Dù không sống trong thời gian của Thế chiến II, song Ensei Tankado vẫn nghiên cứu kỹ lưỡng về nó, nhất là sự kiện đỉnh điểm, quả bom nguyên tử được ném xuống khiến 100.000 người ở nước anh ta bị chết thiêu chỉ trong giây lát.
8h 15 phút sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945 ở Hiroshima là thời điểm của một hành động tàn sát dã man. Một sự phô trương sức mạnh vô đạo lý của một đất nước trước đó đã giành thắng lợi trong cuộc chiến. Tankado chấp nhận tất cả những điều đó. Nhưng điều anh ta không thể chịu đựng được là quả bom đã làm cho anh ta không bao giờ được nhìn thấy khuôn mặt thân mẫu của mình. Bà đã chết khi sinh hạ anh ta do những biến chứng của sự nhiễm xạ mà bà phải hứng chịu nhiều năm trước đó.
Năm 1945, trước khi Ensei được sinh ra, mẹ anh ta, cũng giống như nhiều người bạn khác, đã tình nguyện tới Hiroshima làm việc trong các trung tâm hạt nhân. Chính tại nơi đây bà đã trở thành một trong những hibakusha - những người bị nhiễm xạ. 19 năm sau đó, khi nằm trong phòng đẻ và bị băng huyết ở tuổi 36, bà biết rằng mình đã sắp tới lúc tận mạng. Nhưng có một điều bà không biết là cái chết còn gieo cho bà một nỗi thống khổ cuối cùng nữa - đứa con duy nhất của bà đã bị dị tật ngay từ khi sinh ra.
Cha anh ta thậm chí còn chưa bao giờ nhìn mặt Ensei. Suýt phát điên vì mất vợ và tủi thẹn khi được y tá thông báo rằng con trai mình bị dị tật, khó sống qua đêm đó, ông bỏ đi khỏi bệnh viện và không bao giờ quay lại. Ensei Tankado đã được nuôi dạy trong một gia đình đỡ đầu.
Hàng đêm, chú bé Tankado lại nhìn xuống những ngón tay bị xoắn vào nhau của mình đang nắm chặt con búp bê hình Bồ đề bạt ma và thề rằng sau này sẽ trả thù - trả thù lại đất nước đã cướp đi mẹ anh ta và làm bố anh ta phải tủi hổ đến mức bỏ rơi anh ta. Nhưng anh ta không biết rằng định mệnh đã can thiệp vào cuộc đời mình.
Tháng 2 năm Ensei được 12 tuổi, một công ty sản xuất máy tính ở Tokyo gọi điện cho gia đình đỡ đầu anh ta và hỏi xem liệu đứa bé què quặt của họ có thế tham gia chương trình thử nghiệm một loại bàn phím mà công ty đã phát triển dành cho trẻ em tàn tật hay không. Gia đình đỡ đầu anh ta đã đồng ý.
Dù chưa nhìn thấy máy tính bao giờ, song dường như bản năng đã mách bảo Ensei Tankado biết cách sử dụng nó. Chiếc máy tính đã mở ra một thế giới mới lạ mà anh ta chưa từng biết tới. Và nó đã gắn chặt cuộc đời anh ta. Khi lớn lên, anh ta đi dạy, kiếm tiền, và cuối cùng giành được học bổng của Đại học Doshisha. Không lâu sau Ensei Tankado đã trở nên nổi tiếng toàn Tokyo là một thiên tài trong bộ dạng tàn tật.
Sau này, Tankado được đọc các tài liệu về trận Trân Châu Cảng và những tội ác chiến tranh của Nhật Bản. Lòng căm hờn đối với nước Mỹ của anh dần phai mờ, anh ta trở thành một tín đồ Phật giáo sùng đạo. Anh ta quên đi lời thề trả thù thủa thơ ấu; tha thứ là cách duy nhất để được siêu thoát.
Năm 20 tuổi, Ensei Tankado trở thành một hình mẫu lý tưởng của các chuyên viên lập trình. Hãng IBM cấp cho anh ta một tấm visa và một vị trí làm việc ở Texas. Lập tức Tankado đã nắm lấy cơ hội. Ba năm sau anh ta đã rời bỏ IBM, đến sống ở New York và tự viết phần mềm. Anh đã vẽ ra một hướng đi mới cho việc mã hoá bằng khoá công khai. Cũng chính anh đưa ra các thuật toán giải mã và trở nên phát tài.
Giống như đối với nhiều bậc thầy về thuật toán mật mã khác, đối với Tankado, NSA là một nỗi khao khát không thể cưỡng lại.
Thật trớ trêu đây lại chính là cơ quan đầu não của chính đất nước anh đã từng một thời căm ghét đến tận xương tuỷ. Anh ta quyết định đến phỏng vấn và mọi nỗi nghi ngờ đều tan biến ngay khi anh gặp chỉ huy Strathmore. Họ bộc bạch với nhau về thân thế của Tankado, về sự dị ứng của anh ta với chính phủ Mỹ, về những dự tính cho tương lai của anh. Tankado phải tham dự một bài thi về đồ thị đơn và trải qua năm tuần trắc nghiệm tâm lý hết sức căng thẳng và đã vượt qua tất cả. Lòng căm thù Mỹ trong anh từ lâu đã trở thành sự tận tâm đối với Đức Phật. Bốn tháng sau đó, Ensei Tankado bắt đầu làm việc tại phòng mật mã Cơ quan An ninh Quốc gia.
***
Dù đồng lương cũng ra tấm ra món, nhưng ngày ngày Tankado vẫn đi làm trên chiếc xe đạp cà tàng, và một mình ngốn cho hết hộp cơm mang theo, thay vì ăn sườn và súp khoai tây tại nhà ăn với mọi người. Những nhân viên mật mã khác tôn sùng anh ta. Trong con mắt họ, Tankado là lập trình viên xuất sắc nhất trên đời. Tử tế, chân thành trầm tĩnh,Tankado là một chuẩn mực đạo đức. Đối với Tankado sự toàn vẹn về tinh thần luôn là một điều rất quan trọng.
Cũng chính vì thế, việc anh bị sa thải và sau đó bị trục xuất khỏi NSA đã từng là một cú sốc đối với mọi người.
Giống như tất cả những nhân viên khác của phòng mật mã, Tankado hiểu rằng nếu dự án TRANSLTR thành công thì nó sẽ chỉ được sử dụng để giải mã thư điện tử nếu Bộ Tư pháp phê duyệt.
Điều này cũng giống như FBI cần giấy phép của toà án liên bang để lắp đặt hệ thống nghe trộm điện thoại. TRANSLTR sẽ được cài đặt một phần mềm yêu cầu sử dụng các mật mã, được qui định theo thoả thuận giữa Cục Dự trữ Liên bang và Bộ Tư pháp, để giải mã các tệp tin. Chương trình này sẽ ngăn chặn việc NSA nghe lén các cuộc nói chuyện riêng tư của những công dân luôn sống và làm việc theo pháp luật trên toàn cầu.
Tuy nhiên, khi bắt tay vào lập trình, các nhân viên lập trình TRANSLTR đã được thông báo rằng có một sự thay đối trong kế hoạch. Do sức ép thời gian của công việc chống khủng bố của NSA, TRANSLTR trở thành một thiết bị mã hoá nội bộ và chỉ duy nhất NSA điều tiết hoạt động của nó.
Việc này làm Ensei Tankado tức đến phát điên lên. Như thế, có nghĩa là NSA có thể mở bất kì một lá thư nào và sau đó đóng lại mà không ai phát hiện được. Như thế cũng giống như việc gắn một thiết bị nghe trộm vào mọi chiếc máy điện thoại trên thế giới.
Strathmore cố gắng hết sức thuyết phục Tankado tin rằng TRANSLTR là một thiết bị không vi phạm pháp luật, nhưng điều này chẳng ích gì, Tankado vẫn kiên quyết rằng đó là một sự vi phạm nhân quyền trắng trợn. Tankado bỏ việc ngay lập tức. Anh ta đã vi phạm qui tắc bảo mật của NSA khi cố gắng liên lạc với EFF trong vòng vài giờ sau khi bỏ việc. Tankado dự định gây sốc cả thế giới bằng thông tin về sự tồn tại của một hành động vi phạm nhân quyền trắng trợn của một chính. NSA không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải ngăn chặn anh ta.
Việc Tankado bị bắt giữ và trục xuất được thông báo liên tục trên các phương tiện trực tuyến, thực sự là một sự lăng mạ công khai. Trái với mong muốn của Strathmore, các chuyên gia xử lý tình huống của NSA vì lo ngại Tankado sẽ làm lộ bí mật về sự tồn tại của TRANSLTR đã tung nhiều tin đồn xấu nhằm phá huỷ uy tín và danh tiếng của Tankado. Ensei Tankado bị cô lập với giới lập trình trên toàn cầu - không ai tin một lập trình viên quèn đang bị buộc tội làm gián điệp, nhất là khi anh ta đang ra sức mua lại sự tự do cho mình bằng cách rêu rao về một chiếc máy bẻ khoá mật mã bí mật của chính phủ Mỹ.
Điều kì quặc nhất là dường như Tankado hiểu rằng đó là một phần trong trò chơi tình báo này. Anh không hề tỏ ra giận dữ, mà đầy quyết tâm. Khi bị nhân viên an ninh giải đi, Tankado nói những lời cuối cùng với Strathmore với sự bình ớnh đến ớn lạnh.
- Tất cả chúng ta đều có quyền giữ bí mật. Một ngày nào đó tôi sẽ khiến chúng ta có thể có quyền đó.
Chương 7
Susan cảm thấy đầu óc đang quay cuồng, Ensei Tankado đã viết một chương trình phần mềm tạo ra các mật mã không thể bẻ khoá được. Cô không thể tin điều này là có thật..
- Pháo Đài Số - Strathmore lên tiếng.
- Đó là cái tên anh ta đặt cho nó. Đây là một vũ khí chống tình báo tối ưu. Nếu chương trình của anh ta được tung ra thị trường, thì chỉ cần có được nối mạng là một học sinh lớp 3 có thể gửi những mật mã mà NSA không thể giải mã được. Và mạng lưới tình báo của chúng ta sẽ bị bóp chết.
Nhưng điều mà Susan đang nghĩ lại không phải là những hệ luỵ mang tính chính trị của Pháo Đài Số. Cô vẫn đang cố vắt óc để lý giải sự tồn tại của nó. Cả đời làm công việc giải mã các mật mã, cô hoàn toàn phủ nhận sự tồn tại của một mật mã tối ưu. Nguyên tắc Bergofsky đã chỉ ra rằng: mọi mật mã đều có thể giải mã được! Cô thấy mình như một người theo thuyết vô thần đang chuẩn bị đối mặt với Chúa.
- Nếu mật mã này bị lộ ra - cô thì thào - thì ngành giải mã sẽ trở thành một ngành khoa học chết.
Strathmore gật đầu.
- Đó chỉ là vấn đề phụ thôi.
- Chúng ta có thể mua Tankado được không? Tôi biết anh ta căm ghét chúng ta, nhưng tại sao chúng ta không trả cho anh ta vài triệu đô la? Thuyết phục anh ta không phổ biến nó?
Strathmore cười váng lên.
- Vài triệu đô la? Cô có biết nó giá trị như thế nào không? Không một chính phủ nào trên thế giới này lại không sẵn sàng trả cả núi đô la để sở hữu nó. Cô có cho rằng chúng ta có thể báo cáo với Tổng thống rằng mình vẫn có thể can thiệp vào các bức điện tín của bọn khủng bố trong khi không thể xem các giao diện nữa ư, Nó không chỉ liên quan đến NSA mà còn liên quan đến toàn bộ giới tình báo. Thiết bị này có ích cho bất kì ai có nó và FBI, DEA, CIA, tất cả bọn họ sẽ như những kẻ mù dở. Các chuyến tàu vận chuyển ma tuý sẽ không thể bị phát hiện được, các công ty lớn có thể chuyển tiền mà không cần biên bản, giấy tờ và có thể tự xoá bỏ hệ thống lưu trữ dữ liệu IRS đi, các cuộc trao đổi của bọn khủng bố trở nên bí mật tuyệt đối - Mọi thứ sẽ bị đảo lộn.
