Ghi chú đến thành viên
Gởi Ðề Tài Mới Trả lời
 
Ðiều Chỉnh
  #81  
Old 14-01-2010, 11:02 PM
hldta76 hldta76 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: ha noi
Bài gởi: 123
Thời gian online: 5 giờ 55 phút 23 giây
Xu: 0
Thanks: 1
Thanked 1 Time in 1 Post
Smile 48 Đại Nguyện Của Phật A Di Đà

Ðiều nguyện thứ nhất: Nếu con được thành Phật mà trong cõi nước con còn có địa ngục, ngã quỷ, súc sinh thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con sau khi thọ chung còn phải sa vào đường dữ thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba: Nếu con được thành Phật mà tất cả Trời, Người trong cõi nước con thân không giống màu vàng y thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ tư: Nếu con được thành Phật mà tất cả Trời, Người trong cõi nước con thân hình còn có kẻ đẹp, người xấu thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ năm: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không biết rõ túc mệnh của mình và những việc đã xảy ra trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ sáu: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không được phép Thiên Nhãn, cho đến không thấy rõ trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bảy: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không được phép Thiên Nhĩ, không được nghe và thọ trì hết thảy lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha các Ðức Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ tám: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con, không được thấy tâm trí kẻ khác, cho đến không biết rõ tâm niệm của hết thảy chúng sinh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ chín: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con, không được phép thần túc, trong một khoảng một niệm, cho đến không vượt qua được trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con còn có ý niệm tham chấp thân hình thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười một: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con không trụ vào chính định và chứng quả Niết Bàn thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười hai: Nếu con được thành Phật mà ánh sáng còn có hạn lượng, không soi thấu được trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười ba: Nếu con được thành Phật mà thọ mệnh còn có hạn lượng, chỉ được trăm ngàn ức na do tha kiếp thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười bốn: Nếu con được thành Phật mà hàng Thanh Văn trong cõi nước con còn có thể tính đếm được và chúng sinh trong ba ngàn Ðại Thiên thế giới ở trong trăm ngàn kiếp thành bậc Duyên Giác hết, rồi tính đếm mà biết được số đó là bao nhiêu thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười lăm: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con thọ mệnh còn có hạn lượng, trừ phi những bản nguyện riêng của họ muốn dài, ngắn đều được tự tại. Nếu không được như vậy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười sáu: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con còn có ai nghe thấy tiếng chẳng lành thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười bảy: Nếu con được thành Phật mà vô lượng chư Phật ở mười phương thế giới không ngợi khen danh hiệu của con thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ mười tám: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười phương dốc lòng tin tưởng, muốn sinh về cõi nước con chỉ trong mười niệm, nếu không được toại nguyện thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác, trừ kẻ phạm năm tội nghịch và gièm chê chính pháp.
Ðiều nguyện thứ mười chín: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh mười phương phát tâm Bồ Ðề, tu các công đức, dốc lòng phát nguyện, muốn sinh về cõi nước con, tới khi thọ chung mà con chẳng cùng đại chúng hiện ra chung quanh trước mặt người ấy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong mười phương nghe danh hiệu của con, để lòng nhớ nghĩ đến nước con, tu trồng các công đức, dốc lòng hồi hướng, cầu sinh về cõi nước con mà không được vừa lòng thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi mốt: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước con chẳng được đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi hai: Nếu con được thành Phật, hết thảy chúng Bồ Tát ở cõi Phật phương khác sinh về cõi nước con, sau đó sẽ tới bậc Nhất Sinh Bổ Xứ, trừ bản nguyện riêng của mỗi vị tự tại hóa hiện, vì thương xót chúng sinh mà rộng lớn, bền chắc như áo giáp, tu các công đức, độ thoát hết thảy, rồi qua khắp các cõi Phật, tu hạnh Bồ Tát và cúng dường mười phương chư Phật, khai hóa vô số chúng sinh khiến lập nên đạo Vô Thượng Chính Giác. Chư vị vượt ngoài công hạnh, thông thường ở các địa vị mà tu tập theo hạnh nguyện của đức Phổ Hiền. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi ba: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con, nương sức thần của Phật đi cúng dường các đức Phật trong khoảng thời gian một bữa ăn mà không tới được vô số, vô lượng ức na do tha các cõi Phật thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi bốn: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con ở trước chư Phật hiện ra công đức, muốn có muôn vàn vật dụng để cúng dường. Nếu không được như ý thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi lăm: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con không diễn thuyết được Nhất Thiết Trí thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi sáu: Nếu con được thành Phật, các Bồ Tát trong cõi nước con không được thân Kim Cương Na La Diên thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi bảy: Nếu con được thành Phật mà Trời, Người trong cõi nước cùng tất cả muôn vật không có hình sắc tốt đẹp, không thể tính lường, và hết thảy chúng sinh cho đến bậc đã được phép Thiên Nhãn mà không nói được rõ ràng danh số thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi tám: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con, cho đến kẻ có ít công đức nhất không thấy được ánh sáng muôn mầu của cây Bồ Ðề cao bốn trăm vạn do tuần thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ hai mươi chín: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con thụ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp, mà không được trí tuệ biện tài thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi: Nếu con được thành Phật mà trí tuệ biện tài của các Bồ Tát trong cõi nước con còn có hạn lượng thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi mốt: Nếu con được thành Phật thì cõi nước con thanh tịnh, soi thấy tất cả vô lượng, vô số thế giới chư Phật ở mười phương không thể nghĩ bàn, như tấm gương sáng thấy được hình dạng mặt mày của mình. Nếu không được như vậy thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi hai: Nếu con được thành Phật, trong cõi nước con, từ mặt đất đến hư không, cung điện, lâu đài, hồ ao, cây cỏ và muôn hoa đều được tạo nên bằng vô lượng của báu hòa lẫn với ngàn thứ hương thơm. Tất cả đều xinh đẹp lạ lùng hơn cả cõi Trời và cõi Người. Hương thơm của muôn vật tỏa ra ngào ngạt khắp mười phương thế giới. Bồ Tát ở các nơi ngửi hương thơm ấy đều tu theo hạnh của Phật. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi ba: Nếu con được thành Phật, chúng sinh trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, đều nhờ ánh quang minh của con chạm đến thân họ, khiến thân được nhẹ nhàng hơn cả Trời và Người. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi bốn: Nếu con được thành Phật mà chúng sinh trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu của con mà không được pháp Vô Sinh Pháp Nhẫn và các môn thâm tổng trì của bậc Bồ Tát thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi lăm: Nếu con được thành Phật mà nữ nhân trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu con đều vui mừng, phát tâm Bồ Ðề, chán ghét thân gái. Sau khi mệnh chung mà còn phải làm thân nữ nhân nữa thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi sáu: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu con, sau khi thọ chung, thường tu phạm hạnh cho đến khi thành Phật. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi bảy: Nếu con được thành Phật mà Trời và Người trong cõi vô lượng thế giới chư Phật mười phương không thể nghĩ bàn, nghe danh hiệu con, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tu hạnh Bồ Tát, được hầu hết Trời và Người kính trọng. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi tám: Nếu con được thành Phật mà Trời và Người trong cõi nước con muốn có y phục thì y phục tốt đẹp tùy theo tâm niệm của họ tự nhiên hiện ra trên mình họ. Nếu còn phải cắt may, nhuộm, giặt thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ ba mươi chín: Nếu con được thành Phật mà Trời và Người trong cõi nước con không được sự hưởng thụ vui sướng bằng vị Tỉ Khưu đã dứt hết mọi phiền não thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật ở mười phương đều được như nguyện. Chẳng hạn, nhìn trong cây báu thấy rõ hết cả như nhìn vào tấm gương sáng thấy rõ nhân diện. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi mốt: Nếu con được thành Phật mà các chúng Bồ Tát ở thế giới khác nghe danh hiệu con, từ đó đến khi thành Phật mà các sắc căn còn thiếu kém thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi hai: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu con, đều được chính định giải thoát thanh tịnh; rồi trụ vào chính định đó trong khoảng một ý niệm cúng dường vô lượng chư Phật Thế Tôn chẳng thể nghĩ bàn, mà vẫn không mất chính định. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi ba: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu con sau khi mệnh chung, thác sinh vào nhà tôn quý. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi tư: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu con vui mừng hớn hở, tu hạnh Bồ Tát, trọn đủ công đức. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi lăm: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu con đều được Phổ Ðẳng tam muội, rồi trụ vào tam muội đó cho đến khi thành Phật, thường được thấy chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi sáu: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát trong cõi nước con muốn nghe pháp gì, đều theo chí nguyện mình, tự nhiên được nghe. Nếu không được như thế thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi bảy: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu con mà chẳng tới được bậc Bất Thoái Chuyển thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Ðiều nguyện thứ bốn mươi tám: Nếu con được thành Phật mà các Bồ Tát ở phương khác, nghe danh hiệu con mà chẳng tới ngay được ba đức nhẫn: Âm Hưởng Nhẫn, Nhu Thuận Nhẫn và Vô Sinh Pháp Nhẫn. Ðối với các pháp của Phật mà không chứng được bậc Bất Thoái Chuyển thì con chẳng trụ ở ngôi Chính Giác.
Tài sản của hldta76

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #82  
Old 03-02-2010, 10:19 PM
hldta76 hldta76 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: ha noi
Bài gởi: 123
Thời gian online: 5 giờ 55 phút 23 giây
Xu: 0
Thanks: 1
Thanked 1 Time in 1 Post
Smile Đức Phật A Di Đà

Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc ban, oai đức không cùng thệ nguyện rất lớn , mở môn phương tiện , độ hết thảy muôn loài chúng sanh ra khỏi Ta Bà vãng sanh về Tịnh độ .
Trong kinh Bi Hoa nói rằng: “ Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện trì”. Khi ấy tại cõi Tản đề lam thế giới có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ : một là Đông thắng thần châu, hai là Nam thiệm bộ châu , ba là Tây ngưu hóa châu , và bốn là Bắc cu lô châu ; tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ ; nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẵn lòng ái kính .
Vua ấy có nhiều người con và có một vị Đại thần , tên là Bảo Hải , con dòng Phạm chí, rất tính thong về nghề xem thiên văn .
Ông Bảo Hải lại có một người con trai tướng tốt lạ thường, từ dước chân lên đến trên đầu đều có ba mươi hai dấu tốt .
Khi con ông mới sanh ra, thì có các hang khách tôn quí đem nhiều đồ lễ vật đến dâng cho, nhân vậy mà đặt tên là Bảo Tạng.
Lúc khôn lớn , thì Bảo Tạng xem biết việt đời là thống khổ thân mạng lại vô thường, tự nhiên sanh long chán ngán , bỏ cuộc vinh hoa , liền xuất gia tu hành, chẳng đặng bao lâu mà đã thành Phật , hiệu là Bảo Tạng Như Lai , đủ các đạo pháp nhiệm mầu , thần thong rộng lớn . Khi thành Phật rồi , thì Ngài dạo khắp các nơi mà hóa độ chúng sanh; có nhiều hàng đệ tử đã chứng đặng quả Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát , nên nhân dân ai nấy cũng sãn long hoan nghinh.
Có một bữa kia, vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng cùng đại chúng đến giảng đạo tại vườn Diêm phù , gần bên thành , thì tự nghĩ rằng : “ Nay ta muốn đến chỗ Phật , đặng xem coi giảng đạo lý gì mà thiên hạ tín ngưỡng đông như thế !”
Nghĩ như vậy rồi, vua cùng các vị vương tử , đại thần và quyến thuộc bèn đến vườn Diêm phù lễ Phật vừa xong, liền đi chung quanh ba vòng , rồi ngồi bên ngài mà nghe pháp.
Vua Vô Tránh Niệm xem thấy Đức Bảo Tạng Như Lai khoanh chân ngồi trên bảo tọa có hình con sư tử , rất bực trang nghiêm , đủ tướng tốt đẹp , chung quanh thân Ngài có ánh sang nhiều sắc chói lòa .
Còn trong pháp hội thì thấy : nào là những người đã xuất gia làm đệ tử của Phật cạo tóc đắp y , nào là những hàng vương tử đại thần mặc đồ anh lạc , nào là cung nga mỹ nữ dung mạo tốt xinh , nào là sĩ , nông , công , thương , áo xiêm chỉnh đốn , kẻ thì chấp tay ngồi im lặng , người thì quỳ gối thưa hỏi , xem bộ ai nấy cũng chăm ngó Phật mà nghe pháp cả .
Vua Vô Tránh Niệm quan sát khắp đủ mọi lẽ , bèn nhắm nhìn thân mình , rồi trở lại ngó Phật , mắt sững không nháy , long thiệt hoan nghinh, cái tâm niệm tín ngưỡng tự nhiên phát lộ , liền đảnh lễ Nhài và đi xung quanh ba vòng , rồi cũng ngồi xuống một bên Ngài mà chăm nghe lời giảng dạy .
Vua nghe Đức Bảo Tạng Như Lai diễn đủ các pháp , thì long đã mở thong , căn thân thanh tịnh , rõ đường giải khổ , biết sự làm lành , liền quì xuống chấp tay mà thưa rằng : “Bạch Đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn sắm đủ những đồ ăn uống: áo chăn , mền nệm và thuốc me, đặng dâng cúng cho ngài và đại chúng luôn trọn ba tháng ở đây mà giảng đạo . Xin ngài từ bi ai nạp “.
Vua Vô Tránh Niệm thấy Phật nhận lời , liền tở về truyền lệnh sắm sửa đủ mọi lễ , cứ đúng buổi mà dâng cúng không hề trễ nải .
Vua lại khuyên bảo các vị vương tử , đại thần , quyến thuộc và nhân dân rằng :
”Các ngươi có biết hay không ? Nay trẫm đã mở long bố thí , kính thỉnh Đức Bảo Tạng Như Lai và đại chúng đến mà cúng dường trọn ba tháng . Những đồ báu trọng ngon đẹp của trẫm thọ dụng bấy lâu nay đều đem dâng cúng tất cả . Các ngươi cũng nên thể theo ý trẫm xả bớt huyễn tài mà cúng Phật Tăng đặng cầu phước báo “.
Cả thảy đều vâng lời vua khuyên , hết lòng sắm sửa lễ vật mà dâng cúng Phật .
Có một hôm , quan Đại thần Bảo Hải , là phụ thân Đức Bảo Tạng Như Lai, nằm chiêm bao thấy vua Vô Tránh Niệm làm sự bố thí thì lớn, mà việc cầu phước báo thì nhỏ . Sự ao ước của vua còn thuộc về phước hữu lậu trong cãi nhân thiên , chưa thoát ra khỏi luân hồi sanh tử .
Vậy nên quan Đại thần chẳng đặng vui long , vì ý của ông muốn làm sao cho vua phát tâm cầu quả Bồ đề , tu thành Phật đạo mà cứu vớt mọi loài chúng sanh , chớ không muốn cho vua cầu phước báo nhỏ nhen như hang tiểu dân vậy .
Quan Đại thần suy nghĩ như vậy , bèn đến chỗ Phật Bảo Tạng Như Lai tỏ điềm chiêm bao ấy , và tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng : “Muôn tâu Đại vương ! Xin suy nghĩ đến việc này . Về sự sanh tử luân hồi phải bỏ thân này mang lốt khác , nên khó đặng thân người . Nay Đại vương đã cảm lấy phước báo làm đặng vương thân , thiệt là quí báu biết dường nào ! Các Đức Phật tùy cơ duyên của chúng sanh cảm triệu mà ứng hiện ra đời , cũng như bong ưu đàm ứng thời mà nở ; thiệt là ít có ! Nay Đại vương gặp Phật xuất thế , thì phần hân hạnh biết bao ! Dứt trừ long dục vọng , làm mọi sự phước duyên , cũng là việc khó mà Đại vương làm đặng như vậy , thiệt là ít ai bì đặng !
Xin Đại vương thứ lỗi cho ngu thần hỏi lời này : Ngày nay Đại vương cúng dường Phật Tăng , dung phước duyên đó mà cầu nguyện những việc chi , xin cho ngu thần rõ .
Nếu Đại vương muốn cầu sanh về cõi Trời mà làm một vị Thiên tử hưởng sự phước thọ hay là muốn cầu sanh về cõi Nhân gian làm vua Chuyển Luân , thống lãnh bốn châu thiên hạ như ngày nay vậy , thì cũng còn ở trong khổ hải , chớ chưa ra khỏi vòng sanh tử luân hồi .
Thưa Đại vương ! Hai sự phước báo tôi đã trần tấu đó đều là tướng vô định , đều là sự vô thường , thí như cơn gió thổi , dường tợ đám mây tan , có chắc chắn lâu dài chi đâu mà phải cầu nguyện !
Nếu sanh về cõi Trời , khi hưởng sự khoái lạc mà co tạo ác nghiệp , thì cũng phải đọa vào Địa ngục , đặng chịu khổ . Còn như sanh về cõi Nhân gian , thì lại chịu mọi sự khổ não phần thì óan cừu gặp gỡ , phần thì ân ái chia lìa cái khổ trạng ấy không thể kể xiết.
Vì Đại vương nhờ nhân duyên tu phước đời trước , nên mới hưởng đặng sự tôn vinh như vầy . Nếu nay Đại vương giữ gìn giới luật , thì sẽ đặng phước báo lớn hơn nữa . Còn như tu học chánh pháp , thì sẽ thành chưởng trí .
Vậy xin Đại vương nên phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ đề , chớ đừng cầu nguyện những việc phước nhỏ nhen như hạng người thường kia vậy .
Vua Vô Tránh Niệm nghe quan Đại thần Bảo Hải khuyên thỉnh như thế , thì tâm lượng tự nhiên mở rộng , liền đáp rằng : “ Trẫm muốn trải khắp trong đường sanh tử . làm sự bố thí , trì giới , hầu nghe những pháp mầu nhiệm , tu hạnh Bồ tát và cứu vớt chúng sanh ; do nhân duyên ấy mà phát tâm Bồ Đề “.
Đại thần Bảo Hải lại nói rằng : “ Bồ đề là một đạo rất trong sạch sang suốt , rất ngay thẳng chính đáng rất trang nghiêm tốt đẹp , rất rộng lớn cao sâu , khắp cả hư không , trùm cả sa giới rất có oai thần mãnh lực .
Vả lại đạo Bồ đề là hạnh bố thí , sẽ đặng giàu sang ; là hạnh trì giới , sẽ đặng thanh tịnh ; là hạnh nhẫn nhục , sẽ đặng vô ngã ; là hạnh tinh tấn , sẽ đặng bất thoái ; là hạnh thiền định , sẽ vắng lặng ; là hạnh bát nhã , sẽ đặng sáng suốt .
Tu được như vậy mới đến chỗ An lạc và mới chứng đặng quả Niết bàn. Vậy xin Đại vương nên phát tâm mà cầu đạo ấy .
Vua Vô Tránh Niêm đáp rằng : “ Này khanh ! Đương thời kỳ trung kiếp , mỗi người sống lâu chỉ có tám vạn tuổi mà thôi ! Nay Đức Bảo Tạng Như Lai ứng hiên ra đời mà giáo hoá chúng sanh , hoặc có kẻ chứng pháp Tam muội , hoạc có người đặng bực Bồ tát, hoặc đặng thọ ký làm Phật, hoặc đặng quả báo nơi cõi Nhân thiên . Trong hang chúng sanh có một người nào không trồng căn lành mà Đức Như Lai chẳng nói pháp đoạn khổ . Tuy Ngài là phước điền của chúng sanh , song những người không có căn lành thì Ngài không có thể hóa độ cho dứt đặng mọi sự khổ não “.
