Tàng hình và tự do! Tàng hình và tự do! Sau khi bay hết ngõ phố của mình, Margarita đến một ngõ phố khác cắt vuông góc với ngõ thứ nhất. Cái ngõ này vừa dài vừa cong, vừa chắp vá chằng chịt, với cánh cửa xiêu vẹo của cửa hàng dầu hỏa, nơi người ta bán đong từng ca dầu và thuốc diệt ký sinh trùng trong các ve lọ, Margarita vượt qua trong một nháy mắt, và đến đấy nàng hiểu ra rằng, tuy là hoàn toàn tự do và tàng hình, nhưng dù sao cả trong khi đang cơn khóai chí cũng phải biết thận trọng ít nhiều. Chỉ nhờ một cách kỳ diệu nào đó hãm lại kịp , nàng mới không vấp đến vỡ đầu vào một cây cột điện cũ đứng đổ ngiêng ở góc phố. Vòng tránh được sang bên, Margarita siết chặt cán cây bàn chải cọ nhà và bay chậm lại, không rời mắt khỏi những đường dây điện và các tấm biển quảng cáo treo ngang phía trên vỉa hè.
Ngõ phố thứ ba dẫn thẳng ra đường Arbat. Đến đấy Margarita đã hoàn toàn học được cách điều khiển cây bàn chải cọ sàn, hiểu rằng nó tuân theo từng cử động cực kỳ nhỏ của bàn tay nàng, và rằng trong khi bay trên thành phố phải hết sức tập trung và không được quá hung hăng. Ngoài ra, ngay từ trong ngõ phố, nàng đã biết rõ rằng những người qua đường không trông thấy nàng đang bay. Không một ai ngẩn lên trời, không ai hét: “ Nhìn kia, nhìn kia !”, không ai nhảy sang bên đường, rít lên hoặc té xỉu, không ai phá ra cười man dại.
Margarita bay lặng lẽ, rất chậm và không cao lắm, khoảng ngang tấm tầng hai của các ngôi nhà.
Nhưng cả khi đã bay chậm, ở ngay cạnh lối ra phố Arbat sáng chói chang, nàng vẫn lỡ đà chạm vai vào một chiếc đĩa tròn được chiếu sáng có hình mũi tên. Điều đó khiến Margarita nỗi cáu. Nàng kìm cây bàn chải cọ sàn lại, bay cách ra một quãng rồi đột ngột lao vào chiếc đĩa tròn, dùng cán cây bàn chải đánh vỡ nát nó ra. Những mảnh vỡ rơi loảng xoảng xuống hè phố, người qua đường chạy giạt ra, ở một nơi nào đó vang lên tiếng còi; còn Margarita, sau khi tiến hành xong cái hành động không cần thiết đó, phá ra cười. “ Ở Arbat, cần phải thận trọng hơn nữa, - Margarita nghĩ, - ở đây tất cả đều rối rắm, không biết đâu mà lần.” Nàng bắt đầu luồn lách giữa những đường giây điện. Trôi phía dưới Margarita là những trần xe ôtôbuýt, ôtô chạy điện, xe hơi, còn dọc theo các vĩa hè, như Margarita cảm thấy từ trên cao, là những dòng sông mũ lưỡi trai. Từ các con sông này tỏa ra những dòng suối nhỏ, chúng đổ vào chiếc mõm của những cửa hiệu sáng ánh đèn.
“ Ê, một đám hỗn độn! – Margarita giận dữ nghĩ, - ở đây không thể quay rẽ vào đâu được”. Nàng cắt ngang Arbat, bay lên cao hơn, đến ngang tầng bốn, qua những ống tròn lấp lánh của tòa nhà hát ở góc phố vào một ngõ hẹp với những ngôi nhà cao tầng. Tất cả các cửa sổ ở đây đều để mở, và khắp nơi, từ các ô cửa sổ vang lên tiếng nhạc radio. Vì tò mò, Margarita ngó vào một ô cửa sổ, nhìn thấy ở đó một gian bếp. Hai chiếc bếp dầu đang cháy reo trên mặt bàn, đứng cạnh chúng là hai người đàn bà tay cầm thìa đang chửi nhau.
- Tôi nói với chị là khi ra khỏi phòng vệ sinh phải tắt đèn đi, Pelageia Petrovna ạ, - một người đàn bà nói, trước mặt chị ta là chiếc chảo với món thức ăn nào đó đang bốc khói nghi ngút, - nếu không, chúng tôi sẽ gửi đơn đề nghị tống cổ chị ra khỏi đây ngay!
- Chị thì giỏi giang lắm đấy, - người đàn bà thứ hai đáp.
- Cả hai đều thật là giỏi giang, - Margarita vừa bước qua bệ cửa sổ vào bếp vừa nói to. Hai người đàn bà cãi nhau quay phắt về phía có tiếng nói và đứng chết lặng với những chiếc thìa bẩn trong tay. Margarita thận trọng chìa tay qua khoảng giữa hai người, vặn nút điều chỉnh tắt lửa ở cả hai bếp dầu. Hai người đàn bà kêu ối lên và há hốc miệng. Nhưng Margarita ở trong bếp đã thấy chán nên vội bay luồn ra ngõ phố.
Ở cuối ngõ nàng trông thấy một khối nhà tám tầng đồ sộ và sang trọng, có vẻ như vừa mới được xây xong. Margarita hạ thấp dần xuống đất và trông thấy mặt tiền của ngôi nhà được ốp đá cẩm thạch đen; những cánh cửa ra vào rất rộng, sau mặt kính của chúng trông rõ chiếc mũ lưỡi trai viền vàng và hàng cúc áo của người gác cửa, phía trên cửa gắn một tấm biển kẻ chữ mạ vàng: “ Khu Văn Kịch”.
Margarita nheo nheo mắt nhìn tấm biển, cố đoán xem các từ “ Khu Văn kịch” có nghĩa là gì. Kẹp cây bàn chải cọ sàn vào nách, Margarita đẩy cánh cửa ra vào làm người gác cửa trố mắt kinh ngạc, nàng bước vào tiền sảnh và trông thấy trên tường cạnh thang máy một tấm bảng đen đồ sộ, trên đó tên những người cư trú và số căn hộ được viết bằng dòng chữ trắng. Hàng chữ ghi phía dưới bảng danh sách “ Khu tập thể các nhà văn và kịch sĩ” khiến Margarita thốt lên một tiếng hú man dại tắt nghẹn. Nàng nâng mình lên cao trên không, háo hức đọc từng tên họ: Khustov, Dvubratski, Kvant, Beskudnikov, Latunski…
- Latunski! – Margarita rít lên. – Latunski! Đây chính là hắn! Chính hắn đã làm hại Nghệ Nhân.
Người gác cửa ở bên lối ra vào tròn xoe mắt, thậm chí nhảy dựng lên vì kinh ngạc, nhìn như bị thôi miên lên tấm bảng đen, cố gắng hiểu cái điều kỳ dị vừa xảy ra; tại sao bảng danh sách những người ở trong khu tập thể lại bỗng nhiên rít lên như vậy. Còn Margarita ngay lúc đó đã chạy như bay theo cầu thang lên phía trên, miệng lặp đi lặp lại không ngớt trong cơn hưng phấn:
- Latunski – 84! Latunski – 84! Đây rồi, phía bên trái – 82, phía bên phải - 83, lên cao hơn, tầng trên, bên trái – 84. Đúng chỗ này. Lại có cả biển đề “O. Latunski”.
Margarita tụt xuống khỏi cây bàn chải cọ sàn, và mặt sàn đá làm đôi gót chân bốc lửa của nàng dịu đi. Margarita bấm chuông một, rồi hai lần. Nhưng không có ai ra mở cửa. Margarita ấn nút mạnh hơn và nghe thấy tiếng chuông reo trong căn hộ của Latunski. Vâng, cho đến khi chui vào quan tài, người có hộ khẩu cư trú tại căn hộ số 84 tầng hầm của ngôi nhà này phải mang ơn Berlioz quá cố, vì ông chủ tịch MASSOLIT đã lăn xuống bánh tàu điện, và phiên họp tưởng niệm lại tổ chức đúng vào cái buổi chiều hôm đó. Nhà phê bình Latunski sinh ra dưới một ngôi sao bản mệnh tốt. Nó đã cứu ông ta khỏi phải gặp mặt với Margarita đã biến thành phù thủy vào tối thứ sáu hôm đó!
Không có ai ra mở cửa. Lúc đó Margarita phóng như bay xuống phía dưới, vừa chạy vừa đếm số tầng, rồi lao ra ngoài đường, ngước mắt nhìn lên, đếm lại số tầng ở bên ngoài đoán xem cửa sổ căn hộ Latunski ở chỗ nào. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là năm ô cửa sổ tối thẫm ở góc tòa nhà trên tầng tám. Tin chắc như vậy rồi, Margarita liền bay lên không, và sau mấy giây đồng hồ nàng đã bước qua ô cửa sổ để mở vào căn phòng không đèn, chỉ có ánh trăng trải dài một vệt sáng lấp lánh. Margarita chạy theo vệt sáng đó tìm công tắc điện, một phút sau, toàn bộ căn hộ đã được chiếu sáng. Cây bàn chải cọ sàn đứng ở góc. Sau khi biết chắc rằng không có ai ở nhà, Margarita mở cửa dẫn ra cầu thang và kiểm tra lại tấm biển đề. Nó vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Margarita đã đến được nơi cần đến..
Vâng, người ta nói rằng cho đến tận ngày nay nhà phê bình Latunski vẫn tái mặt khi nhớ lại cái buổi tối khủng khiếp hôm đó, và cho đến tận ngày nay vẫn nhắc đến tên Berlioz với một lòng biết ơn vô hạn. Hoàn toàn không thể đoán trước được là một vụ án hình sự xấu xa và đen tối như thế nào sẽ xảy ra vào tối hôm đó, bởi từ nhà bếp trở ra, trong tay Margarita cầm một chiếc búa con khá nặng.
Người đàn bà biết bay khỏa thân và tàn hình cố kìm mình lại, hai tay nàng run lên vì nóng nảy. Sau khi ngắm nghía kỹ lưỡng. Margarita đập búa lên dãy phím của chiếc đàn dương cầm, và trong khắp căn hộ vang lên những tiếng ngân thảm thiết đầu tiên. Thứ nhạc cụ vô tội phát ra những âm thanh điên loạn. Các phím đàn gẫy nát, những thanh nẹp bằng xương bay tứ tung. Cây đàn rú rít, rên rỉ, gầm gào ngân nga. Đầu búa đập vào mặt đàn đánh bóng làm nó vỡ tung kêu như súng nổ. Vừa thở dốc, Margarita vừa dùng búa giật đứt và đập nát những sợi dây đàn. Cuối cùng mệt lử, nàng lùi lại, buông người xuống chiếc ghế bành để thở lấy hơi.
Trong phòng tắm nghe vẳng ra tiếng nước réo dữ dội. Cả trong bếp cũng vậy. “Hình như nước đã trào xuống sàn”, - Margarita nghĩ thầm và nói thêm thành tiếng:
- Mà không nên ngồi ở đây làm gì.
Nước đã chảy tràn từ bếp ra hành lang. Lội đôi chân trần trong nước, Margarita xách những xô nước đầy từ bếp vào phòng làm việc của nhà phê bình và đổ vào các ngăn kéo bàn viết. Rồi sau khi đã dùng búa đập vỡ cánh cửa tủ cũng ở phòng làm việc đó, nàng chạy vào buồng ngủ. Đập vỡ chiếc tủ gương, Margarita lôi từ đó ra bộ quần áo comlê của nhà phê bình và nhận vào bể tắm. Nàng đổ một chai mực đầy lấy ở phòng làm việc lên chiếc giường đôi trải nệm cầu kỳ trong buồng ngủ. Việc phá phách mà nàng đang tiến hành mang lại cho Margarita một khoái cảm sâu sắc, nhưng đồng thời nàng vẫn luôn thấy rằng kết quả vẫn là quá ít ỏi. Vì vậy nàng bắt đầu làm bất cứ cái gì có thể làm. Margarita đập vỡ những chậu si dùng làm cây cảnh ở trong phòng đặt đàn dương cầm. Chưa làm xong việc đó, nàng trở vào phòng ngủ và dùng dao làm bếp băm nát chăn đệm, vải trải giường, đập vụn những khung ảnh lồng kính. Nàng không cảm thấy mệt, chỉ có mồ hôi chảy ròng ròng khắp thân thể.
Trong thời gian đó, ở căn hộ số 82 nằm ở tầng dưới căn hộ của Latunski, bà làm công của nhà viết kịch Kvant đang ngồi uống trà ở phòng bếp và ngạc nhiên trước những tiếng động ầm ầm, loảng xoảng, rên rỉ từ tầng trên vọng xuống. Ngẩng đầu nhìn lên, bà bỗng nhiên trông thấy một mảnh trần nhà ngay trước mắt bà dần dần chuyển từ màu trắng vốn có của mình sang màu xanh lợt chết chóc. Mảng màu xanh lớn loang ra nhanh chóng, và bỗng nhiên trên đó phồng lên những giọt nước. Bà làm công ngồi nhìn chừng hai phút, kinh ngạc trước hiện tượng khác thường đó, mãi cho đến lúc từ trần nhà một trận mưa thật sự nhỏ long tong xuống sàn. Bấy giờ bà mới nhảy chồm dậy lấy chậu hứng dưới những giọt nước, nhưng điều đó chẳng được ích lợi gì vì trận mưa mỗi lúc một lan rộng và bắt đầu rót xuống cả bàn bếp, bình khí ga lẫn tủ chạn đựng bát đĩa. Hét lên một tiếng, bà làm công của nhà viết kịch Kvant rời căn hộ chạy vụt ra cầu thang, và ngay lập tức trong căn hộ của Latunski vang lên những hồi chuông gay gắt.
- Ôi, người ta đã gọi chuông rồi, phải đi thôi, - Margarita nói. Nàng cưỡi lên cây bàn chải cọ sàn, lắng nghe tiếng một người đàn bà đang hét vào lỗ khóa cửa:
- Mở cửa, mở cửa! Duisia, mở cửa! Nước ở chỗ chị tràn ra phải không! Chảy xuống cả chỗ chúng tôi.
Margarita bay lên không chừng một mét và dùng búa đánh vào chùm đèn. Hai bóng đèn vỡ tan, những vật trang trí bay tứ tung. Tiếng kêu ngoài ổ khóa ngừng bặt, trên cầu thang nghe có tiếng bước chân chạy vội. Margarita bơi ra cửa sổ; khi đã ở phía ngoài, nàng vung nhẹ tay dùng búa đánh vào mặt kính. Một tiếng xoảng vang lên, những mảnh vỡ theo mặt tường ốp đá cẩm thạch tuôn rào rào xuống dưới như thác. Margarita bay đến bên ô cửa khác tiếp theo. Ở rất xa phía dưới, một đám người chạy dọc theo vỉa hè, một trong hai chiếc xe ôtô đậu ở cổng bóp còi inh ỏi và lùi ra xa.
Đập xong các cửa sổ của nhà Latunski, Margarita bay sang căn hộ bên cạnh. Tiếng búa đập mỗi lúc một dồn dập hơn, khắp lối phố vang lên đầy ắp tiếng loảng xoảng, ầm ầm. Từ cổng cầu thang thứ nhất, người gác cửa chạy ra, ngước nhìn lên cao, lưỡng lự một lúc, có lẽ là không ngay lập tức xác định được mình phải làm gì, rồi đút chiếc còi vào miệng và rúc lên dữ dội. Trong tiếng còi rúc đó, với một sự hăng hái đặc biệt, Margarita kết thúc nốt ô cửa sổ cuối cùng ở tầng tám rồi hạ xuống tầng bảy và lại bắt đầu đập các cửa kính ở đó.
Buồn tình vì từ lâu phải ngồi vô công rồi nghề sau cánh cửa bằng kính trong gian tiền sảnh của tòa nhà, người gác cửa dồn hết tâm lực của mình vào chiếc còi; thêm vào đó tiếng còi của ông ta bám sát Margarita, dường như hòa đệm với nàng. Trong khoảng thời gian Margarita bay từ cửa sổ này sang cửa sổ khác, ông ta ngừng lấy hơi, và khi đã hít không khí đầy mồm, cùng với tiếng búa đập của Margarita, ông ta thổi vang, khoan xoáy vào bầu không khí xuyên lên đến tận đỉnh trời.
Những cố gắng của ông ta, cộng thêm vào những nỗ lực của Margarita đã nổi điên, đã đem lại những kết quả to lớn. Trong khu nhà náo loạn. Những cửa kính còn nguyên vội vả mở toang, trong khung cửa những mái đầu người xuất hiện rồi lại biến mất; còn những cửa sổ để ngỏ thì lại vội vả đóng vào. Trong cửa sổ của những ngôi nhà đối diện, trên nền được chiếu sáng xuất hiện những bóng người đen thẫm, tất cả cố đoán xem tại sao những tấm kính cửa sổ ở Khu Văn Kịch mới xây lại vỡ tan không có nguyên do nào như vậy.
Trong ngõ phố, dân chúng đổ xô đến Khu Văn Kịch, còn phía trong của ngôi nhà, mọi người hỗn loạn, ngơ ngác chạy đi chạy lại đầy chật tất cả các cầu thang. Bà làm công của nhà viết kịch Kvant hét với những người chạy qua cầu thang rằng căn hộ của bà ta bị nước chảy vào đầy, và chỉ một lát sau hoà giọng với bà ta là tiếng kêu của chị làm công nhà Khustov ở căn hộ số 80 nằm phía dưới căn hộ của Kvant. Ở nhà Khustov, nước từ trần trút xuống cả nhà bếp, cả ở buồng vệ sinh. Cuối cùng, một mảng vửa lớn tướng trên trần phòng bếp của nhà Kvant rớt ụp xuống, làm vỡ toàn bộ số bát đĩa bẩn, tiếp liền sau đó là một trận mưa rào thật sự: từ lớp lót trần ướt sũng buông võng xuống nước đổ như xối. Liền đấy, trên khắp cầu thang của cổng thứ nhất bắt đầu nổi lên những tiếng la hét. Đang bay qua ô cửa sổ gần cuối cùng của tầng bốn, Mạrgarita nhìn vào trong và thấy một người đàn ông trong cơn hoảng hốt đang kéo vội lên đầu chiếc mũ chống hơi ngạt. Margarita nện búa vào kính, làm cho anh ta hoảng hốt chạy biến khỏi phòng.
Và đột ngột trận đập phá man rợ bỗng dưng chấm dứt. Hạ xuống tầng ba, Margarita nhìn vào ô cửa sổ cuối cùng được che bằng tấm màn nhẹ màu thẫm. Trong phòng, một ngọn đèn nhỏ chao che kín sáng mờ mờ. Một cậu bé chừng bốn tuổi ngồi trên chiếc giường nhỏ có lưới bọc hai bên đang sợ hãi lắng tai nghe ngóng. Không có người lớn ở trong phòng. Có lẽ là tất cả mọi người đã chạy ra khỏi nhà.
- Người ta đang đập kính, - cậu bé nói và gọi: - Mẹ ơi!
Không ai đáp, và cậu bé nói:
- Mẹ, con sợ.
Margarita rẽ tấm màn gió, bay vào phòng.
- Con sợ, - cậu bé lặp lại và cả người run lên.
- Ôi cháu bé bỏng, cháu đừng sợ, đừng sợ, - Margarita nói, cố gắng làm dịu bớt cái giọng nói tội lỗi và khàn khàn vì gió của mình, - đó là bọn trẻ con đập vỡ kính ấy.
- Bằng súng cao su ạ? - cậu bé thôi run, hỏi.
- Bằng súng cao su, bằng súng cao su, - Margarita xác nhận, - còn cháu ngủ đi.
- Chắc là anh Sitnich đấy, - cậu bé nói, - anh ấy có súng cao su.
- Đúng, tất nhiên là anh ấy rồi!
Cậu bé láu lỉnh nhìn đi đâu đó sang bên và hỏi:
- Cô đang ở đâu đấy ạ?
- Cô không có thật đâu, - Margarita đáp, - đấy là cháu mơ thấy cô đấy.
- Cháu cũng nghĩ như vậy mà, - cậu bé nói.
- Cháu nằm xuống đi, - Margarita ra lệnh, - cháu đặt bàn tay xuống dưới má ấy, và cô sẽ đến với cháu trong mơ.
- Cô đến với cháu đi, đến đi, - cậu bé đồng ý và lập tức nằm xuống, tay đặt dưới má.
- Cô sẽ kể chuyện cho cháu nghe, - Margarita nói và áp bàn tay nóng hổi của mình lên mái tóc cắt ngắn của cậu bé, - chuyện kể rằng có một người đàn bà đang sống trên đời. Người đàn bà đó không có con, và nói chung cả hạnh phúc cũng không có. Lúc đầu chị ta than khóc, khóc rất lâu, rồi sau đó người đàn bà trở nên độc ác… - Margarita ngừng lời rút tay về - cậu bé đã ngủ say.
Margarita nhẹ nhàng đặt chiếc búa lên bệ cửa sổ và bay ra khỏi phòng. Cạnh ngôi nhà là một cảnh náo loạn hỗn độn. Mọi người chạy đi chạy lại dọc theo vỉa hè rải đầy mảnh kính vỡ và hò la những điều gì đó. Đã thấy thấp thoáng trong số họ một vài người công an. Bất ngờ có tiếng kẻng đổ dồn, và từ phố Arbat, một cỗ xe cứu hỏa đỏ rực với chiếc thang đứng chạy xộc vào ngõ phố…
Nhưng những gì xảy ra tiếp theo không còn làm Margarita quan tâm nữa. Ngắm nhìn cẩn thận để khỏi vướng vào một sợi dây điện nào đó, nàng kẹp chặt hơn cây bàn chải cọ sàn và chỉ một thoáng sau đã ở phần trên ngôi nhà khốn khổ nọ. Phía dưới nàng, ngõ phố chao nghiêng và tụt thấp xuống. Dưới chân Margarita, thay vào chỗ ngõ phố là một biển mái nhà bị vô số các con đường sáng lấp lánh cắt ngang dọc thành những góc tù, góc nhọn. Rồi tất cả bỗng trôi dạt sang một bên, những dãy đèn trở nên mờ dần và dính kết lại với nhau.
Margarita làm thêm một cú giật, và toàn bộ biển mái nhà như biến mất vào lòng đất, thay vào đó xuất hiện một mặt hồ toàn những ánh đèn điện lung linh run rẩy; cái mặt hồ đó bỗng đột ngột dựng ngược lên, rồi liền đấy đã ở ngay phía trên đầu của Margarita, còn phía dưới chân nàng là vầng trăng lóng lánh. Hiểu rằng mình bị lộn đầu xuống dưới, Margarita lấy lại tư thế bình thường và khi nhìn lại thì thấy rằng giờ đây cả mặt hồ cũng không còn nữa, mà ở dưới đó, phía sau lưng nàng chỉ còn lại một vầng hồng nơi chân trời. Rồi sau một giây nó cũng biến mất nốt, Margarita thấy rằng nàng chỉ còn lại một mình với mặt trăng đang bay trên cao phía bên phải nàng. Tóc của Margarita đã từ lâu dồn lại thành lọn dài phía sau đầu, còn ánh trăng với tiếng gió rít tắm gội thân thể nàng. Nhìn xuống, thấy phía dưới hai dãy dài những ánh lửa thưa thớt nhập vào thành hai vệt lửa liên tục và rất nhanh chóng lùi lại phía sau, Margarita đoán ra rằng nàng đang bay với một tốc độ khủng khiếp, và nàng ngạc nhiên khi thấy mình không bị nghẹt thở.
Sau thêm mấy giây, ở rất xa phía dưới trong khoảng tối đen của mặt đất, lại bừng lên một hồ ánh điện mới, nó lấp lánh ngay dưới chân Margarita rồi xoáy tròn như một chiếc đinh ốc tụt sâu xuống lòng đất. Lại thêm vài giây nữa – và lại một cảnh tượng đúng như thế.
- Các thành phố! Các thành phố! – Margarita hét lên.
Sau đó chừng hai hay ba lần gì đấy, nàng trông thấy những thanh gươm phát sáng mờ mờ nằm trong những cái bao màu đen để mở, Margarita đóan ra đó là những con sông.
Quay đầu nhìn lên phía trên và sang trái, Margarita đang bay ngắm nhìn mặt trăng vùn vụt phía trên đầu nàng như điên dại lao ngược về phía Moskva; và đồng thời cùng trong lúc đó bằng một cách kỳ lạ nào đấy, dường như nó vẫn đứng nguyên tại chỗ, nhờ vậy có thể trông thấy rất rõ trên bề mặt của nó một con vật màu thẫm bí ẩn – không hẳn là con rồng, cũng không hẳn là con ngựa gù - với chiếc mõm nhọn hướng về cái thành phố mà Margarita vừa rời bỏ.
Đến đây trong đầu Margarita chợt nảy ra một ý nghĩ, rằng thật ra nàng xua cây bàn chải bay điên cuồng như thế là hoài phí. Như vậy nàng tự tước mất của nàng cái khả năng ngắm nhìn mọi vật một cách thỏa đáng, tận hưởng chuyến bay một cách thỏa thích. Có một cái gì đó mách với nàng rằng ở nơi kia, nơi nàng sắp bay đến, mọi người sẽ đợi nàng, và nàng chẳng việc gì phải làm cho mình buồn chán bởi cái độ cao và vận tốc điên cuồng như thế này.
Margarita giúi cây bàn chải cọ sàn về phía trước, làm cho đuôi cán của nó hướng lên phía trên, giảm tốc độ lại thật chậm, hạ thấp xuống sát mặt đất. Cái động tác trượt xuôi dốc đó, như trên một cỗ xe trượt nhẹ bẫng, làm cho nàng cảm thấy vô cùng thích thú. Mặt đất dâng ngược lên đón nàng, trong cái khối không hình thù trước đó còn đen ngòm dần dần hiện ra những điều bí ẩn và kỳ diệu của một đêm trăng sáng. Mặt đất bay ngược lên đón nàng, và Margarita đã cảm thấy mùi của những khu rừng đang bắt đầu xanh lá. Margarita bay ngay trên màn sương mù của một cánh đồng cỏ đẫm sương, rồi trên một chiếc đầm. Phía dưới Margarita, bầy ếch đồng thanh kêu râm ran; còn ở một nơi nào đó tít xa, tiếng đoàn tàu chạy vọng đến không hiểu sao làm cho trái tim nàng vô cùng xao xuyến. Đoàn tàu bò chậm chạp như một con sâu róm, ném từng chùm tia lửa lên không. Sau khi vượt đoàn tàu, Margarita còn bay qua mặt hồ nước lấp lánh như gương, nơi một mặt trăng thứ hai trôi nổi dưới chân nàng, rồi nàng hạ thấp xuống thêm đến mức chân suýt chạm vào ngọn những cây thông cổ thụ cao vút.
Ở phía sau lưng, có tiếng gió rít bất chợt đuổi theo Margarita. Dần dần, hoà cùng với tiếng động của một vật gì đó phóng vùn vụt như hòn đạn đại bác là tiếng cười của phụ nữ nghe vang xa đến hàng mấy dặm. Margarita ngoái đầu nhìn lại và trông thấy một vật thể màu đen thẫm có cấu trúc phức tạp đang tiến đến gần. Vật lạ mỗi lúc một hiện rõ thêm, và Margarita nhận ra có người đang cưỡi trên một vật gì đó bay vùn vụt. Cuối cùng thì vật ấy lại thật gần. Giảm dần tốc độ. Natasa đã đuổi kịp Margarita..
Hoàn toàn khỏa thân, với mái tóc sổ tung bay trong gió, Natasa cưỡi trên lưng một con lợn đực thiến; hai chân trước của con lợn kẹp chặt chiếc cặp da, còn hai chân sau ra sức hối hả bơi trong không khí. Chiếc kính kẹp tuột ra khỏi mũi còn nối vào đầu một sợi dây bay cạnh con lợn chốc chốc loáng lên dưới ánh trăng rồi tắt lịm, chiếc mũ thỉnh thoảng lại trùm xuống mắt lợn. Chăm chú nhìn kỹ, Margarita nhận ra con lợn đực thiến đó chính là Nikolai Ivanovich, và lúc đó tiếng cười của nàng vang rền khắp khu rừng, hòa với tiếng cười của Natasa.
- Natasa! – Margarita hét lên lanh lảnh, - Em thoa kem đấy à?
- Ôi chị ơi! – Natasa cất lời đáp, tiếng reo của cô đánh thức cánh rừng thông đang im lìm trong giấc ngủ, - ôi nữ hoàng nước Pháp(1) của em, đây là em thoa kem lên cả mảng đầu hói của ông ta đấy!
- Ôi nữ hoàng! – con lợn đực thiến hét lên nức nở, trong khi vẫn mang nữ kỵ sĩ trên lưng phi nước đại.
- Ôi chị thân yêu! Chị Margarita Nikolaevna! - vừa phi bên cạnh Margarita, Natasa vừa hét to, - em thú thật là em đã lấy kem của chị. Bởi vì chúng em cũng muốn được sống và bay! Hãy tha lỗi cho em, thưa nữ chúa, còn em sẽ không trở lại đâu, bằng bất cứ giá nào em cũng sẽ không trở lại! Ôi thích quá, chị Margarita Nikolaevna ! Ông ta đã ngỏ lời cầu hôn em, - Natasa chọc chọc ngón tay vào cổ con lợn đực thiến đang thở phì phò một cách ngượng nghịu, - lời cầu hôn kia đấy! Ông đã gọi tôi là gì nhỉ, hả? – Natasa cúi đầu xuống hét vào tai con lợn đực thiến..
- Nữ thần! – con lợn rên lên. – Tôi không thể bay nhanh như thế này được! Tôi có thể đánh rơi mất những giấy tờ quan trọng. Natalia Prokophievna (2), tôi phản đối.
- Vứt mẹ những giấy tờ của ông cho quỷ sứ đi! – phá lên cười một cách xấc xược, Natasa hét.
- Sao lại nói thế, Natalia Prokophievna! Có ai nghe thấy chúng ta thì sao? – con lợn đực thiến hét to khẩn khoản.
Phi nước đại cạnh Margarita, Natasa vừa cười vừa kể lại với nàng những câu chuyện đã diễn ra ở biệt thự sau khi Margarita Nikolaevna bay ra khỏi cổng.
