì chúng giúp người dân nhớ lại nguồn gốc của họ.
Nhiều người hỏi: Khổng Giáo có phải là một tôn giáo không? Chính Khổng Tử cũng không cho rằng điều ngài dạy là tôn giáo. Ngài không mong chờ sự thiên khải từ Ngọc Hoàng như một sự ủy quyền về điều ngài dạy. Ngài nói với đệ tử của Ngài kính sợ Ngọc Hoàng là tốt vì đó là một thế lực thông minh, sáng tạo chuyển vận một cách hoàn toàn tự nhiên thông qua Đạo. Trời vô tư và công bằng. Sau này những người theo Không Giáo thêm vào niềm tin này là Ngọc Hoàng là một vị thần, nhưng là một vị thần không có ảnh hưởng gì đến con người hay thế giới mà Ngài tạo ra. Tuy vậy, trọng tâm chính của Khổng Giáo bao giờ cũng là lòng nhân đạo. Mạnh Tử mô tả ý muốn của Trời về những gì có ý nghĩa đối với con người bằng cách nói rằng hãy giữ đúng bản chất của nó là con đường của Trời. Cố gắng trung thực với bản chất của Trời cũng là con đường của con người.
Khổng Tử coi mình là một nhà cải cách xã hội chứ không phải là một nhà lãnh đạo tôn giáo. Ngài mơ ước và làm việc cho một xã hội trong đó con người sống trong sự hòa hợp hoàn hảo. Nếu điều Ngài dạy không phải là tôn giáo thí ít nhất cũng là sùng đạo. Khổng Tử dạy niềm tin của Ngài vì Ngài tin là niềm tin này được hỗ trợ bởi bản chất của mọi sự. Giáo huấn của Ngài là muốn đem con người vào sự phù hợp với thực tế.
ĐIA VỊ CỦA KHỔNG TỬ TRONG LỊCH SỬ TRUNG HOA
Trong cuộc đời mình, Khổng Tử là một bậc thầy được kính trọng, nhưng Ngài chỉ là một trong nhiều bậc thầy. Khi Ngài còn sống, tiếng tăm và sự yêu mến của nhân dân đối với Ngài không bao giờ đủ dẫn đến việc áp dụng những giáo huấn của Ngài trong chính quyền. Trái lại Ngài đã bỏ ra nhiều năm cố thuyết phục hết vị vua này đến vị vua khác áp dụng lý tưởng của Ngài, nhưng tất cả đều vô ích. Ngài có một số môn đồ trung thành tin chắc vào tính hơn hẳn về lý tưởng của Ngài, nhưng những người khác không hoàn toàn đồng ý về ý kiến này. Mãi cho đến mấy trăm năm sau khi Ngài chết, giáo huấn của Đức Khổng Tử về luân lý mới bắt đầu giành được một địa vị quan trọng trong đời sống người Trung Hoa.
Những tác phẩm cổ điễn Trung Hoa mà Ngài đã đầu tư quá nhiều thời gian và tư tưởng vào trở thành cơ sở cho khoa cử công chính về chức vụ chính quyền. Việc này đánh dấu thời buổi toàn bộ mẫu hình đời sống Trung Hoa bắt đầu là Khổng Giáo. Hơn hai nghìn năm tư tưởng của Khổng Giáo chi phối giáo dục, chính quyền và văn hóa. Việc này chính thức bị chấm dứt ngay vào đầu thế kỷ này, nhưng con người thay đổi châm hơn thể chế. Tất cả dân chúng không đột nhiên quên những truyền thống cổ.
Lý tưởng cá nhân của Khổng Tử chưa bao giờ tiến tới mức phát triển trọn vẹn, dù những lý tưởng này uốn nắn tiến trình văn minh Trung Hoa. Đôi khi vua chúa và các chính trị gia dường như tỏ ra thành thật hơn trong thực tế khi họ đi theo giáo huấn về luân lý của Ngài hy vọng sự trung thành bề ngoài với Khổng Tử của họ có thể giành được ủng hộ từ người dân. Đôi khi họ truy tặng chức tước và phẩm hàm cho Ngài và cho các hậu duệ của Ngài.
