Ngày 6 tháng 9
“Ông bạn Arthur thân mến,
Tin tức tôi gửi ông hôm nay không còn là những điều tốt tình trạng sức khỏe của Lucy đã trở nên trầm trọng hơn. Sự xấu đi này là một kết cục khiến tôi không dám hy vọng. Bà Westenra đã hỏi tôi nghĩ gì về hiện trạng của Lucy, tôi đã nhân cơ hội nói luôn với bà rằng ông bạn già của tôi, giáo sư Van Helsing, vừa đến nhà tôi chơi vài ngày và tôi có thể nhờ giáo sư tới khám, điều trị cho con gái bà. Vấn đề bây giờ là ở chỗ nếu cần thiết, chúng tôi phải thường xuyên tới nhà người phụ nữ tất bụng này mà vẫn không làm cho bà quá lo lắng hoặc gây cho bà quá nhiều cảm xúc khiến bà có thể bị đổ quỵ. Cũng phải tránh làm cho bà cảm nhận được tình hình của Lucy bằng mọi giá, bởi đó sẽ là một cú sốc đau đớn không gì có thể bù đắp được đối với bà. Ông bạn thân mến ạ, chúng ta đang đứng trước những khó khăn dường như không thể vượt qua. Tuy nhiên, hy vọng với ơn đức của Chúa, chúng ta sẽ vẫn đứng vững. Lúc nào cần, tôi sẽ thông tin tiếp cho ông. Vì vậy, nếu chưa nhận được tin gì thêm từ tôi thì ông cũng đừng sốt ruột, đơn giản là vì tôi chỉ thông báo những biến chuyển mới. Tôi đang vội.
Chúc sức khỏe ông John Seward”
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 7 tháng 9
Khi chúng tôi gặp nhau ở phố Liverpool, điều đầu tiên Helsing hỏi tôi là :
- Anh đã thông báo gì cho anh bạn trẻ của chúng ta, cái anh chàng là chồng chưa cưới ấy chưa?
- Chưa, thưa giáo sư, - Tôi trả lời - như tôi đã nói trong bức điện, tôi phải gặp giáo sư trước cái đã. Tôi có gửi cho anh ta một lá thư, nhưng chỉ nói vẻn vẹn rằng giáo sư đang tính quay trở lại khám cho Lucy một lần nữa, và rằng tôi sẽ báo tin cho ông ta ngay sau khi có những tin mới.
- Tốt, anh bạn ạ, rất tốt! Tốt hơn hết là đừng cho anh ta biết, vì vào lúc này... Có thể anh ta sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật, tôi hy vọng là như vậy! Nhưng nếu thực sự cần thiết, tôi sẽ nói cho anh ta biết tất cả. Anh bạn ạ, xin hãy hiểu cho tôi. Hơn ai hết, với tư cách là một chuyên gia về chăm sóc các bệnh nhân tâm thần, anh sẽ phải là một người rất hiểu tôi. Nói theo cách này hay cách khác, chúng ta cũng đều là những thằng điên và trong trường hợp anh tỏ ra thiếu thận trọng khi chăm sóc các bệnh nhân tâm thần của mình, thì anh xử sự cũng chẳng khác nào những con chiên điên rồ của Chúa. Hãy đừng nói với các bệnh nhân của mình rằng tại sao anh lại phải chăm sóc họ, cũng đừng nên nói cho họ biết những gì anh đang nghĩ. Trong những trường hợp làm chúng ta phải đắn đo, thì anh ta nên giữ kín những gì anh biết cho tới khi niềm tin của anh được củng cố vững chắc hơn. Đúng vậy, chúng ta hãy giữ kín những gì chúng ta đang biết, như thế và như thế... trong lúc này... (Nói tới đây, ông đưa tay đặt lên ngực, rồi lên trán tôi, rồi lại chuyển ngón tay đặt lên ngực, lên trán mình). Về phần mình, tôi đã hiểu ra một vài vấn đề và xin dần dần được tiết lộ với các bạn sau.
- Tại sao lại không nói ra trong lúc này? - Tôi hỏi. - Biết đâu điều đó lại có ích cho chúng ta, có thể nó sẽ giúp chúng ta đưa ra được một quyết định.
Giáo sư khoát tay nhìn thẳng vào mắt tôi như muốn tôi phải im lặng :
- Anh bạn ạ, khi cây lúa mì vươn khỏi mặt đất nhưng chưa đạt tới độ chín, thì dòng sữa của đất mẹ vẫn còn chảy trong thân thể nó, nhưng khi ông mặt trời còn chưa tỏa ra những ánh nắng vàng rực rỡ, thì người thợ cày đã vội ngắt một bông rồi nghiền nát trên bàn tay thô ráp và thổi tung hạt mì còn xanh đi và nói với anh rằng: “Ông thử nhìn mà xem! Hạt lúa thật chắc mẩy. Nó đang hứa hẹn một vụ mùa bội thu đấy!”
Thú thật là tôi vẫn chưa nắm bắt được mối liên hệ giữa mẩu chuyện ẩn dụ của giáo sư những gì chúng tôi đang nói.
Van Helsing không trả lời mà lấy tay véo mạnh vào tai tôi rồi kéo xệch về một bên giống như ông vẫn làm đối với tôi hồi tôi còn là học trò của ông. Cuối cùng, ông lý giải :
- Người thợ cày tốt bụng nói như vậy bởi lúc đó ông ta đã biết chắc là sẽ ớược mùa, nhưng trước khi được thấy bông lúa mì, ông ta đã không dám khoác lác. Sẽ không bao giờ có chuyện một ông thợ cày đi nhổ bật gốc lúa mì mà ông ta đã mất bao công sức gieo trồng, chăm sóc lên để xem nó đã mọc như thế nào. Chỉ có lũ trẻ vô lo mới xử sự như vậy, chứ những người gieo hạt để kiếm sống thì không bao giờ. Bây giờ thì anh đã hiểu ý tôi rồi chứ, anh bạn? Tôi gieo hạt lúa mì, thiên nhiên sẽ phải làm nó nảy mầm. Và nếu như hạt lúa nảy mầm, thì đlều tôi chờ đợi sẽ là những hạt lúa chắc mẩy.
Nét mặt của Van Helsing bỗng trở nên đăm chiêu đến khó hiểu. Sau một lát yên lặng, ông mới tiếp tục câu chuyện, giọng nghiêm trọng, khác hẳn lúc trước :
- Anh từng là một trong những học trò xuất sắc nhất mà tôi yêu quý... Khi đó anh chỉ là một sinh viên, còn bây giờ, anh đã là một người thầy, và tôi tin rằng anh vẫn còn giữ được những thói quen say mê nghiên cứu của ngày trước. Anh bạn ạ, hãy nhớ rằng tri thức bao giờ cũng quan trọng hơn hồi ức, rằng chúng ta đừng nên tự hào một cách mù quáng vào những khái niệm sơ đẳng đã đạt được. Nếu như anh đã từ bỏ những thói quen cố hữu đáng quý đó thì bây giờ hãy nên khôi phục lại đi. Tôi xin nói để anh biết trường hợp của cô bạn trẻ kia có thể - chú ý nhé, tôi nói là có thể - trở thành một lợi ích thực tiễn cho chúng ta và cho cả những người khác. Đừng nên làm gì chểnh mảng. Xin có một lời khuyên cho anh: ghi nhớ tất cả những nghi ngờ của mình, những giả thiết về hiện tượng, dù chỉ là một chi tiết nhỏ nhất. Chắc chắn nó sẽ rất hữu ích cho việc kiểm chứng lại các nhận định sau này của anh đúng sai ở mức nào. Không phải là thành công, mà chính sự thất bại mới mang lại cho chúng ta các bài học!
Nghe tôi kể về những triệu chứng mà tôi đã quan sát được ở Lucy, mặc dù rất chú ý lắng nghe, nhưng giáo sư vẫn không đưa ra một nhận xét gì. Ông lặng lẽ cầm chiếc xà cột đựng dụng cụ y tế và thuốc men. “Cả mớ đồ lề lủng củng cần cho cái công việc chuyên môn đầy thi vị của chúng ta.” – ngày trước, ông đã nói với các học trò chúng tôi như vậy trong một bài giảng về toàn bộ các dụng cụ sơ đẳng nhất mà một thầy thuốc cần phải có để hành nghề.
Bà Westenra ra đón tiếp chúng tôi. Bà không có cái vẻ lo lắng như tôi vẫn sợ. Bản chất của thiên nhiên có cái hay là luôn mang lại một phương thuốc điều trị những lời ám ảnh khủng khiếp nhất, dù cái chết có lẩn quất ở đâu đó. Bà Westenra đã khoác lên mình một lớp vỏ bọc vô cảm chống lại mọi tổn thương, kể cả khi bà cảm nhận được những thay đổi mà tôi cho ìà đáng sợ ở con gái bà.
Nếu như có thể gọi đây là một sự ích kỷ tự giải thoát, thì chúng ta cũng đừng nên vội lên án những kẻ mà chúng ta thấy là ích kỷ, bởi nguyên nhân dẫn tới sắc thái tính cách đó đôi khi còn bí ẩn hơn nhiều so với những gì mọi người vẫn tưởng.
Tuy nhiên, các hiểu biết của tôi về tâm điểm của bệnh lý tâm thần đã buộc tôi phải tuân theo một cách xử sự thật rõ ràng: tôi quyết định không bao giờ để bà Westenra có mặt khi chúng tôi khám bệnh cho Lucy, và bà cũng không nên bận tâm về sức khỏe của cô con gái, trừ phi là trường hợp tuyệt đối cần thiết. Bà mẹ Lucy đã cố tỏ ra vui vẻ khi chấp nhận đề nghị của tôi.
