Tôi cần phải nói thẳng, nguyên nhân tôi không muốn ngủ chung giường với Dabruce ngoài ý thức bản năng tự bảo vệ ra, còn có hai nguyên nhân quan trọng khác.
Thứ nhất, tôi không quen ngửi cái mùi là lạ không rõ là mùi hôi nách hay mùi cá tanh khẳn. Mùi đó quyện với mùi nước hoa xịt quá nhiều đến nhức mũi, khi anh đi sát người tôi, hay đứng trước cửa sổ nói chuyện, tôi luôn ngửi thấy mùi là lạ nhức mũi như mùi tã bẩn của trẻ con bị nước nóng xối vào.
Thứ hai, cơ thể đầy lông lá của anh cũng thường khiến tôi sinh ra phản ứng không thích nghi về sinh lý.
Trời nóng, mặc ít quần áo, tôi phát hiện bắp tay, bắp chân, trước ngực, sau lưng anh nơi nào cũng toàn những lông vàng dầy kín, óng a óng ánh... điều này càng khiến anh giống một con gấu lông dài, hoặc giả là một con lợn trắng. Cho nên, có lúc tôi có cảm giác nhầm lẫn, cho rằng anh chẳng qua là một con thú tiến hoá chưa hoàn toàn triệt để, một ngày nào đó thú tính sẽ trỗi dậy, rất có thể sẽ gây hại cho tôi. Vì vậy, cho dù lúc anh hiền hoà nhất, trong tiềm thức tôi cũng “luôn luôn sẵn sàng” đề phòng.
Nhưng buổi tối hôm sau, khi nhìn thấy anh chuẩn bị ôm chăn gối ra ngoài sô pha, tôi muốn ngăn lại.
- Thôi anh, đừng nằm ngủ ở sô pha nữa, chân anh dài. Anh vào giường ngủ đi, chúng ta mỗi người một chăn là được!
- Không, không cần. Anh chịu được.
Anh sững người giây lát, vội nói.
Tôi liếc nhìn anh một cái, cũng không nói nhiều, giật tấm chăn trong tay anh đi vào phòng trong.
......
Đó là buổi tối thật khó chịu đựng nổi.
Người Dabruce toát ra một mùi kinh khủng, mấy lần khiến tôi suýt nôn.
Hơn nữa, chỉ cần nghĩ đến “con người lông” to lớn đang nằm bên cạnh mình, trong lòng tôi cũng đã run lên. Nếu như nửa đêm “con người lông” này bỗng nhiên mộng du, hoặc giả mơ mơ màng màng trèo lên người tôi, cho dù anh ta không muốn làm cái chuyện xấu xa đồi bại, thì cũng đã đè tôi chết bẹp...
Đệm giường của chúng tôi do sức nặng của anh đè lên nghiêng lệch hẳn về một bên –– con gấu anh nằm ở cuối dốc, còn tôi dè chừng nằm ở đỉnh dốc. Trong giấc mơ nửa tỉnh nửa mê, tôi vẫn gắng sức co quắp cảnh giác, sợ sẽ bị lăn xuống dốc và rơi vào “bàn tay gấu” không đáng có...
Phải mất mấy tuần sau đó, không phát hiện Dabruce có hành động khác lạ nào trong đêm, tôi mới có chút yên tâm. Còn về mùi ở cơ thể anh cũng không thấy lạ nữa, tuy chưa hoàn toàn thích nghi, nhưng ít ra cũng không bị nhức mũi.
Nhưng tôi thường thường tỉnh giấc giữa đêm.
Tôi lặng lẽ ngắm nghìn “người chồng” đang ngủ ngon bên cạnh mình, lắng nghe tiếng thở đều đều ở anh, tôi không dám tin rằng đây là cuộc sống hiện tại của mình. Tôi cũng không dám tin, để trốn chạy những lời nguyền rủa và sự tủi nhục ở quê hương, để có thể sinh tồn ở một mảnh đất hoàn toàn lạ lẫm này –– tôi, một người con gái đã từng được coi là “hoa khôi trường” lại phải chịu cảnh éo le đến nước này... Tôi lại nhớ đến cô, nhớ đến Ngô Nguyên, nhớ đến tất cả...
Sau khi đến Mỹ, tôi đã viết thư cho Ngô Nguyên, anh viết thư trả lời, nhưng tôi quyết định sẽ không gửi thư cho anh nữa. Cuộc sống của tôi thực tại chẳng có gì đáng viết cả, huống hồ tôi đã là “cô dâu” nhà người, điều có thể kể, có thể bày tỏ cũng chỉ là những sự ngượng ngùng, lung tung và phi lý. Cho nên, hãy để Thạch Ngọc trong tim anh ngày xưa đã chết rồi...
Hơn một tháng sau, tôi tìm được công việc bồi bàn trong một nhà hàng nhỏ gần chỗ ở của chúng tôi, một tuần sáu buổi, sáng từ chín giờ hơn đã đi, tối hơn mười giờ đêm mới về. Lúc đầu tôi chưa quen, cả ngày bưng khay đĩa, lưng đau chân mỏi, khi trở về đến nhà, người rời rã đến tất cũng chẳng buồn cởi, cứ thế nằm vật ra giường.
Dabruce thấy vậy, có hôm nói với tôi rằng:
- Anh có thể giúp em xoa bóp được không? Anh đã học qua, có thể giúp em bớt mệt mỏi.
- Đương nhiên, em đang định cầu cứu anh đây.
Tôi nói rồi làm theo lời anh, lôi chiếc ghế trước bàn ăn lại, xoay người ngồi xuống gục đầu vào thành ghế.
Anh thật sự có phương pháp, nắn, xoa, bóp, ấn, day... tất thảy đều có bài có bản.
Anh vừa làm vừa không quên nói với tôi, đây là huyệt gì, kia là huyệt gì. Tiếc rằng tôi không thể nhớ nổi. Tôi chỉ cảm thấy bàn tay thô thô, dầy dầy, âm ấm của anh không ngừng day day ấn ấn trên vai, trên cổ tôi. Ngón tay thô thô của anh cứ ấn day khi mạnh lúc nhẹ, khi nhanh khi chậm trên những khớp đau mỏi của tôi, dần dần, tôi thấy thoải mái và mất đi sự tự chủ, mơ mơ màng màng ngủ thiếp lúc nào chẳng hay. Có lúc, vô tình, vì anh dùng lực quá mạnh, tôi buột miệng kêu “ái”, lúc đó, anh vội dừng tay, nói “Anh xin lỗi”, sau lại chuyển sang chỗ khác...
Sau này dịch vụ mát xa miễn phí trở thành “sự gần gũi xác thịt” dường như không thể thiếu được trong cuộc sống “vợ chồng” của chúng tôi.
Những phần của thể xác tôi được hưởng thụ bắt đầu dần mở rộng từ bả vai, cổ đến tay và đùi. Có thời gian, Dabruce rất chuyên chú “mát xa chân” cho tôi...
Một hôm, anh còn dùng khoản tiền lương mới lĩnh mua cho tôi một bộ ghế mát xa có thể nâng lên hạ xuống, có thể duỗi thẳng ra nằm, phần đầu còn có lỗ thông khí. Như vậy, tôi không còn phải ngồi trên ghế nữa, thoải mái nằm sấp trên chiếc giường nhỏ để tiếp nhận sự phục vụ mát xa toàn phương vị của anh.
- Cái này mất nhiều tiền không?
Tôi nhìn anh đang xé hộp giấy ở phòng khách, rồi lại cầm kìm, tuốc nơ vít lắp dựng chiếc ghế mát xa, không đừng được bèn hỏi.
- Cả thuế là hơn tám trăm đô.
Anh nói.
- Số tiền này em sẽ trả.
Tuy rất buốt ruột nhưng giọng tôi vẫn tỏ ra kiên quyết.
- Vì sao. Anh ngoái đầu lại nhìn tôi: - Đây là tự anh sắm thêm.
- Nhưng dùng để phục vụ em.
- Anh không cho là thế, anh có thú vui của mình. Hơn nữa, em cũng giúp anh ôn lại tay nghề.
.........
Anh thật sự có thú vui của mình sao? Tôi rất nghi ngờ. Nhưng tôi không thể không thừa nhận, ở nơi đất khách quê người, hưởng thụ “mát xa khác giới tính” mà tổ tiên ông cha chúng tôi đã truyền qua người xứ lạ, thực sự khiến tôi rất sung sướng. Nó khiến tôi quên đi, khiến tôi lơ là, khiến tôi mê mẩn muốn ngủ.
Tôi có vẻ béo ra một chút.
Áo lót tôi mang từ Trung Quốc sang đã chật không thể mặc nổi, đành phải mua toàn bộ mới với kích cỡ lớn hơn một số.
Có hôm nghỉ, tôi đến phòng mạch của Dabruce chơi, leo lên cân cân thử, thấy mình đã nặng hơn gần chục pound so với lúc vừa mới đến Mỹ.
- Ái chà, em thật sự cần phải giảm béo thôi. Cứ như này em sắp thành bà béo rồi.
Tôi kinh hãi kêu lên.
- Em mảnh khảnh thế lại còn đòi giảm béo thì anh phải làm thế nào đây? Còn nên sống nữa hay không?
Dabruce đứng bên cạnh, nghe tôi nói vậy, không chịu được ngoái đầu lại chau mày nói.
- Xin lỗi, không phải em...
Tôi thấy mình lỡ lời, vội nói.
Dần dần tôi đã hiểu, anh rất không vừa ý về cơ thể của mình. Béo như vậy, cồng kềnh như vậy không chỉ là một gánh nặng về thể xác mà cũng còn là gánh nặng về tinh thần.
Lại nghe nói năm mười bốn tuổi anh đã nặng một trăm hai mươi pound (gần sáu chục cân), anh rất tự ti, không dám chơi với bạn gái, luôn sợ họ lấy mình làm trò cười.
Cho nên, thực ra anh cũng là một người đồng bệnh tương lân.
Dabruce thực sự có bệnh.
Nó không chỉ biểu hiện ở chỗ anh lấy việc “mát xa khác giới” cho tôi làm thú vui mà còn ham muốn không biết mệt, hơn nữa, có lần tôi giặt quần áo còn lôi được từ túi quần anh ra chiếc áo vú của tôi. Từ sau đó, tôi càng lưu tâm hơn, chiếc quần lót tơ tằm màu hồng của tôi để trong ngăn tủ quần áo thường mất tung tích, thậm chí băng vệ sinh dính máu tôi vứt trong thùng rác ở nhà vệ sinh cũng thường có người lật tung...
Tôi hiểu vị ân nhân phong độ đã gần ba mươi tuổi của tôi chưa từng nói chuyện yêu đương này đích thực có khiếm khuyết về mặt tâm lý.
Thể xác quá béo và cồng kềnh đã tạo ra sự tự ti khiến cho anh ngày càng mất đi dũng khí tiếp cận với người khác giới, nhưng trái lại không thể tiêu trừ được khát vọng của người đàn ông ẩn kín trong thẳm sâu tâm hồn anh.
Có đêm tôi bỗng tỉnh giấc giữa chừng, phát hiện cánh tay anh đang đè lên tôi. Tôi lập tức muốn gạt tay anh ra, nhưng do dự một lát rồi thôi. Tôi nghĩ, nếu như anh đang thật sự ngủ say, tôi sẽ làm anh tỉnh giấc và khiến anh cảm thấy áy náy; còn nếu như anh vẫn chưa hề ngủ mà chỉ giả vờ ngủ, như vậy chắc sẽ làm anh mất hứng. Vậy là, nhờ ánh trăng tôi không đừng được dò xét kỹ gương mặt anh. Anh nằm ngửa, trán hơi nhô, cằm hơi cong, nét môi rõ ràng, sống mũi rất thẳng, thần thái an tường và lặng lẽ. Nếu như nhìn khuôn mặt này, không nghĩ đến thể xác cồng kềnh bọc trong tấm chăn kia thì có thể nói anh là một bậc anh tuấn –– giống như vẻ đẹp của dung nhan tôi...