Ngay sau cái chết của Ngài, Khổng Tử đã được thâu nhận gia đình tôn thờ thành tiên tổ. Những người khác cũng tiếp tay trong việc tôn thờ vì tại Trung Hoa người ta kính trọng thầy như cha mẹ. Giáo huấn của Ngài bao giờ cũng làm những người hâm mộ Ngài quan tâm chứ không bao giờ bằng một hành vi phép lạ hay đặc tính siêu phàm. Khổng Tử được tôn thờ như một vị thánh, nhưng đó chỉ là sự thờ phượng của người vô học tin tưởng rằng điều quan trọng là thờ phượng cho nhiều chứ không phải thờ phượng có suy nghĩ. Có lẽ loại thờ phượng này có thể được mô tả như sự thờ phượng anh hùng đặc biệt. Nói chung, Khổng Tử là một vị thầy lớn tại Trung Hoa và tại Nhật Bản với ảnh hưởng ít hơn. Ngài đã được vinh danh cao hơn bất cứ người nào khác trong toàn bộ quốc gia lịch sử của Ngài.
KHỔNG GIÁO, SỰ SÙNG BÁI TÔN GIÁO
Đôi khi những cố gắng mạnh mẽ được thực thi để cũng cố Khổng Giáo thành quốc giáo, với Khổng Tử hồ như là vị cứu tinh. Những nỗ lực này bị thất bại vì một số lý do. Thứ nhất, người Trung Hoa thường quen với tự do tôn giáo, và khái niệm chỉ có một tôn giáo quốc gia làm họ khó chịu. Thứ hai, dường như họ không muốn biến Khổng Giáo thành tôn giáo như Lão Giáo và Phật Giáo. Có lẽ với họ đã từ lâu đó là cơ sở chính trong đời sống của họ để họ giới hạn nó vào một tôn giáo có tổ chức.
Những phong trào chính trị mới tại Trung Hoa đôi khi đổ lỗi cho Khổng Giáo và Khổng Tử về nhiều điều xấu xa của xã hội Trung Hoa. Việc này một phần là do sự cố gắng làm mất uy tín những truyền thống và tín ngưỡng cổ, hầu mang lại ý tưởng mới cho chính quyền và giáo dục. Ngày nay, Khổng Tử không còn giữ địa vị được kính trọng như trước đây trong ký ức và lịch sử dân tộc của Ngài.
ĐỜI SỐNG ĐÒI HỎI GÌ NƠI CON NGƯỜI?
Dù giáo huấn của Ngài chưa bao giờ đạt được thành công mà Khổng Tử mong muốn cho họ, song một số khái niệm quan trọng của Ngài tồn tại sau cái chết của Ngài và những thế kỷ sau này. Những ý tưởng này đã trở thành một sự đóng góp đặc biệt cho Trung Hoa và quốc gia láng giềng, Nhật Bản, nơi người ta thường thấy giá trị tư tưởng và nghệ thuật Trung Hoa được vay mượn. Thực ra, đời sống và tư tưởng của nhà triết gia khả ái này đã đóng góp vào kiến thức của toàn thể thế giới.
Trên hết, Khổng Giáo kêu gọi mối quan tâm mạnh mẽ về lòng nhân đạo. Lập luận chính của người theo Khổng Giáo với cả hai Phật tử và người theo Lão Giáo đã là họ quay lưng lại với người đồng loại để đi tìm những điều gì tốt nhất cho chính họ. Không bao giờ, không bao giờ nên coi bản thân quan trọng hơn xã hội. Mổi một người phải tìm thấy sự hoàn thành nhiệm vụ trong chính hành động giúp đỡ và biết người khác.
Khổng giáo đòi hỏi những người cai trị và các nhà lãnh đạo một sự giải thích đặc biệt đối với người dân họ trị vì. Lý do duy nhất mà những người cai trị tồn tại là giúp dân được tốt hơn. Nếu khái niệm này được chấp nhận một cách nghiêm chỉnh bởi những nhà lãnh đạo quốc gia, nghệ thuật quản lý nhà nước, sẽ đạt được đỉnh cao mới, và đời sống của tất cả sẽ được cải thiện. Cuối cùng người theo Khổng Giáo nói, cả đến hòa bình thế giới sẽ đạt được.
Ai có thể nói tất cả điều tốt đẹp có thể dẫn đến kết quả nếu gia đình chấp nhận trách nhiệm mà Khổng Tử trao cho họ? Khổng Giáo đặt trước gia đình tầm quan trọng trong công việc gia đình về giáo dục luân lý. Nó vạch ra sự gắn liền luân lý vào đời sống thật tự nhiên và tươi sáng như thế nào.