Một người giúp việc đã dẫn chúng tôi, tức Van Helsing và tôi, vào phòng Lucy. Nếu như hôm qua nhìn cô, tôi chỉ thấy một thoáng lo ngại, thì hôm nay tôi đã thực sự giật mình bàng hoàng trước sự thay đổi đã diễn ra ở con người cô.
Trước mặt tôi là một Lucy vêu vao, võ vàng; mặt cô trắng bệch, đôi môi nhợt nhạt, và hai lợi răng hình như không còn một giọt máu lưu thông bên trong.
Nghe hơi thở của cô lúc này quả là một cực hình: cô đang khó thở tới mức khó có thể chịu đựng lâu hơn được.
Sắc mặt của Van Helsing dường như vẫn không có gì thay đổi; ông đang trầm ngâm nghĩ ngợi một điều gì đó. Lucy vẫn nằm im, thậm chí cô không còn sức để mà chào hỏi chúng tôi nữa. Cả ba chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau một hồi lâu. Rồi Van Helsing khẽ hất hàm ra hiệu cho tôi, chúng tôi rón rén ra khỏi phòng.
Cửa chưa kịp khép hết, ông đã kéo tôi chạy xềnh xệch sang phòng bên cạnh và nói :
- Lạy Chúa! Thật là khủng khiếp? Không được chậm thêm một phút nào nữa. Lucy sẽ chết vì thiếu máu mất. Thậm chí trong người cô ta không còn đủ một lượng máu cần thiết cho tim hoạt động. Phải truyền máu ngay lập tức. Ai trong số hai chúng ta?...
Tôi trẻ và còn sức khỏe hơn, thưa giáo sư. Vậy cứ để tôi hiến máu.
- Vậy thì phải tiến hành ngay! Anh chuẩn bị đi! Tôi phải đi lấy túi dụng cụ đây.
Hai chúng tôi đang xuống dưới chân cầu thang thì nghe có tiếng gõ cửa.
Người giúp việc chạy ra mở cửa, thì ra là Arthur. Anh ta đi vội về phía tôi, giọng thổn thức vì âu lo :
- Jack, tôi thấy lo quá. Tôi đã đọc đi đọc lại lá thư của cậu, cậu không thể biết là kể từ đó đến giờ tôi đã phải chịu đựng đến thế nào. Thấy tình hình sức khỏe của ông già tôi đã ổn, tôi quyết định phải tới đây ngay lập tức xem sự thể ra sao... Kia là bác sĩ Van Helsing, đúng không? Rất biết ơn sự có mặt của ngài!
Trông thấy người mới đến, giáo sư có vẻ không bằng lòng, ông khó chịu vì công việc của mình bị gián đoạn đúng vào lúc nguy kịch; nhưng lát sau, khi đã hiểu ra cách giải quyết can đảm trong hành động của Althur, đôi mắt ông rạng rỡ hẳn lên, ông chìa tay ra rồi nói :
- Anh đến thật đúng lúc. Chắc anh là chồng chưa cưới của cô bạn gái kia? Cô ấy đang ốm, ôm rất nặng. Song cứ bình tĩnh, anh bạn trẻ ạ, đừng để mình bị gục ngã vào lúc này? - Bởi vì, Arthur bây giờ trông cũng rất hốc hác, mặt mày xanh xao, anh ta ngồi phịch xuống ghế như sắp ngất đi. Ngược lại, anh phải can đảm hơn nữa... Anh sẽ phải giúp đỡ cô ấy. Anh có thể giúp cô ấy hơn bất cứ ai trên đời này, và nói một cách thật chính xác, anh có thể giúp cô ấy một cách tốt nhất chính bằng lòng dũng cảm của mình.
- Vậy thì tôi có thể làm được gì kia chứ? - Arthur hỏi lại bằng một giọng thật yếu ớt. - Xin giáo sư cứ nói, tội sẽ không do dự đâu. Cuộc đời tôi thuộc về cô ấy, tôi phải cứu cô ấy cho đến giọt máu cuối cùng.
- Anh bạn trẻ ạ. - Van Helsing trả lời, giọng hài hước - Tôi không đòi hỏi ở anh nhiều đến như vậy đâu: không cần anh phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng?
- Vậy thì tôi phải làm gì?
Trong ánh mắt của Arthur như có lửa, cả hai lỗ mũi của anh cứ phập phồng vì sốt ruột. Van Helsing vỗ nhẹ lên bờ vai anh :
- Lại đây. Chúng tôi rất cần một người đàn ông như anh. Anh sẽ phù hợp hơn tôi, hơn cả anh bạn John của chúng ta rất nhiều trong việc này.
Rõ ràng là Arthur vẫn chưa hiểu giáo sư muốn nói gì, vì vậy, ông phải nhẹ nhàng giải thích thêm :
- Đúng là cô gái trẻ đang ốm rất nặng. Có thể nói là trong người cô chẳng còn bao nhiêu máu nữa, nếu chúng ta không tiếp máu, chắc chắn là cô ấy sẽ không thể sống được. Tôi và anh bạn John đây đã thống nhất làm cái việc mà chúng tôi gọi là truyền máu, tức là phải lấy máu từ các huyết mạch tràn đầy rồi cho chảy vào các huyết mạch gần như rỗng không... đang trong tình trạng cấp cứu! Và John sẽ là người hiến máu, bởi anh ta trẻ và khỏe hơn tôi. Nhưng bầy giờ, khi mà anh đã có mặt ở đây, thì anh lại là người khỏe nhất trong ba chúng ta trẻ hay già bây giờ không còn là vấn đề quan trọng nữa, bởi dù sao thì hai chúng tôi cũng đã làm việc quá căng thẳng rồi, vì vậy mà dòng máu của chúng tôi lúc này không còn đỏ thắm như dòng máu đang chảy trong huyết mạch của anh!
Arthur quay sang nói với Van Helsing :
- Giá mà ngài có thể biết tôi đang khát khao muốn hy sinh cuộc đời mình vì cuộc sống của cô ấy như thế nào thì có lẽ ngài đã hiểu...
Anh bỗng nghẹn ngào không còn nói nên lời.
- Hoan hô anh bạn! - Van Helsing reo lên. - Bây giờ, anh hãy đi cùng chúng tôi, nhưng nhớ là phải yên lặng đấy nhé. Anh có thể ôm hôn người yêu một lần trước khi truyền máu, còn khi công việc đã diễn ra, anh cứ để mặc chúng tôi.
Lúc nào tôi ra hiệu, anh phải rời khỏi phòng ngay. Và cũng đừng nên nói gì với bà Westenra đấy! Cần phải giữ sức cho bà ấy. Lại đây!
Cả ba chúng tôi cùng bước lên cầu thang. Nhưng giáo sư Van Helsing không muốn Arthur bước vào phòng cùng một lúc với chúng tôi. Anh ta phải đứng đợi ở chiếu nghỉ cầu thang. Trông thấy chúng tôi, Lucy quay mặt lại nhưng không nói năng gì. Cô không ngủ mà chỉ nằm im vì quá yếu. Cố gắng nói đối với cô lúc này là một điều không thể. Nói bằng ánh mắt là tất cả những gì cô có thể làm được trước chúng tôi.
Vản Helsing mở túi đồ lấy ra một số thứ đặt lên bàn, nơi người bệnh không nhìn thấy. Ông chuẩn bị một liều thuốc gây mê rồi quay trở lại giường Lucy :
- Nào, cô bé, cô dùng liều thuốc này nhé! Hãy cố gắng uống hết cốc này như một đứa con ngoan. Chú ý nhé, tôi sẽ cầm cốc cho cô uống, như vậy sẽ dễ hơn. Thế... Tốt rồi!
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy liều thuốc ngủ có tác dụng nhanh quá, điều đó chứng tỏ cô gái yếu đến mức nào. Dường như trong mắt cô, khi cô bắt đầu khép đôi bờ mi lại, là cả một thế giới vĩnh hằng bất tận. Ngay sau khi liều thuốc ngủ phát huy tác dụng, Van Heising cho gọi Arthur vào phòng và bảo anh cởi áo vét ra.
- Bây giờ, - Ông nói - anh có thể ôm cô ấy như tôi đã nói. Trong thời gian đó, tôi sẽ kê một cái bàn ở gần giường bệnh nhân. Anh bạn John, giúp tôi một tay nào!
Do bận chuẩn bị dụng cụ nên chúng tôi không để ý tới Arthur đang lúi húi bên Lucy.
Van Helsing nói nhỏ vào tai tôi :
- Anh ta vẫn còn trẻ và khỏe lắm, tôi tin rằng chúng ta sẽ không cần phải loại tơ huyết.
Và rồi bằng mấy động tác thật nhanh, chính xác và tất nhiên là có phương pháp, ông bắt đầu công việc truyền máu :
Cuộc sống dường như đang dần tô hồng trở lại đôi má Lucy, trong khi đó khuôn mặt của Arthur chuyển nhanh sang một màu tái nhợt, nhưng ánh mắt anh vẫn ánh lên một niềm vui khôn tả. Nhìn người bạn, tôi không khỏi chạnh lòng.
Tôi sợ một người như anh khó có thể bình phục sau khi bị mất quá nhiều máu.
Nét mặt của vị giáo sư đang rất nghiêm trọng và căng thẳng. Cầm đồng hồ trên tay, ông hết nhìn bệnh nhân rồi lại nhìn Arthur. Tôi cũng hồi hộp đến mức nghe rõ cả từng nhịp đập trong lồng ngực mình. Van Helsing chợt bảo tôi :
- Như thế là đủ rồi đấy. Bây giờ anh phải để ý anh ta, còn tôi sẽ lo cho bệnh nhân...
Arthur yếu đi trông thấy. Tôi chỉ dám nhìn vào sự thực này sau khi công việc đã xong xuôi. Tôi đang chuẩn bị đưa Arthur ra ngoài khi đã băng bó xong vết thương cho anh thì nghe thấy tiếng Van Helsing - ông nói mà không quay mặt lại, tôi có cảm tưởng ông như có mắt ở sau gáy.