Tôi chợt hiểu, những khiếm khuyết về thể xác của chúng tôi cũng chính là duyên cớ để cho thể xác hai đứa được gần gũi. Vậy là, một tình cảm người khéo quý kẻ khôn bỗng bao trùm lên tôi, khiến tôi lâu lắm không thể nhấc tay anh ra.
Tôi tiếp tục ngắm nhìn anh trong đêm tối. Dần dần, tôi hoàn toàn quên thể xác của anh, chỉ còn lại cái trán anh tú, lại còn hàng râu kiểu Stalin rất kiêu hãnh. Tôi phát hiện, nếu như không có hàng ria đó, gương mặt anh thực ra rất giống trẻ con.
Con người của cô độc, đè nén ảo tưởng, truy cầu bản năng... đó là bản chất của cuộc sống sao?
Tôi bỗng nhắm mắt, không dám ngắm nhìn tiếp. Bởi vì từ cái trán ấy, gương mặt ấy tôi lại nhìn thấy khúc xạ của bóng dáng chính mình...
Tôi bỗng muốn khóc –– vừa xót thương cho chính mình, vừa xót thương cho bàn tay và cánh tay đang đè trên người tôi.
Đây là cánh tay cần mẫn không biết mệt mỏi, bàn tay đầy tình hữu hảo, bàn tay đã vượt qua muôn núi ngàn sông trên thể xác tôi, bàn tay luôn hoá giải những mệt mỏi, nhưng có lẽ, đây chỉ là một cánh tay tuyệt vọng...
Trong tình cảm tự xót thương đó, tôi không kìm được ôm lấy cánh tay này. Dường như nó đã là một phần của thể xác tôi. Tôi kéo nó lại, đặt ngay ngắn lên vai tôi. Sau đó, nhẹ nhàng khẽ đặt lên đầu, lên mặt tôi, đặt lên... tôi lúc đó không còn thấy mùi vị, cũng không còn sợ hãi, cánh tay đầy lông lá chỉ còn tạo cho tôi ảo tưởng của một đám lông lá bù xù...
Chắc chắn Dabruce đã tỉnh giấc. Dường như anh cũng lưỡng lự, nhưng đúng như dự tính của tôi, chỉ lát sau anh đã nhẹ nhàng ôm tôi vào lòng.
Như vậy, dường như là một kiểu ngầm ước hẹn, hoặc giả cũng là một sự thoả hiệp không tuyên bố, chúng tôi áp mặt vào nhau, nhưng cơ thể của hai chúng tôi vẫn nằm nguyên trong tấm chăn ấm áp như cũ...
Đấy là một ngày đáng ghi nhớ. Bởi vì bắt đầu từ ngày hôm đó, “hôn nhân” giả của chúng tôi cuối cùng đã được rót vào một chút nội hàm chân thực. Chí ít, một số bộ phận trên cơ thể chúng tôi trên thực tế đã là “ở chung”.
Nhưng trong lòng tôi, cái thực sự “ở chung” với tôi chính là bàn tay của Dabruce. Trước đó, tôi thích ngón tay của nó giống như một lão nông phu “cày sâu cuốc bẫm” trên cơ thể tôi, nhưng giờ đây tôi khát khao nó vuốt ve ấm áp trong đêm...
Đó là kiểu vuốt ve thế nào?
Chắc chắn anh không thể nghĩ nổi, một người vụng về thế nhưng lại có đôi bàn tay khéo léo đến thế. Ngón tay chắc chắn, đầy thịt và ấm áp khi vuốt ve có điểm khác với lúc mát xa, dường như là không xương, lướt nhẹ như mộng như ảo trên cơ thể anh. Có lúc, nó cũng là bàn tay của nghệ sĩ piano, còn tấm thân giàu tính đàn hồi của tôi lại là những phím đàn nổi bị ngón tay anh ấn xuống nhấc lên không ngừng, mỗi lần tiếp xúc của anh đều gợi ra một âm phù thanh thoát, xâu lại thành một chuỗi thanh nhạc tuyệt diệu, lướt chảy, đồng cảm, lắng đọng và ngưng tụ trên thể xác tôi... nó khiến anh đắm say, khiến anh rung động, khiến anh khát khao, khiến anh mê mẩn, khiến anh thiêm thiếp, khiến anh khẽ rên lên... nó cũng khiến anh biến thành một con vật cưng, chỉ đơn thuần không phải là con mèo biết suy nghĩ, một con chó có bốn cái chân mềm mềm, đôi mắt nhắm nghiền...
Đương nhiên, là một dạng báo đáp, tôi cũng đã từng mong muốn được anh vuốt ve như vậy. Quãng thời gian này trôi qua rất vui vẻ.
Chúng tôi có sự kết hợp hữu hạn, nhưng lại đạt đến sự hài hoà và nhất trí chỉnh thể.
Đương nhiên, chúng tôi cũng có những lúc tranh luận và không vui vẻ. Chúng tôi đặc biệt không thể hoà hợp khi xem truyền hình phát bằng tiếng Trung động chạm đến vấn đề Trung Quốc phải chăng nên thống nhất, Đài Loan nên chăng độc lập. Đại để anh ấy đã từng học tập ở Đài Loan nửa năm, rất có tình cảm với Đài Loan, luôn kiên trì cho rằng Đài Loan độc lập hay không thì do người Đài Loan tự đưa ra lựa chọn của mình.
- Nhưng anh đã nghĩ tới chưa, Đài Loan từ xưa đến nay là một bộ phận của Trung Quốc, nếu họ muốn chia cắt, toàn nhân dân Trung Quốc có thể đồng ý không?
Tôi đã luôn tranh luận với anh như vậy.
- Sao em lại biết Đài Loan từ xưa đến nay là một bộ phận của Trung Quốc? Đây chỉ là những lời mà chính phủ nước em thích nói. Cứ xem đó là một bộ phận, trong một đại gia đình, người quá đông thì cũng còn có thể chia nhà khác mà.
Còn anh lại luôn nói như vậy.
Tôi có chút kích động nói:
- Được, thế anh thử chia bang California ra khỏi Mỹ xem nào...
- Vấn đề là bang California không muốn tách ra khỏi Mỹ, còn người Đài Loan lại không muốn hợp nhất với Trung Quốc.
Anh vẫn cười cười nói.
Tôi tức điên không nói nên lời.
Lúc này, anh đứng dậy tiến lại vỗ vỗ vào vai tôi, vui vẻ bảo với tôi rằng:
- Thôi, không nói chuyện nữa, Đài Loan là cái thá gì? Hãy để Trung Quốc, Hoa Kỳ ngủ một giấc đã.
Lại một câu đùa khiến tôi bật cười.
Anh cũng thích để tâm tới những việc không đâu. Nhìn thấy có xe đỗ trên đường vào gara, cho dù không phải trước cửa nhà mình, anh cũng thò đầu ra cửa sổ để bảo, hoặc cũng chạy xuống lầu nhắc nhở. Gặp khi trên xe không có người, anh viết một mảnh giấy rồi kẹp vào cần gạt nước trên kính xe. Có lần, anh nhìn thấy trong một gia đình người Trung Đông phía đối diện đánh trẻ con, chẳng chút do dự anh gọi điện đến cảnh sát, báo hại người ta bị nhốt ở đồn cảnh sát ba ngày hai đêm, suýt nữa mất quyền nuôi con... Tôi nói với anh:
- Anh sao mà khổ thế, làm cho người ta xui xẻo, và cũng lôi thêm phiền phức vào người.
Anh bất mãn nói:
- Cứ nghĩ như em thì có được không, nhỡ ra họ đánh đứa trẻ bị thương thì sao? Nói rồi anh lại phê bình tôi: - Em có tư tưởng xấu của người Trung Quốc chính cống. “Chỉ quét tuyết trước cửa nhà mình, không quản sương rơi trên nóc nhà khác”.
Tôi chỉ còn cách lắc đầu, trút hơi thở dài mà thôi.
Chúng tôi cũng đã có lần xảy ra tranh cãi bởi vì mầu sắc mình yêu thích. Anh đặc biệt thích mầu trắng, luôn cho rằng màu trắng là tượng trưng cho thuần khiết, đẹp mắt, cao quý. Tôi chủ quan cho rằng, trong xương cốt anh có “chủ nghĩa người da trắng chí thượng” đang tác oai tác quái, liền trề môi châm chọc:
- Trắng có gì là hay? Trắng nhợt nhạt là mầu của cái chết, hoa trắng là biểu hiện của tang lễ; màu trắng ở giới thực vật cũng luôn gắn liền với sự đột biến gien. Lại nói người da trắng các anh, rất có thể là sự đột biến gien của loài người. Nói như tiếng Anh mà người Mỹ các anh nói, thực ra cũng là sản phẩm tạp giao giữa tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Đan Mạch. Cho nên... Tôi thấy anh nghiêng đầu, lắng nghe vẻ rất chăm chú, nửa cười nửa không, thì dương dương tự đắc nói tiếp: - Màu đen xem ra tốt hơn màu trắng, chí ít cũng khá điềm đạm, bao dung, thắm thiết. Nhưng màu vàng mới thực sự là màu của lý tưởng chân chính. Chúa đã dùng đất nặn nên con người, màu của đất phần lớn là màu vàng... anh nghĩ xem, có người nào thấy đất màu trắng chưa? ánh mặt trời cũng màu vàng, vàng cũng là màu vàng...
- Xin lỗi –– Dabruce vội xua tay, phản pháo: - Đừng quên, ngoài vàng còn có bạch kim, ánh mặt trời cũng chẳng phải lúc nào cũng là màu vàng cả. Còn nữa, cái quan trọng hơn, đất trong lò nung tới một nhiệt độ vừa phải mới có thể biến thành đồ sứ trắng được. Còn em nói người da trắng là đột biến gien, tiếng Anh là tạp chủng, anh cũng đồng ý. Nhưng em đã nghĩ đến chưa? Người Trung Quốc các em, người Hán các em, tiếng Hán của các em lẽ nào không phải là tạp chủng?
Tôi ngẫm nghĩ cũng đúng –– “không có Tiên Tần, thì sao có Hán”. Chốc lát không đáp nổi lời, tự nhiên nhìn về phía anh, mỉm cười nói:
- Anh cũng nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc cơ à. Rồi lại nói tiếp: - Nhưng anh cũng đừng quên, tục ngữ Trung Quốc có câu, “một cái trắng che đậy trăm điều xấu”. Người da trắng các anh có rất nhiều điểm xấu đây, thực ra đều được các anh dùng cái màu trắng bề ngoài để che đậy.
Anh cũng cười cười gật đầu.
Có thể nói thế này, tuy chúng tôi có những cuộc tranh luận, quan hệ cơ bản vẫn là hoà hợp, nhưng điều đáng tiếc có một việc, dù thế nào vẫn luôn là bóng đen ám ảnh trong lòng tôi, và cũng ảnh hưởng đến quan hệ hài hoà vốn có của chúng tôi.
Sự việc bắt đầu từ lúc anh thường xuyên cùng một anh đồng nghiệp ở phòng mạch thường xuyên đến đường Holywood để xem khiêu vũ thoát y, sau này lại thường xuyên hẹn hò đi Las Vegas, với danh nghĩa là đi Casino, tìm hiểu thực tế nhưng thực sự là đi mấy ổ chứa hợp pháp ở đó. Sau đó, có quãng thời gian anh dường như càng chìm đắm vào những việc như thế, ngày càng mê đắm, khi trở về nhà bắt gặp ánh mắt tôi, anh cũng có vẻ là lạ.
Khi tôi quét dọn phòng hoặc kê lại giường nệm, ba lần năm lượt thấy anh giấu dưới gối, hoặc quên tờ “Play Boy” cũng như một số tạp chí và hoạ báo khác của anh để quên trên bể nước xả toilet. Lật giở những trang này tôi thấy đấy là loại báo ___ cấp thấp, dần dần trở thành một nội dung không thể thiếu được trong cuộc sống của anh.