"Đời sống đòi hỏi gì nơi tôi? Theo truyền thống Trung Hoa nói: Nó đòi hỏi thái độ và hạnh kiểm tốt. Nó đòi hỏi bạn chấp nhận quyền lợi của đồng loại phải được đặt trên hết trong sự quan tâm của bạn. Trong cách sống như vậy với người khác, bạn sẽ đạt được điều thiện to lớn nhất -- bạn sẽ tìm thấy một địa vị trong thế giới này. Bạn sẽ tìm thấy chính bạn.
Có nhiều người nghĩ rằng Thần Giáo, tôn giáo địa phương của Nhật Bản, không còn nữa hay tôn giáo này đang chết rất nhanh chóng. Họ nghĩ rằng tôn giáo bắt đầu suy thoái với sự đầu hàng của Nhật Bản vào lúc kết liễu Thế Chiến Thứ Hai. Nhưng tín ngưỡng và tập tục truyền thống vẫn có con đường sống. Không bao giờ có thể ban sắc lệnh hay làm luật để loại bỏ tín ngưỡng ra khỏi đời sống. Sự thất trận của Nhật Bản trong Thế Chiến Thứ Hai và sự chiếm đóng của Mỹ Quốc trong những năm theo sau đó chắc chắn có thay đổi một số lễ nghi và tu tập tôn giáo. Dầu vậy vẫn còn một số không thể thay đổi được. Đó là tinh thần tôn giáo cơ bản của người Nhật. Họ gọi nó là Thần Giáo, "con đường của những Vị Thần".
Người Nhật Bản chia sẻ niềm tôn kính Phương Đông về di sản văn hóa của họ. Trong một trăm năm vừa qua, sự tôn thờ quá khứ đã bị đặt trước thử nghiệm mạnh nhất mà ta không thể tưởng tượng được. Nhật Bản vẫn tồn tại và tiến tới một cuộc cách mạng -- cuộc tấn công dữ dội của công nghiệp hóa và quan niệm Phương Tây, và hai cuộc chiến tranh thế giới, một trong hai cuộc chiến dẫn đến sự thất bại liểng xiểng. Không có một nước nào đã phải chuyển từ chế độ phong kiến thành hệ thống công nghiệp qui mô lớn quá nhanh như vậy. Thế mà hàng ngày người dân của xứ đó vẫn thưởng thức vẻ đẹp của nó, hết sức tôn trọng nhau, và một tận tụy sâu sắc với xứ sở của họ.
Đúng là quan niệm của người Nhật đang thay đổi. Nhưng từ khi lịch sử Nhật Bản cho thấy sự thay đổi liên tục trong tám mươi năm qua hơn là nghìn năm trước, thật là khó mà lập biểu sự thay đổi. Chúng ta phải nhớ rằng tương lai đến từ hiện tại, khi hiện tại bắt nguồn từ quá khứ. Cho nên, có thể chắc chắn cho rằng những giá trị yêu quý nhất đối với người Nhật Bản sẽ cùng với họ đi vào tương lai.
TÍNH CHẤT GIỐNG THIÊN NHIÊN
Một người Nhật chắc hẳn phải hỏi, "Đời sống là gì?". Nhưng người ấy không đặt câu hỏi "Đời sống của tôi là gì?". Họ thấy mình là một phần của những điều kỳ diệu sinh động đầy cảm hứng trong mọi thứ tồn tại. Họ có cảm giác gần gũi với thiên nhiên mà người Âu Châu hay Mỹ Châu bình thường không có.
Người Nhật lúc nào cũng cảm thấy sự lôi cuốn bởi không gian bên ngoài -- cát, gió, tinh tú, sóng, tiếng kêu côn trùng, bản nhạc của thác nước.
Người Nhật tin tưởng rằng cùng những lực tuyệt diệu như thế vận chuyển trong thiên nhiên cũng chuyển động trong chính họ. Không có gì khác biệt. Không có ranh giới ngăn cách giữa thần thánh và con người. Vì lý do này, tôn giáo và đời sống của một con người đã đi vào lẫn nhau nên hầu như không thể nói nơi nào cái này bắt đầu và cái kia chấm dứt. Những ai cho rằng Thần Giáo không phải là một tôn giáo chắc hẳn bị bối rối bởi khuynh hướng này. Với những người Nhật Bản chín chắn, tôn giáo là phải như vậy. Tại sao tôn giáo phải là cái gì đó "thêm vào" đời sống con người?