- EFF sẽ tha hồ mà tồ chức biếu tình - Susan nói, mặt tái nhợt.
- EFF không hề biết một tí gì về cái chúng ta đang làm ở đây. - Strathmore phẫn nộ - Họ sẽ phải thay đổi thái độ nếu họ biết rằng sở dĩ chúng ta đã chặn được bao nhiêu cuộc tấn công của bọn khủng bố là do có thể giải được các mật mã.
Susan đồng ý, nhưng cô biết EFF sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi được tầm quan trọng của TRANSLTR. TRANSLTR đã giúp chặn đứng được hàng chục vụ tấn công, nhưng đây là thông tin mật, và không bao giờ được phép tiết lộ ra ngoài. Lý do rất đơn giản là: Chính phủ không biết sẽ phải làm gì trước sự kích động của công chúng nếu sự thật bị tiết lộ; không một ai biết rằng công chúng sẽ phản ứng ra sao khi biết trong năm vừa qua, ở ngay trên đất nước Hoa Kỳ, đã có hai cuộc trao đối bí mật về vũ khí hạt nhân của các nhóm khủng bố.
Tuy nhiên, các cuộc tấn công bằng vũ khí hạt nhân không phải là mối hiểm hoạ duy nhất. Chỉ riêng trong tháng trước, TRANSLTR đã ngăn chặn được một trong những cuộc tấn công được coi là tinh vi nhất của bọn khủng bố trong lịch sử của NSA. Một tổ chức chống chính phủ đã lập ra một kế hoạch có mật mã là Sherwood Forest. Với ý đồ "phân chia lại tài sản", kế hoạch này đã nhắm vào Sở Giao dịch Chứng khoán New York. Trong vòng hơn sáu ngày, các thành viên của nhóm này đã đặt hai mươi bảy ngòi nổ hẹn giờ trong các toà nhà bao quanh Sở Giao dịch.Việc phát nổ đồng thời cả hai mươi bảy ngòi nổ được cài đặt một cách cẩn thận này sẽ tạo ra một từ trường mạnh đến nỗi có thể phá hỏng tất cả các thiết bị từ tính của Sở Giao dịch Chứng khoán - như ổ cứng máy vi tính, hàng loạt các ngân hàng lưu trữ dữ liệu không truy xuất, băng từ, thậm chí cả đĩa mềm. Hồ sơ về mọi tồ chức, cá nhân sẽ bị phá huỷ vĩnh viễn.
Do việc định giờ chính xác rất quan trọng đối với việc phát nỏ hàng loạt các thiết bị này, các ngòi nổ đã được kết nối với nhau trên Internet qua các đường dây điện thoại. Trong thời gian hai ngày chờ nổ, đồng hồ tính giờ bên trong sẽ liên tục nhận được các dòng dữ liệu đồng hồá đã được mật mã. NSA đã phát hiện các loạt xung dữ liệu, một điều bất bình thường của mạng lưới, nhưng lại lơ là coi chúng chỉ là những câu viết sai ngữ pháp vô nghĩa, vô hại. Nhưng sau khi TRANSLTR giải mã được các xung dữ liệu, các chuyên gia phân tích ngay lập tức đã phát hiện ra chuỗi dữ liệu này chính là thời gian chờ nồ. Các ngòi nổ được phát hiện và tháo bỏ chỉ đúng ba tiếng đồng hồ trước khi Sở Giao dịch nghỉ.
Susan biết rằng nếu không có TRANSLTR thì NSA đành phải bó tay trước chủ nghĩa khủng bố cao cấp thời đại số hoá. Cô đưa mắt nhìn chiếc màn hình chủ. Vẫn là con số chỉ ra hơn mười lăm tiếng đồng hồ. Thậm chí nếu ngay bây giờ tệp tin của Tankado được giải mã thì NSA vẫn sụp đổ ngay tức thì, trung tâm Crypto chỉ có thể giải mã hai mật mã trong một ngày. Thậm chí với tốc độ hiện giờ là 150 mật mã một ngày thì đã tồn đọng cả núi các tệp dữ liệu cần được giải mã.
- Tháng trước Tankado có gọi cho tôi - Strathmore nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của Susan.
Susan ngẩng đầu lên, hỏi lại:
- Tankado gọi cho ngài?
- Để cảnh báo tôi - Strathmore gật đầu.
- Cảnh báo ngài? Anh ta căm ghét ngài cơ mà.
- Anh ta gọi để thông báo cho tôi biết anh ta đang hoàn thiện một thuật toán về những mật mã không thể bẻ khoá được. Nhưng tôi đã không tin.
- Nhưng tại sao anh ta lại nói điều đó với ngài? - Susan gặng hỏi.
- Anh ta muốn ngài mua nó à?
- Không, mà là tống tiền.
Mọi thứ đột nhiên trở nên rối tinh rối mù đối với Susan.
- Tất nhiên rồi - Susan nói giọng đầy ngạc nhiên.
- Anh ta muốn ngài xoá tên anh ta đi mà.
- Không phải thế! - Strathmore nhăn mặt.
- Tankado muốn TRANSLTR.
- TRANSLTR?
- Đúng thế. Anh ta ra lệnh cho tôi phải công khai thông báo cho cả thế giới biết rằng chúng ta đang sở hữu TRANSLTR. Anh ta nói rằng nếu chúng ta thừa nhận rằng việc có khả năng đọc được tất cả e-mail của bất kì ai, anh ta sẽ phá huỷ Pháo Đài Số.
Nhìn vẻ mặt hồ nghi của Susan, Strathmore nhún vai nói "Đằng nào thì cũng đã quá muộn. Anh ta đã tung một phiên bản thử nghiệm của Pháo Đài Số lên mạng và bất kì ai cũng có thể tải nó xuống.
Mặt Susan bỗng trở nên trắng bệch.
- Anh ta làm cái quái gì thế!
- Để gây sốc thôi. Chẳng có gì phải lo lắng cả. Phiên bản anh ta tung lên đã được mã hoá. Ai cũng có thể tải xuống, nhưng không ai có thể mở được nó. Quả là tinh vi hết sức. Mật mã gốc của Pháo Đài Số đã được mã hoá và không ai có thể giải mã được.
Với vẻ mặt đầy kinh ngạc, Susan thốt lên:
- Đúng rồi! Vì thế mà ai cũng có một phiên bản, nhưng không ai có thể mở được!
- Chính xác. Tankado đang thả mồi đấy.
- Ngài đã từng nhìn thấy thuật toán đó chưa?
Nét mặt của vị chỉ huy trông đầy sự lo lắng:
- Chưa, tôi chả nói là nó bị mã hoá là gì.
Susan kinh ngạc, "Nhưng mình đã có TRANSLTR, tại sao không giải mã nó". Nhưng vẻ mặt của Strathmore đã khiến Susan nhận ra rằng các quy tắc đã bị xáo trộn.
- Ôi, chúa ơi! - Cô kêu lên, dường như đã hiểu vấn đề - Pháo Đài Số được mã hoá bởi chính nó sao?
- Cô đã hiểu ra rồi đấy.
Đối với Susan điều này đúng là ngoài sức tưởng tượng.
Công thức của Pháo Đài Số đã được mã hoá bằng chính Pháo Đài Số. Tankado đã tung lên trên mạng một công thức toán học vô giá, nhưng phần viết của nó lại được mã hoá để không ai đọc được Và nó phải sử dụng chính bản thân nó mới có thế đọc được.
- Đó là nguyên lý an toàn của Biggleman - Susan lắp bắp.
Strathmore gật đầu. Nguyên lý an toàn của Biggleman là một kịch bản mang tính giả thuyết về mặt mã, theo đó một chương trình bảo mật lập ra một cơ chế bảo mật tuyệt đối. Để giữ bí mật, người ta lập ra một cái két an toàn để giấu cơ chế đổi.
Tankado cũng làm như thế với Pháo Đài Số. Anh ta đã bảo vệ cái két của mình bằng cách mã hoá nó theo công thức được cất giữ trong chính cái két ấy.
- Và tệp tin TRANSLTR đang giải mã là…
- Tôi đã tải nó xuống từ trang Web của Takado giống như tất cả mọi người. NSA bây giờ vô cùng tự hào là người sở hữu thuật toán Pháo Đài Số. Chúng ta chỉ không thể mở được thôi.
Susan lấy làm kinh ngạc trước sự tài tình của Ensei Tankado. Anh ta đã chứng minh cho NSA thấy thuật toán đó là không thể bẻ khoá được mà vẫn không cần tiết lộ nó.
Strathmore đưa cho cô một mẩu báo. Đó là một bài giới thiệu sách dịch từ tạp chí Nikkei Shimbun, một kiểu Nhật báo Phố Wall xuất bản bằng tiếng Nhật. Nói rằng lập trình viên người Nhật Bản Ensei Tankado đã hoàn thiện một công thức toán học mà anh ta tưyên bố là có thế viết được các mật mã không thể hoá giải. Thuật toán đó có tên là Pháo Đài Số và ai cũng có thể xem ở trên mạng. Lập trình viên này sẽ bán đấu giá nó cho người trả tiền cao nhất. Bài báo đó còn nói mặc dù giới tin học Nhật bản rất quan tâm, nhưng những công ty phần mềm Hoa Kỳ đã nghe nói đến Pháo Đài Số thì chỉ coi lời tuyên bố của Tankado là một trò bịp bợm, giống như chuyện biến chì thành vàng. Họ nói rằng công thức này chỉ là một trò lừa bịp vớ vẩn.
- Bán đấu giá? - Susan ngẩng đầu hỏi.
Strathmore gật đầu.
- Ngay bây giờ, mọi công ty phần mềm Nhật bản đều đã tải phiên bản mã hoá của Pháo Đài Số và đang cố gắng bẻ khoá nó. Cứ mỗi giây họ thất bại, thì giá của nó càng lên cao.
- Ngớ ngẩn! - Susan phản đối - Tất cả những file đã mã hoá này sẽ không giải mã được trừ phi có TRANSLTR. Pháo Đài Số có thể sẽ chỉ là một thuật toán công khai không hơn không kém mà thôi, và không một công ty nào trong số họ có thể bẻ khoá được.
- Đó là một mánh quảng cáo rất thông minh - Strathmore lên tiếng.
- Hãy nghĩ tới điều này - trong khi tất cả các hãng kính chắn đạn đều chắn được đạn, nhưng nếu có một công ty thách anh bắn đạn xuyên qua sản phẩm kính của họ, vẫn có rất nhiều người muốn thử đấy.
- Và người Nhật thực sự tin rằng Pháo Đài Số là khác biệt xa? Tốt hơn bất cứ thuật toán nào có trên thị trường?
- Mọi người có thể xa lánh Tankado, nhưng ai cũng biết rằng anh ta là một thiên tài. Thực ra mà nói, anh ta là bá chủ trong giới tin tặc. Nếu anh ta nói thuật toán đó không thể bẻ khoá được thì nó hẳn là không bẻ khoá được.
- Ít nhất là cho đến khi công chúng biết.
- À, ừ - Strathmore đăm chiêu - - Ít nhất là vào lúc này.
- Điều đó có nghĩa gì chứ?
Strathmore thở dài:
- Hai mươi năm trước, không một ai dám nghĩ là chúng ta sẽ giải được các mã chuỗi mười hai bit. Nhưng công nghệ không ngừng tiến bộ. Các nhà sản xuất phần mềm đã cho rằng một lúc nào đó, các thiết bị điện tử như TRANSLTR sẽ xuất hiện. Công nghệ sẽ phát triển theo cấp số nhân, và kết quả là những thuật toán công khai sẽ mất tính bảo mật. Sẽ cần phải có những thuật toán tốt hơn để phù hợp với các thiết bị máy tính trong tương lai.
- Đó là Pháo Đài Số?
- Chính xác… Một thuật toán có khả năng chống lại phương pháp giải mã kiểu cưỡng bức thì sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, cho dù thiết bị giải mã có tinh vi đến đâu đi nữa. Và trong nháy mắt, nó sẽ trở thành một chuẩn mực trên toàn thế giới.
