Tôi hoàn toàn kiệt quệ sức lực và tinh thần, không còn dám nhìn thẳng vào những di vật của cô để lại.
Một số bộ quần áo cũ mà khi nhỏ tôi đã từng mặc đều được cô xếp gọn lại. Có mấy chiếc áo sơ mi hoa màu xanh và chiếc váy xoè do chính tay cô cắt khâu cho tôi... một góc ngăn tủ cất mấy đôi giầy vải cô may cho (cô luôn nói, đi giầy vải thoải mái, vừa nhẹ chân lại không bị lạnh)...
Thể xác cô đã lìa xa, nhưng hơi thở của cô vẫn còn ở trong căn phòng này, gương mặt nụ cười của cô vẫn ánh lên từng góc tường, từng đồ vật.
Khi tôi cố gắng xử lý một số đồ vật, mới phát hiện trong ngăn tủ nhỏ trước giường của cô có một chiếc tráp nhỏ, chiếc tráp đó được khoá bằng chiếc khoá đồng nho nhỏ. Tôi đã nhìn thấy trên đầu giường của cô một chùm chìa khoá, bèn lấy ra mở thử. Sau khi mở ra, tôi phát hiện ở trên cùng là mấy cuốn sổ tiết kiệm và tấm bìa hộ khẩu.
Tôi xem lướt qua, mới biết cô chẳng hề động vào một xu số tiền tôi đã gửi về biếu cô, tất cả đều dồn gửi tiết kiệm; ngoài ra còn mấy cuốn sổ tiết kiệm bằng đồng nhân dân tệ, cộng lại có đến tám chín nghìn. Tôi lại lật xuống phía dưới, đó là mấy tờ hoá đơn ố vàng, rồi lại là mấy tờ giấy viết thư đã được gập ngay ngắn. Tôi cho rằng đây chỉ là những vật phẩm đơn thuần hoặc là hoá đơn gì đó. Đến khi giở ra mới phát hiện đó là bức thư mà cô đã viết cho tôi cách đấy chưa lâu. Tôi tựa vào thành giường, lặng lẽ đọc thư:
Tiểu Ngọc:
Cô cũng chẳng biết bây giờ ở chỗ con đang là mấy giờ. Con đang ngủ hay đi làm thuê? Mấy ngày hôm nay cô thấy rất đau đầu, khi nằm trên giường cô bỗng lo sợ và thường thấy bố con đang vẫy gọi cô. Cô là một người tin theo Phật, cô không sợ chết. Cái chết nói thẳng ra, nó cũng chẳng khác người thay quần áo hay chuyển nhà là bao. Nhưng cô vẫn còn chút lo lắng, bởi cô đi rồi mà vẫn còn một số việc chưa kịp nói lại cho con biết. Cho nên, cô nghĩ cần phải viết lại cho con bức thư này.
Mùa xuân năm ngoái cô về quê, có gặp lại bà Tư. Bà ấy nói với cô, con đã từng tìm đến để thăm dò thân phận của mình. Bà Tư nói bà đã không dám nói điều gì với con và càng cảm thấy không còn mặt mũi nào để gặp lại con. Nhưng, cô biết, con thông minh như vậy, ắt hẳn con đã hiểu, cô Mỹ Hoa con gái bà Tư đó chính là mẹ đẻ của con. Không sai, cô ấy đích xác là mẹ đẻ của con. Trước đây cô không chịu nói cho con biết, vì cha con đã căn dặn cô phải làm như vậy, cần phải giữ bí mật về thân phận của con. Cha con gửi cô chăm nuôi con cũng là hy vọng con rời xa mảnh đất đầy đau thương nơi con đã sinh ra, không để cho xuất thân đó ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh về tinh thần và tiền đồ sau này của con. Bấy giờ cô đồng ý yêu cầu của cha con, nhưng cô không hề biết lúc đó cha con đã nói lời vĩnh biệt.
Thực ra trong lòng cô luôn thấp thỏm, đặc biệt là khi mỗi ngày con lại lớn khôn, khi con ngày càng mẫn cảm về thân thế của mình. Mặc dù cô không muốn để con nghe được từ miệng cô rằng mẹ đẻ của con là ai, nhưng cô lại càng không muốn sau này khi con nghe những bịa đặt tổn hại đến cha và mẹ con từ miệng của người đời mà không thể phân biệt trái sai. Cho nên, cô quyết định phải nói sự thật về thân thế của con. Con đã được sinh ra trên cõi đời này thì con phải có quyền biết về thân thế của mình. Đặc biệt từ sau khi cô biết bà Tư đã qua đời vào tháng Chạp vừa rồi, cô càng cảm thấy mình cần phải nói lại cho con biết mọi chuyện.
Tiểu Ngọc, con yêu của cô, con hãy nghe đây, dòng nước đục đã mang con đến cõi đời này vào một ngày đông năm đầu tiên của cuộc Đại cách mạng văn hoá, nơi nơi chẳng chút yên ổn, làng trên xóm dưới đấu đá loạn xạ, chia bè kéo cánh. Người họ Triệu ở Tây Trang vốn có oán thù với nhà họ Thạch ta, lúc này lại bởi bất đồng quan điểm, bè cánh tranh cãi nhau, hai bên lần lượt ra tay. Mới đầu, họ Triệu bị thua đau. Điều đó càng khiến họ càng tức tối, một đêm chúng tập trung mấy đứa côn đồ thừa đêm lén đến tập kích thôn ta. Chẳng may, đêm đó người mẹ mất trí của con bị mộng du lang thang gần sân đập lúa, lũ người táng tận lương tâm này túm lấy mẹ con thay nhau hãm hiếp... sau bữa đó, con đã ra đời...
Khi ông bà ngoại con phát hiện mẹ con có thai thì cái thai đã được hơn sáu tháng. Họ mời cha con đến bắt mạch, đồng thời cũng muốn nhờ cha con tống khứ cái thai ra ngoài. Căn bệnh của mẹ con từ nhỏ đã luôn phải mời cha con chữa trị, bởi vậy họ rất tin tưởng vào y đức và y thuật của cha con. Cha con nói với họ, hiện nay đã quá muộn để đẩy cái thai ra ngoài và còn rất nguy hiểm cả cho người mẹ... Như vậy, ông ngoại con đã làm bà đỡ đón con chào đời. Nhưng khi con vừa lọt lòng, ông ngoại con tàn nhẫn muốn dìm chết con trong chậu nước tiểu, nói con là nghiệt chủng. Nhưng bà ngoại con không chịu, cố sống cố chết giữ con lại, nhưng bà không cưỡng lại nổi ông, cuối cùng, hai người thoả hiệp, bà ngoại con quấn tã rồi đặt con vào chiếc chậu gỗ thả trôi sông. Theo cách nghĩ của bà ngoại con, nếu như ông trời còn thương xót đến con, ắt sẽ có người nhặt con lên, giữ lại mạng sống cho con. Khi ấy, trời đã đổ mưa liền mấy ngày đêm vẫn chưa hề ngớt, bà ngoại con đem con đến bờ sông, nhìn dòng nước ngầu đỏ, trong lòng không yên tâm, bèn ngắt một tàu lá sen chụp phía trên chiếc chậu gỗ... con đã phiêu bạt tới cõi loài người như thế, sau đó may mắn gặp được cha con.
Còn về việc cha con đã vớt con lên như thế nào, con đã biết rõ, cô cũng không nói dài dòng. Nhưng có điều cô cần phải nói cho con biết rằng: chính vì vớt con lên mà ông đã phải đánh đổi cả mạng sống của mình.
Mới đầu ông không hề nghĩ rằng con là con của người đàn bà mất trí đó, đến khi hiểu rõ thì đã có tình cảm sâu nặng với con. Ông cũng muốn trả lại con cho ông bà ngoại con nhưng quyến luyến không nỡ rời xa, và cũng lo sợ con sẽ bị họ vứt bỏ một lần nữa, nên ông quyết định giữ con lại. Sau đó, người trong thôn lờ mờ biết được lai lịch của con. Mọi người nghi ngờ rằng con thực sự không phải do cha con vớt lên từ dòng nước đục mà là được đón trực tiếp từ nhà ông bà ngoại con về. Đến khi phê Lâm đả Khổng(1), yêu cầu cần phải nắm lấy điển hình, lũ quân hiếu sự bèn nhằm thẳng vào cha con, nói rằng trong cả đại đội sản xuất chỉ mình cha con thích đọc lời của Khổng Tử, là con hiền cháu thảo của Khổng lão nhị, lại là hạng trộm cắp ** điếm, lợi dụng cơ hội nom bệnh để gian dâm ô uế một người đàn bà mất trí có thân phận nghèo hèn thuộc tầng lớp bần cố nông.
Bấy giờ ông ngoại con đã qua đời, bà ngoại con muốn đứng ra thanh minh cho cha con, nhưng lại bị cán bộ đại đội xỉ vả một hồi, dọa dẫm sẽ cắt lương thực của bà ấy, bà ngoại đành phải câm lặng như con ve sầu mùa đông. Thể tạng của cha con vốn yếu mềm, ông không thể chịu nổi những lời ô miệt và dèm pha như vậy, cuối cùng... mặc dù mẹ con là người đàn bà mất trí nhưng lại rất đa tình, khi biết cha con đã vì mình mà chết thì cũng đã trẫm mình xuống sông...
Hôm nay nói với con những điều này, trong lòng cô tin chắc, và cũng muốn con tin tưởng chắc chắn rằng, khi con nghe bất cứ những lời đàm tiếu bịa đặt nào liên quan tới cha con thì con cũng không một mảy may hoài nghi hay dao động về phẩm chất của cha con. Cha con thực là một người cha tốt, cũng là một thầy lang giỏi. Y đức, y thuật và nhân phẩm của cha con đều đã được được ghi trong bia miệng người đời, có trời cao soi xét, thần linh chứng giám...
Cho nên, Tiểu Ngọc, nói thực, mặc dù Thạch gia chịu nhiều bất hạnh, chịu đủ đọa đày, nhưng cô cho rằng, con còn là một đứa con còn chịu đựng nhiều khổ đau hơn hết thảy. Hôm nay cô nói về thân thế của con, trong lòng cũng đầy mâu thuẫn, sợ rằng cô sẽ chà thêm muối lên vết thương của con, khiến lòng con càng đau xót và khổ sở hơn. Đúng, ai chẳng mong muốn mình có được xuất thân đàng hoàng, ai chẳng mong mình được người mẹ tài cán và xinh đẹp thông minh, ai chẳng muốn... nhưng cô cũng có cách nghĩ của riêng mình, tin rằng sau khi con đã hiểu hết về thân phận của mình, cũng có thể hiểu được điều gì đó, tăng thêm chút trí tuệ, hiểu thêm đạo lý, vận mệnh khó lường, nghiệp căn khó diệt, từ đó “cái ác không làm, điều thiện nên theo”.
Phật Tổ đã nói với chúng ta rằng, sở dĩ con người phải chịu những khổ đau hoặc có hạnh phúc đều là liên quan tới Nghiệp (lầm lỗi, tội lỗi) tạo ra từ kiếp trước. Cho nên, trong kinh Phật đã nói: “Muôn vật đều ở lại, chỉ có nghiệp theo mình”. Mỗi người hay mỗi dòng họ, bất luận là tội lỗi của kiếp nào đó tạo ra, luôn luôn có báo ứng. Thiện nghiệp có thiện báo, ác nghiệp có ác báo, không phải là không có báo ứng, mà chỉ là chưa đến lúc báo ứng đó thôi. Muốn biết Nhân kiếp trước thì người kiếp này là kẻ gánh chịu; nếu muốn biết Quả kiếp sau, thì người kiếp này là kẻ gây nên. Lục đạo luân hồi, quả báo chẳng hề sai. Nghiệp lực của chúng sinh, thì đến cả Phật tổ cũng không thể thay đổi được. Còn nhớ lời đại Phật pháp ngữ “Một chìa khoá mở một ổ khoá” năm xưa khi cô dẫn con đến chùa Tuệ Giác không? Hiện nay cô nghĩ thế này, có lẽ chỉ có chìa khoá cửa Phật mới có thể thực sự mở được cái khoá tội lỗi kiếp này kiếp trước của con. Nghiệp căn của con quá nặng, xem ra không phá nổi hồng trần, ngoài việc theo vào chốn cửa Phật không thì chẳng còn con đường nào khác. Trong Hồng lâu mộng có viết: “Hảo tiện thị liễu, liễu tiện thị hảo”. Con ơi, muốn được viên mãn thì phải từ bỏ tất cả, chỉ có từ bỏ mới có thể được viên mãn. Cho nên một sớm một chiều con đọc được những dòng chữ cô viết này con sẽ còn phải suy nghĩ, cân nhắc nhiều điều. Đương nhiên, cửa Phật cũng không phải hễ nói vào là vào được, mà còn phải tuỳ duyên chín muồi mới được.
Mấy dòng lộn xộn nghĩ đâu viết đấy, hy vọng có thể có ích cho con...