Người Nhật tìm thấy sự an ủi và cảm hứng trong cái đẹp của môi trường chung quanh. Họ đã xây dựng những ngôi đền ở những chỗ có vẻ đẹp rất ngoạn mục. Họ cố gắng giữ mình luôn hòa nhịp với tất cả vẻ yêu kiều hướng về chúng:
Chỉ cần một lá cây,
Hay một cọng cỏ mềm mại,
Vị Thần kinh hoàng
Tự hiện ra.
Thói quen về cái đẹp dẫn người Nhật tham dự những cuộc lễ và liên hoan dường như lạ lùng với chúng ta. Liên Hoan Nghe Côn Trùng là một thí dụ về việc này. Vào một buổi tối yên tĩnh vào những tuần đầu mùa thu, hoàng đế và hàng ngàn thần dân yên lặng ngồi nghe những tiếng động của nhiều loại côn trùng. Giống như kiểu câu chuyện về một đạo sư Thiền Phật Giáo bước ra trước lớp học để giảng một bài Pháp. Đạo sư này dừng lại để nghe tiếng chim hót ngoài cửa sổ, và rồi cho giải tán lớp học. Có nhiều những bài thuyết giảng về thiên nhiên -- và người Nhật tự do thưởng thức.
Vào thời điểm cây anh đào trổ hoa, người Nhật thường đóng cửa tiệm và đi đến các công viên và miền quê để thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa anh đào nở trước khi chúng tàn héo. Đôi khi họ dành những buổi chiều tối vào việc ngắm trăng. Hay họ ngồi hàng giờ ngắm cái đẹp của mảnh vườn, hoặc cắm hoa, hoặc cả đến ngắm nhìn một nhành cây hay một chiếc lá.
Ngắm cái đẹp của chúng dẫn dắt họ trau dồi cái đẹp tại nha, tại sân của riêng họ và trong tất cả những nghề thủ công mỹ nghệ. Họ cần cù tìm cảm hứng mà cuộc sống và thiên nhiên hiến dâng cho họ. Đôi khi họ dùng thơ để bầy tỏ cảm nghĩ về tính cách giống thiên nhiên.
Thường thường người Nhật Bản làm thơ rất ngắn, chỉ diễn tả đủ để truyền cảm của họ. Đương nhiên, thường là thơ của họ không truyền đạt cùng cảm nghĩ tới một người nào đó, nhất là đối với các độc giả ở xứ khác. Mà là ta giải thích cho chính ta. Ai có thể nói một thi phẩm phải nói gì?
Dưới đây là một vài thí dụ về những vần thơ thiên nhiên của người Nhật có thể là có nhiều hoặc ít ý nghĩa mà người đọc có thể tìm thấy ở chúng:
Trên cánh hoa mận nở,
Bông tuyết rơi dày đặc;
Tôi ước gom một ít
Để trao đến tận người
Nhưng tuyết tan trong tay tôi
Trên những sườn đồi dốc
Tuyết vẫn còn nằm đó --
Nhưng dưới chân cây liễu,
Nước lũ chảy ào ào,
Xuân đâm chồi nẩy lộc.
Tôi sẽ so sánh gì
Cuộc đời này của ta?
Nó giống như con thuyền
Đi khỏi lúc rạng đông
Không để lại vết tích.
Bầu trời là biển cả
Nơi sóng mây cuồn cuộn
Mặt trăng là con thuyền;
Tiến về các chùm sao
Chèo theo đường của nó.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA SỰ THANH KHIẾT
Bầu trời, hoa lá, cây cối và cảnh đẹp nói với người Nhật Bản về cái đẹp và sự thanh khiết. Qua nhiều thế kỷ, người Nhật Bản nhìn vào những cảnh như vậy với lòng tôn kính. Họ cảm thấy nỗi kinh sợ trong sự hiện diện của vẻ yêu kiều thanh khiết mà họ ý thức sâu xa. Họ mong ước xứng đáng với nó. Điều này đã khiến họ ngưng không tranh đấu cho sự thanh khiết bên trong và bên ngoài.
Người Nhật không lại gần nơi thờ cúng ở nhà hay nơi công cộng mà lại không tham dự lễ tẩy uế trước. Có các máng nước đặc biệt gần nơi thờ cúng công cộng để người đi hành lễ có thể dùng nước đó để rửa tay và xúc miệng.
