Kim Dung (金庸 Jin Yong; sinh vào năm 1924) là một trong những nhà văn ảnh hưởng nhất của văn học Trung Quốc hiện đại, và cũng là người đồng sáng lập của nhật báo Hồng Kông Minh Báo.
Từ năm 1955 đến 1972 ông đã viết tổng cộng 15 cuốn tiểu thuyết. Sự nổi tiếng của những bộ truyện đó khiến ông được coi là người viết tiểu thuyết võ hiệp thành công nhất. 300 triệu bản in (chưa tính một lượng rất lớn những bản lậu) đã đến tay độc giả của Trung Hoa đại lục, Hồng Kông, Đài Loan, và đã được dịch ra các thứ tiếng Việt, Hàn, Nhật, Thái, Anh, Pháp, Indonesia. Tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình, trò chơi điện tử.
Tên ông được đặt cho tiểu hành tinh 10930 Jinyong (1998 CR2).
Tiểu sử
Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (查良鏞 Cha Lieng Yung, Louis Cha), sinh vào tháng 2 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá. Ông cố Tra Thận Hành là nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút, Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau sinh sáu đứa con, Kim Dung là con thứ hai.
Thuở nhỏ Kim Dung là một đứa trẻ thông minh, hoạt bát, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là “Tra thị tàng thư” nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn với ông từ rất bé.
Sáu tuổi, ông vào trường tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất siêng học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé có Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ.
Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này. Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩnh.
Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ư châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Cuộc du hành của Alice tuy đem lại tai hại, nhưng đă cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo, mà không biết tác giả chỉ là một học sinh.
Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ.
Tại học viện chính trị Trung Ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh – Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi.
Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in, tờ báo đầu tiên của ông xem như thất bại.
Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp.
Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.
Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên của ông rất xinh đẹp.
Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đ́nh. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn.
Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến… dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ… diễn xuất. Được nhiều thành công đáng kể.
Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện vơ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông, nghĩa là "cái chuông lớn". Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ư đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích Huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa.
Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua những bài xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Không như một số tờ báo do ông sáng lập khác, Minh Báo theo ông đến khi kết thúc sự nghiệp.
Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.
Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.
Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.
Truyện Kim Dung ở Việt Nam
Dịch giả đầu tiên dịch tác phẩm Kim Dung tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản dịch Cô gái Đồ Long, in trên báo Đồng Nai vào năm 1961. Trên thực tế, trước đó, đã có một số bản dịch như Bích Huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, đến bản dịch Cô gái Đồ Long ra đời đã thực sự tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung tại miền Nam kéo dài mãi đến tận năm 1975. Hai dịch giả truyện Kim Dung nổi tiếng tại Việt Nam thời kỳ này là Hàn Giang Nhạn và Thương Lan. Một số nhà bình luận Kim Dung cũng nổi lên trong thời kỳ này như Đỗ Long Vân với loạt bài "Vô Kỵ giữa chúng ta", theo đó, nhiều nhà văn nổi tiếng cũng tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý.
Sau 1975, các tác phẩm của Kim Dung bị Nhà nước liệt vào danh sách cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân... với lý do "Văn hóa đồi trụy phản động". Lệnh cấm này duy trì mãi đến năm 1990. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với ảnh hưởng của phong trào Đổi mới, chính quyền đã bớt dần sự gắt gao với thể loại truyện võ hiệp. Một số phim và sách võ hiệp được phát hành. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet đã giúp cho nhiều người có cơ hội đọc sách Kim Dung qua mạng.
Nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên giới thiệu sự trở lại của tác phẩm Kim Dung với bạn đọc Việt Nam sau 1975 với tuyển tập "Kim Dung giữa đời tôi". Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên có bản quyền và phát hành tất cả các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung từ sau 1975. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua toàn bộ bản quyền tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Các bản văn được mua đều là những bản được chính Kim Dung hiệu đính và chỉnh sửa mới nhất. Kể từ tháng 6 năm 2006, toàn bộ tác phẩm của Kim Dung được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất.
Các dịch giả truyện Kim Dung được đánh giá cao trong thời kỳ này có Cao Tự Thanh và Vũ Đức Sao Biển. Ở hải ngoại, dịch giả Nguyễn Duy Chính cũng được xem là dịch giả có chất lượng dịch tốt nhất với hàng loạt bản dịch của ông được lưu truyền trên Internet.
Các giải thưởng và vinh dự
Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự.
Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Légion d'honneur năm 1982, Commandeur de l'Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.
Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge
Các tác phẩm
Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo.
Các tác phẩm
Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo. 1. Thư kiếm ân cừu lục (1955) (書劍恩仇錄)
2. Bích huyết kiếm (1956) (碧血劍)
3. Xạ điêu anh hùng truyện (1957) (射雕英雄傳)- tại Việt Nam được dịch thành Anh hùng xạ điêu.
4. Tuyết sơn phi hồ (1959) (雪山飛狐)
5. Thần điêu đại hiệp hay Thần điêu hiệp lữ (1959) (神雕俠侶).
6. Phi hồ ngoại truyện (1960) (飛狐外傳)
7. Bạch mã khiếu tây phong (1961) (白馬嘯西風)
8. Uyên ương đao (1961) (鴛鴦刀)
9. Ỷ Thiên Đồ Long ký (1961) (倚天屠龍記)
10. Liên thành quyết bản dịch của Vô Nại tiên sinh và của Hàn Giang Nhạn (1963) (連城訣)
11. Thiên long bát bộ bản cũ và bản mới (1963) (天龍八部)
12. Hiệp khách hành (1965) (俠客行)
13. Tiếu ngạo giang hồ bản cũ, năm (1967) (笑傲江湖)
14. Lộc Đỉnh ký bản cũ và bản mới (1969-1972) (鹿鼎記)
15. Việt nữ kiếm (truyện ngắn, 1970)
3 truyện Anh hùng xạ điêu, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên đồ long ký tạo thành Xạ điêu tam bộ khúc, đọc theo lần lượt. Thiên Long bát bộ cũng có thể coi là mở đầu của bộ ba cuốn truyện trên. Tuyết sơn phi hồ và Phi hồ ngoại truyện cũng đi đôi với nhau vì có cùng các nhân vật.