Tôi cho rằng anh chồng chưa cưới dũng cảm này xứng đáng được nhận một nụ hôn. Anh có thể làm ngay bây giờ. Vừa nói ông vừa luồn gối xuống dưới đầu bệnh nhân.
Nhưng khi Lucy có cử động nhẹ đầu tiên sau khi được tiếp máu, dãy băng nhung đen mà cô luôn quấn ở cổ chợt nhích cao lên, để lộ ra một vết đỏ. Có vẻ như Arthur không để ý, song Van Helsing thì không phải như vậy, bởi rõ ràng tôi vừa nghe thấy tiếng hít hơi vào rất mạnh và đột ngột của ông. Mỗi khi xúc động và ngạc nhiên về một điều gì đó, tôi đều thấy ông phản ứng như vậy.
Ông vẫn tỏ vẻ không để ý thấy gì và quay sang bảo tôi :
- Ừ, anh hãy xuống cùng anh bạn dũng cảm này đi, cho anh ta uống một cốc rượu vang Pooc-tô và để anh ta ngả lưng một lúc. Sau đó anh ta sẽ trở về nhà để nghỉ ngơi, rồi ngủ cho thật đấy, ăn thật nhiều, càng nhiều càng tốt, để bù đắp lại những gì vừa làm cho cô vợ chưa cưới. Đừng nên ở lại đây lâu! Khoan đã, còn điều này nữa! Anh bạn ạ, tôi cho rằng thế nào anh cũng muốn biết kết quả của cái việc mà chúng tôi vừa làm. Cứ yên tâm đi! Ca xử lý đã thành công mỹ mãn. Anh đã cứu sống cô bạn trẻ, và bây giờ anh có thể yên tâm trở về nhà mà không cần phải lo nghĩ gì cả. Anh đã làm tất cả những gì anh có thể làm được cho cô ấy. Tôi sẽ tâm sự với cô ấy khi cô ấy đã bình phục. Chắc chắn cô ấy sẽ yêu anh hơn. Tạm biệt nhé.
Khi Arthur đã ra khỏi nhà, tơi quay trở lại gặp Van Helsing. Lucy vẫn ngủ, nhưng hơi thở của cô có vẻ nhẹ nhàng hơn khá nhiều. Vị giáo sư đang chăm chú theo dõi cô. Dãy nhung đen đã được sửa lại đúng vị trí che lấp vết đỏ trên cổ cô Tôi khẽ hỏi giáo sư :
- Giáo sư giải thích như thế nào về cái vết thương ấy?
- Thế còn anh, anh giải thích ra sao?
- Tôi vẫn chưa xem kỹ cái vết ấy, để tôi tháo dãy băng ra xem nào.
Đúng là ở bên ngoài tĩnh mạch cảnh trên cổ cô gái còn hằn hai vết nhỏ như hai vết trích chưa lành. Chắc chắn đó không phải là cái triệu chứng của một bệnh lý nào đó, nhưng ở miệng các vết thương đều có một màu trắng nhợt với các mép sờn như đã bị từ lâu. Tôi nghĩ ngay rằng vết thương này nếu có thể gọi đó là vết thương có thể gợi nhắc tới một nguyên nhân gây mất máu hết sức nguy hiểm của cô gái, song tôi cũng phải vội xua đuổi ngay cái ý nghĩ mới manh nha ấy đi, bởi tôi thấy đó là điều hết sức vô lý. Nếu nhìn thấy cái vẻ xanh xao như một kẻ sắp chết của Lucy trước lúc truyền máu, thì hẳn trên giường cô lúc này phải đẫm những giọt máu mà cô đã mất.
- Thế nào? - Van Helsing hỏi tôi.
- Lạ thật? Tôi chẳng hiểu gì cả.
- Tối nay tôi phải trở về Amsterdam bằng mọi giá. Giáo sứ vừa nói vừa đứng dậy. - Tôi cần tra cứu thêm một số cuốn sách và tài liệu. Anh ở đây cả đêm với bệnh nhân vậy nhé!
Tôi có cần phải gọi thêm một y tá không?
- Tôi và anh, chúng ta sẽ là những y tá tốt nhất. Anh sẽ phải để ý tới chuyện ăn uống của cô ta, và nhất là đừng để cô ta bị quấy rầy. Nhớ là đừng có ngủ đấy nhé? Cả anh và tôi sẽ ngủ bù sau. Tôi sẽ cố gắng quay trở lại đây trong thời gian sớm nhất, và khi đó chúng ta có thể bắt đầu.
- Có thể bắt đầu? Giáo sư định nói gì vậy?
- Rồi anh sẽ thấy? - Van Helsing vừa nói vừa vội vàng bỏ đi.
Nhưng được một lúc, tôi lại thấy ông mở cửa, thò đầu và giơ ngón trỏ lên bảo tôi :
- Đừng có quên đấy: tôi rất tin tưởng ở anh. Nếu cứ tùy tiện rời khỏi phòng này và để xảy ra chuyện gì đáng tiếc, thì chắc chắn là anh sẽ phải thức thêm nhiều đêm trắng nữa đấy!
* * * * *
Ngày 18 tháng 9
Tôi đã thức suốt đêm và tất nhiên là không dám bỏ ra khỏi phòng bệnh nhân một phút. Đêm xuống, tác dụng của thuốc ngủ không còn nữa, Lucy đã thức tỉnh một cách hoàn toàn tự nhiên. Đó là một cô gái trẻ trung khác hẳn với cô gái mà chúng tôi đã gặp trước lúc truyền máu. Thậm chí trong mắt cô còn ánh lên sự vui vẻ và hoạt bát, mặc dù dấu hiệu của sự mệt mỏi đắm chìm vẫn còn đó. Khi tôi nói với bà Westenra rằng bác sĩ Van Helsing đã bảo tôi phải thức trông nom con bà suốt đêm, bà đã tỏ ý không muốn chấp nhận đề nghị này với lý do rằng con gái bà đã hoàn toàn hồi phục. Tuy nhiên, tôi vẫn không chịu nhượng bộ và tiếp tục chuẩn bị tinh thần thức suốt đêm bên giường Lucy. Khi người hầu phòng làm vệ sinh cá nhân cho cô xong và sau khi vội vàng ăn xong bữa tối, tôi quay trở lại ngồi bên giường cô. Chẳng có ai khác trong phòng. Cứ mối lần chúng tôi nhìn nhau, tôi lại đọc được sự biất ơn trong ánh mắt cô. Tôi có cảm giác như cô đang chìm dần vào giấc ngủ, nhưng đồng thời cũng cảm nhận được rằng hình như cô đang cưỡng lại giấc ngủ đó. Cô liên tục cố gắng như vậy, và mỗi lần cố gắng là một lần khó nhọc hơn. Rõ ràng là cô không muốn ngủ; tôi buộc phải hỏi cô tại sao.
- Em cảm thấy sợ ngủ quá. - Cô thú nhận.
- Sợ ngủ! Vậy mà chúng tôi, ai cũng coi giấc ngủ như một thứ của cải quý giá nhất đấy!
- Ôi! Chắc là ông sẽ không nói như vậy nếu như ông ở vào địa vị của em...
nếu như trong giấc ngủ ông chỉ gặp toàn những cơn ác mộng khủng khiếp.
- Những cơn ác mộng? Lạy trời, em định nói gì vậy?
- Em không biết, em không biết... Và chính cái không biết ấy lại càng làm em thấy sợ hơn! Cứ nghĩ đến giấc ngủ là em lại thấy rùng mình?
- Nhưng cô bé ạ, đêm nay em có thể ngủ vô tư mà không phải sợ gì cả. Tôi hứa là tôi sẽ ở gần em, mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp thôi.
- Ôi! Em tin ở ông, em luôn tin ở ông!
- Ừ, tôi xin hứa rằng nếu nhận ra ở em một dấu hiệu nào đó cho thấy em đang gặp ác mộng, tôi sẽ đánh thức em đậy ngay lập tức.
- Đánh thức em? Ông nói thật đấy chứ? Ôi! Ông tốt với em quái. Nếu vậy thì em sẽ ngủ...
Nói tới đây, Lucy trút một hơi thở thật dài nhẹ nhõm rồi chìm ngay vào giấc ngủ.
Tôi thức trông cô suốt đêm. Cô cứ nằm như vậy với một giấc ngủ thật sâu, thật êm đềm mà không hề có một lần trở mình. Đôi môi cô hơi hé mở với một nụ cười hạnh phúc đọng lại trên gương mặt, ngực cô phập phồng cùng những nhịp thở đều đều như quả lắc đồng hồ. Rõ ràng là không có một giấc mộng khủng khiếp nào quấy rầy sự bình yên trong tinh thần cô.
Người hầu phòng tới gọi cửa từ rất sớm, tôi giao cho bà ta nhiệm vụ tiếp tục chăm sóc cô gái rồi vộĩ vàng quay về dưỡng đường để giải quyết một số việc.
Tôi đánh điện gửi Van Helsing và Arthur để thông báo cho họ biết kết quả tuyệt vời của ca truyền máu. Lúc tôi giải quyết xong các việc riêng cũng là lúc một ngày mới sắp tàn. Tôi chợt nhớ tới Renfield và muốn biết tin tức về hắn. Toàn những tin tốt lành. Hắn vẫn bình yên suất từ đêm hôm qua. Tôi nhận được điện của Van Helsing khi đang ngồi ăn tối; ông đề nghị tôi quay trở lại Hillingham ngay tối nay, bởi ông nghĩ có thể đây sẽ là một việc làm hữu ích. Ông thông báo sẽ trở lại Hillingham vào sáng mai.
