Sau khi Miska đi rồi, mấy anh chàng Cô-dắc còn ngồi lại một lát nhưng không ai nói gì nữa. Tiếng chuông báo động vẫn dội xuống ầm ầm trên thôn xóm, mấy vuông cửa sổ nhỏ trong nhà rung cả lên.
Kotliarov nhìn qua cửa sổ. Dưới ánh nắng ban mai, nhà kho in một cái bóng mờ mờ trên mặt đất. Sương rơi lấm tấm hoa râu trên lớp cỏ loăn xoăn như lông cừu. Ngay qua lớp kính, bầu trời vẫn hiện lên mênh mông, xanh ngắt. Kotliarov đưa mắt nhìn cái đầu rối như bòng bong đang rũ xuống của Khristonhia và nói:
- Hay chưa biết chừng mọi việc chỉ đến đây là kết thúc. Bọn ở Migulinskaia đánh tan chi đội Xích vệ rồi không giở thêm trò gì nữa đâu?
- Đâu có chuyện như thế… - Grigori ngọ nguậy, - đã ngồi lên lưng cọp rồi thì còn xuống sao được nữa! Thế nào, chúng ta ra họp việc làng chứ?
Kotliarov với tay lấy chiếc mũ cát-két, hỏi để cố đánh tan mối nghi ngờ của mình:
- Thế nào các cậu, hay đích thực chúng mình đã biến thành những thanh sắt rỉ rồi? Tuy Miska có nóng nảy, nhưng cậu ấy suy nghĩ xác đáng đấy… Cậu ấy trách chúng mình.
Không ai trả lời anh. Ba người lặng lẽ ra bãi họp.
Kotliarov vừa đi vừa suy nghĩ rất lung, hai con mặt cứ dán xuống chân. Anh bị dày vò đau khổ vì thấy mình đã làm trái lương tâm, đã không theo đúng con đường mà ý thức của mình đã chỉ ra. Lẽ phải thuộc về phía "Bồi" và Miska: đáng là phải ra đi ngay chứ không trù trừ như thế. Những lý lẽ mà anh cố nặn trong óc ra để tự bào chữa đều không có gì vững vàng và một giọng nói châm biếm, chín chắn từ trong đáy lòng ra đã dẫm nát ngay các lý lẽ đó như vó ngựa dẫm lên ván băng phủ trên vũng nước. Điều duy nhất mà Kotliarov quyết định như đinh đóng cột là sẽ chạy sang bên Bolsevich ngay trong trận đầu. Quyết tâm ấy đã chín muồi trong lòng anh ngay trên đường ra bãi họp, nhưng cả Grigori lẫn Khritonhia đều không được Kotliarov cho biết về điều đó, vì anh đã mơ hồ hiểu rằng hai người có những cảm xúc khác mình và ở một nơi rất sâu trong ý thức anh dè chừng về phía họ. Cả ba đều bác bỏ ý kiến của "Bồi", đều không ra đi, bằng cách viện cớ gia đình, nhưng đồng thời cả ba đều biết rằng cái lý lẽ ấy không nặng đồng cân, và không thể bào chữa cho mình được. Trong lúc nầy từng người một đều cảm thấy hổ thẹn, mỗi người theo một kiểu khác nhau, trước mặt hai người kia, như mình đã làm một việc xấu xa, đáng nhục. Ba người ngậm tăm giờ lâu. Nhưng khi tới trước cửa nhà Mokhov, Kotliarov không chịu nổi cái không khí chết lặng quá khó chịu ấy nữa, bèn nói như lên án bản thân mình và hai bạn.
- Chẳng cần giấu giếm làm gì: ở mặt trận về còn là những thằng Bolsevich, nhưng bây giờ đã trở thành những kẻ trùm chăn rồi! Mặc ai đánh nhau thay mình thì đánh, còn mình thì cứ ở nhà với vợ
- Tôi đã nện nhau chán rồi, bây giờ để người khác thử nếm mùi,- Grigori quay lại nói.
- Sao thế, chúng nó… giở trò cướp bóc mà chúng mày lại phải đi theo chúng nó hay sao? Xích vệ gì mà lại như thế? Hiếp đàn bà, cướp phá của người khác. Trong chuyện nầy phải nhìn cho rõ mới được. Nếu mù quáng thì sẽ đâm đầu vào góc tường ngay.
- Thế chính mắt cậu được nhìn thấy những chuyện như thế à, Khristonhia? - Kotliarov hỏi giọng gay gắt.
- Thiên hạ nói như thế.
- A… a… thiên hạ…
- Thôi đi! Bọn mình nói ở đây chúng nó nghe được rồi đấy.
Bãi họp như nở hoa với những nẹp quần và mũ cát-két Cô-dắc, thỉnh thoảng mới thấy một chiếc mũ lông đen lổm xổm. Chỉ thấy toàn những lão già cùng những gã Cô-dắc ở tuổi ra trận hoặc trẻ hơn một chút. Những người già nhất chống gậy đứng lên hàng đầu, các bồi thẩm danh dự, các uỷ viên hội đồng nhà thờ, những người đỡ đầu các trường học, lão trùm trưởng. Ông già Melekhov đang đứng cạnh lão thông gia Miron Grigorievich. Cụ Grisaka chống chiếc gậy có rất nhiều mấu đứng trước mặt hai người trong chiếc áo lễ phục màu xám có đeo huân chương. Đứng cùng hàng với hai nhà thông gia có lão Apdeit "Vua nói phét" mặt đỏ như quả táo. Matvey Kasulin, Ackhip Bogatyrev, lão Atepin "cha cha" với chiếc mũ cát-két Cô-dắc. Xa chút nữa là những bộ mặt quen thuộc đứng sát nhau thành một hàng rào hình bán nguyệt: Egor Sinilin râu ria xồm xoàm, Yakov "Móng lừa", Andrey Kasulin, Nicolai Kosevoi, gã Borsev lêu đêu như cây sào, Anikey, Marchin Samin, tên chủ nhà máy xay lùn choằn choằn. Gromov, Yakov, Koloveydin, Merkulov, Fedot Bodosov, Ivan Tomilin, Epichan Marsaev, Dakha Korolev, gã Anchip, con trai lão Apdeit "Vua nói phét", một gã nhỏ bé mũi hếch.
Trong khi đi ngang qua bãi, Grigori trông thấy Petro, anh chàng, đứng ở bên kia vòng người. Petro mặc một chiếc sơ-mi nhà binh có đeo hai cái dây huân chương thánh Gioóc màu da cam và đen, hắn đang pha trò với gã cụt tay Aleksey Samin. Bên trái hắn là thằng Mitka nhà Korsunov với hai con mắt xanh lè. Mitka hút nhờ lửa điếu thuốc của Prokho Zykov. Prokho trợn tròn cặp mắt bò, chúm môi giúp Mitka thổi lửa. Bọn Cô-dắc trẻ tuổi đứng túm tụm ở phía sau. Giữa vòng người có kê một chiếc bàn ngật ngưỡng, cả bốn chân bàn đều lún xuống chất đất mềm chưa khô. Viên chủ tịch Uỷ ban cách mạng thôn Naza ngồi sau chiếc bàn, bên cạnh hắn có một tên trung uý mà Grigori không quen mặt đứng tì một tay lên mặt bàn. Hắn đội một chiếc mũ màu *** ngựa có dính phù hiệu, mặc chiếc áo ngắn có đeo lon và cái quần đi ngựa hẹp ống màu kaki.
Viên chủ tịch Uỷ ban cách mạng nói với hắn không biết những gì, vẻ mặt như ngượng ngùng. Viên trung uý hơi khom lưng, ghé cái tai vểnh rất to vào sát chòm râu của Naza, chú ý nghe. Bãi họp chìm trong một tiếng rào rào khe khẽ như tổ ong. Dân chúng Cô-dắc chuyện gẫu, pha trò với nhau, nhưng mặt ai cũng có vẻ căng thẳng.
Một người chờ mãi không chịu được nữa đã kêu lên bằng một giọng rất trẻ:
- Bắt đầu đi thôi! Còn chờ gì nữa? Mọi người đã đến gần đủ rồi!
Tên sĩ quan thung dung đứng thẳng dậy, bỏ mũ cát-két xuống và bắt đầu nói một cách giản dị như trong gia đình:
- Kính thưa các cụ bô lão và anh em Cô-dắc cựu chiến binh? Các cụ và anh em đã được nghe tin ở thôn Setrakov vừa xảy ra chuyện gì chưa?
- Ai đấy? Dân ở đâu thế? - Khristonhia hỏi giọng ồm ồm.
- Người trấn Vosenskaia, vùng Chernaia tên là Sondatov thì phải… - Có người trả lời.
- Ở Setrakov, - Viên trung uý nói tiếp, - có một chi đội Xích vệ kéo đến. Quân Đức đã chiếm được Ukraina và trong khi tiến về Quân khu sông Đông đã đánh bật chúng ra khỏi đường sắt. Chúng định tràn qua khu du mục của trấn Migulinskaia. Sau khi chiếm đóng thôn, chúng bắt đầu cướp bóc bà con Cô-dắc, cưỡng dâm chị em phụ nữ Cô-dắc, bắt bớ trái phép và giở những trò khác nữa. Khi các thôn chung quanh được biết tin về những việc xảy ra, anh em Cô-dắc đã cầm vũ khí tấn công bọn ăn cướp. Chi đội của chúng đã bị tiêu diệt một nửa, còn một nửa bị bắt làm tù binh. Bà con ở Migulinskaia đã thu được một số chiến lợi phẩm rất lớn. Hai trấn Migulinskaia và Kazanskaia đã vứt bỏ gông xiềng của chính quyền Xô viết trên cổ mình. Bất kể già trẻ lớn bé, người Cô-dắc đã vùng lên bảo vệ sông Đông êm đềm. Ở Vosenskaia, Uỷ ban quân sự cách mạng đã bị tống cổ đi rồi, ataman trấn đã được bầu lên. Phần lớn các thôn đều đã như thế.
Khi viên trung uý nói đến đây, các bô lão đã nhôn nhao nhưng họ vẫn cố giữ không nói to.
- Đâu đâu cũng đã tổ chức đội ngũ. Bà con ta ở đây cũng cần phải tổ chức các anh em ở mặt trận về thành một chi đội để bảo vệ trấn nhà, chống một cuộc xâm nhập mới của những đám cướp dã man đó. Chúng ta phải lập lại chế độ cũ của chúng ta. Chúng ta không cần đến chính quyền của bọn đỏ, nó chỉ đem lại sự dâm loạn thối tha chứ chẳng làm gì có tự do! Chúng ta không thể nào cho phép bọn mu-gích làm nhục vợ con chị em chúng ta, phỉ báng đức tin chính giáo của chúng ta, xúc phạm đến các giáo đường thiêng liêng của chúng ta, cướp bóc gia tài điền sản của chúng ta… Có phải thế không, thưa các cụ bô lão?