Đọc xong bức thư di chúc của cô, trong lòng tôi rối như tơ vò.
Cảm ơn cô cuối cùng đã để cho tôi hiểu rõ chân tướng thân thế của mình. Nhưng sự thực này lại khiến tôi khó có thể chấp nhận. Có một người đàn bà mất trí là mẹ đẻ của tôi đã là một việc bất hạnh. Mà người mẹ mất trí đó lại bị người ta thay nhau hãm hiếp... nói như vậy, tôi là một tạp chủng và dã chủng chẳng rõ ràng. Nhưng, tất cả, những người đã cho tôi cuộc sống trên ý nghĩa sinh lý học, rốt cục tôi cần phải gọi là bố hay gọi là kẻ hiếp dâm? Rốt cục bọn chúng là ân nhân hay là kẻ thù của tôi?
Tôi lần thành giường đứng dậy, tay cầm lá thư của cô, đi đi lại lại trong gian phòng, trong lòng không nén nổi cười tê tái:
- Ha ha, tạp chủng, hóa ra ta là một tạp chủng. Một tạp chủng đáng thương được sinh ra bởi lũ dã man... và lũ cha khốn nạn đó bây giờ có thể vẫn sống trơ trơ trên thế gian này...
Nhưng tôi không hiểu, bọn chúng gây ra ác nghiệp vì sao lại bắt tôi gánh chịu quả báo? Lẽ nào quả báo còn có thuyết “quýt làm cam chịu”?
Đây quả thực là một thế gian đầy rẫy những xấu xa, tởm lợm...
Tôi đổ vật xuống sô pha trong gian phòng khách, trong lòng bỗng mong mỏi tất cả những lời bịa đặt liên quan về cha và mẹ mình ở làng quê kia đều là sự thật. Như vậy, tuy nhân cách của cha tôi có chút bị hoen ố, nhưng tôi còn có thể có một người cha thực sự... A, cha ơi, người cha tội nghiệp, tội lỗi của Thạch Ngọc có thể thực sự còn sâu nặng, rốt cục cha cũng đã vì con mà chết.
Tôi bỗng cảm nhận được tất cả, sống trong biển người mênh mông này, tôi xác thực là một dị loài không xác định. Tôi không chỉ chịu khổ cho mình, thậm chí cũng không thể tránh cơ hội gây ra khổ đau cho người khác.
Nhưng, theo cách nói của cô, đây là quả báo của tội lỗi từ kiếp trước, như vậy kiếp trước tôi đã làm những gì? Giết người? Đốt nhà? Hãm hiếp, cướp bóc?... nếu như giữa kiếp này kiếp trước quả thật có bức tường dầy, tôi nghĩ tôi sẽ không từ trả bất cứ giá nào để có thể phá vỡ nó, nhìn thấu bộ mặt thật của mình trong kiếp trước.
Đương nhiên, tôi cũng rất cảm ơn ý tốt của cô đã khuyên tôi nên quy y cửa Phật, “Các Pháp đều do nhân duyên sinh ra, các Pháp đều do nhân duyên mà tuyệt diệt”, nếu như quả thật sơn cùng thuỷ tận, thì đèn dầu tượng Phật cũng sẽ là nơi tôi có thể suy tính đến. Vấn đề là trong lòng tôi còn một số hoài nghi về Phật giáo, và cũng cảm thấy thuyết pháp lục đạo luân hồi hoặc thế giới cực lạc, tuy có kinh thế hãi tục nhưng chỉ là một suy luận chủ quan và áng chừng, mãi mãi chưa được chứng thực. Hơn nữa cửa Phật chốn Thiền dường như cũng quá tiêu cực...
Tóm lại, tôi còn chưa cam chịu và cũng chưa dự định vứt bỏ nó, nếu không sơn cùng thủy tận, tôi còn phải tranh đấu với vận mệnh bất công này. Tôi cũng tin rằng, trong cõi thẳm sâu, nhất định có cất giấu một chiếc chìa khoá mà có thể mở tung vận mệnh của tôi cũng như có thể mở tung cái ổ khoá thể xác của mình.
Tôi trở về phòng, gập cẩn thận lại bức thư của cô cất vào chiếc tráp nhỏ.
Sau đó, tôi chỉnh sửa lại mái tóc, khoác thêm chiếc áo gió, ra khỏi ngôi nhà u ám, lần lượt khoá cửa ngoài và cổng, bước ra con hẻm chật hẹp hướng tới đại lộ Giải Phóng phồn hoa. Tôi đứng ở đầu đường, sau đó ngược gió bước về phía tây, qua “Phong Lạc kiều”, nhằm hướng chợ rau Thiên Bình bước tới.
Thạch gia nhà cửa rụng rơi, cuối cùng chỉ còn sót lại mình tôi. Nhưng tôi cũng cần phải ăn. Cho nên không thể cứ khoá mãi cửa ở trong nhà, tôi phải nghênh đón ánh mắt của người đời, trải qua mưa gió, xem mặt nhân gian.
“Chẳng bao giờ thiên tài được đón tiếp nồng nhiệt ở quê hương”, có triết nhân đã từng nói như vậy
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:47 PM.
Sau khi gắng gượng đứng dậy từ trong nỗi đau đớn mất người thân, tôi bèn thu dọn di sản của cô để lại, cái gì có thể bán thì bán, cái gì không thể bán thì cho. Còn chút ít kỷ vật có ý nghĩa tôi thu nhặt cất cả vào va li, chuẩn bị đem về Mỹ. Về nhà cửa, đó vốn là nhà công, khi nào chính quyền muốn thu hồi thì họ cứ việc lấy.
Tôi cũng quay về quê hương một chuyến, đem lọ tro hài cốt cô về mai táng ở sau ngôi nhà tổ bên cạnh nấm mồ của ông bà và cha tôi theo lời dặn của cô. Như vậy, có thể xem như họ đã được đoàn tụ ở cõi bên kia.
Sau đó, tôi lại đến đắp thêm ít đất lên nấm mồ của mẹ và bà ngoại tôi. Hai con người đáng thương này, nhưng nghiệp chướng của họ đã tiêu trừ, đã được lên Tây thiên tịnh thổ.
Khi đứng dậy, tôi thấy sây sẩm mặt mày, vội víu lấy cành đào, bỗng một cơn gió u ám nổi lên, tiếp đó, dường như hồn ma của mẹ tôi từ trong nấm mồ hiện ra, chẳng nói chẳng rằng gỡ tay tôi ra, vội vã kéo tôi chạy đến sân đập lúa mì cạnh nhà bà ngoại.
Đống cỏ vẫn như cũ, phía dưới sát với lớp đất bùn ẩm ướt bốc mùi thối rữa.
Trụ đá buộc trâu xiêu xiêu vẹo vẹo bên góc đông bắc sân đập lúa, phía trên buộc mấy sợi dây điện cũ màu đen. Xung quanh chân cột, mấy con giun quằn quại bò, và chiếc cày dính chặt bùn đất...
Chuồng trâu chuồng lợn cũng đã chẳng còn sử dụng nữa, chỉ còn lại mấy gian nhà đất rách nát, xiêu vẹo trong gió hắt hiu như chứng kiến những năm tháng tang thương...
Lẽ nào mẹ lại muốn tôi đến xem nơi mẹ đã từng chịu đau khổ?
Tôi không thể kìm nổi mình đá mạnh vào chiếc cột đá.
Điều khiến tôi cảm thán là, rất chân thực gần gũi, đây cũng chính là chỗ mà tôi đã bị luân phiên hãm hiếp trong giấc mộng.
Xem ra, thời khắc gặp gỡ mơ hồ giữa mẹ và tôi dường như đã để lại ấn tượng khắc cốt ghi tâm tại mảnh đất này, và sau đó, cảm nhận sự tuyệt vọng sau đớn đau kia lại trở thành ký ức chung của mẹ và tôi... điều khác nhau là tôi bị giày xéo trong ác mộng bởi một toán người nước ngoài, còn mẹ bị giày xéo trong hiện thực bởi một lũ người khác họ...
Tôi leo lên bờ đê cao nhìn mãi tận xa xa, ánh mắt tôi dừng lại khoảng mái ngói và lùm cây thâm thẫm.
Tôi không muốn tìm kiếm điều gì, mà muốn ghi nhớ: nơi đó có tổ tiên của tôi.
Nhưng tôi vĩnh viễn không đến nơi đó nhận tổ nhận tông. Tôi khinh miệt tổ tông này, đặc biệt là khinh bỉ lũ “ông bố tạp chủng” đã từng cưỡng ép gieo giống tôi, họ là nguồn căn tất cả mọi khổ đau trong cuộc đời tôi...
Tôi dần mất đi sự quyến luyến đối với mảnh đất đã nuôi dưỡng tôi.
Tôi mệt mỏi, cơm ăn ngày càng ít, dáng vóc ngày càng gầy, quần đã rộng ra ít nhất là một tấc.
Trong ngôi nhà vắng bóng dáng người cô, nơi nào cũng phảng phất không khí vắng lặng. Ngay đến con mèo cô luôn ấp ủ cũng đột nhiên bỏ đi mất tung tích. Dù tôi nằm trên giường vẫn luôn thấy bồng bềnh như trên mây, không sao lấy lại được tinh thần, nói cũng chẳng ra hơi, suốt ngày chỉ thấy những cơn ác mộng...
Tôi chuẩn bị quay về Mỹ.
Khi thu dọn hành lí, tôi vô tình nhìn thấy một tấm ảnh nhỏ chụp Ngô Nguyên đã nhiều năm trước kẹp trong cuốn sổ cũ, hình như anh chụp hồi mới tốt nghiệp trung học. Tấm ảnh đen trắng đã ố vàng, nhưng hàm răng anh vẫn còn trắng tinh, nụ cười rất thuần khiết, ý khí rất phong độ...
Tôi bỗng nhớ hơn lúc nào hết người đã từng cho tôi tình yêu ngọt ngào và thân ái chân thành. Tôi cũng nhớ đến bờ vai rắn chắc và lồng ngực nở nang của anh, đã từng là niềm an ủi tốt đẹp nhất cho tôi mỗi khi mệt mỏi. Anh không sai, chưa bao giờ sai. Chính tôi đã rời bỏ anh, tôi đã quyết định rời xa anh. Nhưng vì sao tôi phải cắt bỏ tình hữu nghị chân thành của anh? Anh có khoẻ không? Hôn nhân có tốt đẹp không? Hạnh phúc không? Hoạn lộ có hanh thông không?...
Nỗi đau lớn mất đi người cô đã từng loại bỏ ý nghĩ đi Bắc Kinh của tôi. Nhưng bây giờ, trong kế hoạch cần phải lập tức trở về Mỹ thì ý nghĩ đó lại một lần trỗi dậy và bùng cháy...
Bắc Kinh vẫy gọi tôi, Ngô Nguyên đang vẫy gọi tôi.
Để cho lòng thảnh thơi, tôi cũng cần phải đi lại, thả lòng thanh thản - Tôi nghĩ.
Đêm tối mịt mùng, cuối cùng tôi cũng đã lên chuyến tàu du lịch từ ga Tây Nam Kinh đi Bắc Kinh.
Khi tàu qua Từ Châu, tôi tra được ga lớn tiếp sau là Duyễn Châu từ tấm bản đồ mới mua, lại thấy nó kề ngay Khúc Phụ, bỗng nghĩ đến đây chính là quê hương của đức thánh Khổng, quốc đô của nước Lỗ xưa, bỗng nhiên mắt tôi sáng lên, trong lòng bùng lên một ý nghĩ: Cha tôi đã từng bị phê phán là con hiền cháu thảo của Khổng Tử, Ngô Nguyên cũng rất sùng bái tinh thần Tân Nho gia, toàn bộ lịch sử Trung Quốc, lật dở từng trang có chỗ nào xa rời Khổng Tử và các phương cách trị nước của ông... và tôi hiện nay lại đang ngang qua cửa nhà Khổng Tử, sao không thuận xuống chiêm ngưỡng di tích của vị thánh sư hơn hai ngàn năm trước?
Tôi xuống tàu ở Duyễn Châu, rồi lên chuyến xe sớm đi Khúc Phụ.
Chưa đầy nửa tiếng sau, trong khoảnh khắc giao thời giữa đêm và sáng, khi mặt trời đỏ ối bắt đầu nhô lên thì tôi đã có mặt ở bến xe Khúc Phụ. Tôi tìm một khách sạn tương đối sạch sẽ trong thành phố trọ lại, dùng xong bữa sáng, cất hành lí (thực ra chỉ là một chiếc va li kéo), rồi theo lời chỉ dẫn của người phục vụ khách sạn, đi trước tới miếu thờ và phủ Khổng Tử ngay cạnh đó.