Và với cô cũng đã xảy ra đúng cái điều đã xảy ra với Margarita. Trong khi Natasa đang đứng trong gương thích thú ngắm nhìn sắc đẹp của mình, cười sung sướng, thì cánh cửa bỗng mở ra và Nikolai Ivanovich xuất hiện trước mặt Natasa. Ông ta có vẻ rất xúc động, trong tay cầm mảnh áo lót của Margarita Nikolaevna cùng với chiếc cặp và cả mũ của mình. Trông thấy Natasa, Nikolai Ivanovich đứng đực người ra. Trấn tĩnh lại ít nhiều, cả người đỏ như tôm luộc, ông ta nói rằng ông ta có trách nhiệm nhặt chiếc áo lót lên và đích thân mang đến…
- Ông đã nói những gì, hả đồ vô lại? – Natasa vừa cười sằng sặc, vừa ré lên the thé, - ông đã nói gì, đã rủ rê như thế nào? Đã hứa hẹn bao nhiêu tiền? Lại còn nói rằng Klavdia Petrovna sẽ không biết gì hết. Thế nào, ông bảo là tôi nói láo à? – Natasa hét vào tai con lợn thiến, còn con lợn chỉ ngoảnh mồm sang hai bên một cách ngượng nghịu.
Đùa cợt chán ở trong phòng ngủ, Natasa thoa kem lên đầu Nikolai Ivanovich và chính mình cũng đờ người ra vì kinh ngạc. Khuôn mặt của người đàn ông đáng kính sống ở tầng dưới thu nhỏ lại và biến thành chiếc mõm lợn, còn tay và chân mọc thêm móng sừng. Nhìn thấy mình trong gương, Nikolai Ivanovich rú lên tuyệt vọng và man dại, nhưng đã muộn. Mấy giây sau, bị Natasa cưỡi trên lưng, ông ta rời Moskva bay đi đâu đó đến với quỷ sứ, miệng không ngớt rên rỉ đau khổ.
- Tôi yêu cầu phải trả lại hình dáng bình thường của tôi, - con lợn đực thiến bỗng ụt ịt và rên lên không hẳn là điên loạn, cũng không hẳn là cầu khẩn, - tôi không có ý định bay đến cái nơi tụ họp bất hợp pháp đó đâu! Margarita Nikolaevna, chị cần phải ra lệnh cho người làm công của chị !
- A, tôi bây giờ là người làm công với ông đấy à? Người làm công hả? – Natasa vừa véo tai con lợn đực thiến, vừa hét. - Thế còn nữ thần? Ông đã gọi tôi như thế nào hả?
- Thần Vệ Nữ! – con lợn đực thiến thút thít đáp trong khi bay ngang qua một con suối chảy róc rách giữa những tảng đá, bốn vó chạm sột soạt vào những bụi phỉ tử.
- Thần Vệ Nữ! Thần Vệ Nữ! – Natasa hét lên đắc thắng, một tay chống nạnh ngang sườn, tay kia vươn thẳng lên mặt trăng. - Chị Margarita! Nữ Hoàng! Chị hãy xin cho em được làm phù thủy. Người ta sẽ nghe chị, chị đã được trao quyền lực!
Và Margarita đáp lời:
- Được rồi, chị hứa với em!
- Cám ơn chị! – Natasa hét lên và bỗng quát to gay gắt và không hiểu sao có vẻ buồn bã: - Hầy! Hầy! Nhanh lên !Nhanh lên! Nào, nhanh lên nữa! – Natasa kẹp chặt gót chân vào hai bên sườn đã trở nên gầy rộc đi trong chuyến bay điên dại của con lợn đực thiến, làm nó lại phóng vụt lên xé không khí vù vù, một khoảnh khắc sau Natasa đã ở rất xa phía trước như một chấm đen, rồi hoàn toàn biến mất, và tiếng gió rít cũng tan dần. Margarita vẫn bay chầm chậm như trước trong một vùng hoang vắng và xa lạ, phía trên những ngọn đồi lỗ chỗ đây đó những hố đất nằm giữa các cây thông cổ thụ cao vút đứng tách xa nhau.
Margarita vừa bay vừa nghĩ rằng có lẽ bây giờ nàng đã ở cách Moskva rất xa. Cây bàn chải cọ sàn giờ không còn bay phía trên ngọn thông nữa, mà đang len lỏi giữa những thân cây được mặt trăng dát bạc lên một bên. Cái bóng mờ của nàng trượt trên mặt đất ở phía trước mặt: bây giờ mặt trăng đã rọi vào lưng Margarita.
Margarita cảm thấy có nước ở gần đâu đây và đoán rằng mình sắp tới đích. Những cây thông lùi lại phía sau, Margarita lặng lẽ bay trên không đến bên một bờ dốc bằng đá phấn. Ở phía dưới bờ dốc này, nằm ẩn trong bóng tối, là một con sông. Làn sương mù treo giữa những lùm cây dưới chân bờ dốc thẳng đứng, còn phía bên kia là triền sông thấp thoai thoải. Ở đó, dưới gốc của đám cây tán rộng đứng cô đơn giữa bãi trống, bập bùng một đám lửa nhỏ và thấp thoáng những bóng người đi lại. Margarita có cảm tưởng như từ đấy vẳng lên rầm rì một điệu nhạc vui vẻ. Tiếp đó, đến hút tầm mắt nhìn, trên thung lũng tráng bạc không hề thấy có một chút dấu hiệu nào của nhà ở và của con người.
Margarita nhảy từ đỉnh bờ dốc xuống dưới và nhanh chóng chạy đến bên mép nước. Làn nước mát quyến rũ nàng sau chuyến bay trên không. Vứt cây bàn chải cọ sàn sang bên, nàng lấy đà nhảy chúi đầu xuống sông. Cơ thể nhẹ nhàng của nàng như mũi tên cắm sâu vào mặt nước, và một cột nước vọt tung lên tưởng chừng tới tận mặt trăng. Nước ấm như ở trong nhà tắm và sau khi ngoi lên từ độ sâu không đáy, Margarita bơi lội vùng vẫy thoải mái trong sự cô độc tuyệt đối trên dòng sông đêm.
Bên cạnh Margarita không có một ai, nhưng ở hơi xa một chút, đằng sau những lùm cây rậm, nghe có tiếng nước vỗ và tiếng thở phì phò – có ai đấy cũng đang tắm ở đó.
Margarita chạy lên bờ. Người nàng đỏ hồng lên sau khi tắm. Nàng không cảm thấy mệt mỏi một tí nào và sung sướng nhảy tròn trên bãi cỏ ướt. Bỗng nàng thôi nhảy múa, cảnh giác lắng nghe. Tiếng thở phì phò mỗi lúc một đến gần, rồi từ phía sau những lùm cây liễu chui ra một gã đàn ông lõa thể, to béo, đầu đội chiếc mũ trụ lệch ra sau gáy. Đôi bàn chân của gã bám đầy bùn giống hệt như xỏ trong đôi ủng đen. Theo cách thức gã vừa thở phì phò, vừa nấc cục có thể đoán được rằng gã vừa nốc tương đối, hơn nữa, điều đó liền được xác nhận bằng sự việc là dòng sông bỗng nhiên tỏa lên mùi cô nhắc sặc sụa.
Trông thấy Margarita, gã đàn ông ngó trân trân một lúc, rồi sung sướng hét to:
- Cái gì thế này? Có phải ta trông thấy cô nàng không? Klodia, có phải đây đúng là em, nàng quả phụ không bao giờ biết buồn đó không? Cả em cũng đến đây à? - rồi gã xông đến bắt tay chào.
Margarita lùi lại và đáp với vẻ ngạo nghễ:
- Cút mẹ nhà ngươi đến với quỷ sứ đi. Ta là Klodia nào đối với nhà ngươi? Ngươi mở mắt ra xem đang nói chuyện với ai đấy, - và sau một thoáng lưỡng lự, nàng kèm thêm vào câu nói của mình một tràng dài những lời chửi rủa không được phép in. Tất cả những cái đó tạo nên một tác động tỉnh người đối với gã đàn ông to béo nhẹ dạ.
- Ôi, - gã rùng mình khẽ thốt lên. – Xin bà rộng lòng lượng thứ cho tôi, thưa nữ hoàng Margot sáng lạn! Tôi nhầm. Mà lỗi là do cái thứ rượu cô nhắc đáng nguyền rủa ấy! – gã to béo quỳ một chân xuống, tay cầm chiếc mũ trụ vung sang bên, nghiêng người chào và bắt đầu nói lắp bắp tiếng Nga lẫn lộn tiếng Pháp những điều nhảm nhí nào đó về đám cưới máu của người bạn Hessar của gã ở Paris, về rượu cô nhắc, và rằng gã rất hối hận vì sự nhầm lẫn đáng buồn vừa rồi.
- Nhà ngươi cũng nên mặc quần dài vào, đồ chó đực ạ, - Margarita nói, giọng đã dịu hơn.
Gã đàn ông to béo nhe răng cười sung sướng vì thấy Margarita không nổi giận. Gã thông báo rằng sở dĩ trong thời điểm này gã không có quần dài chỉ là vì lãng trí bỏ quên nó trên sông Enisei trong lần tắm vừa rồi ở đó, và rằng ngay bây giờ gã sẽ bay tới đấy, cũng ở gần kề thôi; rồi sau khi cầu xin được thương tình và giúp đỡ, gã bắt đầu bước giật lùi, giật lùi mãi cho đến lúc trượt chân ngã ngửa xuống nước. Nhưng ngay cả trong khi ngã, gã vẫn giữ trên khuôn mặt có vòng râu quai nón không rậm rạp lắm của mình một nụ cười ngưỡng mộ, trung thành.
Còn Margarita, huýt lên một tíêng chói tai, cưỡi lên cây bàn chải cọ sàn vừa phi tới bên cạnh, bay qua sông sang bờ bên kia. Bóng đen của ngọn dốc đá phấn không trải tới đây, và toàn bộ dải bờ nằm trong ánh trăng sáng lóa.
Margarita vừa chạm chân trên bãi cỏ ướt, tiếng nhạc dưới bóng cụm liễu liền nổi lên mạnh mẽ hơn, đống lửa cũng tung lên những chùm tia vui vẻ hơn. Dưới những cành liễu mọc đầy các cụm hoa thơm mịn hiện rõ trong ánh trăng sáng, những con ễnh ương mõm dày ngồi thành hai hàng và phồng người lên, như bằng cao su, tấu một bản hành khúc rộn ràng bằng sáo gỗ. Những khúc gỗ mục phát lân tinh treo trên các nhành liễu trước mặt đám nhạc công để soi sáng các bản nhạc, ánh lửa nhảy nhót chập chờn trên mõm bầy ễnh ương.
Bản hành khúc được tấu lên là để mừng Margarita. Nàng được đón tiếp một cách cực kỳ trọng thể. Những nàng tiên cá trong suốt dừng điệu múa, tiếng hát của mình trên sông lại và vẫy vẫy những cành rong chào Margarita, trên dảy bờ xanh thẫm hoang vắng vọng lại rất xa tiếng reo chúc của họ. Những nàng phù thủy khỏa thân từ phía sau mấy khóm liễu nhảy ra đứng thành hàng và khuỵu chân, nghiêng mình trong những điệu chào cung đình. Một người chân dê bay đến, quỳ xuống hôn tay Margarita, trải tấm lụa xuống cỏ, hỏi thăm nữ hoàng tắm có thoải mái không, và mời nàng nằm xuống nghỉ.
Margarita đã làm đúng như vậy. Người chân dê dâng lên nàng một cốc lớn rượu sâm banh; nàng uống cạn, và trái tim nàng lập tức được sưởi ấm. Margarita hỏi thăm Natasa giờ ở đâu, nàng nhận được câu trả lời rằng sau khi tắm xong, Natasa đã cưỡi con lợn đực thiến của mình bay tiếp đi trước, về Moskva, để báo tin là Margarita sắp đến và giúp sửa soạn xiêm y cho nàng.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi khi Margarita nằm nghỉ ngơi dưới khóm liễu, đã xảy ra một sự việc. Trên không trung chợt vang lên tiếng rít, và một vật đen ngòm, rõ ràng là bay lỡ đà, rơi tõm xuống nước. Mấy giây sau, chính gã đàn ông to béo với hàng râu quai nón, người lúc nãy vừa có cuộc trình diện không đạt ở bờ sông bên kia, đã đứng trước mặt nàng. Chắc là gã đã kịp phóng vù đến Enisei, bởi vì trên người gã giờ là bộ quần áo đuôi tôm, nhưng ướt sũng từ đầu đến chân. Rượu cô nhắc lại chơi xỏ gã một lần nữa: trong lúc hạ xuống đất, gã trượt đích rơi tõm xuống sông. Nhưng cả trong hoàn cảnh đáng buồn như vậy gã vẫn không đánh mất nụ cười của mình trên khuôn mặt, và Margarita vừa cười vừa cho phép gã đến hôn tay mình.
Sau đó tất cả bắt đầu chuẩn bị lên đường. Các nàng tiên cá nhảy nốt điệu vũ của mình dưới ánh trăng rồi tan biến vào không khí. Người chân dê kính cẩn hỏi Margarita rằng nàng bay đến con sông này bằng phương tiện gì; và khi biết rằng nàng đã cưỡi cây bàn chải cọ sàn đến đây, người chân dê nói:
- Ôi, như thế thật không tiện lắm, - và chỉ trong nháy mắt, người chân dê lấy hai cành cây làm thành một ống điện thoại đáng ngờ rồi đòi ai đó phải ngay lập tức gửi đến một cỗ xe. Và quả thật, điều đó đã được thi hành ngay lập tức. Một cỗ xe mui trần màu hung nhạt bỗng từ đâu rơi xuống, chỉ có điều ngồi sau vô lăng không phải người lái xe bình thường ta vẫn gặp, mà là một con quạ đen mỏ dài đội mũ lưỡi trai bằng vải kẻ ô, đi găng tay ống rộng. Hòn đảo trở nên hoang vắng. Trong ánh trăng rực rỡ, những nàng phù thủy bay đi và tan biến. Đống lửa đã cháy tàn, những hòn than hồng dần dần phủ một lớp tro xám.
Người chăn dê và gã đàn ông râu quai nón đỡ Margarita lên xe, nàng buông mình ngồi xuống chiếc ghế rộng phía sau. Cỗ xe rú máy, nhảy chồm rồi bay vụt lên hầu như tới tận mặt trăng. Hòn đảo biến mất, mất hút cả con sông, và Margarita bay vùn vụt về phía Moskva.
--------------------
(1) Chỉ nữ hoàng Margot, một nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn A. Dumas.
(2) Natalia Prokophievna: tên gọi đầy đủ chính thức của Natasa.
Tiếng động đều đều của cỗ xe bay rất cao trên mặt đất đã dần dần ru ngủ Margarita, ánh trăng sưởi ấm nàng một cách dễ chịu. Nhắm mắt lại, nàng ngẩng mặt đón gió, ít nhiều buồn bã nghĩ về cái bờ sông xa lạ nàng vừa rời bỏ, và Margarita có cảm giác rằng nàng sẽ không bao giờ được thấy nó nữa. Sau tất cả các phép lạ và những điều kỳ diệu của buổi tối hôm nay, nàng đã đã đoán được rằng người ta đang đưa nàng đến để gặp ai, nhưng điều đó không còn làm nàng sợ hãi. Cái hy vọng rằng ở đó nàng sẽ được giúp đỡ để tìm lại hạnh phúc của mình đã làm cho nàng trở nên không biết sợ. Nhưng thật ra nàng cũng không có nhiều thời gian để ngồi trong xe mơ ước về cái hạnh phúc đó. Chẳng hiểu là lái xe rất thông thạo công việc của mình hay do cỗ xe quá tốt, nhưng chỉ một chốc sau, khi Margarita mở mắt ra, nàng đã trông thấy ở phía dưới không còn là những khoảng rừng tối đen, mà là một mặt hồ lung linh ánh điện của Moskva. Lái xe quạ đen vừa bay vừa vặn tháo bánh xe trước bên phải ra rồi hạ cỗ xe xuống một nghĩa địa tuyệt đối vắng người ở Dorogomilovo. Sau khi đỡ Margarita cùng với cây bàn chải cọ sàn của nàng xuống xe – nàng im lặng không hỏi han bất kỳ một điều gì - quạ đen nổ máy hướng cỗ xe thẳng xuống lòng khe ở phía sau nghĩa địa. Nó ầm ầm lăn xuống đó rồi chết lặng. Quạ đen kính cẩn đưa tay chào, ngồi cưỡi lên chiếc bánh xe, bay đi mất.
Đúng lúc ấy, từ phía sau một cột bia xuất hiện tấm áo choàng đen. Một chiếc răng nanh loáng lên dưới ánh trăng, và Margarita nhận ra đó là Azazello. Azazello ra hiệu mời Margarita cưỡi lên cán cây bàn chải cọ sàn, còn mình nhảy lên thanh kiếm; cả hai bay vút lên không và mấy giây sau, không một ai nhìn thấy, đã hạ xuống gần ngôi nhà số 302-bis trên phố Sadovaia.
Khi hai kẻ đồng hành, kẹp cây bàn chải cọ sàn và thanh kiếm dưới nách, đi qua cổng vào nhà, Margarita nhìn thấy một người đàn ông, đội mũ cát két đi ủng cao cổ, dáng mệt mỏi đứng cạnh cửa, có lẽ là đang chờ ai đó. Dù cho bước chân của Azazello và Margarita có nhẹ đến mấy, người đàn ông đứng cô đơn kia vẫn nghe thấy và giật mình nhìn quanh, không hiểu những tiếng động đó là do ai gây nên.
Người đàn ông thứ hai, giống người thứ nhất đến mức kinh ngạc, họ gặp ở cổng cầu thang số sau. Và sự việc lại lặp lại. Những bước chân… Người đàn ông lo lắng nhìn quanh, mặt cau có. Khi cánh cửa mở ra và đóng lại, anh ta chạy theo hai người tàng hình vừa mới bước qua, nhìn vào cổng cầu thang, nhưng tất nhiên là không thể trông thấy cái gì cả.
Người thứ ba, một bản sao giống hệt người thứ hai, và có nghĩa là cũng giống người thứ nhất, túc trực ở đầu cầu thang tầng ba. Anh ta hút một thứ thuốc lá rất nặng, và Margarita bật lên ho khi đi ngang qua. Như bị ong đốt, người hút thuốc nhảy vọt dậy khỏi chiếc ghế băng đang ngồi, lo lắng nhìn quanh, rồi bước đến bên hàng tay vịn cầu thang, ngó xuống dưới. Trong khi đó, Margarita cùng với người dẫn đường của mình đã ở cạnh cửa ra vào của căn hộ số 50. Không gọi chuông, Azazello nhẹ nhàng mở cửa bằng chìa khóa của mình.
Điều đầu tiên làm Margarita kinh ngạc là cái bóng tối mà nàng rơi vào. Không trông thấy gì cả, chẳng khác gì dưới lòng đất. Margarita bất giác bám vào vạt áo của Azazello để khỏi vấp ngã. Nhưng liền đó, ở phía xa trên cao bắt đầu hiện ra nhấp nháy ánh lửa của một ngọn đèn nào đó đang tiến đến gần. Vừa bước đi, Azazello vừa rút cây bàn chải cọ sàn từ dưới nách Margarita ra, và nó biến mất vào bóng tối không gây một tiếng động nào. Rồi họ bắt đầu leo lên cao theo những bậc thang rộng, và Margarita cảm thấy như chúng sẽ không bao giờ kết thúc. Nàng kinh ngạc khi nhận ra rằng phòng ngoài của một căn hộ bình thường ở Moskva lại có thể chứa nổi cái cầu thang khác thường tuy không nhìn thấy nhưng lại cảm thấy rất rõ là kéo dài vô tận này. Nhưng liền đó họ dừng lại, và Margarita hiểu rằng nàng đang đứng ở khoảng rộng đầu cầu thang. Ánh lửa đã tiến đến sát kề, Margarita trông thấy khuôn mặt được chiếu sáng của một người đàn ông đen ngòm, cao lênh khênh, tay cầm chính ngọn đèn đó. Những ai chẳng mai đã gặp phải người này trong những ngày qua đều lập tức nhận ra anh ta, ngay cả dưới làn ánh sáng yếu ớt toả ra từ ngọn đèn cầm tay. Đó là Koroviev, anh ta cũng còn là Phagot. Đúng ra, vẻ ngoài của Koroviev đã thay đổi rất nhiều. Ánh lửa chập chờn của ngọn đèn không còn phản chiếu lên cặp kính kẹp mũi nứt rạn đáng lẽ phải ném vào hố rác từ lâu, trên mặt anh ta giờ là chiếc kính một mắt, thật ra mà nói cũng bị nứt rạn. Những sợi ria trên khuôn mặt trân tráo được vuốt quăn lên và bôi kem. Còn màu đen của Koroviev có thể giải thích một cách hết sức đơn giản: anh ta mặc bộ lễ phục đuôi tôm. Chỉ có ngực áo là màu trắng. Nhà ảo thuật, người phiên dịch, quản ca, phù thủy, hay chỉ có quỷ sứ mới biết thực sự anh ta là ai, - tóm lại, Koroviev, - nghiêng người chào và vung ngọn đèn một vòng rộng trong không khí, mời Margarita đi theo mình. Azazello đã biến mất.
“ Một buổi tối thật lạ lùng, - Margarita nghĩ thầm, - mình đã chờ đợi mọi thứ, chỉ có điều không phải như thế này. Chẳng lẽ ở chỗ họ bị mất điện hay sao? Nhưng cái điều kỳ lạ nhất, là kích thước của căn nhà. Làm sao tất cả những thứ này có thể ở trong một căn hộ của Moskva được? Dứt khoát là không thể được!”
Dù cho cây đèn của Koroviev có tỏa ánh sáng yếu ớt đến mấy, Margarita vẫn hiểu ngay rằng nàng đang ở trong một gian phòng rộng mênh mông, mà lại còn thêm những dãy cột lớn, tối thẫm và theo ấn tượng đầu tiên là nhiều vô tận. Koroviev dừng lại cạnh chiếc ghế đi văng nào đó, đặt cây đèn lên một cái tủ thấp, đưa tay ra hiệu mời Margarita ngồi, tự mình cũng ngồi xuống bên cạnh trong một tư thế rất điệu – bàn tay chống cằm, khuỷu tay đặt trên mặt tủ.
- Thưa bà, xin phép được tự giới thiệu, - Koroviev cất giọng kèn kẹt, - tôi là Koroviev. Bà chị ngạc nhiên là không có điện phải không? Chắc hẳn là bà chị nghĩ để tiết kiệm chứ gì? Không, không phải, tuyệt đối không phải thế! Nếu đúng là như thế thì cứ để bất cứ tên đao phủ nào gặp đầu tiên, - dù cho là một trong số những tên mà hôm nay, chỉ lát nữa thôi, sẽ được hân hạnh hôn lên đầu gối bà chị, - chặt đứt đôi đầu tôi ra ngay trên chiếc tủ này. Mà chỉ đơn giản là vì messir không thích ánh sáng điện, và chúng tôi sẽ chỉ bật đèn lên trong thời khắc cuối cùng. Và lúc đó bà chị hãy tin rằng nó sẽ không thiếu đâu. Thậm chí nếu bớt đi được một ít thì có lẽ còn tốt hơn.
Margarita cảm thấy thích Koroviev, những lời ba hoa liến thoắng của anh ta làm cho nàng tĩnh tâm lại.
- Không phải thế, - Margarita đáp, - cái làm cho tôi ngạc nhiên hơn là tất cả những cái này có thể chứa ở đây được, - nàng vung tay nhấn mạnh kích thước rộng lớn vô tận của gian phòng.
Koroviev khịt mũi đầy khóai trá, làm bóng đen của những nếp nhăn trên mũi khẽ lay động.
- Trong tất cả mọi chuyện, đó lại là điều đơn giản nhất! – anh ta nói. - Đối với những ai biết thế nào là chiều đo thứ năm thì việc đẩy kích thước của gian phòng xa đến bất kỳ giới hạn nào mình muốn là một việc làm chẳng khó khăn gì. Tôi xin nói với bà chị kính mến, chỉ có quỷ mới biết là đến giới hạn như thế nào! Thêm vào đó, - Koroviev tiếp tục ba hoa, - tôi từng biết những kẻ hoàn toàn không có một tí khái niệm nào không chỉ về chiều đo thứ năm, mà nói chung hoàn toàn không có một khái niệm nào về bất cứ một cái gì mà vẫn làm nên những điều tuyệt đối kỳ diệu trong ý nghĩa mở rộng kích thước nhà ở của mình. Lấy thí dụ, tôi được nghe người ta kể lại rằng có một công dân thành phố Moskva sau khi được phân một căn hộ ba phòng ở khu Lũy Đất liền ngay tức khắc, không cần đến chiều đó thứ năm và tất cả những điều rối rắm khác, đã biến nó thành căn hộ bốn phòng bằng cách xây vách ngăn một trong số ba phòng kia ra làm đôi. Sau đó, anh ta đổi căn hộ đó lấy hai căn hộ riêng biệt ở các quận khác nhau ở Moskva - một căn hộ ba phòng và một căn hộ hai phòng. Bây giờ chị hãy nhớ là anh ta đã có tất cả năm phòng. Căn hộ ba phòng anh ta đổi lấy hai căn hộ riêng biệt hai phòng, và trở thành chủ nhân, như bà chị thấy đấy, của sáu phòng, tuy thật ra chúng nằm rải rác vô trật tự ở khắp thành phố Moskva. Anh ta đã chuẩn bị làm một cú xiếc lộn cuối cùng và cũng là phi thường nhất sau khi rao trên báo rằng cần đổi sáu căn phòng ở các quận khác nhau ở Moskva lấy một căn hộ sáu buồng ở khu Lũy Đất, thì quá trình hoạt động của anh ta, do những nguyên nhân không phụ thuộc vào anh ta, bị chấm dứt. Có thể giờ đây anh ta vẫn đang có một căn buồng nào đó, nhưng dám đoan chắc với bà chị là không ở Moskva. Thế đấy, tay xiếc có nghệ không, thế mà bà chị lại bàn luận về chiều đo thứ năm!
Mặc dù không phải nàng, mà chính Koroviev bàn luận về chiều đo thứ năm, Margarita vẫn phá ra cười vui vè sau khi nghe câu chuyện về những bước thăng trầm của tay xiếc nhà cửa. Còn Koroviev vẫn tiếp tục:
- Thôi, ta nói về công việc, ta nói về công việc nhé, chị Margarita Nikolaevna. Bà chị là một người khá thông minh, và tất nhiên bà chị đã đoán ra ông chủ của chúng tôi đây là ai.
Trái tim của Margarita đập thót lên, và nàng gật đầu.
- Thế đấy, thế đấy, - Koroviev nói, - chúng tôi là kẻ thù của tất cả những điều lấp lửng và bí ẩn. Hàng năm messir của chúng tôi tổ chức một đêm vũ hội. Ngài gọi đó là vũ hội Đêm Rằm Mùa Xuân, hay là vũ hội Trăm Vua. Bao nhiêu là người! – Nói đến đây, Koroviev đưa tay ôm lấy má như thể anh ta bỗng bị đau răng. – Nhưng mà thôi, tôi hy vọng rằng bà chị sẽ chính mình chứng kiến điều đó. Vậy là messir chúng tôi độc thân, như, tất nhiên, bà chị cũng hiểu đấy. Cần phải có bà chủ, - Koroviev dang hai tay ra, - bà chị hiểu không, thiếu bà chủ thì…
Margarita nghe Koroviev nói, cố không thốt lên một lời nào, nàng cảm thấy lạnh buốt khoang lồng ngực phía dưới trái tim, niềm hy vọng được gặp hạnh phúc làm đầu óc nàng quay cuồng.
- Đã thành truyền thống, - Koroviev nói tiếp, - bà chủ của đêm vũ hội nhất thiết phải có tên là Margarita, đó là một điểm; điểm thứ hai, nhất thiết phải là người địa phương. Còn chúng tôi, như bà chị thấy đấy, trên đường đi chu du và trong thời điểm này đang ở Moskva. Chúng tôi đã tìm được một trăm hai mươi mốt Margarita ở Moskva, và, bà chị có tin không, - nói đến đây Koroviev thất vọng vỗ vào đùi mình, - chẳng có được một người nào thích hợp cả. Và cuối cùng, số phận may mắn…
Koroviev cười khẩy đầy ngụ ý, nghiêng người, và trái tim Margarita lại nghe lạnh buốt.
- Nói tóm lại! – Koroviev hét to. – Nói thật ngắn gọn: bà chị có đồng ý nhận về mình cái trách nhiệm đó không?
- Tôi đồng ý, - Margarita cứng cỏi đáp.
- Tất nhiên! – Koroviev nói và nhấc cây đèn lên. - Mời đi theo tôi.
Họ đi giữa những dãy cột tròn và cuối cùng bước vào một gian phòng khác, ở đó không hiểu sao lại sực nức mùi chanh, có những tiếng động sột soạt và một vật gì đó chạm lên đầu Margarita. Nàng rùng mình.
- Bà chị đừng sợ, - Koroviev khoác lấy tay Margarita, trấn an nàng một cách ngọt ngào, - đấy chỉ là những trò ranh mãnh khi chuẩn bị vũ hội của Beghemot mà thôi. Và nói chung, tôi xin phép được khuyên bà chị, Margarita Nikolaevna ạ, đừng bao giờ sợ một cái gì hết. Điều đó là vô nghĩa. Vũ hội sẽ rất sang trọng, tôi không giấu bà chị điều đó. Chúng ta sẽ được trông thấy những nhân vật mà vào thời của mình có những quyền lực cực kỳ to lớn. Nhưng thực ra, mỗi khi nghĩ rằng những khả năng của họ nhỏ nhoi biết bao nhiêu so với khả năng của người mà tôi hân hạnh được đi theo hầu hạ, là tôi lại thấy họ trở nên nực cười, thậm chí tôi còn muốn nói, trở nên thảm hại. Và cũng xin nói thêm – chính bà chị cũng thuộc huyết thống hoàng tộc đấy.
- Tại sao lại huyết thống hoàng tộc? – Margarita áp sát người vào Koroviev, sợ hãi thì thào.