Anh cũng thường xuyên đến cửa hàng băng đĩa gần đó thuê những loại băng đĩa ___ đem về nhà xem. Lúc đầu, đại để còn chiếu cố đến sự khác biệt về văn hoá, hoặc bởi tôn trọng tôi, anh luôn trốn tôi xem một mình. Khi tôi trở về nhà, anh tắt phụt ti vi, lôi băng ra cất vào tủ quần áo hoặc ngăn bàn riêng. Sau đó, dần dần, cũng chẳng còn phải cẩn thận như thế nữa. Cho nên, bởi sự hiếu kỳ, tôi cũng đã từng nhìn những cảnh tượng giới tính đủ màu trần truồng...
Tôi rất sợ hãi, lại vừa kinh ngạc bởi văn hoá phương Tây thẳng thắn và thể hiện đến mức từng ly từng tí, cũng rất kinh ngạc bởi Dabruce như một “Lôi Phong sống” cũng không thể thoát tục nổi ở phương diện này... nhưng tôi cũng chỉ đành giả câm giả điếc, có nhìn mà không thấy, coi nó là cách giải thoát và trút xả những khổ muộn, vô liêu của anh. Nhưng, tôi đặc biệt chú ý kỳ cọ nhà vệ sinh, khi giặt giũ đặc biệt lưu tâm không để lẫn lộn quần áo lót của anh và tôi. Chẳng phải tôi sợ sự ham mê của anh sẽ tạo nên sự “ô nhiễm tinh thần” cho tôi ở một mức độ nào đó, cái chính là sợ thể xác và quần áo anh có thể sẽ lây sang tôi một căn bệnh xã hội huỷ diệt. Tôi ngày càng phát hiện thấy, trong đêm cùng với những tiếng rung rung sột soạt trong chăn là hơi thở phì phò của anh, quần lót anh thay ra sáng hôm sau có một mùi tanh đến lạ kỳ, sờ lên còn thấy một vệt đôm đốm...
Những cuốn băng ___ anh mượn về phần lớn là giống nhau, nhưng có một cuốn khiến tôi đặc biệt có ấn tượng sâu sắc, thậm chí có thể nói là khiến tôi mở rộng tầm mắt. Tóm lại, xưa nay tôi chưa từng nghĩ đến, hoạt động giới tính của loài người hoá ra còn có phương thức đảo điên và thác loạn khiến người ta buồn nôn đến thế...
Đây dường như là cuốn băng mà Dabruce yêu thích nhất, rất lâu mà anh không đem đi trả (hoặc có thể anh đã mua), hơn nữa anh như thể lơ đãng vứt ở những nơi mà tôi rất dễ để ý tới.
Sau này tôi mới hiểu, thực là anh cố tình để lại một kiểu ám thị cho tôi.
–– Nói thẳng ra, anh muốn dùng cuốn băng này để nhắc nhở tôi: tuy nơi kín dưới thân của tôi đã bị cấm cố, nhưng thể xác tôi vẫn còn “đường thông” ngoài chỗ đó.
Trong đêm, anh thường ngắm nhìn tôi với ánh mắt khát khao cháy bỏng. Có đến mấy lần, anh ngập ngừng, gần như muốn thổ lộ dục vọng và nhu cầu sâu kín trong lòng, nhưng đại khái còn chưa biết được phản ứng của tôi sẽ như thế nào, cuối cùng mất đi dũng khí, lời nói đến cửa miệng lại bị nuốt vào.
Tôi cũng cần thừa nhận, trước đó có một lần, khi vuốt ve tôi, anh rất kích động, kéo mạnh cánh tay tôi vượt qua phần bụng lồi cao của anh để sờ sờ nơi kín của anh –– cũng như cơ thể anh, cái nơi đó của anh cũng làm người ta kinh hãi. Phản ứng lần đầu tiên của tôi là như chạm phải đầu con rắn nóng rẫy, tôi kinh hãi rụt tay lại, không còn dám bừa ẩu làm lại...
Ý thức được anh bây giờ đang ấp ủ mưu đồ biến thái đối với thể xác tôi, hình tượng tốt đẹp về anh trong mắt tôi cũng đã vợi đi ít nhiều, thậm chí gợi lên sự chán ghét nào đó đối với thể xác anh. Đương nhiên, tôi cũng kiểm điểm lại mình, phải chăng mình đã phát đi tín hiệu sai lầm nào đó, khiến anh cho rằng tôi là người đàn bà trong lòng thực sự tràn đầy dục vọng... Thế rồi, hằng đêm, tôi đành phải cắt bỏ bớt những vuốt ve khích động lòng người. Tôi không muốn vì những ham muốn và đồng tình nhất thời mà khơi dậy hưng phấn ở anh, thậm chí sẽ có ngày đánh thức thật sự phần thú dục cực đoan trong con người anh (tôi nhớ đến anh đã từng tham gia luân phiên hiếp dâm tôi trong cơn ác mộng).
Nhưng tôi cũng thật sự cảm tạ anh, cuối cùng anh vẫn là một con người đàng hoàng, chưa từng bộc bạch và càng chưa từng bức ép tôi. Tôi biết, nếu như anh thật sự đề xuất yêu cầu đó với tôi, tôi sẽ rất khó xử, nhất định sẽ cự tuyệt. Kết quả nhất định sẽ gây tổn hại rất lớn đối với quan hệ giữa chúng tôi.
Cho nên, nhằm giữ khoảng cách vừa phải với anh, cũng nhằm tránh những điều nghe nhiều quen tai, nhìn nhiều quen mắt rồi sẽ tạo thành sự mất kiềm chế tình thế trong một ngày nào đó, ngày nghỉ tôi lại đi tìm một công việc sáng sủa khác. Như vậy, mỗi tuần tôi làm đủ bảy ngày. Tuy có mệt hơn một chút, nhưng cảm giác nắm được nhiều Mỹ kim trong tay luôn vẫn tốt. Nghĩ đến nỗi khổ sở không có tiền tiêu khi còn ở trong nước, tôi càng thấy mình cần phải nắm bắt thời gian kiếm thật nhiều tiền. Hơn nữa, trong lòng tôi cũng luôn có sự mong mỏi ngấm ngầm chưa bao giờ tiêu tan –– chỉ cần khi tôi có thể góp đủ tiền, trong một tương lai không xa, sẽ có ngày, nhờ kỹ thuật y học tiên tiến của nước Mỹ, cánh cổng thể xác tôi sẽ được mở tung. Chỉ cần không nhụt chí thì mấy chục nghìn đô la chẳng phải là chuyện không thể có. Nó cũng chẳng đáng kể gì, chỉ cần tôi chịu kham chịu khổ, hiện giờ một ngày làm việc cũng gần bằng cả tháng ở trong nước.
Nghĩ đến lúc mình chắt bóp được nhiều tiền như thế để đi bệnh viện, trong lòng tôi có chút thảnh thơi. Trước hết chẳng nói đến chuyện nắm chắc thành công được bao nhiêu phần trăm, cho dù thành công rồi, nhưng nếu như không thể gặp được ý trung nhân thì tất cả thứ đó còn có nghĩa gì? Cho nên, tôi lại nghĩ, việc phẫu thuật, tốt nhất là đợi đến khi tôi tìm được công việc chính thức, có công ty mua bảo hiểm cho rồi hãy hay. Còn số tiền tích cóp được, ngoài việc thường xuyên gửi về cho cô một chút, hãy dành lại còn lo chuyện học hành sau này của mình.
“Cho nên”, trong đêm nằm trên giường tôi nghĩ, “bất kể như thế nào thì cứ góp được nhiều tiền là điều quan trọng nhất”.
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:27 PM.
Nói cho tận cùng, thực ra tôi là một người do dự không quyết đoán.
Tôi đã chủ động quyết định không tiếp nhận sự ám thị của Dabruce, không duy trì việc “gần gũi xác thịt” hữu hạn với anh nữa, nhưng trong lòng vẫn thường xuyên có lúc dao động và phân vân. Tôi biết, từ ngày tiếp nhận sự giúp đỡ của Dabruce, tôi đã mắc nợ anh điều gì đó, hơn nữa càng ngày nợ càng nhiều. Một người nước ngoài, từ xa xôi vạn dặm tới Trung Quốc, giúp đỡ một người con gái Trung Quốc chưa hề quen biết, đó là tinh thần gì? Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa? Tinh thần quốc tế chủ nghĩa? Tinh thần cộng sản chủ nghĩa? Nhưng tôi biết, những điều này dường như chẳng phải là nguyện vọng ban đầu của anh...
Xưa nay tôi chưa muốn mắc nợ một ai. Điều này khiến tôi ăn ngủ không yên
Khi xưa Ngô Nguyên đã cho tôi tiền để phẫu thuật, mặc dù anh nói không cần phải trả, nhưng sau khi làm thuê kiếm được tiền, tôi đã gửi tiền nhờ cô trả giúp. Còn những món nợ khác lo liệu cho việc xuất ngoại của tôi cũng đã thanh toán sòng phẳng trong vòng nửa năm.
Nhưng cái tôi mắc nợ Dabruce lại không phải tiền của, mà là món nợ tình người. Món nợ tình người thì chẳng thể xem là nợ, thực ra nó còn khó trả hơn nợ tiền rất nhiều, bởi vì nó vô giá.
Có lúc tôi nghĩ, chỉ cần tôi thể hiện giống như trong cuốn băng, thoả mãn Dabruce mấy lần, có lẽ có thể tôi chẳng còn nợ anh điều gì. Đây là việc thật sự quá giản đơn, thậm chí có thể coi là việc há miệng giơ tay mà thôi. Nhưng tôi vẫn không quyết tâm nổi. Bởi vì nếu như tôi làm như vậy, chắc chắn chẳng phải vì tình, thậm chí cũng chẳng phải chơi đùa, mà là một việc trao đổi xác thịt bẩn thỉu đê hèn, sẽ khiến cho tôi từ nay về sau không thể còn là mình nữa.
Nếu như, khi xưa Ngô Nguyên cũng yêu cầu tôi dùng phương thức này để thoả mãn anh, tôi có cam tâm tình nguyện không? Cũng không thể. Tôi cho rằng đó sẽ là việc mà anh cố ý lăng nhục tôi.
....
Dabruce chắc chắn cũng hiểu tâm tư của tôi. Dần dần trong vô vọng, những dục vọng luôn luôn giày vò anh cũng dần dần lắng xuống, tinh thần anh cũng dần từ trạng thái băng hoại trở lại bình thường. Một buổi sáng khi tỉnh dậy, anh nói với tôi mà tôi chẳng hiểu ra sao:
- Xin lỗi em.
- Anh có lỗi gì đâu. Tôi nói và nắn nắn bàn tay anh: - Chỉ vì em mắc nợ anh quá nhiều. Nhưng có thứ em có thể cho anh, cũng có thứ thật sự em không thể làm nổi. Xin anh lượng thứ cho.
- Không, anh xin em lượng thứ cho mới phải.
Anh nói, trong ánh mắt ra chiều có lỗi.
Tôi biết, tôi đã làm đúng. Bởi vì tôi đã không đón chờ sự ám thị nào đó của anh nên khiến anh càng thêm tôn trọng tôi.
Ánh mắt của anh, ngữ khí của anh, ngón tay anh, từ bây giờ không lúc nào ngừng nói lên tình yêu tận đáy lòng của anh đối với tôi. Tôi cũng tin rằng, nếu như tôi đồng ý, thì anh sẽ chấp nhận mãi mãi “ở chung” với tôi như vậy. Có lần, anh đi công tác miền Đông một tuần, lúc trở về anh đã nói với tôi:
- Mỗi ngày khi trở về khách sạn, không nghe được tiếng em, không ngửi được mùi em, anh như mất mát...
Từ sau đó, anh chủ động bớt thời gian dạy tôi lái xe, mỗi tối kiên trì đợi tôi về đến nhà thì mới chịu đi ngủ... có một lần tôi về hơi muộn, anh lái chiếc xe cũ nát của mình đến tận khách sạn tìm tôi.
Nhưng trong lòng tôi biết rõ, tôi và Dabruce sẽ không thể ở chung mãi mãi như thế này được.
Đó chẳng phải vì thể xác cồng kềnh, nhiều lông lá và mùi vị quái lạ của anh luôn ám ảnh tôi hoặc sự kỳ thị văn hoá, tập quán sinh hoạt khác nhau, mà cái quan trọng hơn chính là tôi không muốn mình sớm sớm chiều chiều tồn tại bên anh để từng giây từng phút tạo nên sự quyến rũ chết người với anh.