Bãi họp rung lên dưới những tiếng hô đồng thanh: "Đúng lắ... ắm!". Tên trung uý bắt đầu đọc một bản kêu gọi quay rô-nê-ô. Viên chủ tịch bỏ quên không biết tờ giấy gì bèn đứng dậy bước ra khỏi bàn. Đám người lắng nghe, không ai hé răng một lời nào. Bọn cựu chiến binh ở phía sau thẫn thờ chuyện gẫu với nhau.
Tên sĩ quan vừa bắt đầu đọc, Grigori đã rời khỏi đám đông, từ từ đi về phía góc nhà lão cố đạo Visarion để về nhà. Miron Grigorievich nhìn thấy chàng bỏ đi, bèn hích khuỷu tay vào sườn ông Panteley Prokofievich.
- Ông xem kìa! Cậu hai nhà ông bỏ đi rồi kìa?
Ông Panteley Prokofievich khập khiễng bước ra khỏi đám đông, cất tiếng gọi, giọng nửa như van lơn, nửa như ra lệnh.
- Grigori?
Grigori không bước thêm nữa, nhưng chỉ đứng nghiêng nghiêng người mà không nhìn lại.
- Quay lại đi con!
- Sao lại bỏ đi! Quay lại đây! - Có những tiếng gọi vang lên cùng với những khuôn mặt quay về phía Grigori, san sát như một bức tường.
- Trước kia đã từng là sĩ quan cơ đấy!
- Có gì mà cũng lên cái mặt?
- Chính thằng ấy đã đi theo chúng nó rồi đấy!
- Nó cũng đã từng uống máu bà con Cô-dắc…
- Đồ Đỏ!
Grigori nghe thấy rõ tất cả những tiếng hò la đó. Chàng nghiến răng đứng nghe, có vẻ đang tự đấu tranh với chính mình, và mọi người có cảm tưởng như chàng sắp sửa bỏ đi không ngoái cổ lại nữa.
Ông Panteley Prokofievich và Petro thở dài nhẹ nhõm khi thấy Grigori lảo đảo quay lại với đám người, nhưng mắt cứ dán xuống đất. Các bô lão vui hẳn lên lão Miron Grigorievich nhà Korsunov được bầu ngay tại chỗ làm ataman thôn một cách nhanh chóng lạ lùng. Lão bước ra giữa vòng người, những điểm tàn hương lấm tấm trên khuôn mặt trắng bệch của lão xám ngoét đi trong khi lão nhận ở tay tên ataman cũ cái "na-xê-ca", tức là cái gậy đầu bịt đồng tượng trưng cho chức quyền ataman. Từ trước đến nay lão đã từng được làm ataman bao giờ đâu. Lúc được lựa chọn, lão còn giả dạng từ chối, viện cớ trình độ văn hoá thấp mà không xứng đáng được hưởng vinh dự đó. Nhưng các bô lão đã nhao nhao kêu lên hoan nghênh lão:
- Cứ nhận lấy cái "na-xê-ca" đi! Đừng từ chối nữa, ông Grigorievich!
- Ông là ông chủ hộ vững nhất thôn nầy đấy.
Nhưng chớ có đem tiền nong tài sản của thôn đi tiêu hết đấy!
- Cẩn thận đấy, chớ có đem tiền quĩ của thôn đi uống rượu hết sạch như lão Semion đấy.
- Chà-chà… lão nầy rồi cũng đem đi uống rượu hết cho mà xem!
- Nhà lão còn có cái để mà bắt đền!
- Nếu thế chúng ta sẽ lột da lão như lột da cừu!
Việc bần bán được làm xong nhanh như chớp, nhanh một cách chưa từng thấy, cũng như các diễn biến của cái tình thế nửa chiến tranh, vì thế Miron Grigorievich đã nhận lời, không cần mọi người nài ép quá nhiều. Việc bầu ataman lần nầy khác hẳn trước kia. Xưa kia, viên ataman trấn thường triệu tập các trưởng xóm tới, bầu ra những ứng cử viên, nhưng hôm nay thì chỉ vung tay một cái: "Ai bầu cho ông Korsunov, xin mời bước sang bên phải". Tất cả đám người đều chạy ùa sang bên phải, riêng một mình gã thợ chữa giầy ủng Zinovi, vốn có tư thù với lão Korsunov, là cứ đứng nguyên chỗ cũ, như gốc cây cháy ngoài bãi cỏ hoang ven sông.
Mồ hôi mồ kê đầm đìa. Miron Grigorievich còn chưa kịp hấp háy con mắt thì người ta đã dúi vào tay lão cái gậy ataman. Người ta réo vào tai lão từ xa và ở ngay bên tai lão:
- Sửa soạn khao đi!
- Cả thôn đều bầu cho ông đấy.
- Phải đổ rượu ra ăn mừng một chầu ra trò mới được?
- Bế tung ông ataman lên nào?
Nhưng viên trung uý đã cắt đứt ngay những tiếng hò la để khéo léo lái cuộc họp sang giải quyết những vấn đề thực tế. Hắn nêu vấn đề bầu đội trưởng chi đội, và có lẽ ở Vosenskaia hắn đã từng nghe nói đến Grigori, nên hắn nói có ý nịnh Grigori cũng như dân trong thôn:
- Tôi hy vọng có được một người chỉ huy là sĩ quan. Như vậy trong chiến đấu sẽ dễ dành được thắng lợi hơn, đồng thời sẽ giảm bớt được tổn thất. Nhưng trong thôn bà con đây thì không thiếu gì anh hùng. Thưa bà con tôi không dám ép bà con theo ý kiến của tôi, mà chỉ xin lấy tư cách cá nhân đề cử với bà con thiếu uý Melekhov.
- Melekhov nào cơ chứ
- Chúng tôi có những hai Melekhov cơ.
- Viên sĩ quan liếc mắt nhìn qua đám người rồi nhìn chằm chằm vào Grigori đang cúi gầm mặt đứng phía sau, mỉm cười kêu lên:
- Grigori Melekhov! Bà con trong thôn ta ý kiến ra sao?
- Đúng đấy!
- Xin nhận lời cho!
- Grigori Panteleevich? Tay ấy cừ lắm đấy!
- Bước ra giữa đi! Ra đi!
- Các cụ bô lão muốn xem mặt anh cái?
Bị đẩy sau lưng, Grigori đỏ mặt bước vào giữa vòng người, hai con mắt gườm gườm nhìn quanh như con thú bị vây bắt.
- Anh hãy chỉ huy con cái chúng tôi? - Lão Matvey Kasulin chống mạnh cái gậy xuống đất và làm nhanh dấu phép. - Anh hãy chỉ huy và lãnh đạo chúng nó, để cho dưới quyền anh, chúng nó có bầy có đội như đàn ngỗng có được con đầu đàn tốt. Anh hãy che chở chúng nó như con ngỗng đầu đàn canh gác, che chở cho lũ ngỗng con khỏi bị thú dữ và con người làm hại! Anh còn có thể được thưởng bốn huân chương nữa đấy, cầu Chúa che chở cho anh?
- Ông Panteley Prokofievich, con trai ông thật ra con trai!
- Nó có cái đầu đáng giá ngàn vàng đấy? Nó khôn ngoan ranh ma lắm, cái thằng chó đẻ!
- Nầy con quỷ thọt kia, ít nhất cũng mang một phần tư thùng ra đây?
- Ha-ha-ha? Chúng ta sẽ uống một chầu ăn mừng?
- Thưa các cụ bô lão? Xin yên lặng một chút! Hay là chúng ta không cần hỏi ý kiến nữa, cứ chỉ định lấy hai ba bản danh sách có được không? Nếu để tự nguyện thì mỗi người đều có thể đi cũng được mà không đi cũng được…
- Đi ba năm?
- Năm năm?
- Hãy lấy tình nguyện!
- Hãy cứ tự mày mày đi, có ai… giữ mày đâu?
Tên trung uý đang nói không biết những gì với lão ataman thì có bốn lão già ở đầu trên thôn bước tới gần hắn. Trong bọn có một lão loắt choắt, mõm không có cái răng nào, biệt hiệu là "Cái nấm còi". Lão vốn nổi tiếng vì suốt đời chỉ thích thưa kiện. Lão đã đánh xe ra toà nhiều lần đến nỗi con ngựa cái lông trắng duy nhất trong nhà lão đã thuộc làu con đường lên đó. Lão tu rượu bí tỉ xong, nằm vật lên cái xe, kêu the thé bằng cái giọng cao như giọng con nít: "Lên toà", thế là con ngựa tự động cất bước chạy đúng đường lên trấn… "Cái nấm còi" sửa lại cái mũ nhỏ, bước tới gần viên trung uý.
Ba lão kia đến đứng bên cạnh. Trong ba lão nầy có một lão là Gerasim Bondyrev, một nhà có của ăn của để được tất cả mọi người kính trọng. Bất chấp các đức tính cần thiết của một người mồm mép, "Cái nấm còi" kéo áo viên trung uý nói trước:
- Bẩm quan lớn!
- Cụ cần gì thế, thưa cụ bô lão? - Tên trung uý ân cần cúi xuống, ghé cái tai rất to, *** tai rất dầy.
- Bẩm quan lớn, xem ra quan lớn còn chưa biết được nhiều về cái thằng cùng thôn với chúng tôi mà quan lớn vẫn chỉ định làm đội trưởng. Vì thế bô lão chúng tôi khiếu nại về quyết định ấy của quan lớn, mà chúng tôi thì có quyền làm như thế. Chúng tôi không công nhận nó?
- Không công nhận như thế nào? Có vấn đề gì thế?
- Vấn đề là chúng tôi làm thế nào tin được nó, khi chính nó đã tham gia Xích vệ, đã làm chỉ huy bên chúng nó, nó bị thương nên mới ở bên ấy về nhà được hai tháng nay?
Tên trung uý đỏ mặt. Máu dồn lên làm hai tai hắn như căng mọng ra.
- Nhưng không thể như thế được! Tôi chưa từng nghe nói như thế bao giờ… Chưa có ai nói đến tai tôi về chuyện ấy…
- Đúng đấy, nó có đi theo bọn Bolsevich thật, - Gerasim Bonđyrev chứng thực lời "Cái nấm còi", giọng nghiêm khằc. - Chúng tôi không tín nhiệm nó đâu!
- Phải thay nó đi mới được! Ngài có biết bọn thanh niên Cô-dắc chúng nó bảo sao không? Chúng nó bảo: "Thằng ấy sẽ phản bội chúng ta trong trận đầu cho mà xem!"