Chỉ sau khi người ta làm cho chính mình trong sạch theo cách đó người ta mới nghĩ mình đáng được lễ lạy tại đền. Những người Nhật chín chắn nhận thức đây là sự tượng trưng cho sự thanh khiết nội tâm không thực sự tùy thuộc vào sự tẩy uế bên ngoài.
Nhà của người Nhật là kiểu mẫu về sạch sẽ và ngăn nắp. Bàn thờ thần -- trung tâm thờ cúng Thần Giáo tại gia được giữ sạch sẽ tinh tươm. Bàn thờ ở những nơi thờ cúng thường xuyên được làm lại để không một tình trạng mục nát nào làm hại nơi chốn của vẻ đẹp này.
Ở Nhật Bản xưa, có lễ bán niên gọi là Đại Lễ Tẩy Uế. Tất cả mọi người tham gia lễ này bằng cách chà xát những chiếc áo giấy lên trên thân mình rồi đem đốt hay ném xuống sông, hồ hay biển. Rồi hoàng đế, nói với Nữ Thần Mặt Trời, tuyên bố tất cả mọi người lại trong sạch. Từ xa xưa, người Nhật Bản cổ tin chắc là việc tẩy uế thân xác rất quan trọng đối với các vị thần. Sau này, những người Nhật Bản nghĩ rằng thần cũng muốn sự thanh khiết về đạo đức. Đại Lễ Tẩy Uế tượng trưng cho cả hai.
Những nghi lễ như vậy khiến người dân cảm thấy đúng đối với chính họ và đối với thế giới. Những người Thần Giáo coi trọng việc tổ chức các lễ này thường xuyên, để họ có thể cảm thấy thoát khỏi sự ô uế. Họ không lo lắng về những tội lỗi hay sai lầm cá nhân. Họ quan tâm đến tất cả người dân của họ đến mức họ cảm thấy phải chia sẻ tội lỗi vì khuyết điểm và ô uế chồng chất của bất cứ người nào. Tội lỗi gộp lại này khiến họ tìm sự thanh khiết cho toàn bộ xã hội Nhật.
SỰ TẬN TỤY CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN
Người Nhật Bản đọc truyền thuyết cổ điển về sự khởi đầu đất nước của họ trong "Biên Niên Sử Nhật Bản", tờ Nihoiigi, và những "Hồ Sơ về Những Sự Kiện Cổ", tờ Kojiki. Họ đọc Nữ Thần Mặt Trời, Amaterasu, cho người cháu xuống làm vua đầu tiên tại các hải đảo. Đây là điều mà nữ thần này nói với người cháu:" Ta nghĩ rằng đất nước này chắc chắn thích hợp cho sự mở rộng nhiệm vụ thiên giới để vinh quang có thể tràn đầy vũ trụ. Chắc chắn nó là trung tâm của thế giới".
Cùng sự đánh giá cao như vậy về xứ sở đã là sự quan tâm đầu tiên của người dân Nhật. Họ tận tụy say mê với những hải đảo đẹp đẽ của họ. Họ làm ruộng với lòng kiên nhẫn vô bờ bến. Ho săn sóc vườn tược, công viên và trang trại với sự tinh xảo dễ mến.
Các Dân Tộc khác từ lâu đã trở nên quen thuộc với lòng trung thành mãnh liệt của người dân Nhật đối với xứ sở của họ, với đồng hương của họ, và với hoàng đế của họ. Nó bắt nguồn từ cảm tính họ là con cháu của những vị thần và xứ sở của họ là đất đai được các vị thần chọn, và hoàng đế của họ là dòng dõi trực tiếp của Amaterasu (Thái Dương Thần Nữ). Truyền thống này, thêm vào sự kiện hàng nhiều thế kỷ, dân Nhật hầu như sống biệt lập trên các hải đảo của họ nhiều thế kỷ, là nguyên nhân chính của "tinh thần Nhật Bản"
Mỗi một người dân Nhật đều quan tâm đến tất cả người Nhật. Cái gì tốt cho toàn bộ nước Nhật cũng là cái mà mỗi người dân Nhật mong muốn cho chính mình. Hạnh phúc của dân tộc ảnh hưởng đến toàn thể. Hoàng Đế nhắc nhở họ về dòng dõi thiêng liêng và trách nhiệm của họ đối với quốc gia. Chính vì vậy mà người dân nhật hết sức tận tụy với hoàng tộc trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt.