Nơi muốn cho thì cho không nổi, nơi có thể cho lại không muốn cho... đấy chính là toàn bộ những nghịch lý trong cuộc sống của tôi.
Có hôm, anh quan tâm hỏi tôi dự định khi nào phẫu thuật và khuyên tôi nên sớm mua bảo hiểm y tế, nhưng tôi lại nói với anh:
- Em không còn muốn phẫu thuật nữa.
- Vì sao? Kỹ thuật và thiết bị y tế của Mỹ có thể nói là hàng đầu thế giới, vì sao em không thử?
- Phí bảo hiểm đắt quá, em chịu không nổi. Tôi trả lời.
- Đấy không phải là lý do. Chỉ cần em nỗ lực, tiền tiết kiệm nhất định mỗi ngày sẽ nhiều lên.
- Em đã quyết định sống độc thân, cho nên có phẫu thuật hay không cũng chẳng để làm gì.
- Thế... quá vô nhân đạo. Em còn có cơ hội, em cần phải thử.
Dabruce ra sức thúc giục tôi.
Nhưng tôi chỉ biết lắc đầu cười đau khổ.
Anh, một “ông tây”, mãi mãi không thể hiểu nổi tâm tư luôn dậy sóng cồn trong tôi.
Trong những năm trước đây, tôi đã trao tất cả tình yêu của mình cho Ngô Nguyên, nếu như không vì anh, e rằng tôi cũng đã chẳng làm phẫu thuật... ngẫm đến hôm nay, người đã trở thành dĩ vãng thì còn nói đến phẫu thuật hay không? Cứ coi phẫu thuật thành công thì cũng sẽ còn có ai đáng là đức lang quân như ý của tôi đây?
Thạch nữ, cho dù một thạch nữ đã xé đi niêm phong thì vẫn là một thạch nữ, cô ta vẫn phải chịu những lời nguyền nhiều hơn ở chính quê hương của mình, và vĩnh viễn không được tiếp nhận thiện chí...
Cho nên, sau khi lấy được thẻ lưu trú vĩnh viễn –– thường gọi là thẻ xanh, tôi đã lập tức làm thủ tục “ly hôn”, rời bỏ Dabruce. Thực tại, tôi không thể chịu đựng hơn nữa việc cứ mãi mãi sống trong ánh mắt của một người đã biết tôi quá rõ, cho dù anh là một con người rất tốt.
Tuy có chút không vui nhưng Dabruce vẫn giữ lời hứa của mình.
Đêm chia tay, chúng tôi cùng “ăn bữa cơm cuối cùng” tại một nhà hàng Phúc Châu ở phố Trung Quốc.
Khăn trải bàn, khăn ăn toàn một màu phấn hồng, điều đó khiến tôi nghĩ đến tấm thẻ xanh mới nhận cũng màu phấn hồng này, rất ấm áp. Chúng tôi gọi bia, chọn những món hải sản như tôm hùm, hàu, sò và cũng không quên thưởng thức món đặc sản của nhà hàng này –– “Canh cá viên Phúc Châu”.
Bình thường tôi chưa từng uống rượu, nhưng trong bữa tiệc hôm nay lại liên tục nâng cốc, cảm tạ sự giúp đỡ vô tư của Dabruce đã dành cho mình.
- Không phải cám ơn anh, mà phải cám ơn chính quyền Mỹ kia, họ đã cấp thẻ xanh cho em, hơn nữa chưa từng gây rắc rối.
Dabruce chớp chớp mắt vui vẻ nói, rồi anh lại nâng ly bia trong tay.
Tôi hớp một ngụm bia đầy, nói:
- Nhưng người cần cảm ơn nhất nhất vẫn chính là anh, ân nhân mãi mãi của em, là người đã giải cứu em từ nước sôi lửa bỏng ra... Nói rồi, tôi lấy ra một bao giấy hồng từ chiếc xắc nho nhỏ đặt lên bàn trước mặt anh: - Đây là chút lòng thành của em, hy vọng anh sẽ nhận lấy.
- Nhưng em có thể nói với anh đây là món quà gì không?
Dabruce nheo mày nhìn chiếc phong bì.
- Anh cầm về rồi hẵng xem. Tôi nói.
- Không, anh muốn biết ngay.
Anh khăng khăng cầm chiếc bao giấy nhỏ lên bóc ra, rồi sau đó khẽ khẽ dốc xuống, ba chiếc chìa khoá ô tô mới tinh trôi tuột xuống lòng bàn tay anh:
- Cái gì thế này?
Anh ngước mắt ngạc nhiên nhìn tôi hỏi.
- Xe của anh nát quá rồi, em mua cho anh chiếc Ford. Em nghĩ, nếu có khả năng, nhất định em sẽ mua cho anh chiếc BMW hoặc là Mercedes, nhưng tiếc là hơn hai năm nay em mới chỉ có thể dành dụm mua được chiếc Ford này, hy vọng anh thích nó.
Dabruce sững người một thoáng:
- Không được, anh không thể nhận món quà quý giá thế này, anh không thể nhận.
- Em đã nói rồi, đây là chút lòng thành của em. Nếu như anh không nhận, em sẽ rất đau lòng đấy.
- Không được, anh không thể nhận.
Dabruce nói rồi cất chùm chìa khoá vào phong bì, kiên quyết đẩy đến trước mặt tôi.
- Nếu như anh không nhận, được thôi, tấm thẻ xanh này em trả lại anh. Em sẽ trở về Trung Quốc của em.
Tôi cũng nghiêm mặt lại, chàu chạu, lôi tấm thẻ xanh từ trong ví ra, đẩy đến trước mặt Dabruce.
Chúng tôi làm căng nhau một lúc, chẳng ai muốn uống, chẳng ai muốn ăn mà cứ nhìn nhau chằm chặp, chẳng ai nói với ai một lời.
Lúc này bỗng có người đi ngang qua, Dabruce ngoái đầu lại nhìn, một tay vội vã cầm phong bì giấy màu hồng, tay kia nhặt tấm thẻ xanh đưa cho tôi, cười nói:
- Thôi được, chúng ta nhận lấy đi. Nhưng...Bỗng anh có chút buồn rầu nhìn tôi.
- Nhưng cái gì? Tôi hỏi.
- Em không bye – bye anh vĩnh viễn chứ?
- Sao thế được? Mãi mãi em không thể quên anh, cho dù là đi đến đâu, em cũng luôn giữ liên hệ với anh.
Tôi nói rất thành thực.
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:34 PM.
“Xin chớ hỏi tôi từ nơi nào đến
Quê hương tôi ở mãi phương xa
Vì sao lưu lạc
Lưu lạc viễn phương
Lưu lạc...”
Tôi xách đôi giầy thể thao màu trắng đi dạo trên bãi biển. Bầu trời đầy sao, bên tai tiếng sóng biển đập thì thùm, tôi khe khẽ hát bài hát mang tên Cây trám. Ca từ không còn nhớ lắm, nhịp điệu cứ thong thả ngân nga, có chút gì bi ai, thê lương, băn khoăn, day dứt.
Những con sóng dưới chân, nước biển lành lạnh thỉnh thoảng ào tới, lặng lẽ hôn khắp bàn chân rồi lặng lẽ rút đi. Quay lại nhìn, những dấu chân đã bị xoá sạch trơn chẳng để lại một chút dấu vết gì.
Tôi đi đến lúc hơi mệt, bèn ngồi xuống chỗ cát khô cách khá xa mép nước.
Những du khách đi men theo bờ biển đã vãn, lác đác như sao sớm. Cầu cảng Santamonica như cánh tay vươn ra biển sâu, gần đó đèn nến sáng choang, người đi lại tấp nập như mắc cửi.
Tôi nhìn ra đại dương đen kịt, trong lòng chợt có những con sóng ở một cõi thăm thẳm từng đợt nổi lên, tràn qua, xoáy vào lòng...
Sau khi rời bỏ Dabruce, tôi dự định chuẩn bị đi học tiếp, nhưng vì chưa tốt nghiệp đại học nên phải học lại từ đầu, học phí rất cao, cho nên tôi thấy quá khó mà nản lòng. Tôi nghĩ đi nghĩ lại, quyết định cứ đi làm thuê kiếm tiền trước rồi tính sau. Người ta nói sống đến già, học đến già, có tiền thì lại ung dung đi học cũng chẳng muộn.
Trước khi rời bỏ Dabruce tôi cũng đã thi lấy bằng lái xe, và bỏ ra một nghìn hai trăm đô la để mua một chiếc xe Toyota cũ. Có xe của mình cảm giác thật tuyệt vời, dường như mới mọc thêm đôi chân vạn dặm, đi đi lại lại tiện hơn rất nhiều. Vậy là tôi chuyển đến ở phố A nơi tập trung tương đối đông người Hoa ở phía đông Los Angeles, tiếp tục làm phục vụ trong một khách sạn tương đối cao cấp. Tiền bo ở khách sạn này không đến nỗi nào, gần gấp đôi ở khách sạn nhỏ trước đây, khi thuận lợi thu nhập hàng tháng có thể được hai ngàn đô la. Như vậy, trừ tiền thuê phòng và những chi tiêu cần thiết khác, hàng tháng tôi cũng có thể để lại được hơn một nghìn đô la. Tôi đã có kế hoạch, một khi số tiền chắt bóp được lên tới hàng năm con số, tôi sẽ trở về nước thăm cô một chuyến.
Thông tin giữa tôi và cô chưa hề bị gián đoạn, vào những dịp tết nhất, tôi cũng thường xuyên gọi điện về hỏi thăm cô, và thường xuyên gửi tiền về cho cô, dặn dò cô không được quá tiết kiệm, cái cần dùng thì cứ dùng. Điều đáng tiếc là, ở nhà cô không lắp điện thoại, mỗi lần gọi về đều phải nhờ vả nhà người khác, rất bất tiện.
Số tiền tiết kiệm của tôi tăng lên rất nhanh, mới chỉ có tám tháng làm lụng tôi đã có vạn đô la. Tôi đang dự định vào mùa xuân sẽ trở về nước thăm cô. Một hôm, có cô gái làm cùng bỗng thì thầm với tôi, có một công ty đầu tư gọi là “Tập đoàn tài chính Tây Dương” đang tuyển nhân viên, đầu tư một vạn đô la, mỗi tháng sẽ được nhận hoa hồng một ngàn năm trăm đô la. Lại nói ông chủ này trước đây là thiên tài gửi tiền ngoại tệ, đã mở ở San Francisco hơn nửa năm, ổn định kiếm lãi. Lời cô ấy đã khiến tôi động tâm, bèn cùng cô ấy đến đó xem xét, quả nhiên thấy rất lớn, quy mô hoành tráng, chỉ riêng văn phòng cũng đã chiếm gọn cả toà lầu ở khu phố náo nhiệt, chỉ ngại trong công ty có quá nhiều lưu học sinh Trung Quốc, tôi lo ngại lâu ngày sẽ chạm mặt người quen nên không tham gia, nhưng tôi đã giao cả một vạn đô la đầu tư dưới tên cô ta. Không ngờ hơn một tháng sau, một đồng lãi cũng chẳng thấy đâu mà nghe nói công ty vi phạm quy định, bị niêm phong điều tra, ông chủ thì trốn chạy biệt vô âm tín... cho nên những gì dành được của tám tháng cần lao của tôi bỗng chốc bốc hơi, không cánh mà bay.
Đúng lúc này cô tôi gửi thư tới, nói là từ tết đến giờ, sức khoẻ cô không được tốt lắm, thường xuyên đau đầu, rất muốn tôi sớm trở về. Tôi dự định vay Dabruce ba ngàn rưỡi đô la, nhưng khi lái xe đến trước cửa nhà anh bỗng nhiên lại do dự, đành quay lại bãi biển này...
Tôi nhìn đồng hồ, đã sắp chín giờ, thấy hơi lạnh, bèn lên khỏi bãi biển, đến chỗ nước ngọt rửa chân đi giầy.