- Thưa các cụ bô lão? - Tên trung uý kiễng chân kêu lên. Thằng cha giảo quyệt tránh bọn Cô-dắc vừa ở mặt trận về mà chỉ nói với bọn bô lão - Thưa các cụ bô lão! Chúng ta vừa chọn thiếu uý Grigori Melekhov làm người chỉ huy chi đội, nhưng làm như thế có vướng vấp gì không? Vừa đây có người cho tôi biết rằng hồi mùa đông chính anh ta còn đứng trong hàng ngũ Xích vệ. Các cụ có thể tín nhiệm anh ta, trao con cháu các cụ cho anh ta được không? Còn anh em cựu chiến binh, anh em có thể yên tâm đi theo một người chỉ huy như thế được không?
Bọn Cô-dắc ngớ người ra, lặng đi một lát. Rồi bất thần những tiếng la thét cùng dậy lên và không làm thế nào hiểu được một lời nào trong tất cả những tiếng họ hét đó. Mãi đến khi người ta gào đã chán, tất cả lại lặng đi, lão Bogatyrev lông mày xâu róm mới bước vào giữa vòng người. Lão bỏ mũ chào tất cả mọi người rồi đưa mắt nhìn quanh:
- Với cái đầu óc hồ đồ của tôi, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ không trao cho anh Grigori Panteleevich trách nhiệm ấy được. Quả thật anh ta có mắc cái lỗi ấy, mọi người chúng ta đều được nghe nói như thế. Thôi cứ để cho anh ta lập công chuộc tội, xứng đáng với sự tín nhiệm của mọi người, rồi khi đó hẵng hay. Anh ta vốn là một tay chiến đấu giỏi, chúng ta đều biết… Nhưng khi có sương mù thì làm thế nào trông thấy được mặt trời: hiện nay chúng ta không nhìn thấy công lao của anh ta, mắt chúng ta đều bị che phủ bởi cái việc anh ta đã đứng trong hàng ngũ bọn Bolsevich.
- Cứ cho nó làm lính trơn? - Gã Andrey Kasulin kêu lên một cách nóng nảy. Gã còn ít tuổi.
- Bầu Petro Melekhov lên chỉ huy vậy?
- Cứ cho thằng Griska đi trong hàng đã!
- Bầu nó lên thì mất mạng?
- Nhưng thằng nầy có thiết gì đâu! Việc mẹ gì các anh vời đến thằng nầy làm cái gì? - Grigori đang đứng ở phía sau tức quá đỏ mặt vung tay nhác lại - Chính thằng nầy có tự xin làm đâu? Tôi cần đến các anh làm cái quái quỉ gì! - Rồi chàng thọc tay vào hai túi quần rất sâu, gù lưng xuống, bỏ về nhà, chân bước dài như con giang.
Nhưng sau lưng chàng vẫn còn những tiếng la thét theo:
- Nầy, nầy! Lên mặt vừa vừa chứ?
- Thối như *** ấy? Đừng có hếch cái mũi quặp của mầy lên như thế!
- Ô hô-hô!
- Đấy cái máu Thổ Nhĩ kỳ nhà nó lại sục lên rồi!
- Có lẽ nó sẽ không chịu im đâu. Ngoài mặt trận nó còn chẳng chịu im trước mặt bọn sĩ quan nữa là? Bây giờ, làm thế nào…
- Quay lại đi!
- Ha-ha-ha-ha!
- Xích nó lại! Hà? Phì! Lêu-lêu-lêu-lêu!
- Sao các cậu lại sợ nó như thế! Lập toà án của chúng ta đem nó ra mà xử?
Một lúc sau mới lấy lại được trật tự. Có kẻ tranh cãi với nhau hăng quá đi đến xô đẩy nhau, có kẻ bị đánh bật cả máu mồm máu mũi, và trong đám trẻ có một thằng bất thần bị thêm một cái u dưới con mắt. Sau khi tất cả đã trở lại yên tĩnh, mọi người bắt tay vào việc bầu đội trưởng. Petro Melekhov được bầu, mặt hắn đỏ như quả bồ quân vì hãnh diện. Nhưng đến lúc nầy tên trung uý chợt vấp phải một sự trở ngại bất ngờ xuất hiện như một cái hàng rào quá cao trước mõm một con ngựa chạy đương hăng: đến lúc phải ghi tên những kẻ tình nguyện đi lính thì chẳng có ai tình nguyện. Trước tất cả những sự việc vừa xảy ra, bọn Cô-dắc ở mặt trận về đều tỏ ra rất dè dặt. Họ nghi ngại, không muốn ghi tên, mà chỉ pha trò:
- Anikey nầy, sao cậu không lên ghi tên đi!
Anikey lầu bầu:
- Mình còn quá ít tuổi… Râu ria chưa có gì cả…
- Nầy đừng bông với lơn nữa. Anh làm sao thế, muốn làm trò cho mọi người cười phải không? - Lão Kasulin quát vào tai hắn.
Anikey xua lão đi như một con muỗi vo ve quấy rầy:
- Bảo thằng Andrey nhà lão lên mà ghi.
- Nó ghi tên rồi?
- Prokho Zykov? - Trên bàn có tiếng gọi to.
- Có tôi?
- Anh ghi tên chứ?
- Tôi không biết…
- Họ ghi tên cậu rồi đấy!
- Mitka Korsulov bước tới gần cái bàn, mặt nghiêm trang. Nó nói giọng nhát gừng!
- Ghi tên tôi vào.
- Nào, có còn ai muốn ghi tên nữa không? Bodovskov Fedot…
- Ánh thế nào?
- Thưa các cụ bô lão, tôi bệnh sa ruột! - Fedot khiêm tốn đưa cặp mắt xếch như mắt dân Kalmys nhìn xuống đất, lúng búng trả lời.
Bọn cựu chiến binh ôm lưng nhau phá lên cười. Những tay khoẻ pha trò nhất thi nhau nói tếu:
- Cứ mang cả vợ cậu đi… Nếu lên cơn sa ruột, nó sẽ chữa cho.
- À - khà- khà- khà! - Bọn đứng phía sau cười lăn cười lộn, chúng ho sặc sụa, lấp loáng những hàm răng và những cặp mắt long lanh vì cười.
Từ đầu đằng kia, một câu pha trò khác bay tạt sang như một con bạc má:
- Bọn mình sẽ cho cậu một chân nấu bếp? Hễ súp nấu tồi chúng tớ sẽ tọng cho cậu đến khi cái bệnh sa ruột ấy chui ra đầu đăng kia mới thôi.
- Rút lui cùng với những thằng như thế nầy thì đừng hòng chạy nhanh được.
Bọn bô lão phát khùng, chửi rầm lên:
- Thôi đủ rồi? Đủ rồi? Bọn chúng nó có gì mà phởn quá thế?
- Thật hiếm được đúng lúc mà nói xằng nói bậy?
- Nầy các anh kia, cũng phải biết xấu hổ chứ? - Một lão cố khuyên. - Còn có Chúa nữa chứ! Còn có Chúa nữa chứ! Chúa không cho phép làm như thế đâu. Ngoài kia người ta đang hy sinh tính mạng mà các anh… Còn có Chúa nữa chứ!
- Tomilin Ivan, - Tên trung uý quay lại nhìn quanh.
- Tôi là pháo thủ. - Tomilin trả lời.
- Anh ghi tên chứ? Pháo thủ chúng tôi cũng cần.
- Thế thì ghi đi… ừ-ừ!
Dakha Korolev, Anikey cùng vài anh chàng nữa bèn đem gã pháo thủ ra làm trò cười.
- Bọn mình sẽ lấy một gốc liễu đục cho cậu một khẩu pháo. Bí ngô sẽ là đạn pháo, còn khoai tây sẽ thay đạn ghém.
Sáu mươi gã Cô-dắc đã bị ghi tên giữa những lời bông lơn và những tiếng cười. Khristonhia bước ra cuối cùng. Anh chàng đi tới trước cái bàn, nói rành rọt:
- Có lẽ ghi cả tên tôi vào đi. Nhưng tôi nói trước là sẽ không đánh nhau đâu.
- Thế thì ghi tên làm gì? - Tên trung uý hỏi giọng bực bội.
- Thử xem như thế nào, thưa ngài sĩ quan. Tôi muốn ngó xem như thế nào cái.
- Ghi tên hắn vào. - Tên trung uý nhún vai.
Cuộc họp tan thì đã gần giữa trưa. Mọi người quyết định ngày mai sẽ lên đường ngay để chi viện cho dân Migulinskaia.
Sáng hôm sau, trong số sáu mươi gã Cô-dắc ghi tên tình nguyện, chỉ vỏn vẹn có chừng bốn mươi gã đến tập hợp trên bãi thôn. Petro đưa mắt nhìn qua bọn Cô-dắc một lượt. Hôm nay hắn mặc áo ca-pôt, đi ủng cao, nom rất diện. Nhiều người mới đính lại những chiếc lon vai mang số hiệu trung đoàn cũ, có người không đeo lon. Những cái túi đựng đồ dã chiến độn phồng cả yên ngựa. Bánh khô, đồ lót và những viên đạn giữ lại từ hồi còn ở mặt trận được buộc vào những dây đai sau yên và đựng trong túi dết. Không phải cũng có súng trường, phần lớn chỉ đeo gươm.
Một đám đàn bà, con gái, trẻ con, người già ra bãi tụ tập đưa tiễn các thầy quyền. Petro vênh vang trên con ngựa đứng ngoài hàng quân, cho nửa đại đội tập hợp thành đội hình. Hắn nhìn một lượt những con ngựa đủ các màu lông, những chàng cưỡi ngựa, người thì mặc áo ca-pôt, người thì áo vải bạt, rồi ra lệnh lên đường. Cái chi đội nhỏ cho ngựa đi bước một lên gò, bọn Cô-dắc âm thầm ngoái nhìn lại thôn xóm, ở hàng cuối có người nổ phát súng. Lên đến đỉnh gò Petro lồng đôi găng vào tay, sửa lại hàng ria màu lúa mạch, kéo cương cho con ngựa giậm nhanh bốn chân đi ngang. Hắn đưa tay trái lên giữ chiếc mũ cát-két, mỉm cười cất tiếng hô:
- Đại đô ô-ội theo mệnh lệnh tôi! Nước kiệu… tiến!
Bọn Cô-dắc dướn người trên bàn đạp, vung roi cho ngựa chạy nước kiệu. Gió quật vào mặt, thổi tung đuôi ngựa, bờm ngựa. Trời đe doạ có mưa nhỏ. Mọi người bắt đầu pha trò, chuyện gẫu với nhau.
Con ngựa cao đúng tiêu chuẩn màu huyền của Khristonhia vấp chân, chủ nó vung roi quất tới tấp và chửi rầm lên. Con ngựa cúi cong cái cổ, phóng vụt lên nước đại, vượt ra khỏi hàng quân.