14 chữ đầu tựa đề sắp thành hai câu thơ
Sau khi Kim Dung hoàn thành các tác phẩm của mình, một người bạn của ông là Nghê Khuông sắp xếp 14 chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết tạo thành hai câu thơ thất ngôn dễ nhớ:
Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc
Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên
Dịch nghĩa là: Tuyết bay đầy trời bắn hươu trắng
Truyện cười thần hiệp tựa uyên xanh
Chủ nghĩa yêu nước Trung Quốc là đề tài chủ yếu trong các tác phẩm của Kim Dung. Ông nhấn mạnh đến sự độc lập tự chủ của người Hán, và nhiều tác phẩm của ông là bối cảnh khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những người phương bắc như Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ, Mãn Châu. Nhưng dần dần chủ nghĩa yêu nước của ông cũng bao gồm các dân tộc thiểu số tạo thành nước Trung Quốc bây giờ. Kim Dung đặc biệt khâm phục các
đặc điểm của người Mông Cổ, Mãn. Trong Anh hùng xạ điêu, hình tượng của Thành Cát Tư Hãn và các con của ông là những vị tướng tài giỏi đứng lên chống lại sự thối nát của triều đại Tống. Hoặc như trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung miêu tả vua Khang Hy nhà Thanh là một người có lòng trắc ẩn và có năng lực. Trong Thiên long bát bộ, Kiều Phong mặc dù là người Khiết Đan nhưng từ nhỏ đã được người Hán nuôi dưỡng. Chính điều đó đã khiến Kiều Phong ngăn cản vua Liêu tiến quân.
Các tác phẩm của ông rõ ràng đã tỏ lòng tôn trọng và tán thành các giá trị truyền thồng Trung Hoa, đặc biệt là các quan niệm Khổng giáo như là mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, anh em, sư phụ và đồ đệ, các huynh đệ. Kim Dung cũng nhấn mạnh vào các giá trị truyền thống như là danh dự và thể diện.
Cuối cùng ông phá vỡ các phép tắc đó trong tác phẩm cuối cùng Lộc Đỉnh ký. Vi Tiểu Bảo là một nhân vật chính nhưng không phải là anh hùng, mà lại là một kẻ tham lam, lười biếng.xảo quyệt
Thời gian xảy ra trong truyện
Năm - Tiểu thuyết:
T kỉ 6 TCN - Việt Nữ kiếm
T kỉ 11 - Thiên long bát bộ
T kỉ 12 - Anh hùng xạ điêu
T kỉ 13 - Thần điêu đại hiệp
T kỉ 14 - Ỷ thiên Đồ Long ký
T kỉ 16 - Tiếu ngạo giang hồ, Hiệp khách hành
T kỉ 17 - Bích huyết kiếm, Lộc Đỉnh ký
T kỉ 18 - Thư kiếm ân cừu lục, Phi hồ ngoại truyện, Tuyết sơn phi hồ
Các nhân vật trong truyện Kim Dung
Truyện Kim Dung có rất nhiều nhân vật đều được khắc họa theo lối ấn tượng, mỗi người có một tính cách riêng biệt, tính cách ấy nhiều khi được thể hiện lên tên hay ngoại hiệu của nhân vật, ví dụ:
• Điền Bá Quang có ngoại hiệu là Giang dương đại đạo Thái hoa dâm tặc Vạn lý độc hành Khoái đao, mười hai chữ ấy mô tả đặc điểm của Điền Bá Quang và tài khinh công của y, khoái đao là món vũ khí y thường xài.
• Hoàng Dược Sư ngoại hiệu Đông Tà, thì y có cái vẻ tà quái khác thường, tương tự với Âu Dương Phong ngoại hiệu là Tây Độc, là một tay độc địa chuyên sử dụng độc dược hại người.
Ngược lại, có những nhân vật đặt ngoại hiệu cho mình không xứng hợp với bản chất: những tên võ công thấp kém, danh tiếng nhỏ mọn thường đặt cho mình những ngoại hiệu nghe rất to tát.
Về bản chất, các nhân vật (kể cả các bang hội) chia rõ ra hai phe chính - tà trên danh nghĩa. Nhưng sự thật ai cũng thấy là những người thuộc về phe tà không hẳn là một phường gian ác, mà những kẻ phe chính cũng không nhuần là nhân nghĩa. Có những nhân vật ra mặt đức độ rất lâu, đến một lúc nào đó lại hiện rõ sự gian ác, tráo trở làm người đọc không khỏi bất ngờ.
Các nhân vật nam chính
Các nhân vật nam chính thường được mô tả từ khi còn nhỏ, cốt truyện tiếp nối các gian nan, thử thách của họ trước khi đạt tới trình độ võ công cao nhất; Trong truyện Kim Dung, những người đạt tới cảnh giới cao nhất của võ học đều là Nam giới, như Tạ Tốn, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Độc Cô Cầu Bại...Những nhân vật Nam cũng là thường đầu mối chính trong các xung đột lớn nhỏ, vì ngoài số ít những kẻ chất phác, Kim Dung thường cho những nhân vật nam tính ham công danh lợi lộc, dẫn đến tàn sát lẫn nhau.