Susan hít một hơi dài, thì thầm:
- Chúa phù hộ chúng ta. Có thể làm được gì không?
Strathmore lắc đầu.
- Tankado đã cho chúng ta một cơ hội. Anh ta đã nói rõ. Dù sao như thế cũng rất mạo hiểm; nếu bị phát hiện, thì chẳng khác là tự thừa nhận mình lo sợ về thuật toán của anh ta. Như thế nghĩa là chúng ta tự thú với công chúng rằng mình đang sở hữu TRANSLTR, và rằng Pháo Đài Số vẫn là bất khả xâm phạm.
- Ta còn bao nhiêu thời gian?
Strathmore nhăn nhó:
- Tankado định trưa mai sẽ thông báo người trả giá cao nhất.
Susan thấy cố họng nghẹn lại.
- Sau đó thì sao?
- Theo kế hoạch anh ta sẽ trao cho người trả tiền cao nhất chìa khoá giải mã.
- Chìa khoá giải mã?
- Đây là một phần trong âm mưu của anh ta. Sau khi mọi người đã có thuật toán này, Tankado sẽ bán đấu giá chìa khoá giải mã.
- Đúng rồi - Susan kêu lên. Thật là hoàn hảo. Đơn giản và gọn nhẹ. Tankado đã mã hoá Pháo Đài Số và chỉ duy nhất anh ta mới có chìa khoá để mở. Cô cảm thấy khó có thể tìm thấy một chìa khoá giải mã gồm 64 kí tự, điều đó có thế đặt dấu chấm hết cho khả năng xem trộm thư điện tử của ngành tình báo Hoa Kỳ. Nó đang ở một nơi nào đó, có thể là một tờ giấy nhét trong túi quần của Tankado chăng?
Susan đột nhiên cảm thấy choáng váng đầu óc khi nghĩ tới kế hoạch này. Tankado có thể sẽ trao chìa khoá giải mã cho người trả tiền cao nhất, và công ty đó sẽ mở được Pháo Đài Số.
Sau đó có thể họ sẽ gắn thuật toán này vào một loại mạch điện tử siêu nhỏ, và trong vòng năm năm, bất kì chiếc máy vi tính nào cũng có thể được cài sẵn mạch điện tử Pháo Đài Số.. Xưa nay không một nhà sản xuất vì lợi nhuận nào nghĩ đến việc tạo ra một loại mạch điện tử mã hoá bởi vì các thuật toán mã hoá thông thường nhanh chóng trở nên lỗi thời. Nhưng Pháo Đài Số sẽ không bao giờ lỗi thời; với chức năng xoá văn bản liên tục, không một nỗ lực từ bên ngoài nào có thể tìm ra mật mã đúng. Một chuẩn mực mới về kỹ thuật mã số hoá. Mọi mật mã đều là bất khả xâm phạm. Từ bây giờ và mãi mãi về sau. Giám đốc ngân hàng, kẻ môi giới, bọn khủng bố, gián điệp. Mỗi một ngành có một thuật toán riêng.
Hỗn loạn.
- Sự lựa chọn ở đây là gì? - Susan thăm dò. Cô biết chắc rằng trong những lúc nguy kịch thì cần phải có những biện pháp liều lĩnh thậm chí ở NSA.
- Chúng ta không thể thủ tiêu anh ta, nếu đó là cái mà cô định hỏi.
Đó chính là cái mà Susan định hỏi. Trong suốt thời gian làm việc tại NSA, cô đã nghe đồn về những mối quan hệ ngầm của NSA với những sát thủ chuyên nghiệp nhất trên thế giới. Những gã này được thuê đế làm những công việc đen tối trong giới tình báo.
Strathmore lắc đầu.
- Tankado quá thông minh nên chúng ta không thể làm như thế.
Susan cảm thấy bớt căng thẳng một cách kỳ lạ.
- Anh ta đã phòng bị?
- Không hẳn là thế.
- Hay là đi trốn?
Strathmore nhún vai.
- Tankado đã rời Nhật Bản. Anh ta định kiểm tra cuộc đấu thầu qua điện thoại. Nhưng chúng ta biết anh ta đang ở đâu.
- Và ngài không định có động tĩnh gì sao?
- Không. Anh ta đã mua bảo hiểm. Tankado đã đưa bản copy của chìa khoá giải mã cho một người thứ ba nặc danh…trong trường hợp có chuyện gì xảy ra.
Đương nhiên là Susan cảm thấy hết sức kinh ngạc. Một thiên thần hộ mệnh.
- Và tôi cho rằng nếu có chuyện gì xảy ra với Tankado, thì kẻ bí ẩn đó sẽ bán chìa khoá giải mã?
- Còn tồi tệ hơn thế. Nếu ai đó giết Tankado, thì người đó công khai hoá chìa khoá.
Susan có vẻ lúng túng.
- Cộng sự của anh ta sẽ công bố chìa khoá giải mã?
Strathmore gật đầu:
- Tung nó lên mạng, trên báo, trên các bảng quảng cáo. Nói nôm na là đem cho không.
Susan trợn mắt kinh ngạc:
- Tải miễn phí ư?
- Chính xác. Tankado đã nói rằng nếu anh ta chết, anh ta sẽ không cần tiền - tại sao không ban cho thế giới này một món quà vĩnh biệt nho nhỏ chứ!
Cả hai im lặng một hồi lâu. Susan thở sâu cứ như là chuẩn bị đón nhận một sự thật khủng khiếp. Ensei Tankado đã phát minh ra một thuật toán không thể giải mã được. Anh ta giữ chúng ta làm con tin.
Bỗng nhiên cô đứng bật dậy, quả quyết:
- Chúng ta phải liên lạc với Tankado! Phải có cách nào đó để thuyết phục anh ta không bán chìa khoá giải mã! Chúng ta có thể trả cho anh gấp ba lần số tiền của người trả cao nhất! Chúng ta có thể trả lại thanh danh cho anh ta! Bất cứ điều gì!
- Quá muộn - Strathmore lên tiếng. Hít một hơi thở sâu, ông nói - Sáng nay người ta đã phát hiện Ensei Tankado chết ở Seville, Tây Ban Nha.
Chiếc máy bay Learjet 60 hạ cánh xuống dải đường băng nóng như thiêu đốt. Bên ngoài cửa sổ, khung cảnh hoang vu của vùng chiêm trũng Extremadura, Tây Ban Nha hiện ra mờ mờ, ảo ảo..
- Thưa ông Becker - một giọng nói vang lên - Chúng ta đến nơi!
Becker đứng dậy, vươn vai. Sau khi mở ngăn đựng đồ, anh sực nhớ ra là mình không có hành lý. Anh đã chẳng có thời gian để chuẩn bị hành lý. Nhưng chẳng sao cả - họ đã hứa với anh là chuyến đi này rất gọn nhẹ, đến rồi đi ngay.
Khi động cơ tiếp đất, chiếc máy bay đậu khuất bóng mặt trời dưới tán râm của rừng cây đối diện với cảng chính. Một lúc sau, viên phi công xuất hiện và đập cửa. Becker ném bình nước man việt quất cuối cùng ra sau, đặt chiếc cốc lên quầy bar ẩm ướt, rồi giũ tung chiếc áo choàng.
Viên phi công lôi từ chiếc áo bay ra một chiếc phong bì dày cộp.
- Tôi được lệnh đưa cho ông cái này - Anh ta đưa nó cho Becker. Bên ngoài phong bì là dòng chữ viết nguệch ngoạc bằng mực xanh:
"HÃY GIỮ SỐ TIỀN NÀY"
Becker giở một tập giấy bạc đo đỏ dày cộp.
- Cái này là…?
- Tiền địa phương - Viên phi công tỏ ra hiểu biết.
- Tôi biết nó là cái gì - Becker lắp bắp.
"Nhưng thế này là… quá nhiều. Tất cả những gì ta cần chỉ là vé taxi mà thôi" Becker tự nghĩ trong đầu.
- Ở đây làm gì có cái gì đáng giá hàng nghìn đôla cơ chứ!
- Đó là nhiệm vụ của tôi, thưa ngài - Viên phi công quay người và quay lại cabin. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng anh.
Becker hết nhìn trân trối vào chiếc máy bay rồi lại nhìn xuống xấp tiền trên tay anh. Sau một hồi đứng trong khu rừng hoang vắng, anh nhét chiếc phong bì vào túi áo ngực, vắt áo khoác lên vai, và đi khỏi đường băng. Một khởi đầu lạ lùng. Becker cố gắng xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Với một chút may mắn, anh có thể kịp quay về để đi Stone Manor với Susan.
Đến rồi đi ngay, anh tự nhủ. Đến rồi đi ngay.
Anh không biết phải làm gì hơn.
Chương 9
Kỹ thuật viên an ninh hệ thống Phil Chartrukian chỉ định vào Crypto một phút để lấy tờ giấy phân công công việc mà hôm kia anh bỏ quên. Nhưng mọi chuyện không đơn giản chỉ có thế.
Sau khi băng qua Crypto, vào phòng An ninh - Hệ thống, đột nhiên anh phát hiện có một điều gì đó không ổn. Không có ai điều khiển thiết bị đầu cuối, thiết bị thực hiện chức năng giám sát liên tục sự vận hành của TRANSLTR và bộ kiểm tra đã tắt.
Chartrukian gọi to:
- Xin chào, có ai ở đây không?
Không có tiếng trả lời. Căn phòng sạch bóng cứ như là chưa có ai đặt chân đến trong nhiều tiếng đồng hồ.
Mặc dù mới chỉ hai mươi ba tuổi và là lính mới trong kíp nhân viên An ninh - Hệ thống, nhưng Chartrukian được đào tạo khá bài bản, và anh biết được kỷ luật của phòng thí nghiệm. Phải luôn có một nhân viên An ninh hệ thống trực ở Crypto, đặc biệt là vào thứ Bảy khi tất cả các mật mã viên đều nghỉ.
Không một phút chần chừ, anh khởi động bộ kiểm tra và ngước nhìn bảng phân công trực trên tường.
- Ai trực hôm nay - Anh gào to lên trong khi liếc nhìn danh sách nhân viên. Theo kế hoạch thì Seidenberg, một nhân viên trẻ mới vào nghề lẽ ra đã phải bắt đầu ca trực đúp từ nửa đêm hôm kia. Chartrukian đảo mắt nhìn quanh căn phòng trống rỗng. cau có:
- Hắn ở nơi chết dẫm nào không biết?
Trong khi nhìn bộ điều khiến khởi động, Chartrukian tự hỏi không biết Strathmore có biết là không có ai trực không. Lúc vào đây anh đã nhận thấy cửa rèm phòng làm việc của Strathmore đã đóng, điều đó có nghĩa là sếp đã ra ngoài - một điều không phải là không bình thường cho một ngày thứ Bảy: mặc dù cho phép các mật mã viên nghỉ ngày thứ Bảy, nhưng Strathmore dường như làm việc cả 365 ngày trong năm.
Nhưng Chartrukian biết chắc chắn là nếu Strathmore phát hiện thấy không có ai trực ở phòng An ninh - Hệ thống thì anh chàng mới vào nghề đó sẽ bị mất việc. Chartrukian nhìn chằm chằm vào chiec điện thoại, băn khoăn không biết có nên gọi tên kỹ thuật viên trẻ tuổi đó và giúp anh ta hay không. Có một nguyên tắc ngầm giữa các nhân viên an ninh hệ thống là họ phải tương trợ lẫn nhau. Ở Crypto, nhân viên an ninh hệ thống đều là những công dân hạng hai. Các nhân viên mật mã luôn luôn là người đứng đầu trong số những người giàu có, nhân viên an ninh hệ thống được cảm thông chỉ bởi vì họ phải giữ cho đống đồ chơi này hoạt động liên tục.