- Ôi, thưa hoàng hậu, - Koroviev liến thoắng một cách suồng sã, - vấn đề huyết thống là vấn đề phức tạp nhất trên đời! Và nếu như hỏi một số bà cụ tổ, đặc biệt các cụ nổi tiếng là những người nhẫn nhục, thì sẽ phát hiện ra được nhiều điều bí ẩn cực kỳ lạ lùng, thưa bà chị Margarita Nikolaevna kính mến ạ. Tôi sẽ không phạm sai lầm chút nào nếu như trong khi nói về điều này tôi lại nhắc đến một cỗ bài bị xáo trộn một cách quái dị. Có những sự vật mà ở đó những ngăn cách đẳng cấp, thậm chí cả những biên giới giữa các quốc gia cũng hoàn toàn không có hiệu lực chút nào. Tôi lấy thí dụ: một trong những hoàng hậu nước Pháp sống vào thế kỷ mười sáu chắc hẳn sẽ vô cùng kinh ngạc nếu như có ai đó nói với bà ta rằng sau rất nhiều năm, tôi sẽ khoác tay một cô huyền tôn nữ(1) xinh đẹp tuyệt vời của bà ta đi dạo quanh các gian phòng vũ hội ở Moskva. Nhưng chúng ta đã đến nơi rồi.
Nói đoạn, Koroviev thổi lên cây đèn, nó lập tức biến mất khỏi tay anh ta, và Margarita trông thấy trước mặt mình một dải sáng nằm trên sàn hắt ra từ phía dưới một cánh cửa nào đó. Koroviev gõ khẽ vào cánh cửa. Lúc này, Margarita hồi hộp đến nỗi hai hàm răng nàng đánh vào nhau cầm cập và một cảm giác lạnh buốt chạy dọc suốt sống lưng nàng. Cánh cửa mở ra. Căn phòng rất nhỏ. Margarita trông thấy một chiếc giường với những tấm vải trải giường cáu bẩn, nhàu nát và một chiếc gối. Phía trước giường là chiếc bàn gỗ sồi chân chạm trổ, trên bàn đặt một giá nến với các ổ cắm hình chân chim vươn vuốt. Bảy ngọn nến dài cháy sáng trên bảy chân chim bằng vàng. Ngoài ra, trên bàn còn có bàn cờ vua lớn với những quân cờ được chạm gọt khéo léo khác thường. Một chiếc ghế băng thấp đặt trên tấm thảm nhỏ đã sờn. Lại còn thêm một chiếc bàn khác với một cốc gì đó bằng vàng và một giá nến khác có hình các đầu rắn vươn ra làm ổ cắm. Trong phòng bốc mùi lưu huỳnh và nhựa cây, bóng của những ngọn nến cháy hắt xuống giao nhau trên sàn nhà.
Giữa nhiều người có mặt trong phòng, Margarita lập tức nhận ra Azazello, giờ đã diện một bộ lễ phục đuôi tôm, đang đứng cạnh thành giường. Sau khi thay quần áo, Azazello không còn giống cái tên kẻ cướp xuất hiện trước mặt Margarita ở vườn Alekxandrovski nữa, và anh ta cúi chào Margarita cực kỳ lịch thiệp.
Một nàng phù thủy khỏa thân, chính là Ghella, người đã làm cho ông chủ nhiệm nhà ăn đáng kính ở nhà hát Tạp Kỹ phải bối rối, than ôi, cũng chính là người, thật may mắn, đã bị tiếng gà trống trong cái đêm diễn khét tiếng nọ làm cho hoảng sợ, giờ đang ngồi trên tấm thảm trải sàn cạnh giường và quấy một chảo gì đó khói lưu hùynh bốc lên nghi ngút.
Ngoài những người kể trên, trong phòng còn có một con mèo đen cực lớn ngồi trên chiếc ghế đẩu cao cạnh bàn cờ vua, tay phải cầm quân mã.
Ghella đứng dậy nghiêng mình chào Margarita. Con mèo cũng vậy, nó nhảy xuống ghế, kéo lê chân sau bên phải, đánh rơi quân mã, và bò theo nó vào dưới gầm giường để nhặt.
Chết lặng vì sợ hãi, Margarita nhìn loáng thoáng thấy tất cả những cảnh đó trong làn ánh sáng chập chờn của những cây nến. Ánh mắt của nàng bị thu hút bởi chiếc giường, ngồi trên đó là cái con người mà cách đây không lâu trong công viên hồ Pat’riarsi vừa được nghe nhà thơ Ivan tội nghiệp thuyết phục rằng quỷ sứ không tồn tại. Chính cái kẻ không tồn tại đó hiện đang ngồi trên giường. Một đôi mắt nhìn xoáy vào mặt Margarita. Con mắt phải với tia lửa vàng khoan thấu vào tận đáy tâm hồn của bất cứ một người nào, còn con mắt trái trống rỗng và đen ngòm, giống lỗ trôn kim hẹp, như lối dẫn vào lòng giếng không đáy của mọi bóng đen và đêm tối. Khuôn mặt của Voland bị méo xệch sang một bên, khóe miệng bên phải trễ xuống dưới, những đường nhăn sâu chạy song song với cặp lông mày nhọn hằn rõ trên khoảng trán hói cao. Da mặt Voland như bị bắt nắng cháy sém vĩnh viễn.
Voland nằm dang rộng hai tay trên giường, người chỉ mặc một chiếc áo ngủ dài cáu bẩn đã mạng ở vai trái. Một chân trần ông ta co lại dưới mình, chân kia duỗi ra trên chiếc ghế băng. Chính Ghella đang ngồi xoa bóp đầu gối của chiếc chân đen đúa này bằng một thứ thuốc cao bốc khói.
Margarita còn nhìn thấy trên bộ ngực không lông lá mở phanh của Voland một con bọ dừa(2) được tạc rất khéo bằng đá treo trên sợi dây chuyền vàng với những hàng chữ khắc trên lưng. Trên giường bên cạnh Voland còn có một quả địa cầu kỳ lạ dường như sống động thật sự và được mặt trời chiếu sáng một bên, nó đứng trên một chân trụ nặng.
Im lặng kéo dài mấy giây. “ Ông ta nghiên cứu mình”, - Margarita nghĩ thầm và cố hết sức kìm lại cơn run nơi đầu gối.
Cuối cùng Voland mỉm cười, con mắt phải lấp lánh tia lửa vàng dường như cháy bùng lên, và ông ta cất tiếng;
- Xin chào mừng hoàng hậu, và xin bỏ quá cho bộ dạng trong nhà luộm thuộm của tôi.
Giọng của Voland trầm thấp đến nỗi một đôi chỗ âm phát ra bị rè đi.
Voland cầm từ giường lên một thanh kiếm dài, cúi mình xuống dùng nó khua khua dưới gậm giường và nói:
- Ra đi! Ván cờ bị xóa bỏ. Khách đã đến.
- Không thể thế được, - Koroviev rít lên, vẻ lo lắng như người nhắc vở bên tai Margarita.
- Không thể thế được… - Margarita cất tiếng lập lại.
- Thưa messir…- Koroviev thở vào tai.
- Không thể thế được, thưa messir, - sau khi trấn tĩnh lại, Margarita đáp khẽ nhưng rõ ràng. Rồi nàng mỉm cười nói tiếp: - Xin ngài đừng xóa bỏ ván cờ. Tôi cho rằng nếu các tạp chí cờ được phép đăng nó lên, chắc họ sẳn sàng trả không ít tiền đâu ạ.
Azazello thốt lên khe khẽ và đồng tình, còn Voland sau khi chăm chú nhìn Margarita, nói như tự nhận xét với mình:
Ông ta giơ tay vẫy Margarita lại gần. Nàng bước đến, không cảm thấy sàn nhà dưới đôi bàn chân trần. Voland đặt bàn tay nặng như đá đồng thời nóng như lửa lên vai Margarita, kéo mạnh nàng về phía mình và đặt nàng ngồi xuống giường sát bên cạnh.
- Thôi được, nếu như nàng lịch duyệt tuyệt vời như vậy, - mà ta cũng không chờ đợi một cái gì khác, - thì chúng ta cứ việc tự nhiên. - Rồi ông ta lại cúi xuống bên mép giường, quát: - cái trò hề dưới giường này sẽ kéo dài lâu không đấy? Chui ra ngay, cái đồ hề bất trị!
- Tôi không thể tìm thấy quân mã, - con mèo từ dưới gầm giường đáp lại bằng giọng giả dối và nghèn nghẹn. – Nó phi đâu mất, và thay vào đó là một con nhái.
- Ngươi có tưởng tượng ra là đang đứng ở ngoài bãi chợ không đấy? – Voland làm bộ tức giận, hỏi. - Dưới giường không có ếch nhái nào hết cả! Hãy để những trò ảo thuật rẻ tiền ấy cho nhà hát Tạp Kỹ. Nếu như nhà ngươi không ra ngay bây giờ, chúng ta sẽ coi như nhà ngươi đã chịu đầu hàng, đồ đào ngũ đáng nguyền rủa ạ !
- Không thể thế được, thưa messir! – con mèo gào to và ngay tức khắc chui từ gậm giường ra, quân mã cầm trong một chi trước.
- Xin giới thiệu với… - Voland bắt đầu nói, nhưng lại tự cắt lời mình: - Không, ta không thể nhìn cái thằng hề rởm này được. Các ngươi thử trông xem, hắn đã biến mình thành cái gì ở dưới giường kia.
Trong khi đó, con mèo đứng trên hai chi sau, người lấm đầy bụi, khẽ nghiêng mình chào Margarita. Bây giờ trên cổ con mèo là một chiếc cà vạt thắt nơ trắng, còn trước ngực áo đen lủng lẳng cặp ống nhòm phụ nữ khảm ngọc trai. Ngoài ra, bộ ria của nó được mạ vàng.
- Hừm, cái gì thế này ! – Voland thốt lên. – Nhà ngươi mạ vàng ria để làm gì? Và nhà người cần cà vạt để làm gì trong khi lại không mặc quần dài ?
- Mèo không mặc quần dài, thưa messir, - con mèo đáp với vẻ tự trọng cao độ. – Hay là ngài sẽ ra lệnh cho tôi đi hia? Mèo đi hia chỉ có trong các câu chuyện cổ tích thôi, thưa messir. Nhưng ngài đã bao giờ thấy ai đi dự dạ hội mà không có cà vạt chưa ạ? Tôi không muốn rơi vào tình trạng lố bịch và mạo hiểm bị tống cổ ra khỏi cửa! Mỗi một người đều tự trang điểm cho mình những gì có thể. Và xin ngài hiểu rằng điều vừa nói trên cũng ngụ ý cả chiếc ống nhòm nữa, thưa messir !
- Còn ria ?...
- Tôi không hiểu, - con mèo bác lại một cách khô khan. - Tại sao hôm nay khi cạo mặt, Azazello và Koroviev có thể thoa phấn trắng, mà nó thì có gì tốt đẹp hơn bột vàng? Tôi đã thoa phấn lên ria, chỉ có thế thôi! Nếu tôi đem cạo nó đi, thì lại là chuyện khác. Mèo không ria mới thực sự vô duyên, điều đó thì tôi xin ngàn lần công nhận. Còn nói chung, - đến đây, giọng con mèo run lên đầy tự ái, - tôi thấy rằng người ta đang cố tình xoi mói tôi, và tôi thấy trước mắt tôi đang có một vấn đề quan trọng: có mặt hay không có mặt tại vũ hội ? Thưa messir, ngài sẽ nói với tôi như thế nào về điều đó ?
Và con mèo giận dỗi phồng má lên đến nỗi có cảm tưởng như chỉ thiếu chút nữa thì nó nổ bụp mất.
- A, đồ láu tôm láu cá, - Voland lắc đầu nói, - cứ mỗi lần cờ của hắn lâm vào thế bí là hắn lại múa mép đánh trống lảng hệt như một tên bịp bợm hạng bét ngoài chợ. Hãy ngồi xuống ngay tức khắc và chấm dứt cái mớ ngôn từ nhảm nhí rối rắm ấy đi.
- Tôi ngồi xuống đây, - con mèo đáp và ngồi xuống ghế. – Nhưng tôi phản đối cái nhận xét cuối cùng ngài vừa đưa ra. Những câu nói của tôi hoàn toàn không phải là mớ nhảm nhí rối rắm, như ngài vừa diễn đạt trước mặt bà khách quý đây, mà là một dãy những tam đoạn luận được sắp đặt gói ghém chặt chẽ mà chắc sẽ được những tay sành sỏi trong vấn đề này như Sectut Empiricut, Marxianut Kapella, mà biết đâu thậm chí cả Aristote đánh giá cao.
- Chiếu tướng, - Voland nói.
- Xin mời, xin mời, - con mèo đáp và giương ống nhòm nhìn vào bàn cờ.
- Vậy là, - Voland nói với Margarita, - tôi xin giới thiệu với nàng đoàn tùy tùng của tôi. Cái tay hề này là con mèo Beghemot. Với Azazello và Koroviev nàng đã quen biết rồi. Còn đây là cô hầu Ghella. Tháo vát, sáng dạ, và không có việc gì mà cô ta lại không làm được.
Người đẹp Ghella mỉm cười, hướng đôi mắt xanh lè về phía Margarita, tay vẫn không ngừng vốc nước thuốc đắp lên đầu gối của Voland.
- Thế đấy, chỉ có chừng ấy thôi, - Voland kết thúc và nhăn mặt lại khi Ghella ấn quá mạnh lên đầu gối ông ta. – Cái tập thể này, như nàng thấy đấy, không lớn lắm, pha tạp và đơn giản. – Ông ta im lặng và bắt đầu xoay trước mặt mình quả địa cầu làm rất khéo, đến mức các đại dương xanh biếc như sóng sánh lên, còn mũ băng trên địa cực như bằng băng và tuyết thật sự.
Trên mặt bàn cờ trong lúc đó đang diễn ra một tình trạng hỗn loạn. Quân vua mặc áo bào trắng hoàn toàn hốt hoảng đứng giẫm chân trên ô cờ, tuyệt vọng giơ hai tay lên trời. Ba quân tốt – lính đánh thuê cầm giáo ngơ ngác nhìn quân sĩ quan đang vung gươm chỉ về phía trước, nơi trên hai ô cờ đen trắng đứng liền nhau thấp thoáng hiện lên đôi kỵ sĩ đen của Voland cưỡi cặp ngựa nóng rực đang dùng chân đào các ô cờ.
Margarita đặc biệt tò mò và kinh ngạc khi thấy các quân cờ đều sống thật sự.
Con mèo nhấc ống nhòm ra khỏi mắt, khẽ đẩy nhẹ vào lưng quân vua của mình. Trong cơn tuyệt vọng, quân vua giơ hai tay ôm lấy mặt.
- Tình hình tồi tệ lắm, Beghemot thân mến ạ, - Koroviev khẽ nói bằng giọng cay độc.
- Tình hình khá nghiêm trọng, nhưng hoàn toàn không phải là tuyệt vọng, - Beghemot đáp. – Hơn nũa, tôi tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng. Chỉ cần phân tích tình huống cho kỹ lưỡng.
Và con mèo bắt đầu phân tích tình huống một cách khá kỳ quặc, nghĩa là bằng cách nhăn mặt và làm các điệu bộ, nháy mắt với quân vua của mình.
- Không tác dụng gì đâu, - Koroviev nhận xét.
- A! – Beghemot kêu to, - bầy vẹt bay đi mất hết rồi, đúng như tôi đã đoán trước !
Quả nhiên, ở một nơi nào đó vẳng lại vô số tiếng cánh chim vỗ. Koroviev và Azazello chạy vội ra ngoài.
- Hừ, quỷ tha ma bắt nhà ngươi cùng những trò hề đêm vũ hội của nhà ngươi đi! – Voland lẩm bẩm, mắt không rời khỏi quả địa cầu của mình.
Koroviev và Azazello vừa chạy khuất, những cái nháy mắt của Beghemot càng trở nên nhanh, nhiều hơn. Quân vua trắng cuối cùng cũng đoán ra là người ta muốn gì ở nó, liền cởi áo bào ném xuống ô và chạy khỏi bàn cờ. Quân sĩ quan nhặt áo bào bị bỏ lại, khoác lên vai và đứng vào chỗ của quân vua. Koroviev và Azazello quay lại.
- Lại nói láo như mọi lần, - Azazello càu nhàu, lừ mắt nhìn về phía Beghemot.
- Tôi nghe nhầm, - con mèo đáp.
- Thế nào, cái trò này có kéo dài lâu không đấy? – Voland hỏi. - Chiếu tướng.
- Hình như tôi nghe nhầm, có phải không ạ, thưa messir, - con mèo đáp. – Không có chiếu tướng và không thể có được.
- Ta nhắc lại, chiếu tướng.
- Thưa messir, - con mèo đáp lại bằng giọng giả đò lo lắng, - ngài đã quá mệt mỏi rồi đấy. Không có chiếu tướng !
- Quân vua của nhà ngươi ở ô g-2, - không nhìn lên bàn cờ, Voland nói.
- Thưa ngài, tôi kinh hoàng quá, - con mèo rít lên, tỏ vẻ kinh hoàng trên mõm của mình. – Trong ô ấy không có quân vua.
- Cái gì thế ? – Voland ngơ ngác hỏi và đưa mắt nhìn bàn cờ, nơi quân sĩ quan đang đứng trên ô quân vua đang quay đi lấy tay áo che mặt.
- A, đồ xỏ lá, - Voland trầm ngâm nói.
- Thưa messir ! Tôi lại phải nhờ vả tới phép lôgich, - ép hai chi trước lên ngực, con mèo nói. - Nếu như đối thủ tuyên bố chiếu tướng, mà trong lúc đó quân vua không còn bóng dáng trên mặt bàn cờ nữa, thì nước chiếu tướng coi như không có giá trị.
- Nhà ngươi có chịu đầu hàng hay không? – Voland quát lên bằng giọng khủng khiếp.
- Cho phép tôi được nghĩ đã, - con mèo hiền lành trả lời, đặt hai khuỷu chân trước lên bàn, giúi cặp tai vào hai bàn chân và bắt đầu suy nghĩ. Nó suy nghĩ khá lâu rồi cuối cùng nói: - Tôi xin đầu hàng.
- Giết chết cái con vật bướng bỉnh, - Azazello thì thầm.
- Vâng, xin đầu hàng, - con mèo nói. – Nhưng tôi đầu hàng chỉ là vì không thể nào chơi được trong cái bầu không khí bị những kẻ ghen tỵ đầu độc ! – Nó đứng dậy, và những quân cờ tự động chui vào hộp.
- Ghella, đến giờ rồi, - Voland nói và Ghella biến mất khỏi phòng. – Chân thì đang đau, mà lại còn cái vũ hội này nữa, - Voland nói tiếp.
- Xin ngài cho phép tôi, - Margarita khẽ đề nghị.
Voland nhìn nàng chằm chằm rồi dịch đầu gối của mình lại gần nàng.
Cái chất lỏng nóng như nham thạch đốt bỏng tay, nhưng Margarita không nhăn mặt, cố gắng không gây đau đớn xát nó lên đầu gối Voland.
- Bọn người thân cận cứ bảo rằng đây là chứng thấp khớp, - Voland nói, không rời mắt khỏi mặt Margarita. – Nhưng ta rất nghi ngờ rằng vết đau trong đầu gối là kỷ niệm của một nàng phù thủy mê hồn mà ta quen thân gần gũi vào năm một nghìn năm trăm bảy mươi mốt trên núi Broken(3), ở Bục Quỷ.
- Ôi, có thể như thế được sao ! – Margarita nói.
- Vớ vẩn thôi mà ! Sau chừng ba trăm năm sẽ qua hết. Người ta bày cho ta vô số thứ thuốc, nhưng ta theo thói quen cổ xưa ưa dùng thuốc của bà nội. Bà nội của ta, một bà già khủng khiếp, đã để lại gia truyền những thứ thuốc cỏ thật tuyệt diệu. Mà này, nàng có gì đau đớn không đấy? Có thể, nàng bị một nỗi buồn nào đó đầu độc tâm hồn, một nỗi sầu não nào chăng?
- Không, thưa messir, không có gì đâu ạ, - nàng Margarita thông minh đáp. – Còn bây giờ, khi tôi ở chỗ ngài, tôi cảm thấy mình hoàn toàn thoải mái.
- Huyết thống là một điều thật vĩ đại. – Voland vui vẻ nói không hiểu với dụng ý gì, rồi tiếp thêm: - Ta thấy rằng nàng quan tâm tới quả địa cầu của ta.
- Ồ vâng, tôi chưa bao giờ trông thấy một vật như vậy.
- Một vật rất tuyệt. Thú thật, ta không thích nghe tin tức thời sự qua đài. Đọc trên đài bao giờ cũng là những cô gái, họ nói không rõ ràng tên các địa phương. Ngoài ra, chừng một phần ba số họ lại hơi nói ngọng, dường như người ta cố ý chọn những người như vậy hay sao ấy. Quả địa cầu của ta tiện lợi hơn nhiều; hơn nữa, ta muốn biết các sự kiện xảy ra một cách chính xác. Chẳng hạn, nàng có thấy cái mẩu đất con con cạnh bờ đại dương này không? Xem đây, nó đang bốc cháy. Ở đó chiến tranh đã bắt đầu nổ ra. Nếu như nhìn gần vào, nàng sẽ được thấy các chi tiết.
Margarita nhìn xuống bên quả địa cầu và trông thấy mảnh ô nhỏ trên đó nở rộng ra, hiện lên nhiều màu sắc và dường như biến thành một tấm bản đồ nổi. Rồi nàng thấy một dải sông dài, một khu dân cư cạnh bờ sông. Ngôi nhà lúc đầu bé bằng hạt đậu, lớn dần lên như hộp diêm. Bỗng bất ngờ và không nghe tiếng động, cả chiếc mái của ngôi nhà đó bắn tung lên cao, cùng với một cột khói đen, còn những bức tường đổ ụp xuống, và cả ngôi nhà hai tầng chẳng còn lại tí gì ngoài một đống vỡ nát bốc khói đen. Đưa mắt nhìn gần hơn, Margarita trông thấy một hình người phụ nữ nhỏ bé nằm trên mặt đất, cạnh đó là đứa bé trai chân tay duỗi sóng soài trong vũng máu.
- Thế là hết, - Voland mỉm cười, nói, - nó còn chưa kịp phạm tội. Công việc của Abadonna(4) quả là hoàn hảo.
- Tôi thật không muốn ở vào phe chống lại cái tay Abadonna này, - Margarita nói. – Anh ta ở phe nào?
- Càng nói chuyện với nàng, - Voland lịch sự đáp lời, - ta càng thấy rằng nàng rất thông minh. Ta sẽ nói cho nàng yên tâm. Anh ta là một kẻ vô tư hiếm có và thông cảm như nhau đối với cả hai bên đối địch. Do vậy mà kết quả với cả hai bên cũng thường là như nhau. Abadonna ! – Voland khẽ gọi, và ngay tức khắc từ trong bức tường hiện ra một người rất gầy đeo kính đen. Cặp kính đen này không hiểu sao lại gây cho Margarita một ấn tượng rất mạnh, khiến nàng, sau khi khẽ hét lên một tiếng, úp mặt vào chân Voland. – Mà thôi đi, - Voland quát, - những con người hiện đại sao mà dễ kích động đến thế. – Voland vung tay phát vào lưng Margarita, khiến cho một tiếng ngân chạy dọc khắp người nàng. – Nàng cũng thấy đấy, anh ta đeo kính mà. Hơn nữa chưa từng có trường hợp nào, và sẽ không bao giờ có, Abadonna lại xuất hiện không đúng lúc trước mặt một người nào đó. Và cuối cùng, là còn có ta ở đây kia mà. Nàng là khách của ta ! Ta chỉ muốn cho nàng xem thôi.
Abadonna đứng bất động.
- Thế có thể để anh ta bỏ kính ra một giây được không? – Margarita hỏi, dịch sát vào gần Voland, người run lên, nhưng bây giờ là vì tò mò.
- Điều đó là không thể được, - Voland nghiêm giọng nói và khoác tay cho Abadonna, anh ta vụt biến mất. – Azazello, nhà ngươi muốn nói gì thế?
- Thưa messir, - Azazello đáp. – Cho phép tôi được nói. Vừa rồi có hai người lạ đến: một cô gái xinh đẹp cứ khóc thút thít và van xin để cô ta lại với cô chủ, và ngoài ra cùng với cô ta, tôi xin lỗi, còn có một con lợn đực thiến.
- Những người đẹp xử sự có vẻ lạ lùng thật đấy, - Voland nhận xét.
- Đó là Natasa, Natasa, - Margarita kêu to.
- Thôi được, để cô ta ở lại với cô chủ. Còn con lợn đực thiến thì đưa đến chỗ các đầu bếp.
- Chọc tiết ạ? – Margarita hốt hoảng thốt lên. – Thưa messir, xin ngài rủ lòng thương, đó là Nikolai Ivanovich, người ở tầng dưới cùng nhà với tôi. Ở đây là do một sự nhầm lẫn. Natasa, thưa ngài, đã thoa kem lên…
- Xin lỗi, - Voland nói, - ai chọc tiết hắn để làm quỷ quái gì? Cứ để cho hắn ngồi ở chỗ các đầu bếp, chỉ thế thôi! Ta không thể, chắc nàng cũng thấy đấy, cho hắn vào phòng vũ hội được !
- Quả thế… - Azazello phụ hoạ và báo cáo: - Thưa messir, sắp đến nửa đêm rồi ạ.
- À, tốt lắm. – Voland quay sang nói với Margarita. - Vậy thì ta mời nàng! Và cảm ơn nàng trước. Đừng mất bình tĩnh và đừng sợ gì hết. Đừng có uống gì cả, ngoài nước ra, không thì nàng sẽ mệt và khó chịu đấy. Đến giờ rồi !
Margarita rời mặt thảm đứng dậy, và ngay lúc đó Koroviev xuất hiện ở cửa.
------------------
(1) Huyền tôn nữ: cháu năm đời.
(2) Con bọ dừa…với những hàng chữ khắc trên lưng: biểu tượng đa thần giáo ở Ai Cập cổ đại, tượng trưng cho cái Ác có thể sinh ra cái Thiện.
(3) Broken: là một đỉnh núi cao ở Hars (Đức). Cái tên Broken gắn với hàng loạt truyền thuyết (quỷ sứ, phù thủy, đêm Vanpurghie..v.v..)
(4) Abadonna: Thần Chết.
Đã sắp nửa đêm, cần phải vội. Margarita nhìn mọi vật một cách lờ mờ, chỉ còn nhờ vào những cây nến và một bể chứa nước sáng chói. Khi Margarita xuống đứng ở đáy bể, Ghella được Natasa phụ giúp dội lên người nàng một thứ chất lỏng đặc sền sệt và âm ấm. Margarita cảm thấy vị mặn trên môi và hiểu rằng người ta đang tắm nàng bằng máu. Rồi lớp màng huyết được thay bằng một thứ nước khác, đặc sánh, màu hồng phơn phớt trong suốt, và mùi tinh dầu hoa hồng làm đầu Margarita choáng váng. Sau đó Margarita được đặt lên một chiếc giường pha lê và chà xát cho đến khi ánh bóng lên bằng những chiếc lá lớn màu xanh. Vừa lúc đó, con mèo chạy xộc vào và bắt đầu trợ giúp. Nó ngồi xổm dưới chân Margarita và xát lên bàn chân nàng với một vẻ hệt như đang đánh giày ở ngoài phố. Margarita không còn nhớ là ai đã khâu cho nàng một đôi giày từ những cánh hoa hồng màu trắng nhợt, đôi giày đó tự mình thắt lại ôm lấy bàn chân nàng bằng những móc khóa bằng vàng. Một sức mạnh nào đó dựng Margarita dậy và đặt nàng đứng trước gương, trên mái tóc của nàng lấp lánh một vòng vương miện bằng kim cương. Koroviev bỗng từ đâu xuất hiện và treo trên ngực Margarita tấm hình con chó pundel đen tuyền lồng khung ôvan với sợi dây chuyền nặng trĩu. Món đồ trang sức này làm cho hoàng hậu cảm thấy cực kỳ vất vả. Sợi dây lập tức xát lên cổ, tấm hình kéo đầu nàng gục xuống. Nhưng Margarita cũng được đền bù ít nhiều bởi những sự bất tiện mà sợi dây chuyền và tấm hình con chó pundel đen mang lại cho nàng. Đó là sự kính cẩn mà Koroviev và Beghemot bắt đầu thể hiện đối với nàng.
- Không sao, không sao, không sao! – Koroviev lẩm bẩm ở cửa ra vào của gian phòng có bể chứa nước. – Không thể làm khác được, cần phải vậy, cần phải vậy, cần phải vậy. Thưa hoàng hậu, xin phép được có một lời khuyên cuối cùng. Giữa đám khách khứa sẽ có rất nhiều loại người khác nhau, ôi, rất khác nhau, nhưng thưa hoàng hậu Margot, không được thiên vị bất cứ ai một tí nào! Nếu như có ai đấy không làm cho hoàng hậu thích … thì tôi hiểu, rằng hoàng hậu, tất nhiên, sẽ không thể hiện điều đó ra trên nét mặt của mình… Không, không, không được nghĩ đến cái đó ! Sẽ nhận thấy, sẽ nhận thấy ngay trong cái khoảnh khắc ấy. Cần phải yêu mến, phải yêu mến, thưa hoàng hậu. Vì điều đó, nữ chủ nhân của vũ hội sẽ được đền bù gấp trăm lần ! Và thêm nữa: không bỏ qua một người nào. Dù chỉ là một nụ cười, nếu như không đủ thời gian để ném ra vài lời, dù chỉ là nửa vòng quay đầu. Bất cứ cái gì cũng được, nhưng không được thể hiện sự không chú ý. Điều đó làm cho họ héo hon đi…
Vừa lúc đó, Margarita cùng với Koroviev và Beghemot đi theo, bước từ phòng có bể chứa nước vào một khoảng tối hoàn toàn.
- Để tôi, tôi, - con mèo thì thào, - tôi sẽ ra hiệu lệnh!
- Làm đi! – Koroviev trả lời trong bóng tối.
- Vũ hội bắt đầu! – con mèo rít lên lanh lảnh, và ngay lúc đó Margarita kêu lên một tiếng và nhắm mắt lại mấy giây. Vũ hội rơi ụp xuống đầu nàng ngay tức khắc dưới dạng ánh sáng, và cùng với nó là âm thanh và mùi hương. Được Koroviev đỡ tay dẫn đi, Margarita trông thấy mình đang ở trong một khu rừng nhiệt đới. Những con vẹt đuôi xanh yếm đỏ bám vào dây leo, nhảy qua nhảy lại và hét chói tai: “ Tôi rất vui lòng!”. Nhưng khu rừng nhanh chóng kết thúc, và bầu không khí oi nóng như trong nhà tắm hơi liền đó được thay thế bằng sự mát mẻ của gian phòng vũ hội với những cột tròn đẽo bằng một thứ đá màu vàng lấp lánh. Gian phòng này, cũng như khu rừng trước đó, hoàn toàn vắng vẻ, chỉ có mấy người da đen ở trần, đầu đội vòng bạc đứng bất động cạnh mấy cây cột. Khuôn mặt của họ trở nên có màu xám cáu bẩn vì xúc động khi Margarita bay vào phòng cùng với đoàn tùy tùng của mình, bây giờ có thêm Azazello không hiểu từ đâu xuất hiện. Đến đây, Koroviev buông tay Margarita và thì thầm nói:
- Bước thẳng lên hoa uất kim hương!