Kế hoạch trong lòng tôi là thế này: sau khi trở về sẽ gọi điện cho cô, nếu như bệnh tình không quá nặng, đợi đến cuối năm tôi sẽ về.
Tôi thật sự không muốn mình lại mang nợ Dabruce một điều gì nữa.
Tôi rửa chân đi giầy xong, đang lúc muốn đến bậc thang lên đầu bãi, chợt nhìn thấy một người đàn ông phương Đông dong dỏng vừa vượt qua sau tôi, bỗng anh ta dừng lại nhìn tôi phân vân.
Anh ta đứng xoay lưng với cột đèn nên tôi không nhìn rõ mặt, vì thường xuyên có người chăm chú nhìn tôi như vậy, nên tôi cũng không lấy làm điều, nhưng khi tôi đi ngang qua anh ta, bỗng nghe tiếng gọi giật giọng:
- Thạch Ngọc.
Tôi ngoái vội đầu lại, nhận ra người đó là Thường Đạo.
Anh gầy đi rất nhiều, dáng vóc to lớn chỉ còn lại khung xương, hốc mắt trũng sâu, lưỡng quyền nhô cao.
- Ra anh! Sao anh lại ở đây? Tôi rất kinh ngạc.
- Đúng thế. Anh cũng chẳng thể ngờ lại gặp em ở đây. Em, tốt chứ?
Thường Đạo nói, trên gương mặt không giấu nổi nét vui mừng tràn trề.
- ờ... tốt, tốt. Tôi luống cuống trả lời.
Tôi không biết đáng mừng hay đáng lo. Trên bãi biển nơi dị quốc tha hương này, gặp lại một người bạn cùng trường, một người quen là việc khiến người ta vui vẻ và phấn khởi. Hồi tưởng lại chuyện xưa khi còn ở trường Thường Đạo đã từng cho tôi cả giỏ tôm hùm, anh đã để lại ấn tượng rất tốt trong tôi. Nhưng điều khiến tôi thấp thỏm bất an là tôi không biết anh có nghe được những tin đồn kia không...
- Tìm một nơi ngồi đã, được không?
Thường Đạo nói. Trong bóng tối, mắt anh sáng ngời, giống như hai đốm hương đỏ trong khám thờ Phật tối.
- Được. Tôi nói, nhưng lại hỏi: - Ngồi đâu bây giờ?
- Đến bên kia đi, chỗ đó ít người, tương đối yên tĩnh.
Thường Đạo chỉ tay về tận cùng bãi. Nơi đó nhìn ra xa ra, ánh đèn sáng láng.
- Anh đến từ lúc nào thế?
Tôi vừa đi vừa hỏi.
- Cuối năm Tám Chín.
- Du học à?
- Đúng, mà cũng không. Anh đến để tìm một người.
Anh nói, ngữ khí mang chút bí hiểm.
Trong lòng tôi chợt khẽ rùng mình, không đừng được cười nói:
- Người yêu, đúng không?
- Đúng, mà cũng không đúng.
Thường Đạo nhìn tôi cười.
- Anh rất thích đọc Quan Tử mà.
Tôi cũng cười.
- Nhưng anh nói thực mà.
Thường Đạo vội cải chính.
- Anh học ở trường nào?
Tôi lại hỏi.
- Tốt nghiệp lâu rồi.
- Thế thì công việc tốt rồi?
- Sống dở chết dở ở một tờ báo Trung văn.
- Nói thế, anh là một nhà báo?
- Chỉ mưu sinh mà thôi. Đương nhiên, họ đồng ý giúp làm thẻ xanh.
....
Trong lúc nói chuyện, chúng tôi đã đi đến tận cùng bến cảng. Đón gió biển thốc lên mặt, vịn vào lan can sắt nhìn ra xa, chỉ thấy những con sóng đen dưới chân ào tới, những đợt sóng ào ào trong đêm.
Lại đi quanh một vòng, phát hiện ra có mấy người Mexico đang câu cá. Những chiếc giỏ đằng sau tấm thân khom khom của họ đều rỗng không.
- Anh có thường tới đây câu cá không?
Tôi quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Thường Đạo đang chăm chú nhìn mình
.
- ờ, không, anh đã bỏ ác theo thiện rồi, không sát sinh. Nhưng anh thích tới đây ngắm biển, nghe biển, nghe biển... Có lúc anh nghĩ, vùng nước này gọi là biển Thái Bình Dương thực ra thông với vùng biển ở quê anh, nước ở hai nơi đã quyện vào nhau từ lâu, không còn nhận ra đâu là ở đây, đâu là ở bên kia. Chỉ có điều nước biển ở quê anh xanh hơn nhiều, sạch hơn nhiều và linh thiêng hơn... em kể về mình đi, mấy năm vừa rồi sống thế nào?
- ờ. Tôi cảm thấy mình bị chiếu tướng, cũng không biết Thường Đạo hiểu về việc của mình như thế nào, bèn ậm ừ nói: - Cũng như thế, tạm bợ qua ngày mà.
Thường Đạo bỗng trầm lặng một lát rồi chợt lên tiếng:
- Hình như em béo hơn đấy. Thấy còn chưa thoả đáng, anh lại bổ sung: - ý của anh là em có hơi béo hơn trước.
Tôi bất giác mỉm cười, hiểu được ý tốt của anh ta, bèn nói theo:
- Anh cũng gầy đi nhiều.
- Nhưng lạc đà gầy còn hơn ngựa béo.
Thường Đạo cười, giơ tay bưng mặt và đầu.
Câu chuyện của chúng tôi bỗng đến đây chợt dừng.
Nói đến cùng, tôi không muốn người quen chen vào cuộc sống của mình, đồng thời có thể cảm giác rõ được hiện trạng của tôi, vì vậy tôi luôn luôn nhắc nhở mình không nên nói chuyện quá nhiều với Thường Đạo, biểu hiện quá thân mật, ngày ở trường cũng chỉ gặp nhau mấy lần. Bởi vậy tôi đưa ánh mắt nhìn ra biển cả đen ngòm, nhìn vào hư không tĩnh lặng dưới chòm sao lấp lánh.
Nhưng tiếng Thường Đạo nặng trình trịch dường như không phải ở bên tai, mà là từ biển rộng bao la, từ ngút tận bờ bên kia vẳng lại:
- Thạch Ngọc, anh vạn dặm xa xôi đến nước Mỹ, em có biết là tìm ai không?
- Tìm ai? Làm sao em biết được. Tôi sững người, cười đùa: - Chắc là tìm em.
Thường Đạo chợt biến sắc mặt, hai mắt trân trân nhìn tôi, bỗng nhiên nói:
- Đúng, chính là tìm em. Anh trút hơi thở dài, chợt dừng lại ngoảnh mặt đi nơi khác rồi mới nói tiếp: - Anh chỉ biết em ở Los Angeles. Hơn hai năm nay, cứ rỗi là anh lại đi tìm em khắp nơi, tìm hỏi tin tức về em, anh đã đi gần khắp các trường đại học. Anh cho rằng mình không thể tìm được em, nào ngờ hôm nay lại được gặp em trên bãi biển này...
- Em không đi học, từ trước đến giờ vẫn đi làm thuê. Nhưng, vì sao anh lại tìm em?
Tôi nói, bán tín bán nghi nhìn Thường Đạo, cảm thấy rất lạ trong lòng “Mình chẳng nợ tiền anh ta và cũng chẳng có ước hẹn gì, vậy anh ta tìm mình làm gì? Lẽ nào Ngô Nguyên nhờ cậy?”
- Vì sao? Anh cũng đã từng hỏi mình như vậy. Vì sao? Vì sao? Tối qua anh vẫn còn hỏi như vậy. Anh chỉ biết từ sau buổi tối anh ở nơi thực tập trở về thì mới biết rằng em đã rời trường, đã chia tay với Ngô Nguyên. Anh hồn phiêu phách lạc... dường như một phần cuộc sống không tồn tại. Anh đã không để ý tới tất cả ––
Tim tôi thót lên, chợt hiểu mình đã gặp một gã “si tình”...
- Vì sao anh lại phải thế chứ?
Tôi nói giọng lạnh lùng cắt ngang lời Thường Đạo.
- Em hãy nghe anh nói, chẳng phải anh bốc đồng nhất thời. Thật mà, anh tin rằng, trong cõi thẳm sâu chúng ta đã có sự ràng buộc nào đó. Cho nên, anh hy vọng có thể cùng em, làm một người bạn trung thành với em nhất, cùng em đi qua quãng đời dằng dặc...
- Anh đang nói đùa đấy chứ? Không có người nào có thể làm bạn cùng em, đường em chỉ mình em đi. Chắc anh cũng đã nghe nói rồi, em là một người phụ nữ không hoàn chỉnh...
- Không, đừng nói thế. Anh ta nói rồi vung mạnh tay, chặn không cho tôi nói tiếp: - Anh đã biết hết rồi, chính vì vậy anh mới tìm em. Thật vậy, Thạch Ngọc, em đừng chán nản như vậy. Trong lòng anh, em mãi mãi duy nhất. Trên thế gian này nhất định còn có một tấm chân tình độc nhất vô nhị làm bạn với em.
Tôi cười lạnh lùng:
- Được rồi, Thường Đạo, đừng nói nữa. Trên thế gian này em sợ nhất hai chữ chân tình, nó khiến em không chịu nổi. Xin lỗi, em hơi lạnh, anh cũng đừng nói những lời ngốc ngếch nữa, đừng nghĩ ngợi lung tung. Mau về đi. Thật mà, em không đáng để anh phải mất công mất sức đi tìm như thế đâu.
Nói rồi tôi đứng dậy, chuẩn bị bước đi.
Thường Đạo thấy vậy cũng đứng lên, luống cuống nói:
-... Có thể em đã hiểu nhầm, Thạch Ngọc, anh chỉ muốn làm một người bạn đáng tin cậy của em, người bạn tri tâm, người bạn trung thực...
- Vậy em cám ơn anh, em sẽ ghi nhớ. Chỉ có điều em cũng muốn nói với anh, mấy năm nay, em đã rất bình tĩnh, em không muốn khơi lại vết thương của mình, cũng không muốn nghĩ đến chuyện cũ. Thạch Ngọc trước kia, Thạch Ngọc quen biết anh nay đã không còn nữa rồi, mất rồi, chết rồi. Hiện nay tên tiếng Anh của em là Fanny. Rất nhiều người gọi nhầm là Funny, cũng tốt. Em cũng muốn mình vui lên một chút, cười lên một chút, chỉ e đó là sự hài hước chua cay...
Thường Đạo không nói, ánh mắt khó hiểu nhìn tôi.
- Được rồi, tạm biệt, rất vui mừng vì đã gặp anh ở đây.
Tôi nói một câu rất khách khí, chìa cánh tay phải về phía Thường Đạo.
Thường Đạo chần chừ nắm lấy, đấy là một cánh tay cứng cáp khoẻ mạnh. Sau đó, Thường Đạo nói:
- Anh tiễn em nhé.
Thường Đạo lặng lẽ cùng tôi ra đến bãi đỗ xe bên đường.
- Em có thể cho anh số điện thoại không?
Thấy tôi sắp lên xe, Thường Đạo hỏi.
- Đương nhiên.
Tôi đáp liền, trong lòng vẫn còn chút do dự, nhưng thấy ánh mắt mong đợi của anh thì mềm lòng. Thường Đạo vội đặt cuốn sổ vào lòng bàn tay, đồng thời ghi số điện thoại của mình trên tấm danh thiếp của người khác rồi đưa cho tôi
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:38 PM.
Chiếc Boeing 747 lại một lần nữa ném tôi lên độ cao mười nghìn mét.
Tôi dán khuôn mặt của mình lên ô cửa sổ máy bay.
Biển xanh đã không còn nhìn thấy, đất liền lốm đốm rồi mất hút. Cuối tận tầm mắt vẫn chỉ là mây trắng như bông nối liền vô tận. Thế giới trở thành một ruộng bông mênh mông, tôi là người trông ruộng bông tạm thời đó.
Tôi chợt có một nguyện vọng, một nguyện vọng như mộng du –– muốn bước ra khỏi khoang máy bay, ở ruộng bông này, lang thang trong biển mây này...
Cuộc sống không quá rõ ràng.