Nay Trẫm phát Bồ đề tâm , tu Bồ tát hạnh , học đạo Đại thừa , chứng pháp môn rất mầu nhiệm , chuyên làm Phật sự mà giáo hóa chúng sanh. Trẫm muốn cầu làm sao cho khi thành đạo Bồ đề thì Thế giới đặng trang nghiêm thanh tịnh chúng sanh không còn có một chút khổ gì . Nếu đặng như vậy thì trẫm sẽ chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vua Vô Tránh Niệm nói như vậy rồi , bèn đi với quan Đại thần Bảo Hải đến chỗ Đức Bảo Tạng Như Lai , thấy ngài đương nhập định . lại dung phép thần thong biến hóa và phóng hào quang sáng suốt , hiện cả mười phương thế giới của Chư Phật ra trước mặt cho chúng hội xem : hoặc có cõi Phật đã Niết bàn rồi , hoặc có cõi Phật đương Niết bàn , hoặc có cõi các vị Bồ tát mới ngồi nơi đạo tràng dưới cây Bồ đề , đương hàng phục chúng ma hoặc có cõi Phật mới thành đạo và mới nói Pháp , hoặc có cõi Phật thành đạo đã lâu , đương còn nói pháp , hoặc có thế giới toàn là các bực Bồ tát, hoặc có thế giới toàn là những hang Thanh văn và Duyên giác , hoặc có thế giới không có Phật , Bồ tát , Thanh văn và Duyên giác chi hết , hoặc có thế giới đủ năm món ác trược , hoặc có thế giới đủ các thứ trang nghiêm , hoặc có thế giới hèn dơ nhớp, hoặc có thế giới tốt đẹp lạ thường , hoặc có thế giới mà nhân dân sống lâu vô cùng , hoặc có thế giới mà nhân dân thọ mạng ngắn ngủi , hoặc có thế giới thường bị tai nạn thủy hỏa , hoặc có thế giới hằng bị tai nạn gió bão , hoặc có thế giới gần thành tựu , hoa(.c có thê’ giới đã thành tựu rồi .
Đại thần Bảo Hải thấy vậy , bèn tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng: “Nay Đại vương nhờ sức oai thần của Đứ Như Lai mà đặng thấy các thế giới ; vậy Đại vương phát Bồ đề tâm muốn cầu lấy thế giới nào”.
Vua chấp tay mà thưa với Đức Bảo Tạng Như Lai rằng : “Bạch Đức Thế Tôn ! Chẳng biết các vị Bồ tát tu hạnh gì mà chiếm đặng cõi Phật tốt đẹp trang nghiêm, tu nghiệp gì mà chiếm đặng thế giới xấu xa ác trược , do nghiệp gì mà đặng thọ mạng lâu dài , tạo nghiệp gì mà thợ số ngắn ngủi ? Xin ngài chỉ dạy cho tôi biết mà tu học “.
Đức Bảo Tạng Như Lai nói rằng : “ Vì bởi các vị Bồ tát có sức thệ nguyện , muốn ỡ cõi thế giới thanh tịnh, không có các điều ác trược , nên sau khi thành đạo
Đức Bảo Tạng Như Lai nói rằng : “Vì bỏi các vị Bồ tát có sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới thanh tịnh , không có các điều ác trược , nên sau khi thành đạo được về ở cõi ấy rất trang nghiêm. Còn các vị Bồ tát nào do sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới ngũ trược đủ sự phiền não, nên sau khi thành đạo về ở cõi ấy “.
Vua Vô Tránh Niệm lễ Phật rồi lui trở về trong cung, một mình ngồi im lìm mà suy nghĩ đến sự thệ nguyện của mình, mong cầu cho đặng cõi cực kỳ tốt đẹp, đặng tiếp dẫn chúng sanh .
Suy nghĩ rồi vua bèn trở lại lễ Phật mà thưa rằng ; “Bạch Đức Thế Tô ! Vì tôi muốn chứng đạo Bồ đề , nên đem công đức cúng dường ngài và đại chúng trong ba tháng mà cầu đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm.
1. Bạch Đức Thế Tôn ! Nay tôi nguyện trong khi tôi thành Phật , làm sao đặng một Thế giới đủ sự vui đẹp, hình dạng nhân dân trong cõi ấy toàn là sức vàng và không có những đường Địa ngục, Nhạ quỉ và Súc sanh xen ở chung lộn . Hết thảy chúng sanh nơi cõi ấy chẳng khi nào còn phaả thoái chuyển mà đọa vào trong ba đường dữ đó nữa, và người nào cũng đủ sáu phép thần thong và căn thân tốt đẹp .
2. Tôi nguyện tất cả chúng sanh được về cõi ấy , đều thành đàn ông tươi tốt vô cùng , không còn thọ báo sắc than đàn bà và cũng chẳng còn có danh hiệu của người đàn bà nữa. Hết thảy chúng sanh, khi được về đó , thần thức đầu thai trong bông sen, lúc bong nở ra thì căn than xinh tốt, thọ mạng lâu dài, không kể xiết đặng.
3. Tôi nguyện cõi ấy đặng trang nghiêm, cảnh vật thiệt xinh đẹp, không có mọi sự nhiễm trược, hằng có hoa tốt hương thơm mùi bay các hướng.
4. Tôi nguyện cho chúng sanh trong cõi ấy , ai nấy cũng đều đặng ba mươi hai tướng tốt, sáu phép thần thong, trong giây phút dạo khắp các cõi Phật trong mười phương , đặng cúng dường và nghe pháp , rồi trở về cũng chư trễ buổi ăn.
5. Tôi nguyện nhân dân trong cõi ấy đều đặng mọi sự thọ dụng tự nhiên , đúng giờ ăn thì có đủ các món ngon vật lạ hiên ra trước mắt ; còn muốn bận đồ gì thì có áo xiêm tốt đẹp hiện ra bên mình, không cần phải sắm sửa như trong cõi nhân gian vậy.
6. Tôi phát nguyện cầu đặng cõi Phật như vậy, đặng từ rày về sau, đời đời kiếp kiếp, thường tu hạnh Bồ tát , làm sự hi hữu mà tạo thành cõi Tịnh độ, đến thời kỳ chứng đạo thì ngồi dưới cây Bồ đề mà thành quả Chánh giác , phóng hào quang soi các Thế giới cho các đức Phật đều xem thấy , đặng khen ngợi danh hiệu của tôi .
7. Tôi phát nguyện cầu đặng cõi Phật như vậy, đặng từ rày về sau, đời đời kiếp kiếp, thường tu hạnh Bồ tát , làm sự hi hữu mà tạo thành cõi Tịnh độ , đến thời kỳ chứng đạo thì ngồi dưới cây Bồ đề mà thành quả Chánh giác , phóng hào quang soi các Thế giới cho các đức Phật đều xem thấy , đặng khen ngợi danh hiệu của tôi .
8. Tôi nguyện khi thành Phật rồi, những loài chúng sanh ở các Thế giới đã phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát đạo, muốn sanh về cõi tôi , thì đến khi mạng chung, tôi và đệ tử tôi đều hiện than đến trước mặt người ấy đặng tiếp dẫn.
9. Tôi nguyện khi tôi nhập diệt, trải vô số kiếp về sau những người nữ nhân ơởtrong các thế giới nghe danh hiệu tôi mà chăm long vui mến và phát Bồ đề tâm, cho đến lúc thành Phật cứ cảm báo đặng làm than đàn ông hoài , chớ không khi nào còn mang lấy than đàn bà nữa .
10. Bạch Đức Thế Tôn ! Tôi nguyên đặng cõi Phật như vậy , chúng sanh như vậy , mọi sự thanh tịnh trang nghiêm như vậy, thì tôi mới chịu thành Phật.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe vua vô Tránh Niệm nguyện mấy lời ấy rồi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Đai vương phát nguyện sâu lớn, muốn cõi thanh tịnh. Kia Đại Vương hãy xem qua hướng Tây, cách trăm ngàn muôn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Tôn Thiện Vô Cấu , giáo chủ cõi ấy hiệu là Tôn Âm Vương Như Lai , hiện nay đương vì các bực Bồ tát mà giảng dạy pháp Đại thừa, giáo hóa các người thượng căn, chớ không điển thuyết mấy pháp quyền tiểu”.
Trong cõi ấy cũng không có chúng sanh căn trí Thiểu thừa và cũng không có một ngưòi nữ nhân . Nhưng y báo và chánh báo của Phật Tôn Âm Vương Như Lai Thiệt thanh tịnh trang nghiêm, rất xứng hiệp với chỗ cầu nguyện của Đại vương đó! Vì Đại vương có thệ nguyện muôn cõi thanh tịnh , nên nay ta đổi hiệu Đại vương là Vô Lượng Thanh Tịnh.
Khi Vô Lượng Thanh Tịnh mãn một trung kiếp , thì Đức Phật Tôn Âm Vương Như Lai nhập Niết bàn , chánh pháp truyền bá đặng mười trung kiếp . Đến khi diệt rồi , trải qua sáu mươi trung kiếp, thì cõi Tôn thiện vô cấu đổi tên lại là: Di lâu Quang mình có đức Phật, hiệu là Bất Khả Tư Nghị Công Đức Vương Như Lai , ứng hiện ra đời mà hóa đạo chúng sanh. Sau khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn rồi, trải vô số hằng sa kiếp và vô lượng Phật diệt độ, thì cõi Di lâu Quang minh đỗ tên lại là : An lạc . Đến thời kỳ Vô Lượng Thanh Tịnh chứng quả về cõi đó mà thành Phật thì hiệu là : A Di Đà Như Lai sống lâu vô cùng, tiếp dẫn vô lượng chúng sanh trong các thế giới về đó , rồi giáo hóa cho thành Phật đạo tất cả .
Vua Vô Tránh Niệm thưa rồi, đương cúi đầu thi lễ, tức thì mười phương thế giới thảy đều vang động .
Vua ở trong pháp hội nghe Chư Phật đều thọ ký cũng như lời Đức Phật Bảo Tạng đã nói trên đó, thì rất nỗi vui mừng, liền chấp tay đảnh lễ, rồi ngồi nghe Phật Bảo Tạng thọ ký cho các vị Bồ Tát khác.
Từ đó về sau, vua Vô Tránh Niệm mạng chung thọ sanh ra các đời khác , kiếp nào cũng giữ lời bổn nguyện , tu hành Bồ tát cứu độ chúng sanh , trải vô lượng kiếp quả mãn công viên hiện thành chánh giác , đến nay đã mười đại kiếp rôi , ngài ở cõi Cực Lạc Thế Giới bên Tây phương , đương giảng dạy các pháp Đại thừa và hằng tiếp dẫn chúng sanh đem về cõi ấy .
Tài sản của hldta76