Chartrukian quyết định nhấc chiếc điện thoại lên. Nhưng chiếc ống nghe chưa kịp chạm tới tai anh. Anh lập tức dừng lại ngay, nhìn như chọc thủng bộ điều khiển đang ở đúng tầm nhìn. Anh từ từ đặt máy điện thoại xuống, và há hốc mồm nhìn chằm chằm vào nó…
Suốt tám tháng làm nhân viên an ninh hệ thống, Phil Chartrukian chưa bao giờ nhìn thấy Bộ điều khiển chính của TRANSLTR hiển thị bất kì một cái gì khác ngoài hai con số không, chỉ giờ. Hôm nay là lần đầu tiên:
THỜI GIAN SỬ DỤNG: 1521
- Mười lăm giờ mười bảy phút ư? - Anh cảm thấy nghẹt thở. - Không thể nào!
Vừa khởi động lại màn hình, anh vừa cầu chúa cho đó chỉ là lỗi màn hình hỏng. Nhưng sau khi khởi động lại xong thì những cơn số ấy lại hiện ra như cũ…
Chartrukian rùng mình. Nhân viên an ninh hệ thống của Crypto chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là giữ TRANSLTR "sạch"- không bị nhiễm virus.
Chartrukian biết rằng việc TRANSLTR đã vận hành mười lăm tiếng đồng hồ sẽ đồng nghĩa với việc nó đã bị nhiễm virus. Ai đó đã để quên một file bị nhiễm virus ở trong TRANSLTR và nó đang phá huỷ các chương trình. Ngay lập tức, anh quên cả mục đích ban đầu của mình; việc không có ai trực phòng thí nghiệm hay bộ điều khiến đã ngắt bây giờ không còn là điều quan trọng nữa. Không chần chừ anh tập trung ngay vào vấn đề chính - TRANSLTR. Ngay lập tức anh tra tìm danh sách các file đã lưu vào TRANSLTR trong vòng bốn mươi tám tiếng vừa qua. Liếc nhìn danh sách các file anh tự hỏi, chẳng lẽ có một tệp tin bị nhiễm virus đã thâm nhập vào ư? Chẳng lẽ bộ lọc an toàn bỏ sót một cái gì?
Để đề phòng virus, tất cả các file thâm nhập vào TRANSLTR đều phải đi qua Gauntlet một loạt các cổng nối mạch, bộ lọc gói tin, và các chương trình diệt virus. Các file chứa các chương trình "lạ" sẽ bị bộ lọc Gauntlet loại ra ngay lập tức. Chúng phải được các nhân viên an ninh hệ thống kiểm tra. Đôi khi bộ lọc Gauntlet từ chối những file hoàn toàn vô hại vì những file này chứa những chương trình mà nó chưa bao giờ gặp. Trong trường hợp đó, các nhân viên an ninh hệ thống phải tự kiểm tra hết sức cẩn thận, và chỉ khi khẳng định được file đó hoàn toàn sạch thì họ mới đưa nó qua bộ lọc Gauntlet, rồi chuyển vào TRANSLTR…
Virus vi tính cũng phong phú chẳng kém gì vi khuẩn. Cũng giống như những người anh em sống trên cơ thể con người, virus vi tính chỉ có một mục đích duy nhất là bám chặt vào hệ thống máy chủ và sinh sôi nảy nở. Ở đây, máy chủ chính là TRANSLTR.
Chartrukian cảm thấy rất ngạc nhiên vì từ trước đến nay NSA chưa bao giờ bị nhiễm virus. Tuy Gauntlet là một người lính gác tốt, nhưng NSA là bộ phận cuối cùng, nhận hằng hà sa số thông tin điện tử từ tất cả các hệ thống trên thế giới. Việc nhận hàng núi dữ liệu như vậy cũng giống như việc quan hệ giới tính bừa bãi hay không cẩn trọng, không sớm thì muộn cũng sẽ bị nhiễm phải một cái gì đó.
Chartrukian đã kiểm tra xong danh sách các file hiển thị trước mặt. Anh cảm thấy lúng túng hơn bao giờ hết. Tất cả các file đều được kiểm tra, và thiết bị loại - Gauntlet không phát hiện được điều gì bất thường. Điều này có nghĩa là file trong TRANSLTR hoàn toàn sạch.
"Thế thì tại sao nó chạy lâu vậy" - anh gào lên trong căn phòng vắng lặng. Chartrukian vã mồ hôi. Anh băn khoăn không biết, có nên quấy rầy Strathmore vì chuyện này hay không.
- Diệt virus - Chartrukian nói một cách kiên quyết, cố gắng trấn tĩnh lại - Mình nên diệt virus.
Chartrukian biết thế nào Strathmore cũng yêu cầu diệt virus trước tiên. Liếc nhanh cả Crypto trống hơ trống hoác, Chartrukian quyết định làm ngay. Anh tải phần mềm diệt virus và cho chạy.
Phải mất mười lăm phút phần mềm này mới chạy xong.
- Sạch lại đi bé yêu - anh thì thầm - Sạch sành sanh, bé yêu nhé. Hãy nói với anh là bé không sao cả.
Nhưng Chartrukian cảm nhận thấy có một cái gì đó không phải là "không sao". Bản năng nói với anh rằng có một cái gì đó bất thường đang xâm nhập vào bên trong con quái vật giải mã khổng lồ này
- Ensei Tankado chết rồi ư? - Susan cảm thấy buồn nôn - Ngài đã thủ tiêu anh ta ư? Tôi tưởng ngài đã nói rằng…
- Chúng ta không hại anh ta - Strathmore an ủi - Anh ta chết vì một cơn đau tim. COMINT đã gọi điện cho tôi sáng sớm hôm nay.
Máy vi tính của họ đã phát hiện tên Tankado trong quyển sổ nhật kí cảnh sát thông qua Interpol.
- Đau tim? - Susan nghi ngờ - Anh ta mới ba mươi tuổi.
- Ba mươi hai - Strathmore sửa lại - Anh ta bị suy tim bẩm sinh.
- Tôi chưa hề nghe nói đến điều đó.
- Hãy chú ý đến sức khỏe của anh ta khi ở NSA, chứ không phải là những điều anh ta khoe khoang, khoác lác.
Susan cảm thấy khó có thể chấp nhận được sự tình cờ khéo sắp đặt này. "Một quả tim suy yếu có thế giết chết anh ta - chỉ đơn giản vậy thôi sao?" Thật là tiện lợi.
Strathmore nhún vai.
- Yếu tim… cộng với cái nắng khắc nghiệt của Tây Ban Nha, sự căng thẳng của việc gửi thư tống tiền NSA…
Susan im lặng giây lát. Dù là do nguyên nhân gì đi chăng nữa thì cô vẫn cảm thấy dằn vặt trước cái chết của một nhân viên mật mã tài ba như thế. Giọng nói trang nghiêm của Strathmore cắt ngang dòng suy nghĩ của cô.
- Tuy nhiên trong cái rủi có cái may: Tankado đã đi du lịch một mình. Có nhiều khả năng cộng sự của anh ta vẫn chưa phát hiện ra cái chết của Tankado. Các quan chức Tây Ban Nha cho biết họ sẽ cố che giấu thông tin này càng lâu càng tốt. Chúng ta biết được tin đó là nhờ COMINT rất thạo tin - Strathmore dịu mắt lại - Chúng ta phải tìm ra người cộng sự trước khi anh ta phát hiện ra cái chết của Tankado. Đó là lí do tôi cho gọi cô. Tôi cần sự giúp đỡ của cô.
Susan thấy khá bối rối. Đối với cô thì cái chết đúng lúc của Ensei Tankado đã giải quyết hết vấn đề của họ.
- Thưa sếp - cô phản đối - Nếu các nhà chức trách nói anh ta chết vì bệnh tim thì chúng ta làm gì còn trở ngại nào. Cộng sự của anh ta sẽ biết chúng ta không có trách nhiệm trong vụ này.
- Không có trách nhiệm ư?- Strathmore trợn mắt kinh ngạc - Một người đã gửi thư tống tiền tới NSA và vài ngày sau anh ta chết, thế mà cô bảo chúng ta không có trách nhiệm? Tôi cá với cô cả trăm triệu đô la là người bạn bí ẩn của anh ta sẽ không nghĩ như thế đâu. Bất cứ chuyện gì xảy ra thì chúng ta có chạy đằng trời cũng không thoát tội được. Rất có khả năng đó là một vụ đầu độc, một cuộc khám nghiệm tử thi giả, hay bất cứ thứ gì - Strathmore ngập ngừng - Thế cô còn nhớ lúc đầu cô đã phản ứng như thế nào khi tôi thông báo về cái chết của Tankado không: "Tôi đã nghĩ NSA thủ tiêu anh ta".
- Chính xác. Nếu NSA có thế đặt năm chiếc vệ tinh Rhyolite trong quỹ đạo quanh khu vực Trung Đông, tôi nghĩ việc giả định chúng ta đã mua chuộc mấy viên cảnh sát Tây Ban Nha là điều không thể tránh khỏi.
Susan thở hắt ra. Ensei Tankado đã chết. Người ta sẽ đồ tội cho NSA.
- Liệu ngài có kịp tìm ra người cộng sự đó không?
- Chắc là được. Chúng ta đang có một manh mối thuận lợi. Tankado đã rất nhiều lần công khai về việc phối hợp với một cộng sự. Tôi nghĩ anh ta hi vọng thông tin đó sẽ làm các hãng phần mềm từ bỏ ý định hãm hại anh ta hay cố gắng đánh cắp chìa khoá giải mã. Anh ta doạ rằng chỉ cần một ai đó chơi xấu, thì người cộng sự sẽ công khai chìa khoá giải mã, và tất cả các hãng phần mềm bỗng nhiên sẽ phải cạnh tranh với một phần mềm miễn phí.
- Thông minh! - Susan gật gù công nhận.
Strathmore tiếp tục nói.
- Đã nhiều lần phát biểu trước công chúng. Tankado đã nhắc đến tên của người cộng sự đó. Anh ta gọi gã là North Dakota.
- North Dakota? Rõ ràng đó là một kiểu bí danh.
- Đúng thế, nhưng để cho chắc ăn, tôi đã điều tra trên mạng với từ khoá là North Dakota. Tôi đã nghĩ là sẽ chẳng tìm được cái gì ra hồn. Nhưng cuối cùng tôi đã tìm thấy địa chỉ thư điện tử - Strathmore ngập ngừng - Tất nhiên cứ cho đó không phải là gã North Dakota mà chúng ta đang tìm kiếm, nhưng tôi đã kiểm tra địa chỉ thư điện tử này chỉ để cho chắc mà thôi. Cô có biết tôi đã ngạc nhiên như thế nào khi thấy địa chỉ đó chứa đầy các lá thư điện tử từ Ensei Tankado không? - Strathmore nhướng mày - Và tất cả những tin nhắn đó đều ám chỉ đến Pháo Đài Số và những kế hoạch tống tiền NSA của Ensei Tankado.
Susan nghi ngờ nhìn Strathmore. Cô thực sự thấy ngạc nhiên khi thấy một người chỉ huy tài giỏi như thế mà lại dễ bị rơi vào tròng đến vậy.
- Thưa sếp - cô phản đối - Tankado chắc chắn biết rằng NSA có thể đọc trộm thư điện tử trên mạng; anh ta sẽ không bao giờ sử dụng thư điện tử để gửi những thông tin bí mật. Đó là một cái bẫy. Ensei Tankado đã cố tình để ông tìm ra North Dakota. Anh ta biết thế nào ông cũng điều tra trên mạng nên bất kì thông tin nào gửi đi, anh ta đều muốn ông tìm thấy. Rõ ràng anh ta muốn đánh lạc hướng..
- Khá lắm - Strathmore độp lại - ngoại trừ một vài thứ. Tôi đã không thể tìm được thứ gì khi sử dụng từ khoá North Dakota, nên tôi đã ngắt các kí tự tìm kiếm ra. Địa chỉ thư điện tử mà tôi ớm thấy có tên hơi khác một chút, đó là - NDAKOTA.
Susan lắc đầu.
- Cách hoán đổi vị trí các ký tự là một thao tác thông thường. Tankado biết thế nào ông cũng thử hoán đổi vị trí các kí tự cho đến khi nào vỡ vạc ra một điều gì đó. NDAKOTA là một cái tên quá dễ phát hiện.
- Cũng có thể - Strathmore nói, rồi viết nguệch ngoạc mấy chữ lên một mẩu giấy đưa cho Susan - Nhưng cô hãy nhìn cái này đã.