Nói kể cũng lạ, khi chân của tôi bước vào phủ Khổng Tử – nơi đây được người đời tôn xưng là “Nhà của thánh nhân văn chương đạo đức”, bỗng có cảm giác như được trở về chính nhà mình, thậm chí từng cây cỏ, từng viên gạch hòn đá trong phủ cũng như rất đỗi quen thuộc. Còn khi bước vào miếu thờ Khổng Tử, ngước mắt lên nhìn toà nhà bia uy nghi, một cây bách ngàn năm tuổi, càng cảm thấy tất cả thánh hiền cổ xưa đang dõi nhìn theo tôi. Khi tôi ở đại điện ngắm nhìn bức tượng Khổng Tử, càng cảm thấy kinh ngạc bởi phát hiện ra hình dáng của Khổng Tử giống hệt như ông lão râu tóc bạc phơ trong giấc mơ của tôi! Tôi có chút hoảng hốt, tờ giấy có mấy chữ Một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá lại phất phơ trước mặt tôi... Tôi nghĩ, nếu như trong giấc mơ thật sự là thánh nhân Khổng Tử đã cho tôi tờ giấy kia, rốt cục là người sẽ cho tôi lời ít ý nhiều thế nào? Quân quân thần thần, phụ phụ tử tử? Tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức? Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại(1)? Phương thuốc trị thế của người, đại khái chỉ có vậy, nếu như dùng vào việc chữa trị sự phong bế của tôi, e rằng gần như vẻ phi lí.
Nhưng xét lại cả đời của người, cuộc sống cũng chẳng dễ chịu hơn tôi là bao, chạy đông chạy tây, chu du liệt quốc, đến đâu cũng vấp thành chạm lũy, thường “mệt mỏi như con chó không nhà”, cho nên đến những năm cuối đời ông đau đớn ngửa mặt lên trời cao mà ta thán: “Đạo ta không thể thi hành, hãy cưỡi thuyền chu du ra bể”...
“Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể... Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể... Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể... Đạo không thể thi hành....”. Tôi suy nghĩ đến đây, câu nói của người bỗng như sấm sét ngang tai, gầm thét mãi không thôi, lại như có cả ánh chớp loè, rạch sáng không trung.
Ngẫm nghĩ những điều tôi vấp váp trong mấy năm nay, chẳng phải chỉ vẻn vẹn một câu “Đạo không thể thi hành, cưỡi thuyền chu du ra bể” này đã lột tả một cách sinh động sao?
... Đầu tiên là trôi nổi trên một chiếc chậu gỗ con con, tiếp đó là ngồi máy bay vượt qua biển... Tôi ơi, tôi, tôi còn nói được gì? Kiếp này của tôi cũng chính bởi phần dưới “đạo không thể thi hành” mới không thể không rời bỏ quê hương... Nhưng, giấc mộng kỳ lạ mấy năm trước thực sự là chính Khổng Tử đã chỉ điểm bến mê cho tôi! Xa cách hơn hai ngàn năm, người vì sao vô cơn vô cớ quan tâm tới một cô nhi không rõ lai lịch như tôi – nói một cách nghiêm túc là một tiểu tạp chủng? Đệ tử tam thiên, hiền giả Hồi giã(1). Lẽ nào cha tôi (đương nhiên là chỉ người cha đã nuôi tôi) cũng là một môn sinh đắc ý của người sao?
“Một chiếc chìa khoá mở một ổ khoá” – tôi dường như lờ mờ thấy được ánh mắt sáng rực của ông lão râu trắng đang ở bầu trời xa xưa mỉm cười nhìn tôi, đồng thời cũng thấy một lũ rỗi hơi hậu thế bên cạnh không ngớt mồm ầm ĩ: “Giữ đạo trời, diệt dục vọng con người; Giữ đạo trời, diệt dục vọng con người...”
Ra khỏi miếu Khổng Tử cũng đã giữa trưa, tôi bèn dừng chân ăn qua loa mấy thứ trong quán ăn ven đường rồi lại hăm hở hướng tới rừng Khổng cách năm sáu dặm về phía bắc thành phố.
Rừng Khổng này chính là khu vườn mộ rất lớn mai táng những người trong dòng họ Khổng hơn hai ngàn năm nay, nó còn lớn hơn cả thành phố Khúc Phụ. Tôi bước vào cửa rừng, đầu tiên chiêm ngưỡng ngôi mộ mà mọi người cho rằng đó là mộ của “Chí thánh Văn Tuyên Vương” Khổng Tử – thực ra đó cũng chỉ là một nấm đất khá lớn, rồi sau đó cứ đi thẳng vào phía trong, lang thang dưới bóng rừng, lội qua hết những bãi cỏ gò hoang, những dẫy nhà bia. Tôi bị những bia mộ lớn nhỏ, cao thấp, muôn hình vạn trạng cuốn hút, một chốc thì đọc đi đọc lại văn bia, chốc chốc lại thưởng thức nét chữ khắc, khi lại không quên phân biệt thân thế và danh tính của người nằm dưới mồ, dần dần tôi cảm giác như đang đi tìm mộ người thân. Sau đó, khi tôi ngang một gốc cây sồi lớn, bị quả trên cây rơi trúng đầu, bỗng thần hồn mê mệt, dường như bị men rượu hun say, bước chân lâng lâng. Dần dần, bụng dưới bắt đầu đau đớn, phần mẫn cảm nhất ở thân dưới lại bị co rút từng cơn... tay tôi chặn giữ bụng dưới, khom người ngồi trên đỉnh gò đất. Ngoảnh đầu nhìn xung quanh chẳng một bóng người; tôi ngẩng nhìn lên cao, cành lá sồi ken kín bao trùm khoảng rộng, chẳng để lọt một kẽ nắng; tôi không nén được quờ tay về phía sau, lại chạm phải một tấm bia đá xanh cao chừng hơn hai mét. Lúc này, tôi đã cảm thấy nghẹt thở, bụng càng đau dữ dội, vội vã quẳng chiếc túi du lịch trên vai xuống, trải mấy tờ giấy ra đất rồi từ từ tựa lưng vào tấm bia đá...
Tôi vừa kịp ngồi xuống thì bỗng nghe thấy trong người vang lên những tiếng ùng ục, tiếp đó là tiếng gầm gào của sóng biển, cứ thế cuồn cuộn rồi biến thành một đợt sóng ào ạt trào qua cửa ra nho nhỏ dưới thể xác tôi... trạng thái đó rất giống như sóng dữ đập bờ, lại giống như có trăm ngàn người trượt chân trong động tối đen như sơn, cùng quẫy đạp vươn vào cái khe nhỏ chỉ lọt một chút ánh sáng... nhưng, vách đá lạnh lẽo kia lại bắt đầu sợ hãi khép lại, co rút...
- Không!
Tôi không kìm được tiếng kêu thất thanh, tuyệt vọng giơ tay giằng xé lấy phần dưới và cố gắng hét lớn:
- Có ai không! Giúp tôi với!...
Nơi rất xa, có một thiếu nữ áo đỏ lao về phía tôi. Váy của cô không ngừng phấp phới theo bước chân, xem rất giống một bó đuốc cuồn cuộn trong cánh rừng. Bó đuốc đó cuối cùng cũng đã lao tới trước mặt tôi, tôi nhận ra đó là cô hướng dẫn viên du lịch mình đã gặp nơi cổng ra vào.
- Chị? Chị bị sao thế?
Cô gái đứng trên sườn dốc phía trước mặt tôi, hổn hển hỏi tôi.
- ... ờ. Giúp chị với, thân dưới của chị –– đau dữ dội..
.
Tôi gắng sức nói, chống tay vào đấy muốn đứng dậy, nhưng cảm thấy nặng như có ngàn cân.
- Chị bị bệnh gì thế?
Cô bé lại hỏi.
- Không, chị chỉ cảm thấy thân dưới bị co rút, trong đó dường như sông bể cuồn cuộn... ôi, mau lên giúp chị với, chị chịu không nổi..
- A, ở đây âm khí quá nặng, chị không nên ngồi trước nấm mộ thế này, chắc đã xúc phạm điều gì. Mau, em dìu chị dậy!
Cô gái nói rồi tiến lại gần, bám cánh tay tôi gắng sức kéo tôi dậy.
Tôi chầm chậm đứng thẳng người nhưng không thể đứng vững, bèn thử bám vào gáy cô gái, không muốn để chân mình nhũn ra, nhưng bàn chân trườn trượt, kéo theo cô gái xuống chân đồi. Trên thế giới này lại còn có việc xui xẻo – tôi lăn lộn mấy vòng, bộ phận phía dưới bị một gốc cây nhỏ dưới chân đồi đâm chọc vào...
Cơn đau buốt nhói tim đã khiến tôi gần như ngất đi, đồng thời cảm thấy máu nóng từ dưới thể xác trào ra, ướt đẫm cả hai đùi...
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:49 PM.
Tôi nằm ở bệnh viện Khúc Phụ hơn hai tuần, sau khi chỗ đau đã dần trở lại bình thường, mới có sức để tiếp tục lên đường lên phía bắc. Từ trước đến nay đây cũng là lần đầu tiên bộ phận dưới của tôi trào ra nhiều máu nhất. Tôi cần phải cảm tạ cô gái áo đỏ đó, nếu như không có sự giúp đỡ của cô ấy, tôi rất khó tưởng tượng buổi tối đó mình còn có thể từ trong cánh rừng hoang vắng ở ngoại ô đó về được đến nơi nghỉ trọ trong thành phố hay không. Sau này, tôi đã hào phóng tặng cô gái đó một trăm đô la.
Máu ra nhiều như vậy, về sau này nghĩ lại, không còn phân biệt được đâu là kinh nguyệt, đâu là máu ở các bộ phận khác... và lúc tỉnh lại trên giường bệnh cảm giác thể xác mình bắt đầu như đang chìm rơi tận đáy sông khiến người nghẹt thở, tiếp đó dần dần nổi lên mặt nước, thân dưới bám đầy những con đỉa đáng sợ... nhưng rất lạ, nơi đó tuy rất đau đớn, nhưng trong lòng tôi lại có một sự kỳ vọng không thể kìm nén được – có lẽ, thông qua lần tẩy rửa và rửa tội của kinh nguyệt, máu tươi chưa từng có này, cuối cùng đã xối xả vượt qua “đập lớn chắn sông” đáng ghét chắn ngang trong thể xác tôi... Đồng thời, tôi cũng đầy hy vọng, gốc cây nhỏ chọc vào người tôi kia chính là chiếc chìa khoá dùng để mở ổ khoá thể xác của tôi mà tôi đã tìm kiếm khắp nơi...
Sau này, trên tàu tiếp tục lên phía bắc, trong chăn ở khoang tàu nằm lòng tôi đã đầy ắp những hy vọng khi ngón tay thử dò lần phía dưới thể xác – từ khi nó liền lại sau lần phẫu thuật, trong một thời gian khá dài tôi chưa từng tiếp xúc lại với khoảnh đất đau thương đó.
Nhưng, điều khiến tôi thất vọng là: cửa dường như vẫn là cửa khi trước, huyệt vẫn dường như là huyệt khi trước. Còn tai nạn của gốc cây kia, cũng như giấc mộng ngày xuân, trên thể xác tôi dần dần chẳng còn lại dấu vết gì... duy trên bắp đùi để lại một vết sẹo khiến tôi còn phải nhớ mãi, trong tiến trình của cuộc đời tôi đã có lần dùng kìm nung đỏ để thực hiện hành động anh dũng “cải cách mở cửa” đối với thể xác mình.
Nhưng, thay đổi luôn có. ít nhất, từ mùi vị khê cháy nồng nặc bữa nọ nay đã lẫn cả mùi máu tanh... và chỗ thịt thừa bên trong cũng có những thay đổi – hoặc giả phình to hơn nữa, hoặc bị thối rữa... vấn đề là sự thay đổi này lại quá chậm chạp, quá nhỏ bé, khiến tôi rất khó nắm bắt, rất khó cảm giác...
Ngón tay của tôi cũng bắt chước theo kiểu của dì Doãn Hoa từng tí từng tí cho vào sờ tìm. Nhưng ngoài sự đau đớn ra, dường như chẳng thu hoạch được điều gì. Cuối cùng, giấc mộng nát vỡ trong tiếng “rầm rập rầm rập”, văng vẳng, mơ hồ của bánh tàu, nơi đó của tôi vẫn trở lại thành một “con kênh Long Bối”, mà con đập “Long Bối” đó càng dầy hơn, vững chắc hơn, nặng nề ngăn dòng nước của tôi, nặng nề chèn lấp trái tim tôi...
Cho nên, khi tôi ngồi trên chuyến tàu tốc hành chậm chạp trườn tới Bắc Kinh thì lòng tôi thực ra vẫn lưu lại Khúc Phụ, lưu lại Rừng Khổng, lưu lại chỗ cây đó, lưu lại những ảo giác và mộng cảnh mà không sao có thể xua đi được. Như vậy, nhiệt huyết mong muốn nhanh chóng được gặp lại Ngô Nguyên đã dần dần nguội lạnh cùng với khoảng cách về Bắc Kinh mỗi lúc một gần, thậm chí chẳng có gì để nói...