Cho tới trấn Karginskaia, tinh thần bọn Cô-dắc luôn luôn giữ được vui vẻ. Mọi người ra đi, trong lòng hoàn toàn tin tưởng rằng sẽ chẳng có chiến tranh gì cả, và việc xảy ra ở Migulinskaia chỉ là một cuộc đột nhập ngẫu nhiên của người Bolsevich vào vùng đất của dân Cô-dắc.
Trời sắp hoàng hôn thì đoàn ngựa đến Karginskaia. Trong trấn không còn có ai là cựu chiến binh nữa, họ đã đi Migulinskaia cả rồi.
Petro cho đội quân của hắn xuống ngựa trên cái bãi nhỏ bên cạnh cửa hiệu của lão lái buôn Levotkin, rồi đi đến nhà viên ataman trấn. Một viên sĩ quan cao lớn, da ngăm ngăm, vẻ người đầy sức mạnh, ra tiếp hắn. Viên sĩ quan nầy mặc một chiếc áo sơmi vừa dài vừa rộng không đeo lon, lưng thắt một chiếc đây da kiểu Kavkaz, cái quần đi ngựa Cô-dắc có nẹp, lồng vào trong đôi bít tất len trắng. Một cái píp thõng xuống bên mép cặp môi mỏng dính. Hai con mắt màu nâu có tia nhìn cứ gườm gườm, hiêng hiếng. Hắn đứng lại trên thềm, vừa hút thuốc vừa nhìn Petro bước tới. Cái thân hình đồ sộ của hắn với bắp thịt rắn chắc như đúc bằng gang hằn rõ dưới áo sơ- mi, trên ngực và hai cánh tay, tất cả thể hiện một sức mạnh khác người.
- Ngài là ngài ataman trấn?
Viên sĩ quan hà một hơi khói dưới bộ ria chầy xệ, trả lời bằng giọng nam trung:
- Vâng, tôi là ataman trấn. Không biết tôi có vinh dự hầu chuyện ai đây.
Petro tự giới thiệu. Viên ataman bắt tay hắn và hơi nghiêng đầu:
- Likhovidov Fedor Mitrievich.
Fedor Likhovidov là một tên Cô-dắc thôn Guxino - Likhovidovsky, một con người hoàn toàn không thuộc loại bình thường. Hắn đã học qua trường Yunke, vừa tốt nghiệp xong là biệt tăm một thời gian dài. Vài năm sau hắn đột nhiên về thôn. Được chính quyền cấp trên cho phép, hắn tuyển mộ một đội tình nguyện gồm những tên Cô-dắc đã hết hạn lính trở về. Trong khu vực trấn Karginskaia hiện nay, hắn đã tuyển được một đại đội toàn thằng bạt mạng, trời đánh thánh vật để cùng với hắn sang Ba-tư. Hắn ở bên ấy một năm cùng với đội quân của hắn, làm cận vệ cho tên quốc vương Ba-tư. Trong những ngày cách mạng Ba-tư, hắn cùng quốc vương Ba-tư chạy trốn, mất hết quân, rồi đùng một cái lại xuất hiện ở Kargin. Hắn có đưa về một số những tên Cô-dắc cũ, ba con ngựa Ả rập thuần giống trong chuồng ngựa của tên vua Ba-tư, và cơ man nào của cải: những tấm thảm quí, những đồ trang sức hiếm lạ, những tấm lụa màu sắc hết sức lộng lẫy. Hắn chơi bời một tháng, móc trong cáỉ túi chiếc quần đi ngựa của hắn ra tiêu một số tiền vàng Ba-tư không phải là nhỏ. Hắn cưỡi mốt con ngựa tuyệt đẹp lông trắng như tuyết, chân rất thon, cổ cong như cổ con thiên nga, rong chơi qua các thôn. Hắn thường cứ ngồi trên yên ngựa, tiến qua ngưỡng cửa vào hiệu của lão Levotki, mua thứ hàng gì đó, trả tiền, rồi cứ thế ra thẳng cửa bên kia. Fedor Likhovidov xuất hiện bất ngờ như thế nào thì lại biệt tích biệt tăm cũng bất ngờ như thế. Cùng biến đi với hắn có cả thằng bạn đường nối khố là tên hầu cận Panteliuska, một thằng Cô-dắc thôn Guxinov, khiêu vũ rất giỏi. Cả mấy con ngựa cùng tất cả những gì hắn mang từ Ba-tư về cũng biến theo hắn hết.
Nửa năm sau, Likhovidov xuất hiện ở Anbani. Từ Duracho ở bên ấy, hắn gởi về Kargin cho những kẻ quen biết những tấm bưu thiếp chụp những phong cảnh núi non xanh biếc của xứ Anbani với những cái tên rất lạ. Sau đó hắn rời sang Ý, chu du khắp miền Balkan, có mặt ở Rumani, ở Tây Âu và thiếu chút nữa thì sang tới Tây ban nha.
Một làn khói bí mật bao trùm lên cái tên Fedor Likhovidov. Trong các thôn xóm truyền lan những lời bàn tán và những giả thuyết hết sức khác nhau về hành tung của hắn. Người ta chỉ biết rõ một điều là hắn rất gần gũi với các giới trong hoàng tộc, kết giao với những tên quan lại chóp bu ở Petrograd, có chân trong "Hội liên hiệp nhân dân Nga"(1) giữ trách nhiệm khá quan trọng trong tổ chức đó, nhưng về những nhiệm vụ mà hắn làm ở nước ngoài thì chẳng ai biết.
Sau khi lại ở nước ngoài về, Fedor Likhovidov đến ở Penza một thời gian dài và ở ngay nhà viên tướng tỉnh trưởng. Được xem tấm ảnh của hắn, những người quen biết hắn ở Kargin cứ lắc đầu tặc lưỡi thán phục: "Ái chà chà?", "Cuộc đời của Fedor Mitrievich lên dốc đến ghê!". "Đi lại với những nhân vật như thế nầy cơ à?". Trên bức ảnh có thể thấy Likhovidov đưa tay đỡ tỉnh trưởng phu nhân bước lên chiếc xe ngựa nhẹ bốn bánh, một nụ cười trên khuôn mặt gãy mũi, đen như dân Serbi. Bản thân tỉnh trưởng đại nhân âu yếm mỉm cười với hắn như với một người thân. Gã xà ích lưng cánh phản duỗi hai bàn tay khẽ giật cương, và mấy con ngựa cắn hàm thiếc, sắp sửa phi vụt lên. Likhovidov đưa một tay lên vành chiếc mũ lông xồm một cách rất nịnh đầm, còn tay kia thì đỡ khuỷu tay tỉnh trưởng phu nhân, nhẹ nhàng như đỡ một cái tách.
Sau vài năm mất hút, mãi đến cuối năm 1917, Likhovidov mới lại mò về Kargin, lập cơ sở ở đấy, có vẻ như muốn sinh cơ lập nghiệp lâu dài. Hắn đem về một người vợ không biết là dân Ukraina hay dân Ba Lan và một đứa con nhỏ. Hắn ở một căn nhà nhỏ bốn buồng trên quảng trường đã một mùa đông không hiểu để mưu đồ những kế hoạch bí mật gì. Suốt mùa đông (mà mùa đông năm ấy rét ra rét, chẳng có vẻ khí hậu vùng sông Đông chút nào), bao nhiêu cửa sổ nhà hắn đều mở toang làm bà con Cô-dắc đều lấy làm lạ: hắn rèn luyện sức chịu đựng cho bản thân và cho vợ con.
Mùa xuân năm 1918, sau việc xảy ra ở gần Setrakov, hắn được bầu làm ataman. Thế là các khả năng vô hạn của Likhovidov tìm được đầy đủ đất dụng võ. Hai bàn tay sắt của hắn đã nắm chặt lấy trấn nầy, chặt đến nỗi chỉ một tuần sau, ngay bọn bô lão cũng phải lắc đầu thán phục. Hắn nghiêm khắc lên lớp bọn Cô-dắc, và sau lần hắn phát biểu tại hội nghị dân chúng toàn trấn (Likhovidov nói năng rất giỏi, ông trời đã không quên phú cho hắn cả sức khoẻ lẫn óc thông minh), bọn bô lão đã rống lên như một đàn toàn bò mộng: "Bẩm quan lớn hay lắm! Xin quan lớn cứ thế làm cho!", "Đúng lắm! "
Tên ataman mới đã thẳng tay sử dụng quyền lực của hắn. Hôm trước ở Karginskaia vừa nhận được tin về trận chiến đấu ờ gần Setrakov thì hôm sau trong trấn có bao nhiêu cựu chiến binh đều bị điều đến. Dân ngụ cư (chiếm một phần ba dân số các điểm dân cư trong trấn) đầu tiên không muốn đi, những tên cựu chiến binh bộ kinh khác thì phản đối, nhưng khi ra hội nghị đại biểu dân chúng Likhovidov đã kiên quyết giữ vững ý kiến, vì thế bọn bô lão đã ký một bản kiến nghị yêu cầu trục xuất tất cả những người "mu-gích" không tham gia bảo vệ sông Đông. Thế là ngay hôm sau hàng chục chiếc xe chở đầy lính đã kéo về hướng Napolov và làng Cherneskaia trong tiếng accordeon và tiếng hát. Trong số dân ngụ cư chỉ có vài người lính bộ binh trẻ theo Vaxiki Storozenko (trước kia chiến đấu trong trung đoàn súng máy số 1, chạy sang hàng ngũ Xích vệ.
Chỉ nhìn dáng điệu, tên ataman đã biết ngay Petro là một sĩ quan ngoi lên từ những cấp dưới. Hắn không rời Petro vào trong phòng mà cứ thế đứng nói, giọng có vẻ thân mật suồng sã.
- Không, ông bạn thân mến ạ, ngài chẳng còn có việc gì mà làm ở Migulinskaia nữa đâu. Không có ngài, mọi việc cũng đã xong xuôi cả rồi: tối qua chúng tôi đã nhận được điện. Ngài hãy cho anh em trở về và chờ lệnh. Nhưng các ngài phải lắc cho bọn Cô-dắc động lên mới được! Một thôn lớn như thế mà chỉ phái đi có bốn chục chiến binh à? Những cái thằng khốn nạn ấy, ngài cứ xạc cho chúng nó một trận cẩn thận? Phải biết rằng đây chính là chuyện sống còn của chúng nó? Chúc ngài khoẻ mạnh, mọi sự tốt lành!
Hắn quay vào trong nhà, đế đôi ủng ngắn hạng thường đập lộp cộp cái thân hình vạm vỡ của hắn di động nhẹ nhàng một cách rất bất ngờ. Petro trở về chỗ bọn Cô-dắc đang chờ trên quảng trường.
Mọi người nhao nhao hỏi hắn:
- Thế nào hử?
- Ở đằng ấy tình hình như thế nào?
- Chúng ta đi Migulin chứ?