Đó hoặc là mộng cảnh, mộng cảnh của con người trên cõi trời. Nhưng đầu kia của mộng cảnh là một con người cưỡi trên chiếc môtô cũ rách đến sân bay tiễn tôi. Đôi mắt của anh, ánh mắt của anh dường như ẩn náu trong “ruộng bông” bát ngát này và luôn luôn theo sát tôi.
Đó là Thường Đạo.
Bây giờ tôi nghi ngờ mình có phải cần thiết cho anh số điện thoại không.
Tóm lại, ngay hôm sau, anh đã mất hơn nửa tiếng đồng hồ lái xe đến thăm tôi, đợi tôi trước bãi đỗ xe của khách sạn. Tôi cũng không muốn nói gì, cũng không muốn làm anh mất hứng, làm anh phật ý nên đành cùng anh lặng lẽ ngồi trong một quán cà phê đêm một lát.
Dường như Thường Đạo có chút gì căng thẳng và bất an, vừa ngồi xuống anh đã nói:
- Anh đến để xin em lượng thứ. Đêm qua anh đã không ngủ, anh sợ những lời trên bãi biển tối qua gây phản cảm và khiến em không vui. Đó chẳng phải là ý của anh. Lúc ấy có thể anh có chút mạo muội, có chút xốc nổi, chỉ muốn thổ lộ cho thanh thản...
- Không phải nói thế. Tôi xua tay: - Quý nhân hữu tự trí minh.
Anh nói những chuyện cười cười cợt cợt, nịnh nọt tâng bốc tôi còn có thể, chứ cứ như thế, tôi thật không chịu nổi.
Anh ta lại có chút hốt hoảng, nói chẳng lựa lời:
- Em vẫn còn hiểu sai anh. Thật sự anh chẳng biết phải nói thế nào để em tin anh. Anh luôn nghĩ, em đã trải qua những ác mộng, trong lòng nhất định rất tuyệt vọng, rất cô độc, rất cần một người bạn, một người bạn trên ý nghĩa thật sự, một người có thể tán gẫu, có thể đùa vui, có thể dốc lòng thổ lộ, một người bạn vượt qua ý thức giới tính...
Lúc nói những lời này, thái độ Thường Đạo rất chân thành, giọng nói rất thành khẩn, ánh mắt thành thật.
Tôi chợt rung động trong lòng.
Thực ra, tôi nào không muốn có một người bạn có thể dốc lòng cởi dạ, nói những chuyện vui chuyện buồn? Trong lòng tôi luôn bị dồn nén, bực tức trong cảnh khốn quẫn và cô độc đã quá lâu rồi, có lúc thực sự muốn có một lồng ngực rộng để có thể dựa vào đó mà khóc u u... nhưng, tôi chỉ có Dabruce là bạn, tuy anh đáng tin tưởng, nhưng sự khác biệt về văn hoá, cách trở về ngôn ngữ, khác nhau về bối cảnh sinh tồn khiến cho giữa chúng tôi mãi mãi hình thành một vách chắn vô hình.
Còn mấy chị em cùng làm thuê với nhau, cùng lắm cũng chỉ có thể chọc cười ha hả. Một đối tượng mà tôi có thể thực sự dốc lòng cởi dạ là cô tôi. Nhưng cách xa đại dương, chỉ có thể liên hệ hữu hạn bằng điện thoại, cho dù thương yêu nhưng giữa chúng tôi yêu thương cũng không thể giúp đỡ... Câu sau cùng anh vẫn khiến tôi còn đầy nghi ngờ: “Thật sự sẽ có “tình bạn vượt qua giới tính” giữa nam và nữ sao?”
Trong lòng tôi nghĩ như vậy, không kiềm chế nổi lắc đầu:
- Cám ơn, tấm lòng của anh em đã hiểu. Nhưng em muốn cuộc sống một mình yên tĩnh.
Thường Đạo không lên tiếng, lặng lẽ nhấp một ngụm cà phê.
- Anh có tin gì về Ngô Nguyên không?
Lát sau, tôi hỏi. Thường Đạo có chút ngạc nhiên, hỏi lại:
- Sao, bọn em không liên lạc với nhau à?
Tôi thành thực nói:
- Sau khi em đi chỉ viết cho anh ấy một bức thư.
- ừ. Thường Đạo thở dài, lại nói: - Bọn anh cũng không liên lạc với nhau. Nhưng nghe nói tốt nghiệp xong là anh ấy cưới vợ ngay.
- Lấy ai? Tôi vội hỏi.
- Một cô rất xấu. Nghe nói bố vợ là cán bộ quân đội cao cấp.
Tôi lập tức hiểu ra, không ghìm được buột miệng nói:
- Đó là “Quả quýt”.
Tôi bỗng rã rời. Tôi biết rõ sẽ có một ngày như thế, thậm chí trong mơ, tôi đã nhiều lần chúc phúc cho anh, nhưng không thể ngờ lại nhanh thế, vừa tốt nghiệp đã... tim tôi như bỗng chịu một bất ngờ, bờ môi giật giật. Tôi vội cúi thấp đầu, cầm chiếc thìa sắt khuấy khuấy loạn trong ly cà phê.
.........
Chúng tôi lại nói đến những người bạn và chuyện cũ trước đây, cũng tâm sự tình hình gần đây của chính bản thân mình, nhưng trong đầu tôi luôn chỉ xoay quanh hình bóng Ngô Nguyên. Tôi cũng luôn nhắc nhở mình – Ngô Nguyên, một con người đã từng nói với tôi biết bao lời tình yêu chân thành vậy, con người tôi đã từng hy vọng gửi gắm cuộc đời, con người mà tôi chưa bao giờ quên trong những lúc tư tưởng hỗn loạn, cuối cùng đã là chồng người khác...
Thực ra ngẫm cho kỹ, đấy chính bởi tôi đã “làm vợ” Dabruce trước.
Cuộc sống thật như giấc mộng, cõi đời luôn vô thường.
Nhưng số mệnh vì sao lại đưa Thường Đạo đến trước mặt tôi? Nếu thật như lời anh nói, tôi và anh đã có mối liên hệ nào đó ư? Nhưng đó là mối liên hệ như thế nào? Lẽ nào chỉ bởi vì anh đã từng là “bạn đồng hương đồng khói” với Ngô Nguyên.
A, Ngô Nguyên, Ngô Nguyên, Ngô Nguyên của tôi, Ngô Nguyên đã chung chăn chung gối với người khác...
Tôi bỗng nhớ nhà, rất nhớ, rất nhớ, dường như tôi nghe tiếng gọi của cô tôi...
Tôi nói với Thường Đạo:
- Cô em không khoẻ, em sẽ về nước một chuyến, mấy ngày nữa sẽ bay.
- Chẳng phải em nói mình đầu tư bị thua lỗ, lấy đâu ra tiền. Anh quan tâm hỏi tôi, rồi lại nói: - Anh tiết kiệm được hai ngàn rưỡi, nếu em cần, mai anh sẽ rút đưa cho.
- Cảm ơn, không cần. Buổi trưa nay em đã gọi điện cho Dabruce rồi, anh ấy đã đồng ý cho em vay, bảo em chiều mai qua phòng mạch lấy.
Thường Đạo đi rồi.
Nhưng Dabruce lại từ mảng thảm bông trước mặt lao tới, anh mặc chiếc áo trắng, tay cầm tờ ngân phiếu một vạn tám ngàn đô la.
– Tôi chẳng thể ngờ nổi Dabruce đã bán chiếc xe Ford mà tôi mua cho anh và đem số tiền đó gửi vào ngân hàng, dành dụm cho tôi đi học hoặc dành để chi tiêu cho việc phẫu thuật sau này của tôi. Bây giờ nghe nói tôi cần tiền, anh rút hết ra, ép tôi phải nhận...
Trong lòng tôi lúc đó thấy nao nao, một niềm cảm khái dâng tràn...
Máy bay bay vào vùng không khí loãng, lắc la lắc lư rất mạnh, cô tiếp viên hàng không vội vã nhắc mọi người thắt dây an toàn. Lúc ấy tôi mới chịu thu tầm mắt.
Mắt hơi mỏi, tôi ấn tay vào nút dưới tay vịn, kéo ghế ngả thấp ra, định nhắm mắt một lát.
Nhưng chưa nằm được vài phút, tôi bỗng nhớ đến Thường Đạo lúc giúp tôi đẩy hành lý, đến cửa kiểm tra an toàn, anh đã dúi vào chiếc bóp da đeo trên người tôi một phong bì màu trắng và dặn khi nào lên máy bay hãy mở ra. Sau khi lên máy bay, trong lúc vội vã tôi đã cho vào chiếc bóp trên gác hành lí phía trên đầu mà quên không lấy phong thư đó ra. Tôi lại phải đứng lên, nhẫn nại đợi máy bay không còn lắc lư, tìm cách moi phong thư ra.
Sau khi mở phong thư tôi mới biết trong mấy tờ giấy viết thư màu xanh lam kia còn kẹp một tập đô la, đếm cả thảy được hai mươi tờ. Sau khi cất số tiền đó vào túi quần, tôi lặng lẽ đọc những dòng chữ viết trên trang giấy. Đó là một lá thư Thường Đạo đã viết cho tôi.
Thạch Ngọc:
Em yêu. Anh vẫn muốn gọi em bằng cái tên Trung Quốc đó, bởi vì những chữ này khiến anh liên tưởng tới từ “băng thanh ngọc khiết”. Khi lần đầu tiên nhìn thấy em ở sân trường, hình ảnh em đã để lại cho anh chính là như vậy.
Anh phải nói với em rằng, sau đó một khoảng thời gian rất dài, ánh mắt anh luôn luôn dõi tìm em trong trường. Bởi vì em rất giống một người, người đó chính là em gái Hải Lam của anh. Nét mặt hình trái xoan, đôi mắt đen sâu, nụ cười, cử chỉ, thậm chí là giọng nói của em đều mang bóng dáng của Hải Lam. Hơn nữa, anh còn chú ý, giữa mày của các em cùng có nốt ruồi nho nhỏ...
Em gái anh từ nhỏ đã rất thông minh nhanh nhẹn, xinh xắn hoạt bát, ai thấy cũng yêu, người trong thôn đều thích gọi nó là “Tiểu tiên cô”, hoặc là “Tiểu tiên nữ”. Nó nhỏ hơn anh hai tuổi, nhưng đi học sớm, rồi sau lại học vượt cấp, nên bắt đầu từ năm lớp sáu, nó đã trở thành bạn cùng lớp anh.
Trong tất cả các màu sắc, Hải Lam đặc biệt yêu màu xanh. Bởi nguyên nhân này, ngay từ năm lớp sáu, nó đã chính thức đổi tên của mình thành Hải Lam. Nó rất thích biển, bất kể là biển gầm gào tung bọt, hay biển yên lặng hiền hoà, Hải Lam luôn xem mình là đứa con của biển, màu xanh của biển cũng đã tạo cho nó cái đẹp của mộng ảnh, là màu bảo vệ cuộc sống của nó. Có một chiều hè, khi bọn anh cùng đi dạo bên bờ biển, Hải Lam đã nói:
- Anh, em muốn mình có đôi mắt màu xanh biếc như người nước ngoài ấy. Như vậy em mới xứng đáng với cái tên Hải Lam của mình.
Hải Lam rất yêu biển, nhưng cũng đặc biệt sợ biển. Nhà anh ở giữa hòn đảo nhỏ trên biển, mở cửa ra là nhìn thấy biển, trong đêm nghe tiếng ầm ào và gầm thét của biển. Có lúc, nửa đêm Hải Lam choàng tỉnh lo lắng không đầu không đũa phải chăng biển đang gầm gào... khi vào cấp hai, bọn anh thường phải chèo thuyền mất khoảng một tiếng rưỡi đến hai tiếng để sang một hòn đảo lớn hơn theo học, chỉ khi được nghỉ học mới trở về nhà, đây là quãng đường mà Hải Lam rất sợ hãi. Vì say sóng, mỗi lần như vậy Hải Lam nôn mật xanh mật vàng, khi xuống thuyền đi còn chẳng vững, đồ đạc đều do anh xách hộ. Tuy mới học lớp sáu nhưng anh đã cao một mét bảy, lại ưa thích thể thao, lúc rỗi rãi thường xuyên chơi bóng rổ, bơi lội, chạy rồi nhảy cao, nên người rất rắn chắc, hai túi đồ có đáng kể gì.