Một bức tường không cao toàn hoa uất kim hương trắng muốt mọc lên trước mặt Margarita, sau bức tường đó nàng trông thấy vô số những bóng đèn có chao treo phía trên, và đằng trước chúng là những mảng ngực trắng và những đôi vai đen của những người mặc áo đuôi tôm. Lúc đó Margarita mới hiểu những âm thanh vũ hội từ đâu vang lên. Đổ ụp xuống đầu nàng là tiếng kèn đồng như sấm, còn giọng violon ngân nga vút lên từ tiếng sấm đó tắm đẫm người nàng như một làn máu ấm. Một dàn nhạc chừng trăm rưởi người đang dạo khúc polonaise.
Người mặc áo đuôi tôm đứng nổi cao phía trước dàn nhạc khi trông thấy Margarita mặt trở nên tái nhợt, ông ta cười và bất ngờ bằng một cái vung tay nâng vút cả dàn nhạc lên. Không một phút ngừng nghỉ, cả dàn nhạc đứng dậy, dội âm thanh lên người Margarita. Người đứng nổi cao trước dàn nhạc quay mình lại và cúi chào rất thấp, hai tay dang rộng ra hai bên; Margarita mỉm cười giơ tay lên vẫy đáp lại ông ta.
- Không, hãy còn ít, còn ít quá, - Koroviev thì thầm, - ông ta sẽ không ngủ suốt đêm. Hãy kêu to với ông ta: “ Ta xin chào ngài, vua của những bản nhạc Valse!”
Margarita kêu to câu đó, và nàng ngạc nhiên trước giọng nói của mình: nó vang lên như tiếng chuông, át cả dàn nhạc đang chơi. Người mặc áo đuôi tôm run lên vì sung sướng, tay trái đưa lên ép chặt vào ngực, còn tay phải vẫn tiếp tục vung cây gậy trắng chỉ huy dàn nhạc.
- Vẫn còn ít, còn ít, - Koroviev thì thào. – Hãy nhìn sang trái, về phía những tay đàn violon đầu tiên, và gật đầu như thế nào đó sao cho người nào cũng nghĩ rằng hoàng hậu đã nhận ra mình. Ở đây toàn là những tên tuổi lừng danh thế giới. Kìa, người thứ nhất hàng đầu là Vientan (1) đấy. Thế, rất tốt. Còn bây giờ ta đi tiếp.
- Nhạc trưởng là ai vậy? - vừa bay đi, Margarita vừa hỏi.
- Iogann St’raus(2), - con mèo hét toáng lên, - và cứ để người ta treo cổ tôi lên đám dây leo trong khu rừng nhiệt đới kia nếu như đã bao giờ có một vũ hội nào có được một dàn nhạc như thế này. Đấy là tôi mời đến ! Và, hoàng hậu thấy đấy, không một ai ốm và không một ai từ chối cả.
Trong gian phòng tiếp theo không có các dãy cột tròn, mà thay vào đó một phía là những bức tường hoa hồng đỏ thắm, hoa hồng đỏ phớt, hoa hồng trắng sữa, còn phía khác là một bức tường hoa hải đường kép Nhật Bản. Giữa những bức tường này các đài phun đã sôi réo bắn tung từng cột nước, rượu sâm banh đã sủi bọt trong ba bể chứa lớn, trong số đó bể thứ nhất có màu tím nhạt trong suốt, bể thứ hai màu hồng ngọc, còn bể thứ ba màu pha lê. Cạnh các bể chứa, những người da đen thắt lưng điều hối hả dùng những chiếc gầu bằng bạc múc rượu từ bể lên đổ đầy vô số các cốc đáy cạn. Trong bức tường hoa hồng có một khoảng trống, và ở đó, trên bục cao, một người mặc áo đuôi tôm đỏ chói đang vung tay nóng nảy. Trước mặt anh ta, một dàn nhạc jazz gầm to đến mức không chịu nổi. Chỉ vừa trông thấy Margarita, nhạc trưởng liền gập người xuống trước mặt nàng đến mức hai tay chạm sàn, rồi ông ta ưỡn thẳng người lên và hét chói tai:
- Alliluia !
Ông ta vỗ mạnh lên đầu gối mình một cái, rồi đập chéo tay lần thứ hai lên đầu gối kia, giật mạnh chiếc chũm chọe từ tay nhạc công đứng hàng ngoài và đập mạnh nó lên cột.
Bay đi, Margarita chỉ kịp nhìn thấy viên nhạc trưởng dàn nhạc điêu luyện vừa vật lộn với khúc polonaise đang thổi vào lưng Margarita, vừa vung chiếc chũm chọe của mình đánh dứ vào đầu các nhạc công, và những người này khuỵu chân xuống trong cơn kinh hoàng hài hước.
Cuối cùng, họ bay tới một bãi trống, nơi trước đó như Margarita hiểu ra, Koroviev đã cầm đèn ra đón nàng trong bóng tối. Bây giờ ở đây những luồng ánh sáng phát ra từ các chùm nho bằng pha lê làm lóa mắt. Margarita được dẫn tới chỗ của nàng, và dưới cánh tay trái của nàng hiện ra một chiếc bệ thấp bằng thạch anh tím.
- Có thể đặt tay lên đó, nếu như quá mệt, - Koroviev thì thầm.
Một người da đen ném xuống chân Margarita chiếc gối thêu hình con chó pundel bằng vàng, và nàng, theo sự điều khiển của tay ai đó, co gập chân phải lại ở đầu gối và đặt lên đấy. Margarita thử liếc quanh. Koroviev và Azazello đứng bên cạnh nàng trong tư thế rất trang trọng. Bên cạnh Azazello còn có ba người đàn ông trẻ tuổi mà Margarita cảm thấy có cái gì đó giống Abadonna. Nghe hơi lạnh phả vào lưng, Margarita quay lại nhìn và thấy từ bức tường cẩm thạch phía sau mình, từng luồng rượu vang sủi bọt vọt ra và chảy vào bể lạnh. Cạnh chân trái, nàng cảm thấy một cái gì đó rậm và ấm. Đó là Beghemot.
Margarita đứng ở trên cao, từ chân nàng dẫn xuống phía dưới là một cầu thang đồ sộ phủ thảm. Ở phía dưới, rất xa, dường như Margarita nhìn vào chiếc ống nhòm quay ngược, nàng trông thấy một gian phòng dành riêng cho đầy tớ gác cửa cực lớn và một chiếc lò sưởi đúng là khổng lồ, đến mức một cỗ xe tải năm tấn có thể thoải mái đi vào cái mõm đen ngòm và lạnh ngắt của nó. Phòng đầy tớ và cầu thang chói chang ánh sáng đến nhức mắt và hoàn toàn vắng vẻ. Tiếng kèn đồng giờ đây vẳng đến tai Margarita từ xa. Họ cứ đứng bất động như vậy gần một phút.
- Thế khách đâu ? – Margarita hỏi Koroviev.
- Họ sẽ đến, thưa nữ chúa, họ sẽ đến, sẽ đến ngay bây giờ. Họ sẽ kéo đến cả đoàn cả lũ ! Và nói thật lòng, tôi thích thà phải đi bổ củi còn hơn là đứng đón họ ở đây, trên đầu cầu thang này.
- Nói gì đến bổ củi, - con mèo lắm mồm phụ họa theo ngay, - tôi sẳn sàng làm người bán vé trên tàu điện, mà trên đời này không còn cái gì tồi tệ hơn công việc đó.
- Tất cả đều phải sẳn sàng từ trước, thưa hoàng hậu, - Koroviev giải thích, một con mắt của anh ta lấp lánh qua mắt kính bị hỏng. - Không có gì khó chịu bằng việc người khách đến đầu tiên phải rơi vào cảnh bối rối không biết mình nên làm gì, còn bà xã hợp pháp của anh ta lại đay nghiến anh ta vì chuyện họ đến sớm nhất. Những buổi vũ hội như vậy đáng đem vứt xuống hố rác, thưa hoàng hậu ?
- Đúng là phải vứt xuống hố rác, - con mèo khẳng định.
- Đến nửa đêm chỉ còn hơn mười giây nữa thôi, - Koroviev nói thêm, - bấy giờ sẽ bắt đầu.
Mười giây còn lại đó, Margarita cảm thấy sao quá dài. Có vẻ như mười giây đã qua rồi, mà vẫn chưa có gì xảy ra. Nhưng đúng lúc ấy, một cái gì đó khua loảng xoảng ở phía dưới, trong lòng lò sưởi khổng lố, và từ đấy nhảy vọt ra chiếc giá treo cổ với một thây người đã rữa nát treo lủng lẳng. Cái thây tuột khỏi sợi dây thừng, rơi phịch xuống sàn, và từ đó bật ra một gã trai đẹp mã, tóc đen, mặc áo đuôi tôm, đi giày da láng. Từ lò sưởi chạy ra tiếp một cỗ quan tài không lớn lắm đã mục, tấm ván thiên văng ra, một thây người khác từ trong quan tài rơi xuống sàn. Gã trai đẹp mã với một vẻ phong nhã bước đến bên và khuỳnh khuỷu tay ra thành hình vòng cung; cái thây ma thứ hai liền biến thành người đàn bà khỏa thân hiếu động đi đôi giày đen với chòm lông chim cũng màu đen gài trên đầu; rồi cả hai, một đàn ông, một đàn bà, vội vã theo cầu thang đi ngược lên phía trên.
- Những vị khách đầu tiên! – Koroviev hét vang. – Ngài Giắc(3) cùng phu nhân. Xin giới thiệu với hoàng hậu, đây là một trong những người đàn ông có duyên nhất! Chuyên gia làm bạc giả lừng danh, kẻ phản bội tổ quốc, nhưng là một nhà giả kim thuật rất không tồi. Anh ta nổi tiếng, - Koroviev thì thầm vào tai Margarita, - nhờ việc đầu độc tình nhân của nhà vua. Mà việc đó đâu phải là ai cũng làm được. Hoàng hậu hãy nhìn xem, đẹp trai đến nhường kia !
Margarita mặt tái nhợt, miệng há hốc, đưa mắt nhìn xuống dưới và trông thấy cả giá treo cổ lẫn quan tài đều biến mất đi đâu đó vào cửa bên phải của căn phòng đầy tớ gát cửa.
- Tôi rất vui lòng, - con mèo hét thẳng vào mặt ngài Giắc đang đi lên cầu thang.
Cùng lúc đó ở phía dưới, từ trong lò sưởi xuất hiện một bộ xương không đầu với cánh tay bị cắt rời, bộ xương ngã sấp xuống đất và biến thành một người đàn ông mặc áo đuôi tôm.
Phu nhân của ngài Giắc đã dừng lại quỳ một chân xuống trước mặt Margarita và tái nhợt đi vì xúc động, hôn lên đầu gối nàng.
Mấy người trẻ tuổi đi cùng với Azazello, miệng mỉm những nụ cười không sinh khí nhưng cởi mở, đã ép ngài Giắc cùng phu nhân sang bên cạnh đến với những cốc sâm banh được những người da đen bưng sẳn trên tay. Người đàn ông đơn độc mặc áo đuôi tôm đang một mình chạy lên cầu thang.
- Bá tước Robert(4), - Koroviev nói thầm với Margarita, - vẫn cứ duyên dáng như trước. Xin hoàng hậu lưu ý một trường hợp ngược lại thật khôi hài: ông này là tình nhân của vợ vua và bỏ thuốc độc giết chết vợ mình.
- Chúng tôi rất vui lòng, thưa bá tước, - Beghemot hét.
Từ lò sưởi văng ra, nổ tung và rơi xuống sàn ba chiếc quan tài, theo sau là một người đàn ông mặc áo choàng đen, ông ta bị người từ cái miệng đen ngòm của lò sưởi chạy ra tiếp đó đâm một nhát dao vào lưng. Ở phía dưới nghe vang lên tiếng kêu tắt nghẹn. Từ lò sưởi chạy ra một xác chết gần như bị rữa nát hoàn toàn. Margarita nheo mắt lại, và một bàn tay của ai đó đưa lên mũi nàng một lọ nhỏ đựng muối trắng. Margarita nghĩ rằng đó là bàn tay của Natasa. Cầu thang bắt đầu chật ních người. Bây giờ trên mỗi bậc cầu thang đều có những người đàn ông mặc áo đuôi tôm từ xa trông giống nhau hoàn toàn, và cùng với họ là những người phụ nữ khỏa thân chỉ khác nhau bởi màu sắc của chiếc lông chim cắm trên đầu và những đôi giày dưới chân.
Đang đi lại gần Margarita là một người đàn bà gầy gò, khiêm nhường, có dáng đi khập khễnh với một chiếc ủng bằng gỗ kỳ cục ở chân trái, đôi mắt nhìn xuống như một nữ tu sĩ, một dải vải xanh rộng quấn ngang cổ không hiểu để làm gì.
- Người quấn vải xanh là ai? – Margarita buột miệng hỏi.
- Một phụ nữ cực kỳ sang trọng và cực kỳ đáng mến, - Koroviev thì thầm. – Xin giới thiệu với hoàng hậu, đây là bà Tophana(5), người đặc biệt nổi tiếng giữa đám phụ nữ tuyệt vời của thành Napoli và Palermo, nhất là trong số những người vợ chán chồng. Bởi vì, thưa hoàng hậu, thường vẫn có khi các ông chồng trở nên đáng ngán lắm chứ ạ.
- Đúng vậy, - Margarita đáp khẽ, trong lúc đó vẫn mỉm cười với hai người đàn ông mặc áo đuôi tôm theo nhau cúi mình hôn tay và đầu gối nàng.
- Thế đấy, - Koroviev vừa khéo léo thì thầm vào tai Margarita, đồng thời cũng trong lúc đó vừa kịp hét lên với ai đó: - Thưa công tước, xin mời một cốc sâm banh! Tôi rất vui lòng! Vâng, thế đấy, bà Tophana hiểu rõ tình cảnh của những người phụ nữ đáng thương đó và bán cho họ một thứ nước gì đấy trong các ve nhỏ. Vợ đổ thứ nước đó vào bát súp cho chồng, chồng ăn súp, cảm ơn vợ về sự nâng niu âu yếm và cảm thấy trong người thật thoải mái. Tuy nhiên, sau vài giờ, anh chồng bắt đầu cảm thấy rất khát nước, vào giường nằm, và ngày hôm sau, người vợ tuyệt vời ở thành Napoli cho chồng ăn súp đã được tự do như ngọn gió mùa Xuân.
- Thế cái gì trên chân bà ta thế? – Margarita hỏi, vẫn không ngừng giơ tay ra cho những người khách đã đi vượt bà Tophana khập khiểng. – Và cái dải xanh trên cổ để làm gì? Cổ bị tật à?
- Tôi rất vui lòng, thưa hầu tước! – Koroviev hét và cùng lúc đó nói thầm với Margarita: - Cái cổ tuyệt trần, nhưng ở trong nhà tù xảy ra một chuyện khó chịu với bà ta. Ở chân bà ta là chiếc ủng Tây Ban Nha(6), thưa hoàng hậu, còn dải xanh ở cổ có sự tích như sau: khi những người coi ngục được biết rằng gần năm trăm ông chồng được chọn không như ý đã vĩnh viễn rời bỏ Napoli và Palermo, họ quá nóng nảy thắt cổ bà Tophana ở trong nhà giam.
- Tôi thật sung sướng, thưa hoàng hậu, được hưởng cái vinh hạnh cao cả như thế này, - bà Tophana vừa thì thào như một nữ tu sĩ, vừa cố quỳ chân xuống sàn, nhưng bị vướng bởi chiếc ủng Tây Ban Nha. Koroviev và Beghemot giúp bà ta đứng dậy.
- Ta rất vui, - Margarita đáp lời, cùng lúc đó chìa tay cho những người khác.
Bây giờ, chảy ngược theo cầu thang lên trên là cả một dòng người. Margarita không còn trông thấy những gì diễn ra ở phòng đầy tớ gát cửa nữa. Nàng giơ tay lên và hạ tay xuống một cách máy móc, phô hàm răng đơn điệu mỉm cười với khách. Trên đầu cầu thang đã bắt đầu ồn ào, từ phía những gian vũ hội mà Margarita vừa rời khỏi vẳng lại tiếng nhạc như biển động.
- Còn đây là một người đàn bà ngán ngẩm, - Koroviev không còn thì thầm nữa, mà nói to, vì biết rằng trong tiếng ồn ào sẽ không ai nghe thấy anh ta, - rất say mê các buổi vũ hội, cứ mơ ước được kêu ca về chiếc khăn của mình.
Margarita đưa mắt tìm, giữa dòng người đang leo lên, người mà Koroviev vừa nói đến. Đó là một phụ nữ trẻ chừng hai mươi tuổi, thân hình đẹp khác thường, nhưng cặp mắt có một cái gì đó lo âu, ám ảnh.
- Khăn nào? – Margarita hỏi.
- Có một con sen được phái đến chỗ cô ta, - Koroviev giải thích, - và suốt ba chục năm nay, đêm đến lại đặt lên bàn cho cô ta một chiếc khăn mùi soa. Cứ tỉnh dậy là cô ta đã thấy chiếc khăn ở đó rồi. Cô ta đem đốt trong lò, đem vứt xuống sông, nhưng không làm sao được.
- Khăn nào ? – Margarita thì thầm hỏi, tay vẫn không ngừng nâng lên hạ xuống.
- Chiếc khăn viền xanh. Đầu đuôi sự việc là khi còn làm ở một tiệm rượu, có lần tay chủ tiệm gọi cô ta vào nhà kho; sau chín tháng cô ta sinh ra một đứa bé trai, mang nó vào rừng, nhét chiếc khăn vào miệng, rồi chôn đứa bé xuống đất. Khi ra toà, cô ta nói rằng cô ta không biết lấy gì để nuôi con cả.
- Thế còn lão chủ tiệm rượu đâu? – Margarita hỏi.
- Thưa hoàng hậu, - từ phía dưới chân, con mèo bỗng kêu rít lên, - cho phép tôi được hỏi: lão chủ thì có liên quan gì đến đây? Ông ta có bóp chết đứa bé ở trong rừng đâu?
Margarita vẫn không ngừng mỉm cười và chìa tay phải ra cho khách, bấm những móng nhọn của bàn tay trái vào tai Beghemot và thì thào:
- Nếu như nhà ngươi, đồ đểu cáng, còn dám chen vào chuyện một lần nữa…
Beghemot kêu lên the thé không theo cung cách vũ hội và nói khàn khàn:
- Thưa hoàng hậu…tai sưng lên mất…Sao lại làm hỏng vũ hội bằng cái tai sưng vù này?...Đó là tôi nói về pháp lý…đứng trên quan điểm pháp lý…Tôi xin im lặng, im lặng…Hãy coi tôi không phải mèo, mà là hến, chỉ xin buông tay ra.
Margarita thả tai mèo ra, và cặp mắt ám ảnh, rầu rĩ đã ở ngay trước mặt nàng.
- Tôi rất sung sướng, thưa hoàng hậu, được đến dự đại vũ hội của đêm rằm.
- Còn ta, - Margarita đáp, - ta rất vui được gặp nàng. Ta rất vui. Nàng có thích sâm banh không?
- Ôi, sao lại thế này, thưa hoàng hậu?! – Koroviev tuyệt vọng, nhưng không thành tiếng, hét vào tai Margarita. – Hàng người sẽ bị nghẽn lại mất !
- Tôi rất thích, - người đàn bà trẻ tuổi nói với vẻ cầu khẩn, và bỗng bắt đầu lập đi lập lại một cách máy móc: - Phrida, Phrida, Phrida! Tên tôi là Phrida, thưa hoàng hậu.
- Thế thì hôm nay hãy uống cho thật say, Phrida ạ, và đừng nghĩ gì cả, - Margarita nói.
Phrida vươn cả hai tay về phía Margarita, nhưng Koroviev và Beghemot đã rất khéo léo đỡ lấy tay cô ta, và Phrida mất hút trong đám đông.
Bây giờ từ phía dưới, dòng người đã chật cứng như nêm chen chúc nhau xông lên đầu cầu thang, nơi Margarita đứng. Những thân thể đàn bà khỏa thân giữa những người đàn ông mặc lễ phục đuôi tôm. Những tấm thân ngăm đen, trắng nõn, màu cà phê hạt, và cả màu đen hoàn toàn, dập dờn dồn đến trước mặt Margarita. Những viên ngọc quý trên các mái tóc màu hung, màu đen, màu hạt dẻ, màu lanh, lấp lánh nhảy múa bắn ra vô vàn tia lửa trong làn ánh sáng chói chang từ trên đổ xuống. Và dường như có ai đó vẩy những giọt ánh sáng xuống đám đàn ông đang chen chúc đi ngược lên cầu thang – trên ngực họ, những chiếc khuy cài cổ bằng kim cương ánh lên rực rỡ. Bây giờ, Margarita cảm thấy từng giây một những cặp môi chạm vào đầu gối, từng giây một chìa tay ra đón nhận những cái hôn, gương mặt nàng chảy ra trong chiếc mặt nạ tươi cười bất động.
- Tôi rất vui lòng, - giọng Koroviev ngân nga một cách đơn điệu, - chúng tôi rất vui lòng, hoàng hậu rất vui lòng.
- Hoàng hậu rất vui lòng, - Azazello khàn khàn giọng mũi sau lưng Margarita.
- Tôi rất vui lòng, - con mèo bên cạnh liên tục gào lên.
- Hầu tước tiểu thư(7), - Koroviev lẩm bẩm, - bỏ thuốc độc giết chết cha, hai người anh, hai người chị chỉ vì quyền thừa kế gia sản! Hoàng hậu rất vui lòng! Quý bà Minkina(8), ôi tuyệt quá! Chỉ hơi cáu bẳn. Sao lại đốt một người hầu phòng bằng những chiếc kẹp uốn tóc? Tất nhiên, trong những điều kiện như thế người ta sẽ cắt đầu! Hoàng hậu rất vui lòng! Thưa hòang hậu, một giây lưu ý: Hoàng đế Rudolf(9), một nhà giả kim thuật và phù thủy. Lại một nhà giả kim thuật - bị treo cổ. A, bà ta đây rồi! Ôi, cái nhà chứa của bà ta ở thành phố Strasbourg mới tuyệt vời chứ! Chúng tôi rất vui lòng. Chị thợ may ở Moskva, tất cả chúng ta đều mê chị ta bởi cái trí tưởng tượng không bao giờ cạn. Chị ta mở tiệm may và nghĩ ra một trò buồn cười kinh khủng: khoan hai lỗ tròn ở tường…
- Thế các bà khách không biết à ? – Margarita hỏi.
- Tất cả đều biết, thưa hoàng hậu, - Koroviev đáp, - tôi rất vui lòng. Cái cậu bé hai mươi tuổi này từ bé đã có những ý tưởng lạ lùng, một kẻ hay mơ mộng và kỳ cục. Có một cô bé yêu cậu ta, còn cậu ta đem bán cô ta vào nhà thổ.
Từ phía dưới, dòng sông người vẫn chảy. Không thấy khúc dưới của dòng sông đó ở đâu. Nguồn của nó, chiếc lò sưởi khổng lồ vẫn tiếp tục nhả người ra. Cứ như vậy một giờ trôi qua, rồi giờ thứ hai. Margarita bắt đầu cảm thấy sợi dây chuyền đeo ở cổ trở nên nặng nề hơn trước và có một cái gì đó khủng khiếp xảy ra với cánh tay của nàng. Bây giờ mỗi khi nâng nó lên, Margarita phải nhăn mặt lại. Nàng thôi không còn chú ý đến các nhận xét thú vị của Koroviev nữa. Và những khuôn mặt mắt xếch của người Mông Cổ, những khuôn mặt da trắng và da đen trở nên giống nhau, nhiều khi nhập lại làm một, còn bầu không khí giữa những khuôn mặt đó không hiểu sao bắt đầu lung linh, run rẩy.Một cơn đau buốt như bị kim đâm bỗng nhói lên ở cánh tay phải của Margarita, và nàng nghiến răng tựa khuỷu tay lên mặt bệ thấp. Những tiếng động sột soạt như tiếng cánh chim quệt vào tường bây giờ từ gian phòng lớn phía sau vẳng lại, và có thể hiểu được rằng ở đó cả đám khách đông chưa từng thấy kia đang nhảy. Margarita cảm tưởng như đến cả những sàn nhà nặng nề bằng đá cẩm thạch khảm pha lê trong ngôi nhà kỳ lạ này cũng phải rung lên theo nhịp nhảy.
Cả Gai Caesar Kaligula(10) lẫn Mesalina(11) đều không làm cho Margarita quan tâm nữa, cũng như nàng không còn quan tâm đến một ai trong số những vua chúa, quận công, hiệp sĩ, những kẻ tự tử, giết người, bị treo cổ và những kẻ ma cô ma cậu, những tên coi ngục và những đao phủ, những kẻ chuyên nghề tố giác và cờ bạc, bịp bợm, những tên phản bội, gián điệp, những kẻ điên khùng và hoang dâm. Tất cả tên tuổi của họ rối tinh lên trong đầu nàng, những khuôn mặt của họ nhòa kết thành một khối bột nhão khổng lồ; và chỉ có một khuôn mặt với bộ râu đỏ như lửa, khuôn mặt của Maliuta Scuratov(12) là bám chặt một cách đau đớn trong trí nhớ của nàng. Đôi chân của Margarita khuỵu xuống, từng phút một nàng chỉ sợ mình òa lên khóc. Cái nàng cảm thấy đau đớn nhất là đầu gối chân trái, nơi người ta không ngừng hôn lên. Nó sưng phồng, da trở nên tím xanh, mặc dù đã mấy lần bàn tay của Natasa xuất hiện cạnh đầu gối nàng và dùng bọt biển thoa một thứ nước thơm lên đó. Đến cuối giờ thứ ba, Margarita đưa đôi mắt hoàn toàn tuyệt vọng nhìn xuống và rùng mình sung sướng: đám khách đã thưa đi nhiều.
- Quy luật của các cuộc đón khách vũ hội đều như nhau, thưa hoàng hậu, - Koroviev thì thầm, - bây giờ đợt sóng sẽ bắt đầu hạ xuống. Xin thề là chúng ta đang phải chịu đựng những phút cuối cùng. Kia là đám ăn chơi vùng Broken. Họ bao giờ cũng đến sau rốt. Đúng là họ rồi. Hai quỷ hút máu say mềm…hết rồi ư? À không, lại còn thêm một. Không, thêm hai người nữa !
Hai người khách cuối cùng đang bước lên cầu thang.
- Ai đây có vẻ mới nhỉ? – Koroviev nheo mắt nhìn qua mặt kính, nói. – À phải rồi, phải rồi. Một lần trước đây, Azazello đến thăm ông ta và sau cốc rượu cô nhắc khuyên ông ta cách thoát khỏi tay một người. Ông ta đang vô cùng lo sợ bị người đó vạch mặt. Và thế là ông ta ra lệnh cho một người quen dưới quyền của mình vẩy thuốc độc lên các bức tường phòng làm việc(13).
- Tên ông ta là gì? – Margarita hỏi.
- Thú thật là tôi cũng không biết, - Koroviev đáp, - cần phải hỏi Azazello.
- Thế ai đi cùng với ông ta kia?
- Đó chính là người thừa hành dưới quyền của ông ta. Tôi rất vui lòng! – Koroviev hét lên với hai người khách cuối cùng.
Cầu thang trở nên trống không. Để cẩn thận, họ đợi thêm một lúc. Nhưng từ lò sưởi không còn ai ra thêm nữa.
Một giây sau, không hiểu bằng cách nào, Margarita đã thấy mình lại ở trong căn phòng có bể tắm; và ở đó, lập tức òa lên khóc vì những cơn đau ở tay và chân, nàng nằm xoài ngay xuống sàn. Nhưng Ghella và Natasa, không ngớt miệng an ủi, lại kéo nàng đến dưới vòi tắm máu, lại xoa bóp người nàng, và Margarita cảm thấy mình khỏe khoắn trở lại.
- Còn nữa, còn nữa, thưa hoàng hậu Margot, - Koroviev từ đâu hiện ra bên cạnh, thì thầm. - Cần phải bay thêm một vòng qua các phòng để các vị khách quý không cảm thấy mình bị bỏ rơi.
Và Margarita bay ra khỏi căn phòng có bể tắm. Trên sân khấu phía sau bức tường hoa uất kim hương, nơi trước đây dàn nhạc của vua các bản nhạc Valse biểu diễn, giờ vang lên điên loạn dàn nhạc jazz của bầy khỉ. Một con vượn gorila khổng lồ với bộ mặt râu quai nón cầm cây kèn đồng trong tay vừa nặng nề nhún nhảy, vừa chỉ huy dàn nhạc. Những con đười ươi ngồi thành một dãy ra sức thổi những chiếc kèn sáng loáng. Một bầy tinh tinh vui nhộn ôm đàn gió ngồi cưỡi trên vai chúng. Hai con vượn hamadria có bờm sư tử ngồi chơi dương cầm, nhưng tiếng nhạc dương cầm không nghe rõ trong tiếng gầm, tiếng rít và tiếng rền rĩ của các cây kèn saxophon, violon và trống trong tay những con vượn gibbon, khỉ mandri và khỉ đuôi dài. Trên mặt sàn gương, vô số những cặp nhảy, dường như kết chặt vào với nhau, phô diễn sự khéo léo và điêu luyện của các động tác, cùng quay tròn về một hướng, ken đặc như một bức tường, sẵn sàng quét sạch mọi thứ trên đường đi. Những con bướm cánh mịn màng chao lượn trên đám người nhảy múa; từ trên trần, hoa rắc xuống lả tả. Trên các đỉnh của những cây cột tròn, khi điện tắt, nhấp nháy hằng hà sa số những đàn đom đóm và những ngọn lửa ma trơi bơi chập chờn trong không khí.