Petro không giấu vẻ vui mừng, hắn cười mát trả lời:
- Đánh nước mã hồi thôi! Không có bọn mình đâu cũng đã vào đó cả rồi!
Bọn Cô-dắc mỉm cười lốc nhốc kéo nhau về chỗ buộc ngựa bên hàng rào. Khristonhia thậm chí thở dài như vừa trút được gánh nặng trên vai. Hắn vỗ vai Tomilin và nói:
- Thế là được về nhà rồi, cậu pháo thủ ạ!
- Lúc nầy bọn đàn bà ở nhà đã bắt đầu nhớ anh em mình rồi đấy!
- Chúng ta lên đường ngay thôi.
Mọi người bàn qua loa với nhau rồi quyết định không ở lại nghỉ đêm mà lên ngựa về ngay. Thế là họ quân hồi vô phèng, kéo nhau từng đám ra khỏi trấn. Lúc ở nhà lên Karginskaia, họ còn có thái độ miễn cưỡng, ít khi chịu cho ngựa chạy nước kiệu. Nhưng trên đường về họ đã thúc ngựa bạt mạng, cho chạy chết thôi. Thỉnh thoảng lại phi nước đại một chặng. Mặt đất rắn lại vì không có mưa rên siết dưới vó ngựa. Sau những đường sống gò đằng xa, một ánh chớp xanh lè loé lên ở một chỗ nào đó bên kia sông Đông.
Mọi người về tới thôn lúc nửa đêm. Trong khi cho ngựa chạy trên dốc xuống, Anikey giương khẩu súng áo của hắn nã một phát, một loạt đạn nổ ra như sấm báo tin anh em đã trở về. Để trả lời, những con chó trong thôn sủa lên oăng oẳng, một con ngựa không biết của anh chàng nào, đánh hơi thấy đã gần về tới nhà, run bắn lên hí một tràng dài. Mọi người tản ra mỗi người một ngả vào trong thôn.
Lúc chia tay với Petro, Marchin Samin thở dài nhẹ nhõm:
- Chuyện đánh đấm thế là xong rồi! May đến là may!
Petro mỉm cười trong bóng tối, cho ngựa chạy về sân nhà.
Ông Panteley Prokofievich ra tiếp lấy con ngựa. Ông tháo yên cho nó rồi dắt vào tầu ngựa. Hai bố con cùng đi vào trong nhà.
- Thôi không đi đánh nữa à?
- Vâng.
- Chà, ơn Chúa! Chỉ mong sao suốt đời không phải nghe nói tới những chuyện ấy nữa.
Daria đang ngủ mê mệt cũng trở dậy. Ả ra dọn bữa tối cho chồng ăn. Grigori ở nhà trong bước ra, quần áo phong phanh. Chàng vừa gãi gãi bộ ngực đầy lông đen, vừa nheo mắt một cách châm biếm vừa hỏi anh:
- Quân ta đại thắng chứ?
- Tao đang tiêu diệt nốt cái món súp củ cải còn lại đây.
- Không lo, nó chẳng đi đâu mà sợ. Gì chứ món súp nầy thì nhất định chúng ta sẽ trị được nó, nhất là khi có tôi xông tới chi viện.
Cho tới lễ Phục sinh vẫn chẳng thấy ai đả động gì đến chuyện chiến tranh. Nhưng hôm thứ bảy tuần thánh có một tên sĩ quan đặc phái từ Vosenskaia phi ngựa lới thôn. Hắn quẳng con ngựa mồ hôi đầm đìa ở cổng nhà Korsunov, chạy lên thềm, gươm đập lách cách vào ngưỡng cửa.
- Có tin tức gì thế! - Miron Grigorievich chạy ra đón hắn ở ngưỡng cửa - Tôi cần gặp ông ataman. Có phải ông không?
- Tôi đây.
- Ông cho anh em Cô-dắc sửa soạn vũ trang ngay. Pochenkov đang dẫn bọn Xích vệ tiến qua làng Nagolinskaia. Mệnh lệnh đây. - Hắn lật lần lót mũ đẫm mồ hôi, lấy ra một chiếc phong bì đựng công văn.
Cụ Grisaka cũng đeo kính ra tiếp chuyện. Mitka từ sân gia súc chạy vào. Mọi người cùng đọc bản mệnh lệnh của tên ataman quân khu. Tên sĩ quan đặc phái dựa vào dãy lan can chạm trổ, đưa tay áo lên chùi những đám bụi trên khuôn mặt dãi dầu nắng gió.
Ngày thứ nhất lễ Phục sinh, sau khi ăn bữa chấm dứt tuần chay, bọn Cô-dắc bắt đầu rời khỏi thôn lên đường. Mệnh lệnh của tên tướng Alferov rất nghiêm. Hắn doạ ai không đi sẽ bị tước danh hiệu Cô-dắc, vì thế trong trận đi đánh Pochenkov, không chỉ có bốn mươi người như lần đầu mà có một trăm tám mươi. Trong số đó có cả những tên bô lão muốn được dịp ra tay cho quân Đỏ một trận.
Lão Matvey Kasulin có cái mũi bị khí trời quá lạnh làm hỏng cũng lên ngựa ra đi cùng với thằng con. Lão Apdeit "Vua nói phét" nghênh ngáo trên hàng đầu với con ngựa cái hạng bét. Suốt chặng đường, lão đã mua vui cho bọn Cô-dắc bằng những câu chuyện bịa quái đản nhất. Lão Macxaev cùng vài lão già râu tóc bạc phơ khác cũng tham gia. Bọn trẻ ra đi một cách miễn cưỡng, nhưng mấy lão già lại rất hăng hái.
Grigori Melekhov cưỡi ngựa đi hàng cuối, mũ áo mưa trùm bên ngoài mũ cát-két. Mưa rơi đều đều như được rây từ trên bầu trời u ám xuống đất. Những đám mây đen trôi trên cánh đồng xanh rờn.
Một con đại bàng bay chập chờn rất cao, ngay bên dưới những đám mây. Nó vươn rộng đôi cánh, thỉnh thoảng mới vỗ vỗ vài cái, rồi khi bị một luồng gió cuốn đi, nó nghiêng nghiêng mình, tạt dần về hướng đông mỗi lúc một xa, mỗi lúc một nhỏ, bộ lông nâu nâu ánh lên bệch bệch.
Khắp đồng cỏ tràn ngập một màu xanh ướt át. Chỉ vài chỗ nổi bật lên những đám ngải cứu năm ngoái, những bụi hoàng thử lang đỏ tía, và trên ngọn gò thấy xám xám vài nấm kurgan xưa kia dùng làm địa điểm canh gác.
Trong khi đi theo đoạn đường dốc xuống Karginskaia, đoàn Cô-dắc gặp một thằng bé đánh bò đi ăn rong. Nó vung cái roi, hai bàn chân không giầy vừa đi vừa tượt. Nhìn thấy đoàn người ngựa, nó đứng lại chăm chú nhìn những người cưỡi ngựa và những con ngựa buộc đuôi bùn lấm bê bết.
- Em người đâu ta? - Ivan Tomilin hỏi nó.
- Kargin - Thằng bé mỉm cười dưới cái áo trùm đầu, trả lời rất lanh lợi.
- Các chú các bác Cô-dắc chỗ em đã ra đi chưa?
- Ra đi rồi. Đi đánh đuổi bọn Xích vệ rồi. Thế các bác có thuốc lá cho cháu cuốn một điếu không? Bác có không bác?
- Cháu xin thuốc lá à? - Grigori ghìm ngựa lại hỏi.
Thằng bé Cô-dắc bước tới gần chàng. Cái quần đi ngựa của nó xắn lên, ướt đẫm, nẹp quần đỏ loé. Grigori thọc tay vào túi lấy túi thuốc. Nó mạnh dạn nhìn vào mắt chàng và nói bằng một giọng nam cao rất lưu loát:
- Các bác cứ xuống dốc là thấy ngay những người bị giết đấy. Hôm qua bọn tù binh đỏ bị giải đi Vosenskaia, các bác Cô-dắc chỗ cháu đã giết sạch… Bác ạ, lúc ấy cháu đang chăn bò gần kurgan Pextranyi. Cháu đứng ở đấy, bọn tù binh bị chém như thế nào, cháu nhìn thấy rõ cả. Chao ôi, sợ chết khiếp được! Các bác ấy vừa vung gươm lên là họ gào rú, họ chạy tán loạn… Sau đó cháu có lại xem… Một người bị chém sả vai vẫn còn thở lấy thở để, quả tim đầm đìa những máu ở giữa ngực vẫn còn đập, cái gan thì xanh lè lè… Thật là khủng khiếp? - Nó nhắc lại và rất lấy làm lạ vì mấy người Cô-dắc nghe câu chuyện nó kể chẳng có vẻ khiếp sợ gì cả, hay ít nhất nó cũng kết luận như thế khi nhìn ba khuôn mặt gan lì và lãnh đạm của Grigori, Khristonhia và Tomilin.
Nó hút một hơi, rồi vuốt cái cổ ướt đẫm của con ngựa Grigori, nói: "Cám ơn bác!" và chạy về với mấy con bò.
Bên cạnh đường, xác của các chiến sĩ Xích vệ bị chém chết nằm ngổn ngang trên một bờ dốc không sâu lắm được nước mưa xuân rửa sạch, bên trên chỉ được phủ bằng một lớp đất mỏng. Còn có thể nhìn thấy một bộ mặt xanh sẫm như đúc bằng thiếc, với cặp môi đầy máu đọng. Một cái chân thòi lên đen sì trong cái ống quần bông màu lam.
- Chúng nó tởm lợm không muốn dọn dẹp chôn cất… Lũ khốn kiếp! Khristonhia lầu bầu, giọng âm thầm rồi bất thình lình hắn quất một roi cho con ngựa chạy xuống dốc, đuổi theo Grigori.
- Thôi thế là ngay trên vùng đất sông Đông đã được thấy đổ máu rồi - Tomilin mỉm cười, một bên má giật giật.
Chú thích:
(1) "Hội liên hiệp nhân dân Nga" - một tổ chức bảo hoàng tàn bạo của nước Nga thời Nga hoàng, cổ động bài Do thái, tổ chức những vụ giết hại dân Do-thái, ám sát các đối thủ chính trị của chúng, được Chính phủ Nga hoàng trợ cấp những món tiền rất lớn (Chú thích của bản tiếng Nga).