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #83  
Old 14-02-2010, 10:27 PM
hldta76 hldta76 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: ha noi
Bài gởi: 123
Thời gian online: 5 giờ 55 phút 23 giây
Xu: 0
Thanks: 1
Thanked 1 Time in 1 Post
Smile Đức Di Lặc Bồ Tát

Đức Di Lặc là một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp, để nối ngôi Phật Thích Ca, ra đời mà giáo hóa chúng sanh.
Nhưng số kiếp chưa đến, Ngài còn ở trên cung trời Đâu Xuất, thường hay hóa thân trong mười phương thế giới mà thuyết pháp độ sanh .
Khi Ngài ứng tích tại Song lâm , thì tên của Ngài là: Phó Đại Sĩ, và lúc ngài hóa thân ở Nhạc lâm, thì hiệu của ngài là: Bố Đại Hòa Thượng.
Công việc hành tang bước đường lai khứ trong hai khoảng chuyển sanh ấy, nào là lời phương tiện quyền xảo, nào là lời vi diệu pháp âm, làm cho người đời đều tỉnh giấc mộng và qui đầu về chánh giáo .
Nay xin lược thuật sự tích lúc ngài hóa thân làm vị Bố Đại Hòa Thượng ra sau đây cho quí vị độc giả xem .
* * * * *
Đương thời kỳ nước Lương, thuộc về đời Ngũ quí, ngài ứng tích ở nơi Châu Minh, tại huyện Phụng Hóa, thân hình khác hơn người thế tục : trán thì nhăn, bụng thì lớn và hình vóc mập mạp .
Lúc đó, không ai biết tên họ của Ngài , chỉ thấy ngài thường mang theo một cái túi vải mà thôi, nên người kêu là: Bố Đại Hòa Thượng .
Tánh Ngài hay khôi hài và chỗ ăn nằm ngày đêm không nhất định, mà Ngài đi đâu rồi cũng thấy trở về chùa Nhạc Lâm mà trú ngụ .
Mỗi khi đi đường, ngài thường cầm Tích trượng và mang cái túi bằng vải , không khi nào rời hai vật ấy ra khỏi mình; lại có 18 đứa con nít thường theo đuổi đeo một bên mà diễu cợt làm cho Ngài tức cười mãi mãi . Thường khi Ngài đi vào chốn thôn quê hay là nơi ồng ruộng, hễ ai cho những vật gì, khi Ngài ăng xong, còn dư lại bao nhiêu đều bỏ vào túi .
Lúc đi tới nơi chợ quán, thì Ngài ngồi xuống, mở túi lấy những đồ ăn dư đưa lên, kêu mấy người đứng xung quanh mà nói rằng: “Các ngươi xem coi đó là cái gì ?” Ngài nói rồi một giây lâu bỏ đồ ấy vào túi mà mang đi . Còn có khi Ngài gặp thầy Sa môn đi ngang qua , Ngài ở sau vỗ lưng một cái , làm cho thầy Sa môn giựt mình, ngó lại mà hỏi rằng: “Hòa thượng làm cái gì vậy ?”
Ngài liền giơ tay nói : “Ngươi cho ta xin một đồng tiền”.
Thầy Sa môn thấy vậy, bèn nói rằng: “Nếu tôi hỏi một điều mà Hòa thượng nói đặng, thì tôi cho”.
Ngài liền để cái túi xuống, chấp tay đứng một bên , rồi lấy túi mang trở lại mà lật đật quày quả đi liền. Một bữa kia, Ngài đi vào trong đám đông người, có một ông Tăng hỏi Ngài rằng:”Hòa thượng ở trong đám đông người làm chi đó ?”.
Ngài trả lời rằng: “Ta đương đợi một người đến”.
Ông Tăng hỏi:”Hòa thượng đợi ai ?”
Ngài bèn thò tay vào túi lấy ra một trái quít đưa cho ông Tăng.
Ông Tăng vừa giơ tay lấy trái quít, Ngài liền thụt tay lại mà nói rằng: “Ngươi chẳng phải người ấỵ
Lại một bữa, ông Tăng chợt thấy Ngài đứng bên đường gần chợ , bèn hỏi rằng: “Hòa thượng ở đây làm chi ?”
Ngài liền đáp rằng:”Ta đi hóa duyên “.
Ông Tăng thấy vậy mới nói rằng: “Hóa duyên ở đâu nơi ngã tư như vậy ?”
Ngài trả lời : “Ngã tư chính là chỗ ta muốn hóa duyên”.
Ông Tăng vừa muốn hỏi chuyện nữa, thì Ngài liền mang cái túi vải rồi cười ngất mà đi một hơi .
Có một khi , ông Bạch Lộc Hòa Thượng gặp Ngài, liền hỏi rằng: “Thế nào gọi là: cái túi vải ?”
Ngài nghe hỏi liền để túi xuống, rồi khoanh tay mà đứng .
Ông Bạch Lộc Hòa thượng lại hỏi rằng: “Công việc của cái túi vải ra làm sao ?”
Ngài liền mang túi mà đi , không trả lời chi hết .
Có một bữa kia , ông Bão Phước Hòa thượng gặp ngài hỏi rằng: “Thưa Ngài! Duyên cớ tại sao mà đức Tổ sư ở bên Tây phương qua đây là có ý gì ?”
Ngài nghe hỏi liền để cái túi vải xuống rồi đứng tự nhiên .
Ông Bão Phước Hòa thượng lại hỏi nữa rằng: “Chỉ như vậy , hay là còn cái gì nữa hay không ?”
Ngài nghe hỏi như thế, bèn lấy túi vải mang trở lại mà đi, không hề trả lời .
Từ đó về sau , hễ Ngài đi đến đâu, thì người người ta tranh nhau mà chận đón và níu kéo, đặng mời Ngài vào nhà, chớ không cho đi luôn. Bởi vậy cho nên trong các quán rượu và tiệm cơm, người người tha hồ ăn uống no say, không có chút gì nhàm chán, vì Ngài vào đâu thì buôn bán đắt đến bội phần.
Lúc nào gặp trời mưa, thì tảng sáng Ngài ngủ dậy mang guốc cao gót, đi ra nằm ngửa trên cái cầu to, co chân dựng hai bắp vế lên, thì ngày ấy nắng. Còn khi nào trời nắng, mà Ngài mang đôi dép cỏ đi ra ngoài đường, ngày ấy trời lại mưa .
Thường bữa Ngài hay tới nhà một nông phu kia mà ăn cơm. Có một hôm, người vợ tên ấy thấy vậy mà nổi giận mà rầy rằng: “Đương lúc lo việc ruộng nương rộn ràng không xiết, mình có công đâu mà nuôi lão Hòa thượng điên đó hoài !”
Ngài nghe nói mấy lời ấy, liền đem cơm đổ dưới gốc cây dâu ở bên nhà rồi bỏ đi .
Cơm ấy tự nhiên hoàn lại trong nồi của người nông phu . Hai vợ chồng thấy vậy thất kinh, bèn cùng nhau đi kiếm Ngài , rồi lạy lục xuống mà xin sám hối .
Có một khi, đương buổi mùa hạ , khí trời nóng nực, Ngài cởi quần áo để trên bờ mà xuống khe tắm .
Lũ trẻ khuấy chơi , bèn lén lại ôm cả áo quần . Đương lúc tắm , Ngài thấy vậy thì lật để mình mẩy trần truồng mà rượt theo bọn con nít . Mấy người ở trên bờ xúm nhau lén coi , thì thấy âm tang của Ngài như trẻ nhỏ vậy .
Gần chỗ đó có tên Lục Sanh, nghề vẽ rất tinh xảo . Người ấy thấy Ngài , bèn vẽ một bức tượng in hệt mà dán tại chùa , nơi vách nhà Đông .
Bữa nọ , Ngài đi ngang qua bên vách , thấy tượng ấy liền khạc nhổ rồi bỏ đi .
Khi Ngài ở tại xứ Mân Trung , có một người cư sĩ họ Trần , thấy Ngài làm nhiều việc kỳ thần, nên đãi Ngài rất cẩn trọng .
Lúc Ngài từ giã ông Trần cư sĩ mà đi qua xứ Lương Chiết , ông muốn rõ tên họ Ngài , bèn hỏi rằng : “Thưa Hòa thượng !Xin cho tôi biết họ Ngài là chi, sanh năm nào , tháng nào , ngày nào , giờ nào , và xuất gia đã bao lâu rồi ?”
Ngài đáp rằng: “Ta tỏ thiệt cho ngươi rõ rằng ta chính là họ Lý , sanh ngày mùng 8 tháng Hai . Ta chỉ biểu hiệu cái túi vải này mà để độ đời đó thôi . Vậy ngươi chớ tiết lậu cho ai biết” .
Ông trần cư sĩ nghe như vậy, bèn thưa rằng : “Hòa thượng đi đâu , nếu có ai hỏi việc chi thì xin Ngài trả lời sao cho hợp lý, chớ tùy thuận theo người thì không khỏi bang nhân dị nghị tiếng thị phi .
Ngài bèn đáp một bài kệ rằng :
Ghét bèn đáp một bài kệ rằng:
Ghét thương phải quấy biết bao là ,
Xét nét lo lường giữ lấy ta;
Tâm để rỗng thông thường nhẫn nhục ,
Bữa hằng thong thả phải tiêu ma;
Nếu người tri kỷ nên y phận ,
Dẫu kẻ oan gia cũng cộng hòa;
Miễn tấm long nầy không quái ngại ,
Tự nhiên chứng đặng “Lục ba la”.
Ông Trần cư sĩ lại hỏi rằng : “Bạch Hòa thượng ! Ngài có pháp hiệu hay không?”
Ngài liền đọc bài kệ đáp rằng:
Ta có cái túi vải ,
Mở ra khắp mười phương
Thâu vào Quan tự tại .
Ông Trần cư sĩ hỏi rằng : “Hòa thượng đi đây có đem đồ hành lý hay không ?”
Ngài đáp bài kệ :
Bình bát cơm ngàn nhà ,
Thân chơi muôn dặm xa;
Mắt xanh xem người thế ,
Mây trắng hỏi đười qua .
Ông Trần cư sĩ thưa : “Đệ tử rất ngu lổ, biết làm sao cho đặng thấy tánh Phật”.
Ngài bèn đáp bài kệ :
Phật tức tâm, tâm ấy là Phật,
Mười phương thế giới là linh vật;
Tung hoành diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chân thật .
Ông Trần cư sĩ thưa rằng:”Hòa thượng đi lần này nên ở nơi chùa, chớ đừng ở nhà thế gian.
Ngài bèn đáp bài kệ rằng :
Ta có nhà Tam bảo,
Trong vốn không sắc tướng ;
Chẳng cao cũng chẳng đê,
Không ngăn và không chướng;
Học vẫn khó làm bằng,
Cầu thì không thấy dạng;
Người trí biết rõ rang,
Ngàn đời không tạo đặng;
Bốn môn bốn quả sanh,
Mười phương đều cúng dường.
Ông trần cư sĩ nghe bài kệ lấy làm lạ , liền đảnh lễ Ngài mà thưa rằng:”Xin Hòa thượng ở nán lại một đêm mà dung cơm chay với tôi , đặng tỏ dấu đệ tử hết long cung kính, xin Ngài từ bi mà hạ cố “.
Đêm ấy , Ngài ở tại nhà Trần cư sĩ . Đến khi đi , thì Ngài viết một bài kệ dán nơi cửa .
Ta có một thân Phật ,
Có ai đặng tường tất;
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc;
Chẳng có chút đất bùn,
Không phải màu thể sắc;
Thợ vẽ, vẽ không xong,
Kẻ trộm , trộm chẳng mất ;
Thể tướng vốn tự nhiên ,
Thanh tịnh trong vặc vặc;
Tuy là có một thân
Phân đến ngàn trăm ức .
Khi Ngài đi đến quận Tứ Minh , Ngài thường giao du với ông Tưởng Tôn Bá một cách rất thân mật ; Ngài có khuyên bảo ông mỗi ngày trì niệm câu chú : “Ma ha bát nhã ba la mật đa” . Vì vậy người ta đều kêu ông Tưởng Tôn Bá là: Ma Ha cư sĩ .
Có một ngày nọ , ông Ma Ha cư sĩ cùng Ngài đồng tắm dưới khe Trường Đinh. Khi Ngài đưa lưng bảo ông Ma Ha kỳ giùm , thì ông thấy nơi lưng Ngài có bốn con mắt rực rỡ chói lòa, bèn lấy làm kinh dị vô cùng . Ông liền đảnh lễ Ngài mà nói rằng: “Hòa thượng quả là một vị Phật tái thế “.
Ngài liền khoát tay bảo nhỏ rằng: “Ngươi chớ nói tiết lậu . Ta cùng ngươi ở với nhau đã ba bốn năm nay, vốn là có nhân duyên rất lớn , rồi đây ta sẽ từ biệt ngươi mà đi , vậy ngươi chớ buồn rầu thương nhớ “.
Ngài nói rồi , bèn về nhà ông Ma Ha cư sĩ hỏi rằng : “Ý ngươi có muốn giàu sang hay không ?”
Ông Ma Ha cư sĩ thưa rằng: “Sự giàu sang như lùm cây nổi, như giấc chiêm bao , có cái gì là bền lâu chắc chắn đâu ; nên tôi nguyện làm sao cho con cháu tôi đời đời được mien viễn mà thôi “.