Rồi Matgarita thấy mình đang ở trong một bể tắm có kích thước to đến quái dị với hàng cột tròn bao quanh. Một bức tượng Hải Vương khổng lồ phun từ miệng ra cột nước lớn màu hồng. Mùi rượu sâm banh ngây ngất bốc lên từ lòng bể tắm. Ở đây đang vào giai đoạn cao trào của một trò giải trí vô cùng thoải mái. Những người đàn bà nói cười, cởi giày dép, trao ví xách tay của mình cho các bạn nhảy hay đám người da đen đang chạy đi chạy lại với những ôm khăn tắm trong tay, rồi hét lên nhảy lao đầu xuống bể. Những cột bọt trắng vọt lên cao. Những ngọn đèn đặt dưới đáy bể pha lê cháy sáng xuyên qua lớp rượu vang dày trong bể làm hiện rõ những thân người lấp lánh bạc đang bơi lội. Từ dưới bể lên, tất cả mọi người đều đã say ngây ngất. Tiếng cười sằng sặc vang lên dưới các dãy cột tròn và vang xa mãi, như trong một nhà tắm hơi.
Trong toàn bộ cái khối hỗn độn đó, hiện lên rất rõ một khuôn mặt phụ nữ đã hoàn toàn say, với đôi mắt mất trí, nhưng trong cái vẻ mất trí đó vẫn toát ra một sự cầu khẩn, và Margarita nhớ lại cái tên “Phrida”. Đầu nàng bắt đầu choáng váng vì hơi rượu, và khi Margarita vừa định bay đi thì Beghemot đã biểu diễn trong bể rượu một tiết mục khiến nàng phải nán lại. Con mèo làm một động tác phù phép gì đó ở miệng Hải Vương, và ngay tức khắc toàn bộ khối sâm banh cuồn cuộn cùng với tiếng sủi rít ầm ầm rút khỏi bể, còn pho tượng Hải Vương bắt đầu phun ra những đợt sóng màu vàng thẫm không óng ánh, không sủi bọt. Đám đàn bà vừa hét ré lên: - Cô nhắc ! - vừa chạy từ mép bể ra phía sau các cây cột tròn. Sau mấy giây, bể tắm đã đầy ắp, và con mèo, nhảy lộn ba vòng trong không khí, rơi tõm xuống bể rượu cô nhắc đang gợn sóng chao đảo. Khi nó vừa thở phì phò vừa leo lên bờ, chiếc cà vạt đã ướt sũng nhàu nát, chiếc ống nhòm và màu vàng của bộ ria đã biến mất. Theo gương của Beghemot chỉ có hai người, đó là chị thợ may lắm trò nọ và tay bạn nhảy của chị ta, một người lai trẻ tuổi lạ mặt. Khi cặp kia vừa nhảy xuống bể cô nhắc, Koroviev đã khoác lấy cánh tay Margarita, và họ rời bỏ những người đang tắm.
Margarita thấy mình bay qua một nơi không quen, nàng trông thấy phía dưới những núi sò huyết trong chiếc ao lớn bằng đá. Sau đó nàng bay trên một mặt sàn bằng kính, dưới sàn là những lò lửa địa ngục đang cháy rực và những người đầu bếp trắng toát của chúa quỷ đang chạy đi chạy lại tất bật. Rồi ở một nơi khác, khi nàng đã không còn hiểu được một cái gì nữa, Margarita trông thấy những tầng nhà hầm tối thẫm, nơi có những ngọn đèn cháy sáng, những cô gái dọn ra những miếng thịt nướng trên than đỏ cháy xèo xèo và mọi người uống mừng sức khỏe nàng bằng những chiếc cốc lớn tướng. Rồi nàng trông thấy những con gấu trắng chơi đàn gió và nhảy điệu nhảy dân gian trên sân khấu. Một nhà ảo thuật ma quỷ không cháy trên lò sưởi… và lần thứ hai, sức lực của nàng bắt đầu cạn kiệt.
- Đợt trình diễn cuối cùng, - Koroviev lo lắng nói thầm vào tai Margarita, - và chúng ta sẽ được tự do.
Cùng với Koroviev, nàng lại rơi vào phòng vũ hội, nhưng ở đó bây giờ mọi người không còn nhảy nữa, mà tụ lại thành một đám đông vô vàn bên các dãy cột, để một khoảng trống ở giữa phòng. Margarita không còn nhớ ai đã giúp nàng leo lên chiếc bục cao vừa xuất hiện chính giữa khoảng trống đó. Khi đã đứng trên bục, nàng kinh ngạc nghe ở đâu đó có tiếng chuông điểm giữa đêm, mà theo sự tính toán của nàng là thời khắc đó đã phải qua từ lâu lắm rồi. Cùng với tiếng chuông đồng hồ cuối cùng không hiểu từ đâu vọng lại, một sự im lặng bao trùm lên đám khách. Lúc đó, Margarita lại trông thấy Voland. Đi theo ông ta là Abadonna, Azazello và một vài người trẻ tuổi mặc áo đen giống hệt như Abadonna. Bây giờ Margarita trông thấy đối diện với chiếc bục của nàng nổi lên một chiếc bục khác dành cho Voland. Nhưng ông ta không sử dụng chiếc bục đó. Điều làm cho Margarita ngạc nhiên là trong đợt trình diễn lớn cuối cùng này trên vũ hội, Voland vẫn có bộ dạng hệt như khi ở trong phòng ngủ. Vẫn chiếc áo ngủ đã mạng và cáu bẩn ấy treo trên vai ông ta, chân vẫn đi đôi giày dùng trong nhà cũ mòn ấy. Voland có mang theo kiếm, nhưng ông ta sử dụng thanh kiếm tuốt trần như một cây gậy, tỳ tay lên nó mà bước đi khập khễnh. Voland vừa dừng lại cạnh chiếc bục của mình, lập tức Azazello xuất hiện trước mặt ông ta với chiếc khay trên tay; trên chiếc khay đó, Margarita trông thấy một đầu người bị cắt cụt với mấy chiếc răng cửa gãy. Trong phòng vẫn tiếp tục im lặng tuyệt đối, và sự im lặng đó chỉ một lần bị phá vỡ bởi tiếng chuông vọng lại từ rất xa như từ cửa chính vọng đến và hoàn toàn khó hiểu trong những điều kiện ở đây.
- Mikhail Alekxandrovich, - Voland nói khẽ với chiếc đầu, và khi ấy hai hàng mi của người bị giết mở ra, Margarita rùng mình trông thấy trên khuôn mặt chết một đôi mắt sống đầy trí tuệ và đau khổ. - Tất cả đều xảy ra đúng như thế, có phải không? – Voland tiếp tục nói, nhìn thẳng vào cặp mắt của cái đầu. - Đầu ông bị một người đàn bà cắt đứt, cuộc họp không thành, và tôi đang ở trong căn hộ của ông. Đó là sự thật. Mà sự thật là một thứ cực kỳ bướng bỉnh trên thế gian này. Nhưng bây giờ chúng tôi quan tâm đến những gì sẽ tiếp theo, chứ không phải cái sự kiện đã xảy ra. Ông bao giờ cũng là người nhiệt thành truyền bá cái học thuyết cho rằng sau khi đầu bị cắt, cuộc sống con người cũng chấm dứt, con người biến thành tro bụi và đi vào cõi vô sinh.. Tôi lấy làm hài lòng được thông báo với ông, trước mặt các vị khách của tôi, mặc dù họ lại là bằng chứng của một học thuyết hoàn toàn khác, rằng học thuyết của các ông vừa vững chắc, vừa sắc sảo. Tuy nhiên, mọi học thuyết đầu có giá trị của mình. Và trong số các học thuyết đó, có cả học thuyết cho rằng mỗi con người sẽ được hưởng theo đức tin của anh ta. Và việc đó sẽ được thành hiện thực ! Ông đi vào cõi vô sinh, còn tôi sẽ được sung sướng, từ cái chén mà ông sẽ biến thành, uống mừng sự sinh tồn !
Voland nâng kiếm lên. Ngay lúc đó, bề ngoài của đầu người trên khay biến sang màu đen thẫm, thu nhỏ lại, rồi lở ra từng mảng, hai con mắt biến mất, và một lát sau Margarita trông thấy trên khay một chiếc chén bằng sọ người màu vàng nhạt, với cặp mắt ngọc bích và hàm răng ngọc trai đứng trên chân bệ bằng vàng. Nắp chiếc sọ mở ra bằng bản lề.
- Ngay bây giờ, thưa messir, - nhận thấy ánh nhìn dò hỏi của Voland, Koroviev nói: - hắn sẽ đến trước mặt ngài. Tôi đã nghe trong sự im lặng tuyệt đối này tiếng đôi giày da láng của hắn bước đi, tiếng va lanh canh của chiếc cốc hắn đặt xuống bàn, cốc sâm banh cuối cùng mà hắn uống trong cuộc sống nơi kia. Và hắn đây rồi.
Một người khách mới đơn độc bước vào phòng, đi thẳng đến chỗ Voland. Bề ngoài anh ta không có gì khác biệt với vô số những người khách đàn ông khác, chỉ trừ một điểm: anh ta bước đi không vững vì lo sợ, điều đó có thể trông thấy rõ ngay từ xa. Trên hai má anh ta đỏ cháy lên những vết bầm, cặp mắt nhìn quanh hoảng hốt. Người khách sửng sốt tột độ, mà điều đó là dĩ nhiên thôi: tất cả mọi cái xung quanh đều làm anh ta kinh ngạc, mà trước hết là bộ trang phục của Voland.
Nhưng người khách đã được đón tiếp một cách hết sức ân cần.
- A, ngài nam tước Maighel vô cùng quý mến, - mìm cười cởi mở, Voland đón chào người khách đang trố mắt ra ngơ ngác. – Tôi rất hân hạnh được giới thiệu với quý vị , - Voland quay về đám khách đứng trong phòng, - đây là ngài nam tước Maighel tột cùng đáng kính, một viên chức ở Ủy ban biểu diễn – chuyên trách giới thiệu với người nước ngoài những danh lam thắng cảnh của thủ đô.
Nghe đến đó, Margarita sững sờ cả người, vì nàng bỗng nhận ra cái tay Maighel này. Đã mấy lần nàng gặp anh ta ở các nhà hát Moskva và trong các tiệm ăn. “ Khoan đã…” Margarita nghĩ thầm, - thế này có nghĩa là anh ta đã chết rồi?” Nhưng sự thể đã được làm sáng tỏ ngay liền đó.
- Ngài nam tước đáng mến, - Voland mỉm cười rạng rỡ, nói tiếp, - là một người tuyệt vời đến mức vừa nghe tin tôi đến Moskva đã lập tức gọi điện cho tôi và đề nghị được phục vụ theo chức trách của mình, tức là giới thiệu những danh lam thắng cảnh của thủ đô. Tôi, lẽ dĩ nhiên, rất sung sướng được mời ngài nam tước đến đây.
Vào đúng lúc đó, Margarita trông thấy Azazello trao chiếc khay đựng đầu lâu cho Koroviev.
- Mà nhân thể nói thêm, thưa nam tước, - Voland bỗng thân mật hạ giọng nói tiếp, - có những tin đồn về tính ham hiểu biết đặc biệt hiếm có ở ngài. Người ta nói rằng nó, kết hợp với sự mau miệng phát triển cũng không kém của ngài, đã thu hút được sự chú ý chung. Hơn thế nữa, những miệng lưỡi độc địa đã ném ra những lời về ngài như “kẻ tố giác”, “thằng do thám”. Và còn hơn thế nữa, lại có cả ý kiến cho rằng chỉ một tháng nữa là cùng, điều đó sẽ dẫn ngài đến một kết cuộc đau buồn. Vì thế, để giải thoát ngài khỏi sự chờ đợi mệt mỏi, chúng tôi quyết định giúp đỡ ngài, tiện thể gặp dịp ngài xin đến thăm tôi với mục đích là để rình xem và nghe trộm tất cả những gì có thể.
Mặt nam tước trở nên tái nhợt, còn tái hơn cả Abadonna, là người đã rất tái nhợt rồi. Và liền đó xảy ra một việc lạ lùng. Abadonna vụt hiện đến trước mặt gã nam tước, gỡ cặp kính của mình ra trong một giây. Đúng vào khoảnh khắc ấy, có một cái gì đó vụt lóe lên trong tay Azazello, một cái gì đó khẽ nổ bục như tiếng vỗ tay, nam tước từ từ ngã ngửa xuống, một dòng máu đỏ thắm bắn vọt ra từ ngực, nhuộm hết chiếc áo sơmi hồ bột và áo gilê lễ phục. Koroviev hứng chiếc chén dưới dòng máu vọt ra và đưa chiếc chén đã hứng đầy cho Voland. Trong lúc đó tấm thân không còn sinh khí của gã nam tước đã nằm gục trên sàn nhà.
- Thưa quý khách, tôi uống chúc sức khỏe của các vị ! – Voland nói khẽ và nâng cốc lên môi.
Và lúc đó xảy ra một biến đổi kỳ lạ. Chiếc áo ngủ mạng và đôi giày sờn cũ của Voland biến mất. Voland đứng giữa phòng, trên mình mặc một tấm áo choàng đen với thanh kiếm thép ngang sườn. Ông ta bước nhanh đến bên Margarita, nâng chiếc chén lên gần mặt nàng và ra lệnh:
- Uống đi !
Đầu Margarita quay cuồng, nàng lảo đảo, nhưng cái chén đã ở ngay cặp môi của nàng, và những giọng nói của ai đó, - của ai, nàng không nhận ra, - thì thầm vào cả hai tai nàng:
- Đừng sợ, thưa hoàng hậu…Đừng sợ, thưa hoàng hậu, máu đã thấm xuống đất từ lâu. Và ở đó, nơi máu đổ xuống, đã mọc lên những chùm nho(14).
Margarita, không mở mắt, uống một ngụm, và một dòng điện ngọt ngào chạy khắp các mạch máu của nàng, hai tai bắt đầu rè đi. Nàng như nghe thấy những tiếng gà trống gáy váng óc, và một bản nhạc hành khúc vang lên đâu đây. Đám khách bắt đầu mất đi diện mạo của mình. Cả những người đàn ông mặc áo đuôi tôm lẫn những người đàn bà đều biến thành các thây ma. Sự mục rữa ngay trước mắt Margarita bao trùm toàn bộ căn phòng, trong không khí bốc lên mùi hầm mộ. Các dãy cột tròn đổ vụn, lửa đèn tắt ngấm, tất cả thu nhỏ lại, và cả những đài phun, những bức tường hoa uất kim hương lẫn hoa hải đường đều không còn dấu vết. Mà chỉ còn lại cái vốn vẫn ở nơi đây – căn phòng khách đơn sơ của bà chủ hiệu kim hoàn, từ cánh cửa hé mở dẫn vào đó hắt ra một dải ánh sáng. Và Margarita bước qua cánh cửa hé mở ấy.
------------------
(1) Vientan: Anri Vientan (1820-1881), nhà soạn nhạc, nhạc sĩ vĩ cầm người Bỉ.
(2) Iogann St’raus (1825-1899), nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm và nhạc trưởng vĩ đại người Áo, được tôn vinh “vua nhạc Valse”.
(3) Ngài Giắc: tức Giắc le Kor (1400-1456), người Pháp, bị buộc tội làm tiền giả và đầu độc người tình của vua Karl IV.
(4) Bá tước Robert: người tình của nữ hoàng Anh Elisabet I, bị nghi ngờ là đã đầu độc vợ mình.
(5) Tophana: một phụ nữ Italia chuyên buôn bán thuốc độc.
(6) …ủng Tây ban Nha: một dụng cụ khổ hình.
(7) Hầu tước tiểu thư Brevile cùng người tình đầu độc cha, hai người anh và hai chị để chiếm tài sản.
(8) Minkina: người tình của bá tước Araktrev, nổi tiếng hư hỏng và tàn bạo, bị những người hầu giết chết năm 1825.
(9) Hoàng đế Rudolf (1552-1621): nhà giả kim thuật, thích khoa học hơn chính trị.
(10) Caesar Kaligula: Hoàng đế La Mã, tàn bạo, hoang phí.
(11) Mesalina (thế kỷ I sau công nguyên): vợ thứ ba của Hoàng đế La Mã Klavdi, nổi tiếng tàn bạo,hiếu danh, dâm đãng. Tên bà ta trở thành danh từ chung.
(12) Maliuta Scuratov ( ? – 1573): nhà quý tộc, cận thần của Nga hoàng Ivan Hung Đế, người tham gia vào việc sát hại nhiều kẻ thù chính trị của Nga hoàng.
(13) …vẩy thuốc độc lên các bức tường phòng làm việc: ở đây ám chỉ cựu bộ trưởng nội vụ (Liên Xô cũ) G. Iagoda và thư ký của ông ta P. Bulanov, năm 1938 cả hai đã bị xử tử.
(14) … mọc lên những chùm nho: ý nói máu đã biến thành rượu nho.
Trong phòng ngủ của Voland tất cả vẫn y nguyên như trước khi bắt đầu vũ hội. Voland mặc áo ngủ ngồi trên giường, chỉ khác là Ghella không còn xoa bóp chân cho ông ta nữa, mà đang dọn bữa tối trên chiếc bàn, nơi trước đấy Voland và Beghemot chơi cờ. Koroviev cùng Azazello đã trút bỏ lễ phục đuôi tôm đang ngồi bên bàn, và cạnh họ, tất nhiên, là con mèo – Beghemot vẫn chưa chịu rời chiếc cà vạt ra, mặc dù bây giờ nó biến thành một mảnh giẻ cáu bẩn hết chỗ nói. Margarita lảo đảo bước đến bên bàn, tựa người lên đấy. Voland giơ ngón tay lên vẫy gọi nàng, như trước đó, lại gần mình và chỉ cho nàng ngồi xuống bên cạnh.
- Thế nào, người ta hành hạ nàng mệt lắm phải không? – Voland hỏi.
- Ồ không, thưa messir, - Margarita đáp nhưng giọng nàng khẽ đến mức gần như không nghe thấy.
- Noblesse oblige (1) – con mèo nói và rót cho Margarita một thứ chất lỏng trong suốt vào chiếc cốc rượu vang.
- Đây là vodka à? – Margarita yếu ớt hỏi.
Con mèo nhảy vọt dậy trên ghế vì phật ý.
- Ồ xin xá lỗi, thưa hoàng hậu, - nó kêu rít lên khàn khàn, - chẳng lẽ tôi cho phép mình rót vodka cho phụ nữ ư? Đây là cồn nguyên chất đấy!
Margarita mỉm cười và định đẩy chiếc cốc ra xa.
- Cứ mạnh dạn uống đi, - Voland nói, và Margarita lập tức cầm lấy cốc lên tay. – Ghella, ngồi xuống, - Voland ra lệnh, rồi quay sang giải thích với Margarita: - Đêm rằm là đêm hội, và ta ăn tối thân mật cùng với những người thân cận và đầy tớ của mình. Thế nào, các người cảm thấy ra sao? Cuộc vũ hội vất vả này đã diễn ra như thế nào?
- Rất chấn động! – Koroviev liến thoắng. - Tất cả đều như bị bỏ bùa, đều mê mệt, đều sững sờ; bao nhiêu là phép lịch sự, bao nhiêu là khéo léo, duyên dáng và quyến rũ!
Voland im lặng nâng cốc lên chạm với Margarita. Margarita ngoan ngoãn uống cạn, nghĩ rằng mình sẽ bị sặc chết ngay bởi cốc rượu cồn. Nhưng không hề có việc gì xảy ra cả. Một luồng hơi ấm đầy sinh lực chảy tan trong bụng nàng, một cái gì đó mềm mại gõ vào gáy; sức lực đã hồi phục, dường như nàng vừa trở dậy sau một giấc ngủ dài thoải mái, thêm vào đó, nàng cảm thấy bụng đói cồn cào. Và khi nhớ lại rằng nàng chưa hề ăn gì từ sáng hôm qua tới giờ, cái đói càng thêm cào xé. Margarita bắt đầu háo hức nuốt món trứng cá.
Beghemot cắt một miếng dứa, chấm muối, rắc ớt, ăn xong và tợp gọn một cách rất ngang tàng cốc rượu cồn thứ hai, làm tất cả phải vỗ tay hoan hô.
Sau khi Margarita uống xong cốc rượu thứ hai, những ngọn nến trên giá sáng hơn, lửa trong lò sưởi cũng bốc cao thêm. Margarita không cảm thấy mình say một chút nào. Vừa nhai thịt bằng hai hàm răng trắng muốt và tận hưởng thứ nước thịt ngon lành, Margarita vừa nhìn Beghemot phết mù tạt lên con sò huyết.
- Beghemot, nên đặt một quả nho lên trên nữa, - Ghella thúc vào sườn con mèo, nói khẽ.
- Yêu cầu không dạy tôi! – Beghemot đáp. – Tôi đã từng ngồi ăn tiệc rồi, xin đừng lo, đã từng rồi !
- Ôi, thật dễ chịu được ngồi ăn tối như thế này, cạnh lò sưởi, một cách tự nhiên, - Koroviev nói rè rè, - trong vòng thân mật…
- Không, Phagot ạ, - con mèo bác lại, - vũ hội có cái mê li và quy mô của nó…
- Không hề có mê li nào ở đó hết, và cả quy mô cũng vậy. Còn những con gấu đần độn, cũng như những con hổ trong quán rượu, bằng tiếng rống của chúng chỉ thiếu chút nữa làm ta phải mắc chứng đau nửa đầu, - Voland nói.
- Xin vâng, thưa messir, - con mèo nói, - nếu như ngài cho rằng không hề có quy mô, thì tôi cũng sẽ lập tức có quan điểm như vậy ngay ạ.
- Nhà ngươi coi chừng đấy! – Voland nói.
- Tôi đùa đấy ạ, - con mèo nói với vẻ ngoan ngoãn, - còn về chuyện mấy con hổ, thì tôi sẽ ra lệnh rán thịt chúng lên.
- Hổ không ăn được, - Ghella nói.
- Các người cho là vậy sao? Nếu thế thì xin nghe đây, - con mèo đáp và nheo mắt lại vẻ khoan khoái, bắt đầu kể rằng có lần nó đi lang thang suốt mười chín ngày trong sa mạc và thức ăn duy nhất lúc đó là thịt của một con hổ bị nó giết. Tất cả đều chăm chú lắng nghe câu chuyện hấp dẫn đó, còn khi Beghemot kể xong, tất cả đồng thanh kêu lên:
- Chuyện bịa !
- Và điều hay nhất trong câu chuyện bịa này, - Voland nói, - là nó được bịa ra từ chữ đầu đến chữ cuối.
- Thế sao? Bịa à? – con mèo thốt lên, và tất cả nghĩ rằng nó sẽ bắt đầu phản đối, nhưng Beghemot chỉ nói rất khẽ. - Lịch sử sẽ phán xét chúng ta.
- Mà này, - tươi tỉnh lên sau chén rượu, Margarita hỏi Azazello, - có phải anh đã bắn chết hắn, cái tay cựu nam tước ấy?
- Dĩ nhiên, - Azazello trả lời, - làm sao lại không bắn hắn được? Nhất định phải bắn hắn.
- Lúc ấy tôi sợ quá! – Margarita thốt lên. - Điều đó xảy ra thật bất ngờ.
- Không có gì bất ngờ ở đây cả, - Azazello không đồng ý, còn Koroviev rên rỉ rít lên:
- Làm sao lại không sợ được? Ngay tôi, đầu gối cũng run lên bần bật! Bụp! Xong! Ngài nam tước đã nằm trên sàn!
- Tôi suýt nữa lên cơn động kinh, - con mèo vừa nếm thìa trứng cá, vừa chen vào.
- Có một điều tôi không hiểu, - Margarita nói, và những tia lửa vàng phản chiếu từ chiếc cốc pha lê nhảy múa trong đáy mắt nàng, - là chẳng lẽ người ngoài không nghe thấy tiếng nhạc và nói chung những tiếng ồn ào của vũ hội sao?
- Tất nhiên là không nghe thấy, thưa hoàng hậu, - Koroviev giải thích, - cần phải làm điều đó sao cho không thể nghe thấy được. Phải làm điều đó thực cẩn thận.
- Đúng vậy, đúng vậy… Thế nhưng còn cái người ở ngoài cầu thang…Khi tôi cùng Azazello đến đây thấy…Và một người khác đứng ở cổng ra vào…Tôi nghĩ là anh ta theo dõi căn hộ này…
- Đúng thế! Đúng thế! – Koroviev hét to. – Đúng thế, ôi Margarita Nikolaevna quý mến! Đúng như tôi đã nghi ngờ! Đúng, anh ta theo dõi căn hộ của chúng ta. Tôi đã tưởng đó là một ông phó giáo sư đãng trí nào đó, hay một kẻ đang yêu vô công rồi nghề đứng chờ ngoài cầu thang, nhưng không, không phải. Lúc đó có một cái gì đó nhói lên trong ngực tôi! Ôi! Anh ta theo dõi căn hộ của chúng ta! Và cả người ở chân cầu thang cũng vậy! Và cả người ở ngoài cổng sân nữa!
- Thật là thú vị, nếu như họ đến bắt các anh? – Margarita hỏi.
- Nhất định họ sẽ đến, hoàng hậu kiều diễm ạ, nhất định họ sẽ đến, - Koroviev đáp, - trái tim tôi cảm thấy là họ sẽ đến, nhưng không phải bây giờ, tất nhiên, nhưng rồi tới lúc nhất định họ sẽ đến. Nhưng tôi cho là sẽ chẳng có gì thú vị cả đâu.
- Ôi, tôi sợ quá khi cái tay nam tước kia ngã xuống, - Margarita nói, chắc hẳn là đến tận giờ nàng vẫn không quên được cái cảnh giết người lần đầu tiên nàng thấy trong đời. - Chắc anh bắn phải giỏi lắm?
- Tương đối, - Azazello đáp.
- Cách bao nhiêu bước? – Margarita hỏi Azazello một câu không rõ ràng lắm.
- Còn phải xem đích là cái gì đã chứ, - Azazello đáp với vẻ hiểu biết. - Đập trúng búa vào cửa kính nhà phê bình Latunski là một chuyện, còn vào đúng tim anh ta lại là chuyện hoàn toàn khác.
- Vào đúng tim! – Margarita thốt lên, không hiểu sao lại đưa tay ôm chặt lấy tim mình. – Vào đúng tim! – nàng nhắc lại bằng giọng trầm xuống.
- Nhà phê bình Latunski nào vậy? – Voland nheo mắt nhìn Margarita, hỏi.
Azazello, Koroviev và Beghemot có vẻ ngượng nghịu cụp mắt xuống, còn Margarita đỏ mặt đáp:
- Có một nhà phê bình như vậy. Chiều qua tôi vừa đập phá tan hoang nhà của anh ta.
- Ra thế đấy! Để làm gì?
- Thưa messir, - Margarita giải thích, - anh ta làm hại đời một Nghệ Nhân.
- Thế nhưng nàng phải tự mình vất vả làm gì? – Voland hỏi.
- Hãy cho phép tôi, thưa messir, - con mèo hét lên mừng rỡ và nhảy bật dậy.
- Ngồi xuống đi, - Azazello gằn giọng nói rồi đứng dậy, - tôi sẽ đi ngay bây giờ…
- Không! – Margarita kêu lên. – Không, tôi van ngài, thưa messir, không cần thế.
- Tùy nàng, tùy nàng! – Voland đáp và Azazello ngồi xuống chỗ của mình.
- Chúng ta đang dừng lại ở chỗ nào, thưa hoàng hậu Margot quý mến? – Koroviev nói, - A, đúng rồi, trái tim! Anh ta sẽ bắn đúng tim, - Koroviev chĩa ngón tay dài ngoẵng của mình về phía Azazello, - tùy ý chọn, vào bất cứ tâm thất hoặc bất cứ tâm nhĩ nào.
Margarita chưa hiểu được ngay, và khi hiểu ra, nàng thốt lên ngạc nhiên:
- Nhưng mà không thể trông thấy chúng!
- Hoàng hậu quý mến, - Koroviev nói rè rè, - cái chính là không trông thấy! Thực chất câu chuyện là ở đó! Còn vào vật trông thấy thì ai mà chả bắn trúng!
Koroviev rút từ ngăn bàn ra quân bài bảy pích, trao cho Margarita, bảo nàng dùng móng tay đánh dấu một hình trên đó. Margarita đáng dấu hình ở góc phải phía trên. Ghella giấu quân bài xuống gối, hô:
- Xong rồi!
Azazello vẫn ngồi quay lưng lại với chiếc gối, rút từ trong túi quần ra một khẩu súng lục đen tự động, đặt nòng súng lên vai, và vẫn không quay mặt lại giường, bắn một phát, làm cho Margarita sợ hãi một cách vui vẻ. Hình con pích mà Margarita đánh dấu đã bị bắn thủng.
- Tôi thật không muốn gặp phải anh khi anh có súng ngắn trong tay, - Margarita liếc mắt nhìn Azazello với vẻ nũng nịu và nói. Nàng vốn say mê tất cả những ai biết làm một cái gì đó hoàn hảo.
- Thưa hoàng hậu quý mến, - Koroviev rên rỉ, - tôi không khuyên bất cứ một ai gặp phải anh ta, kể cả khi anh ta không có súng ngắn, súng dài nào trong tay cả! Xin bảo đảm bằng lời hứa danh dự của một cựu quản ca, rằng sẽ không một ai chúc mừng cho cái người gặp phải đó!
Con mèo ngồi cau có trong suốt thời gian diễn ra cuộc bắn thử, bỗng tuyên bố:
- Tôi xin phá kỷ lục quân bài bảy pích.
Đáp lại, Azazello gầm gừ một câu gì đó. Nhưng con mèo không chịu thôi, và đòi không phải một, mà là hai khẩu súng ngắn. Azazello rút khẩu súng lục thứ hai từ túi sau thứ hai của chiếc quần dài ra và, nhếch mép một cách khinh bỉ, đưa chúng cho con mèo khoác lác. Mọi người đánh dấu hai hình con pích trên quân bài. Beghemot ngồi quay lưng lại phía chiếc gối, chuẩn bị rất lâu. Margarita, lấy ngón tay bịt chặt hai tai, ngồi nhìn lên con cú đang ngủ gật trên giá lò sưởi. Con mèo bắn cả hai khẩu súng cùng một lúc; liền ngay đó có tiếng Ghella kêu rú lên, con cú bị giết chết rơi từ trên lò sưởi xuống và chiếc đồng hồ vỡ tan ngừng chạy. Ghella, một bàn tay chảy máu, hét lên túm chặt lấy lông mèo, còn Beghemot đáp lại bằng cách túm lấy tóc Ghella, cả hai cuộn tròn lăn trên sàn nhà. Một chiếc cốc rơi từ mặt bàn xuống, vỡ tan.