Susan đọc mảnh giấy và chợt hiểu được người chỉ huy này đang nghĩ gì. Trên mảnh giấy có ghi địa chỉ thư điện tử của North Dakota. NDAKOTA@ara.anon.org.
Chính ba chữ ARA của địa chỉ này đã làm Susan chú ý tới.
ARA là chữ viết tắt của những người viết thư nặc danh, một máy chủ nặc danh nối tiếng.
Các nhà cung cấp nặc danh không xa lạ với những người sử dụng Internet muốn giấu tên truy cập. Để nhận tiền dịch vụ, những công ty này bảo vệ bí mật của những người gửi thư điện tử, với tư cách là người trung gian. Điều này cũng giống như là các hòm thư lưu ký ở bưu điện - người ta có thể gửi và nhận thư mà không cần tiết lộ tên và địa chỉ thật của mình. Công ty đó sẽ nhận các lá thư điện tử ghi sẵn bí danh và gửi thẳng vào điạ chỉ thư điện tử thật của khách hàng. Công ty chuyển tiếp thư điện tử bắt buộc phải tuân theo hợp đồng không được tiết lộ tên và địa chỉ thật của người sử dụng.
- Đó không phải là bằng chứng - Strathmore công nhận - Nhưng rất đáng ngờ.
Susan gật đầu, thấy thuyết phục hơn.
- Vì vậy mà ngài liên tục nói rằng Tankado không để ý đến việc có ai đó tìm kiếm tên North Dakota vì đã được ARA bảo vệ tên và địa chỉ.
- Chính xác!
Susan suy nghĩ một lát rồi nói:
- ARA chủ yếu phục vụ các địa chỉ thư điện tử của Mỹ. Ngài cho là North Dakota có thể đang quanh quẩn ở đâu đó?
Strathmore nhún vai:
- Có thể lắm chứ. Với một người cộng sự người Mỹ, Tankado có thể giữ hai chiếc chìa khoá giải mã ở hai vùng khác nhau. Đó có thể là một hành động thông minh.
Susan suy ngẫm. Cô nghi ngờ không biết liệu Tankado có giao chiếc chìa khoá cho bất kì ai hay không. nếu như đó không phải là bạn thân của anh ta. Và theo như cô biết thì Ensei Tankado không có nhiều bạn ở Mỹ.
- North Dakota - Susan đăm chiêu, bộ óc chuyên gia mật mã của cô nghiền ngẫm về tất cả ý nghĩa có thể của bí danh này - Lá thư anh ta gửi cho Tankado sẽ như thế nào nhỉ?
- Làm sao tôi biết được. COMINT chỉ tìm thấy những lá thư mà Tankado đã gửi đi. Tại thời điểm này tất cả những gì chúng ta chẳng biết gì về North Dakota, ngoại trử đó là một địa chỉ nặc danh.
Susan suy nghĩ một lát rồi nói.
- Có khả năng là một cái bẫy không?
Strathmore nhíu mày.
- Như thế nào?
- Tankado có thể sẽ gửi một lá thư ma đến một địa chỉ thư điện tử chết với hi vọng là chúng ta sẽ đọc trộm nó. Chúng ta sẽ nghĩ là anh ta đã được bảo vệ, và sẽ không bao giờ mạo hiểm chia sẻ chiếc chìa khoá giải mã. Anh ta có thể hành động một mình.
Strathmore mỉm cười công nhận.
- Một ý tưởng tinh quái, ngoại trừ một điều. Anh ta sẽ không sử dụng bất kì một account gia đình hay công việc nào cả. Anh ta sẽ ghé qua Trường Đại học Doshisha và đăng nhập vào máy tính chủ. Dường như anh ta có một địa chỉ thư điện tử bí mật ở đó. Đó là một địa chỉ được giấu rất kĩ và tôi chỉ tình cờ phát hiện ra mà thôi - Strathmore ngập ngừng - Vì vậy… nếu Tankado muốn chúng ta đọc trộm thư của anh ta, tại sao anh ta lại sử dụng địa chỉ thư điện tử bí mật đó để gửi thư?
Sau một hồi suy ngẫm, Susan lên tiếng:
- Có thể anh ta đã sử dụng một địa chỉ thư điện tử bí mật vì vậy ngài sẽ không nghi ngờ về âm mưu này? Có thể Tankado chỉ giấu địa chỉ này với ý đồ để ngài có thể tìm ra và nghĩ rằng đó là do may mắn? Điều đó sẽ làm anh ta tin tưởng hơn về lá thư của mình.
Strathmore cười mỉm:
- Lẽ ra cô phải là một trinh thám. Đó là một ý tưởng thông minh. Nhưng thật không may, mọi lá thư Tankado gửi đi đều được trả lời. Tankado viết thư và cộng sự của anh ta trả lời.
Susan nhăn mặt.
- Cũng đúng. Vì vậy mà ngài nói rằng North Dakota là có thật?
- Tôi sợ là thế. Và chúng ta phải tìm ra anh ta. Và bí mật. Nếu anh ta nghe phong phanh biết ý định của chúng ta, mọi thứ sẽ hỏng bét.
Bây giờ Susan biết chính xác tại sao Strathmore che gọi cô đến.
- Để tôi đoán xem - Ngài muốn tôi đọc trộm dữ liệu mật của ARA và tìm ra tên thật của North Dakota?
Strathmore cười gượng.
- Cô Fletcher, cô luôn đi guốc trong bụng tôi.
Về khả năng dò tìm Internet, không ai có thể sánh với Susan Fletcher. Năm ngoái, một thượng sĩ của Nhà Trắng đã nhận liên tục nhận được những lá thư đe doạ nặc danh. NSA được giao nhiệm vụ phải tìm ra kẻ chủ mưu. Mặc dù NSA thừa sức yêu cầu công ty cung cấp dịch vụ thư điện tử tiết lộ tên của người sử dụng, nhưng nó đã chọn một giải pháp tinh vi hơn - đó là "phần mềm tự dò tìm".
Thực ra phần mềm này đã tạo ra một dấu hiệu chỉ đường được nguỵ trang dưới dạng thư điện tử. Cô có thể gửi thư này đến địa chỉ ma, và công ty cung cấp dịch vụ thư điện tử, theo đúng hợp đồng đã kí, sẽ gửi nó đến địa chỉ thật của người sử dụng. Ngay lập tức chương trình này sẽ lưu lại địa chỉ trên mạng của người gửi và gửi nó về NSA. Tiếp đến chương trình này sẽ tự phân huỷ mà không để lại một dấu vết nào. Từ đó trở đi, đối với NSA, những kẻ gửi thư nặc danh chỉ là muỗi.
- Cô có thể tìm ra anh ta không - Strathmore hỏi.
- Chắc chắn. Tại sao mãi đến bây giờ ngài mới gọi cho tôi?
- Thực ra thì… - Strathmore cau mày - Tôi đã không hề có ý định gọi cho cô. Tôi không muốn bất kì ai dính vào cái mớ thòng lọng này. Tôi đã thử gửi phiên bản dò tìm của cô, nhưng vì cô đã sử dụng thứ ngôn ngữ quái quỉ gì đó nên tôi không thể vận hành nó được. Nó liên tục gửi về những dữ liệu vô nghĩa. Cuối cùng tôi đành phải ngậm đắng nuốt cay và lôi cô vào cuộc.
Susan cười khúc khích. Strathmore là một lập trình viên mật mã tài giỏi, nhưng ông ta rất hạn chế về các công việc liên quan đến thuật toán, ông ta không thể nào đánh bại nổi các chương trình được bảo vệ vô cùng kĩ lưỡng. Hơn thế nữa, Susan đã viết phần mềm dò tìm của cô bằng một ngôn ngữ lập trình mới, được tạo ra từ hai ngôn ngữ khác, mà cô gọi là LIMBO. Cô hiểu rằng Strathmore đã gặp phải vấn đề khó khăn.
- Tôi sẽ lo chuyện đó! - Cô vừa cười vừa đi về phòng - Tôi sẽ tìm bằng ra thì thôi.
- Mất khoảng bao lâu?
Susan ngập ngừng:
- À… điều đó phụ thuộc vào tốc độ chuyển thư nhanh hay chậm của ARA. Nếu như anh ta đang ở đây, ở chính bang này và sử dụng AOL hay Compuserve, tôi sẽ đọc trộm được thẻ tín dụng và tìm được địa chỉ thanh toán của anh ta trong vòng một tiếng đồng hồ. Nếu anh ta đang ở một trường đại học hay một công ty nào đó, sẽ mất nhiều thời gian hơn - Cô cười gượng - Sau đó, phần còn lại là do ngài giải quyết, thưa ngài Strathmore.
Susan biết rõ "phần còn lại" sẽ là một đội đột kích của NSA, cắt điện nhà gã đó và đột nhập vào nhà qua cửa so với những khẩu súng to đùng. Có thể cả đội sẽ cho rằng mình đang chuẩn bị khám xét một hang ổ ma tuý. Chắc chắn ngài Strathmore sẽ đàng hoàng sải bước trên đám sỏi để nhặt chiếc chìa khoá gồm sáu mươi tư kí tự. Sau đó, ông sẽ phá huỷ nó. Pháo Đài Số sẽ bị huỷ bỏ hoàn toàn, vĩnh viễn.
- Cần phải rất cẩn trọng! - Strathmore căn dặn - Nếu North Dakota biết là đang bị chúng tra truy tìm, hẳn anh ta sẽ lo sợ, và đội quân của chúng ta sẽ không thể kịp tới đó trước khi anh ta biến mất cùng với chìa khoá giải mã.
- Chạy và phân huỷ - cô quả quyết.- Ngay sau khi tìm ra địa chỉ thư điện tử của anh ta, nó sẽ tự phân huỷ. Anh ta sẽ không bao giờ biết là chúng ta đã lần ra địa chỉ.
Người chỉ huy gật đầu vẻ mệt mỏi.
- Cảm ơn.
Susan mỉm cười dịu dàng. Cô luôn cảm thấy ngạc nhiên về khả năng giữ bình tĩnh của ngài Strathmore những lúc đối mặt với nguy hiểm. Cô tin rằng khả năng đó chính là thế mạnh đã giúp ông nắm giữ chức phó giám đốc NSA..
Khi Susan tiến ra cửa, cô cúi xuống nhìn TRANSLTR một hồi lâu. Sự tồn tại của một thuật toán không thể giải mã được là điều mà cô vẫn đang vắt óc để lý giải. Cô cầu chúa giúp mình tìm ra North Dakota.
- Nhanh lên - Strathmore giục - và cô sẽ có mặt ở dãy núi Smoky Mountain trước hoàng hôn.
Susan thấy cứng đờ cả người. Cô chưa bao giờ tiết lộ với Strathmore về chuyến đi này.
- Có phải NSA đã cài máy nghe lén điện thoại của tôi - Susan mấp máy.
Strathmore mỉm cười hối lỗi.
- Sáng nay David đã kể cho tôi về chuyến đi này.
Susan cảm thấy vô cùng lúng túng.
- Sáng nay ngài đã nói chuyện với David?
- Đương nhiên - Strathmore dường như rất lúng túng trước phản ứng của Susan - Tôi đã phải chỉ dẫn cho anh ta rất tận tình.
- Chỉ dẫn cho anh ấy? - Cô kêu lên - Về cái gì kia chứ?
- Về chuyến đi của anh ấy. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha.
Chương 11
"Tây Ban Nha. Tôi đã cử David tới Tây Ban Nha". Những lời của vị chỉ huy cứ nhảy múa trong đầu Susan.
- David đang ở Tây Ban Nha? - Susan nói vẻ đầy hoài nghi - Ngài đã cử anh ấy đến Tây Ban Nha - Đột nhiên cô chuyển giọng giận dữ - Tại sao chứ?
Strathmore sững người. Rõ ràng ông không hề quen với việc bị người khác la ó, ngay cả đó là nhân viên mật mã đắc lực nhất. Ông bối rối đưa mắt nhìn Susan. Cô xù lông cứ như con hồ mẹ đang bảo vệ đứa con bé nhỏ của mình.