• Trần Gia Lạc: Thư kiếm ân cừu lục
• Viên Thừa Chí: Bích huyết kiếm
• Quách Tĩnh: Anh hùng xạ điêu
• Dương Quá: Thần điêu đại hiệp
• Hồ Nhất Đao: Tuyết sơn phi hồ
• Miêu Nhân Phượng: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện
• Hồ Phỉ: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện
• Trương Thúy Sơn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Trương Vô Kỵ: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Địch Vân: Liên thành quyết
• Tiêu Phong: Thiên long bát bộ
• Đoàn Dự: Thiên long bát bộ
• Hư Trúc: Thiên long bát bộ
• Thạch Phá Thiên: Hiệp khách hành
• Lệnh Hồ Xung: Tiếu ngạo giang hồ
• Vi Tiểu Bảo: Lộc Đỉnh Ký
Các nhân vật nữ chính
Mặc dù nữ nhân vật trong nhiều tác phẩm võ thuật được tạo ra để minh hoạ cho tình yêu của các nhân vật nam, nhiều nhân vật nữ lại là trung tâm của cốt truyện, được miêu tả là những cá nhân không bị lệ thuộc, mạnh mẽ, độc lập, thông minh, và có võ thuật tài giỏi. Ví dụ, Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu' không chỉ là người Quách Tĩnh yêu mến mà còn là một cô gái dí dỏm, thông minh hơn cả chồng mình là Quách Tĩnh. Năng lực trí tuệ của cô cùng với sức mạnh cơ thể của Quách Tĩnh đã bổ sung cho nhau. Hoắc Thanh Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục là một người giỏi võ, một người chị biết che chở, một đứa con có hiếu, và là một người sẵn sàng bảo vệ cho lợi ích của những người thân của cô. Công chúa Hương Hương dù không biết võ thuật nhưng cô đóng vai trò quan trọng trong câu truyện. Cuối truyện, cô tỏ ra không chỉ xinh đẹp mà còn đủ thông minh đế biết được sự thèm muốn của Càn Long. Cô có lòng cam đảm để hi sinh chính mình để bảo vệ giá trị của bộ tộc và cảnh báo Trần Gia Lạc trước những âm mưu của Càn Long. Ân Tố Tố, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược được miêu tả có sự can đảm, quyết tâm và thông minh bằng, nếu không nói là hơn các nhân vật nam khác trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.
Các nữ nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung gồm có:
• Hương Hương công chúa: Thư kiếm ân cừu lục
• Hoắc Thanh Đồng: Thư kiếm ân cừu lục
• Lý Nguyên Chỉ: Thư kiếm ân cừu lục
• Hạ Thanh Thanh: Bích huyết kiếm
• A Cửu (Trường bình công chúa): Bích huyết kiếm
• Hoàng Dung: Anh hùng xạ điêu
• Tiểu long nữ: Thần điêu đại hiệp
• Viên Tử Y: Phi hồ ngoại truyện
• Trình Linh Tố: Phi hồ ngoại truyện
• Miêu Nhược Lan: Tuyết sơn phi hồ
• Ân Tố Tố: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Triệu Mẫn: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Tiểu Chiêu: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Chu Chỉ Nhược: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Thích Phương: Liên thành Quyết
• Thủy Sinh: Liên thành Quyết
• A Châu: Thiên long bát bộ
• A Tử: Thiên long bát bộ
• Vương Ngữ Yên: Thiên long bát bộ
• Mộc Uyển Thanh: Thiên long bát bộ
• Chung Linh: Thiên long bát bộ
• Tiêu Trung Tuệ: Uyên ương đao
• Đinh Đang: Hiệp khách hành
• Bạch A Tú: Hiệp khách hành
• A Thanh: Việt Nữ kiếm
• Nhậm Doanh Doanh: Tiếu ngạo giang hồ
• Nhạc Linh San: Tiếu ngạo giang hồ
• Nghi Lâm: Tiếu ngạo giang hồ
• Song Nhi: Lộc Đỉnh ký
• Tô Thuyên: Lộc Đỉnh ký
• Tăng Nhu: Lộc Đỉnh ký
• Mộc Kiếm Bình: Lộc Đỉnh ký
• Kiến Ninh công chúa: Lộc Đỉnh ký
• A Kha: Lộc Đỉnh ký
Ngũ tuyệt
"Thiên hạ ngũ tuyệt" (Võ Lâm Ngũ Bá) là năm nhân vật được coi như có võ công cao nhất trong Xạ điêu tam bộ khúc. Ở lần gặp thứ nhất Hoa Sơn luận kiếm (chuyện xảy ra trước bộ Anh hùng xạ điêu nhưng được nhắc lại) đã phân định Vương Trùng Dương là người võ công cao nhất. Ngũ tuyệt gồm có:
• Vương Trùng Dương ở trung tâm (Trung Thần Thông)
• Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)
• Âu Dương Phong ở phương Tây (Tây Độc)
• Đoàn Trí Hưng ở phương Nam (Nam Đế)
• Hồng Thất Công ở phương Bắc (Bắc Cái)
Ngoài ra, Lâm Triều Anh và Cừu Thiên Nhận cũng được coi trọng mặc dù vắng mặt trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ nhất.
Lần Hoa Sơn luận kiếm thứ hai, được kể cuối bộ Anh hùng xạ điêu, không phân thắng bại vì Âu Dương Phong đã bị tẩu hỏa nhập ma còn Cừu Thiên Nhận rút lui. Tuy vậy, Chu Bá Thông, sư đệ của Vương Trùng Dương có thể coi là người có võ công giỏi nhất tại thời điểm đó.