Vậy là, sau khi ở khách sạn An Đốn Hảo gần Tiền Môn, tôi cũng chẳng thiết theo dự định ban đầu gọi điện ngay cho Ngô Nguyên, phải lập tức liên hệ với anh, mà lại nằm nghỉ ngơi rồi đi dạo quanh quảng trường Thiên An Môn.
Quảng trường rộng lớn và đẹp, du khách nườm nượp như trẩy hội. Tôi dừng chân ở trước bia tưởng niệm anh hùng dân tộc, rồi leo lên thành lầu Thiên An Môn phóng tầm mắt ra xa, cuối cùng lang thang đi khắp Tử Cấm Thành...
Nhưng, tôi cảm thấy chán nản rã rời. Tôi đang ở trùng môn cấm địa mà sao không thấy vàng son lộng lẫy của hoàng cung, cũng không thấy cảnh phồn hoa cẩm tú của ngự hoa viên, những điều tôi nhìn thấy chỉ là bóng dáng của chính mình, đều là sự tiêu điều và hoang lạnh của cái phồn hoa đã qua đi...
Thậm chí tôi có cảm giác sai lầm rằng, một bộ phận nào đó của thể xác tôi cũng đã biến thành Tử Cấm thành này, ngàn năm trước luôn nằm yên lặng dưới chân Yến Sơn, tuy cao quý nhưng man mác một không khí u bế và cấm cố...
Sau đó tôi lại trở về trước điện Thái Hoà, đứng lặng im bên Tiên hạc trước bệ rồng, nhìn ra xa ra con đường đã đưa tôi đến.
Dần dần, trùng môn, cấm địa, du khách nườm nượp, gió xuân và nắng gắt... bỗng nhiên nhoà đi trong mắt tôi. Lòng tôi co thắt, mắt tôi muốn nhắm nghiền, thể xác tôi cũng bắt đầu phiêu diêu, dường như đang cưỡi Tiên hạc dạo chơi trong không trung bên trên Tử Cấm Thành, mặc sức nhìn cảnh tượng mông lung sương khói trước điện Thái Hoà, thưởng thức mùi thơm thanh khiết của tử đàn và tùng bách thoang thoảng...
Mặc dù ở không trung vô bờ bến nhưng vẫn còn một con đê lớn chắn ngang trước mặt tôi – rất dầy chắc, tầng tầng lớp lớp, kéo dài đến vô cùng vô tận...
Phía sau lưng tôi có tiếng người ồn ào và tiếng bước chân thậm thịch vang tới.
Tôi ngoái đầu lại, một toán đông khách du lịch Nhật Bản đang từ trước cửa điện Thái Hoà như ong tràn tới, ánh mắt đều dồn tới Tiên hạc bằng đồng ngay cạnh tôi.
Tôi xoay người định bước, chẳng ngờ suýt đâm sầm vào cô hướng dẫn viên du lịch đang từ phía sau bước tới.
Tôi vừa định nói “Xin lỗi”, bỗng cổ họng nghẹn lại, miệng há hốc cứng đơ.
Hoá ra đó là Doãn Hoa! Cô đội chiếc mũ che nắng màu hồng, mặc bộ đồ màu vàng kem, đi đôi giầy thể thao Nike màu trắng, tay trái cầm chiếc cờ tam giác nhỏ nửa trắng nửa đỏ...
- Em!
Chúng tôi sững người, chẳng ai nói được lời nào. Sau đó, nghe tiếng toán khách du lịch gọi, Doãn Hoa vội vã nói với tôi:
- Đợi em một lát, em sẽ quay lại ngay.
Sau đó Doãn Hoa vội vã đi đến bên Tiên hạc, lớn tiếng giải thích một hồi wa ri wa ra gì đó với toán khách du lịch. Tuy là tiếng Nhật, nhưng qua cung cách thể hiện của Doãn Hoa, tôi cũng có thể biết chắc chắn rằng cô đang giải thích lai lịch và câu chuyện về Tiên hạc. Những người du khách Nhật nghe như nuốt từng lời, chốc chốc lại rộ lên tiếng vỗ tay tán thưởng.
Tôi lánh sang một bên, nhìn kỹ bóng dáng Doãn Hoa. Cô như gầy hơn, cằm nhọn ra nhưng ngực lại căng đầy hơn trước.
Ngoài ra, dường như Doãn Hoa cũng đã già dặn chín chắn hơn nhiều, điệu bộ, giọng nói, ánh mắt đã hoàn toàn mất đi cái vẻ non nớt năm nào...
- Em ở khách sạn Bắc Kinh, trên đây có số điện thoại và số phòng của em. Áy náy quá, lịch trình đưa đoàn khách này kín quá, không rảnh được. Nếu có thể, sau mười giờ chị gọi điện cho em, chúng ta gặp nhau tán gẫu một chút, được không?
Tôi đang trầm tư thì Doãn Hoa nhanh nhẹn bước tới, dúi tấm danh thiếp vào tay tôi. Sau đó chẳng đợi tôi hoàn hồn, cô lại nhoẻn cười, vẫy tay, nói “Gặp lại sau nhé”, rồi lại như một cơn gió lẩn vào giữa toán du khách.
Tôi há hốc miệng, đứng ngây tại chỗ, ánh mắt nhìn theo dáng cô và toán du khách dần dần mất hút, cuối cùng thong dong thả bộ quanh chân tường phía tây điện Thái Hoà, rầu rầu như bị mất cắp.
Gặp lại Doãn Hoa tại Cố Cung, Bắc Kinh là chuyện hoàn toàn ngoài mong đợi của tôi. Mấy năm nay tôi đã từng muốn quên cô ấy đi, muốn xua cô ấy ra khỏi ký ức của mình. Đó chẳng phải bởi tôi căm hận và oán giận đặc biệt gì cô ấy, mà là bởi mỗi lần nhớ đến cô em gái như ruột thịt ấy nay đã trở thành người qua đường, lòng tôi chán nản và đau đớn...
Thực ra tôi là một người rất thích có bạn bè. Từ tiểu học đến trung học rồi đại học, tôi luôn có không ít bạn gái, nhưng sau đó bởi vì rất nhiều nguyên nhân mà dần dần xa cách nhau. Doãn Hoa lại rất đặc biệt, giúp tôi nhiều chuyện, đặc biệt chúng tôi còn cùng chia sẻ những bí mật về thể xác của nhau... Tục ngữ nói: “Tốt với người thì người cũng tốt với mình”. Cho nên, trong lòng tôi thực ra vẫn rất nhớ đến cô ấy. Buổi tương ngộ hôm nay đã mang lại cho tôi nỗi niềm vui mừng...
Hơn mười giờ đêm, tôi gọi điện cho Doãn Hoa theo lời dặn.
- ái chà, sao bây giờ chị mới gọi? Em đợi chị từ 9 giờ, sốt ruột đến chết đi được.
Doãn Hoa vừa nghe giọng tôi đã lanh lảnh nói.
- Em dặn chị gọi sau mười giờ cơ mà.
Tôi nói lại.
- Hừ, thực ra chị có thể gọi sớm hơn. Sau chín giờ là em rỗi rồi. Cũng chỉ tại em đã không xin số điện thoại của chị. Thực ra là em không dám, sợ chị còn hận em, sớm biết... được rồi, không nói linh tinh nữa, nói với em nào, bây giờ em đến chỗ chị hay chị đến chỗ em?
Tôi nghĩ điều kiện nơi ở của mình không thể sánh được với khách sạn Bắc Kinh, bèn nói:
- Để chị đến chỗ em. Nhưng có tiện cho em không?
- Tiện, tiện, em ở phòng đơn, tối chị không cần về, ngủ luôn chỗ em cũng được. Có điều tốt nhất chị nên mang theo hộ chiếu – em nghĩ chắc chắn chị mới từ Mỹ về thăm nhà đúng không, có thể hù cảnh vệ dưới sảnh, họ sẽ khách khí với chị, ít phiền nhiễu hơn. Nhưng cũng không sao, em sẽ đợi chị ở sảnh. Chị nói đi, em vẫn chưa hỏi chị, chị ở khách sạn nào đấy? Có xa không?
- Chị ở ngay cạnh Tiền Môn.
- Thế thì tốt. Rất gần, chị đi tắc xi, em nghĩ chẳng đến mười phút đâu. Chị mau đi đi nhé, em đợi chị ở sảnh.
Doãn Hoa lại sốt ruột thúc giục.
Chúng tôi gặp nhau ở dưới đại sảnh khách sạn Bắc Kinh. So với lần gặp nhau ở Cố Cung, dường như Doãn Hoa đã trở lại vẻ láu lỉnh ngày xưa, vừa trông thấy tôi đã nhảy ào tới ôm chầm lấy. Rồi cô lại kéo tay tôi lôi xộc vào phòng mình, vội vã “mang roi chịu tội”, không ngớt miệng nói:
- Trước đây em chẳng hiểu chuyện đời, đã trách sai chị quá nhiều, lại còn bán đứng chị, hại cho chị phải rời bỏ quê hương... thực ra, em cũng trót lỡ mồm, rồi hối không kịp. Chị đại nhân chẳng chấp kẻ tiểu nhân, ngàn vạn... Đến đây, nước mắt của cô cứ thế tràn ướt mi, xong Doãn Hoa lại tiếp tục: - Quả thật, buổi chiều nay gặp chị ở trước điện Thái Hoà, em rất xúc động, nhưng em không dám mạo muội, lại đang dẫn đoàn. Chị biết không, em dẫn bọn quỷ Nhật đó cho ngắm cảnh thoải mái mười lăm phút ở Ngự Hoa viên rồi chạy quay lại tìm chị, nhưng đã chẳng thấy chị đâu nữa. Em thật sự hối tiếc, sợ tối chị sẽ không gọi điện cho em. Nếu thật như thế, chị em mình lại mất cơ hội gặp gỡ. Thật đấy, mấy năm nay, trong lòng em luôn áy náy và rất hối hận. Em thật chẳng hiểu gì cả, nghĩ lại khi đó, thật như đã uống nhầm thuốc... ngay nằm mơ em cũng luôn mong có cơ hội có thể chuộc lỗi, nói lời xin lỗi với chị. Thật mà, bây giờ em rất vui mừng, rất phấn khởi, để em nghĩ...
Tôi ngồi trên chiếc sô pha đối mặt với chiếc giường của Doãn Hoa, thấy mắt cô ầng ẫng lệ, trong lòng rất cảm động, cũng không kìm được, khoé mắt nóng lên, rồi nước mắt tuôn trào, nhưng tôi vẫn gắng ghìm lòng mình, cười nói:
- Xem em kìa, chẳng giống trước đây tí nào, chị chưa bao giờ thấy em nhỏ một giọt nước mắt. Nhưng, em cũng đừng có nhắc lại cái từ “xin lỗi”, “mang roi chịu tội” làm gì nữa nhé. Thực ra, chị cũng rất cảm ơn em. Em nghĩ xem, nếu như không có trận mưa gió năm đó, sao chị lại có quyết tâm đi Mỹ được. Hơn nữa, tình yêu luôn là tự do. Chắc em cũng đã từng nghe – “Đàn ông khờ dại thì yêu, đàn bà yêu thì khờ dại”. Cho nên, cũng chẳng trách em...
Chúng tôi rất nhanh xoá nhoà được khoảng cách. Bắt đầu mỗi người còn ngồi một chỗ tâm sự về con đường của mình, sau đó gối kề gối, tay trong tay nói chuyện trên giời dưới bể... Doãn Hoa quan tâm hỏi han tình hình Dabruce, tôi vắn tắt vài câu.
Dường như Doãn Hoa không vừa ý, truy đến cùng:
- Nói thực nào, anh ta có ăn hiếp chị không?
- Ăn hiếp cái gì chứ?
Tôi vặn lại.
Doãn Hoa cười xoà:
- Có khi ngược lại ấy chứ, lão Mỹ ấy dám ăn hiếp chị Thạch Ngọc á, tuyệt đối chẳng có cửa.
Doãn Hoa đặc biệt nhấn mạnh vào “chẳng có cửa”, rồi lại chớp chớp mắt đầy ác ý. Tôi thúc mạnh vào đùi Doãn Hoa, cay nghiệt nói:
- Miệng chó chẳng có ngà voi. Rồi lại nói tiếp: - Em cũng đừng có chạy được một trăm bước mà cười người chạy được năm chục bước, cười chị mày “không có cửa”, chẳng ngờ...
Lời nói chực ra khỏi miệng đã được tôi nuốt vào:
- Thôi, hay nói về mấy năm em “mở cửa kiếm sống” thế nào đi.