Lòng trung thành của người Nhật là một đức hạnh cao đến mức người quân nhân thường hy sinh thân mình không hề do dự. Thực ra, đôi khi họ nhiệt tâm làm như vậy vì tin rằng linh hồn của họ có thể giúp bảo vệ đất nước. Một phần, đặt giá trị vào lòng can đảm và trung thành bắt nguồn từ quá khứ phong kiến gần đây của Nhật Bản khi những hiệp sĩ được giáo dục trở thành chiến sĩ can cường. Dù chế độ phong kiến đã bị thay thế nhưng tinh thần ấy vẫn còn truyền lại đến ngày nay. Trung thành và danh dự vẫn là những thái độ thiêng liêng của người Nhật.
SẴN LÒNG HỌC HỎI
Sự quan tâm mãnh liệt đến văn hóa riêng của họ không ngăn trở người Nhật học hỏi nơi người khác. Họ đã vay mượn triết lý và đạo đức từ người theo Khổng Giáo, tôn giáo và nghệ thuật từ người theo Phật Giáo, và kỹ thuật công nghệ từ người Phương Tây. Nhưng khi sự trao đổi hàng hóa và khái niệm diễn ra, Nhật Bản tiếp nhận chúng theo cách riêng của mình. Trên đất Nhật, những thứ đó trở thành Nhật Bản.
Về tôn giáo, người Nhật học hỏi rất nhiều từ những gì mà người theo Không Giáo và Phật Tử Trung Hoa có thể dạy họ. Nhưng Thần Giáo vẫn còn là một tính cách ái quốc cao của dân tộc Nhật. Có thời kỳ, Quốc Gia Thần Giáo -- hay Đền Đài Thần Giáo -- được dạy tại các trường học dưới hình thức nghi lễ và được điều hành bởi một ngành đặc biệt của chính phủ. Mới đây việc này đã thay đổi, và một số liên hoan theo mùa màng đã không còn được thực hiện rộng rãi. Ngày nay, khi một người Nhật tự gọi mình là Thần Giáo, có thể có nghĩa là người ấy là thành viên của một trong số các giáo phái Thần Giáo. Hay có thể có nghĩa là người ấy kính trọng và tôn thờ những truyền thống quá khứ như "Con đường của các thần" ngay dưới Phật Giáo hay những tôn giáo khác.
LÒNG HÀO HIỆP CỦA CON NGƯỜI
Người Nhật thấy đời sống rất tốt đẹp, và họ sung sướng chấp nhận nó như thế. Họ không cố ý nghi ngờ điều đó. Họ chấp nhận đời sống một cách vui vẻ hơn một số môn đồ của một số tôn giáo. Ngay cả những người Phật Tử tại Nhật Bản cũng không quá thiên về cái khổ của đời sống. Người Thần Giáo cảm thấy "Ở Nhà" trong thế giới này. Họ tin rằng các thần mong muốn sự sung sướng và hạnh phúc của họ. Đời sống tốt đẹp và con người cũng tốt đẹp. Làm sao có thể trái ngược lại được khi các thần tạo ra họ?
Thần giáo không có bản liệt kê các điểu răn và không có bản điều luật luân lý phải theo. Hơn một trăm năm mươi năm trước, một nhà học giả Nhật viết:" Chính là vì người Nhật thực sự đạo đức trong việc thực hành nên họ không cần đến lý thuyết đạo đức, và sự quan trọng hóa của người Trung Hoa về lý thuyết đạo đức là do thực hành không nghiêm của họ."
Một người Nhật khác cùng thời vạch ra rằng con người được tạo ra "bởi tinh thần của hai Thần Sáng Tạo (Izanagi và Izanami). Cho nên tự nhiên là họ được phú cho kiến thức về những gì họ phải làm và phải tránh. "Họ không cần phải bận tâm với hệ thống luân lý ", ông viết thêm vào như vậy.
Vì người Nhật cảm thấy con người thực sự tốt bụng, nên họ không bao giờ lo lắng về tội lỗi. Con người có thể gây lầm lỗi, lầm lỗi này có thể được gọi là "tội lỗi", nhưng không phải là tràn đầy tội lỗi. Người Nhật tôn thờ qua việc tặng lời cảm ơn hơn là kể lể nhược điểm của mình và tìm cách xin tha thứ cho họ. Không ai dạy người thần giáo nghĩ chính mình là "đồ giun dế trong cát bụi".