Ngài bèn lấy cái túi của Ngài thọc tay vào móc ra một cái túi nhỏ, một cái hộp, và một sợi dây , liền đưa cho ông Ma Ha cư sĩ mà nói rằng:”Ta cho ngươi mâ”y vật này mà từ biệt . Song ta căn dặn ngươi phải gìn giữ cho thật kỹ càng mà làm biểu tín những việc hậu vận của nhà ngươi “
Ông Ma Ha cư sĩ vâng lãnh mấy món ấy mà chẳng rõ được là ý gì . Cách vài bữa sau Ngài trở lại nhà ông mà hỏi rằng: “Nhà ngươi có hiểu được ý ta hay không?”
Ông thưa rằng: “Thưa Ngài ! Đệ tử thiệt chẳng rõ”.
Ngài nói rằng : “Đó là ta muốn con cháu nhà ngươi ngày sau cũng như mấy vật của ta cho đó vậy”.
Nói rồi , Ngài bèn từ giã mà đi liền .
Đến sau , quả nhiên con cháu của ông Ma Ha cư sĩ được vinh hoa phú quí, hưỡng lộc nước đời đời . Đó là mấy vật của Ngài cho có hiệu nghiệm như vậy .
Nhằm ngày mùng ba tháng Ba, năm thứ ba niên hiệu Trinh Minh, Ngài không tật bệnh gì cả, ngồi trên bàn thạch, gần nơi mái chùa Nhạc Lâm mà nhập diệt.
Nhắc lại khi Ngài chưa nhập diệt, có ông Trấn Đình Trưởng thấy Ngài hay khôi hài kgì cả , nên mỗi lần gặp Ngài thì buông lời cấu nhục , rồi giựt cái túi vải mà đốt.
Hễ bữa nay đốt rồi , thì qua ngày sau ông Trấn Đình trưởng cũng thấy Ngài mang cái túi ấy như cũ . Ông nổi giận đốt cháy rụi luôn đến ba lần , cũng vẫn thấy Ngài còn mang cái túi vải đó .
Từ đó về sau, ông Trấn Đình Trưởng lấy làm lạ , nên đem lòng khâm phục Ngài không dám khinh dể nữa .
Khi Ngài nhập diệt, thì ông Trấn Đình Trưởng lo mua quan quách mà tẩm liệm thi hài , là cố ý chuộc tội lỗi của ông ngày trước . Nhưng đến chừng đi chôn, thì người khiêng rất đông, mà cử cái quan tài lên không nổi .
Trong bọn ấy có một người họ Đồng, ngày thường tỏ long tôn kính ngài một cách rất trọng hậu; nên thấy việc linh hiển như vậy , liền vội vã mua cái quan tài khác , rồi liệm thi hài của Ngài lại . Đến khi khiêng đi , thì số người cũng bấy nhiêu đó, mà khiêng nhẹ phơi phới như bông. Ai nấy thấy vậy cũng đều kinh sợ và cung kính .
Lúc đó, các người trong quận thiết lập ra một hội rất lớn , xây tháp cho Ngài ở núi Phong sơn . Núi ấy toàn là đá lởm chởm , hòn cao hòn thấp , trong mấy hang đá đều là chỗ di tích của Ngài còn lưu truyền lại, nào là chỗ để tích trượng, nào là chỗ để bình bát , vân vân . . .
Những chỗ sâu , chỗ cạn , chỗ lớn , chỗ nhỏ , hình tượng giống như cái bình bát , đều có nước đầy hoài ; dẫu cho trời đại hạn đi nữa , thì cũng chẳng có lúc nào khô kiệt .
Thiệt là nhiều việc anh linh hiển hách vô cùng!
SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỒ TÁT
(ĐỜI KHÁC)
Hồi đời Lục Triều, Đức Di Lặc lại ứng tích làm phó Đại sĩ ở tại Chùa Song Lâm một thời kỳ nữa.
Khi Ngài ra mắt Lương Võ Đế, vua liền hỏi Ngài rằng: “Xin Đại sĩ cắt nghĩa cho quả nhơn nghe làm sao kêu là : Đạo?”
Ngài liền bạch rằng: “Tâm thiệt là Đạo”, tôi xin chứng nghiệm như vầy, thì bệ hạ đủ hiểu.
Khi bệ hạ chưa lên ngự tại điện này, trong tâm lúc ban đầu chưa khởi niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy, sáng suốt hiện buổi nay, rực rỡ đến thuở trước, và đầy lấp tất cả cõi Thái hư, cái tịnh quang ấy muôn đời không sanh, vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải Thánh mà cũng chẳng phải Phàm, không thúc phược mà cũng không giải thoát.
Đó là tâm thể rất mầu nhiệm và rất vắng lặng. Ngoài cái tâm không có đạo gì riêng khác, và ngoài đạo cũng không có tâm nào phân biệt nữa, vì thế cho nên mới gọi: “tâm là đạo”.
Vua Võ Đế lại hỏi nữa rằng: “Vậy chớ Đại sĩ có tôn ai làm Thầy hay không?”
Ngài bạch rằng: “Thầy thì không có ai là Thầy của bần đạo, còn tôn thì bần đạo cũng không có tôn ai, đến việc tùng sự, thì cũng không có tùng sự với người nào cả”.
Vua Võ Đế nghe Ngài nói như vậy, thì biết là một vị Bồ Tát lâm phàm, nên càng tôn trọng Ngài một cách rất đặc biệt.
Đoạn Ngài lại thưa với Vua rằng: “Bệ hạ ngày nay mà đặng hưởng điều tôn vinh như vầy, nguyên nhân cũng là một vị Bồ Tát hạ trần mà cứu thế.
Vậy xin Bệ hạ phải mở thông ý địa, nên tự lượng nơi mình, tâm để cho thanh tịnh, đừng trước nhiễm vật gì, lấy đó làm căn bản, cần nhứt phải dùng chỗ hư linh làm cơ sở, lấy sự vô tướng làm nguyên nhơn, nguyện vọng chí thành cầu cho đạt tới chỗ Niết bàn mà làm cực quả.
Nếu bệ hạ thi thố những phương pháp trị quốc, thì phải dùng chánh pháp mà sửa trị trong thế gian, và thi hành những điều nhơn đức, đặng làm cho lê dân cảm hóa.
Trong triều thì trọng dụng những người hiền tài mà trừ khử mấy kẻ cưu lòng gian nịnh, còn ngoài thì thi nhơn chánh đến kẻ quan quả, cô độc, bỏ những hình phạt trừng trị nặng nề, và ban chánh lịnh cho có nghiêm minh trật tự. Nếu Bệ hạ trị vì trong thiên hạ, thi nhơn bố đức được như thế, thì kẻ xa người gần đều gội nhuần ơn đức vô cùng vô tận. Chừng đó việc can qua phải dứt, mà trong đội ngũ lại ninh bình, thì ngôi trời được hùng tráng mà an hưởng cuộc thái bình. Nếu chánh sách thi thố được công hiệu như thế, thì Bệ hạ thiên cơ đã thần diệu, lại còn nối ngôi quốc tổ được lâu dài nữa. Đó là bần đạo hi vọng sao cho Bệ hạ được như vậy”.
Có một ngày kia, ông Lưu Trung Thừa ngồi tại chỗ trạm dịch với Ngài, thoạt thấy có Thánh giá vừa đến, liền lật đật đứng dậy làm lễ, còn Ngài ngồi yên lặng một chỗ.
Khi Thánh giá qua khỏi rồi, ông Lưu Trung Thừa bèn hỏi Ngài rằng: “Theo ý tôi tưởng, Ngài chẳng chịu làm tôi với Thiên tử, không muốn làm bạn với Chư hầu, cớ sao mà lại ngã mạn như vậy, xin Ngài nói cho tôi rõ”.
Ngài liền đáp rằng: “Để bần đạo giải cho ông rõ. Phàm việc kỉnh mà biểu lộ ra hình tướng, thì không có tánh kỉnh, còn bề ngoài chẳng cử động sự kỉnh về lễ nghe tham bái, thì thiệt trong tâm có ẩn điều kỉnh vô giá. Bần đạo thấy Thánh giá mà động thân, thì pháp địa tự nhiên cũng rúng động. Hễ pháp địa rúng động, thì tất cả các pháp cũng chẳng an nhẫn, nếu các pháp chẳng an nhẫn, tức là không có kỉnh, nên bần đạo vẫn ngồi tự nhiên là vậy đó”.
Ông Lưu Trung Thừa nghe Ngài nói như thế, thì rất kỉnh phục.
Vua Lương Võ Đế biết Ngài là một vị Bồ Tát tái lai, nên thiết lập một chỗ pháp hội rất nghiêm trang, rồi thỉnh Ngài lên diễn kinh cho bá tánh nghe.
Khi trần thiết xong rồi, Ngài lên ngồi trên pháp tòa, lẳng lặng làm thinh được giây phút, chớ không nói một lời chi cả.
Trong đám người đến nghe kinh đó, có một vị Thái tử thấy vậy mới hỏi Ngài rằng: “Thưa Ngài! Đáng lẻ chỗ Chư Thiên nhơn cưu hội đây, Ngài phải giảng giải cho mọi người rõ thấu lẽ chơn chánh của Phật, đặng nhờ đó mà tu học mới phải, cớ sao Ngài làm thinh mà không biện luận nghĩa lý chi, lại vội xuống pháp tọa như vậy ?”
Ngài liền trả lời rằng: “Phàm việc gì nói hay là nín, đều thuộc về Phật sự cả. Như thế có phải làm đúng theo Phật lý hay không? Vậy mà ông còn buộc tôi nói năng làm chi nữa”.
Thái tử nghe mấy lời bèn làm thinh, trong lòng càng khâm phục Ngài vô cùng.
Cách ít lâu, Ngài ra mắt vua, rồi quì xuống mà tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ! Bần đạo có như ý bửu châu và thanh tịnh giải thoát, chiếu diệu rõ rệt đến mười phương. Nếu Bệ hạ chịu thọ lãnh mấy vật ấy, thì có ngày sẽ chứng đến quả Bồ đề. Vả lại các pháp chẳng phải có, mà cũng chẳng phải không, phàm vật gì thuộc về hữu tình đồng quy nơi thiệt tế . Các việc trong thế gian đều là bức tranh huyễn hóa, rốt cuộc rồi hoàn về chỗ không, cũng ví như trăm sông tuy phân ra muôn dòng ngàn mạch, nhưng tóm lại cũng chảy về biển.
Pháp Thế gian và pháp Xuất thế gian cũng chẳng qua là lý chơn như. Vì lý chơn như thiệt không có sanh và không có diệt, nên không có Niết bàn, tam thế cũng bình đẳng, mười phương đều thanh tịnh. Nếu lấy phần thanh tịnh bình đẳng ấy làm sự nhiêu ích cho các giống hữu tình, thì được đồng lên bờ giác ngạn.
Nếu chỗ sắp đặt phương pháp đặng như thế, thì cuộc trị bình trong thiên hạ sẽ hóa ra cảnh giới trang nghiêm. Đó là Bệ hạ dùng diệu pháp mà tế độ nơi đời, được như vậy thì các khác nào như một vị Từ Bi Vương tái thế”.
Vua Lương Võ Đế nghe mấy lời của Ngài biện giải, càng thêm tôn sùng kính trọng hơn nữa.
Khi Ngài ở tại Chùa Song Lâm, thấy Kinh tạng chứa đầy, Ngài biểu mấy đạo chúng đem từ cuốn mà tả ra. Bổn ý của Ngài muốn khiến cho kẻ sơ địa phàm phu nhờ công đức chuyển kinh đó mà đạt tới nơi chánh chơn của Phật.
Bởi vậy trong thiên hạ, duy có chỗ Song Lâm, thì Thiên Long thường ủng hộ, nên kinh tạng được toàn bổn mà lưu truyền đời sau.
Thoạt một ngày kia, có một làn định quang kim túc của Đức Thích Ca, mùi thơm bát ngát, từ phương đông bay đến mà nhóm nơi mình của Ngài.
Bỗng nhiên có tiếng xướng rằng: “Phó Đại Sĩ xuất hiện ra đây, là thay thế cho Đức Thích Ca mà thuyết pháp, ngồi trên chỗ Long Hoa thắng hội mà chỉ rõ cái bổn nguyện từ mẫn của Đức Văn Thù và xiển dương huệ tập phổ thế của Đức Quan Âm”.
Rõ ràng Ngài cũng như bực y vương, đại thí những lương phương diệu tể mà điều trị tất cả bịnh vô minh phiền não. Thiệt là Ngài có công phu rất lớn và nhiều phương pháp khởi tử siêu sanh.
Có một bửa kia, khí trời nóng nực, Ngài ra ngoài gành biển mà hóng mát, dòm thấy dưới mé có một vùng quanh co theo bờ, và dân cư tại đó chỉ làm được ruộng muối mà thôi. Hễ đến thời tiết mùa thu, thì nước biển tràn lên linh láng, không thế nào mà ngăn cản cho đặng.