Một xạ thủ súng máy ở chỗ Buntruc là dân Cô-dắc thôn Tatarsky, tên là Maxim Griatnov. Từ ngày bị mất con ngựa trong trận chiến đấu với quân Kutepov, hắn bắt đầu rượu chè không còn chừng mực gì nữa và lao đầu vào cờ bạc. Con ngựa của Maxim có bộ lông đỏ như lông bò, sống lưng có một dải trắng như bạc. Hắn đang cưỡi thì con ngựa bị bắn chết. Hắn bèn tháo lấy bộ yên, khiểng đi bốn vec-ta. Đến khi thấy mình khó lòng sống sót trước trận tấn công hung dữ của quân Trắng, hắn đành giựt đứt cái đai ngựa rất đẹp tháo lấy bộ dây hàm thiếc, rồi tự ý rút khỏi trận chiến đấu. Về tới Rostov mới lại thấy mặt Maxim. Nhưng chẳng bao lâu hắn chơi bài tính điểm bị thua phải gán thanh gươm bằng bạc tước được trên thây một tên đại uý bị hắn chém chết, nướng thêm mấy thứ đồ thắng ngựa còn lại trong tay, rồi đến cái quần đi ngựa cùng đôi ủng bằng da hoẵng hắn cũng cho đi nốt, và cuối cùng đầu không khăn đít không khố, hắn mò tới đội súng máy của Buntruc. Buntruc lấy quần áo cho hắn mặc, lên lớp cho hắn một trận và chưa biết chừng Maxim dần dần cũng có thể hối cải. Nhưng trong trận chiến đấu vừa mở màn trên con đường tiến vào Rostov, hắn đã bị một viên đạn bắn thủng đầu. Một con mắt màu xanh da trời của Maxim rơi tuột xuống áo sơ-mi, máu tuôn ra như suối từ trong cái sọ mở hoác ra như một cái vỏ đồ hộp. Thế là trên đời nầy tựa như chưa từng bao giờ có anh chàng Cô-dắc Giratnov người trấn Vosenskaia với cái quá khứ ăn cắp ngựa và mới gần đây còn là một con sâu rượu đau khổ
Buntruc nhìn cái thân hình của Maxim quằn quại trong cơn ngoắc ngoải rồi lau rất kỹ những chỗ máu trên nòng súng máy phọt ra từ lỗ đạn trên đầu Maxim.
Vừa lúc đó phải rút lui ngay. Buntruc kéo khẩu súng máy đi.
Maxim nằm lại đấy và lạnh dần trên mảnh đất nóng rực, với cái lưng đen thui phơi ra dưới nắng và cái áo sơ-mi kéo ngược lên đầu (lúc hấp hối, hắn đau quá, cứ kéo ngược cái áo lên).
Trung đội Xích vệ gồm toàn những chàng bộ binh vừa ở mặt trận Thổ Nhĩ Kỳ về. Họ lui đến ngã tư đầu tiên thì chiếm lĩnh trận địa.
Một anh chàng đội chiếc mũ lông cháy gần hết, hở cả trán, giúp Buntruc bố trí khẩu súng máy, những người khác dựng đại khái như một cái ụ chiến đấu chặn ngang cái ngõ.
- Thấy chúng nó kia rồi! - Một anh chàng râu ria xồm xoàm mỉm cười nhìn đoạn đường gờ hình vòng cung rất gần sau ngọn gò.
- Bây giờ thì chúng mình sẽ cho bọn nó ăn một trận mưa đạn!
- Bẻ gãy đi thôi, Xamara? - Vài người gọi một chiến sĩ còn trẻ, rất vạm vỡ, đang tháo một mảnh ván trên dãy hàng rào.
- Chúng nó kia rồi! Đang xông tới đấy! - Anh chàng đội mũ hở trán leo lên mái một kho rượu quan sát rồi kêu lên.
Anna nằm xuống bên cạnh Buntruc. Anh em Xích vệ bố trí dầy đặc sau công sự tạm thời.
Giữa lúc ấy, có chừng chín mười chiến sĩ Xích vệ chạy theo cái ngõ bên cạnh, tới bức tường ngôi nhà góc phố, nom cứ như những con gà gô chạy theo bờ ruộng. Một người kịp hô:
- Chúng nó phi ngừa tới đấy! Bắn đi!
Trong nháy mắt, chỗ ngã tư đã vắng tanh, bốn bề lặng như tờ.
Một phút sau có một tên Cô-dắc phi ngựa tới, kéo theo cả một đám bụi mù. Hắn đội mũ cát-két buộc băng trắng, khẩu các-bin kẹp cạnh sườn. Hắn kéo ngoặt dây cương mạnh quá, làm con ngựa khuỵu hai chân sau. Buntruc kịp bắn theo một phát Nagan. Tên Cô-dắc ôm cổ ngựa, phi trở lại. Các chiến sĩ bộ binh có mặt bên cạnh khẩu súng máy có vẻ do dự. Hai người chạy dọc theo dãy hàng rào rồi nằm xuống bên cạnh một cái cổng.
Rõ ràng là mọi người đã dao động và sắp sửa bỏ chạy đến nơi.
Không khí chết lặng và căng thẳng đến cực độ, những cặp mắt hốt hoảng không thể hứa hẹn một tinh thần kiên định… Sau nầy Buntruc chỉ còn nhớ một điều cụ thể nhất, rõ ràng nhất là hình ảnh Anna nhảy chồm lên, khẩu súng trường cầm ngang tay, chiếc khăn trật ra sau đầu, làn tóc bay tán loạn, khuôn mặt nhợt nhạt, xúc động đến lạ hẳn đi. Anna quay mặt lại, chỉ tay về phía ngôi nhà có bọn Cô-dắc đang núp sau đó và hô lên bằng một giọng ngắc ra, nghe cũng không nhận ra được ngữa: "Theo tôi!", hô xong Anna xông lên, chân bước chập chững, chốc chốc lại vấp.
Buntruc chồm dậy, miệng anh méo đi trong một tiếng hô không rõ tiếng gì. Anh chộp lấy khẩu súng trường của người chiến sĩ bộ binh nằm bên cạnh, chạy bổ theo Anna. Anh thở hổn hển, cảm thấy hai chân run một cách khủng khiếp, mặt xạm đi trong cố gắng ghê gớm và bất lực để gào lên, gọi Anna quay trở lại. Phía sau nghe có tiếng thở hổn hển của vài người chạy theo. Từng đường gân thớ thịt trên cơ thể anh đã cảm thấy trước một cái gì khủng khiếp, không sao cứu vãn được, một kết cục rùng rợn đang ập tới. Trong nháy mắt đó, anh đã hiểu rằng hành động của Anna là vô nghĩa lý, là mất trí, và chỉ đưa tới chỗ chết chứ không thể nào lôi kéo được người khác.
Mới chạy đến góc phố thì có một toán Cô-dắc phi ngựa xông thẳng tới. Chúng bắn một loạt đạn. Đạn kêu víu víu. Anna kêu lên một tiếng thảm thương như một con thỏ, rồi ngồi phịch xuống đất, hai tay vươn ra, mắt như người hoá rồ. Buntruc không nhìn thấy bọn Cô-dắc quay ngựa bỏ chạy, không nhìn thấy các chiến sĩ bộ binh trong số mười tám người lúc nãy bố trí bên cạnh khẩu súng máy bị lôi cuốn theo nhiệt tình của Anna đang xông lên truy kích. Trước mặt anh chỉ thấy có Anna, một mình Anna, chỉ thấy Anna đang giãy dụa dưới chân mình. Tuy không còn cảm thấy hai tay mình nữa, Buntruc vẫn lật được Anna nằm nghiêng, và cố bế Anna lên để đưa đến một chỗ nào đó. Anh nhìn thấy một dòng máu chảy đầm đìa ở dưới sườn trái và những miếng rách của cái áo ngắn màu lam lủng lẳng lầy nhầy quanh vết thương, biết ngay rằng đây là một vết thương do đạn đum đum (1), biết rằng Anna sắp chết và cái chết đó anh đã nhìn thấy trong hai con mắt ngầu đục của Anna.
Có người đẩy Buntruc ra. Anna được khiêng tới một ngôi nhà gần đấy, đặt vào một chỗ mát dưới cái hiên nhà kho.
Người chiến sĩ bộ binh đội mũ hở trán nhét những nắm bông vào vết thương, đến khi thấy những nắm bông ấy trương lên, đen sịt những máu lại vứt đi. Buntruc đã trấn tĩnh lại được, anh cởi khuy cổ cái áo trong của Anna, rồi xé một mảnh áo sơ-mi của mình, vo tròn lại ấn lên vết thương. Anh thấy máu trong vết thương sủi lên, hơi thở phì ra qua lỗ hổng, anh thấy mặt Anna trắng bệch ra, sạm lại, cặp môi thâm tím run rẩy lập bập trong cơn đau đớn. Miệng Anna thở lấy thở để, nhưng phổi vẫn bị ngạt vì hơi thở phì ra cả đằng miệng lẫn qua vết thương. Buntruc không còn ngượng gì nữa, anh xé cái áo lót của Anna, lột trần cái thân hình đầm đìa mồ hôi trước khi lọt vào tay Thần chết. Cuối cùng đại khái cũng dùng nút gạt bịt được miệng vết thương. Vài phút sau Anna tỉnh lại. Cặp mắt sâu hoắm mở ra nhìn Buntruc giữa hai cái quầng thâm đen vì máu chảy bên trong, rồi hai hàng mi lại run run nhắm lại.
- Nước! Nóng quá! - Anna gào lên rồi vừa giãy giụa, vừa nức nở - Em muốn sống! Ilia-a-a! Anh yêu! A-a- a!
Buntruc gắn cặp môi sưng mọng của anh lên hai cái má nóng chảy như lửa của Anna và đổ nước trong cái ca lên ngực Anna. Nước chảy vào đầy hai chỗ hõm ở xương đòn gánh, nhưng lại ráo hoảnh ngay. Ngọn lửa của cái chết đang thiêu đốt Anna. Buntruc đổ đến bao nhiêu nước, Anna vẫn vùng vẫy, trườn ra khỏi tay anh.
- Nóng quá! Lửa đâu thế nầy?
Sau khi đã kiệt sức, người có phần lạnh đi, Anna nói rành rọt.
- Anh Buntruc, tại sao thế nhỉ? Chao ôi, anh thấy không, tất cả sao mà đơn giản! Anh quả là kỳ quặcl… Đơn giản một cách khủng khiếp Anh Ilia… Anh yêu của em, thể nào anh cũng nói với mẹ nhé… Anh có biết… - Anna hé mở hai con mắt nheo nheo như muốn cười rồi cố nén cả cái đau lẫn cái sợ, nói líu nhíu khó hiểu, tựa như vừa nói vừa bị nghẹn vì cái gì - Đầu tiên chỉ có cảm giác… Bị va mạnh và bị cháy bỏng… Bây giờ thì khắp người em nóng rực… Em cảm thấy em sắp chết rồi… - Anna thấy Buntruc xua tay một cách đau khổ như muốn bảo không phải thế, bèn nhăn mặt. - Thôi đi anh! Chao ôi, tức thở quá!