Ở lần Hoa Sơn luận kiếm thứ ba, được kể cuối bộ Thần điêu hiệp lữ, không còn Cừu Thiên Nhận và Kim Luân Pháp Vương vì đã chết. Hồng Thất Công và Âu Dương Phong cũng đã mất sau trận kịch đấu bất phân thắng bại. Kết cuộc, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh và Dương Quá thế chỗ Vương Trùng Dương, Hồng Thất Công và Âu Dương Phong trong danh sách ngũ tuyệt:
• Chu Bá Thông ở trung tâm (Trung Ngoan Đồng)
• Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)
• Dương Quá ở phương Tây (Tây Cuồng)
• Nhất Đăng ở phương Nam (Nam Tăng)
• Quách Tĩnh ở phương Bắc (Bắc Hiệp)
Nhất Đăng là pháp hiệu của Đoàn Trí Hưng sau khi thoái vị và trở thành hòa thượng.
Độc Cô Cầu Bại
Độc Cô Cầu Bại là nhân vật độc nhất trong các tác phẩm của Kim Dung. Nhân vật này chưa bao giờ xuất hiện trong tác phẩm, nhưng có võ công tuyệt hảo. Chỉ có tên được nhắc đến trong Anh Hùng Xạ Điêu, Thần điêu đại hiệp,Tiếu ngạo giang hồ, Lộc Đỉnh Ký. Sau này, một số hãng phim cũng có xây dựng phim bộ từ nhân vật này.
Độc Cô Cầu Bại tuy không xuất hiện, nhưng những gì ông để lại cũng đủ làm nên một trường sóng gió. Như ba thanh kiếm giành cho Dương Quá, cộng với con thàn điêu đã giúp Dương Quá sáng tạo ra một pho võ công thượng thặng. Lệnh Hồ Xung qua Phong Thanh Dương học được võ công Độc Cô cửu kiếm mà kiếm pháp của y đã trở thành thiên hạ vô địch thủ (với tiêu chí là vô chiêu thắng hữu chiêu).
Các nhân vật phỏng theo lịch sử
Kim Dung đã phỏng theo nhiều nhân vật lịch sử vào các tác phẩm của mình. Ông tự do thêm các chi tiết hội thoại, hành động mà trong tiểu sử của những nhân vật này không đề cập đến. Ví dụ như Đà Lôi là con út của Thành Cát Tư Hãn xuất hiện là bạn thời thơ ấu của Quách Tĩnh; Vi Tiểu Bảo trở thành bạn của vua Khang Hy
• Hoàn Nhan A Cốt Đả: Thiên long bát bộ
• Gia Luật Hồng Cơ: Thiên long bát bộ
• Thành Cát Tư Hãn: Anh hùng xạ điêu
• Đà Lôi: Anh hùng xạ điêu
• Gia Luật Sở Tài: Thần Điêu hiệp lữ
• Toàn Chân giáo, xuất hiện nhiều trong Xạ Điêu tam bộ khúc, gồm:
o Vương Trùng Dương người sáng lập ra giáo phái Toàn Chân.
o Mã Ngọc, Khâu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền, Đàm Xứ Đoan, Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị: bảy đệ tử của Vương Trùng Dương.
• Hốt Tất Liệt: Thần điêu đại hiệp
• Chu Nguyên Chương: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Trần Hữu Lượng: Ỷ Thiên Đồ Long ký
• Khang Hi: Lộc Đỉnh ký
• Càn Long: Thư kiếm ân cừu lục
• Vương quốc Đại Lý:
o Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự (hay còn gọi là Đoàn Chính Nghiêm): Thiên long bát bộ
o Đoàn Trí Hưng: Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp
Các chiêu thức nổi tiếng
Chiêu thức cũng là một yếu tố quan trọng trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Có những chiêu thức tuy không nói ra nhưng hàm chứa một triết lý sống, ví dụ:
• Chiêu Độc Cô cửu kiếm của Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ. Với tiêu chí vô chiêu thắng hữu chiêu, chỉ có tiến không có lùi. Nó cũng như bản tính của Lệnh Hồ Xung tính tình phóng đãng (vô chiêu) không muốn đi theo tập tục lễ giáo (hữu chiêu), làm việc gì cũng theo ý mình không cần phải e ngại (chỉ có tiến không có thoái).
• Chiêu Hàng Long Thập Bát Chưởng của Cái Bang, là một môn võ công thuần cương, tấn công trực diện, nên chỉ có những người tâm địa ngay thẳng như Kiều Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh... là đạt tới đỉnh cao của nó.
Những chiêu thức nổi tiếng nhất trong truyện Kim Dung có thể kể đến:
• Hàng Long thập bát chưởng là chưởng pháp lừng danh, chỉ truyền cho đệ tử Cái Bang từ 8 túi trở lên và lập nhiều công lớn.
• Dịch Cân kinh là một rèn luyện nội công của phái Thiếu Lâm.
• Thái cực quyền của Trương Tam Phong chưởng môn phái Võ Đang sáng tác.
• Ảm nhiên tiêu hồn chưởng môn võ công của Dương Quá.
• Càn khôn đại nã di, bí kíp nội công thượng thặng của Minh Giáo.
• Quỳ hoa bảo điển - Tịch tà kiếm phổ, là 1 loại võ công nhưng bị biến đổi thành 2 cách luyện, cả 2 cách luyện đều đòi hỏi người luyện phải tự thiến.
• Đả cẩu bổng: môn võ công chỉ giành cho bang chủ Cái Bang.
• Song thủ hổ bác: chiêu thức quái đản của Chu Bá Thông, là thuật phân tâm sao cho 2 bàn tay có thể ra 2 chiêu khác nhau cùng 1 lúc.
• Độc cô cửu kiếm: môn võ của Độc Cô Cầu Bại, được Phong Thanh Dương truyền lại cho Lệnh Hồ Xung.
• Hấp tinh đại pháp, môn võ bị căm ghét nhất võ lâm, vì hút nội lực kẻ khác.
• Lục mạch thần kiếm: môn võ của nước Đại Lý.