- Kéo con quỷ cái hóa rồ này ra! – con mèo rít lên, cố thoát khỏi tay Ghella đang ngồi cưỡi trên mình nó. Mọi người tách họ ra, Koroviev thổi lên ngón tay bị bắn thủng của Ghella, và nó lành ngay.
- Tôi không thể bắn khi có người nói quấy ở bên cạnh! – Beghemot vừa hét vừa cố gắn một túm lông lớn bị nhổ ra khỏi lưng về chỗ cũ.
- Ta đánh cuộc rằng, - Voland mỉm cười nói với Margarita, - hắn ta làm cái trò này là cố ý. Hắn bắn không đến nỗi tồi đâu.
Ghella và Beghemot bắt tay giảng hòa, và để chứng tỏ cho sự hòa hoãn đó, họ hôn nhau. Rồi mọi người lấy quân bài từ dưới gối lên kiểm tra. Không có thêm một vết thủng nào khác, ngoài vết do Azazello bắn.
- Không thể như thế được, - con mèo nói, giơ quân bài lên phía giá nến ngắm nghía.
Bữa ăn tối vui vẻ vẫn tiếp tục. Những cây nến chảy ra trên giá, từng đợt sóng hơi ấm khô ráo và thoang thoảng thơm tỏa ra từ lò sưởi. Sau khi ăn no, Margarita cảm thấy lâng lâng khoái lạc. Nàng ngồi nhìn những vòng khói xám từ điếu xì gà của Azazello bốc lên trôi dần vào lò sưởi, và con mèo khua lưỡi gươm chọc vào chúng. Margarita không muốn đi đâu cả, mặc dù, theo nàng nghĩ là đã muộn. Có lẽ phải đến sáu giờ sáng rồi. Lợi dụng lúc câu chuyện ngừng lại, Margarita rụt rè nói với Voland:
- Có lẽ tôi đến lúc phải đi… Muộn rồi.
- Nàng vội đi đâu thế? – Voland hỏi lịch sự nhưng hơi khô khan. Những người còn lại im lặng, làm ra vẻ đang mải theo dõi những vòng khói xì gà.
- Vâng, đã đến lúc, - hoàn toàn bối rối trước cảnh đó, Margarita lập lại rồi quay đi dường như tìm một tấm khăn hay chiếc áo gì đó. Nàng bắt đầu cảm thấy ngượng bởi sự khỏa thân của mình.
Margarita rời bàn đứng dậy, Voland im lặng nhặt từ giường lên chiếc áo khoác dùng trong nhà đã sờn cũ và lấm dầu mỡ của mình, Koroviev choàng nó lên vai nàng.
- Tôi xin cảm ơn ngài, thưa messir, - Margarita nói rất khẽ và nhìn Voland vẻ dò hỏi. Đáp lại, ông ta mỉm cười với nàng lịch sự nhưng hờ hững. Một nổi buồn nặng trĩu bỗng từ đâu dâng lên trong tim Margarita. Nàng cảm thấy mình bị lừa dối. Hình như không ai có ý định ban thưởng cho nàng vì tất cả những gì nàng đã làm trên vũ hội, cũng như không ai tỏ ý giữ nàng lại. Mà trong lúc đó, nàng hiểu rất rõ rằng, từ đây ra nàng không còn đâu để mà đi nữa. Cái ý nghĩ thoáng qua về việc buộc sẽ phải trở lại ngôi biệt thự nọ gợi nên trong lòng nàng một cơn tuyệt vọng vô bờ. Hay là tự mình hỏi xin, như Azazello đã khuyên một cách đầy quyến rũ trong công viên Alekxandrovski? “ Không, không đời nào”, - nàng thầm nhủ mình.
- Chúc ngài mọi sự tốt lành, thưa messir, - nàng nói lên thành tiếng, còn trong bụng thầm nghĩ: “ Chỉ cần ra được khỏi đây, còn sau đó ta sẽ đi xuống sông trẫm mình.”
- Nàng hãy ngồi xuống đã, - Voland bỗng ra lệnh. Margarita biến sắc mặt và ngồi xuống. – Có thể nàng muốn nói gì trước lúc chia tay?
- Không, không có gì thưa messir, - Margarita đáp với vẻ kiêu hãnh, - ngoài một điều là nếu như ngài còn cần đến tôi, tôi sẵn sàng làm tất cả những gì ngài muốn. Tôi hoàn toàn không mệt tí nào và cảm thấy rất vui với vũ hội. Cho nên, nếu như nó còn kéo dài nữa, tôi sẵn lòng chìa đấu gối tôi ra để cho hàng nghìn kẻ giết người và bị treo cổ hôn lên đó, - Margarita nhìn Voland như qua một làn nước, mắt nàng đã ứa đầy những giọt lệ.
- Đúng lắm, nàng nói hoàn toàn đúng! – Voland hét lên âm vang và dữ dội. - Cần phải thế chứ!
- Cần phải thế chứ! - cả đoàn tùy tùng của Voland lặp lại như tiếng vọng.
- Chúng ta đã thử thách nàng, - Voland nói tiếp, - nàng đừng bao giờ hỏi xin ai bất cứ một cái gì! Không bao giờ và không bất cứ một cái gì; đặc biệt là ở những người mạnh hơn mình! Tự họ sẽ đề nghị và tự họ sẽ phải cho tất cả! Hãy ngồi xuống, hỡi người đàn bà kiêu hãnh! - Voland giật chíêc áo khoác nặng khỏi vai Margarita, và nàng lại ngồi cạnh ông ta trên giường. - Vậy là, hỡi Margot, - Voland dịu giọng xuống nói tiếp, - nàng muốn ta trả gì cho việc hôm nay nàng làm nữ chủ cho ta ở đây? Nàng muốn ta trả gì cho việc nàng đã phải khỏa thân trong buổi vũ hội này? Nàng định giá đầu gối mình bằng cái gì? Những thiệt thòi hao tổn nàng phải chịu với các vị khách của ta mà nàng vừa mới gọi là những kẻ bị treo cổ? Nàng nói đi và bây giờ hãy nói không cần rụt rè, vì đây là ta đề nghị nàng!
Trái tim Margarita đập mạnh, nàng hít vào một hơi nặng nề và bắt đầu suy nghĩ về một điều gì đó.
- Nào hãy mạnh dạn lên, - Voland khuyến khích, - hãy đánh thức dậy trí tưởng tượng của mình, hãy thúc nó bay bỗng lên. Chỉ riêng việc chứng kiến cảnh giết tên nam tước đểu cáng hết thời kia cũng đã xứng đáng được đền thưởng rồi, nhất là đối với một phụ nữ. Nào?
Margarita cảm thấy như nghẹt thở, và nàng đã muốn nói ra những lời thiêng liêng ấp ủ sẵn trong lòng, nhưng bỗng nhiên nàng tái nhợt người, mắt tròn xoe, miệng há ra. “ Phrida! Phrida! Phrida!” - một giọng nói cầu khẩn, dai dẳng của ai đó vang lên bên tai nàng. – “Tên tôi là Phrida!” Và Margarita ấp úng nói:
- Thế, nghĩa là, tôi có thể hỏi xin một việc?
- Hãy đòi hỏi, đòi hỏi, donna(2) của ta ạ, - Voland mỉm cười một cách thấu hiểu, đáp, - hãy đòi hỏi một việc!
Ôi, Voland nhấn mạnh một cách thật khéo léo và rõ ràng khi nhắc lại lời của chính Margarita – “một việc!’.
Margarita hít mạnh vào một lần nữa rồi nói:
- Tôi muốn người ta sẽ thôi đặt lên bàn Phrida chiếc khăn mà cô ta đã nhét vào miệng đứa con của mình.
Con mèo nhướng cặp mắt nhìn lên trời và thở ra một tiếng thật to, nhưng không nói gì, có lẽ là nó còn nhớ chiếc tai bị xoắn lại trên vũ hội.
- Xét lý do rằng, - Voland cười khẩy, cất tiếng nói, - cái khả năng nàng nhận hối lộ của cái cô ả Phrida ngốc nghếch kia là hoàn toàn, tất nhiên, bị loại trừ, bởi vì việc đó không xứng với tư cách hoàng hậu của nàng, ta cũng chẳng biết phải làm gì nữa. Có lẽ chỉ còn lại một cách - kiếm thật nhiểu giẻ và nhét kín tất cả các khe hở trong phòng ngủ của ta !
- Ngài nói gì thế, thưa messir? – Margarita ngơ ngác khi nghe những lời quả là khó hiểu đó.
- Tôi hoàn toàn đồng ý với ngài , thưa messsir, - con mèo nói chen vào, - đúng là phải kiếm thật nhiều giẻ, - và nó cáu kỉnh đập chi trước xuống mặt bàn.
- Ta nói về lòng thương người, - Voland không rời con mắt lửa khỏi mặt Margarita, giải thích câu nói của mình. - Nhiều lúc hoàn toàn bất ngờ và ranh ma, nó chui vào qua những khe hở nhỏ nhất. Vì vậy mà ta nói phải kiếm giẻ.
- Và tôi cũng nói như vậy, - con mèo kêu lên; và để đề phòng, nó nghiêng người ra xa Margarita, lấy hai chi trước bê bết kem màu hồng che kín đôi tai nhọn của mình.
- Đi ra chỗ khác, - Voland nói với nó.
- Tôi còn chưa uống hết cà phê, - Beghemot đáp, - làm sao mà tôi có thể đi ra chỗ khác được? Chẳng lẽ, thưa messir, vào đêm hội vui lại đem chia những thực khách ngồi sau bàn ăn thành hai loại? Số này thuộc loại một, còn số kia, theo như cách diễn đạt của cái tay chủ nhiệm nhà ăn đầu cơ nọ, là thuộc loại hai?
- Im ngay, - Voland ra lệnh cho con mèo, rồi quay sang Margarita, hỏi: - nàng, như có thể thấy được, là một người đặc biệt hay thương người? Một người đạo đức cao?
- Không ạ, - Margarita sôi nổi đáp, - tôi biết rằng với ngài chỉ có thể nói chuyện một cách chân thực, và tôi chân thực nói với ngài rằng: tôi là một người nhẹ dạ. Tôi xin ngài về chuyện Phrida chỉ là vì lý do không thận trọng tôi đã trao cho cô ta một niềm hy vọng chắc chắn. Cô ta đang chờ đợi, thưa messir, cô ta tin tưởng vào sự giúp đỡ của tôi. Còn nếu như cô ta bị đánh lừa, tôi sẽ rơi vào một tình trạng kinh khủng. Suốt đời tôi sẽ không được yên ổn. Biết làm sao được! Sự việc đã lỡ ra như thế…
- A, - Voland nói, - điều đó có thể hiểu được.
- Thế ngài sẽ làm điều đó chứ ạ? – Margarita khe khẽ hỏi.
- Ta hoàn toàn không thể, - Voland đáp. - Sự thể là, hỡi hoàng hậu quý mến của ta, ở đây đã xảy ra một sự nhầm lẫn nho nhỏ. Mỗi một ngành cần phải làm những việc của mình. Ta không tranh cãi là những khả năng của ta khá lớn, chúng lớn hơn rất nhiều so với một số người không lấy gì làm sắc sảo lắm vẫn nghĩ…
- Đúng thế, lớn hơn rất nhiều, - con mèo không kìm được nói chen vào, nó có vẻ rất tự hào với những khả năng đó.
- Có im đi không, quỷ tha ma bắt nhà ngươi đi! – Voland quát lên, rồi quay sang nói tiếp với Margarita. – Nhưng thử hỏi có ý nghĩa gì khi đi làm cái việc đáng ra, như ta đã nói, các ngành khác phải làm? Tóm lại, ta sẽ không làm điều đó, mà nàng phải tự mình làm lấy.
- Chẳng lẽ tôi có thể làm được ư?
Azazello liếc con mắt lé về phía Margarita với vẻ giễu cợt và khẽ lắc lắc mái tóc hung, thở phì ra.
– Mà nàng làm đi, khốn khổ quá, - Voland lẩm bẩm, rồi đưa tay quay nhẹ quả địa cầu, bắt đầu chăm chú nhìn vào một chi tiết nào đấy trên đó, dường như trong khi nói chuyện với Margarita, ông ta còn bận làm cả việc khác nữa.
- Nào, Phrida, - Koroviev nhắc.
- Phrida! – Margarita hét lên lanh lảnh. Cánh cửa bật mở, một người đàn bà phờ phạc, khỏa thân, nhưng không còn lấy một dấu vết nào của cơn say, với cặp mắt man dại, chạy vào phòng và chìa hai tay về phía Margarita. Margarita nghiêm trang nói:
- Ngươi đã được tha thứ. Người ta sẽ không mang chiếc khăn đến nữa.
Vang lên một tiếng rú của Phrida, cô ta ngã sấp xuống nền nhà, hai tay dang ra như một cây thập tự trước mặt Margarita. Voland khoát tay, và Phrida biến mất.
- Thế nào Beghemot, - Voland cất tiếng, - chúng ta sẽ không lợi dụng sự nông nổi của người chưa có kinh nghiệm trong đêm vũ hội này chứ? – Ông ta quay sang Margarita: - Vậy là, việc vừa rồi không tính, bởi vì ta chưa làm gì cả. Nàng muốn cái gì cho mình?
Bắt đầu một sự im lặng, và Koroviev phá vỡ nó bằng tiếng thì thầm vào tai Margarita:
- Thưa donna sáng láng như kim cương, tôi xin có lời khuyên: hãy thông minh hơn! Còn nếu không, vận may có thể tuột đi mất!
- Tôi muốn rằng ngay bây giờ, ngay giây phút này, trả lại cho tôi người tình của tôi là Nghệ Nhân! – Margarita nói, và gương mặt nàng méo xệch đi vì những cơn co giật.
Ngay lúc đó, một trận gió thổi ập vào phòng, khiến những ngọn lửa cháy trên giá nến nằm rạp xuống, tấm màn che nặng trĩu trên cửa sổ giạt sang bên, cánh cửa sổ mở toang, và ở trên trời cao hiện ra đĩa trăng tròn, nhưng không phải mặt trăng lúc về sáng, mà là mặt trăng của lúc nửa đêm. Ánh trăng chiếu từ bệ cửa sổ trải xuống sàn nhà như một tấm khăn màu xanh nhạt, và trên đó xuất hiện người khách đêm khuya của nhà thơ Ivan, người tự xưng mình là Nghệ Nhân. Anh vẫn mặc bộ đồ bệnh viện – áo choàng, giày vải và chiếc mũ đen mà anh không bao giờ rời. Khuôn mặt không cạo của anh khẽ giật giật, anh liếc nhìn những ngọn nến với vẻ man dại hoảng hốt; còn xung quanh anh, dòng ánh trăng chảy trào lên như suối.
Margarita lập tức nhận ra anh, nàng khẽ rên lên một tiếng, vươn hai tay ra, rồi chạy đến bên anh. Nàng hôn anh lên trán, lên môi, ép mặt vào bên má không cạo lởm chởm của anh, và những giọt nước mắt bị dồn nén lâu nay giờ chảy ra như suối trên mặt nàng. Margarita chỉ thốt lên nổi một lời, lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa:
- Anh…anh, anh…
Nghệ Nhân gỡ tay nàng ra khỏi người mình, nói bằng giọng khàn khàn:
- Đừng khóc, Margot, đừng hành hạ anh nữa. Anh đang ốm nặng. - Nghệ Nhân đưa tay bám lấy bệ cửa sổ, dường như muốn nhảy lên đó và bỏ chạy, rồi anh nhe răng, nhìn kỹ vào những người ngồi trong phòng, hét lên: - Anh sợ lắm, Margot! Anh lại bắt đầu thấy ảo ảnh rồi!
Những tiếng nức nở làm Margarita nghẹn thở, nàng lắp bắp thì thầm:
- Không, không, không, anh đừng sợ gì cả! Có em bên anh đây! Em đang ở bên anh đây!
Koroviev khéo léo và kín đáo đẩy chiếc ghế lại cho Nghệ Nhân, anh buông mình ngồi xuống đó.
Margarita quỳ xuống sàn, ép mặt vào sườn Nghệ Nhân và lặng người đi. Trong cơn xúc động, nàng không nhận thấy là nàng không còn khỏa thân nữa, trên người nàng bất ngờ xuất hiện một chiếc áo khoác đen bằng lụa. Người bệnh cuối đầu, nhìn xuống đất bằng cặp mắt ốm yếu ảm đạm.
- Phải, - Voland nói sau một lúc im lặng, - người ta đã quần cho anh khá đấy. - Ông ta ra lệnh cho Koroviev: - Nào, hiệp sĩ, hãy cho con người này uống một cái gì đó.
Margarita khẩn khoản nói với Nghệ Nhân bằng giọng run rẩy:
- Anh uống đi, uống đi. Anh sợ à? Không, không, anh hãy tin em, rằng người ta sẽ giúp anh.
Người bệnh cầm lấy cốc và uống cạn những gì có trong đó, nhưng cánh tay anh bỗng run lên, và chiếc cốc không rơi xuống vỡ tan dưới chân anh.
- Điềm may đấy! Điềm may đấy! – Koroviev thì thầm vào tai Margarita. – Xem kìa, anh ta đang tỉnh lại.
Quả nhiên, ánh mắt của người bệnh đã trở nên không còn man dại và bồn chồn như trước.
- Em đấy à, Margot? - người khách đêm trăng hỏi.
- Anh đừng hoài nghi nữa, em đây, - Margarita đáp.
- Nữa! – Voland ra lệnh.
Sau khi Nghệ Nhân uống cạn cốc thứ hai, đôi mắt anh trở nên sinh động và tinh nhanh.
- Thế đấy, bây giờ thì khác rồi, - Voland nheo mắt nói, - bây giờ chúng ta sẽ nói chuyện. Anh là ai?
- Bây giờ tôi không là ai cả, - Nghệ Nhân đáp, và một nụ cười làm miệng anh méo xệch.
- Anh vừa từ đâu đến?
- Từ nhà thương điên. Tôi là người bị bệnh tâm thần, - người mới đến đáp.
Margarita không chịu đựng nổi những lời đó và lại òa lên khóc. Rồi, lau khô nước mắt, nàng hét lên:
- Những từ khủng khiếp quá! Những từ khủng khiếp quá! Anh ấy là Nghệ Nhân, thưa messir, tôi đã nói với ngài về điều đó rồi. Ngài hãy cứu chữa cho anh ấy, anh ấy xứng đáng như vậy.
- Anh có biết là anh đang nói chuyện với ai không? – Voland hỏi. – Anh có biết là anh đang ở chỗ của ai không?
- Tôi biết, - Nghệ Nhân đáp, - người cạnh phòng của tôi trong nhà thương điên là cái chàng trai nọ, Ivan Bezdomnưi. Anh ta đã kể với tôi về ngài.
- Quả vậy, quả vậy, - Voland nói, - ta có dịp may mắn được gặp anh chàng trẻ tuổi đó ở hồ Pat’riarsi. Anh ta suýt nữa thì làm chính ta phát điên lên bằng những lời chứng minh rằng ta không tồn tại! Thế còn anh thì tin rằng đấy quả thật là ta chứ?
- Buộc phải tin, - người khách mới đến nói, - nhưng tất nhiên, giá như được coi ngài chỉ là kết quả của ảo giác thì chắc mọi việc yên ổn hơn. Ôi, xin lỗi, - sực nhớ ra, Nghệ Nhân vội nói thêm.
- Cũng được thôi, nếu như thế yên ổn hơn thì anh cứ việc coi như thế, - Voland lịch thiệp đáp lời.
- Không, không, - Margarita hốt hoảng nói và túm lấy vai Nghệ Nhân lắc mạnh, - anh tỉnh lại đi! Trước mặt anh đúng là ông ấy đấy!
Đến đây con mèo lại chen vào:
- Còn tôi thì đúng là giống như một ảo ảnh. Hãy chú ý tới bộ mặt nhìn nghiêng của tôi trong ánh trăng, - con mèo trườn ra cột ánh sáng từ mặt trăng dội xuống, toan nói thêm những điều gì đó nữa, nhưng mọi người yêu cầu nó im lặng, và nó đáp: - Được rồi, được rồi, tôi sẵn sàng im lặng. Tôi sẽ là một ảo ảnh câm, - và nó ngừng nói.
- Thế tại sao Margarita lại gọi anh là Nghệ Nhân? – Voland hỏi.
Anh cười khẩy và nói:
- Đó là một điểm yếu có thể tha thứ được. Nàng đánh giá quá cao về cuốn tiểu thuyết của tôi viết.
- Tiểu thuyết viết về gì?
- Về Ponti Pilat.
Liền đó những ngọn nến lại ngả nghiêng chao đảo, bát đĩa trên bàn kêu loảng xoảng. Voland phá lên cười như sấm, nhưng tiếng cười đó không làm ai ngạc nhiên và sợ hãi. Beghemot không hiểu sao lại còn vỗ tay.
- Về cái gì, về cái gì? Về ai? – thôi cười, Voland cất tiếng hỏi: - Thế nào bây giờ hả? Đúng là đáng kinh ngạc! Thế anh không tìm được đề tài khác sao? Nào, đưa cho ta xem, - Voland chìa tay ra, lòng bàn tay ngửa lên trên.
- Thật đáng tiếc, tôi không thể làm điều đó được, - Nghệ Nhân đáp, - vì tôi đã đốt mất nó trong lò sưởi rồi.
- Xin lỗi, ta không tin, - Voland nói, - không thể có điều đó được. Các bản thảo không cháy.
Voland quay về phía Beghemot và ra lệnh:
- Nào, Beghemot, đưa cuốn tiểu thuyết đây.
Con mèo ngay tức thì nhảy khỏi mặt ghế, và tất cả đều thấy là nó vừa ngồi trên một đống bản thảo dầy cộm. Con mèo nghiêng mình trao tập bản thảo đánh máy trên cùng cho Voland. Margarita xúc động đến chảy nước mắt, run lên, hét:
- Ôi nó đấy, bản thảo đấy! Nó đấy!
Nàng chạy đến bên Voland và nói thêm vẻ đầy thán phục:
- Ngài quả là toàn năng, toàn năng!
Voland cầm tập bản thảo con mèo trao cho lên tay, lật qua, đặt sang một bên rồi im lặng, không mỉm cười, nhìn Nghệ Nhân chằm chằm. Nhưng anh, không hiểu sao lại cảm thấy rất rầu rĩ bất an, rời ghế đứng dậy, hai tay vặn xoắn vào nhau, rùng mình, ngửa mặt nhìn lên mặt trăng tròn trên cao, rồi bắt đầu lẩm bẩm:
- Những đêm có trăng ta vẫn chẳng được yên, sao các người lại làm ta kinh động? Ôi, hỡi các vị thần linh…
Margarita bám chặt lấy tấm áo choàng bệnh viện của Nghệ Nhân, nép sát vào người anh, và nàng cũng bắt đầu lẩm bẩm qua hàng nước mắt trong cơn rầu rĩ:
- Lạy Chúa, thuốc cũng chẳng giúp được anh sao?
- Không sao, không sao, không sao, - Koroviev chạy quanh Nghệ Nhân, miệng thì thầm, - không sao, không sao…Thêm một cốc nhỏ nữa, và tôi sẽ uống mừng với anh.
Chiếc cốc nhỏ lóe lên, lấp lánh dưới ánh trăng sáng, và cái cốc nhỏ đó đã có tác dụng. Nghệ Nhân được đưa về chỗ ngồi, khuôn mặt người bệnh lại có vẻ bình thường.
- Thế đấy, bây giờ thì tất cả đã rõ, - Voland nói và gõ gõ ngón tay dài lên tập bản thảo.
- Đã rõ hoàn toàn, - con mèo khẳng định, quên mất lời hứa của mình là trở thành một ảo ảnh câm, - bây giờ các tuyến chính của tác phẩm này đối với tôi đã rõ rành rành. Anh nói gì, hở Azazello? – nó quay sang hỏi Azazello đang ngồi im lặng.
- Tôi nói rằng, - Azazello lẩm bẩm bằng giọng mũi, - giá đem nhà người nhận nước đi thì tốt.
- Hãy nhân từ với chứ, Azazello, - con mèo đáp, - và đừng làm cho ông chủ của chúng ta có cái ý nghĩ ấy. Anh hãy tin rằng đêm nào tôi cũng sẽ hiện về gặp anh trong bộ y phục bằng ánh trăng, hệt như chàng Nghệ Nhân tội nghiệp này, rồi sẽ gật đầu với anh, sẽ vẫy gọi anh đi theo tôi. Lúc đó anh sẽ như thế nào, hả Azazello?
- Thế nào, Margarita, - Voland lại cất tiếng, - nàng nói đi chứ, nàng cần gì?
Cặp mắt Margarita bừng sáng, và nàng cầu khẩn nói với Voland:
- Xin phép cho tôi được nói nhỏ với anh ấy vài lời?
Voland gật đầu, và Margarita ghé miệng thì thầm một điều gì đó vào tai Nghệ Nhân. Chỉ nghe thấy anh trả lời:
- Không, muộn mất rồi. Anh không còn mong muốn thêm một cái gì trong đời. Ngoài việc được trông thấy em. Nhưng anh lại khuyên em: hãy để mặc anh. Với anh, em sẽ không sống nổi đâu.
- Không, em sẽ không bỏ anh, - Margarita đáp và quay lại nói với Voland: - Tôi xin ngài cho chúng tôi trở về căn nhà hầm ở ngõ nhỏ trên phố Arbat, và mong cho ngọn đèn ở đó vẫn cháy, tất cả vẫn y nguyên như trước.
Nghe đến đó, Nghệ Nhân phá lên cười; rồi ôm mái tóc xoăn giờ đã chảy duỗi ra của Margarita, anh nói:
- Ôi, xin ngài đừng nghe người đàn bà đáng thương này, thưa messir. Trong căn nhà hầm ấy từ lâu đã có người khác sống, và nói chung là không thể nào tất cả lại vẫn như xưa được. – Anh ép má lên mái tóc người bạn gái của mình, ôm ngang lưng Margarita và thì thầm: - Ôi, tội nghiệp, em tội nghiệp…
- Anh bảo là không thể được à? – Voland nói. - Điều đó là đúng. Nhưng chúng ta sẽ thử. – Và ông ta gọi: - Azazello!
Ngay liền đó, từ trên trần rơi xuống sàn nhà một người đàn ông ngơ ngác và sắp mất trí, trên mình chỉ mặc độc quần áo lót, nhưng không hiểu sao lại đội mũ cát két và tay xách vali. Quá kinh hoàng, người đó run lẩy bẩy và ngồi khuỵu xuống sàn.
- Mogarưt phải không? – Azazello hỏi người từ trên trần nhà vừa rơi xuống.
- Aloyzi Mogarưt, - người đó run rẩy đáp.
- Có phải chính là anh, sau khi đọc bài báo của Latunski về cuốn tiểu thuyết của người này, đã viết thư tố giác anh ấy cất giữ tài liệu bất hợp pháp không? – Azazello hỏi.
Người đàn ông mới xuất hiện tái xanh mặt và tuôn ra từng dòng nước mắt ăn năn.
- Anh muốn chuyển sang căn hộ của anh ta chứ gì? – Azazello cố hỏi sao cho cái giọng mũi của mình có vẻ thân mật hơn.
Trong phòng chợt có tiếng gầm gừ như tiếng mèo nổi cơn khùng, và Margarita rít lên: - Cho mày biết tay phù thủy này, cho mày biết tay! – và nàng vung những ngón tay xòe rộng móng chộp vào mặt Aloyzi Mogarưt.
Tất cả mọi người đều sửng sốt.
- Em làm gì thế? - Nghệ Nhân kêu lên đau khổ. – Margot, đừng hạ nhục mình như thế!
- Tôi phản đối, đây không phải là hạ nhục! – con mèo gào to.
Koroviev kéo Margarita ra.
- Tôi đã xây thêm phòng tắm, - răng đánh vào nhau lập cập, mặt đầy máu, Mogarưt hét lên, và trong cơn kinh hoàng bắt đầu nói lảm nhảm; - Chỉ riêng quét vôi…sunphát…
- Thôi được, xây thêm phòng tắm là tốt, - Azazello nói vẻ đồng tình, - anh ấy cần phải tắm, - và quát to: - Biến!
Ngay tức khắc, Mogarưt lộn chân lên trần và bay vụt ra khỏi phòng ngủ của Voland qua ô cửa sổ để mở.
Nghệ Nhân trố mắt, thì thầm:
- Cái này lại còn cao tay hơn cả điều mà Ivan đã kể ! – Hoàn toàn sững sờ, anh nhìn quanh, mãi rồi mới nói với con mèo: - Mà xin lỗi…đấy là mày…đấy là anh… - Nghệ Nhân lúng túng, không biết phải xưng hô với con mèo như thế nào, “mày” hay “anh”, - có phải anh là con mèo đi xe điện hay không?
- Chính tôi! – Con mèo phổng mũi khẳng định, rồi nói thêm: - Thật dễ chịu khi anh xưng hô lịch sự như vậy với mèo. Với mèo, không hiểu sao, người ta thường “mày-tao”, mặc dù chưa bao giờ có con mèo nào ngồi uống rượu Bruderschapt với một ai cả.
- Không hiểu sao tôi có cảm tưởng rằng anh không thật là mèo, - Nghệ Nhân ngập ngừng nói. – Còn ở bệnh viện, dù sao người ta cũng đi tìm tôi, - anh rụt rè nói thêm với Voland.
- Ấy, họ đi tìm anh để làm gì? – Koroviev nói để anh yên tâm, và trong tay anh ta xuất hiện những cuốn sổ và giấy tờ nào đó. - Bệnh án của anh đây phải không?
- Vâng.
Koroviev ném tập bệnh án vào lò sưởi.
- Không còn giấy tờ, nghĩa là không còn cả con người, - Koroviev hài lòng nói. – Còn đây là sổ hộ khẩu của những người thuê nhà?
- Vâng…
- Ai đăng ký ở đây? Aloyzi Mogarưt à? – Koroviev thổi vào trang hộ khẩu. - Thế, không còn hắn ta nữa, và xin ông nhớ lấy, là chưa từng bao giờ có hắn cả. Còn nếu như ông chủ nhà ngạc nhiên có hỏi, thì nói rằng đấy là ông ta nằm mơ thấy Aloyzi đấy. Mogarưt à? Mogarưt nào? Không hề có Mogarưt nào cả! – Và cuốn sổ đóng bằng chỉ biến mất khỏi tay Koroviev. – Còn bây giờ thì nó đã nằm trên bàn của chủ ngôi nhà rồi.