Doãn Hoa ra bộ mặt nhăn nhó, rồi lại than thở, gằn giọng nói:
- Đáng tiếc, so với chị, tuy em đã “mở cửa” nhưng chẳng được “kiếm sống”... hừ, sau này lại phải thế, học theo chị, qua Nhật làm dâu người ta, chồng em chính là cái anh chàng lưu học sinh Nhật Bản Kameta mà chị đã gặp rồi đấy. Nhưng cũng đừng xem thường cái thằng Nhật đầu nhỏ, chỗ ấy lại quá to, hằng đêm nó luôn kiếm cách giày vò em. Em chịu không nổi, cái chủ yếu hơn, cái chỗ đó của em dù có hình có hài, nhưng ngoài đau đớn ra thì chẳng hề có cảm giác gì cả. Có điều cũng chẳng hề giống như trong sách viết, nó khiến người ta xúc động, hưng phấn và đê mê, lại còn nói là cao trào như say, như tiên gì đó cái cục ***. Em hiểu ra, nơi đó là sau này làm ra, không phải chính tông, không chắc còn là “tà môn lệch đạo” nữa. Cho nên, đến đêm, em cũng luôn tìm muôn ngàn cớ thoái thác. Kameta không hiểu cặn kẽ, thế là tức giận, chửi mắng em là động vật máu lạnh. Như vậy, chịu đựng chưa đầy nửa năm, chúng em ly hôn, rồi em lăn lộn bên ngoài kiếm ăn, cái gì cũng làm, chỉ thiếu nước chưa làm gái điếm. Thực ra em cũng rất muốn làm gái điếm, nếu như việc đó thực sự khiến em sống cho thoải mái... Chị biết không? ở Nhật Bản, đàn bà không thể sinh con đẻ cái cũng bị gọi là thạch nữ, không có tư cách lấy chồng. Cho nên, sau khi chúng em ly hôn, ngẫm cũng là ý trời. Hừ, tóm lại, như vậy sau đó em lại nhảy đến công ty du lịch Shijuku làm thuê, kiếm ăn. Cần phải chú ý là kiếm ăn, làm việc cho thằng ranh Nhật Bản để kiếm ăn, chứ không phải “kiếm sống”.
Doãn Hoa nói rồi nhìn tôi nháy mắt cười.
- Thu nhập có khá không? Tôi hỏi.
Doãn Hoa ngẫm nghĩ, nói:
- Nếu cộng cả tiền bo, quy đổi theo tỉ giá đồng Yên với Đô la hiện giờ, tổng cộng khoảng hơn ba ngàn đô.
- ừ, –– như thế thì tốt quá. Giờ làm trong khách sạn ở Mỹ, nhiều nhất cũng chỉ có hai ngàn. Nói rồi tôi lại hỏi: - Như vậy, em có tính học tiếp nữa không?
- Học cái gì? Doãn Hoa vặn lại: - Học trăm chẳng dùng một là khoa Văn. Hơn nữa, bây giờ em cũng chẳng còn hứng thú học tập gì nữa. Chẳng giấu gì chị, em bây giờ chỉ nghĩ kiếm tiền, kiếm thật nhiều, tiêu cho thật nhiều. Em cũng có kế hoạch, đợi khi có kinh nghiệm, đủ vốn em sẽ mở một công ty du lịch của mình. Ôi – Nói đến đây cô đứng dậy, khom người về phía tôi, ra vẻ thần bí: - Chị biết không? Ngô Nguyên đã lên cán bộ cấp Chánh sở rồi đấy. Anh ta đang quản lý du lịch thanh niên, mục tiêu của em là muốn hợp tác với Công ty du lịch thanh niên.
Doãn Hoa vừa nhắc đến Ngô Nguyên, tim tôi thót lên, nhưng ra vẻ chẳng hề để ý, cũng lặng lẽ đứng lên.
- Chị vẫn chưa gặp Ngô Nguyên? Doãn Hoa lại hỏi.
- Chưa. Lâu rồi bọn chị không liên lạc với nhau. Tôi lạnh lùng nói và bổ sung: - Chị chưa từng qua Bắc Kinh, lần này đến là đi du lịch.
Doãn Hoa ranh mãnh nhìn tôi, bỗng nhiên cười nói:
- Không liên lạc không có nghĩa là trong lòng không nhớ, đúng không? Lừa ai chứ, trước mặt em gái mà còn không nói thực. Chị còn sợ em ghen? Yên tâm đi, em có cái sáng suốt của mình, đã rút khỏi giang hồ, rửa tay gác kiếm từ lâu rồi. Hơn nữa, em còn rõ hơn ai hết, trong lòng anh ta thực ra chỉ dung nạp một người. Nói đến đây Doãn Hoa dừng lại chốc lát, kéo chiếc gối ôm vào trong lòng, mắt chăm chăm nhìn tôi, làm ra vẻ huyền bí hỏi: - Nghĩ ra ai chưa?
- Còn ai nữa? Đương nhiên là vợ anh ta rồi.
Tôi cố gắng bình tĩnh nói và cũng kéo một chiếc gối lại ôm vào lòng.
- Chị nghĩ như vậy thật? Ánh mắt Doãn Hoa vẫn nhìn tôi chằm chặp như cũ.
- Việc gì mà nhìn chị thế? Tôi duỗi tay dứ vào mặt Doãn Hoa nhưng không nén nổi hỏi: - Họ có con chưa?
- Lại còn có con nữa. “Vỏ quýt” mà còn dám sinh con á? Ngô Nguyên ấy à, đương nhiên sự nghiệp phải là hàng đầu. Mọi người thường xuyên thấy họ cặp kè, ra vẻ yêu thương nhau lắm, nhưng em không tin buổi tối sau khi đóng cửa cài then họ lại còn tốt với nhau như thế nữa. Nếu không vì sao “Vỏ quýt” lại bỗng dưng sang Đức du học?
- Thật à? Đi lúc nào? Tôi bất giác sững người.
- Đầu tháng trước.
Doãn Hoa nói, ánh mắt chăm chút dò xét thần thái của tôi, nửa xúi bẩy nửa chọc ghẹo nói:
- Chị của tôi ơi, chị yên tâm đi, đang đúng lúc người không lầu trống đấy, nhất định chị sẽ mang lại cho anh ấy tin vui không gì sánh nổi, chẳng gặp sự rắc rối nào đâu. Chỉ có điều em thấy đau xót thay cho chị, đoá hoa băng thanh ngọc khiết như này, người nổi bật trong đám phụ nữ, cho dù anh chị có chắp lại tình xưa, cũng có làm được gì mới không? Hay là một đợt vui mừng suông! Thôi không nói nữa. Doãn Hoa vỗ mạnh vai vào tôi, nhảy từ giường xuống nền nhà, nói: - Em đói rồi, đi, đến Vương Phủ Tỉnh ăn đêm.
Khi ăn xong quay trở lại khách sạn Bắc Kinh cũng đã gần hai giờ sáng. Doãn Hoa vẫn chưa chịu thôi, lại lôi từ tủ lạnh ra mấy chai bia Thanh Đảo bắt tôi uống cùng. Tôi không đọ nổi Doãn Hoa nhưng cũng đành phó mặc cùng Doãn hoa chén tạc chén thù. Vật lộn như vậy đến tảng sáng ai nấy mới chịu lột bỏ quần áo leo lên giường. Sau khi đầu áp đầu, tôi hỏi:
- Em này, chỉ có hai tiếng ngủ rồi lại phải dậy, làm sao dẫn đoàn được?
Doãn Hoa có vẻ say, phất tay nói:
- Mặc xác nó, hôm nay có rượu hôm nay say. Được gặp lại chị, cái gì sánh nổi. Em quá phấn khởi. Nhưng, nếu như có Ngô Nguyên ở đây, như thế càng tốt.
Nói rồi, cô bỗng xoay người, một chống tay lên giường, tay kia với chiếc máy điện thoại cạnh đầu giường, chẳng ngờ lại gạt đổ mấy vỏ chai bia lăn xuống đất. Doãn Hoa cầm lấy máy điện thoại cười ha hả.
- Em định gọi cho ai sớm thế này? Tôi vội hỏi.
Doãn Hoa càng cười to hơn:
- Còn hỏi em gọi điện cho ai, còn có ai? Ngô Nguyên đấy.
Người ta nói “Tâm linh luôn có sự linh cảm”, em muốn biết anh ấy có ngửi được mùi của chị không? Thế cũng đủ rồi, anh ta thì ngủ rất ngon, còn hai thạch nữ chúng ta đang ở đây nhớ về anh ta, mẹ nó chứ, ha ha, thạch nữ, không, phải gọi là ngọc nữ mới dễ nghe, vôi ve son phấn rồi một lấy chồng sang Mỹ, một lấy chồng qua Nhật, một “không có cửa”, một “tà môn lệch đạo”, cả hai lại gặp nhau ở Bắc Kinh, ở đây nhớ, nhắc đến tên một mình Ngô Nguyên. Chị nói đi, có phi lí không? Dựa vào cái gì mà anh ta có thể đày đọa người khác như vậy? Không được, thế nào em cũng phải quấy đảo giấc mộng ngon lành của anh ta...
Nói rồi, giơ năm ngón tay bấm loạn lên bàn phím trên máy điện thoại.
Doãn Hoa vừa gọi, vừa lẩm bầm chửi rủa:
- Mẹ kiếp, lại sai rồi, luôn luôn sai. Sao lại chẳng bấm đúng nổi nhỉ...
Cuối cùng máy đã thông, Doãn Hoa lại ngửa mặt nằm vật ra giường, hững hờ trao máy vào tay tôi, nói với giọng điệu thê thảm:
- Hay chị nghe đi.
Tôi nghe thấy tiếng phụ nữ ở đầu dây bên kia:
- A lô, gặp ai thế?
- Ngô Nguyên. Tôi nói.
- Nó đang ngủ. Người phụ nữ kia nói.
- Xin hỏi cô tên là gì? Không nén được tôi buột miệng hỏi.
- Tôi là dì nó. Đầu dây bên kia trả lời rồi hỏi lại: - Cô là ai? Có nhắn lại gì không?
- Không cần, tôi sẽ gọi lại sau. Tôi nói rồi cúp luôn máy.
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:51 PM.
Lúc tôi tỉnh dậy thì đã gần mười giờ trưa, tôi dụi mắt, chẳng biết Doãn Hoa đi đâu. Tôi đứng dậy vào nhà vệ sinh. Nhưng, khi tôi lật đật đứng lên, cảm thấy đầu rất đau. Tôi biết tác dụng của cồn vẫn chưa hết nên quay lại giường nằm, chợt phát hiện trên tủ đầu giường có mảnh giấy, bèn nhặt lên. Đó là mảnh giấy có nét bút rồng bay phượng múa của Doãn Hoa:
Xin lỗi, em còn phải đi kiếm ăn. Có lúc thật không muốn làm việc hầu kẻ khác. Nhưng rồi không được, vì lâu dài, em cần phải kiên trì trước mắt; vì tương lai để người Nhật Bản làm cho em, bây giờ em cần phải cung cúc phục vụ họ. Cho nên, chị đừng đi, hãy đợi em, khoảng bảy giờ tối em mới về.
Ngày hôm nay,
Doãn Hoa
Tôi vo tròn mảnh giấy, ném trở lại tủ đầu giường, mơ mơ màng màng ngủ tiếp.
Nhưng tôi không sao ngủ tiếp được, bởi vì tôi chợt nhớ đến cuộc điện thoại dở dang sáng sớm nay.
Tôi xoay người, do dự mấy lượt, cuối cùng quyết định gọi điện đến cơ quan Ngô Nguyên.
Dường như anh không ở phòng làm việc, bởi có tiếng người gọi to trong điện thoại:
- Ngô Sở trưởng! Có điện thoại.
Tiếp đó là tiếng đế giầy cộp cộp xuống nền nhà vẳng lại từ xa, sau đó dừng lại:
- Xin hỏi ai đó?
Đúng là Ngô Nguyên ư? Tôi nghe tiếng tuy rất quen thuộc, nhưng lại quá lịch sự, không giấu được chút hoài nghi, tim bỗng nhiên đập rộn lên. Tôi vẫn bình tĩnh hỏi:
- Có phải Ngô Nguyên không?
Đầu dây bên kia có vẻ sững lại giây lát, rồi lại lên tiếng:
- Thạch Ngọc, đúng không?
Chẳng đợi tôi đáp, anh lại vội vã hỏi:
- Bây giờ em đang ở đâu, gọi từ đâu tới thế?
- Khách sạn Bắc Kinh, ở cùng Doãn Hoa...
Họng tôi bỗng nghèn nghẹn, nước mắt trào ra, cuối cùng chẳng thể nói được lời nào.
....
Chẳng mấy chốc Ngô Nguyên đã đến khách sạn tìm tôi.
Lúc đó tôi vừa trang điểm xong xuôi, nghe tiếng chuông, vội từ trong toa lét ùa ra mở cửa.
Anh đứng trước cửa, ăn mặc rất chải chuốt, chiếc áo jacket màu xám, quần âu màu đen, mái tóc hơi bồng bềnh, nét mặt gầy xanh, hàng ria hình như đã hai ngày chưa cạo; đôi mắt đen láy thêm chút từng trải nhân tình thế thái, nhưng thoạt trông vẫn trong sáng như xưa.