Ngài thấy vậy, liền nói với những người bổn xứ rằng: “Bần đạo muốn làm sao cho chỗ này thành ra ruộng tốt, để cho bá tánh cày cấy đặng nhờ đó mà an cư lạc nghiệp”.
Dân chúng nghe mấy lời ấy, đều cười rộ lên mà nói rằng: ” Ông này thiệt điên cuồng! Thuở nay thiền biển mà ai làm thành ruộng cho đặng bao giờ ?”
Ngài thấy dân chúng không đem lòng tin, liền lấy bao đựng cát đem chất xây giáp vòng như vách lũy mà bao ngạn luôn bãi cát ấy.
Lạ thay! Trọn một vùng bờ đê của Ngài làm đó, cách ít lâu cứng cũng như đá vậy, ngăn được ngọn nước thủy triều ngoài biển, không thế nào chảy vô được nữa, nhưng hồi Ngài làm đó có chia ra ba chặng, để ngừa khi Trời hạn và nước lụt.
Đến sau, nội trong khu đất ấy đều thành ra ruộng cả, ước chừng hơn hai ngàn mẫu, thường năm cày cấy đặng mùa luôn luôn. Dân cư trong xứ mỗi năm gặt lúa rồi, trích ra một phần ba để cung cấp cho tăng đồ trong các Chùa lân cận, mua chim cá mà phóng sanh, và làm nhiều việc phước thiện khác nữa.
Hiện nay mấy cái bờ bằng cát của Ngài làm đó hằng bền chắc, không có hư rã chút nào.
Thiệt là linh cảm thay chỗ di tích của bực Đại Thánh ngày xưa! Cho nên dân cư ở dọc theo mé biển ấy đều được phong y túc thực luôn luôn, cùng nhau lập Chùa thờ Ngài và truy tặng ruộng ấy là “phước điền”.
Sau Ngài qua phía Nam núi Phong Sơn mà chỉ điểm những chỗ ẩn tích nơi thâm khê cùng cốc, rồi mấy nơi ấy lần lần trở nên phong cảnh rất thiên nhiên và nét xuân quang bốn mùa đều xuất sắc.
Bửa nọ, Ngài đi chơi tới xứ Bắc thượng, chợt thấy một người đương sửa soạn làm thịt loài súc.
Ngài lật đật chạy lại can rằng: “Bần đạo xin tỏ cho nhà ngươi nghe. Tất cả loài súc sanh, nguyên nhân cũng là người thế gian, chớ không phải khác đâu, vì tạo ác nghiệp rất nặng nề, nên nay phải chịu khổ quả như vậy. Thoảng như mình làm điều phước thiện mà một đời chẳng được giàu sang, thì cũng còn có ngày trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì ngày sau khó tránh khỏi luân hồi khổ thú.
Bần đạo nguyện sao nhà ngươi hồi tâm tự lượng, đem tấm lòng nhân từ mà dung thứ những loài động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và cũng biết ham sống sợ chết như ta vậy.
Những người có nhơn hằng lấy con mắt Từ mà quán xét, xem vạn vật với ta đồng một thể, và muôn tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm lòng nhơn ái được như thế, thì chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà thôi, lại nhiều kiếp được trường thọ là khác nữa”.
Người ấy nghe Ngài phân giải như vậy, liền tỏ ngộ và chung thân không dám sát sanh loài động vật nữa.
Lại có một khi, Ngài đương đi ngoài đường, tình cờ gặp một người nông phu vừa cột một con trâu, đặng tính bề làm thịt.
Ngài đi hối hả lại can rằng: “Phàm ở đời, có nhơn thì có quả, không có sai chạy mảy nào, đó là lẻ cố nhiên như vậy. Hễ giết loài vật, thì có ngày chúng nó cũng giết lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt đâu, non dao rừng kiếm với vạc dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo ác nghiệp như ngươi vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng”.
Người nông phu nghe Ngài nói như thế, liền cúi đầu đãnh lễ và nguyện trọn đời không dám tái phạm nữa.
Ngài thường đi chơi ngoài đồng, bữa nọ lại gặp một ông Sa di hỏi Ngài rằng: “Thưa Đại Sĩ! Làm thế nào mà hàng phục được vọng tâm của mình ?”
Ngài nghe hỏi, liền trả lời rằng: “Tâm là vật gì đâu mà ông phải tìm cho uổng công phu. Vả lại vọng tâm thiệt không có căn bản, hễ buông nó ra thì không thấy dấu tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi lăng xăng, nên mới thành ra vọng niệm như vậy. Nếu nhứt chơn của ta đặng yên tịnh rồi, thì toàn thể như như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà rõ rệt. Chừng đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp cho đặng, thì có vật chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục”.
Ông Sa di nghe Ngài biện bạch như thế, vùng tỏ ngộ và tôn kính vô cùng, rồi đãnh lễ mà từ giã.
Cách ít lâu Ngài đi chơi, chợt thấy một ông Sa môn còn nhiễm theo tục trần, cứ khu trục trong trường mộng ảo.
Ngài bèn đón lại mà chỉ dụ rằng: “Bần đạo coi ông vốn thiệt là Phật. Lẽ nào ông nên tự độ lấy mình, đặng mong có ngày chứng đặng quả vô sanh pháp nhẫn, cớ sao ông lại còn yễm trợ theo thói phàm tình, đành che lấp bổn lai diện mục như vậy?
Bây giờ ông phải bỏ các duyên cấu trược, mà giũ sạch những thói tà phong, ráng sức công phu mà suy tìm trong tâm thể vô sanh, thì có ngày sẽ đạt tới chỗ diệu minh chơn tánh. Nếu ông hồi quang phản chiếu cho toàn thủy toàn chung rồi, sẽ đặng vô ngại viên thông.
Bần đạo ao ước làm sao cho ông được như thế, thì có khác nào một vị La Hán xuất trần, nếu chẳng vậy thì cũng làm một vị Khuất sát trượng phu. Chớ cách hành động như ông đó, thì đã không có ích cho mình, mà lại uổng công xuất thế học đạo vô vi, đến chung quy cũng còn lăn lộn trong đường Lục đạo, biết chừng nào mà thoát ra khỏi đặng vòng sanh tử. Như vậy có khổ hay không ?”
Ông Sa môn nhờ Ngài điểm hóa, nên liền tỏ ngộ lý chơn thừa. Từ đó về sau, ông càng lo tu học, không còn nhiễm nữa.
Thiệt cách phô tế của Ngài không khác nào một ông lương y, đã điều trị không biết bao nhiêu là chứng trầm kha phế tật, rõ ràng một hột minh châu có thể chỉ sắt hóa nên vàng, một lời pháp ngữ có thể đổi người phàm trở nên bực Thánh.
Bởi vậy cho nên Ngài thường dùng những phương pháp thiền định rất giản dị mà độ thoát tất cả chúng sanh qua khỏi sông mê bể khổ, dẫn dụ người đời ra khỏi nhà lửa đường mờ.
Ngài lại chẳng nên sự cấu nhục của thế tình, cứ xen lẫn trong chốn trần lao, mà thi hành những sự lợi ích cho hạng người còn sống say thác ngủ. Vì vậy cho nên trong tám phương hồ hải, chỗ nào cũng là chỗ viên giác đạo tràng của Ngài thế thác cả.
Còn đối với thập loại chúng sanh, thì Ngài càng đem lòng quyến luyến như con một cha, như người một nhà, không phân biệt nhơn ngã, và không biện luận Bắc Nam, vì tất cả chúng sanh thảy đều đủ chơn như diệu tánh như Ngài vậy, nhưng vì bị màn vô minh che lấp, nên phải trì trục trong vòng khổ hải sầu thành đó thôi!
Ngài thường đối với quần chúng mà nói rằng: “Muôn tượng chỉ bao la, song một mảy trần chẳng lập, nhứt chơn trong pháp giới, trăm hạnh đều phân vân. Tuy vậy chớ không lọt ra ngoài vòng như như chí lý, cho nên động tịnh đều là pháp tham thiền, nếu một niệm mà được khế chơn, thì sẽ có ngày mau lên bờ bỉ ngạn.
Đó là lời pháp ngữ của Ngài phát ra những lý mầu nhiệm của thiền gia, để bủa khắp chốn mê đồ, đặng mở rộng những nghĩa huyền tôn trong tâm địa, trước là thâu thập những người có lợi căn, sau là thức tỉnh số người còn độn trí. Thiệt công phu của Ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế trong đời cũng vô cùng vô tận.
Đến đời Lương, nhằm khoảng vua Quân Vương trị vì, niên hiệu Trinh Minh, năm thứ hai, ngày mùng ba tháng ba, Ngài đối trước chúng nhơn mà nói rằng: “Qua năm tới đây, cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái “Di Lặc” mà cúng dường cho đại chúng”.
Quả nhiên qua năm sau, cũng trong ngày ấy và tháng ấy, đại chúng thấy Ngài ngồi kiết già trên bàn thạch, gần bên Chùa Song Lâm mà nhập diệt. Ai nấy thảy đều kinh dị và than thở vô cùng.
Trong đại chúng mới hiệp lực cùng nhau kết khám mà để thi hài của Ngài, rồi làm một tòa bửu tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có khắc hiệu là: Định Ứng Tháp.
Hiện nay tại chỗ bửu tháp ấy, tuy trãi mấy phen tang thương biến đổi, mà công trình vẫn còn đồ sộ như xưa, thánh tích nguy nga, xa trông vọi vọi, bốn mùa người đàn Việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời chuông trống rất oai nghiêm.
Đức Di Lặc tuy chưa đến thời kỳ xuất thế, nhưng tấm lòng từ bi vô hạn đối với tất cả quần sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục thác mà ứng tích nơi đời, đặng nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những hạng người đương chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với giữa dòng khổ hải.
Thiệt công đức của Ngài không có bút mực nào mà mô tả ra cho hết đặng.
Từ ấy chí nhẫn nay, có trên ngàn năm mà phước điền của Ngài còn lưu trụ các điện Đại hùng, thiện quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế giới.
Chẳng những mười phương đảnh lễ tôn sùng Ngài mà thôi, cho đến sáu chữ “Nam Mô Di Lặc Tôn Phật” thì người thường một lòng trì niệm, chẳng có chút nào biến đổi cả.
Nói tóm lại, Đức Di Lặc còn nhiều số kiếp nữa mới xuất hiện ra đời, để nối ngôi cho Đức Thích Ca mà làm một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp, đặng đại chuyển pháp luân mà tế độ muôn loài và phổ lợi trong sa giới.
Nhưng ngặt vì chúng sanh chưa rõ lẽ thiện chơn, cứ vọng tưởng những việc huyễn hoặc, mà đành chịu sa chìm vào nơi khổ hải và tự mình chuốc lấy nẻo luân hồi.
Chớ Chư Phật tuy đã nhập diệt rồi, song Tam Bảo còn lưu trụ khắp cõi nhơn gian, nếu ai hết lòng tinh tấn vui theo mà thọ trì, thì cũng như Phật đương trụ thế vậy.
Tiếc thay! Người đời trí cạn chướng sâu và tội nhiều phước ít, cho nên đối diện ngôi Tam Bảo coi như cách xa ngàn dặm.
Vì nguyên nhân của chúng sanh như thế, nên bất đắc dĩ Ngài mới ứng tích nhiều thời kỳ, đặng hóa độ các kẻ phàm loại trong nhơn gian đó thôi.
Tài sản của hldta76