- Susan à! Cô đã nói chuyện với anh ấy rồi, đúng không? David đã giải thích rồi chứ?
Cô bị sốc đến nỗi không để ý đến những gì Strathmore nói. Tây Ban Nha? Đó là lý do tại sao David lại trì hoãn chuyến đi đến Stone Manor của hai người?
- Sáng nay tôi đã gửi đến cậu ta một chiếc ô tô. Anh chàng nói rằng sẽ gọi cho cô trước khi đi. Tôi rất tiếc. Tôi tưởng…
- Tại sao ngài lại cử David đến Tây Ban Nha?
Strathmore ngập ngừng, nhìn thẳng Susan nói.
- Để lấy một chiếc chìa khoá giải mã khác.
- Chiếc chìa khoá khác nào cơ?
- Phiên bản của Tankado.
Susan cảm thấy thật sự lúng tứng.
- Ngài đang nói về cái gì vậy?
Strathmore thở dài:
- Tankado chắc chắn đã giữ một phiên bán của chìa khoá giải mã khi anh ta chết. Tôi chắc như đinh đóng cột rằng anh ta không muốn để nó trôi nổi ở một nhà xác ở xứ Seville.
- Vì vậy ngài đã cử David Becker - Susan đã vượt qua cơn sốc. Mọi thứ đều vô nghĩa - David thậm chí không làm việc cho ngài cơ mà!
Strathmore giật mình. Từ trước đến nay không một ai dám nói bằng cái giọng như thế với phó giám đốc của NSA.
- Susan! - ông nói trong khi cố gắng trấn tĩnh - Đó chính là mấu chốt vấn đề. Tôi cần!
Susan chợt trở nên dữ dằn.
- Ông đã có hai mươi nghìn nhân viên sẵn sàng làm theo mệnh lệnh của ông. Ai cho phép ông cử chồng chưa cưới của tôi?
- Tôi cần một thường dân làm giao liên, một ai đó hoàn toàn không dính líu đến chính quyền. Nếu tôi chọn các cách thông thường, thì có người sẽ chộp được tin này.
- Và David Becker là người dân thường duy nhất mà ông biết?
- Không! David Becker không phải là người dân thường duy nhất mà tôi biết. Nhưng 6 giờ sáng nay, mọi thứ diễn ra nhanh như chớp! David biết tiếng Tây Ban Nha, cậu ta vô cùng thông minh, Tôi tin tưởng và đã ban cho anh chàng một đặc ân!
- Một đặc ân… - Susan lắp bắp - Cử anh ấy đi Tây Ban Nha là một ân huệ hay sao?
- Đúng thế! Tôi sẽ trả anh ta mười nghìn đô la chỉ cho một ngày làm việc. Anh ta sẽ lấy tất cả đồ đạc của Tankado và bay về nhà. Đó là một đặc ân!
Susan im lặng và chợt hiểu ra tất cả. Đó là vì tiền.
Cô nhớ lại 5 tháng trước đây, vào cái đêm mà hiệu trưởng Trường Đại học Georgetown đã đề nghị thăng chức cho David, giữ ghế chủ nhiệm khoa ngôn ngữ. Hiệu trưởng đã cảnh báo anh là anh sẽ bị giảm giờ lên lớp và sẽ phải làm nhiều công việc giấy tờ hơn, nhưng không được tăng lương. Susan đã muốn gào to lên, David, đừng làm điều đó. Anh sẽ chẳng sung sướng gì đâu! Chúng ta có nhiều tiền - do ai làm ra cũng thế cả thôi mà! Nhưng cô không có quyền. Cuối cùng, cô đành phải chấp nhận quyết định của anh.
Đêm đó, trước khi chìm vào giấc ngủ, cô đã cố gắng bắt mình phải mừng cho anh, nhưng vẫn có một cái gì đó không ngừng mách bảo cô rằng đó sẽ là một tai hoạ. Cô đã đúng - không tin nổi là linh cảm của mình lại đúng đến mức này.
- Ông đã trả cho anh ấy mười nghìn đô la. Đó là một cái bẫy bẩn thỉu!
Bây giờ đến lượt Strathmore nổi giận đùng đùng.
- Bẫy à? Đó không phải là một cái bẫy chết tiệt nào hết! Thậm chí tôi đã không nói với anh ta về số tiền đó. Tôi đã yêu cầu anh ta làm cho tôi một việc dưới danh nghĩa cá nhân. Anh ta đã đồng ý đi.
- Tất nhiên là anh ta đồng ý? Ông là sếp của tôi! Ông là phó giám đốc của NSA! Làm sao anh ấy dám từ chối cơ chứ?
- Cô nói đúng! - Strathmore ngắt lời - Đó là lí do tại sao tôi gọi anh ta. Tôi không có nhiều lựa chọn.
- Giám đốc có biết ông cử một người dân thường đi hay không?
- Susan! - Strathmore cố tỏ ra kiên nhẫn - Giám đốc không liên quan đến vụ này. Ông ta không biết gì hết.
Susan nhìn Strathmore kinh ngạc, không thể nào tin được.
Dường như cô không còn hiểu nổi con người này nữa. Ông ta đã gửi chồng chưa cưới của cô - một giáo viên, đi làm nhiệm vụ của NSA và không thông báo với giám đốc về cuộc khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử NSA.
- Ngài Leland Fontaine không được thông báo?
Strathmore không thể chịu được nữa, hét lên:
- Nghe này, Susan! Tôi gọi cô đến đây là vì tôi cần một đồng minh, chứ không phải một điều tra viên. Tôi đang sống cảnh địa ngục trần gian đây. Đêm qua, tôi đã tải file của Tankado và ngồi hàng giờ ở đây, bên chiếc máy in, cầu nguyện TRANSLTR có thể giải mã được. Sáng sớm nay, tôi đã dẹp lòng tự ái và gọi điện cho giám đốc - nói cho cô biết tôi rất muốn nói ra chuyện này. Xin chào ngài giám đốc. Tôi xin lỗi vì đã đánh thức ngài. Tại sao tôi lại gọi điện à? Tôi vừa mới phát hiện ra rằng TRANSLTR đã lỗi thời rồi. Chỉ có một thuật toán thôi mà toàn bộ ê kíp ăn lương cao ngất ngưởng tại Crypto không thể lập trình nổi! - Strathmore đập mạnh tay xuống bàn.
Susan đứng im bất động. Mười năm nay, cô đã từng thấy Strathmore mất bình tĩnh một vài lần, nhưng chưa bao giờ ông nổi giận với cô.
Mười giây trôi qua, cả hai không nói với nhau một lời nào.
Strathmore ngồi xuống và Susan có thể nghe thấy ông cố nén thở bình thường trở lại. Cuối cùng ông nói, giọng đã bình tĩnh trở lại.
- Thật không may - Strathmore nói chậm rãi - Giám đốc đang tham dự một cuộc họp với Tổng thống của Columbia ở Nam Phi. Bởi vì ông ấy không thể làm được điều gì từ bên đó, cho nên tôi chỉ có hai giải pháp - thứ nhất, yêu cầu giám đốc rút ngắn thời gian ở bên đó và sớm quay về - thứ hai, tự mình giải quyết.
Cả hai im lặng một hồi lâu. Rốt cuộc, Strathmore ngầng lên và ánh mắt mệt mỏi của ông chạm phải ánh mắt Susan. Ngay lập tức ông hạ giọng.
- Xin lỗi Susan. Tôi kiệt sức mất. Cơn ác mộng này đang biến thành sự thật. Tôi biết cô buồn về chuyện của David. Tôi không định nói với cô chuyện ấy theo kiểu này. Tôi tưởng cô đã biết rồi.
Susan cảm thấy vô cùng ân hận.
- Tôi đã phản ứng quá dữ dội. Xin lỗi ngài. David quả là một sự lựa chọn tốt.
Strathmore lơ đãng gật đầu.
- Tối nay anh ta sẽ quay về.
Susan nghĩ đến những thứ mà vị chỉ huy này đang phải trải qua - áp lực của việc giám sát TRANSLTR, làm việc, rồi họp hành liên tục không có thì giờ nghỉ ngơi. Người ta đồn rằng người vợ chung sống đã ba mươi năm cũng đang định bỏ ông mà đi. Bây giờ lại thêm chuyện Pháo Đài Số - hiểm hoạ đáng sợ đối với ngành tình báo trong lịch sử của NSA. Ấy vậy mà người đàn ông khốn khổ này đang phải đơn thương độc mã gánh chịu. Chẳng trách lúc nào ông ta cũng có vẻ như sáp nồ tung ra vậy.
- Trong những trường hợp thế này - Susan lên tiếng - Tôi nghĩ có lẽ ngài nên gọi cho giám đốc.
Strathmore lắc đầu, một giọt mồ hôi nhỏ xuống bàn.
- Tôi sẽ không thông báo cho giám đốc về một cuộc khủng hoảng mà ông ta không làm gì được. Để tránh làm hại đến sự an toàn của ông giám đốc hay làm rò rỉ thông tin này.
Susan biết rằng ngài chỉ huy đã đúng. Ngay cả trong những giờ phút khó khăn như thế này, Strathmore vẫn giữ được tỉnh táo.
- Ngài đã nghĩ tới việc gọi điện cho Tồng thống chưa?
Strathmore gật đầu.
- Có. Tôi vừa quyết định không làm điều đó.
Susan hiểu. Cấc quan chức hàng đầu của NSA có quyền giải quyết các trường hợp tình báo được xác nhận là khấn cấp mà không phải thông báo cho cơ quan hành pháp. NSA là tồ chức tình báo duy nhất của Mỹ được hưởng quyền miễn hoàn toàn tất cả các hình thức giải trình trách nhiệm trước Toà án Liên bang.
Strathmore thường tận dụng đặc quyền này để tự mình giải quyết các công việc.
- Thưa sếp! Việc này quá phức tạp và không thể giải quyết một mình. Ngài cần phải tìm ai đó để cùng giải quyết.
- Susan, sự tồn tại của Pháo Đài Số liên quan mật thiết đến tương lai của NSA. Tôi không hề có ý định báo cáo với Tổng thống khi giám đốc đi vắng. Chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng, và tôi sẽ tự giải quyết - ông trầm ngâm đưa mắt nhìn cô - Tôi là phó giám đốc ở đây - Một nụ cười mệt mỏi hiện lên khuôn mặt ông - Và ngoài ra, tôi không phải đơn thương độc mã. Tôi đã có cô - Susan Fletcher - làm hậu thuẫn.
Vào giây phút đó. Susan chợt thấy vô cùng kính trọng Strathmore. Mười năm qua, dù thuận lợi hay khó khăn, ông luôn là người chỉ đường vạch lối cho cô. Vững vàng, kiên định, trước sau như một. Sự tận tuy của ông làm cô thấy kinh ngạc - lòng trung thành không gì lay chuyển đối với những nguyên tắc, đối với Tổ quốc và lý tưởng. Dù chuyện gì xảy ra, chỉ huy Trevor Strathmore luôn là ngọn đuốc soi đường trong một thế giới đầy rẫy những quyết định dường như không thể.
- Cô đứng về phía tôi, đúng không?
Susan mỉm cười:
- Vâng, thưa ngài. Một trăm phần trăm.
- Tốt. Bây giờ chúng ta tiếp tục công việc được chứ?
Đây không phải là lần đầu David Becker đi dự tang lễ và chứng kiến xác chết, nhưng lần này có một cái gì đó khiến anh cảm thấy vô cùng khó chịu. Đây không phải là một xác chết được vận bộ đồ sang trọng, sạch sẽ nằm yên nghỉ trong chiếc quan tài bọc lụa. Cơ thể này trần truồng, nằm chềnh ềnh trên chiếc bàn nhôm. Anh ta chết mà không nhắm mắt. Thay vì đó, cặp mắt nhìn thẳng lên sàn nhà lộ vẻ tiếc nuối và kinh hoàng.
- Tư trang của anh ta đâu - Becker hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha khá sõi.
- Kia kìa - viên trung uy hé môi trả lời, để lộ ra hàm răng vàng khè. Anh ta chỉ đống quần áo và những tư trang cá nhân khác.