Tôi ngắm nhìn con người đã từng là chỗ dựa quan trọng nhất trong đời mình, vốn dự định chẳng thèm để ý đến điều gì mà ngã vào lòng anh, nhưng lại nghe giọng anh cực kỳ lạnh nhạt:
- Anh không vào, xe đang đợi bên ngoài. Em sửa soạn đi, chúng ta xuống lầu. Anh mời em đi ăn ở nhà hàng người Thái mới khai trương. Doãn Hoa đâu?
- Cô ấy đi dẫn đoàn rồi. Bảy giờ tối mới về.
Tôi nói, mọi xúc cảm trong lòng bỗng tan biến thành một cơn gió bay đi.
- Em có khoẻ không?
Khi chúng tôi xuống lầu, anh mới quan tâm hỏi.
- Vẫn thế. Tôi nói, rồi hỏi lại: - Còn anh?
- Một lời chẳng thể nói hết.
Anh nhún vai, cười đau khổ. Khi dừng chân trước cửa cầu thang máy, giơ tay bấm nút, anh ngoái đầu lại hỏi tôi:
- Nghe nói cô em đã qua đời? Tôi im lặng gật đầu.
- Thật đáng tiếc, cô ấy rất tốt. Nhưng kể cũng may, khi qua đời có em ở bên.
- Cũng đành phải nghĩ vậy thôi.
Cửa thang máy từ từ mở ra, chúng tôi lần lượt bước vào khoang thang máy.
- Sao em lại ở cùng với Doãn Hoa? Trong điện thoại anh còn cho là mình nghe nhầm. Bọn em vẫn thường xuyên liên lạc với nhau?
Sau khi cửa thang máy đóng, anh nhìn tôi buồn rầu hỏi.
Tôi thuật lại chuyện hai chúng tôi tình cờ gặp gỡ. Anh nghe xong gật gù:
- Thế cũng tốt.
Khi ra khỏi thang máy, anh lại nói:
- Nhưng con người Doãn Hoa có lúc chẳng rộng rãi cho lắm, chỉ có rách việc, luôn gây phiền phức cho người khác, tốt nhất em phải giữ khoảng cách với cô ấy.
Chúng tôi lên chiếc Santana màu đen nghe nói sở anh mới mua đỗ ở ngoài bãi.
Chúng tôi ngồi ở hàng ghế sau, khi chiếc xe hoà vào dòng xe trên đường Tràng An, tôi xoay lại, muốn hỏi han tình hình công việc của anh, nhưng thấy anh giơ tay che môi ra hiệu, mắt liếc liếc người lái xe. Tôi hiểu dụng ý của anh, bèn ngậm miệng chẳng dám nói gì. Nhưng đối với một người bạn học cũ mấy năm chẳng gặp, không khí im lặng này có vẻ kỳ kỳ, vậy là anh lại chủ động nói với tôi về tình hình thời tiết Bắc Kinh, bắt đầu là oán thán không khí ngày càng bẩn, tầm nhìn ngày càng giảm, chất lượng không khí ngày càng kém, rồi lại xoay sang nói đó là điều khó tránh khỏi trong quá trình cải cách mở cửa, trong tiến trình hiện đại hoá đô thị các nước phát triển đều phải trải qua giai đoạn như vậy. Sau đó anh lại nói với tôi về sự thay đổi mỗi ngày mỗi khác của thành phố Bắc Kinh. Đáng tiếc là tôi lần đầu tiên tới Bắc Kinh, chẳng có gì để so sánh đối chiếu, không thể đưa ra ý kiến của mình, chỉ đành “vâng vâng dạ dạ” xướng hoạ theo. Đương nhiên, lòng dạ tôi cũng chẳng chú tâm vào đó, chí ít thỉnh thoảng tôi đưa ánh mắt ngắm nhìn khuôn mặt anh, nhưng không thể hiện hứng thú đối với những bàn luận của anh, mà trái lại là tôi đang quan sát. Bằng mẫn cảm của người phụ nữ, bằng những hiểu biết của mình trước đây về Ngô Nguyên, giờ đây trước mắt tôi anh trở nên là lạ, hoặc đã ít nhiều khang khác. Nhưng tôi cũng tự an ủi, con người trong chốn quan trường cũng khó tránh được những lời nói sáo, bởi vì phải đọc báo cáo, xem báo cáo, học văn kiện, viết tổng kết và báo cáo nhiều, có lẽ trở thành thói quen. Hơn nữa, nói nhiều ắt lỡ lời –– ai mà biết được người lái xe đang ngồi kia là ma phương nào?
Tôi đoán phần nửa là đúng. Bởi vì sau khi chúng tôi đến nhà hàng người Thái, anh lập tức cho lái xe nghỉ. Tôi không nén được hỏi:
- Sao anh không giữ anh ta lại ăn cùng luôn thể?
- Thôi, có anh ta ở bên, nói năng không tiện.
- Như vậy, anh ta không phải là người của anh?
Chúng tôi bước vào nhà hàng Thái, sau khi lựa chọn bàn ăn ở góc khá yên tĩnh, tôi hiếu kỳ hỏi.
Anh lại cười cười:
- Khó nói lắm. Là người của một Phó Sở trưởng bố trí cho vào, anh còn phải xem xét đã.
Nói rồi anh trút hơi thở dài, bỏ áo ngoài mắc vào thành ghế, nét mặt trở nên sinh động, lại lẩm bẩm:
- Xem như được thảnh thơi chút ít.
Nói rồi anh đẩy quyển thực đơn được cô phục vụ mang lại đến trước mặt tôi:
- Em cứ chọn thoải mái nhé, chọn món ngon, quý, đắt tiền vào. Đừng có khách khí, anh có thể trả được. Nói rồi anh lại bổ sung: - Bình thường những chuyện đưa đưa đón đón, anh đều để người khác đi thay, chẳng ai có thể nói chuyện phiếm.
Nhưng tôi chỉ chọn món “mì sợi qua cầu” đặc sản Vân Nam, hai món mặn và một món chay. Ngô Nguyên không vừa ý, anh nhặt quyển thực đơn lên. Cuối cùng sơn hào hải vị bày đầy bàn, bay trên trời có, chạy dưới đất có, bơi trong nước có, chẳng thiếu thứ gì, rồi lại gọi thêm chai XO góp vui.
Quá nửa tuần rượu, Ngô Nguyên nói năng cũng thoải mái hơn trước. Đầu tiên là ta thán sự hiểm ác của chốn quan trường, tiếp đó là liệt kê đủ điều không phải của “Quả quýt” –– nào là không biết làm việc nhà, không biết quản lí, không hiền thảo, không nhân hậu, không có khí chất phụ nữ, kiêu căng, thích điều khiển... cho nên sau hôn nhân chỉ có cãi vã không ngừng, thậm chí anh thường cảm thấy tâm cùng sức kiệt. Nhưng ngại nỗi thế lực bố vợ nên không thể không nhẫn nhịn cô ta mọi điều... nửa năm trước, giữa hai người bùng nổ trận đại chiến, thậm chí hai bên đã sử dụng cả chân tay... nói đến đây, anh có chút xúc động, hai mắt cay cay nhìn tôi, dường như có ý hối lỗi rất nhiều. Tôi cũng chìm trong dòng suy tưởng của mình, ngẫm nghĩ lại một lượt: nếu như không vì trở ngại thể xác, cuối cùng sau khi trở thành vợ anh, giữa chúng tôi liệu có xảy ra những cãi vã? Phải chăng sẽ tương đối tốt đẹp, và tôi có thể giúp đỡ được anh điều gì to tát? Nhưng tôi không ghìm được lắc đầu, bởi vì tôi biết, nếu như thế, tuyệt đối anh không thể nhanh chóng lên được tới cấp Chánh Sở...
- Em còn nhớ anh đã từng nói, mọi thứ tốt đẹp trên thế gian này đều có khiếm khuyết. Bản thân cái đẹp cũng chỉ là chớp mắt qua đi. - Tôi bỗng chẳng đầu chẳng đuôi cảm thán.
- Nhưng được gặp lại em trong lòng anh rất phấn khởi. Em đi mấy năm mà chỉ gửi cho anh một lá thư, anh cho rằng em... sau này, em gái anh nói em trở về, anh cũng chẳng ngờ em sẽ đến thăm anh... thôi, chẳng nói những điều này nữa, nào, cạn chén! Quả thực, lâu lắm rồi anh chẳng được vui vẻ. Có lúc ngẫm nghĩ, làm quan ở Trung Quốc quả là mệt. Chẳng phải mệt vì công việc nặng nhọc, mà là bởi các mối quan hệ nhằng nhằng nhịt nhịt, làm cho mình đầu óc mình quay quay cuồng cuồng. Anh vẫn chưa nói với em, anh quản lí bộ phận tổ chức và nhân sự, một khi không cẩn thận thì không biết đắc tội với các công tử, thiên kim hoặc em út của mấy vị lãnh đạo bất cứ lúc nào. Cho nên, có người nói làm quan ở Trung Quốc là “công lao ở ngoài công việc”, lời này quả danh bất hư truyền.
Anh nói đến đây, lại nâng cốc tợp một ngụm đầy, bỗng nhiên hỏi tôi:
- Buổi sáng hôm nay, dì anh có nhận điện thoại của một phụ nữ, có phải em gọi không?
Tôi gật gật đầu, nhưng cũng bổ sung:
- Doãn Hoa bấm máy, cô ấy uống say, có ý quấy anh dậy. Nhưng sau đấy lại để em cầm máy.
- Em cũng chẳng để lại tên tuổi, làm anh căng thẳng muốn chết.
- Vì sao?
Tôi thấy lạ, không hiểu hỏi lại.
- Có người nói với anh, mấy hôm nay có bà lãnh đạo ở ban Tổ chức Trung ương tìm anh, có thể là muốn điều anh đến trường Đảng Trung ương học. Sau khi dì nói với anh, anh liền nghĩ, vừa mới sáng sớm, ai lại gọi điện cho mình đây? Lại không chịu nói tên tuổi. Anh biết, bạn bè thân thích nhất định sẽ không gọi vào lúc sớm như vậy, thuộc hạ thì càng không dám quấy rối giấc ngủ của anh. Nghe nói vị nữ cán bộ này thường thích gọi điện cho người khác vào buổi sớm. Anh nổi xung với dì một chặp, trách dì ấy không gọi anh dậy. Dì anh ôm ấm ức trong lòng. Kết quả làm anh cả buổi nay cứ thấp tha thấp thỏm. Cũng may, hoá ra là em.
Khoé miệng anh nở nụ cười nhạt rất quen thuộc.
Chúng tôi lại nói về tình hình của một số bạn học quen biết hồi học đại học. Bỗng ở chính giữa đại sảnh, dưới lầu trúc bỗng vang tiếng đàn sáo, trống điểm từng hồi, tiếp đó ở góc lầu trúc thấp thoáng mấy thiếu nữ dân tộc Thái trong trang phục màu trắng nhảy múa theo tiếng trống và tiếng nhạc, từ từ tiến ra.
Chúng tôi bỏ bát đũa, chăm chú thưởng thức một tiết mục đặc biệt nhà hàng đưa ra. Ngô Nguyên xem vẻ rất chuyên tâm, thần thái càng lúc càng thoải mái, chân dậm dậm, ngả người hẳn ra phía sau, thỉnh thoảng lại xoay sang phía tôi bình luận.
Nhưng chiếc điện thoại trong chiếc cặp sách đen của anh để trên ghế bỗng đổ chuông.
Anh lơ đễnh áp máy lên tai, buông một tiếng “A lô ––” dài thượt, bỗng anh nhỏm hẳn người dậy, sắc mặt thay đổi, tiếp đến gật đầu vẻ hoảng hốt, không ngớt miệng nói: “Vâng, vâng, em đến ngay, em đến ngay”. Sau đó anh vội vã cất máy điện thoại, gọi phục vụ đến tính tiền. Anh quay sang nói với tôi:
- Xin lỗi, đang nói tới Tào Tháo, Tào Tháo đã đến. Chính là bà lãnh đạo anh vừa nói với em đấy, bà ta muốn anh phải đến văn phòng của bà ấy ngay. Thế này, em ăn một mình nhé, từ từ thưởng thức, ở Bắc Kinh ít ngày nữa, anh sẽ tranh thủ đưa em đi chơi.
Anh ghi số điện thoại nơi tôi ở, nhận số tiền lẻ cô phục vụ đưa tới, xách cặp rồi như một cơn gió ào đi, chỉ để lại trước mặt tôi một bàn tiệc dở dang và nửa chai XO.
Sau đó Ngô Nguyên không thể đưa tôi đi chơi như đã nói. Một tuần sau anh phải đến trường Đảng Trung ương báo danh, ở cơ quan còn rất nhiều việc phải bàn giao. Nhưng ngày hôm sau, anh vẫn bớt chút thời gian trong lúc công việc bận túi bụi, điều một chiếc xe cùng tôi đi Trường Thành. Doãn Hoa vốn cũng muốn đi cùng chúng tôi, nhưng sau lại sai hẹn, nói là chưa thể tìm người thay thế được mình, hơn nữa đoàn khách hôm sau cô hướng dẫn lại đi ngoại tỉnh.