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #84  
Old 17-02-2010, 11:14 PM
hldta76 hldta76 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: ha noi
Bài gởi: 123
Thời gian online: 5 giờ 55 phút 23 giây
Xu: 0
Thanks: 1
Thanked 1 Time in 1 Post
Smile Đức Quán Thế Âm Bồ Tát

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát , khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp Ngài làm con đầu lòng của vua Vô Tránh Niệm , tên là Bất Huyến Thái Tử .
Trong thời kỳ vua ấy thống trị thiên hạ , thì có Phật Bảo Tạng ra đời .
Vua thấy nhân tâm xu hướng theo lời giáo hóa của Phật càng ngày càng đông bèn suy nghĩ rằng: “ Nếu đạo Phật không phải chân chánh, thì đâu có lẽ người ta sung bái khắp xứ như vậy !”
Nên vua mới phát tâm sắm đủ lễ vật đến cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng, và lại khuyên các vị vương tử và đại thần cũng làm như vậỵ .
Khi ấy Bất Huyến Thái Tử vâng lời phụ vương, hết long tin kính , sắm đủ các món ngon quí và đem những đồ trân trọng của mình mà dâng cúng cho Phật và đại chúng trong ba tháng, không trễ nải bữa nào và cũng không món gì kém thiếu .
Quan Đại thần Bảo Hải , là phụ than của Phật Bảo Tạng , thấy vậy khuyên rằng : “Điện hạ đã sẵn long tu phước mà cúng Phật cúng Tăng: vậy xin Điện hạ hãy đem công đức đó mà hồi hướng về đạo vô thượng Bồ đề, chớ nên cầu sự phước báo trên cõi trời Đao lợi hay là cõi trời Phạm thiên làm chi .
Bởi vì mấy cõi ấy , tuy là cảnh vật vui tốt , nhân dân sung sướng, căn than đẹp đẻ . thọ mạng lâu dài, đặng phép thần thong , dạo đi tự tại , những đồ y thực sẵn có , các cuộc du hí đủ bày , trăm thức tự nhiên thọ dụng đủ đều khoái lạc , không có sự khổ như cõi Nhân gian.
Cái phước báo như trong các cõi đó tuy là mỹ mãn như thế , nhưng còn thuộc về hữu lậu, có hư có mất , chắc chắn gì đâu , chính là sự vô thươờg , thật là tướng vô định , như cơn gió thỗi mau không có thế lực gì cầm lại đặng: hết vui thì xảy ra buồn , hết sướng thì trở lại khổ, dầu có sống lâu đến mấy ngàn năm đi nữa, cũng không khỏi con ma sanh tử lôi kéo vào đường nọ ngõ kia .
Nếu Điện hạ cứ cầu phước báo đó , chắc không thoát khỏi ải sanh tử luân hồi , thì chưa chắc lúc nào đặng tiêu diêu tự tại .
Chi bằng Điện hạ đem công đức đó mà cầu món phước báo vô lậu, không hư không mất , đời đời kiếp kiếp , vượt ra ngoài ba cõi bốn dòng hưởng sự an vui vô cùng vô tận , và hồi hướng về đạo Bồ đề mà cầu mau thành Phật quả , đặng cứu độ chúng sanh khỏi song mê biển khổ . Vậy phần tự lợi đã vuông tròn , mà đức lợi tha lại đầy đủ nữa “.
Bất Huyến Thái Tử nghe ông Bảo Hải khuyên nói như vậy, bèn đáp rằng : “Ta xem xét cả thảy chúng sanh trong đường Địa ngục chịu sự khổ cực : còn kẻ nhân gian và người thiên thượng thì đủ đều cấu nhiễm , lắm chuyện trần lao, không có chút nào đặng thanh tịnh; bởi đó mà tạo thành tội nghiệp, nên mới thọ quả báo mà đọa vào ba đường dữ là : Địa ngục , Ngạ quỉ và Súc sanh”.
Bất Huyến Thái Tử đáp lại rồi tự nghĩ rằng : “ Bởi chúng sanh ở trong đời không gặp đặng những người hiền nhân quân tử , khuyên việc lánh dữ làm lành mà dìu dắt lên con đường giải thoát , chỉ gạp những kẻ tàn ác tiể nhân cũ dụ nhau kết bạn bè thường xúi giục những điều bất thiện , và lại phá hư chánh pháp , khinh pháp Đại thừa , làm cho mất cả căn lành, thêm điều tà kiến ; vì vậy mới che lấp tâm tánh, không biết đạo đức là gì , nên phải chịu nỗi đày đọa “.
Bất Huyến Thái Tử ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thưa rằng : “ Nay tôi đối trước mặt Phật và đại chúng mà tỏ lời như vầy : Tôi nguyện đem tất cả các món công đức tôi đã từng cúng dường Tam Bảo và các món công đức tôi đã từng tu tập pháp mầu mà hồi hướng về đạo Bô thượng Bồ đề .
Tôi nguyện trong khi tôi tu những điều công hạnh Bồ Tát , làm những việc lợi ích cho chúng sanh , nếu tôi xem có kẻ mắc sự khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai , không biết nương dựa đâu , mà có xưng niệm danh hiệi tôi , tức thì tôi dùng phép Thiên nhĩ mà long nghe và dùng phép Thiên nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào , cầu khẩn việc gì , đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ mà đặng vui . Nếu chẳng đặng như lời thề đó , thì tôi không thành Phật .
Thưa Đức Thế Tô ! Nay tôi vì hết thảy chúng sanh mà phát long đại nguyện , tu học về pháp xuất thế, lo làm các công hạnh tự giác tự lợi , nguyên khi phụ vương tôi Vô Tránh Niệm , trải hằng sa kiếp nhẫn sau thành Phật, hiệu là A Di Đà Như Lai ở cõi An Lạc , Thế giới , hóa độ chúng sanh xong rồi , chứng nhập Niết bàn , chánh pháp truyền lại , thì tôi tu hạnh làm việc Phật sự . Đến lúc chánh pháp gần diệt, hễ diệt bữa trước thì bữa sau tôi chứng đạo Bồ đề .
Xin đức Thế Tôn từ bi mà thọ ký cho tôi , và tôi cũng hết long yêu cầu các đức Phật hiện tại ỡ hằng sa thế giới trong mười phương điều thọ ký cho tôi như vậy nữa ?
Đức Bảo Tạng như lai nghe mấy lời nguyện ấy , liền thọ ký Bất Huyến Thái Tử rằng : “ Ngươi xem xét chúng sanh trong cỏi Thiên thượng Nhân gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo , mà sanh long đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy đều đặng hưởng sự an vui .
Vì người có lòng soi xét những lời yêu cầu của loài hữu tình trong thế gian mà cứu khổ như vậy , nên nay ta đặt hiệu là : Quán Thế Âm .
Trong khi ngươi tu hạnh Bồ tát , thì giáo hóa cả vô lượng chúng sanh cho thoát khỏi sự khổ não và là đủ mọi việc Phật sự .
Sau khi A Di Đà Như Lai nhập Niết bàn rồi , thì cõi Cực lạc lại đổi tên là “Nhất thiết trân bảo sở thành tựu”. Y báo càng them tốt đẹp hơn trước đến bội phần .
Chừng đó, đương lúc ban đêm , độ trong giây phút , có hiện ra đủ thức trang nghiêm, thì ngươi sẽ ngồi trên tòa Kim cang ở dưới cây Bồ đề mà chứng ngôi Chánh giác hiệu là ; “Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sang Vương Như Lai: , phước tròn hạnh đủ , muôn sự vẻ vang , đạo pháp cao siêu , thần thong rộng lớn , rất tôn rất quí , không ai sánh bằng mà lại sống lâu đến chin mươi sáu ức na do tha kiếp , rồi khi diệt độ thì chánh pháp còn truyền bá lại đến sáu mươi ba ức kiếp nữa .
Bất Huyến Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi , liền vui mừng mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn ! Nếu sự thề nguyện của tôi quả đặng hoàn mãn như lời ngài nói đó , thiệt là hân hạnh biết bao ! Nay tôi lạy ngài xin làm thế nào cho các đức Phật hiện ở hằng sa thế giớicũng đều thọ ký cho tôi và khiến cho cả thảy thế giới đều đồng thời vang ra những tiếng ấy đều đặng thân tâm thanh tịnh mà xa lìa mọi sự dục vọng trên đời “.
Lúc Bất Huyến Thái Tử thưa rồi , đương cúi đầu lễ Phật , tức thì các thế giới tự nhiên rung động vang rền, kêu ra những tiếng hòa nhã , ai ai nghe đến cũng sanh long vui vẻ , làm cho các điều dục vọng bỗng nhiên tiêu tan cả .
Khi ấy , thoạt nghe các Đức Phật ở mười phương đồng thinh thọ ký cho Quan Thế Âm rằng: “Đương khi thời kiếp Thiện trụ , ở tại cõi Tán đề lam thế giới , nhằm lúc Phật Bảo Tạng ra đời mà giáo hóa chúng sanh , có con của vua Vô Tránh Niệm , tên là Bất Huyến Thái Tử phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trong ba tháng: do công đức đó , nên trải hằng sa kiếp sẽ thành Phật hiệu là : Biết Xuất Nhất Thiết Công đức Quang Minh San Vương Như Lai , ở về thế giới Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu”.
Bất Huyến Thái Tử khi đặng Chư Phật thọ ký rồi , thì long rất vui mừng.
-Đến khi mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác , trải kiếp nọ qua kiếp kia, hằng giữ bổn nguyện , gắng công tu hành, cầu đạo Bồ đề , làm hạnh Bồ Tát , chăm lòng thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh , không có khi nào mà Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện .
Hiện nay Quan Thế Âm đã chứng được bự Đẳng giác Bồ Tát , ở cõi Cực Lạc mà hầu hạ Đức A Di Đà , hằng ngày tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đem về cõi ấỵ
Đến sau , Đức Phật A Di Đà nhập Niết bàn rồi thì Ngài kế ngôi Phật vị mà giáo hoá chúng sanh.
Tài sản của hldta76