* * * * *
Ngày 9 tháng 9
Tôi cảm thấy rất mệt khi đã tới Hillingham.
Sau hai đêm không ngủ, sức tôi đã giảm sút rõ rệt. Ngược lại, Lucy đã có thể đứng dậy được, tính khí của cô cũng ổn định hơn.
Hai tay nắm chặt tay tôi, mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, cô nói bằng một giọng xúc động :
- Tối nay ông không cần phải thức nữa đâu. Em xin đảm bảo với ông rằng em đã hoàn toàn bình phục! Nếu như có người cần phải thức, thì người đó phải là em, em sẽ phải thức cho ông ngủ mới phải?
Tôi không muốn làm trái lời cô. Chúng tôi ngồi ăn tối lùng nhau, được ngồi ăn cùng cô quả là một điều thật dễ chịu đối với tôi. Tôi uống liền hai cốc vang Bồ Đào Nha hảo hạng trước khi cùng Lucy lên cầu thang. Cô chỉ cho tôi một căn phòng đang bập bùng ánh lửa hồng bên cạnh phòng cô.
- Đó, ông sẽ nghỉ ở đó. Em sẽ để mở cả hai cánh cửa của hai phòng. Ông sẽ nằm trên ghế trường kỷ... Em biết rằng theo đạo lý, chẳng có một thầy thuốc nào muốn nằm trên giường khi có một bệnh nhân... Ông hãy cứ yên tâm, nếu cần một cái gì đó, em sẽ gọi ông ngay lập tức.
Tôi chỉ còn biết nghe theo lời Lucy, bởi thú thực là tôi cảm thấy mình không còn đủ sức để thức nữa. Mà dù sao thì cô cũng đã hứa với tôi một lần nứa là nếu cần cô ta sẽ gọi tôi kia mà! Nghĩ vậy, tôi yên tâm nằm xuống ghế trường kỷ và chìm sâu vào giấc ngủ ngay sau đó vài phút.
Nhật ký của Lucy Westenra
Ngày 9 tháng 9
Quả là một đêm thật dễ chịu! Những bước chân tự tin đi thơ thẩn trong nhà đã mang lại cho tôi một cảm giác như đang được dạo chơi dưới ánh nắng chan hòa sau một mùa lộng gió đông dưới bầu trời xám xịt ảm đạm. Tôi bỗng thấy Arthur có vẻ như đang rất gần gũi với tôi, gần gũi hơn so với bình thường mà không hiểu tại sao.
Thậm chí tôi còn cảm thấy cả hơi ấm nồng nàn tỏa ra từ người anh. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính bệnh tật và sự yếu đuối của tôi đã khiến anh xích lại gần tôi hơn. Giá như Arthur biết được tôi đang nghĩ gì về anh trong lúc này? Ơn Chúa đã ban cho tôi một giấc ngủ êm đềm đêm hôm qua? Sự có mặt của bác sĩ Seward đã đảm bảo cho giấc ngủ ngon lành của tôi! Và đêm nay tôi cũng sẽ không sợ ngủ, bởi bác sĩ vẫn đang ở đây, nếu cần, tôi chỉ cần tới một tiếng là xong. Tất cả mọi người đều tốt với tôi quá! ơn Chúa? Arthur ơi, chúc anh ngủ ngon!
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 10 tháng 9
Tôi cảm thấy có ai đó vừa đặt tay lên đầu mình, tôi nghĩ ngay ra rằng đó chính là bàn tay của giáo sư và lập tức mở mắt ra. Ỏ bệnh viện, chúng tôi đã quen với kiểu giật mình tỉnh đậy này.
- Thế nào, bệnh nhân của chúng ta sao rồi?
Rất tốt khi tôi rời chỗ cô ấy...
- Tốt. Đi thăm cô ấy đi!
Hai chúng tôi cùng quay sang phòng Lucy.
Bức mành cửa sổ phòng cô đã được hạ xuống từ lúc nào; và để kéo mành lên, tôi phải đi rón rén về phía cửa sổ tìm sợi dây kéo. Trong khi đó, giáo sư cũng hết sức nhẹ nhàng bước về phía giường Lucy.
Khi bức mành được kéo lên, ánh ban mai lập tức ùa vào căn phòng nhỏ. Tôi bỗng giật mình khi nghe thấy tiếng rít kinh ngạc của giáo sư, tim tôi lập tức như thắt lại. Người tôi chết lặng đi khi nghe tiếng kêu nghèn nghẹt của giáo sư lúc ông quay trở ra. Tiếng kêu hoảng sợ của ông, lạy Trời, lạy Đất! đủ để làm cho tôi hiểu ngay ra tình hình thực tế, dù tôi còn chưa kịp nhìn thấy sự đau đớn khổ sở hiện rõ trên gương mặt ông. Ông run run chỉ vào giường. Tôi cảm thấy hai đầu gối mình sắp đổ quỵ đến nơi.
Trên giường, Lucy đang nằm như bất tỉnh, nước da tái xám như một xác chết, trông cô yếu hơn bao giờ hết. Đôi môi cô trở lại một màu trắng bệch, hai hàm răng nhe ra như không còn lợi - một cảnh tượng mà chúng ta vẫn thường thấy ở một người đã chết sau quãng thời gian mắc bệnh rất dài. Van Helsing có vẻ rất tức giận, ông định co chân giậm xuống sàn nhưng rồi lại từ từ hạ xuống.
Sau giây lát lo lắng bàng hoàng, ông khẽ bảo tôi, giọng quả quyết :
- Cũng chưa đến nỗi quá muộn. Tim cô ta vẫn còn đập, dù đã rất yếu. Nhưng chúng ta phải bắt tay vào việc ngay.
Bây giờ Arthur không còn ở đây nữa, vì vậy tôi cần phải trông chờ vào sự hào hiệp của anh, anh bạn John ạ?
Giáo sư vừa nói vừa lôi trong túi đồ ra mấy dụng cụ cần cho ca truyền máu; tôi cũng vội vàng cởi áo vét và kéo tay áo sơ mi lên thật cao. Chúng tôi khẩn trương bắt tay vào công việc. Sau vài phút tưởng như dài đến vô tận - quả thực là rất cơ cực khi cảm thấy dòng máu đang chảy ra khỏi các huyết mạch của mình, kể cả khi bạn là một người tình nguyện Van Helsing giơ ngón tay lên cảnh báo tôi :
- Đừng có cử động nữa, phải kiên nhẫn chứ... Nhưng tôi sợ khi sức lực đã hồi phục, cô ta sẽ tỉnh, và như vậy sẽ rất nguy hiểm... Chúng ta cần phải đề phòng. Có khi tôi phải tiêm cho cô ta một liều mooc-phin mới được.
Liều mooc-phin đã nhanh chóng phát huy tác dụng, bởi chúng tôi thấy dường như bệnh nhân của chúng tôi đang chuyển dần dần từ trạng thái hôn mê sang một giấc ngủ tự nhiên. Thú thực là trong lòng tôi đang trào dâng một cảm xúc rất tự hào khi thấy đôi má, rồi đôi môi của cô bắt đầu hồng sắc trở lại.
Giáo sư Van Helsing vẫn đang quan sát tôi.
- Có lẽ như thế là đủ rồi đấy. - Ông nói.
- Đủ rồi? - Tôi ngạc nhiên hỏi lại. - Hôm nọ, khi Arthur hiến máu, ngài để lâu thế kia mà?
Ông bỗng bật cười, một nụ cười có cái gì đó buồn buồn, rồi trả lời tôi :
- Arthur là chồng chưa cưới của cô gái. Còn anh, anh vẫn còn rất nhiều việc phải làm; anh không phải chỉ có mỗi nhiệm vụ là chăm sóc một mình cô ta, mà còn rất nhiều bệnh nhân khác nữa chứ. Thôi, như vậy là đủ rồi.
Nói xong, ông quay sang chăm sóc cho Lucy, còn tôi phải tự lo cho mình những chăm sóc cần thiết đầu tiên sau ca truyền máu. Tôi nán lại nằm thêm một chút, bởi thú thực là tôi cảm thấy mình hơi bị choáng và yếu hẳn đi. Giáo sư.
Băng vết chích cho tôi rồi khuyên tôi xuống dưới nhà uống một cốc rượu vang cho lại sức. Khi tôi mở cửa chuẩn bị bước ra khỏi phòng, ông bước theo và nói nhỏ vào tai tôi :
- Đừng nói gì với ai đấy nhé! Nếu anh bạn Arthur có. tình cờ tới đây thì anh cũng cứ coi như không có chuyện gì xảy ra. Bỏi điều đó có thể vừa làm anh ta lo lắng, lại vừa làm cho anh ta ghen đấy, chúng ta nên tránh bằng mọi giá! Thôi, xuống đi?
Một lúc sau, khi gặp lại nhau, ông nhìn tôi rất chăm chú.
- Bây giờ, ông bảo tôi anh nên nằm nghỉ đi, khoảng một hai tiếng gì đó cũng được, nằm trên cái trường kỷ ở phòng bên kia kìa! Rồi sau khi ăn trưa căng rốn xong ừ, anh phải ăn cho thật nhiều vào anh sẽ quay lại đây tìm tôi!
Tôi vâng lời ông, bởi tôi biết rằng ông có lý, rằng lời khuyên của ông bao giờ cũng xác đáng. Tôi đã làm cái tôi cần phải làm, và bây giờ việc lấy lại sức cũng là một nhiệm vụ tôi không thể chối bỏ.
Sự suy kiệt đã không ngăn tôi ngạc nhiên về những gì đã xảy ra. Nằm trên trường kỷ mà tôi cứ thắc mắc không hiểu nguyên nhân gì đã khiến Lucy tàn tạ, kiệt cùng đến thế.