Những lúc bớt đau, Anna nói luôn miệng, nói rất nhiều như cố thổ lộ cho hết những điều đè nặng trong lòng mình. Buntruc rất đỗi kinh hoàng khi thấy mặt Anna sáng bừng lên, hai bên thái dương trở nên trong bóng, vàng ệch. Anh đưa mắt nhìn xuống hai tay Anna lúc nầy đã buông thõng hai bên sườn, không còn sức sống nữa, thấy những móng tay đã biến thành màu hồng hồng xanh xanh như những quả mận chín dở.
- Nước… Lên ngực… Nóng quá!
Buntruc chạy bổ vào trong nhà lấy nước. Lúc quay ra thì không còn nghe thấy tiếng Anna rên khò khè dưới mái nhà kho nữa. Mặt trời đã xuống thấp chiếu lên cái miệng méo xệch trong cơn giãy chết cuối cùng, lên bàn tay còn ấm áp chặn vào vết thương, nom cứ như cái mô hình nặn bằng sáp ong chứ không phải tay thật. Buntruc từ từ ôm lấy vai Anna, nâng Anna dậy, nhìn một phút cái mũi có phần nhọn thêm ra và những điểm tàn hương nhỏ đã đen lại ở chỗ tinh mũi, cố vót vát chút ánh sáng còn ngưng đọng trong đồng tử của cặp mắt he hé dưới hai hàng lông mày đen vươn rộng một cách phóng khoáng. Đầu Anna lật ngửa ra bất lực, rũ xuống mỗi lúc một thấp trên cái cổ thon nhỏ của một người con gái với mạch máu hằn lên xanh xanh đã đập nhịp cuối cùng.
Buntruc áp đôi môi anh lên một bên mi mắt tím quầng chưa nhắm nghiền hẳn, gọi thất thanh:
- Em ơi? Anna ơi! - Gọi xong anh đứng dậy, quay ngoắt bỏ đi, người rướn thẳng một cách rất không tự nhiên, hai tay áp chặt vào đùi không động đậy.
Chú thích:
(1) Một thứ đạn cắm sâu vào mục tiẽu rồi mới nổ, khi nổ nghe có tiếng "đum đum".
Mấy ngày nay, Buntruc cứ như sống trong cơn mê của một người mắc bệnh thương hàn. Anh đi lại, làm việc nầy việc nọ, ăn, ngủ, nhưng lúc nào cũng như trong một trạng thái nửa tỉnh nửa mê ngây ngất, say sưa. Hai con mắt anh sưng lên, đầy vẻ điên dại, cứ nhìn cái thế giới trải rộng chung quanh mình nhưng chẳng hiểu gì cả. Gặp những người quen biết, anh không nhận ra họ nữa. Nom anh như một người đang say bí tỉ hoặc vừa thoát khỏi một trận ốm liệt giường và đã hoàn toàn kiệt sức. Sau khi Anna qua đời, các giác quan của Bôntrúc bị mất tác dụng một thời gian: anh chẳng mong muốn gì mà cũng chẳng nghĩ tới điều gì nữa.
- Ăn đi, Buntruc! - Các đồng chí khác bảo anh ăn, thế là ngồi vào ăn, quai hàm thẫn thờ đưa đi đưa lại một cách mệt mỏi, hai con mắt nhìn đăm đăm vào một điểm.
Mọi người theo dõi Buntruc, bàn nên đưa anh vào bệnh viện.
- Anh ốm đấy à? - Hôm sau có một chiến sĩ súng máy hỏi anh.
- Không.
- Thế thì anh làm sao vậy? Nhớ Anna à?
- Không.
- Thôi được, chúng ta cùng hút điếu thuốc nhé. Người anh em ạ, bây giờ Anna không còn sống lại được nữa đâu. Thương nhớ chỉ hoài công.
- Đến giờ đi ngủ người ta bảo anh:
- Cậu đi ngủ đi. Đến giờ rồi đấy.
Thế là Buntruc nằm vào giường.
Anh đã sống bốn ngày liền trong cái trạng thái nhất thời chơi vơi ngoài thực tế như thế. Đến ngày thứ năm thì Krivoslykov bắt gặp anh ở ngoài phố, bèn nắm lấy tay áo anh và bảo:
- Chà tóm được cậu đây rồi, mình đi tìm cậu mãi. - Krivoslykov chưa được biết về những chuyện xảy ra với Buntruc. Anh mỉm cười lo lắng, thân mật vỗ vai Buntruc. - Cậu làm sao thế nầy? Vừa có tí tửu phải không? Cậu đã được nghe nói về chuyện một đại đội viễn chinh sắp được phái lên các quân khu miền Bắc chưa? Còn sao nữa, một Uỷ ban năm người vừa được bầu ra. Fedor sẽ lãnh đạo. Chỉ còn hy vọng vào bà con Cô-dắc miền Bắc nữa thôi. Nếu không tất cả sẽ hỏng bét. Tình hình đang gay go lắm! Cậu sẽ đi chứ? Bọn mình đang cần một số đồng chí làm công tác cổ động. Cậu sẽ đi chứ?
- Đi - Buntruc trả lời gọn lỏn.
- Thế thì tốt lắm. Ngày mai chúng mình sẽ lên đường. Cậu cứ tới chỗ cụ Orlov, ông cụ sẽ dẫn đường cho chúng mình đấy.
Vẫn trong trạng thái hồn vía lên chín từng mây, Buntruc làm các việc chuẩn bị lên đường, và hôm sau, tức là ngày mồng một tháng Năm, anh ra đi cùng với đội viễn chinh.
Dạo nầy, chính quyền Xô viết vùng sông Đông đang lâm vào tình thế rõ ràng bị đe doạ nghiêm trọng. Các đơn vị chiếm đóng của quân Đức tiến từ Ukraina sang, các trấn và các khu miền dưới hoàn toàn bị tràn ngập dưới làn sóng bạo động phản cách mạng Popop lượn đi lượn lại trong khu vực qua mùa đông và từ đấy uy hiếp Novocherkask. Đại đội đại biểu Xô viết quân khu họp ở Rostov từ mồng mười đến mười ba tháng Tư đã bị gián đoạn đến mấy lần, vì dân Cherkask dấy loạn đang tiến về phía Rostov và đã chiếm được vùng ngoại ô. Chỉ ở miền Bắc, trong hai quân khu Khopesky và Ust-Medvedisky là còn vài căn cứ cách mạng tương đối có tinh thần, và chính các căn cứ ấy đã tự nhiên thu hút Pochenkov cùng những người đã mất niềm tin vào sự ủng hộ của dân Cô-dắc vùng dưới. Công tác động viên vào quân đội đã thất bại, vì thế theo sáng kiến của Laguchin, Pochenkov vừa được bầu làm chủ tịch Xô viết các uỷ viên nhân dân sông Đông, đã quyết định tiến về phía bắc, để động viên trên đó ba bốn trung đoàn gồm các binh sĩ Cô-dắc mới ở mặt trận về, và đưa các trung đoàn ấy đi đánh quân Đức cùng lực lượng phản cách mạng ở vùng dưới.
Một Uỷ ban động viên đặc biệt gồm năm người do Pochenkov lãnh đạo đã được bầu ra. Ngày hai mươi chín tháng Tư đã trích công quỹ lấy mười triệu đồng vừa tiền rúp, vừa vàng, vừa giấy bạc Nicolai để dùng cho các nhu cầu của việc động viên. Một đội vũ trang đã được tổ chức vội vã để bảo vệ các hòm tiền, đội nầy chủ yếu gồm những anh em Cô-dắc trước kia thuộc đội cảnh bị địa phương Kamenskaia. Ngoài ra còn lấy thêm vài cán bộ cổ động người Cô-dắc. Ngày mồng một tháng Năm, ngay dưới làn đạn máy bay Đức, đội viễn chinh lên đường về hướng Kamenskaia.
Các con đường đều bị tắc vì những đoàn xe chở các chi đội Xích vệ rút lui khỏi Ukraina. Quân phiến loạn Cô-dắc phá cầu cống, gây ra những vụ đổ tầu. Sáng nào trên con đường Novocherkask – Kamenskaia cũng thấy máy bay Đức xuất hiện. Những chiếc máy bay lượn vòng như những đàn diều hâu, rồi là xuống, nã vài tràng súng máy ngắn ngủi. Các chiến sĩ Xích vệ chạy tản ra khỏi các đoàn xe, nổ súng loạn lên từng hồi. Ở bất cứ ga nào, mùi than xỉ cũng hoà lẫn với cái mùi khe khé của chiến tranh và chết chóc. Những chiếc máy bay đã ngóc cổ lao lên những độ cao khó tưởng tượng, nhưng các xạ thủ vẫn ra sức bắn cho vơi các hòm kẽm đựng đạn. Nếu đi qua các đoàn tầu nhà binh thì ủng sẽ thụt đến mắt cá trong vỏ đạn. Cát bị lớp vỏ đạn phủ kín như những khe núi trong tháng Mười một dưới lớp lá sồi vàng óng. Mọi vật đều ghi dấu một sự phá hoại không còn mức độ nào nữa: Trên các sườn đồi ngổn ngang những toa xe bị đốt, bị phá vỡ đen như than. Trên các cột điện tín, dây thép đứt cuốn loằng ngoằng quanh những chiếc bình bằng sứ trắng như đường. Nhiều ngôi nhà đã bị phá huỷ, các bảng tín hiệu dọc các tuyến đường sắt đều biến đi đâu mất như sau một trận bão lớn…
Đội viễn chinh đã len lỏi tiến theo hướng Minlerovo được năm ngày. Đến sáng ngày thứ sau, Pochenkov triệu tập các uỷ viên đến toa của anh.
- Không còn có thể đi như thế nầy được nữa đâu! Phải bỏ tất cả đồ đạc của chúng ta lại để xuống xe hành quân thôi.
- Cậu nói gì thế? - Laguchin ngạc nhiên kêu lên - Hành quân trên đường thì trước khi mò được tới Ust-Medvedskaia, quân Trắng đã dẫm qua xác chúng ta rồi.
- Còn khá xa đấy, - Mrykhin ngập ngừng.
Krivoslykov vừa đuổi kịp đội viễn chinh chưa được bao lâu. Anh chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi thu lu trong chiếc áo ca-pôt đính những chiếc quân hiệu bạc màu. Anh đang lên cơn sốt rét, uống ký ninh đến ù cả tai, đầu nóng bừng bừng, cứ gù gù cái lưng ngồi trên một túi đường, mắt mờ đi dưới lớp màng của bệnh sốt rét.
- Krivoslykov? - Pochenkov gọi nhưng mắt vẫn không rời tấm bản đồ.
- Cậu cần gì thế?