Người Thần Giáo không bao giờ quan tâm đến khái niệm kiếp sau. Không có lời dạy nào về cuộc đời bên kia ngôi mộ, và người Thần Giáo không cầu nguyện cho hạnh phúc tương lai. Họ cầu nguyện nhiều hơn về những thứ rõ ràng như thực phẩm, hạnh phúc, phúc lợi của quốc gia và bầy tỏ lời cảm ơn. Dù Thần Giáo không nhấn mạnh đời sống sau khi chết, thì Phật Giáo đã đáp ứng cho dân tộc Nhật. Dân tộc Nhật Bản cũng như dân tộc Trung Hoa, thích phối hợp giáo lý từ nhiều tôn giáo.
THẦN
Hầu hết người Thần Giáo nói về "Thần". Đối với đa số người Thần Giáo, có nhiều Thần và Nữ Thần, bày tỏ lợi ích của con người và mọi mặt của thiên nhiên. Những nhà Thần Giáo tri thức có thể nói về "thần thánh". Đối với họ, tính thần thánh có trong mọi thứ hoàn toàn thiên nhiên vì không có gì siêu nhiên. Đặc tính thiêng liêng này cũng ở trong con người dù rằng con người không hiểu làm sao nó có thể như thế. Sự tôn kính nhiều thần và hồn thiêng các anh hùng, và những người nổi tiếng chỉ là công nhận tính thần thánh hiện diện trong tất cả thảy đời sống.
Những người chín chắn hơn trong Nhật Bản hiện đại tin tưởng vào một Thần. Hay họ có thể giải thích điều đó như là niềm tin vào một nguồn gốc vì đặc tính thần thánh của toàn bộ đời sống. Nhưng Thần Giáo phát triển rộng lớn nhờ niềm tin vào nhiều thần. Tài liệu từ năm 901 sau Công Nguyên cho thấy ba nghìn ngôi đền tại Nhật Bản, có trên ba nghìn thần được thờ cúng. Đến năm 1914 có trên 190,000 ngôi đền tại Nhật. Có hàng trăm ngàn người thăm viếng các ngôi đền chính hàng năm. Những ngôi đền khác chỉ là những ngôi đền gần đường ở xa quận lỵ.
Thái Dương Thần Nữ, là trung tâm của sự thờ phượng Thần Giáo. Người anh em, Thần Dông Tố, được tôn kính rộng rãi, và Nữ Thần Thực Phẩm cũng vậy. Tất cả thần đều là dòng dõi của cặp thần gốc đã sinh ra những hải đảo của Nhật cũng như vô số các vị thần khác. Những vị thần này được gọi là Izanagi, Bàu trời cha và Izanami, Đất Mẹ. Thần thoại Nhật Bản đầy những chi tiết về chuyện sáng tạo, gồm cả chuyện về Izanagi (Trời) ra lệnh cho Amaterasu (Thái Dương Thần Nữ) trị vì Miền Thượng Giới. Từ nhiều năm, Thái Dương Thần Nữ là biểu tượng của mọi thứ quý giá nhất trong sự phát triển của dân tộc Nhật.
Khi Thái Dương Thần Nữ phái người cháu trai trị vì Nhật Bản, nữ thần này tặng cho người cháu ba báu vật thiêng liêng nhất trong Thần Giáo. Đồ châu báu cho hoàng đế, được để ở cung vua tại Tokyo, là những biểu tượng của sự phục tùng và tính quyền quí. Thanh gươm, giữ tại đền Owari, tượng trưng cho trí tuệ và công lý và tấm gương, để tại ngôi đền Ise, tượng trưng sự ngay thẳng và thanh khiết. Những người thần giáo tin rằng những huyền thoại và báu vật này dùng để nhắc nhở họ về quyền lực thiêng liêng được trao cho các hoàng đế dùng để trị vì.