Tại sao cô lại mất máu? Tại sao trong phòng cô, hay bất cứ một chỗ nào khác, lại không có một dấu vết gì? Chắc chắn là dù ngủ hay thức, thì những câu hỏi này vẫn cứ lảng vảng trong đầu tôi, bởi tôi biết các suy nghĩ của mình luôn bị ám ảnh bởi hai vết thương nhỏ trên cổ Lucy, hai vết thương rách mép và trong đó không có bất cứ một thực thể nào.
Bệnh nhân của chúng tôi dậy hơi muộn, trông cô có vẻ khá hơn nhiều, song không thể so sánh được với bộ dạng của chính cô tối hôm qua. Tuy nhiên, chỉ cần thấy thế thôi là chúng tôi cũng cảm thấy được an ủi rồi. Sau khi kiểm tra cho cô xong, Van Helsing lui ra tìm một chút không khí ngoài trời. Trước khi rời khỏi phòng, ông vẫn không quên dặn tôi là đừng để cô ấy một mình, cho dù chỉ là một phút. Tôi còn nghe thấy tiếng ông hỏi ai đó ở dưới cầu thang về bất điện tín gần nhất.
Lucy lại hồn nhiên nói chuyện dài dài với tôi, hình như cô vẫn không hề hay biết gì về chuyện vừa xảy ra. Tôi cố gắng làm cho cô vui, cuốn hút cô vào hết chuyện này đến chuyện khác. Và khi mẹ cô bước vào thăm, tôi tin là bà cũng không nhận ra bất cứ một sự thay đổi nào nơi cô.
- Chúng tôi thật chẳng biết làm gì để cảm ơn tất cả những gì mà hai thầy trò đã làm cho chúng tôi? - Bà nói với tôi bằng một giọng biết ơn sâu sắc. - Nhưng bây giờ, anh cũng nên quan tâm tới mình một chút, đừng để mình bị suy kiệt như thế. Trông anh hôm nay xanh quá? Có lẽ anh cũng phải lấy vợ đi, vợ anh sẽ chú ý săn sóc anh, sẽ hết lòng vì anh, theo tôi thì đó là việc anh nên làm trong lúc này đấy?
Lucy bỗng bừng đỏ mặt, các huyết mạch nghèo nàn trong người cô không còn đủ máu để cung cấp cho bộ não. Được một lúc, mặt cô lại dần dần chuyển sang một màu xám ngắt, cô đưa mắt nhìn tôi như cầu khẩn. Tôi mỉm cười gật đầu và đưa ngón tay lên miệng ra hiệu cho cô. Cô thở dài, buông mình nằm xuống gối.
Hai tiếng sau, Van Helsing quay trở lại. Vừa nhìn thấy tôi, ông nói luôn :
- Anh về nhà đi, và nhớ phải ăn uống thật nhiều cho lại sức. Đêm nay tôi sẽ ở lại đây cùng cô bé. Tôi và anh sẽ phải cùng nghiên cứu trường hợp này, song đừng để ai biết việc chúng ta làm đấy nhé. Tôi đã nghĩ tới những nguyên do rất nghiêm trọng, nhưng thôi, tôi sẽ chưa cho anh biết vào lúc này đâu. Anh hãy cứ nghĩ những gì anh đang nghĩ, và đừng có sợ nghĩ tới những điều mà anh cho là không thể nghĩ được. Chúc anh ngủ ngon?
Xuống tới hành lang, có hai người giúp việc chạy tới hỏi tôi rằng họ - hoặc ít nhất là một trong hai người - có thể qua đêm cùng Lucy được không. Họ nài nỉ tôi cho phép họ lên phòng cô. Và khi tôi trả lời rằng giáo sư Van Helsing chỉ muốn một trong hai chúng tôi thức đêm trông nom bệnh nhân thôi, họ đã bật khóc và nhờ tôi nói giùm với “ngài ngoại quốc” ấy. Cử chỉ của họ làm tôi thực sự xúc động, đến nỗi tôi không thể nói lên điều này: họ làm vậy có thể là do nhận thấy tôi đã quá xuống sức, hoặc do muốn tỏ rõ lòng tốt và sự tận tụy của mình đối với Lucy.
Tôi trở về viện tâm thần đúng vào lúc còn kịp cho tôi ăn bữa tối trước khi đi thăm các bệnh nhân của mình tất cả đều ổn. Và bây giờ, tôi đang viết những dòng nhật ký trong khi chờ đợi giấc ngủ. Một giấc ngủ chóng vánh và thật sâu là điều tôi hy vọng sẽ xảy ra.
* * * * *
Ngày 11 tháng 9
Chiều nay, tôi trở lại Hillingham. Lucy có vẻ khá hơn nhiều, khiến cho Van Helsing rất hài lòng. Sau khi tôi đến được một lát thì có người mang cho giáo sư một kiện hàng khá lớn từ nước ngoài gửi tới. Ông vội vàng nhưng cũng rất nhẹ nhàng mở gói hàng ra rồi qúáy sang đưa cho Lucy một bó hoa màu trắng thật to :
- Cho cô đấy, Lucy à!
- Cho tôi? Ôi? Bác sĩ Van Helsing?
- Đúng thế, cô bé thân mến ạ, nhưng không phải là để trang trí cho căn phòng đâu nhé. Là thuốc cả đấy. – Nghe thấy vậy, Lucy chun mũi lại. - Nhưng không phải là để hãm lấy nước hoặc sắc uống với cái vị ghê ghê đâu mà cô phải sợ. Đừng làm bộ như thế kẻo anh chàng Arthur lại cười cho đấy, trông xấu lắm?
Ồ? Đó, cái mũi xinh xắn của cô đã trở lại bình thường rồi đó! Có thế chứ! Đây đúng là thuốc, nhưng cô không cần phải hấp thụ đâu, Tôi sẽ đặt một số bông trên cửa sổ, số còn lại sẽ được kết thành một tràng quàng vào cổ cô để cô có thể ngủ bình yên. Đúng thế, như những bông hoa sen này chẳng hạn, chúng sẽ giúp cô quên đi tất cả. Hương thơm của loài hoa này cũng giống với hương thơm của loại mỹ phẩm Léthé hoặc loại Jouvence mà các nhà thám hiểm châu Mỹ đã tìm thấy ở Florida.
Trong lúc giáo sư thuyết giảng, Lucy cứ ngồi yên ngắm nhìn bó hoa rồi đưa lên mũi ngửi. Cô bỗng bật cười và đẩy bó hoa ra xa, tiếng cười của cô có một cái gì đó như không vừa lòng.
Ôi! Giáo sư, chắc là giáo sư đang giễu tôi đấy thôi! Đây mà cũng gọi là hoa ư? Tôi thấy nó có khác gì mùi tỏi đâu.
Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy Van Helsing đứng bật dậy rồi cau mày đáp lại lời cô gái :
- Tôi chưa bao giờ giễu cợt ai, chưa bao giờ! Tất cả những gì tôi đã làm đều được làm với một thái độ nghiêm túc nhất. Và tôi muốn rằng cô không được làm trái với các ý định của tôi, cũng như các biện pháp mà tôi muốn sử dụng. Cô hãy nhớ lấy, nếu không phải vì lợi ích của riêng cô thì hãy vì lợi ích của những người đang hết lòng thương yêu cô!
Nhưng trước vẻ sợ hãi lộ rõ trên nét mặt cô gái, ông buộc phải hạ giọng xuống :
- Ôi! Cô gái bé bỏng của tôi ạ, không việc gì mà phải sợ cả! Tất cả những gì tôi muốn nói với cô đều là tốt cho cô. Tất cả những bông hoa trong bó hoa này đều mang một đặc tính có thể chữa bệnh cho cô? Cô hãy trông đây này! Chính tôi sẽ đặt bó hoa này vào trong phòng cô, chính tôi sẽ kết một tràng hoa đeo vào cổ cô. Nhưng, suỵt! Cô đừng nói gì với ai, và cũng đừng trả lời câu hỏi của bất cứ ai nếu họ hỏi cô về điều này nhé. Điều mà cô cần phải làm là nghe lời và im lặng. Nếu biết nghe lời, cô sẽ nhanh chóng bình phục và cũng sẽ nhanh được trở lại với vòng tay của người đang chờ đợi cô hơn! Bây giờ cô cứ yên tâm mà nghỉ đi! Nào, anh bạn John, giúp tôi cắm mấy bông hoa này vào trong phòng đi, toàn là hoa tôi đặt ở Harlem đấy. Ông bạn Vanderpool của tôi đã phải chăm chút từ đầu năm đến cuối năm mới có được những bông hoa trong nhà kính này. Hôm qua tôi đã đánh điện bảo ông ta gửi tới đây.
Và hai chúng tôi đã cùng nhau lúi húi cắm các đóa hoa vào trong phòng của Lucy. Tất cả những gì vị giáo sư đã làm rõ ràng là rất khác thường và hoàn toàn xa lạ với dược hiển hiện có. Trước hết, ông cẩn thận đóng tất cả các cánh cửa sổ lại cho thật chắc để không ai có thể mở la. Sau đó, ông lấy mấy cành hoa quét đi quét lại trên các khung cửa sổ, dường như ông muốn bất cứ một luồng không khí nào, dù là nhỏ nhất, khi len lỏi qua các khe cửa cũng bị nhiễm một mùi như mùi tỏi của các đóa hoa. Cuối cùng, ông cũng làm như vậy đối với khung cửa ra vào. Tốt nhiên là ông không quên đặt bó hoa vào hòm lò sưởi trong phòng.
Tôi cứ thắc mắc hoài không hiểu ông làm như vậy là vì mục đích gì.
- Thưa giáo sư, tôi nói khi không chịu được nữa dù vẫn biết rằng tất cả những gì giáo sư đã làm đều có một lý do xác đáng, nhưng quả thực lần này thì tôi không hiểu. Nhìn những gì giáo sư đang làm, tôi tin chắc giáo sư đang chuẩn bị một thứ bùa ngải ngăn chặn một linh hồn ma quái nào đó định xâm nhập vào căn phòng này.