- Cậu không nghe thấy chúng mình đang nói về chuyện gì à? Phải xuống tầu đi bộ thôi, nếu không bị chúng nó đuổi kịp thì sẽ mất mạng. Cậu thấy thế nào hử? Cậu được học hành nhiều hơn bọn mình, bây giờ cậu hãy nói đi.
- Kể ra đi bộ cũng được - Krivoslykov nói thủng thẳng từng tiếng, nhưng bỗng nhiên hai hàm răng anh đập vào nhau lách cách, cứ như răng chó sói, toàn thân run bần bật trong cơn sốt rét đang phát lên đến cực độ. - Cũng được đấy nếu đồ đạc mang theo ít hơn.
Pochenkov mở rộng tấm bản đồ bên cạnh cửa sổ. Mrykhin giữ hai góc. Dưới ngọn gió thổi từ phía trời tây u ám, tấm bản đồ đập lạch phạch rồi bay đánh soạt khỏi tay hai người.
- Chúng ta sẽ đi như thế nào, cậu xem nhé! - Ngón tay vàng khè vì khói thuốc của Pochenkov đưa tréo qua tấm bản đồ. - Cậu có thấy tỉ lệ không? Chừng trăm rưởi vec-xta quá lắm hai trăm là cùng. Thế đấy!
- Giải quyết như thế mà đúng đấy, mẹ khỉ! - Laguchin đồng ý.
- Cậu thấy thế nào, Mikhail?
Krivoslykov nhún vai có vẻ bực bội.
- Mình không phản đối.
- Mình sẽ ra bảo ngay anh em Cô-dắc xuống tầu. Không nên để mất thì giờ làm gì.
Mrykhin đưa mắt nhìn mọi người một lượt có vẻ chờ đợi. Anh chàng thấy không có ai phản đối, bèn nhảy ra khỏi toa xe.
Trong buổi sáng âm u mưa dầm rả rích đó, đoàn xe nhà binh chở đội quân viễn chinh của Pochenkov dừng lại ở một nơi cách Belaya Katliva không xa mấy. Buntruc nằm trọng toa xe của anh, áo ca-pôt trùm kín đầu. Anh em Cô-dắc nấu nước trà ngay trong toa, người nọ đem người kia ra pha trò và cùng cười khà khà.
Vanca Bondyrov, anh chàng vua cù hay chế giễu người khác, dân trấn Migulinskaia, đang trêu bạn, một chàng súng máy.
- Íchnát nầy, cậu là dân tỉnh nào thế nhỉ? - Vanca hỏi, giọng vốn đã khàn lại càng khê đặc vì khói thuốc lá.
- Tambobskaia, - Ichnát vốn tính hiền lành, hắn trả lời bằng một giọng trầm rất dịu dàng.
- Có lẽ cậu ở thôn Morsansky phải không?
- Không, thôn Satsky.
- À -à-à cái dân Sátsky nhà cậu toàn là những tay gan dạ ra phết: đánh nhau thì bảy mình chọi một địch cũng chẳng sợ. Có phải hồi vua Nga lên ngôi thôn cậu đã dùng dưa chuột chọc tiết bò, phải không?
- Thôi, cậu hãy bỏ cái chuyện ấy đi!
- À phải, mình quên khuấy đi mất, cái chuyện ấy không phải đã xảy ra ở thôn cậu đâu. Hình như ở thôn cậu bà con đã đem những cái bánh tráng xếp thành một toà nhà thờ rồi đặt lên những hạt đậu Hà Lan để đẩy cho lăn xuống dốc phải không? Có cái chuyện như thế không nhỉ?
Vừa lúc ấy ấm trà bắt đầu sôi, vì thế Ichnat tạm thời thoát được những lời bông phèn của Bondyrev. Nhưng mọi người vừa ngồi vào ăn sáng, Vanca đã lại giở trò:
- Ichnát nầy, hình như cậu ít ăn thịt lợn thì phải. Cậu không thích thịt lợn có phải không?
- Không, ăn cũng chẳng sao.
- Thế thì cho cậu cái b… lợn nầy. Ngon tuyệt đấy!
Mọi người cười rộ. Có anh chàng bị nghẹn ho sặc sụa. Trong toa xe náo lên một lát, đế ủng đập xuống sàn tầu ầm ầm. Một phút sau mới nghe thấy cái giọng hổn hển và tức tối của Ichnát:
- Của cậu, cậu ăn đi, đồ quỷ? Sao cậu lại đem cái con b... của cậu ra đây?
- B… mình đâu, b… lợn đấy.
- Cũng chỉ là của bẩn thỉu cả thôi?
Mặt Bondyrev vẫn phớt lạnh, hắn kéo dài cái giọng khàn đặc:
- Bẩn thỉu ấy à? Đầu óc cậu để ở đâu thế? Ngày lễ Phục sinh người ta đem nó ra phong chức thánh đấy. Nhưng cậu cứ nói thật đi, cậu sợ phạm kiêng kỵ ngày ăn chay à?
Bondyrev có một người bạn đồng hương là một chàng Cô-dắc đẹp trai râu tóc màu hạt dẻ nhạt, đã từng được thưởng cả bốn hạng huân chương thánh Gioóc. Anh ta thấy thế bèn khuyên:
- Thôi bỏ chuyện ấy đi, Ivan! Cậu làm như thế thì lúc choảng nhau với bọn mu-gích sẽ xúi quẩy đấy. Nó ăn b… lợn vào rồi đầu óc sẽ chỉ còn nghĩ tới chuyện đi mò như con lợn đực thôi. Nhưng cái của nầy cậu rước ở đâu về thế hử?
Buntruc vẫn nằm, hai con mắt nhắm nghiền. Câu chuyện trao đổi giữa mọi người không lọt vào tai anh, vì anh đang sống với nỗi đau khổ vừa đổ lên đầu anh trong thời gian gần đây, nó không hề nguôi đi mà thậm chí như ngày một tăng thêm. Tuy nhắm mắt, nhưng anh vẫn thấy mung lung hiện ra một cánh đồng cỏ đầy tuyết quay lộn, với những cánh rừng nhấp nhô nâu nâu trên chân trời đằng xa. Anh cảm thấy như có luồng gió lạnh và nhìn thấy Anna bên cạnh mình với cặp mắt đen nhánh, những nét kiên định nhưng dịu dàng của cái miệng đáng yêu, những điểm tàn hương nhỏ li ti ở chỗ tinh mũi, một vết nhăn tư lự ngang trán… Buntruc không nghe thấy những lời thót ra từ miệng Anna, những lời đó rất khó nghe, khó hiểu vì bị át bởi những tiếng nói tiếng cười của những người nào đó, nhưng nhìn những cái ánh long lanh trong cặp đồng tử, nhìn hai hàng mi cong rung rung, anh đoán rằng Anna đang nói… Nhưng đây là một Anna khác hẳn mọi khi: da mặt xanh xanh vàng vàng, những dòng nước mắt đọng lại trên má, cái mũi nhọn hoắt ra và cặp môi méo đi vì đau khổ nom thật đáng sợ. Buntruc cúi xuống hôn hai con mắt đờ đẫn sâu hoắm, đen ngòm… Anh rên lên một tiếng nhưng đưa ngay tay trái lên bị chặt miệng mình để khỏi oà lên khóc. Những ngày qua không hề làm cho hình ảnh Anna phai nhoà hay mờ đục. Khuôn mặt Anna, thân hình, dáng đi cử chỉ, những sự thay đổi trong đường môi, ánh mắt và nét lông mày phóng khoáng của Anna, tất cả vẫn họp lại thành một Anna trọn vẹn và sống động. Buntruc nhớ lại những lời nói đầy tình cảm lãng mạn của Anna, nhớ lại tất cả những gì mình đã trải qua cùng với Anna.
Thấy có lệnh xuống tàu, anh em bèn gọi Buntruc. Anh đứng dậy, thẫn thờ thu dọn đồ đạc rồi rời khỏi toa xe. Sau đó anh giúp việc dỡ hàng và vẫn thẫn thờ như thế ngồi lên chiếc xe ngựa để lại lên đường.
Mưa lâm râm. Những đám cỏ cằn cỗi hai bên đường đều ướt đẫm. Đồng cỏ. Gió tự do hoành hành trên các đường sống đồi cũng như dưới những cái khe. Các thôn trại liên tiếp hiện ra, cái xa, cái gần.
Những đám khói trên các đầu máy xe lửa và các khối kiến trúc chữ nhật đỏ đỏ của nhà ga đã bị để lại phía sau. Hơn bốn chục chiếc xe ngựa thuê ở Belaya Kalitva nối đuôi nhau chạy trên đường cái.
Những con ngựa không chạy nhanh được. Lòng đường vừa đất sét vừa đất đen bị thấm nước mưa rất khó đi. Bùn bám vào các bánh xe từng đám nom như những túm bông đen. Từng đoàn thợ mỏ của khu Belokalitvensky đi phía trước và phía sau đội viễn chinh. Họ chạy về phía đông để trốn tránh bạo quyền của dân Cô-dắc, đem thêm bầu đoàn thê tử và chút đồ đạc nghèo nàn.
Khi đội viễn chinh tiến đến gần nhà ga tránh xe Gratri, hai chi đội Xích vệ của Romanovsky và Sadelko đuổi theo kịp. Cả hai đều bị đánh thất điên bát đảo. Mặt các chiến sĩ đều đen xạm, tiều tụy vì những trận chiến đấu, những đêm không ngủ và những sự thiếu thốn. Sadelko lại gần Pochenkov. Khuôn mặt đẹp trai của anh với hàng ria tỉa theo kiểu ănglê. Cái mũi thanh thanh, nom hốc hác hẳn đi Buntruc đi qua, thấy Sadelko cau mày nói bằng một giọng vừa bực bội vừa mệt mỏi:
- Anh nói gì với tôi vậy? Chẳng nhẽ tôi không hiểu rõ những anh em dưới quyền tôi hay sao? Tình hình nguy khốn lắm, lại còn quân Đức nữa chứ, mẹ cái bọn khốn kiếp! Thế nầy thì bao giờ mới mộ đủ quân?
Sau câu chuyện trao đổi với Sadelko, Pochenkov trở nên nhăn nhó khổ sở và tựa như có phần hoang mang. Anh đuổi theo chiếc xe của anh, xao xuyến nói không biết những gì với Krivoslykov.
Buntruc nhìn theo hai người thấy Krivoslykov chống khuỷu tay nhổm lên, nói liến thoắng một tràng, vừa nói vừa đưa bàn tay chém lia lịa trong không khí. Pochenkov lại vui hẳn lên, anh nhảy lên xe ngựa, khung xe kêu răng rắc dưới cái thân hình chàng pháo thủ nặng tới sáu pút. Người đánh xe ra roi quất hai con ngựa, bùn bắn vung từng nắm sang hai bên.
- Cứ quất đi!
Pochenkov nheo mắt kêu lên, tà áo da mở phanh đón gió.