- Anh nói rất đúng, - Nghệ Nhân kinh ngạc trước phép thuật của Koroviev, nói: - một khi không còn giấy tờ thì tức là không còn cả con người nữa. Và chính tôi cũng không còn, vì tôi không còn giấy tờ gì cả.
- Tôi xin lỗi, - Koroviev hét lên, - đó chỉ là ảo ảnh thôi, giấy tờ của anh đây, - Và Koroviev trao mấy tờ giấy cho Nghệ Nhân. Rồi anh ta tròn mắt và ngọt ngào nói thầm với Margarita: - Còn đây là tài sản của chị, Margarita Nikolaevna, - và trao cho nàng một cuốn vở đã cháy xém các mép, bông hoa hồng héo khô, tấm ảnh, và với vẻ đặc biệt nâng niu, cuốn sổ tiết kiệm, - mười ngàn rúp, như chị đã ký gửi đấy, Margarita Nikolaevna ạ. Chúng tôi không tơ hào đến tài sản của người khác đâu.
- Tôi thà rụng hết chân đi còn hơn là động đến tài sản của người khác, - làm ra bộ trang trọng, con mèo thốt lên, rồi bắt đầu nhảy múa trên chiếc vali để làm cho những tập bản thảo của cuốn tiểu thuyết rủi ro kia nhàu cũ đi.
- Còn đây là giấy tờ của chị, - Koroviev nói tiếp và trao giấy tờ cho Margarita, xong xuôi anh ta quay lại phía Voland kính cẩn báo cáo: - Xong cả rồi, thưa messir!
- Không, chưa xong cả đâu, - Voland rời mắt khỏi quả địa cầu, đáp: - Hỡi donna thân mến của ta, nàng định cho đoàn tùy tùng của mình đi đâu bây giờ? Bản thân ta không cần đến họ.
Vừa lúc đó, Natasa chạy vào cánh cửa để mở, vẫn khỏa thân như trước, giơ hai tay lên trời và kêu to với Margarita:
- Chúc chị hạnh phúc, chị Margarita Nikolaevna! – Natasa gật đầu chào Nghệ Nhân rồi lại quay về phía Margarita: - Trước đây em vẫn biết là chị thường đi đâu.
- Những người làm công bao giờ cũng biết hết mọi chuyện, - con mèo giơ một chi trước lên trời đầy hàm ý và nhận xét, - thật sai lầm khi nghĩ rằng họ mù.
- Em muốn gì, Natasa? – Margarita hỏi. – Em hãy trở về biệt thự đi.
- Chị Margarita Nikolaevna yêu quý, - Natasa cất tiếng khẩn khoản và quỳ gối xuống, - chị hãy xin, - Natasa liếc nhìn sang phía Voland, - cho em được ở lại làm phù thủy. Em không muốn trở lại biệt thự nữa! Em không muốn lấy chồng là kỹ sư, kỹ thuật viên nào cả! Hôm qua ở vũ hội, ngài Giắc đã ngỏ lời cầu hôn với em, - Natasa duỗi nắm tay ra và chìa cho Margarita xem mấy đồng tiền vàng.
Margarita hướng ánh mắt dọ hỏi về phía Voland. Ông ta gật đầu. Natasa liền chạy vụt đến ôm lấy cổ Margarita, hôn nàng rất kêu, rồi hét lên một tiếng đắc thắng, bay qua cửa ra ngoài. Thay vào chỗ Natasa là Nikolai Ivanovich. Ông ta đã lấy lại được dạng người trước đó của mình, nhưng có vẻ đặc biệt rầu rĩ, và thậm chí là cáu kỉnh.
- Tên này thì ta đặc biệt hài lòng được tống khứ đi ngay, - Voland nhìn Nikolai Ivanovich với vẻ ghê tởm, nói, - Đặc biệt hài lòng, vì hắn ở đây là thừa.
- Tôi khẩn thiết đề nghị cấp cho tôi một tờ giấy chứng nhận, - Nikolai Ivanovich cất tiếng, mắt man dại nhìn quanh, nhưng nói với vẻ quả quyết, - về việc đêm qua tôi đã ở tại đâu.
- Để làm gì? – con mèo hỏi.
- Để trình công an và vợ, - Nikolai Ivanovich đáp chắc như đinh đóng cột.
- Thường thì chúng tôi không cấp giấy chứng nhận, - con mèo cau mặt đáp, - nhưng với ông, thôi thì, ngoại lệ vậy.
Nikolai Ivanovich còn chưa kịp định thần, thì nàng Ghella khỏa thân đã ngồi sau máy chữ, còn con mèo đọc:
- Tôi chứng nhận rằng người cầm giấy này, Nikolai Ivanovich, đêm qua đã có mặt tại vũ hội của chúa quỷ Satan, bị đưa đến đây với tư cách là phương tiện chuyên chở…Ghella, mở ngoặc đơn! Trong ngoặc đơn viết “lợn đực thiến”. Ký tên – Beghemot.
- Còn ngày tháng? – Nikolai Ivanovich lắp bắp.
- Ngày tháng chúng ta không ghi, đề ngày tháng vào thì giấy sẽ không có tác dụng, - con mèo đáp, vung tờ giấy lên, lấy từ đâu đó ra một con dấu, theo đúng mọi cách thức phà hơi lên mặt dấu, đóng lên tờ giấy hai chữ “chứng thực” và trao nó cho Nikolai Ivanovich. Liền ngay đó, Nikolai Ivanovich biến mất không còn dấu vết; thay vào chỗ ông ta xuất hiện một người mới hoàn toàn bất ngờ.
- Lại còn ai thế này? – Voland khó chịu hỏi, lấy tay che mặt khỏi ánh sáng của mấy ngọn nến.
Varenukha ngoẹo đầu, thở dài và nói khẽ:
- Hãy thả tôi ra. Tôi không thể làm quỷ hút máu được. Hôm trước, tôi suýt cùng với Ghella giết chết Rimski! Nhưng tôi không khát máu. Hãy thả tôi ra.
- Lại còn chuyện nhảm nhí nào thế này? – Voland nhăn mặt hỏi. –Rimski nào? Trò vớ vẩn gì vậy?
- Xin ngài đừng bận tâm, thưa messir, - Azazello lên tiếng và quay sang Varenukha: - Không được thô lỗ qua điện thoại. Không được dối trá qua điện thoại! Hiểu chưa? Anh sẽ không làm những điều đó nữa chứ?
Quá mừng, tất cả trong đầu Varenukha như mụ đi, mặt anh ta rạng rỡ, và anh ta lắp bắp, không hiểu mình đang nói gì:
- Đức Chúa thiêng…tức là tôi muốn nói, bẩm ng.. ngay bây giờ sau bữa ăn… - Varenukha ép hai tay lên ngực, nhìn Varenukha vẻ cầu khẩn.
- Thôi được, về nhà đi. – Azazello quát, và Varenukha tan biến.
- Bây giờ để ta một mình với họ, - Voland nói, chỉ về phía Nghệ Nhân và Margarita.
Mệnh lệnh của Voland lập tức được thi hành. Sau một lát im lặng, Voland hỏi Nghệ Nhân:
- Vậy nghĩa là lại trở về nhà hầm ở phố Arbat? Thế ai sẽ viết? Thế còn những ước mơ, cảm hứng?
- Ở tôi giờ không còn mơ ước nào nữa, cả cảm hứng cũng không, - Nghệ Nhân đáp. – Bây giờ tôi không quan tâm đến một cái gì xung quanh, ngoài nàng, - anh lại đặt tay lên đầu Margarita, - người ta đã đánh gục tôi, tôi buồn, và tôi muốn về lại căn nhà hầm cũ của tôi.
- Thế còn cuốn tiểu thuyết của anh, còn Ponti Pilat?
- Bây giờ tôi căm ghét cuốn tiểu thuyết của tôi, - Nghệ Nhân đáp, - vì nó, tôi đã phải chịu đựng quá nhiều.
- Em van anh, - Margarita khẩn khoản, - anh đừng nói thế. Sao lại làm khổ em? Bởi vì anh biết đấy, em đã để cả cuộc đời em vào cuốn sách của anh. – Margarita quay lại phía Voland, tiếp thêm: - Đừng nghe anh ấy, thưa messir, anh ấy đã quá đau khổ.
- Nhưng cần phải viết về một cái gì đó chứ? – Voland nói. - Nếu như anh đã nói hết về ông quan tổng trấn kia, thì cứ cho là hãy viết về cái gã Aloyzi ấy.
Nghệ Nhân mỉm cười.
- Cái đó thì Lavsionnikova sẽ không đăng, mà hơn nữa, nó chẳng hay ho gì.
- Thế anh sẽ sống bằng gì? Như vậy anh sẽ phải sống trong cảnh nghèo khổ.
- Sẵn lòng, sẵn lòng, - Nghệ Nhân đáp, rồi kéo Margarita lại bên mình, ôm lấy vai nàng, nói thêm: - Rồi cô ấy sẽ hiểu ra và sẽ bỏ tôi đi.
- Ta không nghĩ như vậy, - Voland nói qua kẽ răng, rồi tiếp: - vậy là, con người đã từng viết nên câu chuyện về Ponti Pilat, giờ sẽ đi xuống nhà hầm với dự định nằm cạnh ngọn đèn và chịu nghèo khổ.
Margarita rời khỏi Nghệ Nhân, và cất tiếng nói rất tha thiết:
- Tôi đã làm tất cả những gì có thể, tôi đã nói thầm với anh ấy điều quyến rũ nhất. Nhưng anh ấy đã từ chối.
- Điều mà nàng nói thầm với anh ấy, ta biết, - Voland nói, - nhưng đó chưa phải là điều quyến rũ nhất. Còn ta, ta nói với anh, - ông ta mỉm cười với Nghệ Nhân, - cuốn tiểu thuyết của anh sẽ còn mang đến những điều bất ngờ.
- Điều đó thật đáng buồn, - Nghệ Nhân đáp.
- Không, không, điều đó không đáng buồn, - Voland nói. - Sẽ không còn gì đáng sợ nữa hết. Thôi nhé, Margarita Nikolaevna, tất cả đã được làm xong. Nàng còn đòi hỏi gì đối với ta nữa không?
- Ồ không, không đâu, thưa messir!
- Vậy thì hãy cầm lấy cái này ta tặng làm kỹ niệm, - Voland nói và rút từ duới gối ra một chiếc khuyên hình bán nguyệt nhỏ bằng vàng gắn kim cương.
- Không, không, không, không được đâu ạ!
- Nàng định cãi nhau với ta đấy chắc? – Voland mỉm cười, hỏi.
Vì áo choàng trên người không có túi, Margarita bỏ chiếc khuyên bán nguyệt vào tấm khăn ăn và thắt nút lại. Lúc đó có một cái gì đấy khiến nàng ngạc nhiên. Margarita đưa mắt nhìn ra cửa sổ, nơi ánh trăng vẫn sáng vằng vặc, và nói:
- Có điều này tôi không hiểu…Tại sao mãi vẫn cứ nửa đêm, mà đáng ra trời phải sáng từ lâu rồi mới đúng?
- Nửa đêm hội vui cũng nên kéo dài ra một chút cho dễ chịu, - Voland đáp. – Nào, chúc hai người hạnh phúc.
Margarita chắp hai tay lại với nhau vươn về phía Voland, nhưng nàng không dám bước lại gần, chỉ khe khẽ thốt lên:
- Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!
- Tạm biệt, - Voland nói.
Rồi Margarita khoác chiếc áo choàng đen cùng Nghệ Nhân trong bộ đồ bệnh viện bước ra hành lang của căn hộ bà chủ tiệm kim hoàn cũ, ở đó hai người thấy một ngọn nến cháy sáng và đoàn tùy tùng của Voland đang đợi. Khi họ bước ra khỏi hành lang, Ghella xách chiếc vali đựng tập bản thảo cuốn tiểu thuyết và món tài sản nhỏ của Margarita Nikolaevna, còn con mèo thì giúp Ghella. Cạnh cửa ra vào, Koroviev cúi chào rồi biến mất, những người khác đi theo tiễn xuống cầu thang. Khắp khu nhà vắng vẻ. Khi đi qua cầu thang của tầng ba, có một cái gì đấy rơi nhẹ xuống sàn, nhưng không một ai chú ý đến điều đó. Cạnh cửa ra vào của cổng cầu thang số sáu, Azazello ngửa mặt lên trời thổi một cái. Khi vừa xuống đến sân, nơi ánh trăng không rọi tới, họ trông thấy một người đang ngủ, có lẽ là ngủ rất say, chân đi ủng, đầu đội mũ lưỡi trai, và cạnh cổng khu nhà là một cỗ xe lớn màu đen không bật đèn pha. Qua tấm kính phía trước hiện lên lờ mờ hình một con quạ.
Khi đã chuẩn bị ngồi vào xe, Margarita bỗng khẽ thốt lên tuyệt vọng:
- Ôi lạy Chúa, tôi đánh rơi chiếc khuyên mất rồi!
- Ngồi lên xe đi, - Azazello nói, - và đợi tôi ở đây. Tôi đi xem cái gì đã xảy ra, rồi quay lại ngay. – Và anh ta bước khuất vào lối lên cầu thang.
Cái việc đã xảy ra như sau: trước khi Margarita với Nghệ Nhân cùng những người tiễn chân họ đi xuống, từ căn hộ số 48 nằm dưới căn hộ bà chủ tiệm kim hoàn có một người đàn bà gầy gò xách can và túi bước ra cầu thang. Đó chính là Annuska, người vào hôm thứ tư đã đánh đổ dầu hướng dương, thật khổ cho Berlioz, lên cánh cửa quay dẫn vào công viên.
Không ai biết, và có lẽ sẽ không một ai biết được là người đàn bà này làm nghề gì ở Moskva và chị ta sinh sống bằng nguồn thu nhập nào. Chỉ biết rằng ngày nào cũng có thể gặp thị - khi thì xách can, khi thì xách túi, khi thì cả túi lẫn can - hoặc là cạnh cửa hàng bán dầu, hoặc là ngoài chợ, hoặc là dưới cổng nhà, hoặc là ở cầu thang, nhưng thường xuyên hơn cả là ở gian bếp của căn hộ số 48, nơi chị chàng Annuska này trú ngụ. Ngoài ra, và điều này có thể biết rõ nhất, là bất kỳ nơi nào có thị đứng hoặc xuất hiện, ở đó lập tức xảy ra cãi nhau; thêm vào đó, thị còn có biệt hiệu là “Dịch hạch”.
Annuska-Dịch hạch không hiểu sao thường dậy rất sớm, còn hôm nay có một cái gì đấy khiến thị thức giấc vào lúc chưa thể nào gọi là buổi sáng được, chỉ vì khi đó mới quá mười hai giờ đêm một chút. Quay chìa khóa ở cửa, Annuska đầu tiên thò mũi ra ngoài, rồi sau chui cả người ra, đóng cửa lại sau lưng và định đi đâu đó. Vừa lúc ấy, ở tầng trên có tiếng sập cửa, rồi một người nào đó lao xuống cầu thang, xông thẳng vào Annuska, hất thị bắn sang một bên mạnh đến nỗi khiến thị đập gáy vào tường.
- Quỷ tha anh, đi đâu mà chỉ mặc mỗi quần lót thế? – Annuska rít lên, tay ôm lấy gáy. Người đàn ông mặc đồ lót, tay xách vali, đội mũ lưỡi trai, hai mắt nhắm chặt, trả lời Annuska bằng giọng ngáy ngủ man dại:
- Máy đun nước tắm! Sunphát! Chỉ riêng quét vôi cũng đã tốn bao nhiêu! - rồi òa lên khóc, rồi bỗng gào lên: - Biến! – Và anh ta lại vùng chạy, nhưng lần này không phải theo cầu thang xuống dưới, mà ngược lên trên, đến chỗ cửa sổ có tấm kinh bị chân nhà kinh tế học đập vỡ, rồi anh ta bay, chân đi trước qua ô cửa sổ vỡ kính đó ra phía ngoài sân. Annuska quên phắt ngay cả cái gáy đau của mình, kêu lên một tiếng và chạy bổ đến bên cửa sổ. Thị nằm úp bụng lên đầu cầu thang, thò cổ ra ngoài, chờ sẽ trông thấy trên mặt sân nhựa được ngọn đèn ở cổng chiếu sáng hình người xách vali rơi xuống chết ở đó. Nhưng trên mặt sân nhựa tịnh không có một cái gì.
Chỉ còn một cách cho rằng cái nhân vật kỳ quái ngái ngủ đó đã bay ra khỏi ngôi nhà như một con chim trời không để lại dấu vết nào. Annuska làm dấu thánh và nghĩ thầm: “ Ôi, quả là căn hộ số 50! Chả trách gì người ta đồn đại! Ôi, căn hộ là cái căn hộ!”
Thị còn chưa kịp nghĩ hết, thì ở tầng năm lại có tiếng đập cửa, và một người thứ hai từ phía trên chạy xuống. Annuska ép sát mình vào tường, trông thấy một người đàn ông khả kính, để râu, nhưng có khuôn mặt, như Annuska nghĩ, hao hao giống mặt lợn; ông ta nhảy vụt qua chỗ thị đứng, rồi cũng như người thứ nhất, rời khỏi ngôi nhà bằng lối qua cửa sổ, và lại vẫn như người thứ nhất, không nghĩ đến chuyện rơi đập đầu xuống sân nhựa. Annuska quên béng mất mục đích chuyến đi đã dự định của mình, đứng lại trên cầu thang, vừa làm dấu thánh, vừa kêu ối chà và nói chuyện với chính mình.
Người thứ ba, không râu với bộ mặt tròn trĩnh cạo nhẵn, mặc áo bludông dài có thắt lưng, chạy ngược lên và rồi một lát sau cũng bay qua cửa sổ hệt như hai người trước.
Cần phải khen rằng Annuska là một người tò mò, thị quyết định đợi xem có thêm chuyện gì kỳ diệu xảy ra nữa không. Cánh cửa tầng trên lại mở ra, và bây giờ cả một toán người xuống cùng một lúc nhưng không phải chạy, mà bước bình thường như mọi người vẫn đi. Annuska rời khỏi cửa sổ cầu thang, chạy về nhà mình, nhanh chóng mở cửa ra, trốn vào trong, và qua khe hở nhỏ thị ta chừa lại một cặp mắt điên dại ánh lên vì tò mò.
Một người đàn ông không hẳn là bệnh nhân, cũng không hẳn là không bệnh nhân, mà có vẻ lạ lùng thế nào ấy, người tái nhợt, mặt đầy râu ria, đội mũ đen, mặc áo choàng dài, đi xuống cầu thang bằng những bước chân không vững. Anh ta được một người đàn bà mặc áo choàng nhà tu, như Annuska cảm thấy trong bóng tối lờ mờ, đỡ tay, thận trọng dìu từng bước. Người đàn bà không hẳn đi chân không, không hẳn đi một đôi giày nào đó trong suốt, có lẽ là hàng ngoại, đã bị xé rách ra từng mảnh. Ôi trời! Giày với dép! Mà chị ta ở truồng? Đúng thế, chiếc áo choàng chỉ khoác hờ lên thân hình trần truồng của chị ta. “ Ái chà là cái căn hộ!” trong lòng Annuska đã ngân nga lên một nổi khoái trá trước việc ngày mai thị sẽ được đi kể cho hàng xóm nghe những chuyện vừa trông thấy này.
Đi sau người đàn bà choàng áo là một người đàn bà khác, hoàn toàn lõa lồ, tay xách chiếc vali nhỏ, và một con mèo đen khổnglồ lẽo đẽo cạnh vali. Annuska vội lấy tay lau mắt, suýt nữa thì rít lên thành tiếng.
Đi sau cùng là một người nước ngoài thấp nhỏ, bước hơi khập khiễng với một mắt lé, mặc áo gilê trắng của bộ lễ phục đuôi tôm, đeo cà vạt, nhưng không có áo khoác ngoài. Cả toán người diễu qua trước mặt Annuska đi xuống dưới. Vừa lúc đó có một cái gì rơi nhẹ lên bãi chiếu nghĩ đầu cầu thang. Khi nghe tiếng bước chân đã lắng dần, Annuska như một con rắn trườn ra khỏi cửa, đặt chiếc can xuống cạnh chân tường, nằm sấp bụng xuống sàn và bắt đầu sờ soạng. Tay thị vấp phải một chiếc khăn ăn với vật gì nằng nặng gói ở bên trong. Mắt Annuska trố ra khi thị mở bọc vải. Annuska đưa vật báu lên sát tận mắt, và đôi mắt đó sáng rực lên hệt như mắt chó sói. Trong đầu Annuska hình thành một cơn bảo lốc: “ Tôi chẳng biết gì hết! Tôi chẳng thấy gì hết!... Đưa đến chỗ thằng cháu họ à? Hay cưa ra từng mảnh? … Các viên đá quý này có thể nạy ra được. Và tách ra từng viên một: một viên đến phố Pet’rovca, viên khác đưa đi chợ Smolenk… Và – tôi chẳng biết gì hết, tôi chẳng thấy gì hết!”
Annuska giấu vật bắt được vào ngực áo, túm lấy chiếc can và đã toan chui ngược trở lại vào căn hộ của mình, hoãn chuyến du lịch vào thành phố, thì thị bỗng trông thấy trước mặt mình, có quỷ sứ mới biết từ đâu hiện ra, chính cái người đàn ông “ngực trắng” không có áo khoác ngoài. Anh ta nói nhỏ:
- Đưa chiếc khuyên và tấm khăn ăn đây!
- Chiếc khuyên và tấm khăn ăn nào? - Annuska giả đò hỏi thật khéo. – Tôi không biết khăn ăn khăn mặc nào cả. Anh sao thế, say đấy à?
Người đàn ông “ngực trắng” không nói gì thêm, đưa những ngón tay cứng như thanh tay vịn trên ôtôbúyt, và cũng lạnh ngắt như thế, bóp lấy cổ Annuska khiến cho không khí tuyệt hết mọi đường vào ngực thị. Chiếc can tuột khỏi tay Annuska rơi xuống. Giữ Annuska một lúc không có không khí, người nước ngoài không mặc áo khoác ngoài bỏ những ngón tay của mình ra khỏi cổ thị. Hớp hớp không khí, Annuska mỉm cười.
- À, chiếc khuyên ấy à, - Annuska lắp bắp, - ngay bây giờ! Thế đây là chiếc khuyên của anh à? Tôi bước ra , trông thấy nó nằm trong tấm khăn ăn. Tôi chủ ý cất đi, để khỏi có ai đó nhặt được, rồi sau có mà tìm!
Sau khi đã nhận được chiếc khuyên và tấm khăn ăn, người khách ngoại quốc liền cúi người chào lia lịa trước mặt Annuska, bắt tay thị thật chặt và cám ơn rối rít bằng một giọng đặc sệt âm nước ngoài.
- Tôi cực kỳ biết ơn bà, thưa mađam. Tôi đặc biệt quý chiếc khuyên bán nguyệt này như một vật kỹ niệm. Để tỏ lòng biết ơn bà đã cất giữ nó, tôi xin biếu bà hai trăm rúp. – Và anh ta lập tức rút tiền trong túi áo ghilê ra trao cho Annuska.
Thị mỉm cười ngây dại, lắp bắp rối rít:
- Ái, vô cùng cám ơn ngài. Merci! Merci!
Người đàn ông ngoại quốc hào phóng nhảy một bước qua suốt cả cầu thang, xuống phía dưới, nhưng trước khi khuất hẳn, anh ta còn hét vọng lên, nhưng lần này không còn pha âm nước ngoài nữa:
- Này, mụ phù thủy già, nếu có bao giờ còn nhặt được của người khác, thì hãy nộp cho công an, chứ đừng có đem giấu vào ngực áo nhé!
Cảm thấy đầu như ù lên và chao đảo bởi tất cả những gì xảy ra trên cầu thang, Annuska theo quán tính vẫn còn đứng tiếp tục kêu một lúc lâu:
- Merci! Merci! Merci!
Còn người đàn ông nước ngoài đã mất bóng tự bao giờ.
Cả cỗ xe ở trên sân cũng không còn nữa. Sau khi trả lại quà của Voland cho Margarita, Azazello chia tay với nàng, hỏi nàng ngồi đã thoải mái chưa, còn Ghella và Margarita ôm hôn nhau rất lâu, con mèo cũng hôn tay nàng. Rồi những người đưa tiễn vẫy tay chào Nghệ Nhân đang tựa người ngồi bất động và không sinh khí trong góc ghế, vẫy tay chào lái xe quạ, rồi tan biến ngay vào không khí, không cần phải cất công khó nhọc leo lên theo cầu thang. Con quạ bật đèn pha và cho xe lăn bánh ra cổng ngang qua người đàn ông ngủ say như chết bên lối ra vào sân. Và ánh đèn của cỗ xe lớn màu đen tan biến giữa những ánh đèn khác trên đường phố Sadovaia ồn ào không ngủ.
Một giờ sau, tại căn phòng đầu tiên của căn hộ dưới tầng hầm trong ngõ nhỏ Arbat, nơi tất cả vẫn y nguyên như trước cái đêm mùa thu khủng khiếp nọ của năm ngoái, Margarita ngồi sau chiếc bàn trải tấm khăn nhung dưới ngọn đèn có chụp che đặt bên cạnh lọ hoa linh lan và lặng lẽ khóc vì những chấn động đã trải qua và vì hạnh phúc. Quyển vỡ bị cháy sém nằm trước mặt nàng, và bên cạnh là một chồng những bản thảo còn nguyên. Cả ngôi nhà im ắng. Trong căn phòng nhỏ bên cạnh, Nghệ Nhân nằm ngủ say trên đivăng, mình đắp tấm áo choàng bệnh viện. Những hơi thở đều đều của anh rất êm, không phát ra tiếng động.
Sau khi khóc đã thỏa thuê, Margarita cầm lấy tập bản thảo còn nguyên và tìm ra chỗ nàng đã đọc trước cuộc gặp gỡ với Azazello dưới chân tường Kremli. Margarita không buồn ngủ. Nàng âu yếm vuốt ve tập bản thảo như người ta âu yếm vuốt ve con mèo yêu quý của mình, lật qua lật lại trong tay, ngắm nhìn cả bốn mặt, khi thì mân mê trang bìa, khi thì giở xem trang cuối. Bỗng một ý nghĩ ập đến khiến nàng kinh hoàng, rằng tất cả những cái này đều là trò phù thủy, rằng ngay bây giờ tập bản thảo sẽ biến mất, rằng nàng sẽ lại thấy mình trong phòng ngủ của mình ở trong ngôi biệt thự, và tỉnh dậy nàng sẽ phải đi trẫm mình. Nhưng đó chỉ là ý nghĩ khủng khiếp cuối cùng, cái âm hưởng của những nỗi đau khổ kéo dài mà nàng đã phải trải qua. Không có cái gì biến mất đi, và Voland toàn năng đúng là toàn năng thật, Margarita có thể thoả sức, dù là cho đến tận sáng cũng được, lật giở những trang bản thảo, nhìn ngắm chúng và hôn hít, đọc đi đọc lại những dòng chữ sau:
- BÓNG TỐI TỪ PHÍA ĐỊA TRUNG HẢI KÉO ĐẾN ĐÃ CHE PHỦ CÁI THÀNH PHỐ BỊ QUAN TỔNG TRẤN CĂM GHÉT. Vâng, bóng tối…
-----------------
(1) Địa vị bắt buộc phải thế (tiếng Pháp).
(2) Donna: bà (tiếng Italia, Bồ Đào Nha), tiếng xưng hô tôn trọng.
Chương 25
QUAN TỔNG TRẤN ĐÃ CỐ GẮNG CỨU TÊN
GIUDA Ở THÀNH PHỐ KIRIAPH NHƯ THẾ NÀO?
BÓNG TỐI TỪ ĐỊA TRUNG HẢI KÉO ĐẾN ĐÃ CHE PHỦ CÁI THÀNH PHỐ BỊ QUAN TỔNG TRẤN CĂM GHÉT. Đã biến mất những chiếc cầu treo nối liền đền thờ với tháp Antoni khủng khiếp, khối đen không đáy từ trên trời cao đã hạ xuống và trùm lên giữa những pho tượng thần có cánh trên trường đua ngựa, lên lâu đài Hasmonei với các lỗ châu mai, lên các bãi chợ, lều quán, ngõ nhỏ, ao hồ…Đã biến mất Iersalaim – thành phố vĩ đại, dường như nó chưa hề từng tồn tại trên thế giới này. Bóng tối đã nuốt chửng tất cả, làm cho tất cả mọi sinh vật sống ở Iersalaim và các vùng phụ cận phải khiếp đảm. Một đám mây đen kỳ quái từ phía biển kéo đến vào lúc cuối ngày mười bốn của tháng Nisan mùa Xuân.
Khối mây đen đã trườn cái bụng của mình lên ngọn Núi Trọc, nơi những tên đao phủ đang vội vả đâm chết mấy người bị hành hình, rồi trườn lên ngôi đền ở Iersalaim và làm thành từng dòng khói lớn bò từ ngọn đồi xuống, chảy lấp đầy cả Hạ Thành. Nó chui vào các cửa sổ và xua đuổi mọi người khỏi những con đường phố cong queo, dồn họ vào nhà. Nó không vội và trút nước, mà chỉ mới phóng ra những luồng ánh sáng. Hễ lưỡi lửa vừa lóe lên rạch ngang khối mây đen ngòm, thì từ trong bóng tối như địa ngục vọt bắn lên cao cái khối vĩ đại của tòa Đền Thờ với lớp mái vẩy rồng lấp lánh. Nhưng ánh chớp đã tắt lịm đi trong khoảnh khắc, và ngôi đền lại chìm sâu vào vực đen không đáy. Đã mấy lần Đền Thờ vọt lên từ đó rồi lại rơi xuống, và cứ mỗi lần rơi xuống như vậy lại kèm theo tiếng gầm vang rền khủng khiếp của tai họa. Những ánh lửa nhoáng nhoàng run rẩy khác lôi từ chốn không đáy lên toà lâu đài Herod Đại Đế đứng đối diện với Đền Thờ trên ngọn đồi phía Tây, và những pho tượng vàng không mắt dữ tợn vươn hai tay trên đầu bay vụt lên bầu trời đêm. Nhưng ngọn lửa thiên đình lại biến mất, và một tràng sấm nặng nề giáng xuống hất những tượng thần bằng vàng tụt sâu vào vực tối.