- Tất cả đây sao?
- Đúng thế!
Becker hỏi xin một cái thùng giấy. Viên trung uý vội vã đi tìm.
Đó là tối thứ Bảy, và nhà xác Seville đã sắp tới giờ đóng cửa.
Viên trung uý trẻ được lệnh trực tiếp của giám đốc phòng xác dẫn đường cho Becker - dường như vị khách người Mỹ này là người rất có vai vế.
Becker đưa mắt nhìn đống quần áo. Có một hộ chiếu, một cái ví một cặp kính mắc vào chiếc giầy. Còn có thêm một miếng vải len thô mà người bảo vệ đã lấy từ khách sạn nơi người đàn ông này đã ở.
Becker được hướng dẫn khá rõ ràng, cụ thể: Không sờ vào bất kì cái gì. Không đọc một cái gì. Chỉ mang tất cả chúng về Mỹ. Mọi thứ. Không được để sót một thứ gì.
Becker quan sát đống quần áo, cau mày nhăn nhó. NSA định làm gì với đống rác rưởi này chứ?
Viên trung uý trẻ tuổi mang lại về một chiếc hộp nhỏ, và Becker nhanh chóng nhét quần áo vào trong.
Anh ta chọc vào chân tử thi và hỏi:
- Quienes? Gã này là ai?
- Không biết.
- Trông giống người Trung Quốc.
Người Nhật chứ, Becker nghĩ.
- Tội nghiệp gã. Đau tim à?
Becker gật đầu lơ đãng.
- Tôi thấy họ nói vậy - Viên trung uý thở dài, lắc đầu đầy vẻ cảm thông - Nắng ở Seville rất khắc nghiệt. Ngày mai khi đi ra ngoài, anh hãy cẩn thận nhé!
- Cảm ơn! Nhưng tôi sẽ về nhà luôn.
- Anh vừa mới đến cơ mà - Viên trung uý vô cùng ngạc nhiên.
- Tôi biết, nhưng người đàn ông mua vé máy bay cho tôi đang chờ những vật này.
Viên trung uý dường như thấy bị xúc phạm theo đúng kiểu người Tây Ban Nha.
- Ý anh là anh sẽ không chiêm ngưỡng Seville sao?
- Năm ngoái tôi đã đến đây rồi. Quả là một thành phố xinh đẹp. Tôi rất thích ở lại.
- Vậy anh đã thăm La Girilda chưa?
Becker gật đầu. Thực ra anh chưa bao giờ đặt chân lên toà tháp của người Marốc cổ xưa này, nhưng anh đã nhìn thấy nó.
- Thế còn Alcazar?
Becker vừa gật đầu vừa nhớ lại buổi tối anh được thưởng thức điệu nhạc Flamenco của Pacode Lucia ở sân, dưới ánh sao hiền dịu ở một pháo đài được xây từ thế kỷ XIX. Anh ước giá mà đã gặp Susan từ ngày ấy.
- Và tất nhiên cả Christopher Columbus nữa cũng ở đó! - anh thanh niên tươi cười - Ông ấy được chôn cất tại nhà thờ của chúng tôi.
Becker ngửng lên.
- Thật không? Tôi tưởng người ta lưu giữ thi hài của Columbus ở Cộng hoà Domini chứ?
- Chúa ơi! Đồn nhảm đấy! Thi hài của Columbus hiện đang được lưu giữ ở đây, trên đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp này. Tôi tưởng anh nói anh đã đi học đại học.
Becker nhún vai.
- Chắc tôi đã để lỡ giờ giảng đó.
- Nhà thờ Tây Ban Nha rất tự hào được bảo quản thi hài của ông ấy.
Nhà thờ Tây Ban Nha. Berker biết ở Tây Ban Nha chỉ có một kiểu nhà thờ duy nhất - đó là nhà thờ của người theo đạo Thiên chúa giáo La mã. Nhà thờ Thiên chúa giáo La mã ở đây thậm chí còn hùng mạnh hơn cả ở thành phố Vantican.
- Tất nhiên chúng tôi không được vinh dự bảo quản - viên trung uý nói thêm - Chỉ một phần thôi.
Becker ngừng xếp đồ, nhìn chằm chằm viên trung uý. Chỉ một phần thôi sao? Anh cố nhịn cười.
- Chỉ một phần thôi sao?
Người sĩ quan gật đầu đầy vẻ tự hào.
- Vâng. Khi nhà thờ lưu giữ thi hài của một người vĩ đại như thế, họ tấn phong ông là thánh và chia sẻ thi hài đó cho các nhà thờ khác vì vậy mà ai cũng có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp đặc biệt của những nhà thờ này.
- Và ở đây các anh có… - Becker cố nén cười.
- Ô! Đó là một phần rất quan trọng! Không giống như việc chúng tôi có một giẻ xương sườn hay một đốt ngón tay như những nhà thờ khác ở Galicia. Anh nên ở lại đây để chiêm ngưỡng.
Becker gật đầu cho phải phép.
- Có thể trên đường về tôi sẽ ghé qua.
- Tiếc quá - Viên trung uý thở dài. Đến tận bình minh nhà thờ mới mở cửa.
- Thế thì lần khác vậy - Becker mỉm cười, nhấc chiếc hộp lên.
- Có lẽ tôi nên đi. Máy bay đang chờ tôi - Nói xong, anh đưa mắt nhìn căn phòng lần cuối.
- Anh có muốn tôi đưa đến sân bay không? Tôi có xe môtô Guzzi ở ngoài cửa.
- Ồ không cảm ơn. Tôi sẽ đi ta-xi.
Becker đã từng lái xe môtô một lần khi anh còn là sinh viên, và suýt chết. Từ đó trở đi, anh không có ý định đi môtô thêm một lan nào nữa, bất kể do ai cầm lái.
- Cho dù anh nói gì đi chăng nữa - viên trung uý vừa nói vừa bước về phía cửa ra vào - Tôi cũng phải tắt đèn.
Becker vòng tay ôm chiếc thùng giấy. Mình đã có hết mọi thứ chưa nhỉ? Anh nhìn lần cuối vào xác chết đang nằm trên bàn. Dưới ánh đèn huỳnh quang, một thân hình trần như nhộng, không một mảnh vải che thân lồ lộ trước mắt anh. Đôi tay biến dạng đã thu hút ánh mắt của Becker. Anh cúi xuống nhìn nó chằm chằm.
Viên trung uý tắt đèn, căn phòng chìm vào bóng tối.
- Khoan đã!
- Bật đèn lên! - Becker ra lệnh.
Đèn nhấp nháy rồi sáng trở lại.
Becker đặt chiếc hộp xuống sàn và tiến lại gần xác chết. Anh cúi xuống và nhìn không chớp mắt vào cánh tay trái của người đàn ông xấu số.
Viên trung uý nhìn theo Becker, nhận xét:
- Rất xấu, đúng không?
Nhưng cái mà Becker chú ý đến không phải là việc cánh tay bị biến dạng. Anh đã phát hiện ra một thứ khác. Quay sang viên trung uý, anh nói:
- Có chắc là mọi thứ đều ở trong hộp chứ?
Người trung uý gật đầu.
- Vâng. Đúng thế.
Becker chống tay vào hông. Một lát sau anh nhặt chiếc hộp lên, mang nó quay lại, và đặt phịch xuống đất. Rất cẩn thận anh giũ tung đống quần áo ra. Sau đó anh dốc ngược đôi giày xuống rồi bóp nó như thể là đang cố gắng vất bỏ một hòn sỏi trong giầy ra.
Sau khi làm xong lần thứ hai, anh bước lại chỗ viên trung uý, cau mày:
- Có chuyện gì chăng?
- Đúng thế - Becker nói.
- Chúng ta đã để sót một thứ gì đó…
Chương 13
Tokugen Numataka đang ở văn phòng sang trọng của mình trên tầng cao nhất của một toà nhà chọc trời ở Tokyo. Tất cả nhân viên và đối thủ cạnh tranh đều biết rõ ông ta, một sakuta same - một con cá mập nguy hiểm. Trong vòng ba thập kỷ qua, ông ta luôn vượt trội so với tất cả các đối thủ cạnh tranh ở Nhật Bản; và bây giờ sắp trở thành một người khổng lồ trên thị trường thế giới.
Ông ta đang hoàn tất cuộc làm ăn lớn nhất trong đời - một cuộc làm ăn có thể tạo dựng tương lai cho Tập đoàn Numatech trở thành một Microsoft của tương lai. Mạch máu của ông sôi lên như có thuốc kích thích. Thương trường là chiến trường - Và chiến trường thì luôn sôi động.
Mặc dù ba hôm trước, Tokugen Numataka nghi ngờ về cuộc gọi đó, nhưng hôm nay ông biết đó chính là sự thật. Tự dưng ông ta được món hời trên trời rơi xuống. Chúa đã chọn ông ta.
***
- Tôi có một phiên bản chìa khoá giải mã của Pháo Đài Số - Một giọng Mỹ - Ông có muốn mua không?
Numataka suýt bật cười thành tiếng. Ông ta biết đó là một âm mưu. Tập đoàn Numatech đã bỏ ra một khoản tiền khồng lồ để có được thuật toán mới của Ensei Tankado, và bây giờ một đối thủ cạnh tranh với Numatech đang giở trò, hòng biết được số tiền mà Numatech trả cho cuộc đấu giá này.
- Anh có chìa khoá giải mã - Numataka giả vờ quan tâm.
- Tôi có. Tôi là North Dakota.
Numataka nén cười. Ai mà chẳng biết North Dakota. Tankado đã nhiều lần tiết lộ với cánh báo chí về một cộng sự bí mật.
Tankado quả là rất khôn ngoan khi có một người cộng sự, bởi vì ngay cả ở Nhật Bản, giới kinh doanh cũng sẵn sàng giở đủ mọi trò đê tiện. Ensei Tankado không thể an toàn. Chỉ cần một hành động thái quá của một hãng phần mềm đang khao khát có chìa khoá giải mã, ngay lập tức nó sẽ được công khai, và không một hãng phần mềm nào trên thế giới không bị tổn thất.
Numataka hít một hơi thuốc xì gà Umani và định chơi xỏ lại.
- Anh đang muốn bán chiếc chìa khoá giải mã? Thú vị đây. Thế Ensei Tankado có ý kiến gì không?
- Lòng trung thành của tôi không dành cho ngài Tankado. Ông ấy thật là ngốc vì đã tin tưởng tôi. Chiếc chìa khoá giải mã này đáng giá gấp hàng trăm lần cái giá mà tôi được trả để giữ nó cho ông ta.
- Tôi rất tiếc - Numataka nói - Chỉ riêng chiếc chìa khoá giải mã của anh thì chẳng có nghĩa lý gì với tôi. Khi phát hiện ra hành động của anh, Tankado chỉ việc công bố phiên bản mà anh ta giữ, và nó sẽ tràn ngập trên thị trường.
- Ông sẽ nhận được cả hai chiếc - giọng nói đầu dây bên kia lên tiếng - Của Tankado và cả của tôi..
Numataka bịt ống nghe và cười phá lên. Ông ta không thể không hỏi:
- Anh muốn bao nhiêu cho cả hai chiếc chìa khoá?
- Hai mươi triệu đôla Mỹ.
Hai mươi triệu đôla Mỹ. Gần bằng cái giá mà Numataka đã đưa ra trong cuộc đấu giá.
- Hai mươi triệu? - Ông ta giả vờ thở kinh ngạc - Điên rồ!"
- Tôi đã trông thấy thuật toán đó. Tôi cá là nó đáng giá như thế.
Mẹ kiếp, Numataka nghĩ. Nó đáng giá gấp mười lần số tiền đó ấy chứ.
- Nhưng thật không may - Ông ta nói giọng mệt mỏi vì trò đùa này - Cả tôi và anh cùng biet là ngài Tankado sẽ không bao giờ tán thành việc này. Hãy nghĩ đến những hậu quả nếu vụ việc này được đưa ra pháp luật.
Người gọi ngập ngừng:
- Thế nếu ngài Tankado không còn sống nữa?