Lúc leo Trường Thành, tôi luôn cảm thấy Ngô Nguyên có tâm sự nặng nề, bèn nói với anh:
- Làm sao thế, tinh thần hăng hái Tân Nho gia năm nào của anh đâu rồi?
- Hừ, em không hiểu. Lý luận một đằng, thực tiễn lại một nẻo. Bây giờ, đối với anh, bố vợ không dựa nổi nữa, tất cả phải tự lực cánh sinh. Cho nên được bà lãnh đạo ban Tổ chức Trung ương rất xem trọng, điều đó làm anh rất phấn khởi, nhưng vấn đề là, bà ta cũng có không ít mặt đối lập... nói thế nào nhỉ, hay nói một câu thế này, anh phải như lý bạc băng, như lâm thâm uyên...
- Cẩn thận là đúng, nhưng anh cũng không nên rón rén sợ sệt như vậy, cẩn thận từng ly từng tí, càng không thể quên lý tưởng ban đầu của việc theo chính trị là cứu người, cứu xã hội... Tôi thử khích lệ anh, rồi lại nói: - Mao Chủ tịch đã nói “Hùng quan mạn đạo chân như thiết, nhi kim mại bộ tòng đầu việt”(1). Em rất tán thưởng anh có thể tự lực cánh sinh. Bởi vì đời người ngẫm nghĩ cho kỹ, thực ra chẳng ai có thể dựa vào ai. Cầu xin người chẳng bằng cầu chính mình, cái mình nắm rõ nhất, chính là lòng mình. Cho nên, bất cứ gặp chuyện gì khó khăn và trắc trở, nhất định không thể lùi bước...
Nói rồi tôi xoay người, hít hơi thở sâu, nhấc chân tiếp tục leo lên đài phong hoả ở đỉnh Bắc Cao.
Trong lòng tôi hiểu rõ, những lời tôi vừa nói với Ngô Nguyên, thực ra cũng là cảnh giới với chính mình.
Cuối cùng chúng tôi leo tới đỉnh Bắc Cao. Tôi thở sâu, chống tay vào eo ngồi trên cửa sổ hoả phong đài nghỉ ngơi, mãi xa ngút mắt, đồi núi nhấp nhô, kéo dài vô cùng vô tận, màn trời càng xa càng nhạt, gió ngàn thổi càng mạnh. Bỗng nhiên Trường Thành như một con mãng xà khổng lồ, nâng thể xác tôi lên trong ảo mộng cùng những suy nghĩ miên man vô cùng vô tận...
Tôi nhìn Ngô Nguyên bên cạnh, bỗng nhiên rung động, thì thầm:
- Ôm em đi, được không?
Anh hơi chần chừ, rồi tiến lên, giang hai tay ôm tôi vào lòng...
- Chặt nữa...
Tôi lại nói và gục lên vai anh khóc không thành tiếng.
Anh nồng nàn vuốt vuốt tóc tôi, nhè nhẹ vỗ vào vai tôi, khe khẽ:
- Đừng, đừng thế, đừng như thế...
Đợi sau khi tôi bình tĩnh trở lại, anh ghì lấy khuôn mặt tôi, nhẹ nhàng đặt lên một nụ hôn cháy bỏng.
Tôi có chút đê mê, như uống cam lộ, nhưng trong lòng tôi không dám tin đó tất cả là sự thực. Tôi mơ như thấy mình đang ở trên trời, trong lòng ôm một đám phù vân.
Tôi lau nước mắt, ngẩng lên nhìn anh, rồi lại xoay mặt, lặng lẽ ngắm nhìn sắc hoàng hôn mênh mang ngoài biên ải. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy trước mắt mình dường như lại xuất hiện một ảo giác xa xưa, thậm chí còn nghe được cả âm thanh. Tôi nói với Ngô Nguyên:
- Em bỗng nhớ đến câu thơ của cổ nhân.
- Câu gì.
Ngô Nguyên ngoái đầu lại hỏi.
- Oán chi dương liễu, sáo ơi
Gió xuân đâu thổi tới ngoài Ngọc môn.
- ...
Ngô Nguyên muốn nói điều gì đó rồi lại thôi
- Câu thơ này thực ra là viết cho em.
Tôi tự trào xót xa nói, đồng thời cũng nở nụ cười tê tái.
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 06:57 PM.
– Anh còn nhớ không? Lần đầu chúng ta hẹn gặp, tôi đã từng nói, tôi hy vọng sau này ra sách, tốt nhất ở tờ lót có đề rõ rằng “Lời tự bạch về thể xác của một người phụ nữ phương Đông”. Tôi nghĩ, nhất định tôi đã nói điều này rồi. Còn về việc sau này anh có thể dùng nó hay không, có muốn dùng hay không, đó là chuyện của anh. Tôi cũng quyết không can thiệp nữa. Nhưng, tôi thực sự có cảm giác, câu này đặt ở bìa lót thì rất hay, rất hấp dẫn, gợi lên chủ đề và cũng rất ăn khớp với nội dung trong sách. Chỉ có điều cho mãi đến hôm nay, khuôn khổ do tôi tự thuật về thể xác của mình dường như hơi ít, chỉ ngẫu nhiên đề cập, thường không đi sâu nghiên cứu, ý nghĩa còn chưa tận tường. Được rồi, ánh trăng ngoài cửa sổ đêm nay đẹp như vậy, gió đêm nay mát mẻ và sảng khoái như vậy, ánh sao đầy trời hiếu kỳ chớp chớp nháy mắt... Như vậy, hãy để tôi nói cho tương đối cặn kẽ về thể xác của mình – vừa là để tôi sinh tình, trân trọng, tiếc thương và cũng là để tôi buồn đau cho thể xác, linh hồn của mình.
– Đương nhiên, có thể bình tĩnh mà nói chuyện về thể xác của mình với anh – một người đàn ông – thế này, với tôi trước đây, điều này thật khó tưởng tượng nổi. Còn bây giờ, tôi cảm thấy rất kinh ngạc bởi mình lại có những giây phút bình tĩnh và thản nhiên như vậy. Có lẽ cũng bởi duyên do tuổi tác dần lớn, sự lịch duyệt càng nhiều, thời thanh xuân đã dần qua. Nhưng, tôi nghĩ, tất cả những thứ này chẳng phải là điều chủ yếu. Cái chủ yếu nhất chính là tấm lòng tôi, tư tưởng của tôi, tình cảm của tôi, linh hồn của tôi (nếu đích thực tồn tại) đã đang ngày càng xa rời ngày càng lạ lẫm với thể xác tôi. Còn nữa, chẳng giấu gì anh, hôm qua tôi khiêu vũ cùng mấy cô bạn gái, uống mấy viên thuốc lắc, đến giờ vẫn còn có cảm giác high (hưng phấn). Buổi trưa hôm nay tôi có đi xông hơi mát xa, cái lò than đó dường như đã không chỉ chưng mất rất nhiều nước trong thể xác tôi, mà còn chưng cất cả những ngại ngùng của tôi... Đương nhiên, còn một chút, cũng là một điều chủ yếu nhất, đó chính là niềm tin của tôi đối với anh. Bởi vì ngay từ đầu, tôi đã không chỉ xem anh là một nhà văn, một văn nhân, mà còn xem là người bạn vô tính chân thành. Nhưng cũng xin anh đừng để bụng, vô tính tôi nói ở đây quyết không mang nghĩa chê cười, cũng không phải là cái mà người ta thường nói bóng gió đến năng lực của người đàn ông. Tôi thực sự rất ngợi ca, rất ngưỡng mộ, rất cảm động. Bởi vì chỉ có thiên sứ mới có thể là vô tính. Anh đối với cuộc đời của tôi mà nói, thực ra là thiên sứ, là Tiết sứ được Thượng đế phái xuống để giúp tôi hoàn thành cuốn sách rất có ý nghĩa mà tôi nghĩ là Thượng đế hoặc Bồ tát bắt tôi phải hoàn thành. Quả thật, tôi rất cảm ơn anh. Thời gian nói chuyện với anh, mặc dù phần lớn tôi tự lẩm bà lẩm bẩm, nhưng tôi cảm thấy rất vui vẻ. Tốt rồi, không nói những lời nghe giống như gắng sức tâng bốc và nịnh nọt, cũng nguyện sẽ không làm cho anh phải cảm thấy quá kinh tởm.
– Hãy quay về vấn đề chính đã. Nói thế nào nhỉ? Quả thật, giống như rất nhiều người phụ nữ khác, tôi thường thích soi mình ngắm nghía trong tấm gương mờ mờ hơi nước, thưởng thức những giọt nước lấm tấm khắp thân mình. Thật giống một đoá hoa trong sương, trong gương, tôi trông thon thả và mảnh mai hư ảo, hoặc trắng tinh khiết của trăng non. Hơi nước tan, như mây quang mặt trời hửng sáng, giống như đoá phù dung trên mặt nước, thể xác tôi hiển hiện ra một cách chân thực và sinh động hơn. Lúc này, mặc dù trên đầu tôi còn chít khăn bông, nhưng tôi không thể không kinh ngạc mến phục vẻ đẹp của chính mình – nói lời thông tục sáo rỗng, đấy chính là nơi nào cần thon thì thon, nơi nào cần nở thì nở, nơi nào cần săn thì săn, nơi nào cần tròn thì tròn, nơi nào cần to thì to, nơi nào cần nhỏ thì nhỏ... Đôi mắt tôi như đầm sâu, u tĩnh mà hàm súc, hàng mi như lá liễu, nhỏ dài mà thanh thoát, sống mũi thẳng tắp... nhưng cái tôi thích nhất chính là trán và cằm. Bỏ chiếc khăn bông ra, giơ hai bàn tay, lấy ngón làm lược chải, vuốt mớ tóc dài suôn sau vai, tôi phát hiện ra trán mình nhấp nhô như đồi núi, rộng bát ngát như thảo nguyên, lại tinh khiết óng ánh như đá Đại Lý. Tuy có hơi nhô về phía trước, nhưng chẳng hề lộ một chút dô, có cái trán của Tô tiểu muội, nhưng không có cái tật của cô ấy. Cái cằm của tôi hơi nhọn, khi cười cả hàm răng trắng ngần tự nhiên như nhiên kéo gần lại khoảng cách giữa miệng và cằm, đường nét và màu sắc hài hoà cùng tôn nhau lên. Cho nên, bạn gái tôi đều nói, khuôn mặt của tôi thuộc ngũ quan đoan chính, khiến người ta càng nhìn càng yêu. Cũng có người nói, gương mặt tôi kiêm cả cái đẹp cổ điển và vẻ hiện đại, như tạc đá và điêu khắc thời văn nghệ Phục Hưng ở phương Tây... vì vậy, mỗi khi tôi loã lồ trang điểm trước gương, bị mê hoặc và lôi cuốn bởi thể xác xinh đẹp, hai tay tôi thường thường không nén được vuốt ve khắp trên dưới, trước sau thể xác mình. Rất kỳ lạ, lúc này tôi thường thường cảm thấy đối tượng được vuốt ve chẳng phải là mình, mà là một người phụ nữ không hề quen biết nào đó, hoặc giả một tác phẩm nghệ thuật tôi rất yêu quý – vừa có dấu tích tiền sử, vừa có dấu ấn của văn minh hiện đại. Có lúc, vòng cổ tròn, giữa hai bầu vú, bụng thon, bờ vai gầy, bắp đùi thon của tôi vẫn còn ngấn lên những giọt nước, chúng long lanh tương phản dưới ánh đèn rực rỡ và kính luôn khiến tôi liên tưởng tới cảnh tượng “Một cành hoa lê dưới mưa xuân” trong thơ cổ nhân. Da thịt của tôi vô cùng sạch sẽ, giàu tính đàn hồi, sờ lên rất ấm trơn, rất mịn màng, giàu xúc cảm. Gương mặt tôi chưa từng có một thứ gì kiểu “mụn thanh xuân”... Quả thực, chẳng phải tôi quá tự tin, tự yêu tự mến, hoặc giả tự đánh giá quá cao, tôi nghĩ, nếu bộ phận kia của thể xác tôi không phải nửa kín nửa hở (đương nhiên, còn có dấu ấn mới thêm vào ở háng), với điều kiện và tố chất của thể xác mình, tôi cần phải được xem là một người con gái vô cùng hoàn mĩ.
– Nhưng, còn nhắc đến những thứ này để làm gì?
– Bề ngoài của tôi càng xinh đẹp thì càng khiến lòng tôi thêm đau khổ thê lương hơn.
– Ôi, mảnh đất hoang nửa kín nửa hở của tôi ơi, ngươi là cái lưới mà cuộc đời ta giẫy không thoát, chạy không qua, ma quỷ âm hồn lẩn khuất, cũng là chốn đau thương chôn vùi tất cả hạnh phúc của tôi... Xem ra, suốt cuộc đời này, tôi quả thực chỉ có thể “Giữ đạo trời, diệt dục vọng con người”.