- Nghe hay đấy! Ừ, cũng có thể là như vậy. - Ông thản nhiên trả lời tôi trong khi tay đang bận tết tràng hoa.
Chúng tôi nóng lòng chờ đợi Lucy đi vào giấc ngủ, và khi bà giúp việc đến nói cho chúng tôi biết cô đã lên giường, Van Helsing bèn đích thân sang quàng tràng hoa vào cổ cô.
- Chú ý nhé? Nhớ giữ tràng hoa cho thật cẩn thận và với bất cứ một lý do nào, kể cả khi cảm thấy khó chịu vì các cánh cửa đã bị đóng kín, cô cũng chớ có mở ra đấy, nghe chưa!
- Cháu xin hứa với giáo sư như vậy. - Lucy đáp lời - Xin ngàn lần cảm ơn lòng tốt của hai thầy trò giáo sư? Ôi! Tôi đâu đã làm được gì mà Chúa lại mang tới cho tôi những tình bạn cao cả và đáng quý đến vậy?
Khi chúng tôi rời khỏi ngôi nhà, Van Helsing bảo tôi :
- Cuối cùng thì đêm nay tôi cũng có thể ngủ yên được rồi, sao tôi thèm ngủ đến thế không biết! Hai đêm trên đường đi rồi một ngày đọc sách nghiên cứu, bao nỗi âu lo khi trở lại đây, và còn thêm một đêm thức trắng không hề được chợp mắt một giây nữa chứ, như thế là đủ rồi! Sớm mai anh gọi tôi dậy nhé, chúng ta sẽ cùng nhau quay lại thăm cô bạn nhỏ khỏe khoắn hơn nhờ thứ “bùa” kỳ diệu của tôi. Ha! Ha!
Trước niềm tin có vẻ như không thể lay chuyển của ông, tôi bỗng nhớ lại những gì đã xảy ra hai đêm trước để rồi tôi phải hứng chịu một nỗi thất vọng ghê gớm. Tôi bắt đầu nghi ngờ về một điều tồi tệ nhất có thể xảy ra nhưng không dám thú nhận với ông.
Ngày 12 tháng 9
Tất cả những người xung quanh tôi đều tốt với tôi quá!
Tôi rất quý ông bác sĩ già Van Helsing ấy, nhưng chỉ có điều là không hiểu tại sao ông cứ nhất thiết phải đặt những bông hoa như vậy. Quả thực ông đã làm tôi sợ ông có vẻ hơi độc đoán! Tuy nhiên, hẳn là ông phải có lý của ông, bởi bây giờ tôi đã cảm thấy trong người khỏe khoắn và nhẹ nhõm hơn. Buổi tối, tôi đã ngủ thật yên giấc và không còn sợ ở một mình nữa. Tiếng vỗ cánh cửa chim thú đập vào cửa kính cũng không còn là vấn đề đối với tôi. Ôi! Vậy là tôi không còn phải nghĩ đến chuyện ra sức cưỡng lại giấc ngủ như trước? Xin chào từ biệt nỗi cơ cực của những đêm chống lại cơn buồn ngủ, chào nỗi sợ chìm vào giấc ngủ cùng những cơn ác mộng đổ lên người tôi! Thật là hạnh phúc cho những người không sợ ai, không nghi ngờ điều gì bao giờ, những người hễ đặt lưng là chìm vào giấc ngủ bình yên với những giấc mơ êm dịu! Thật là hạnh phúc? Tối nay tôi cũng sẽ như họ, tôi sẽ gọi giấc ngủ đến với mình, tôi hy vọng mình sẽ đi ngay vào giấc ngủ! Tôi không biết rằng mùi tỏi lại có thể đem tới sự dễ chịu - trái lại... Cái mùi đã dịu đi của nó... Tôi cảm thấy mình đang thiếp đi. Chúc mọi người ngủ ngon...
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 13 tháng 9
Tới Berkeley, tôi thấy Van Helsing đã đứng đợi tôi từ lúc nào. Chiếc xe do khách sạn gọi hộ chúng tôi đang đậu ở trước cửa. Như thường lệ, hôm nay ông cũng mang theo chiếc túi đựng đồ lề.
Chúng tôi tới Hillingham vào khoảng 8 giờ. Một buổi sáng rạng rỡ ánh mặt trời mùa thu đang đón chào chúng tôi. Các tán lá đủ màu sắc vẫn e lệ lấp ló trên những hàng cây như chưa muốn buông rơi trước những cơn gió đầu thu mát lạnh.
Tới hành lang, chúng tôi gặp bà Westenra. Như thường lệ, bà luôn dậy từ rất sớm. Bà đón chúng tôi bằng một giọng rất hồ hởi :
- Hẳn các ngài sẽ rất vui khi biết tình hình của Lucy đã khá hơn nhiều! Tôi vừa hé cửa ra nhòm vào, nó vẫn đang, ngủ, tôi không dám vào vì sợ làm nó tỉnh giấc.
Giáo sư mỉm cười, rõ ràng là ông đang rất sung sướng. Một lát sau ông mới xoa tay nói :
- Hay! Chẩn đoán của tôi thế mà đúng! Vậy là phương pháp điều trị đã mang lại kết quả.
Bà Westenra cũng góp thêm lời :
- Sức khỏe của cơn gái tôi khá lên không phải chỉ do cách điều trị của ông đâu nhé. Nếu như Lucy có được một thể trạng khỏe khoắn như sáng nay, thì một phần cũng là nhờ công của tôi đấy.
- Bà muốn nói gì vậy, thưa bà?
- Có gì đâu! Tối qua, tự nhiên cảm thấy lo, tôi đã mò sang phòng con bé. Nó ngủ say đến nỗi tôi bước vào phòng mà nó vẫn không hề biết. Căn phòng thiếu không khí quá. Ai lại đóng kín mít phòng lại như thế bao giờ. Mà không hiểu con bé đã thưa ở đâu về toàn những bông hoa có cái mùi ghê thế không biết. Nó lại còn quấn hoa xung quanh cổ nữa chứ! Thật không thể nào chịu nổi! Nhìn cái thể trạng nhợt nhạt của nó, tôi thấy để mấy bông hoa ấy ở trong phòng là không ổn nên đã bỏ hết đi trước khi mở hé cửa sổ ra cho thoáng. Tôi tin chắc ông sẽ rất hài lòng về tình hình sức khỏe của con bé.
Nói chưa dứt lời, bà tủm tỉm bỏ sang phòng khác, nơi bà vẫn quen ngồi ăn sáng một mình. Trong lúc người đàn bà tội nghiệp này luyên thuyên kể về công trạng của mình, tôi quay sang quan sát thái độ của giáo sư: nét mặt ông càng lúc càng tái dại hẳn đi. Tuy nhiên, đứng trước bà chủ nhà vô tội, ông vẫn cố mỉm cười giữ cửa cho bà đi về phòng khách. Nhưng khi bà vừa khuất bóng, ông lập tức đẩy tôi vào phòng ăn rồi đóng sập cửa lại.
Quả thực đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy Van Helsing có những dấu hiệu mất can đảm như vậy. Ông giơ tay lên trời như muốn nói rằng mọi dự tính của ông từ lúc này trở đi sẽ chỉ là vô ích. Cuối cùng, ông buông người đổ vật xuống ghế, hai tay ôm mặt mà khóc. Vâng, ông đã khóc. Tiếng thổn thức của ông dường như được trào ra từ một cõi lòng tan nát, bất lực. Rồi ông lại giơ tay lên như muốn được thanh minh trước thế giới này.
- Chúa ơi! - Ông than thở trong tiếng thổn thức ấm ức - Chúng con đã làm gì, cô bé tội nghiệp ấy đã làm gì để đến nông nỗi này? Chẳng lẽ số phận lại cay nghiệt đến vậy ư? Người mẹ tội nghiệp vô tội ấy, chỉ vì những ý định tốt đẹp cho con gái mình, đã tình cờ đẩy linh hồn và thể xác cô bé vào chỗ nguy hiểm mà không biết. Nhưng chúng con lại không thể nói sự thật cho người phụ nữ ấy, bởi bà ta đang sống dở chết dở, cái chết của bà ta cũng đồng nghĩa với cái chết của đứa con gái. Ôi! Tại sao chúng con lại rơi vào cảnh ngộ như thế này, Chúa ơi?
Nhưng rồi ông bỗng đứng bật dậy bảo tôi bằng một giọng khác hẳn :
- Lại đây, chúng ta phải làm một cái gì đó mới được! Cho dù đó là một con quỷ, hay cả một bầy quỷ hùa nhau lại đây chống lại chúng ta thì cũng vậy thôi... Chúng ta sẽ chiến đấu sẽ đánh tan tát cả...
Ông chạy nhanh ra cửa lấy túi đồ rồi kéo tôi chạy lên phòng Lucy.
Cũng như lần trước, tôi bước ra kéo rèm cửa trong lúc Van Helsing hồi hộp bước lại giường cô gái. Song lần này ông không còn ngạc nhiên khi trông thấy một màu xám ngoét trên khuôn mặt của bệnh nhân. Trên mặt ông chỉ còn lại một nỗi buồn thê thảm lẫn nỗi lòng thương hại khôn cùng đối với cô gái.
- Tôi sẽ chờ ở đây! - Ông lẩm bẩm, giọng như rít lên.
Không nói thêm một lời, ông hối hả chạy ra khóa trái cửa chuẩn bị cho ca truyền máu thứ ba. Nhìn sự khẩn trương của ông, tôi tự giác cởi áo vét ra. Tuy nhiên, Van Helsing đã khoát tay ra hiệu dừng lại.