• Lăng ba vi bộ: môn võ mà Đoàn Dự vô tình học được.
Các môn phái, bang hội chủ yếu
Nhiều môn phái, bang hội trong các tác phẩm của Kim Dung được nhắc lại nhiều lần. Có những phái có thật ngoài đời mặc dù các chi tiết đã được Kim Dung thêm nhiều. Các môn phái, bang hội, giáo phái hay gặp nhất trong các tác phẩm của Kim Dung là:
• Thiếu Lâm
• Cái Bang
• Võ Đang
• Côn Luân
• Nga Mi
• Không Động
• Minh Giáo
• Ngũ Nhạc kiếm phái bao gồm:
o Tung Sơn
o Thái Sơn
o Hoa Sơn
o Hành Sơn
o Hằng Sơn
• Đại Lý Đoàn Thị
Về chất lượng của các bang, phái, trong truyện Kim Dung thường nhắc đến Thiếu Lâm, Cái Bang (mệnh danh là Thái Sơn và Bắc Đẩu trong võ lâm) và Minh Giáo, về võ công thì Thiếu Lâm là nhất, về bang hội thì Cái Bang mạnh nhất, còn về giáo phái thì Minh Giáo mạnh nhất.
Những môn phái này chia ra hai phe chánh - tà thường xuyên đối chọi nhau, phe chính được kêu là Danh môn chính phái, phe tà bị gọi là Tà ma ngoại đạo. Tuy nhiên đọc hết các tác phẩm của ông thì ta thấy đó chỉ là cái hư danh. Có nhiều trường hợp người trong bạch đạo lại hành động như tiểu nhân, còn người trong hắc đạo lại hành hiệp trượng nghĩa. Nói chung ranh giới trắng đen trong truyện Kim Dung không còn vạch rõ như một số nhà văn kiếm hiệp đi trước. Đó cũng là một điểm tiến bộ trong các tiểu thuyết của ông.
Kim Gia Cát
Giang hồ tiếu ngạo mông lung
Lệnh Hồ công tử ung dung giữa trời
Kiều Phong khổ hạnh một đời
A Châu ngộ sát chẳng lời oán than
Thất Công chủ đệ nhất bang
Tề danh Tây Độc tiếng vang Tây Thành
Toàn Chân Thất Tử nổi danh
Hoa Sơn luận kiếm Vương dành thuợng phong
Anh đào rực rỡ trời đông
Hoàng Tà đảo chủ kinh thông ngũ hành
Hoàng Dung mưu lược tất thành
Giúp chồng Quách Tỉnh giữ thành Tương Dương
Quỳ Hoa Bảo Điển Đông Phương
Xưng danh Bất Bại hùng trường một phương
Ngàn tơ trăm mối chàng Trương
Triệu, Ân, Chu, Tiểu biết thương cô nào
Long Nhi em ở phương nao?
Thập lục niên nhớ biết bao là sầu
Dương Ca giờ ở nơi đâu
Quách Tường tiểu muội đêm thâu nhớ chàng
Đoàn Dự kể cũng gian nan
Giếng sâu nghĩa nặng tình nàng Ngữ Yên
Hầm băng lạnh nỗi ưu phiền
Hư Trúc hoàn tục tình duyên Mộng thường
Nghi Lâm lắm nỗi đoạn trường
Thân nơi thanh tịnh, lòng vương tơ tình
Ngũ hành kì sứ Quang Minh
Phạm Giao bình hữu, tả bình Dương Tiêu
Hỷ nộ ái ố từ yêu
Mạc Sầu tiên tử cùng phiêu với đời
Tam Phong oai dũng một thời
Võ Đang Thất Hiệp được nguời mến yêu
Cửu âm cốt chảo tà yêu
Hắc Phong Song Sát làm nhiều điều gian
Oán thù Thất Quái Nam Giang
Nhờ tay Cô Ngốc giải bàn thật hư
Tình thù như lá mùa thu
Hồ, Miêu, Điền, Phạm oán thù thiên thu
Khi yêu có mắt như mù
Niệm Từ khắc khoải tình ru muôn đời
Dẫu cho vật đổi sao dời
Dương Khang thề cũng không rời chữ danh
Anh Cô bạch phát hận anh
Trí Hưng ân hận nên đành quy y
Bá Thông nào có biết gì
Ngoan đồng một kiếp nhớ chi đến nàng
Linh San số phận phũ phàng
Phòng khuê lạnh lẽo riêng nàng cô đơn
Bình Chi bao nổi căm hờn
Toàn gia bị diệt, lòng còn chữ sân
Thừa Chí hồn cứ lâng lâng
Thanh Thanh, A Cửu anh cần không anh?
Thạch Phá Thiên hiệp khách hành
Đinh Đang, A Tú nhớ anh lệ tràn
Độc hành vạn lý Bá Quan
Hái hoa đại đạo ngang tàng lưu manh
Anh Vi Tiểu Bảo ma lanh
Dùng môn võ miệng mà dành Thất Nương
Thanh Đồng, Nguyên Chỉ, Hương Hương
Huynh Trần Gia Lạc mến thương cũng nhiều
Tản Nhân Năm vị đồng liêu
Lãnh Khiêm sáng suốt tự kiêu cả đời
Thản Chi hắc ám cuộc đời
Yêu nhầm A Tử một đời khổ đau
Đàn bà lòng dạ hiểm sao!
Phu Nhân họ Mã nữ hào ác nhân
Thiên Sơn Đồng Lão còn sân
Tinh Tú Lão Quái tà thần độc phong
Mộ Dung gậy đập lưng ông
Phục Yên đại nghiệp uớc mong cả đời
Phong lưu, chung thủy người ơi!