– Trong một thời gian khá dài, tôi thậm chí rất sợ nghe thấy những từ như kiểu “kín, hở, đóng, khoá, hợp, long...”. Những từ này một khi từ miệng người khác vang lên, hoặc giả xuất hiện trong sách vở, một số bộ phận nào đó của thể xác tôi lại đau vô vùng, như có kim đâm...
Tôi cũng cần phải nói, từ sau khi trở về Trung Quốc, hoặc nói cách xác thực hơn, từ sau bận chảy nhiều máu bất thường ở rừng Khổng, Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông ấy, tôi phát hiện ra con “đê lớn chắn sông” trong thể xác tôi chẳng hề bị xối vỡ, ngược lại dường như nó càng trở nên vững chắc hơn, cũng như lòng Hoàng Hà, mỗi ngày một bồi cao... hơn nữa, tôi cũng bỗng nhiên cảm thấy, cửa ra của “lòng sông” vốn đã chật hẹp, dường như lại bắt đầu rút căng lại.
Cuộc sống đang dần bình lặng của tôi lại bị đảo loạn.
Vốn, nếu như tất cả như cũ, mặc dù là “nửa đóng kín”, chỉ cần lòng tôi chớ mơ màng, đóng cửa tạ từ khách thì tôi còn có thể tiếp tục ứng phó. Nhưng nếu như biết được “con đê” trong thể xác này tiếp tục lớn lên, lấp lại và phong kín nghiêm ngặt cái cửa ra cỏn con ấy thì thực là tai hoạ tôi sắp phải đối đầu.
Nhưng, tôi cũng còn chưa chắc chắn, có thể lo lắng là bởi mình quá căng thẳng nên sinh ra cảm giác sai lầm.
Tôi chạy đến siêu thị y dược mua đôi găng tay, ngẫm nghĩ lại mua thêm dầu cao trơn. Từ đó, mỗi tối khi đi ngủ, tôi đều đeo găng tay như bác sĩ, thử dùng ngón tay út thăm dò phần dưới thể xác của mình...
Khi mới bắt đầu, đau đớn là điều khó tránh khỏi, nhưng cái chủ yếu hơn là cảm giác ngượng ngùng. Bởi vì mặc dù tôi làm việc này trong chăn, nhưng tôi luôn cảm giác trong hư không dường như có đôi mắt nào đó đang chăm chú dò xét hành vi kỳ lạ hoặc không bình thường của tôi. Đồng thời, cũng trong lúc thăm dò, sự nghi ngờ của tôi mỗi lúc một tăng, đến sau này, chẳng thể làm rõ được nơi đó của mình rốt cục có những thay đổi gì.
Thường thường là, ngón tay khi mới chọc vào rất căng, thậm chí có cảm giác như bị cắn, nhưng dần dần lại lỏng ra, thậm chí lại rất nhanh chóng dễ dàng. Nhưng đến sớm hôm sau thử sờ lại, lại thấy nó chặt khít như ban đầu...
Tôi bèn nghĩ: nếu như mình cứ thường xuyên đút ngón tay vào, để khoét, để móc, để thông có lẽ sẽ có thể khiến đám thịt thừa trong thể xác tôi không phát triển. Nếu không, thì sao người ta lại luôn nói “nước chảy không thối, chốt cửa không mọt”?
Vấn đề là sau mỗi lần đi ngủ, tôi không thể bảo đảm được ngón tay của tôi từng phút từng giây vẫn còn giữ được ở nơi đó.
Tôi nghĩ đến sau khi phẫu thuật, dì Doãn Hoa đã từng đưa cho tôi cái ống nhựa mềm –– nó hiện giờ đã nằm yên dưới đáy sông Hoàng Phố bên bến Thượng Hải, hoặc chìm nổi cùng với dòng nước, hoặc ngủ chung với bùn đất, hoặc cùng vật vờ với sóng gió mấy năm nay, dần dần dần tiến tới cửa biển... Tôi nghĩ, bây giờ mình không cần cái thô thế, không cần cái to thế, cũng không cần cái cứng thế, nếu có thể thì sẽ bửa nó ra, lấy một phần ba tới một phần tư là được (đương nhiên vẫn phải hình ống tròn).
Thực ra đấy không phải là việc quá khó khăn. Sau khi tôi đi qua rất nhiều siêu thị và cửa hàng đã không chỉ mua ống cao su lý tưởng có độ dài hơn hai mươi phân, lại còn mua thêm một cái thụt to gần như ống xi lanh tiêm.
Như vậy, ngày lại ngày, mỗi đêm nằm trên giường tôi đều trịnh trọng đưa đoạn ống bọc cao su đã được khử trùng bằng Iđrogien peroxit, sau đó lòng đầy thấp thỏm đưa vào thể xác mình. Và sau mỗi kỳ kinh nguyệt, tôi lại dùng ống tiêm bơm nước muối loãng và Iđrogien peroxit vào trong “lòng sông” của tôi nhằm có thể kịp thời xử lý hoặc làm sạch những cáu bẩn và vết máu tích tụ lại bên trong “con đê lớn” thể xác tôi – tôi thường hoài nghi (đương nhiên không có chứng cứ khoa học), chính là những máu bẩn bám cặn không thể dễ dàng bài tiết ra ngoài, mới dần dần sinh ra các loại khuẩn bệnh và nấm bệnh, một mặt càng làm tăng thêm độ cao của “con đê lớn”, mặt khác tạo thành cơn đau đớn không theo quy luật ở bụng dưới.
Những điều phân tích của tôi có lẽ cũng có lý, tôi áp dụng biện pháp “dùng ngón tay làm chủ thể, dùng ống bọc cao su làm vật dùng” để xem xét thích đáng. Mặc dù nói thế nào, qua một thời gian tìm tòi, sự sinh trưởng của đám thịt thừa trên “con đê lớn” trong thể xác tôi chắc chắn đã được khống chế, điều đó thể hiện ở việc cửa ra của phần dưới thể xác tôi không còn xuất hiện bất cứ một sự co rút nào nữa (nhưng cũng không có dấu hiệu của mở rộng), đồng thời, dần dần, sự đau đớn ở bụng dưới không theo quy luật cũng đỡ đi rất nhiều.
Mặc dù nghĩ là “có bệnh thì vái tứ phương”, nhưng đơn thuốc tôi tự kê cho mình lại có thể dùng được, trong lòng tôi không giấu được nỗi niềm phấn khởi vô cơn vô cớ, đồng thời cũng hối hận sớm không thay đổi vận dụng biện pháp hướng dẫn của dì Doãn Hoa
Nhưng điều khiến tôi cảm thấy hưng phấn lại còn ở mặt sau đó.
Nói như này, nếu như sau phẫu thuật năm xưa, khi nhét ống đó vào trong người (đương nhiên khi vết mổ đã lành và không còn đau đớn nữa), thực tế tôi đã cảm nhận được một chút khoái lạc, thì nói thẳng ra hiện giờ, cái nguyện vọng dường như bẩm sinh đó đã chịu nằm ngủ yên, trải qua đợt giày vò này, bỗng nhiên như con thú lớn bị đánh thức...
Lâu dần, việc đưa đoạn ống bọc cao su và ống tiêm vào trong người đã không chỉ trở thành nhu cầu sinh tồn của tôi, đồng thời cũng trở thành một khát vọng bản năng cháy bỏng trong đời sống của tôi.
Tóm lại, cảm giác đớn đau lúc đầu đã dần mất đi, thay vào đó là sự kích động không thể hiểu khi khẽ chạm vào đã run lên không thể kiềm chế, đồng thời những tiếng rên và kêu la không sao ghìm nổi, hơi thở gấp gáp sau những động tác mạnh cũng như sự đê mê tột cùng...
Cuộc sống của tôi đã xông vào một lĩnh vực hoàn toàn lạ lẫm.
Lúc này tôi hiểu rõ: thể xác tôi tuy bị cầm cố, không thể mở cửa đối ngoại với thế giới bên ngoài, nhưng tôi còn có thể tự lực cánh sinh, tự động chân động tay để trải qua cuộc sống “no cơm ấm áo”.
Thực ra, ngẫm nghĩ cho kỹ, một thể xác bị cấm cố hoặc nửa kín nửa hở, cũng không phải hoàn toàn là khiếm khuyết hoặc đáng tiếc. Chí ít, trong xã hội khi tỉ lệ phạm tội cứ luôn tăng vọt thế này, trong môi trường quan hệ đối xử giữa hai giới tính ngày càng dễ dàng, trong thời đại mà đêm tân hôn đã không thể tìm được cô dâu còn trinh nữ, tôi có thể không phải lo lắng bị hãm hiếp (sự thực là cũng không thể thực hiện), cũng không phải lo lắng sẽ bị nhiễm AIDS hoặc các căn bệnh xã hội đáng sợ khác. Đương nhiên, còn có cái quan trọng hơn, tôi lại càng không thể rơi vào trò chơi tình yêu lấy quan hệ giới tính làm cơ sở mà đời người cần phải có kinh nghiệm và trải qua. Tôi có thể lạnh lùng bàng quan xét nhân thế trút lòng ham muốn bản thân, theo đuổi tình dục, và bị thiêu thân trong tình trường của sinh tử biệt ly đó...
Nhưng, tôi vẫn có thể hưởng thụ...
Đó không phải là sự khoái lạc do cọ xát của ngón tay và khí cụ tạo thành, cái quan trọng là có sự bổ sung của sức tưởng tượng phong phú của tôi.
Khi hướng đâm vào trong người, càng ngày càng tôi thích nhắm nghiền mắt, không muốn nhìn thế giới bên ngoài, chìm đắm trong hạnh phúc ảo tưởng của thể xác mình. Lúc này, tôi thường cảm giác chân thực được ngón tay trong vận động và chuyển dịch đã không phải là ngón tay của tôi, đoạn ống bọc cao su cũng không phải khí cụ không có sự sống, nó bỗng nhiên thanh xuân phơi phới, giống như một chú nai tơ trong rừng, khoan khoái loăng quăng giẫm đạp và đâm chọc khắp nơi trên gò đất hoang đen thui thủi của tôi. Có lúc, chú nai tơ này lại biến thành Ngô Nguyên, Dabruce hay Thường Đạo...
Nhưng bất kể là ai, hiện tại đã trở thành công cụ thuần phục của tôi. Tôi cần nó dũng mãnh thì nó dũng mãnh, tôi cần nó cương cường thì nó cương cường, tôi cần nó mềm mại thì nó mềm mại... Tóm lại, tôi vừa là tôi vừa là một lực lượng khác mình và khác giới. Tôi là một người phân làm hai, vừa là đàn ông lại vừa là đàn bà; lại hợp hai là một, đàn ông và đàn bà đồng thời là tôi... âm và dương, đực và cái, ở tôi đều đạt đến sự thống nhất diệu kỳ. Tôi chính là phép biện chứng, chính là sự phủ định của phủ định, chính là Bồ tát, chính là thiên sứ... Thiên sứ và Bồ tát đều là vô tính hoặc song tính, tôi cũng là vô tính hoặc song tính, đồng thời có đặc trưng của tất cả mọi giới...
Cho nên, tôi bỗng càng yêu thể xác mình hơn bất cứ lúc nào trước đây –– mảnh đất hoang của ảo tưởng lông mọc mơn mởn... có lúc tôi cũng tỉnh ngộ, thể xác của tôi thực ra chính là “Ngọc của Thường Sơn”, “Ngọc của họ Hoà”. Lão Tử nói: “Vô vi là khởi nguồn của trời đất, hữu vi là mẹ của vạn vật”. Đàn bà trong thiên hạ đều có, chỉ riêng mình tôi không. Có thể thấy, đây cũng là dám đưa ra cách thức lạ của tạo hoá và tự nhiên. Tất cả đàn bà thế gian này, Thượng đế có thể không quan tâm, để mặc họ chịu sự giày vò và giẫm đạp của bọn đàn ông, duy chỉ Thạch Ngọc là không thể. Đồng thời, Người lại đặc cách khai ân với tôi, cho phép tôi có thể tự mình hưởng thụ, hơn nữa không lo lắng mầm mống ô trọc của bọn đàn ông gieo trồng... Vì vậy, mỗi khi đêm khuya vắng lặng, hai tay tôi lại lướt qua bụng dưới mịn trơn trong ánh trăng tưởng tượng, tìm tòi sơn động thần bí, rậm xanh, tôi lại nghĩ tới háng của tôi là vườn Địa đàng, nơi đó ánh nắng mặt trời tươi đẹp, đầy tiếng chim hót và hương hoa... Lúc này, tôi lại muốn cất tiếng hát, nhưng mắt cũng ứa lệ –– các anh có ai có thể cảm nhận như thế? Tôi là người khai khẩn duy nhất thể xác của mình!
Last edited by khungcodangcap; 06-01-2009 at 07:03 PM.