- Không được! - Ông nói. - Hôm nay anh sẽ là người thao tác, còn tôi là người hiến máu. Trông anh tiều tụy lắm rồi.
Vừa nói, ông vừa cởi phăng chiếc áo rét ra trước khi kéo cao tay áo sơ mi lên.
Lại truyền máu, lại tiêm thuốc an thần, và lại một lần nữa đôi má Lucy dần dần ửng hồng, hơi thở của cô đều đều trở lại trong lồng ngực không còn sức sống. Giấc ngủ của cô lúc này đích thực là một giấc ngủ tự nhiên. Và lần này đến lượt tôi trông nom cho cô, trong khi Van Helsing tranh thủ nằm nghỉ cho lại sức.
Trong cuộc nói chuyện sau đó với bà Westenra, giáo sư đã buộc phải nói cho bà hiểu rằng bà đừng bao giờ vứt bỏ bất cứ một thứ gì bày trong phòng Lucy khi chưa nói với ông, rằng những bông hoa đặt trong phòng có tác dụng chứa bệnh, và rằng phương pháp điều trị mà ông đang thực hiện đối với Lucy có cả phần hấp thụ hương thơm của những bông hoa này. Sau đó, ông bảo ông muốn tận mắt chứng kiến sự tiến triển trong thể trạng của bệnh nhân, và ông sẽ ở lại hai đêm nữa bên giường của cô.
Khoảng hai tiếng sau, Lucy tỉnh giấc, trông cô tươi như một đóa hồng. Nói tóm lại, dường như cô không hề cảm thấy mình vừa thoát khỏi một cơn nguy kịch.
Không hiểu cô đang mắc bệnh gì? Do sống quá nhiều với các bệnh nhân tâm thần, tôi bỗng giật mình tự hỏi không biết mình có điên hay không.
Nhật ký của Lucy Westenra
Ngày 17 tháng 9
Bốn ngày đêm bình yên - vâng, đã bốn ngày đêm trôi qua bình yên đến tuyệt đối! Tôi cảm thấy đã đủ sức để nhận ra chính mình. Tôi còn cảm tưởng như mình vừa trải qua một cơn ác mộng dài, rất dài để rồi được thức dậy trong một căn phòng chan hòa ánh nắng dưới cái không khí mát rượi của buổi sáng. Tôi bỗng nhớ, nhớ rất mơ hồ những kỷ niệm tăm tối, tuyệt vọng trong cảnh khốn cùng, sau đó là những lúc dài quên lãng. Còn một cảm giác nữa: tôi thấy mình đang vươn lên bề mặt của cuộc sống, giống như một người thợ lặn ngoi lên khỏi một vực thẳm ngột ngạt. Thực lòng mà nói, từ khi bác sĩ Van Helsing tới đây, mọi cơn mê khủng khiếp đối với tôi đều trở thành những chuyện xưa cũ Những âm thanh từng làm tôi hoảng hốt - tiếng chim thú đập cánh vào cửa kính chẳng hạn, hay những tiếng nói từ cõi xa xôi vọng về mỗi lúc một gần, rồi những tiếng gọi như ra lệnh cho tôi không biết từ đâu vọng tới - đã không còn xuất hiện trở lại. Bây giờ tôi cũng đã mất đi cảm giác sợ ngủ, vì thế tôi không cần phải ra sức giữ cho mình phải thức. Và đặc biệt là những bông hoa có mùi tỏi kia đã làm tôi thấy dễ chịu hơn nhiều. Ngày nào tôi cũng nhận được một thùng hoa từ Harlem gửi tới. Tối nay, bác sĩ Van Helsing tạm biệt tôi, ông phải về Amsterdam một ngày. Nhưng cảm giác khỏe khoắn, thoải mái trong người đã mang lại cho tôi một sự tự tin thực sự để có thể ở trong phòng một mình. Tôi mang ơn Chúa khi nghĩ tới mẹ tôi, tới Arthur thân yêu của tôi và những người bạn đã hết lòng vì chúng tôi? Cho dù có người trông nom tôi hay không thì tôi vẫn thấy không có gì khác biệt nữa, bởi vì tối hôm trước, trong hai lần thức giấc, tôi đều thấy giáo sư đang nằm ngủ trên trường kỷ, Và mặc dù vậy, tôi vẫn không cả thấy sợ chìm vào một giấc ngủ mới. Trong khi đó, không hiểu là các cành cây hay lũ rơi bay ngoài cửa sổ thỉnh thoảng lại đập lộp bộp vào các ô kính cửa sổ như đang tức giận.
“Pall Mall Gazette”, 18 tháng 9
Con sói trốn mất
Cuộc phiêu lưu mạo hiểm của một nhà báo phỏng vấn người gác vườn bách thú
Sau rất nhiều nỗ lực vô ích, và lần nào tôi cũng thích nhắc tới các từ Pall Mall Gazette như một thứ bùa may mắn, cuối cùng thì tôi cũng tìm được người trông coi khu vực dành cho chó sói trong vườn bách thú. Thomas Bilder trú ở một trong những lô nhà gần với khu chuồng voi. Tôi đến nhà ông đúng vào lúc ông đang ngồi uống trà. Ông và vợ ông tỏ ra rất mến khách. Hai vợ chồng đều đã luống tuổi, không có con và theo tôi nghĩ họ hẳn phải có một cuộc sống khá tiện nghi. Người gác vườn thú từ chối “nói chuyện công việc” khi chưa xong bữa như ông đã nói và tốt nhiên là tôi không định làm trái ý ông.
Dọn sạch bàn ăn, ông chậm rãi châm tẩu rồi mới bảo tôi :
- Bây giờ thì tôi có thể ngồi nghe được rồi, ông có thể hỏi tất cả những gì ông muốn! Xin lỗi vì đã không định nói với ông về chuyện nghề nghiệp khi chưa xong bữa ăn, nhưng cũng như lũ chó sói, chó rừng và linh cẩu thôi, tôi thường cho chúng ăn trước khi vặn vẹo chúng đủ điều.
- Sao cơ, ông cũng hỏi được chúng kia à? - Tôi hỏi cất để gợi chuyện ông chủ nhà.
- Hoặc là tôi gõ một gậy vào đầu chúng, hoặc là tôi gãi vào tai chúng để làm đẹp lòng những gã thanh niên mang người đẹp tới đây làm trò sau khi đã bỏ ra mấy đồng xu? Tính tôi không thích quấy rầy chúng trước khi cho chúng ăn, nhưng thực tình mà nói, tôi cũng thích cho chúng dùng tạm một tí chút cà phê hoặc chút rượu nhẹ trước khi cào vào tai chúng, ông hiểu những gì tôi nói chứ? Ông thử nghĩ mà xem ông nói như một triết gia - giữa lũ thú vật và chúng ta cũng có nhiều điểm giống nhau đấy chứ. Ông tới đây là để hỏi về nghề của tôi chứ gì? Nói thật nhé, nếu như không phải là ông còn trẻ thì chắc là tôi đã tống cổ ông ra khỏi cửa từ lâu rồi, chứ đừng hòng chờ đợi ở tôi một câu trả lời? Bây giờ, cũng như lũ cọp beo và chó sói ngoài kia, sau khi đã chén sạch khẩu phần ăn mà bà già tốt bụng đã dọn để được ngồi uống trà và ngậm tẩu như thế này, ông có thể gãi tai tôi tùy thích, tôi sẽ không còn khó chịu nữa đâu. Nào, bắt đầu đi. Hỏi đi! Tôi đang đợi đây? Tôi biết tỏng là ông đang định hỏi về con sói vừa bỏ trốn rồi.
- Đúng thế. Quả thật là tôi đang định hỏi xem ông nghĩ gì về việc này. Ông làm ơn kể cho tôi biết chuyện xảy ra như thế nào đi. Một khi ông đã kể cho tôi mọi tình tiết, tôi sẽ hỏi ông tại sao, theo ông, con thú này lại có thể trốn thoát như vậy và rồi mọi chuyện sau này kết thúc ra sao?
- Được thôi, thưa ông chủ. Nếu ông hỏi thì tôi cũng sẽ cho ông biết thôi. Con sói mà chúng tôi đặt tên là Bersicker ấy được chúng tôi bỏ tiền mua cùng với hai con khác cách đây bốn năm. Đó là một con vật từng được dạy dỗ rất chu đáo nên nó chưa bao giờ gây phiền toái cho chúng tội. Ấy vậy mà nó đã bỏ trốn! Đó là điều khiến tôi rất ngạc nhiên. Nhưng ông thấy đấy, rõ ràng là người ta không thể tin ở lũ chó sói như đã tin ở những người đàn bà được.
- Đừng có nghe lão ấy, thưa ông! - Bà Bilder vừa cười vừa nói với tôi. - Đã từ lâu lắm rồi, lúc nào tôi cũng thấy lão đâm đầu vào lũ thú vật ấy, đến nỗi có lúc tôi tưởng lão cũng đã biến thành một con sói già rồi cơ đấy! Nhưng ông biết đấy, lão không nguy hiểm chút nào đâu!
- “Ừ, ông chủ ạ, khoảng hai giờ chiều hôm qua, khi cho lũ thú vật ấy ăn, tôi chợt nhận ra một điều gì đó không bình thường. Lúc đến chỗ khu chuồng khỉ để trải đệm rơm cho một con báo sư tử đang bị ốm, tôi bỗng nghe thấy một chuỗi những tiếng tru man rợ. Tôi lập tức tìm đến xem đã xảy ra chuyện gì. Thì ra đó chính là tiếng gào thét của Bersicker. Con vật đang lồng lộn như điên dại, nó liên tục lao vào các thanh trấn song như muốn thoát ra ngoài. Lúc ấy không có nhiều khách tới tham quan, và ở gần chuồng Bersicker chỉ có một người - một gã đàn ông cao lớn, người mảnh dẻ, mũi dài và khoằm, chòm râu dài và có một vài sợi bạc trắng. Cái nhìn của lão thật tàn nhẫn và lạnh lùng, đôi mắt lão sang quắc lên như có ánh lửa. Trông thấy lão, tôi chỉ muốn đuổi đi ngay, bởi hình như con vật trong chuồng đang nỗi cơn điên vì sự có mặt của lão. Lão đeo đôi găng tay da màu trắng. Trông thấy tôi đến gần, lão chỉ tay vào con sói và hỏi :
- “Ông gác vườn này, ông có tin là có một cái gì đó đang làm mấy con vật này bị kích động không?”