Mưa rào bỗng trút xuống đột ngột, và lúc đó cơn giông biến thành một trận bảo giật. Ở đúng nơi lúc gần trưa quan tổng trấn đứng nói chuyện với ngài đại tư tế cạnh chiếc ghế dài bằng đá cẩm thạch trong vườn, một cây trắc bá diệp bị bẻ gãy ngang chẳng khác gì que sậy phát ra tiếng kêu như tiếng đại bác. Cùng với bụi nước và mưa đá, gió cuốn lên ban công dưới hàng cột trên những bông hoa hồng bị dứt khỏi cành, những chiếc lá mộc lan, cành cây con và cát sỏi. Cơn bảo như muốn nghiền nát khu vườn.
Trong khoảng thời gian đó, chỉ có một người ở dưới hàng cột tròn và người đó là quan tổng trấn.
Bây giờ ngài không ngồi trên ghế bành, mà nằm trên phản cạnh chiếc bàn thấp nhỏ bày các món ăn và rượu vang đựng trong mấy bình con. Một chiếc phản khác,để không, đặt đối diện ở bên kia bàn. Phía dưới chân ngài sóng sánh một vũng nước đỏ như máu và ngổn ngang những mảnh bình gốm vỡ tan. Người hầu dọn bàn cho quan tổng trấn trước cơn giông không hiểu sau lại tỏ ra hốt hoảng trước ánh mắt của ngài, lo lắng không biết mình có làm cái gì không vừa ý chủ chăng, và quan tổng trấn nổi giận, cầm chiếc bình ném xuống nền đá khảm, quát:
- Tại sao khi đưa nhà ngươi không nhìn vào mặt ta? Hay nhà ngươi ăn cắp cái gì?
Gương mặt đen của người châu Phi trở nên xám ngoét, trong cặp mắt anh ta hiện ra nỗi kinh hoàng cực độ; tên người hầu run lẩy bẩy và suýt nữa đánh rơi nốt chiếc bình thứ hai, nhưng cơn giận của quan tổng trấn không hiểu sao dă bay biến đi cũng nhanh chóng hệt như nó đến. Người nô lệ châu Phi quỳ xuống định nhặt các mảnh vỡ và lau vũng nước, nhưng quan tổng trấn khoát tay ra hiệu, và anh ta chạy đi. Đến tận giờ vũng rượu vẫn nằm nguyên ở đó.
Bây giờ, khi cơn bảo đang gầm rú ngoài trời, người da đen ẩn mình cạnh hốc tường, nơi đặt tượng một người đàn bà khỏa thân đứng nghiêng đầu; anh ta sợ xuất hiện không đúng lúc trước mặt chủ, đồng thời lại sợ bỏ lỡ qua các thời điểm khi quan tổng trấn có thể gọi anh ta.
Nằm trên phản trong bóng tối nhập nhoạng của cơn giông, quan tổng trấn tự rót rượu vang vào cốc cho mình, uống từng ngụm kéo dài, thỉnh thoảng chạm tay vào đĩa bánh mì, bẻ vụn, nuốt từng mẩu nhỏ, chốc chốc lại hút sò huyết, nhai một mẩu chanh rồi lại nhấp rượu vang.
Nếu không có tiếng réo gào của dòng nước chảy, nếu không có những tràng sấm nổ như chực nghiền nát mọi lâu đài, nếu không có tiếng mưa đá nện sầm sập ngoài bậc đá ban công, thì có thể nghe thấy tiếng quan tổng trấn đang lẩm bẩm nói chuyện với mình về một điều gì đó. Và nếu như ánh lửa nhấp nhoáng run rẩy của những tia chớp trời biến thành một làn ánh sáng kéo dài không tắt, thì người quan sát có thể thấy rằng khuôn mặt của quan tổng trấn , với cặp mắt sưng mọng, bởi những đêm mất ngủ và bởi rượu vang, đang thể hiện một sự sốt ruột; ngài không chỉ nhìn xuống hai bông hồng trắng nằm trong vùng rượu đỏ, mà còn thường xuyên quay đầu về phía vườn đón nhìn những cột bụi nước và cát sỏi; ngài đang chờ, đang rất sốt ruột chờ ai đó.
Thêm một ít thời gian nữa trôi qua, và màn nước trước mặt quan tổng trấn bắt đầu trở nên thưa dần. Dù cơn bảo có dữ dội đến mấy, nó cũng đã yếu đi. Những cành cây không còn rít lên răng rắc và rơi gãy nữa. Sấm chớp mỗi lúc một thưa hơn. Bay trên dầu Iersalaim giờ đây không phải là tấm chăn màu tím sẫm viền trắng nữa, mà là một đám mây lẻ loi màu xám bình thường. Cơn giông đã chuyển về hướng Biển Chết.
Bây giờ đã có thể phân biệt được tiếng mưa rơi, tiếng nước chảy theo các ống xối và tràn qua các bậc thềm đá mà theo đó sáng nay quan tổng trấn đã bước xuống để ra quảng trường tuyên bố bản án. Và cuối cùng, tiếng vòi phun nước bị át đi đến tận bây giờ cũng vang lên. Trời hửng sáng. Trong màn mây xám trôi nhanh về hướng Đông xuất hiện những khoảng trời xanh biếc.
Vừa lúc đó từ phía xa, xuyên qua những âm thanh tí tách của cơn mưa gần như đã tạnh hẳn, vọng đến tai quan tổng trấn tiếng kèn đồng yếu ớt và tiếng rầm rập của mấy trăm vó ngựa. Nghe thấy những tiếng động đó, quan tổng trấn cựa mình, khuôn mặt ngài vụt linh hoạt hẳn lên. Ala kỵ binh đã từ Núi Trọc trở về, theo tiếng bước chân ngựa có thể đoán được là nó đang đi qua chính cái quảng trường sáng nay quan tổng trấn đã công bố bản án.
Cuối cùng, quan tổng trấn đã nghe thấy tiếng bước chân mà ngài ngóng đợi từ lâu, rồi tiếng giày đã lép nhép trên cầu thang dẫn lên khoảng sân thượng của khu vườn ở ngay phía trước ban công. Quan tổng trấn vươn cổ, cặp mắt ngài sáng lên lộ rõ vẻ vui mừng.
Đầu tiên, giữa hai con sư tử bằng đá cẩm thạch hiện ra một mái đầu đội mũ chụp, rồi sau đó là cả con người mặc áo khoác dính chặt vào thân ướt sũng từ đầu đến chân. Đó chính là người đã nói chuyện thì thầm với quan tổng trấn trước khi ngài đi qua quảng trường tuyên bố bản án, trong căn phòng che kín của tòa lâu đài, và đó cũng là người ngồi trên chiếc ghế đẩu ba chân, tay nghịch ngợm roi trong thời gian diễn ra cuộc hành hình.
Không để ý tránh các vũng nước, người đội mũ chụp đi cắt ngang mảnh sân thượng của khu vườn, bước lên mặt sàn ban công khảm đá; rồi dơ cao một cánh tay, người đó nói bằng giọng cao dễ nghe:
- Cầu chúc quan tổng trấn bình an và vui vẻ, - người mới đến nói bằng tiếng La tinh.
- Trời! – Pilat thốt lên. – Trên mình ngươi không còn một sợi chỉ nào khô nữa! Cơn bão ra trò đấy chứ? Ngươi hãy đến gặp ta lập tức. Làm ơn thay quần áo ngay đi cho.
Người mới đến cởi chiếc mũ chụp để lộ mái đầu ướt sũng với những món tóc dính bết vào trán; và nở một nụ cười lễ độ trên khuôn mặt cạo nhẵn của mình, anh ta từ chối việc thay quần áo, nói rằng cơn mưa nhỏ không hề gây cho anh ta một tác hại nào.
- Ta không muốn nghe, - Pilat nói và vỗ hai tay vào nhau. Bằng hiệu lệnh ấy, ngài gọi những người hầu đang ẩn trốn đâu đó, ra lệnh cho họ săn sóc người mới đến rồi mang thức ăn nóng ra ngay. Để hong khô tóc, thay quần áo, giày tất, nói chung để sửa soạn lại mình cho chỉnh tề, người mới đến cần rất ít thời gian; chỉ một chốc sau anh ta xuất hiện trên ban công trong chiếc áo choàng nhà binh đỏ rực, chân đi đôi xăng đan khô, với mái tóc đã được chải mượt.
Vào giờ này mặt trời đã trở lại cùng Iersalaim. Trước khi lặn xuống Địa Trung Hải, nó gửi những tia nắng cuối cùng xuống chia tay với thành phố bị quan tổng trấn căm ghét, nhuộm vàng những bậc thềm đá ban công. Vòi phun nước đã hoàn toàn sống lại, reo hát hết cỡ giọng; mấy con chim bồ câu đậu xuống bãi cát, líu ríu gù, nhảy qua nhảy lại giữa những cành cây gãy, mổ một cái gì đó trên mặt cát ướt. Vũng rượu đổ đã được lau sạch, các mảnh bình vỡ đã dọn nhặt hết; trên bàn những dĩa thịt bốc khói.
- Tôi sẵn sàng nghe lệnh của ngài, thưa quan tổng trấn, - người khách vừa tới bước đến bên bàn, nói.
- Ngươi sẽ không thấy gì cả nếu như chưa ngồi vào bàn và uống vài cốc rượu vang. – Pilat nhã nhặn đáp và chỉ vào chiếc phản đối diện.
Người khách mới đến nằm xuống, đầy tớ rót vào cốc cho anh ta thứ vang đỏ đặc sánh. Một đầy tớ khác, thận trọng nghiêng mình phía trên vai Pilat, rót đầy cốc của quan tổng trấn. Sau đó ngài khoát tay ra hiệu cho hai tên đầy tớ lui ra. Trong khi người mới đến ăn uống, Pilat vừa nhấp rượu vừa nheo mắt nhìn vị khách của mình. Người đến gặp Pilat trạc trung niên, có bộ mặt tròn được chăm chút rất kỹ lưỡng, với chiếc mũi lớn. Tóc của anh ta không có màu. Bây giờ, khi khô dần, nó có màu sáng. rất khó đoán được anh ta thuộc dân tộc nào. Đặc điểm chính của khuôn mặt anh ta có lẽ là cái vẻ hiền lành, nhưng nó bị phá vỡ bởi đôi mắt, hay đúng hơn, không phải đôi mắt mà là cái cách anh ta nhìn người nói chuyện với mình. Thường thường, anh ta che giấu cặp mắt nhỏp của mình dưới hàng mi nhô ra hơi lạ lùng, dường như bị sưng mọng lên. Lúc ấy, giữa hai khe hở của cặp mắt đó ánh lên một vẻ tinh nghịch hiền lành, và có thể nghĩ rằng người khách của quan tổng trấn thiên về bản tính hài hước. Nhưng thỉnh thoảng, xua biến cái tia hài hước lấp lánh đó ra khỏi hai khe mắt, anh ta mở to cặp mí và bất thần xoáy trừng trừng vào mặt người đối thoại, dường như muốn nhìn rõ ngay một vết nhỏ không nhận thấy nào đó trên tinh mũi của người đứng trước mặt. Điều đó chỉ diễn ra trong một thoáng, sau đấy cặp mí lại buông xuống, hai khe mắt lại thu hẹp, và từ đó ánh lên vẻ hiền lành và trí thông minh hài hước.
Người mới đến không từ chối cốc rượu vang thứ hai, với vẻ khoan khoái nuốt vài con sò huyết, thử mấy miếng rau xào và ăn một mẩu thịt con.
Khi đã no, anh ta khen rượu vang:
- Một thứ nho tuyệt vời, thưa quan tổng trấn, nhưng đây không phải là “Phalerno” chứ ạ?
- “Xecuba” ba chục năm đấy, - quan tổng trấn nhã nhặn đáp.
Khách đặt tay lên ngực trái, từ chối không ăn gì thêm, nói rằng mình đã no. Lúc đó, Pilat rót đầy cốc của mình, khách cũng làm theo như vậy. Cả hai người rót một ít rượu vang từ cốc của mình vào đĩa thịt, và quan tổng trấn nâng cốc lên, nói to:
- Vì chúng ta, vì đức Hoàng Đế, cha của tất cả thần dân La Mã, con người tốt nhất và yêu quý nhất trong số tất cả mọi người!
Nói xong, họ uống cạn cốc rượu, và những tên đầy tớ người châu Phi dọn hết các món ăn trên bàn, chỉ để lại hoa quả và mấy bình rượu. Rồi quan tổng trấn ra hiệu cho đầy tớ lui, để lại một mình ngài với khách dưới hàng cột tròn.
- Vậy là, - Pilat cất tiếng hỏi không to lắm, - ngươi có thể nói gì với ta về tình hình ở thành phố này?
Pilat bất giác đưa mắt nhìn vượt qua dãy hiên của khu vườn, xuống phía dưới, nơi những hàng cột và những mái nhà phẳng đang cháy rực lên những tia nắng cuối cùng.
- Tôi cho rằng, thưa quan tổng trấn, - khách đáp lời, - tình hình ở Iersalaim bây giờ có thể an tâm được.
- Thế tức là có thể bảo đảm rằng sẽ không còn những vụ lộn xộn nữa?
- Chỉ có một điều có thể đảm bảo được trên đời này, - người khách nhìn quan tổng trấn đáp, - đó là sức mạnh của Hoàng Đế vĩ đại.
- Cầu mong các vị thần linh ban cho đức Hoàng Đế cuộc sống dài lâu, - Pilat lập tức đáp lời, - và hoà bình ở khắp nơi. – Ngài im lặng một lát rồi nói thêm: - Thế nghĩa là ngươi cho rằng bây giờ có thể rút quân đi được?
- Tôi cho rằng kogot Tia Chớp có thể rút quân được, - khách đáp, và nói thêm: - Nếu như trước lúc rút đi, nó làm một cuộc diễu hành qua thành phố thì càng tốt.
- Một ý kiến rất hay, - quan tổng trấn đồng tình. – Ngày kia ta sẽ rút nó đi, tự ta cũng đi luôn, và, - xin thề bằng bữa tiệc của mười hai vị thần và bằng tất cả thành hoàng thổ công, - ta sẵn sàng đánh đổi rất nhiều thứ để làm việc đó ngay hôm nay.
- Quan tổng trấn không thích Iersalaim à? - người khách thật thà hỏi.
- Xin rủ lòng độ lượng, - quan tổng trấn mỉm cười thốt lên, - trên mặt đất này không còn chỗ nào bất yên hơn. Đấy là ta chưa nói về thiên nhiên. Ta lần nào cũng sinh bệnh mỗi khi phải đi đến đây. Nhưng đó chỉ mới là một nửa tai họa. Còn những ngày hội hè này - bọn pháp sư, thầy mo, phù thủy, rồi cả đàn cả lũ những kẻ hành hương…Rặt quân cuồng tín, quân cuồng tín! Chỉ riêng một lão Messia(1) nào đó mà bọn họ bỗng nhiên chờ đợi sẽ đến trong năm nay cũng đã đáng giá bao nhiêu rồi! Phút nào cũng có thể trở thành người chứng kiến những vụ đổ máu khó chịu nhất. Thường xuyên phải xáo trộn quân lính, đọc những thư tố cáo và vu khống, mà trong số đó phải đến một nửa là viết về chính ta! Ngươi chắc cũng đồng ý rằng điều đó thực là ngán ngẩm. Ôi, nếu như không phải vâng mệnh Hoàng Đế!…
- Vâng, những ngày lễ hội ở đây quả là vất vả, - khách đồng ý.
- Ta thật lòng mong cho chúng nhanh chóng kết thúc đi, - Pilat sôi nổi nói tiếp. – Ta sẽ có khả năng cuối cùng được trở lại Kesaria. Ngươi có tin không, cái công trình điên rồ này của Herod, - quan tổng trấn khoát tay dọc theo hàng cột, chứng tỏ rằng mình đang nói về toà lâu đài, - làm ta phát điên lên mất. Ta không thể ngủ đêm ở đấy được. Thế giới còn chưa biết tới một kiến trúc nào kỳ quái hơn. Mà thôi, ta quay trở lại với công việc. Trước hết, cái tên Var-ravvan không làm ngươi lo lắng chứ?
Lập tức, người khách ném một cái nhìn đặc biệt của mình lên má quan tổng trấn. Nhưng Pilat vẫn nhìn ra xa bằng ánh mắt buồn chán, mặt cau lại vẻ ghê tởm, ngắm cái phần thành phố nằm phía dưới chân ngài đang tắt lịm dần trong hoàng hôn. Ánh mắt của người khách cũng vụt tắt, đôi hàng mi cụp xuống.
- Tôi cho rằng tên Var-ravvan bây giờ vô hại như một con chim non – khách đáp, và những nếp nhăn xuất hiện trên bộ mặt tròn. – Bây giờ nổi loạn đối với hắn ta là bất tiện.
- Vì quá nổi tiếng? – Pilat cười khẩy, hỏi.
- Quan tổng trấn bao giờ cũng thật tinh tường!
- Nhưng để phòng ngừa, - Pilat nói với vẻ mặt lo nghĩ và chĩa một ngón tay thon dài đeo nhẫn gắn ngọc đen lên trời, - cần phải…
- Ồ, quan tổng trấn có thể tin chắc rằng cho đến khi nào tôi còn có mặt ở Giudea, tên Var-ravvan sẽ không thể đi đâu một bước mà không bị theo dõi sát gót.
- Giờ thì ta yên lòng, cũng như bao giờ cũng yên lòng khi có ngươi ở đây.
- Quan tổng trấn quá khen!
- Còn bây giờ, hãy báo cáo cho ta biết về việc hành hình, - quan tổng trấn nói.
- Quan tổng trấn muốn biết cụ thể về việc gì ạ?
- Về phía dân chúng có mưu toan nào định phản đối không? Cái đó là chính, tất nhiên…
- Tuyệt đối không ạ, - người khách đáp.
- Rất tốt. Chính ngươi đã kiểm tra là chúng chết thật rồi chứ?
- Quan tổng trấn có thể yên tâm về diều đó.
- Thế… có cho chúng uống(2) trước khi treo lên cột chứ?
- Vâng, nhưng hắn, - nói đến đây người khách nhắm mắt lại, - từ chối không chịu uống.
- Cụ thể là ai? – Pilat hỏi.
- Xin ngài thứ lỗi, thưa ighemon ! - người khách thốt lên. – Tôi chưa nói tên ra ạ? Ha-Notxri.
- Quả là điên rồ! – Pilat nói và không hiểu sao nhăn mặt lại. Một thớ gân ở dưới mắt trái của ngài khẽ co giật. - Chịu để mặt trời thiêu chết! Tại sao lại từ chối cái mà pháp luật cho phép? Hắn từ chối như thế nào?
- Hắn nói rằng, - người khách lại nhắm mắt, đáp, - hắn cảm ơn và không buộc tội đã tước mất cuộc sống của hắn.
- Buộc tội ai? – Pilat hỏi bằng giọng âm thầm.
- Điều đó hắn không nói, thưa ighemon.
- Hắn có mưu toan rao thuyết gì trước mặt binh lính không?
- Không, thưa ighemon, lần này hắn không lắm lời ạ. Cái điều duy nhất hắn nói là trong số các tội lỗi của con người, một trong những tội lỗi lớn nhất hắn cho là sự hèn nhát.
- Hắn nói câu đó nhằm ý gì? - người khách bỗng nghe một giọng nói bất ngờ bị vỡ rạn.
- Điều đó không thể hiểu được ạ. Nói chung hắn xử sự khá kỳ quặc, mà thật ra cũng như mọi khi thôi.
- Kỳ quặc ở chỗ nào?
- Hắn luôn luôn cố nhìn sâu vào mắt khi thì người này, khi thì người khác ở xung quanh và luôn mỉm cười bằng một nụ cười ngơ ngác thế nào ấy.
- Ngoài ra không còn gì hơn? – Pilat hỏi bằng giọng khàn khàn.
- Không còn gì hơn nữa ã.
Quan tổng trấn gõ mạnh cốc xuống bàn, rót rượu vang ra cho mình. Uống cạn, ngài cất tiếng:
- Sự việc là như sau: tuy chúng ta không thể phát hiện ra – ít nhất là vào thời điểm này - những học trò hoặc những kẻ ngưỡng mộ hắn, dù sao vẫn không thể bảo đảm rằng chúng không hề có.
Người khách cuối đầu chăm chú lắng nghe.
- Và vì vậy, để tránh mọi sự bất trắc có thể xảy ra, - quan tổng trấn nói tiếp, - ta ra lệnh phải ngay lập tức, và không gây bất cứ một sự ồn ào nào, thu dọn khỏi mặt đất xác ba tên bị tử hình rồi đem chôn chúng một cách bí mật và im lặng, để không một ai được nghe và nói gì về chúng nữa.
- Tuân lệnh, thưa ighemon, - khách đáp và vừa đứng dậy vừa nói: - Vì công việc phức tạp và quan trọng xin phép đi ngay tức khắc.
- Không, hãy ngồi xuống đã, - Pilat đưa tay ngăn người khách của mình lại, nói: - Còn hai việc nữa. Việc thứ hai: những công lao to lớn của ngươi trong cái công việc cực kỳ khó khăn trên cương vị người phụ trách công vụ mật dưới quyền quan tổng trấn ở Giudea đã tạo cho ta một cơ hội may mắn được báo cáo về điều đó tại La Mã.
Nghe đến đây, khuôn mặt khách đỏ hồng lên, anh ta đứng dậy nghiêng mình bái lễ quan tổng trấn và nói:
- Tôi chỉ thi hành nghĩa vụ của mình để phục vụ Hoàng Đế!
- Nhưng ta muốn xin với ngươi một điều, - ighemon nói tiếp, - nếu như ngươi được thăng chức và chuyển đi khỏi nơi này, hãy từ chối và xin ở lại đây. Ta hoàn toàn không muốn phải xa ngươi. Cứ để cho người ta khen thưởng ngươi bằng một cách khác.
- Tôi rất vinh hạnh được phục vụ dưới quyền ngài, thưa ighemon.
- Ta rất hài lòng với điều đó. Và bây giờ việc thứ ba. Nó liên quan đến tên… hắn gọi là gì nhỉ… tên Giuda quê ở thành Kiriaph.
Đến đây, người khách một lần nữa ném ánh mắt đặc biệt của mình sang phía quan tổng trấn, nhưng như mọi lần, lại lập tức tắt nó đi ngay.
- Người ta nói rằng, - hạ thấp giọng, quan tổng trấn tiếp tục, - dường như hắn đã nhận tiền trả công việc hắn tiếp đón nhà triết học mất trí kia ở nhà mình một cách nồng nhiệt như vậy.
- Hắn sẽ nhận, - viên chỉ huy mật vụ khẽ chữa lại lời của Pilat.
- Thế số tiền có lớn không?
- Điều đó thì không ai có thể biết được, thưa ighemon.
- Thậm chí cả ngươi? – ighemon bày tỏ sự khen ngợi của mình bằng vẻ ngạc nhiên.
- Vâng, thậm chí cả tôi, - khách bình tĩnh đáp. - Nhưng tôi biết rằng hắn sẽ được nhận số tiền đó tối nay. Hôm nay hắn được gọi đến lâu đài của Kaipha.
- Ôi, cái lão già tham lam quê ở Kiriaph! – Pilat mỉm cười, nói. – Đúng là hắn già rồi phải không?
- Quan tổng trấn không bao giờ sai lầm, nhưng lần này ngài đã lầm, - người khách lễ độ đáp lời, - tên quê ở thành Kiriaph hãy còn trẻ.
- Thế đấy! Ngươi có thể nói cho ta nghe vài đặc điểm của hắn không? Là một kẻ cuồng tín à?
- Ồ không, thưa quan tổng trấn.
- Thế đấy, còn gì nữa không?
- Rất đẹp trai.
- Còn gì nữa? Có thể, hắn say mê một cái gì chăng?
- Khó có thể biết chính xác như vậy về tất cả mọi người trong cái thành phố đồ sộ này, thưa quan tổng trấn.
- Ồ, không, không, Aphrani! Đừng giảm nhẹ công lao của mình như thế!
- Hắn có một niềm say mê, thưa quan tổng trấn, - khách ngừng lời một thoáng. – Say mê tiền.
- Thế hắn làm việc gì?
Aphrani ngước mắt nhìn lên trời, nghĩ một lúc và đáp:
- Hắn làm ở cửa hiệu đổi tiền của một người họ hàng ạ.
- Ra thế, thế, thế, thế. – Quan tổng trấn chợt ngừng lời, đưa mắt nhìn quanh xem có ai ở trên ban công không, rồi nói khẽ: - Sự việc là ở chỗ, hôm nay ta nhận được tin rằng hắn sẽ bị giết chết.
Nghe đến đây, người khách không chỉ ném cái nhìn đặc biệt của mình sang phía quan tổng trấn, mà còn dừng nó lại một lúc, sau đó mới đáp:
- Thưa ighemon, ngài đã quá khen khi phán xét về tôi. Theo tôi, tôi không xứng đáng với lời báo cáo của ngài về La Mã. Tôi không có những tin đó.
- Ngươi xứng đáng với sự khen thưởng cao nhất, - Pilat đáp. – Nhưng quả có những tin như vậy.
- Tôi xin mạo muội dám hỏi, những tin đó là do ai cung cấp ạ ?
- Hãy cho phép ta không nói ra điều đó, nhất là những tin này hoàn toàn ngẫu nhiên, đen tối và không đáng tin cậy. Nhưng ta cần phải thấy trước tất cả. Đó là trách nhiệm của ta, và hơn nữa ta buộc phải tin vào linh cảm của ta, bởi vì chưa bao giờ nó đánh lừa ta. Những tin tức này tóm lại như sau: có một người nào đó trong số bạn bè bí mật của Ha-Notxri, phẫn nộ trước sự phản bội quái đản của tên làm nghề đổi tiền này, đã thoả thuận với các đồng bọn của mình sẽ giết hắn tối nay, còn số tiền nhận được do sự phản bội sẽ đem ném vào nhà đại tư tế với mẩu giấy: “Ta trả lại số tiền đáng nguyền rủa!”
Viên chỉ huy mật vụ không còn ném thêm những cái nhìn đột ngột của mình sang phía ighemon nữa, mà tiếp tục nghe, mắt nheo lại. Còn Pilat vẫn nói:
- Ngươi thử tưởng tượng xem, ngài đại tư tế có hài lòng không, khi vào đêm hội hôm nay lại nhận được một món quà như thế?
- Không chỉ không hài lòng, - người khách mỉm cười, đáp. – mà tôi cho rằng, thưa quan tổng trấn, điều đó sẽ gây ra một vụ bê bối rất lớn.
- Ta cũng cho là như vậy. Vì thế ta yêu cầu ngươi hãy lo việc này, nghĩa là hãy áp dụng các biện pháp để bảo vệ gã Giuda quê ở thành Kiriaph.
- Mệnh lệnh của ighemon sẽ được thi hành, - Aphrani đáp. – Nhưng tôi cần phải nói để ighemon yên lòng: âm mưu của bọn độc ác kia sẽ cực kỳ khó thực hiện. Bởi vì ngài thử nghĩ xem, - người khách vừa nói vừa quay lại, và tiếp: - theo dõi một người, giết chết, lại còn biết số tiền nhận được là bao nhiêu, rồi khéo léo trả lại tiền cho Kaipha, và tất cả những cái đó chỉ trong một đêm? Vào ngày hôm nay?
- Mặc dù vậy, người ta vẫn giết hắn tối nay, - Pilat bướng bỉnh nhắc lại. – Ta bảo với ngươi là ta có linh cảm mà! Chưa có trường hợp nào nó đánh lừa ta, - một cơn co giật thoáng qua trên khuôn mặt quan tổng trấn, và Pilat khẽ lau tay.
- Xin tuân lệnh, - khách đáp với vẻ phục tùng, đứng dậy, vươn thẳng người lên và đột ngột hỏi một cách nghiêm khắc: - Nghĩa là hắn sẽ bị đâm chết, thưa ighemon?
- Đúng thế, - Pilat đáp, - và toàn bộ hy vọng chỉ trông vào tính thừa hành khiến tất cả phải kinh ngạc của ngươi.
Người khách sửa lại dải thắt lưng nặng dưới chiếc áo choàng và nói:
- Xin chúc ngài bình an và vui vẻ.
- À, phải, - Pilat khẽ kêu lên, - ta quên bẵng mất! Ta còn nợ ngươi mà!...
Người khách kinh ngạc.
- Thưa quan tổng trấn, ngài không nợ gì tôi cả ạ.
- Tại sao lại không? Khi ta đi vào Iersalaim, ngươi còn nhớ không, một đám hành khất… ta muốn tung tiền cho chúng, nhưng ta lại không mang theo, nên đã lấy của ngươi…
- Ồ thưa quan tổng trấn, đó chỉ là chuyện vặt vãnh thôi mà!
- Cả những chuyện vặt vãnh cũng phải nhớ.
Nói xong, Pilat quay người, nâng tấm áo choàng vắt trên lưng ghế bành phía sau ngài, rút từ dưới áo ra một chiếc túi bằng da và trao cho khách.
Aphrani cúi mình nhận lấy rồi giấu vào dưới làn áo choàng.
- Ta đợi, - Pilat lại lên tiếng, - ta đợi nghe báo cáo về việc chôn cất cũng như về việc tên Giuda quê ở Kiriaph ngay vào tối nay. Aphrani, ngươi nghe không, ngay tối nay. Bọn lính gát sẽ được lệnh đánh thức ta ngay khi ngươi vừa xuất hiện ở đây. Ta đợi ngươi.
- Rất vinh hạnh, - chỉ huy đội mật vụ đáp và quay mình rời khỏi ban công. Lúc đầu còn nghe tiếng bước chân của anh đi lạo xạo trên cát ướt của bãi sân thương, rồi tiếng ủng của anh ta trên nền đá hoa cương giữa hai con sư tử. Rồi chân anh ta bị che khuất, rồi lưng, và cuối cùng cả chiếc mũ chụp cũng biến mất. Chỉ đến lúc đó quan tổng trấn mới thấy rằng mặt trời không còn nữa và bóng hoàng hôn đã ập đến tự lúc nào.
------------------
(1) Messia (tiếng Do Thái nghĩa là người được xức dầu): theo tục lệ xưa, các vua chúa, đại tư tế… khi nhận chức được làm lễ xức dầu thơm. Về sau từ Messia có nghĩa là Đấng Cứu Thế, trong Tân Ước từ này dùng để chỉ Giesu Christ.
(2) … cho chúng uống: chỉ tục lệ cho các tử tù uống rượu vang để giảm bớt đau đớn khi bị hành hình.