Numataka suýt cười phá lên, nhưng lại gật đầu đầy quyết đoán:
- Nếu Tankado không còn sống nữa - Numataka suy nghĩ - Thì tôi và anh sẽ có một cuộc mua bán.
- Tôi sẽ liên lạc lại! - giọng nói lên tiếng, rồi máy bị cúp.
Becker cúi nhìn xác chết. Thậm chí nhiều giờ sau khi chết, gương mặt của một người châu Á này vẫn hằn các vệt hồng hồng do bị cháy nắng. Các phần khác đều tái nhợt, xám xịt, trử một phần vết thâm tím trên ngực anh ta.
Có lẽ là CPR (phương pháp hồi sức cho tim), Becker ngẫm nghĩ. Đáng tiếc là không có tác dụng.
Anh lại tiếp tục nghiên cứu đôi bàn tay tử thi. Lần đầu tiên anh gặp đôi bàn tay thế này. Mỗi bàn tay chỉ gồm ba ngón xẹo và vặn xoắn. Tuy nhiên, sự dị dạng này không phải là cái mà Becker để mắt tới.
- Hừm, tôi sẽ… - Tử góc bên kia vườn, viên trung uý làu bàu - Anh ta là người Nhật đấy, không phải người Trung Quốc đâu.
Becker ngẩng đầu lên. Anh ta đang cầm hộ chiếu của người đã chết.
- Tốt hơn là anh không nên xem nó - Becker yêu cầu. Đừng, đừng đọc bất cứ thử gì.
- Ensei Tankado… sinh tháng Một…
- Làm ơn đi mà - Becker lịch sự nói - Hãy để nó lại chỗ cũ.
Viên sĩ quan nhìn chằm chằm vào quyển hộ chiếu một hồi rồi ném nó về đống quần áo.
- Gã này có chiếc visa loại 3. Anh ta có lẽ đã ở đây hàng năm trời rồi.
Becker lấy bút chọc vào tay nạn nhân.
- Có thể anh ta đã sống ở đây.
- Không. Tuần trước anh ta mới đến đây.
- Có thể anh ta đang chuẩn bị chuyến đến đây - Becker sẵng giọng.
- Vâng, có thể lắm. Tuần đầu bận rộn nên say nắng rồi đau tim. Khổ thật.
Becker phớt lờ lời nói của viên sĩ quan và quan sát kỹ bàn tay.
- Anh có cho rằng anh ta đã không đeo bất kì một loại trang sức nào khi chết không?
Viên sĩ quan ngấng đầu thảng thốt.
- Trang sức ư?
- Đúng thế. Hãy nhìn đây!
Viên sĩ quan tiến lại gần.
Da tay trái của Tankado chứng tỏ rằng anh ta đã bị cháy nắng, mọi chỗ trừ một vòng thịt nhỏ quanh ngón út.
Becker chỉ vào vòng thịt tái nhợt.
- Hãy nhìn này. Tại sao chỗ này không bị cháy nắng? Có vẻ như là anh ta đã đeo một chiếc nhẫn.
Viên sĩ quan tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên.
- Một chiếc nhẫn ư? - Đột nhiên anh ta lúng tứng. Sau một hồi nghiên cứu ngón tay của tử thi, anh ta thẽ thọt thốt lên - Lạy Chúa! Câu chuyện này có thật sao?
Becker đột nhiên thấy rất nôn nao.
- Anh vừa nói cái gì?
Viên sĩ quan lắc đầu.
- Lẽ ra tôi phải nói từ trước… nhưng tôi tưởng gã đó chỉ là một gã gàn gàn dở dở.
- Gã nào - Becker nghiêm mặt.
- Gã đã gọi điện trong trường hợp rất khẩn cấp. Một khách du lịch người Canada nào đó. Luôn mồm nhắc đến chiếc nhẫn. Lão nói tiếng Tây Ban Nha dở kinh khủng.
- Ông ta nói rằng ngài Tankado có đeo một chiếc nhẫn?
Viên trung uý gật đầu, lôi từ túi áo ra một điếu Ducado, nhìn thấy biển cấm hút thuốc lá, anh ta do dự rồi cuối cùng vẫn châm lửa.
- Lẽ ra tôi nên nói một điều gì đó, nhưng thằng cha đó điên rồ không chịu được.
Becker nhăn mặt. Những lời nói của Strathmore vang vọng trong tai anh: "Tôi muốn tất cả mọi thứ Ensei Tankado mang theo bên mình. Tất cả. Không để sót bất kì một cái gì, thậm chí là một mẩu giấy thừa bé tẹo".
- Chiếc nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker hỏi.
Viên sĩ quan thả một hơi thuốc:
- Đó là một câu chuyện dài.
Có một điều gì đó mách bảo Becker rằng đây không phải là một tin tốt lành.
- Dù gì anh cũng phải kể cho tôi.
Chương 15
Susan Fletcher ngồi trước máy ở Node 3. Node 3 là một phòng kín, cách âm, khuất sau tầng một, nơi các nhân viên mật mã làm việc. Một lớp kính dày hai inch với một mặt cong cho phép các nhân viên mật mã có được bức tranh toàn cảnh đại sảng trung tâm Crypto, đồng thời ngăn không cho ai nhìn từ ngoài vào trong phòng.
Ở phía cuối Node 3 đặt mười hai chiếc máy vi tính được đặt quây thành hình tròn. Mục đích là để khuyến khích các nhân viên mật mã trao đối ý kiến, và để nhắc rằng họ là một phần của một êkíp lớn - giống như là các hiệp sĩ giải mã ngồi Bàn Tròn.
Vậy mà, mỉa mai thay, ngay trong Node3 vẫn có những điều được coi là bí mật.
Được mệnh danh là cái cũi. Node 3 không giống với tất cả các phòng khác của Crypto, được thiết kế để đem lại cảm giác khoan khoái giống như ở nhà, những chiếc thảm trải nhà sang trọng, hệ thống âm thanh công nghệ cao, chiếc tủ lạnh chất đầy đồ ăn, thức uống, một gian bếp nhỏ, sân bóng rổ Nerf. Lãnh đạo NSA am hiểu rất tường tận về Crypto, đừng có bao giờ đổ vài tỷ đô la vào một chiếc máy vi tính giải mã nếu không dụ được những người thông minh nhất trong những người thông minh theo dõi và sử dụng nó.
Nhón chân trên đôi giày Salvatore Ferragamo đế bằng, Susan rón rén đặt chân lên những tấm thảm dày cộp để bước ra ngoài.
Nhưng viên chức nhà nước được hưởng lương cao đều được khuyến khích không nên khoa trương sự giàu có của mình. Điều này chẳng bao giờ làm Susan phải bận tâm - cô luôn cảm thấy hài lòng với căn hộ nhỏ bé, chiếc ô tô hiệu Volvo và chiếc tủ quần áo khiêm nhường. Nhưng giày dép lại là một vấn đề khác. Thậm chí hồi còn là sinh viên, cô sẵn sàng mua những đôi đắt nhất chỉ đơn giản chỉ vì cô thích chúng.
Chân đau thì chẳng thế mơ leo lên được đến trời, dì cô đã từng nói thế. Và một khi đã đến được nơi cần đễn, chúng ta thực sự được mãn nguyện.
Susan cho phép mình nghỉ một lúc rồi lại lao vào công việc. Cô tìm phần mềm dò tìm và chuẩn bị định dạng nó, mắt liếc nhìn địa chỉ e-mail mà Strathmore đã đưa. NDAKOTA@ARA.ANON.ORG
Người đàn ông tự xưng là North Dakota có một địa chỉ thư điện tử nặc danh, nhưng Susan chắc chắn nó sẽ nhanh chóng không còn là nặc danh nữa. Phần mềm dò tìm sẽ xâm nhập vào ARA, gửi đến North Dakota, rồi sau đó sẽ gửi lại những thông tin liên quan đến địa chỉ Internet thật của anh ta.
Nếu như mọi thứ suôn sẻ, phần mềm sẽ nhanh chóng xác định được vị trí của North Dakota, và Strathmore sẽ có thể lấy được chìa khoá giải mã. Khi David tìm ra phiên bản của Tankado thì cả hai chiếc chìa khoá có thể sẽ đều bị phá huỷ, quả bom hẹn giờ của Tankado sẽ trở nên vô dụng như một khối thuốc nổ không có ngòi.
Susan kiểm tra hai lần địa chỉ hiện ra trước mặt cô và nhập thông tin vào phần kiểm tra dữ liệu đúng. Cô thích thú cười thầm khi thấy Strathmore không thể tự gửi phần mềm dò tìm này được.
Rõ ràng là ông ta đã gửi đi hai lần, nhưng cả hai lần đều nhận được địa chỉ e-mail của Tankado chứ không phải của North Dakota. Đó là một sai lầm rất dễ hiểu; có thể Strathmore đã thay đổi trường dữ liệu, vì vậy phần mềm dò tìm đã tìm không đúng account cần tìm.
Susan nhập xong thông tin một lát thì chiếc máy vi tính kêu lên một tiếng bíp.
PHẦN MÊM DÒ TÌM ĐÃ ĐƯỢC GỬI.
Bây giờ thì chỉ việc ngồi chờ.
Susan bỗng nhiên thở dài, cô thấy có lỗi vì đã phản ứng quá mạnh đối với chỉ huy của mình. Nếu có một ai đó đủ năng lực để một mình giải quyết vấn đề, thì người đó không thể là ai khác ngoài Trevor Strathmore. Ông thực sự là một thiên tài trong việc thu phục những người thách thức mình.
Sáu tháng trước, khi EFF khui ra vụ một tàu ngầm mà NSA dùng để cài máy nghe trộm vào hệ thống đường dây điện thoại dưới nước, Strathmore đã khôn ngoan tung thông tin rằng chiếc tàu ngầm đó thực ra đang chở chất thải độc hại phi pháp. Ngay lập tức, EFF và các nhà bảo vệ đại dương đã mất nhiều thời gian tranh luận xem thông tin nào là đúng đến nỗi cuối cùng các phương tiện thông tin đại chúng trở nên mệt mỏi và bỏ qua toàn bộ vụ việc. Trước bất kỳ hành động nào, Strathmore đều lên kế hoạch kĩ lưỡng, tỉ mỉ.
Cũng giống những nhân viên khác của NSA, Strathmore đã sử dụng một phần mềm do NSA xây dựng, được gọi là BrainStorm- một phần mềm chương trình máy tính có khả năng nêu ra tất cả các khả năng diễn biến của sự việc nhằm bảo mật sự tồn tại của TRASTLR.
BrainStorm là tên một thử nghiệm tình báo nhân tạo mà các tác giả của nó đã dựa trên nguyên lý nhân quả. Lúc đầu nó được chế tạo để phục vụ cho các cuộc vận động chính trị như là một phương pháp tạo ra các mô hình xử lý thông tin trong "một môi trường chính trị cụ thể". Được nạp một khối lượng dữ liệu khổng lồ, chương trình này đã tạo ra một môi trường ảo - một mô hình giả thuyết về sự tương tác giữa các biến cố chính trị, bao gồm các nhân vật chính trị lỗi lạc, nhân viên của họ, những mối quan hệ cá nhân với nhau, những vấn đề nóng bỏng, những động cơ cá nhân được tính toán dựa trên những tiêu chí khác nhau như giới tính, tính cách, sắc tộc, tiền bạc và quyền lực. Sau đó người sử dụng có thể nhập một sự kiện mang tính giả thuyết vào và BrainStorm sẽ dự đoán những ảnh hưởng của sự kiện đó đối với môi trường này.
Là một thiết bị TFM (Time-Line, Flowchart, Mapping) nó là một công cụ hữu ích để vạch ra những chiễn lược phức tạp và dự đoán những điểm yếu của chiến lược đó. Và đó chính là lý do tại sao chỉ huy Strathmore thường xuyên sử dụng BrainStorm. Susan cho rằng bên trong máy tính của Strathmore có thể có những kế hoạch có khả năng làm biến đổi cả thế giới.
Mình đã không phải với ông ấy, Susan tự nhủ.
Tiếng mở cửa Node 3 làm cô giật mình.
Strathmore thình lình xuất hiện.
- Susan! David vừa gọi điện về. Đã có một manh mối.