Chính Thuần nho nhã con rơi cũng đành
Việt Nữ Kiếm có A Thanh
Giang hồ hiệp nữ nào dành lợi danh
Thánh cô nhật nguyệt Doanh Doanh
Cha cô họ Nhậm biệt danh Ngã Hành
Địch Vân tiếu ngạo Liên Thành
Thích, Thủy muội nguyện cùng anh lên đường
Ngựa Trắng Khiếu Gió Tây phương
Thương nàng Văn Tú dặm truờng gian lao
Tuyết sơn Hồ Phỉ phi đao
Miêu Nhược Lan muội dạt dào tình thơ
Tử Y chữ hiếu mập mờ
Thành Khôn mở hội Sư Đồ Thiếu Lâm
Chung Linh, Uyển muội khóc thầm
Tưởng tình ngang trái yêu nhầm ca ca
Sân, Si một bản truờng ca
Ái ân mù oán, đời là bể dâu
Giang hồ vạn nẻo về đâu
Đoạn truờng ai có qua cầu mới hay.
Bài sau tình cớ thấy trên mạng, không rõ nguồn. Trích để các bạn thamkhảo. Có thể có một số chi tiết không chính xác.
Kim Dung ( KD) sau nhiều lần sửa đổi 14 bộ tiểu thuyết cũng chính thức ra mắt bạn đọc. Và đây chính là phiên bản sửa đổi cuối cùng. Phải nhận xét rằng lần này, KD đã sửa và thêm thắt khá nhiều ,thậm chí gần như là đem lại một bộ mặt hoàn toàn cho bộ tiểu thuyết. Đã có nhiều ý kiến từ phía độc giả,có cả đồng tình có cả phản đối. Nguyên nhân là ngoài việc sửa đổi một số chi tiết vô lý ở bản cũ như : tuổi tác của Hoàng Dung so với Quách Tĩnh, Tiêu Phong sau khi chết thì Hàng Long hập át chưởng sẽ bị thất truyền, cuốn binh thư tàng trong Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao ….. thì KD cũng đã thêm thắt nhiều chi tiết khác lạ như kết cục và mối quan hệ của các nhân vật. Dưới đây là tóm tắt những thay đổi trong một số bộ tiểu thuyết :
1. THIÊN LONG BÁT BỘ
Đây là bộ mà KD phải dụng công sửa đổi nhiều nhất, trong đó có một số chi tiết đáng chú ý như sau:
- Hàng Long thập bát chưởng bị đổi tên lại thành HÀNG LONG NHỊ THẬP BÁT CHƯỞNG.
- Kết thúc của Đoàn Dự với Vương Ngữ Yên: Trong bộ cũ, ĐD cùng VNY trên đường về cung bắt gặp Mộ Dung Phục đang trong tình trạng nửa điên nửa dại. Bản mới KD thêm đoạn nói về cuộc sống trong cung: VNY lo lắng sắc đẹp sẽ tàn phai,bèn quyết định luyện “trú nhan thuật” -Trường Xuân bất lão mật quyết nhưng không may lại thất bại. ĐD mời nàng quay về cung nhưng VNY đã cự tuyệt và quyết định quay trở về bên cạnh biểu ca MDP điên điên khùng khùng.
Vậy chẳng nhẽ ĐD cứ một thân một mình suốt đời mãi? Fans của ĐD yên tâm, KD đối với ĐD rất hậu. Trong bản này, Hư Trúc sau khi lấy được công chúa nước Tây Hạ, bèn sau người đem tặng ĐD 4 mỹ nữ là Đào, Mai,Cúc, Trúc…và thêm cả Mộc Uyển Thanh, Chung Linh….thế là tổng cộng ĐD sống với 8 người vợ. Có mấy trang nói là về sau KD lại lược bớt chỉ còn có 3 người thôi. Nhưng dù thế nào thì kết cục vẫn là ĐD sinh đc 1 đứa con – nhưng KD không nói mẹ của nó là ai và cuối cùng, như bao ông vua sùng đạo Phật khác, ĐD đã lên chùa Thiên Long xuất gia.
- KD còn thêm thắt một số chi tiết như: profile của Tiêu Viễn Sơn, hồi ức lúc nhỏ của MDP và chi tiết Tiêu Phong trên đường trả thù gặp 5 vị lão nhân không rõ lai lịch….
- Bản cũ, có nhiều độc giả phản vấn rằng nếu TP mà chết đi thì Hàng Long thập bát chưởng sẽ bị thất truyền, đến đời Hồng Thất Công thì làm sao mà có thể xuất hiện được. Vì thế, KD đã cho thêm chi tiết TP truyền lại chưởng pháp này cho nghĩa đệ Hư Trúc.
2. XẠ ĐIÊU ANH HÙNG TRUYỆN
- KD đã sửa lại mâu thuẫn tuổi tác giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh.