Vào năm lớp bảy, thuyền đánh cá của cha anh gặp bão biển, từ đó chẳng thấy ông trở về. Hàng ngày mẹ anh ra bờ biển thắp hương, khóc, cầu xin Bồ tát phù hộ, khóc mãi đến mù cả hai mắt. Cho nên, tất cả mọi việc trong nhà lại dồn lên đôi vai của người anh cả đã bỏ phải bỏ học từ rất sớm. Bọn anh cũng đã dự định nghỉ học, nhưng trong xóm, trong trường đều biết thành tích học tập của hai anh em đặc biệt xuất sắc nên bàn bạc tìm cách giúp đỡ gia đình và anh em bọn anh các khoản viện trợ kinh tế, anh và nó mới có thể tiếp tục được đi học.
Quan hệ giữa anh em anh cũng rất tốt, khi còn rất nhỏ, anh đã thường xuyên dẫn Hải Lam chạy trên bờ biển, bắt còng hoặc câu cá, thường xuyên cùng nhau lên núi kiếm củi, bắn chim. Ở trường, quần áo anh rách đều do Hải Lam vá; nhiệm vụ giặt giũ về cơ bản trút cho Hải Lam, anh phụ trách việc kín những gầu nước lớn từ dưới giếng sâu lên, giúp Hải Lam giũ sạch quần áo...
Tuy Hải Lam rất yêu biển, nhưng thiên tính lại rất sợ nước, mãi đến khi vào năm lớp tám mà nó vẫn chưa biết bơi. Sau đó, nhà trường tổ chức tập quân sự, yêu cầu các học sinh không phân biệt nam nữ đều phải học bơi, Hải Lam rất lo lắng, tìm anh nói:
- Anh, em phải làm thế nào bây giờ, sợ chết đi được.
Anh an ủi nó:
- Đừng lo lắng thế, anh sẽ dạy em, sẽ lo cho em biết bơi thì thôi.
Nhưng, cho dù là ở bãi nông, Hải Lam cũng chỉ cần nhìn thấy lớp sóng biển ngợp đầu người cứ dềnh lên dập xuống cũng đã hoa cả mắt mày. Anh phải mất mấy ngày mới làm cho Hải Lam đủ can đảm đi vào vùng nước ngập tới ngực. Tiếp đó, Hải Lam dần dần có được dũng khí, nhắm tịt mắt mà đập chân đập tay loạn xạ ngụp lên lặn xuống trong nước.
Anh rất vui mừng, Hải Lam cũng rất phấn khởi, cho rằng việc biết bơi chỉ là ngày một ngày hai. Có hôm, sau khi trời nổi mưa to gió lớn mấy ngày liền, cuối cùng bọn anh lại có thể xuống nước. Anh vừa thấy biển thì quá đỗi vui mừng, chạy ào xuống nước, đầu tiên là bơi tự do, tiếp đó là bơi ếch, rồi bơi ngửa, ngâm mình khoan khoái trong các đợt sóng. Bỗng anh nghe thấy tiếng loa the thé từ bờ vọng tới, rồi nhìn thấy toán người mang phao cứu sinh lao xuống biển. Anh dự cảm một điều không may đã có thể đã xảy, bèn vội vã bơi trở lại bờ. Đợi khi anh bơi đến chỗ nước nông, mới biết được vừa rồi có một nữ sinh mới học bơi đã không cẩn thận rơi vào vùng nước sâu, nhưng cô ấy vẫn cho là chỗ nước nông, muốn đứng lên nghỉ, kết quả là bị uống nước, rồi chìm xuống, bây giờ vẫn chưa tìm thấy xác đâu.
Trong lòng anh bỗng hốt hoảng, nhìn quanh quẩn tìm bóng dáng Hải Lam nhưng chẳng thấy đâu.
Đến khi anh nhìn thấy Hải Lam, nó đã bị một đám đông người vây quanh, sắc mặt Hải Lam không còn một giọt máu, nó nằm ngửa trên bãi cát bên bờ biển...
Hải Lam không còn tỉnh lại nữa.
Đấy quả tin sét đánh ngang tai, cũng là một cơn ác mộng. Cho mãi đến hôm nay, anh vẫn chưa tin rằng đấy là sự thật. Anh ân hận cực điểm, bình thường anh luôn ở bên Hải Lam, bảo vệ cho nó, thế mà hôm đó ma xui quỷ khiến thế nào lại bơi quá xa như thế. Nếu như anh luôn ở bên để che chở cho Hải Lam thì sẽ không bao giờ xảy ra...
Cho nên, rất nhiều năm nay, anh luôn sống trong sự dằn vặt đau khổ. Hải Lam luôn xuất hiện trong những giấc mộng của anh, bóng dáng thấp thoáng, bờ môi mấp máy, ánh mắt oan khuất nhìn anh, dường như trách cứ anh đã không làm hết trách nhiệm chở che cho nó. Tấm ảnh chụp Hải Lam ngồi trầm tư trên tảng đá xám xoay lưng ra bờ biển, thần thái điềm nhiên mà tĩnh lặng, phía sau là biển cả xanh ngắt và êm đềm. Anh đã luôn giữ tấm ảnh đã ố vàng này. Mỗi lần trở về nhà, anh đều ra bãi biển sau trường học của mình ngồi thật lâu. Ở nơi đó, dù nắng hay mưa, dù đêm hay ngày, dù gió thổi mưa bay anh đều nhìn thấy bóng dáng của Hải Lam ẩn hiện trên không trung đang nhìn anh, cũng dường như nghe được cả tiếng Hải Lam đang chấp chới gào khóc gọi anh:
- Anh, anh...
Vậy là anh lại nghĩ, Hải Lam vẫn chưa chết, nó chỉ mới trở về nhà thôi, Hải Lam mặc chiếc áo khoác màu xanh lam mà nó rất thích, quay trở về chốn màu xanh lam mà lòng nó luôn hướng tới.
Biển nơi anh đã từng để lại rất nhiều truyền thuyết đẹp. Nghe nói “Bát tiên” năm xưa khi vượt biển cũng bắt đầu từ nơi này, trên biển thường thường xuất hiện ảo ảnh, cho nên văn nhân từ xưa đến nay đều gọi là “Tiên sơn quỳnh các”.
Vì vậy, có lúc anh muốn tin rằng, Hải Lam vẫn chưa hề chết. Thông minh xinh đẹp như Hải Lam nhất định sẽ không thể chết. Hoặc giả thật sự Hải Lam đã thành tiên, trở thành “Tiểu tiên cô” trong truyền thuyết, sống trong hải thị thần lâu mà thỉnh thoảng anh vẫn nhìn thấy đó...
Bởi vậy, Thạch Ngọc, em cần hiểu rõ, ngay từ hôm anh mới nhìn thấy em, là anh đã ngầm cảm thấy anh và em có mối liên hệ nào đó. Anh cũng từng nghĩ, nếu như có thể, anh nhất định sẽ che chở cho em như đã từng che chở cho em gái anh, để bù đắp những thiếu sót của mình trước đây. Chính bởi nguyên nhân này, anh mới có hứng thú để phỏng vấn Ngô Nguyên, bởi vì có thể rút ngắn được khoảng cách, để thoải mái hiểu anh ta rốt cục là con người thế nào. Nói thực, anh ấy để lại cho anh ấn tượng rất tốt. Chỉ có điều anh không cho rằng tấm lòng nhiệt tình công danh của anh ấy là đúng. Có lẽ tự anh quá thanh cao, xem mặt trái của nhân gian cũng có nhiều... nhưng, nghe nói sau khi vượt qua biển cả mênh mông, anh bỗng nhiên nghĩ đến, mình thực sự có thể làm một việc tích cực và có ý nghĩa. – Đó chính là làm một người bạn vô tư trung thực trong chặng đường đời của em, một người che chở cần cù tận tuỵ, cẩn thận kỹ càng. Hải Lam đã chết trong nước biển xanh ngắt, nhưng anh quyết tâm kéo em lên từ trong cơn sóng kinh hãi của nhân thế... cho nên, những năm qua, anh mới khổ sở tìm kiếm em trong biển người mênh mông... xin em lượng thứ.
Tái bút: Hai ngàn đô la này xin chuyển đến cô em, và chúc cô tuổi già an khang, hạnh phúc, trường thọ.
Tôi đã đọc đi đọc lại lá thư này mấy lượt trên chặng đường dài mười bốn tiếng đồng hồ.
Tôi không thể không thừa nhận, đáy lòng tôi đã xúc động sâu sắc.
- Cám ơn anh, Thường Đạo. Khó có được tấm chân tình hiếm thấy trên thế gian này của anh.
Ruộng bông bên ngoài cửa sổ máy bay đã biến mất, biển cả trải ngút tầm mắt. Tôi cảm giác nơi đó chính là biển ở quê của Thường Đạo – ít nhất nước biển này cũng tương thông với biển ở quê anh.
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:42 PM.
Sau gần bốn năm ly biệt, tôi lại quay trở về mảnh đất quê hương, lại đặt chân lên mảnh vườn xưa.
Khi chiếc xe ba bánh chở tôi và hai chiếc va ly lăn tới đầu ngõ nhà mình, tôi đã cảm thấy tim mình đập rung lên “thình thịch thình thịch”. Cô như cũng đã linh cảm được, đứng ôm con mèo chờ ngay cổng nhà, thấy tôi cô lật đật chạy tới đón.
- Cô - Tôi hét lên, dòng nước mắt nóng hổi ứa tràn, không đợi chiếc xe dừng hẳn tôi đã nhảy xuống, chạy tới ôm choàng lấy cô.
Cô cũng khóc, nước mắt nhạt nhoà khuôn mặt, nhỏ ướt đầm vai tôi. Tôi biết, đây là những giọt nước mặt hạnh phúc và vui sướng. Bởi vì đứa con khổ đau cùng nương dựa, bầu bạn sớm chiều với cô từ chân trời góc bể, từ nửa bên kia địa cầu đã trở về trong vòng tay cô.
Cô phấn khởi và xúc động khó tả bằng lời. Ngay từ hôm đầu tiên tôi trở về nhà, cô đã moi rỗng tâm tư, rồi làm các món đặc sản quê hương cho tôi ăn. Tuy cô chủ yếu ăn chay nhưng vẫn làm thêm nhiều món mặn, như nấm chân kim xào thịt, đầu sư tử sốt, cá chép chua ngọt dành riêng cho tôi. Sau đó cô lại bận rộn gói bánh chưng, làm bánh ngọt tết, nặn bánh trôi... khi ngồi nhìn tôi nhóp nhép thưởng thức, cô tươi cười, sốt sắng hỏi:
- Ngon không? Thấy tôi gật đầu lia lịa, cô giục: - Ăn nữa đi. Muốn ăn gì thì bảo để cô mua cho, cô làm cho.
Tôi nói:
- Ở Los Angeles nhiều nhà hàng Trung Quốc lắm, cái gì cũng có.
Cô vội vã chặn lời tôi:
- Nó chẳng được như thế này, phong vị quê hương mới đậm đà...
- Nhưng cứ ăn thế này, chẳng đầy một tuần con sẽ béo tròn ra mà xem. Bây giờ người ta cho là gầy mới đẹp, đặc biệt là con gái, càng phải mảnh khảnh.
Cô phẩy tay nói:
- Mặc kệ họ. Người Trung Quốc mình chẳng béo đâu. Hơn nữa, theo cô, con gái phải béo một chút mới đẹp, đẫy đà...
- Nhưng cô cứ bận túi bụi, quá vất vả. Hơn nữa sức khoẻ cô cũng không được tốt.
- Không sao. Cô chẳng đã nói với con rồi à, con về lần này bệnh của cô đã bớt nếu không nói mười thì cũng tới chín phần. Thật đấy, bây giờ đầu cũng không đau nữa, tinh thần cũng tốt hơn nhiều. Xem ra, người già cứ phải động chân động tay mới được.