THỜ PHƯỢNG THẦN GIÁO
Từ cuộc chiến tranh mới đây, đã có những thay đổi mạnh mẽ trong đời sống và tập quán Nhật Bản. Không thể nào có thể tiên đoán được những nghi lễ Thần Giáo cổ sẽ tiếp tục ra sao vào những năm tới. Hiệp ước hòa bình ký kết giữa Nhật và Hoa Kỳ và sự rút lui của những lực lượng chiếm đóng có thể đặt lại tầm quan trọng trong văn hóa vốn có của Nhật, hay có thể là không. Hoàng đế, bằng sắc lệnh của chính mình, đã tuyên bố rằng Ngài không còn được coi là dòng dõi Thái Dương Thần Nữ. Tuy vậy những tập quán và cảm tưởng của thần dân trung thành Nhật có thể đã có thể rõ ràng bị ảnh hưởng bởi lời tuyên bố này.
Người Nhật tiếp tục đi tới các ngôi đền có những thần và nữ thần khác nhau, để cầu nguyện cho được mùa, thực phẩm, hay sự thịnh vượng quốc gia. Họ tự tẩy uế theo phong tục và chắp tay cung kính như người Phương Đông thường làm. Rồi họ dâng lễ vật, tiền bạc, gạo, cởi giầy, và vào phòng cầu nguyện.
Người thần giáo không sử dụng hình ảnh của các thần mà sử dụng biểu tượng của các thần. Trên những kệ thờ thần có những bài vị hay những mảnh giấy ghi tên những vị thần mà họ muốn tôn kính. Một ngọn đèn được đốt tại đấy, và gia đình đặt hoa cùng một chút rượu vang hay bánh cốm bỏng ở đó hàng ngày nếu có thể được. Những người Thần Giáo trung thành cố gắng tổ chức nghi lễ cầu nguyện ngắn trước bàn thờ thần mỗi ngày.
Những thầy tu Thần Giáo, sống như thường dân, hướng dẫn các buổi lễ chính thức trong những ngày lễ quan trọng. Họ không thường xuyên thuyết giảng vào các buổi lễ hàng tuần. Họ chịu trách nhiệm bảo vệ những đồ vật thiêng liêng trong ngôi đền. Thường thường họ có một công việc khác ngoài việc làm thầy tu.
Những ngôi đền Thần Giáo có một cổng vào đặc biệt, gọi là torri. Không ai biết chính xác làm sao mà cấu trúc hấp dẫn này trở thành một phần của ngôi đền; cái nguyên thủy đích thực của nó đã bị mất từ thời cổ. Chắc là nhiều năm trước đây nó dùng để treo chim hiến tế cho Thái Dương Thần Nữ. Tuy nó không còn dùng cho mục đích này, nhưng cái cổng vào vẫn có ở lối vào tại mỗi ngôi đền Thần Giáo. Đôi khi có một dãy cổng vào. Cổng vào là biểu tượng để phân biệt của Thần Giáo.
CÁC GIÁO PHÁI THẦN GIÁO
Những ngôi đền Thần Giáo hay "nhà thờ" thấy ở các nước khác không phải là một phần của Thần Giáo Quốc Gia mà là dạng thức giáo phái Thần Giáo. Chúng ta có thể gọi chúng là giáo phái. Chúng không được nhà nước hỗ trợ và không tùy thuộc vào ân sủng của Hoàng Đế Nhật Bản. Những người Mỹ gốc Nhật theo giáo phái này không thích đề cập đến những phong trào này bằng cùng cái tên Thần Giáo.
Tuy nhiên hầu hết các giáo phái, đưa vào giáo lý và nghi lễ của họ nhiều yếu tố của Thần Giáo quốc gia cũng như của Phật Giáo. Tại Nhật, mười ba giáo phái như vậy được chính thức công nhận; nhưng có nhiều giáo phái khác không được chính thức liệt kê. Nhiều trong những giáo phái này áp dụng phương pháp giáo dục và truyền giáo của giáo phái Cơ Đốc. Một số trong giáo phái tập trung việc thờ phượng vào Thượng Đế chung toàn năng. Một số nhấn mạnh niềm tin có tác dụng chữa lành bệnh.
Câu trả lời tôn giáo về "tinh thần Nhật Bản" cổ vẫn còn là một sức mạnh đáng kể trong đời sống tôn giáo của thế giới ngày nay. Người Nhật đã tìm thấy sự thỏa mãn sâu xa cho chính họ. Họ khiến những người khác nghĩ rằng mình cũng có thể tìm thấy sự thỏa mãn tương tự bằng cách hoàn toàn chấp nhận đời sống là như thế và hưởng thụ những vẻ đẹp và sự kỳ diệu mà đời dâng hiến cho những người đã bỏ thì giờ để quan sát và nghe ngóng.