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #85  
Old 17-02-2010, 11:19 PM
hldta76 hldta76 is offline
Cái Thế Ma Nhân
 
Tham gia: May 2008
Đến từ: ha noi
Bài gởi: 123
Thời gian online: 5 giờ 55 phút 23 giây
Xu: 0
Thanks: 1
Thanked 1 Time in 1 Post
Smile Đại Thế Chí Bồ Tát

Đức Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm tên là Ni Ma Thái Tử .
Ngài vâng lời phụ vương khuyên bảo, phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và đại chúng trọn trong ba tháng.
Quan Đại thần là Bảo Hải thấy vậy , bèn khuyến thỉnh rằng : “Thưa Điện hạ ! Trong sự tu phước có hai thứ : một là tu phước hữu lậu hai là tu phước vô lậu .
Song phước hữu lậu dẫu có to tát thế nào, thì chỗ cảm báo cũng chỉ ở trong cõi Nhân thiên hưởng phần khoái lạc mà thôi: chớ không thoát khỏi luân hồi sanh tử .
Còn như phước vô lậu , thì chỗ kết quả ở ngoài ba cõi bốn dòng , kiếp kiếp đời đời tiêu diêu tự tại .
Vậy xin Điện Hạ nên vì tất cả chúng sanh mà cầu đặng “Nhất thiết trí” đem công đức ấy hồi hướng về đạo Vô thượng bồ đề , thì sự phước báo không khi nào cùng tận , mà lại đặng viên mãn cái tâm nguyện nữa .
Ni Ma Thái Tử nghe quan Đại thần khuyên nói rành rẽ như thế, liền chấp tay thưa với Phật Bảo Tạng rằng : “Bạch Đức Thế Tôn ! Nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng , và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là: Ba nghiệp của thân (1. Không sát hại chúng sanh, 2. Không trộm cắp của người và 3. Không tà dâm), bốn nghiệp của miệng (1. Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục , 2. Không hờn giận oán cừu, và 3. Không si mê ám muội), cùng là các món hạnh tu thanh tịnh của tôi, mà hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh giác và cầu đặng một thế giới rất trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh San Vương Như Lai , mà Ngài đã thọ ký cho huynh trưởng tôi đó vậy .
Khi đức Phật ấy thành đạo , trước hết tôi ra khuyến thỉnh ngài nói đủ pháp Tam thừa liễu nghĩa mà hóa độ chúng sanh .
Trong khi đó , tôi cũng còn tu Bồ tát đạo , làm việc Phật sự, dạy dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình , mà cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện .
Đến chừng Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh San Vương Như Lai diệt độ rồi , thì tôi sẽ thành đạo , kế ngôi Phật mà truyền chánh pháp và hóa độ chúng sanh .
Những sự trang nghiêm đẹp đẽ trong quốc độ tôi , cùng là thời kỳ diệt độ và kiếp số trụ thế của chánh pháp tôi , đều nguyện y như công cuộc ứng hóa của Đức Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh San Vương Như Lai vậy”.
Phật Bảo Tạng nghe mấy lời của Ni Ma Thái Tử nguyện , liền thọ ký rằng : “Theo như long của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang nghiêm , thì qua đời vị lai , trải hằng hà sa kiếp, người sẽ được hoàn mãn các sự cầu nguyện ấy .
Vì người có long mong cầu một thế giới rất đẹp rất lớn như thế , nên ta đặt hiệu cho ngươi là “Đắc Đại Thế , (tức là Đại Thế Chí Bồ Tát).
Sau khi Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh San Vương Như Lai nhập Niết bàn rồi , người bổ xứ làm Phật hiệu là : Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai, kế tiếp ra đời mà hóa độ mọi loài hàm thức” .
Ni Ma Thái Tử nghe Phật Bảo Tạng thọ ký rồi , liền thưa rằng : “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu sự nguyện cầu của tôi quả đặng như lời Ngài thọ ký đó , tôi xin kính lễ Ngài và nhờ Ngài làm sao cho các thế giới đều vang động và ở giữa hư không có rải xuống nhiều thứ hoa thơm đẹp, lại có các Đức Phật ở thế giới mười phương cũng đều thọ ký cho tôi như vậy nữa . “
Ni Ma Thái tử thưa rồi , vừa cuối lạy Phật , tức thì các thế giới mười phương , cả núi sông, cây cối , và những vật có hình chất , đều rung động ranh thành tiếng vang rền khắp cả , còn giữa hư không lại có các thứ bong rất thơm to và tốt đẹp rơi xuống như mưa .
Các Đức Phật ở mười phương đều đồng tình thọ ký rằng : “Tại cõi Tán đề lam , có người đệ tử của Phật Bảo Tạng Như Lai tên là Ni Ma, con thứ hai của vua Vô Tránh Niệm , có phát tâm cúng dường Phật và đại chúng trot ba tháng , đem công đức ấy mà hồi hướng về đạo vô thượng bồ đề và nguyện đặng ở cõi thế giới trang nghiêm .
Vì vậy nên trải qua hằng sa kiếp, người ấy sẽ bổ xứ thành Phật , sau khi Đức Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh San Vương Như Lai đã nhập Niết bàn”.
Ni Ma Thái tử nhờ Phật Bảo Tạng và các Đức Phật mười phương thọ ký rồi , long rất vui mừng, hằng chăm tu tập công hạnh vô lậu mà cầu cho mau thỏa mãn những điều tâm nguyện .
Từ đó về sau , Ni Ma Thái tử mạng chung , rồi đầu thai ra thân khác đời khác , kiếp nào cũng hằng giữ bổn nguyện , quyết chí tu hành , học đạo Đại thừa, làm hạnh Bồ tát , mở mang trí huệ cho chúng sanh và làm những sự nhiêu ích , đặng dìu dắt các loài ra khỏi sông mê mà bước lên đường giác .
Hiện nay, ngài Đại Thế Chí (tức là Ni Ma Thái tử) đương làm một vị Đẳng giác Bồ tát , hầu gần đức Phật A Di Đà ở cõi Cực lạc , trợ đương Phật hóa , tiếp dẫn chúng sanh chờ đến thời kỳ quả mãn công viên mới bổ xứ làm Phật .
Tài sản của hldta76

Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

Từ khóa được google tìm thấy
����������, loi phat day

Ðiều Chỉnh


©2008 - 2014. Bản quyền thuộc về hệ thống vui chơi giải trí 4vn.eu™
Diễn đàn phát triển dựa trên sự đóng góp của tất cả các thành viên
Tất cả các bài viết tại 4vn.eu thuộc quyền sở hữu của người đăng bài
Vui lòng ghi rõ nguồn gốc khi các bạn sử dụng thông tin tại 4vn.eu™

Tự độngTELEXVNITắtChính tảKiểu cũ