- Đoạn Hồng Thất Công truyền Hàng Long thập bát chưởng cho Quách Tĩnh có thêm 1 đoạn:
“ Hàng Long thập bát chương này thực sự là tuyệt kỹ phi thường, khó chặn khó phá. Tuy chiêu số có hạn nhưng mỗi chiêu đều có uy lực phi phàm. Năm Bắc Tống ,bang chủ Cái bang Tiêu Phong đã nhờ tuyệt kỹ này để giao đấu với các anh hùng trong thiên hạ, giỏi lắm mới có người chặn được hai, ba chiêu thức của người. Lúc ấy có tất cả 28 chưởng,sau khi TP và nghĩa đệ Hư Trúc ghi chép tổng kết lại , đã tinh giản đi, lấy tinh thắng đa ,sửa thành thập bát chưởng. Do đó chưởng lực càng thêm thâm hậu. Chưởng pháp này truyền đến HTC, tại kỳ luận kiếm Hoa Sơn với Vương Trùng Dương,Hoàng Dược Sư…đã được đem ra thi triển….”- Ngoài Hàng Long ra,thì võ công của Đào Hoa đảo cũng bị đổi tên , Lạc Anh Thần Kiếm Chưởng Pháp thì đổi sang thành “Đào hoa lạc anh chưởng pháp”
- Hoàng Dược Sư yêu tiểu đồ Mai Siêu Phong:( chi tiết này Duy thấy ko hay) ^^
Trước hết phải nói đến cái profile mới của MSP: MSP tên thật là Mai Nhược Hoa, là một cô bé trong trắng ngây thơ. Sau khi cha mẹ mất, bá phụ bá mẫu nhận về nuôi, về sau bán cho một nhà giàu họ Tưởng với giá 52 lạng bạc làm nô tì. Nhược Hoa càng lớn càng đẹp. Một hôm Nhược Hoa đang giặt quần áo thì bị lão Tưởng sàm sỡ. Bà Tưởng nổi ghen liền đánh đập và doạ móc mắt Nhược Hoa. Lúc đó HDS đi qua , đã trừng trị ông bà Tưởng và nhận MNH làm đồ đệ, đưa về đảo Đào Hoa và đổi tên thành MSP.
MSP sống trên đảo với các sư huynh đệ. Một hôm ,Khúc Linh Phong đưa ra một bài thơ của sư phụ cho MSP xem. Đọc xong MSP mới biết là sư phụ đã để ý đến mình. KLP và MSP quyết định không nói cho ai biết cả. Về sau ,MSP và Trần Huyền Phong yêu nhau, bị Khúc Linh Phong phát hiện và nói với sư phụ. HDS vừa nổi ghen lại vừa tức giận . Đồng thời cho rằng KLP nhìn rõ tâm can của mình mà lấy làm xấu hổ, bèn lấy cớ KLP không tuân thủ phép tắc rồi bẻ gãy chân KLP ,trục xuất sư môn, đuổi khỏi đảo, sai người đưa về phủ Lâm An. Sau 2 năm HDS bèn lấy vợ - là mẹ của Hoàng Dung sau này - chỉ bằng tuổi MSP bấy giờ. Một đợt tết Trung Thu Đào Hoa đảo bày tiệc rượu, HDS gọi tất cả đệ tử đến chúc rượu ,uống say bí tỉ không bít trời đất là gì. Lúc mẹ của HD vào nhà bếp, HDS mới lè nhè quát : “Không thằng nào ăn nói bố láo nữa à, không thằng nào bảo Hoàng Lão Tà muốn lấy nữ đệ tử làm vợ nữa à ? Linh Phong đâu!Ta không trách nó! Vẫn khỏe chứ,chân cẳng ra sao rồi ?”….
- Nhiều người thắc mắc việc “Làm sao THP có thể đem cả một bộ Cửu Âm Chân Kinh dày cộp cả ngàn chữ khắc lên bộ ngực không quá 1m vuông của mình được?”. Trong bản mới KD đã đổi lại thành “ MSP và THP đánh cắp CÂCK xong thì cùng nhau tu luyện. Lúc hấp hối,THP giúi CÂCK quyển hạ vào tay MSP” .Chi tiết này không những logical hơn mà còn thể hiện tình sâu nghĩa nặng của vợ chồng Hắc Phong Song Sát, đồng thời phần nào giảm nhẹ sự tàn nhẫn khát máu của 2 nhân vật này.
-KD có sửa lại chi tiết : cái tên Dương Quá ban đầu là do Quách Tĩnh đặt cho con trai của Mục Niệm Từ nhưng bản mới sửa thành Hoàng Dung đặt cho vì có nhiều ý kiến cho rằng : “Quách Tĩnh thì sao đủ thông minh để nghĩ ra một cái tên như thế?”
3.THẦN ĐIÊU HIỆP LỮ
Bộ này KD tập trung ngòi bút vào việc miêu tả tình cảm của DQ và TLN nhiều hơn,sâu hơn…
- KD có sửa lại tên nhân vật : Doãn Chí Bình (尹志平) sửa lại thành Chân Chí Bính (甄志丙).
- KD nói thêm về việc tại sao vợ chồng Quách –Hoàng không màng tới 2 mẹ con Mục Niệm Từ cũng như DQ sau khi bị đưa vào trong Toàn Chân giáo.
- Thêm vài đoạn nói về mối quan hệ giữa Quách Tương và Kim Luân quốc sư, QT chính thức bái Quốc sư làm thầy. Kết cục của KLQS cũng bị sửa lại.
-Trong bản mới, TLN khác hoàn toàn. Nàng đối với DQ không hề lạnh lùng băng giá. Hai người sống với nhau không còn tư tưởng “thủ chi dĩ lễ” -sống chung và đối xử với nhau thì luôn luôn phải giữ lễ , mà ngược lại ngọt ngào,nồng nàn hơn , tình cảm nhiều hơn,TLN nũng nịu DQ nhiều hơn vân vân…và thêm nhiều đoạn tả về cuộc sống của 2 ng trong Cổ Mộ,ví như :
“DQ trong lúc nằm mơ tập bắt chim sẻ,bươm bướm thì chộp được một con bướm và bất chợt tỉnh giấc. Lúc ấy mới phát hiện thì ra là đã nắm nhầm phải bàn chân ngà ngọc của TLN”. Đây là lần đầu tiên hai người tiếp xúc thân mật với nhau.
- Ngọc Nữ Tâm kinh, KD sáng tạo thêm một chiêu mới là “Đình đình như cái”. Lúc DQ và TLN đang luyện chiêu này, hai tay DQ ôm chặt người nàng, nhìn thấy khuôn mặt kiều diễm mỹ miều thần tiên thoát tục của nàng, không tự kiềm chế đc bèn kiss nàng 1 cái.