Tôi cũng chẳng tranh cãi nữa. Đặc biệt là thấy tinh thần của cô, sắc mặt của cô rất tốt, có thể nói đã có sắc hồng tôi cũng yên tâm phần nào. Tôi nghĩ, tật đau đầu có lẽ bởi vì suy nghĩ nhiều về tôi mà ra. Nhưng để cẩn thận, tôi vẫn không quên nói:
- Dù thế nào, mấy ngày nữa con sẽ đưa cô đi Thượng Hải để kiểm tra một lượt.
Tôi cứ đóng cửa ở nhà tận tình ăn uống như vậy, thỏa sức tận hưởng sự chăm bẵm và tình yêu của người mẹ ở cô. Tôi rất ít ra cửa để cố gắng tránh gặp người quen, uổng phí lời giải thích thuyết minh về hành tung và bước đi của mình. Nhưng, cái quan trọng hơn là từ cô tôi đã hiểu tất cả, rất nhiều người trong thành phố nhỏ của chúng tôi đã bằng con đường nào đó biết được tôi là một người con gái mang tính chất khác biệt gì đó. Cho nên, tôi càng không muốn gặp gỡ bất cứ người quen hoặc bạn học nào, kiêng kỵ những ánh mắt họ nhìn vào tôi dẫu đó là thiện ý.
Nhưng có một nơi tôi thực sự muốn đến, đó chính là “Thuỷ phảng viên”. Nó dường như đã trở thành một nơi ngọt ngào duy nhất trong ký ức tôi. Nhưng sau đó tôi lại từ bỏ, sợ trong khoảnh khắc bước vào cổng vườn chạm trổ đó, tôi sẽ mất hết dũng khí. Nhìn vật nhớ người, cảnh sắc trong công viên vẫn như xưa, mà người thưởng hoa ngoạn cảnh giờ đã khác, chỉ uổng mang thêm một niềm thương cảm và thê lương mà thôi.
Từ cô, tôi cũng đã chứng thực được việc Ngô Nguyên đã kết hôn, hiện đang công tác ở Trung ương đoàn tại Bắc Kinh, có thể nói là xuân phong đắc ý, tiền đồ như gấm. Trước khi cưới cũng như sau khi cưới anh đều bảo em gái đến gặp cô để thăm hỏi tình hình của tôi. Nhưng cô sợ ảnh hưởng đến tâm tình của tôi, trong thư cô không hề nhắc đến nửa chữ về Ngô Nguyên, và cũng chẳng để lại địa chỉ của anh cho tôi.
Tôi bỗng rất nhớ anh. Ý nghĩ này vừa chợt loé lên tôi liền quyết định đi Bắc Kinh một chuyến.
Tôi đã lớn thế này, ở trong nước, ngoài chuyến đi Quảng Châu làm visa ra thì cơ bản chưa hề bước ra khỏi ngõ. Còn về Bắc Kinh, đó là nơi từ nhỏ tôi đã luôn mong ngóng. Hơn nữa, nơi đó còn có một người thân nhất của tôi.
Cho nên, một buổi tối sau khi trở về nhà được bốn năm hôm, khi cô cháu tôi ngồi tựa trước cổng chuyện vãn, tôi trịnh trọng đề xuất:
- Cô, tiết trời cũng đã ấm lên rồi, đúng mùa du lịch. Con thấy cô gần đây cũng khoẻ ra, con định đưa cô đi chơi một chuyến, cô thấy thế nào?
Cô nghe tôi nói hơi sững người, hỏi lại:
- Chơi? Đi đâu?
Tôi suy nghĩ giây lát rồi trả lời:
- Đi Bắc Kinh, đấy là thủ đô, lại rất nhiều di tích. Trường Thành này, Cố Cung này, lại còn cả Thiên An Môn nữa, từ nhỏ con đã luôn nằm mơ được đến đó.
- Con đã muốn đi thì cứ đi đi. Nhưng đừng có lôi kéo cô, con còn trẻ chạy nhảy không biết mệt, cô thì gân cốt già rồi, chẳng còn hơi sức đâu. Hơn nữa còn phải tiêu rất nhiều tiền, cô không muốn mất tiền vô ích...
- Sao lại vô ích chứ? Tôi vội cắt lời cô: - Cô yên tâm, nhất định con không để cô phải chen chúc xe buýt. Chúng ta phải ở khách sạn tốt, thậm chí có thể thuê cả chiếc xe hơi để đưa đón cô con mình... Tóm lại, con để cô thảnh thơi ngắm cảnh, hưởng phúc đời mình.
- Nhưng phải tiêu nhiều tiền lắm!
Cô không nén được ngáp một cái.
- Xem kìa, cô lại bận tâm ba cái vặt vãnh! Tôi ngáp theo rồi nói tiếp: - Con đã nói với cô bao lượt rồi, con mang ngân phiếu về, gửi cả ở ngân hàng, con bảo đảm cô cả đời này kiếp này ăn tiêu không hết. Hơn nữa, con cũng đã muốn đưa cô đi Thượng Hải để kiểm tra sức khoẻ. Nay đổi đi Bắc Kinh, bệnh viện nơi đó tốt hơn...
Cô nghe tôi nói vậy, dường như nhớ đến lần này về nước tôi đã mang đến hai mươi nghìn đô la (ở thành phố nhỏ của chúng tôi, đây là con số trên trời), vậy là vui vẻ gật đầu:
- Được. Con cứ bố trí đi, ta cũng phải học bà Lưu vào Đại Quan viên, dạo khắp hoàng cung chứ.
Nói xong cô bỗng cảm thấy mệt mỏi, lại như muốn nôn oẹ. Tôi cho rằng ngồi trước cửa có gió lạnh, bèn khuyên cô về phòng nghỉ ngơi. Nhưng khi tay cô vịn vào thành ghế muốn đứng dậy thì đầu lại chúi xuống, người nhào về phía trước, tôi chưa kịp đỡ thì cô đã ngã lộn xuống đất.
Tôi hoảng hồn, hốt hoảng hét lên:
- Cô! Cô! Cô có sao không?
Nói rồi tôi vội vã cố vực cô dậy. Chẳng ngờ khi vừa chạm vào quần của cô thì phát hiện ra một mảng ướt dầm dề. Đến khi tôi đưa cô vào nằm trên chiếc giường trúc trong phòng, phát hiện ra ngay cả đại tiện của cô cũng không còn điều khiển được, đồng thời mồm miệng méo xệch, thần sắc xám ngoét. Tôi biết cô rất sạch sẽ, bèn hớt hải ra ngoài lấy chậu rửa, giúp cô gột sạch phần dưới, thay quần áo rồi mới chạy ra cổng nhờ hàng xóm gọi chiếc xe ba bánh có động cơ mau chóng đưa cô đến bệnh viện Nhân dân huyện.
Hoá ra cô bị tai biến mạch máu não.
Tôi được biết từ bác sĩ ở phòng cấp cứu: chứng đau đầu cũng như sắc mặt của cô chợt đỏ lên chính là triệu chứng của của bệnh tai biến mạch máu não.
- Bác sĩ, có chữa được không?
Tôi sốt sắng hỏi.
- Hy vọng không nhiều, nhưng chúng tôi sẽ cố hết sức mình. Vị bác sĩ nói.
- Bác sĩ, xin anh nhất định phải gắng sức cứu chữa. Sử dụng những thứ tốt nhất, hết bao nhiêu tiền tôi cũng không ngại, chúng tôi có thể trả được.
Tôi kéo tay vị bác sĩ nọ, hốt hoảng nói, trong lòng chỉ mong sao dữ hoá lành, cô lại có thể ngồi dậy được, đứng lên được. Cả đời cô đã chịu khổ, vừa mới có thể hưởng được chút phúc lộc, tôi không thể để cô vội vã rời bỏ tôi. Tôi còn phải đưa cô đi Bắc Kinh, đưa cô dạo quanh Cố Cung, dìu cô trèo lên Trường Thành... rất có thể, còn đón cô sang Mỹ... tôi phủ phục bên giường bệnh, nắm lấy cánh tay khẳng khiu của cô, trong lòng vang lên những lời thống thiết:
- Cô, cô, nhất định cô không thể đi, nhất định cô không thể để con lại một mình. Nếu cô bỏ đi, con thực sự cô độc đáng thương trên cõi đời này, chẳng còn lấy một người thân. Hơn nữa, ơn nuôi dạy của cô, con còn chưa kịp báo đáp, sao cô có thể rời bỏ con đi được?...
Dù cho tiếng gào gọi trầm trầm của tôi, nỗ lực không biết mệt mỏi của bác sĩ vẫn không thể níu kéo bước chân cô vội vã rời bỏ cõi đời khổ ải này.
Sau khi chuyển sang phòng hồi sức cấp cứu, cô vẫn liệt nửa người và cấm khẩu nặng hơn. Có lúc cô còn gắng gượng nhận ra tôi, nhưng không thể nói được thành lời. Cho dù có phát âm được, cũng chỉ là những lời ú a ú ớ như trẻ con học nói, vả lại là những từ đơn âm tiết, không ai có thể hiểu nổi.
Tôi ngày đêm chăm sóc cô trên giường bệnh. Đến buổi chiều ngày thứ ba, tôi chợt thấy cô một lần hé mở mắt trong cơn hôn mê. Con ngươi của cô vẫn ngầu đỏ, những biểu đạt đau khổ trên gương mặt cô đã vợi đi ít nhiều, thậm chí đã có vẻ bình thản. Sau đó môi cô mấp máy. Tôi đoán cô đã nhận ra tôi, có thể muốn nói với tôi điều gì đó, bèn cúi gập người xuống. Nhưng, cô chẳng nói một điều gì, chỉ ngây ngây nhìn tôi một lát rồi mệt mỏi nhắm mắt, sau đó đầu cô ngoẹo sang một bên, lặng lẽ ra đi.
- Cô...
Tôi gào lên và ngất đi ngay bên giường bệnh của cô.
Hậu sự chủ yếu nhờ vào cơ quan cũ của cô lo liệu. Họ hàng thân thích dưới quê cũng như bạn bè của cô đều được tôi thông báo đến dự lễ truy điệu.
Trong đêm trước ngày làm lễ truy điệu, cô thác mộng cho tôi. Cô nói, vì bị cấm khẩu nên khi nằm trên giường bệnh cô có một thiếu sót lớn là không thể niệm mấy câu “A di đà Phật” trước lúc lâm chung, hy vọng có thể bổ sung. Tôi nghĩ đi ngẫm lại, để bù đắp thiếu sót lớn này, sáng sớm hôm sau tôi đã lục tìm hai bộ kinh Phật mà cô yêu thích nhất –– bộ A di đà kinh và Phổ môn kinh, vội vã mang đến nhà tang lễ, đặt vào vòng tay cô...
Tôi cũng rất cám ơn em gái Ngô Nguyên, không biết nghe được tin cô tôi qua đời từ ai, đã xin nghỉ mấy ngày để giúp đỡ tôi...
Cuối cùng, tất cả mọi việc đã lo liệu xong xuôi.
Nhưng, người đi phòng trống, khi một mình tôi lặng lẽ đối mặt với lọ tro hài cốt màu đỏ sẫm của cô đặt trước khám thờ Phật, đối mặt với ba gian nhà vắng tanh, đối mặt với khoảnh sân và cổng vắng vẻ, ôm con mèo Ba Tư đơn độc như tôi trong lòng, tôi càng không chống chọi nổi sự hoang vắng hư không.
Trên đường đời của tôi, đây là lần đầu tiên tôi thực sự cảm nhận được nỗi lo sợ và khó hiểu khôn lường.
Tôi cũng cảm thấy hoảng hốt, sau khi tôi đi một vòng quanh trái đất, bỗng lại trở về trong chiếc chậu gỗ lẻ loi, lại trôi dạt trong dòng nước đục mênh mông...
Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ dạt đến đâu?
Vì sao tôi lại đến? Vì sao tôi phải đi?
Vì sao hồng thuỷ không cuốn trôi tôi? Vì sao nanh vuốt của những hoạn nạn không chịu rời bỏ tôi?
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:44 PM.