- Đoạn DQ và TLN gặp lại nhau trong đại hội anh hùng, hai người nói chuyện tình cảm bày tỏ khá lộ liễu:
TLN hỏi DQ : “Một ngày chàng nhớ thiếp bao nhiêu lần”
DQ :”Một ngày ta nhớ nàng ít nhất 200 lần”
TLN : “200 lần chưa đủ, phải nhớ thiếp ít nhất 300 lần mới phải”
DQ :” Một ngày ta nhớ nàng 400 lần,sáng 200 lần,chiều lại 200lần”
TLN lại nói tiếp: “Lúc chàng ăn cơm cũng phải nhớ thiếp,thế là thêm 100 lần nữa,vậy là một ngày chàng phải nhớ thiếp 500 lần”
(“而在语言上,杨过与小龙女在英雄� �� �� ��会久别重逢时,两人�
��话相当露骨:
小龙女问杨过:“你一天想我几次?� �� �
杨过说:“一天至少想两百次。”
小龙女道:“两百次不够,我要三百� �� �� �。”
杨过说:“我一天想你四百次,上午� �� �百次,下午又两百次��
�”
小龙女接着道:“你吃饭时也想我,� �� �多一百次,一天想五��
�次。”……)
- Lại thêm đoạn Quách Phù muốn trở thành “Đại long nữ” – chinh phục được DQ trước TLN.
- Võ công Cổ Mộ phái có thêm nhiều chiêu thức mới .Ví dụ như cầm nã thủ pháp thì có thêm “Nhu võng thế” , “Bộ mỗi bích thế” và “Thiên La địa võng thế” . Ba cái này gộp lại thành tuyệt kỹ phái Cổ Mộ.
4. Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ
- Nhiều người phản vấn KD rằng “Bộ binh thư sao có thể cất giấu trong đao và kiếm được vì kim loại mà ở nhiệt độ cao, những thứ mềm như giấy, vải , tre trúc vào đó là toi hết”. Chính vì thế KD đã sửa lại nơi cất giấu của binh thư với chi tiết “ Trong đao kiếm có ẩn tàng huyền thiết phiến –mảnh sắt đen. Huyền thiết phiến được lấy từ Huyền Thiết Kiếm của DQ đại hiệp đã dùng trước kia mà đúc thành. Trên đó có ghi rõ nơi cất giấu binh thư là ở đảo Đào Hoa.” Về sau,Châu Chỉ Nhược là người đã đi tìm kiếm và bí kíp một lần nữa lại xuất hiện.
- Sửa lại hoàn toàn kết thúc của Trương Vô Kỵ: Bản cũ ,xung quanh TVK có bao người đẹp nhưng cuối cùng cũng có một sự lựa chọn rõ ràng. Bản mới, TVK cuối cùng lại có 3 (hay 4) người vợ,sống với Chỉ Nhược,Triệu Mẫn vân vân.
5.TIẾU NGẠO GIANG HỒ
Không giống như những bộ trên bị viêt lại nhiều, thì Lệnh Hồ Xung và Doanh Doanh không bị đụng chạm sửa sang tẹo nào. Kim sư phụ nói đây gần như là bộ được viết lưu loát trôi chảy nhất, không cần phải sửa nhiều. Chỉ là sửa hành văn,câu chữ,thêm vào đó mấy tình tiết nhỏ và nhất là phát triển thêm profile của Phong Thanh Dương Phong lão tiền bối.
6. HIỆP KHÁCH HÀNH- Bộ này sửa lại cũng không nhiều,có thay đổi kết cục của Thị Kiếm. Bản cũ Thị Kiếm bị Đinh Đang giết chết, bản cũ chỉ bị điểm huyệt và đựoc Thạch Phá Thiên cứu.
-Thêm thắt vài đoạn tán tỉnh ong bướm giữa TPT và A Tú trên đảo Tử Yên
7.LIÊN THÀNH QUYẾT- Đệ nhất tà phái trong truyện “Tây Tạng Huyết Đao Môn” được sửa tên lại thành “Thanh Hải Hắc Giáo Huyết Đao Môn” . KD nói là để thể hiện sự tôn trọng với Tây Tạng –một nơi truyền thụ phật giáo.
-Thêm thắt về nguồn gốc của mật mã Liên Thành kiếm quyết và sự xuất hiện - biến mất đột ngột của Liên Thành kiếm phổ
8.LỘC ĐỈNH KÝ
Nói chung bộ này sửa cũng k0 nhiều lắm, chỉ bít chắc chắn một điều là cuối cùng, bảy cô vợ của Vi Tiểu Bảo sẽ lần lượt chạy hết, chỉ còn ba cô .Còn có một vài link bảo là VTB đi tu,nhưng là một “hoa tửu hoà thượng”... Update: Đoạn này sai, Vi Tiểu Bảo cuối cùng vẫn nhất long hý thất phượng, chả có mất đi đâu cô nào.
Toàn bộ tư liệu này lấy bên www.kimdung.chungta.com ai có nhu cầu thì qua tìm thêm hén.
sac
không biết KD có sửa giông như ở trên ko nữa
nếu như vậy thì thực sự hok chấp nhận dc
Hiệu chỉnh lại tác phẩm là rất bình thường mà bác, hơn nữa đối với 1 tác giả có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ như Kim Dung thì hiệu chỉnh lại tác phẩm lại càng có tác dụng tích cực. Em hồi nhỏ đọc Vi Tiểu Bảo bản đầu tiên cứ ngỡ anh hùng là phải giống VTB, (nhiều tiền và nhiều vợ )...
quan trọng nhất đây vẫn là nhưng tác phẩm kinh điển mà chúng ta công nhận !:| , lịch sử đã qua , chúng ta đang đào bới , mà chẳng thay đổi được ry ?? :-?