- “Có lẽ là do ông đấy” - Tôi trả lời, bởi cử chỉ của lão đã thực sự làm tôi thấy khó chịu.
Thay vì nổi khùng lên như tôi nghĩ, lão bật cười sằng sặc, một nụ cười vừa ngạo mạn lại vừa quái gở, để nhe ra hai hàm răng trắng ởn, nhọn hoắt.
- “Ồ, không đâu” - Lão nhăn nhở đáp lại - “lũ thú vật này không thấy tôi hợp với khẩu vị của chúng đâu!”
- “Ồ. Có đấy, chúng đang khoái khẩu với mùi thịt của ông đấy. Vào cái giờ này, chúng rất muốn gặm một vài cái xương còm cho đỡ ngứa răng, và khi thấy ông...”
Có một điều thật lạ là khi trông thấy chúng tôi đứng nói chuyện, lũ chó sói bỗng im hẳn và khi tôi bước lại gần, con Bersicker vẫn để cho tôi vuốt ve nó như thường lệ. Nhưng ngay cả lão già kia cũng làm được như thế đối với con sói già mới chết chứ!
- “Cẩn thận”, - Tôi nhắc lão - “con Bersicker này dữ lắm đấy!”
- “Sợ gì chứ”, - Lão đáp lại - “lũ chó sói và tôi biết nhau hết mà?”
- “Thế à! Ông cũng có nghề giữ chó sói à?” - Tôi ngạc nhiên hỏi lại, bởi tôi luôn coi những ai làm nghề trông giữ chó sói, tức là những ông chủ, là bạn mình.
- “Không, không phải như vậy”, - Lão giải thích – “Không phải, tôi không giữ chó sói bao giờ... nhưng nói cho cùng, đôi khi cũng có một vài con có quan hệ khá thân thiết với tôi”.
Nói tới đây, lão bỏ mũ cúi chào với điệu bộ giống y như điệu bộ của một nhà quý tộc rồi bỏ đi.
Con sói già Bersicker đứng ngây ra trông theo lão cho tới khi lão già quái lạ ấy khuất bóng. Sau đó, nó lầm lũi đi vào góc chuồng và nằm lì ở đó suốt cả buổi tối. Nhưng thật kỳ lạ, khi ánh trăng vừa xuất hiện cũng là khi bầy sói lại bắt đầu thi nhau gào thét ầm ĩ mà không rõ nguyên do gì ở quanh đó chỉ có một bóng người đang lấp ló gọi một con chó nhà đằng sau mấy vườn hoa ở đại lộ Park.
Cũng có một hai lần tôi quay trở lại thăm lũ thú vật, nhưng khi ấy chẳng có chuyện bất thường nào xảy ra... Thế rồi bỗng nhiên, cả lũ đều im bặt... Sau đấy, trước nửa đêm khoảng vài phút, tôi lại quyết định quay trở lại kiểm tra chúng một lần nữa trước khi đi ngủ, và khi đến chuồng con sói già Bersicker, tôi đã giật mình vì nhận thấy các chấn song xung quanh chuồng bị vặn xoắn hoặc bị gãy ở một vài chỗ... và dĩ nhiên là trong chuồng chẳng còn gì cả! Đó là tất cả những gì tôi được biết, ông bạn ạ!”
- Thế ông có thấy ai đáng chú ý tối hôm ấy không?
- Cũng vào khoảng nửa đêm, trên đường trở về sau khi chia tay đội kèn, một người lính của chúng tôi chợt trông thấy một con chó sói lớn lông xám xịt bất ngờ lao ra khỏi một bờ rào. Nói gì thì nói, đó cũng chỉ là lời kể, còn tôi thì tôi không tin cho lắm, bởi khi về tới nhà, anh ta đã chẳng thèm kể cho cô vợ nghe lấy một câu, chỉ khi biết con sói già biến mất khiến chúng tôi phải lục xục tìm kiếm cả đêm, anh ta mới mở mồm kể chuyện. Theo tôi, có lẽ anh ta đã bị rối loạn đầu óc vì dư âm inh ỏi của những tiếng kèn đồng.
- Ông Bilder ạ, bây giờ ông có thể nói cho tôi biết tại sao, theo ý ông, con sói ấy lại bỏ trốn được không?
- Được chứ, tôi tin là có thể lý giải được. - Người gác vườn trả lời bằng một vẻ khiêm tốn. - Nhưng chỉ có điều tôi không biết lời giải thích của tôi cỏ đủ để làm ông hài lòng không thôi.
- Không sao, ông bạn ạ, cứ yên tâm đi? Nếu như ông, người biết rất rõ về tập tính của các con vật, không thể khẳng định được chính xác những gì đã xảy ra, thì xin hãy cứ nói đúng sự thật, được chứ?
- Xin nghe ông vậy? Thế này nhé: theo tôi nghĩ, con sói đã bỏ trốn... đơn giản chỉ là vì nó muốn về với bầu trời tự do.
Sau lời nói đùa ấy, cả Thomas và bà vợ cùng bật cười sặc sụa. Tôi hiểu đây không phải là lần đầu tiên ông già tốt bụng này làm như vậy. Tôi dùng cách khác mà tôi cho là hiệu quả hơn để moi tin ở ông.
- Thôi được, ông Bilder, như thế này vậy nhé, chúng ta cứ coi như đồng nửa bảng mà tôi vừa đưa cho ông đã thanh toán hết những gì xứng đáng với giá trị của nó, còn đây là nửa bảng nữa đang chờ đợi ông một khi ông chịu nói ra những gì ông có thể nói. Nào, theo ông nghĩ thì câu chuyện kết thúc như thế nào?
- Tuyệt! Ông bạn ạ, hy vọng là ông sẽ không cố chấp, nhưng lúc nãy, bà già này đã nháy mắt ra hiệu cho tôi khiến tôi phải...
- Tôi? Ông đừng phát ngôn bừa bãi như vậy? - Bà vợ phản đối.
- Thú thực nhé, tôi tin là con sói ấy đang trốn ở đâu đó. Thằng lính ấy bảo con vật đã phi như hóa dại về phía bắc, nó phi còn nhanh hơn cả ngựa. Tôi thì tôi không tin, bởi ông thấy đấy, lũ sói có khi chạy còn chậm hơn cả giống chó nhà ấy chứ. Thằng nhóc đó chỉ ăn nói bậy bạ. Giống chó sói có thể là những tạo hóa gây nhiều chuyện ghê người trong các cuốn truyện hoang đường, khi chúng bu lại với nhau để đuổi bắt một con vật yếu ớt nào đó. Nhưng cũng may có Chúa rủ lòng thương? Trong cuộc sống, lũ sói thậm chí còn kém cỏi hơn cả một con chó nhà: chúng ngu ngốc hơn và cũng kém liều lĩnh hơn nhiều. Con Bersicker ấy, vốn không được huấn luyện về cách cắn xé nhau hoặc cách bắt mồi, chắc bây giờ cũng chỉ đang loanh quanh ở đâu đó trong vườn bách thú này để chờ chết đói thôi. Cũng có thể là nó đang chui vào một hầm than nào đó ở xa hơn. Hoặc thế này nữa, có thể là do chẳng tìm thấy gì ăn, nó đã tới rình mò ở một cửa hàng bán thịt... và vậy đấy! Nếu không thì nó cũng bị tống vào hòm xe của một ông lính nào rồi. Chuyện này nếu xảy ra cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên, bởi ở đây đâu có vắng người. Đó, tôi thấy câu chuyện có thể có kết cục như vậy đó.
Tôi đang đưa cho ông già đồng nửa bảng như đã mặc cả thì có một cái gì đó bất ngờ xuất hiện ngoài sổ và đập bộp vào ô kính. Bộ mặt của ông già Bilder vốn đã dài lại càng dài hơn vì kinh ngạc.
- Lạy Chúa? - Ông thốt lên - Kia không phải con sói già Bersicker trở về thì còn là giống gì nữa?
Ông già đứng bật dậy ra mở cửa - một việc làm theo tôi nghĩ là vô ích. Tôi luôn cho rằng một con thú hoang chẳng bao giờ chịu đứng một chỗ khi nó nhận ra một chướng ngại vật ngăn cách giữa nó và chúng tôi. Kinh nghiệm đã giúp tôi khẳng định sự đúng đắn của ý nghĩ này.
Quả là ông già Bllder và bà vợ đã không hề sợ chó sói như tôi vẫn sợ chó nhà. Trái với dự đoán của tôi, con vật vẫn đứng yên ngoài cửa với một vẻ dịu hiền đến ngạc nhiên. Nó ngoan ngoãn đến mức khiến tôi phải nhớ lại ông tổ của nó trong câu câu chuyện cổ tích Cô bé quàng khăn đỏ lúc chưa lộ rõ bộ mặt thật.
Cảnh trở về tổ ấm của nó có một cái gì đó vừa khôi hài lại vừa cảm động mà tôi không sao diễn tả được. Con sói độc ác từng làm cho cả thành Luân Đôn phải lo sợ suốt gần một ngày trời là thế bỗng dưng lại xuất hiện ngay trước mặt chúng tôi với một vẻ khác hẳn. Ông già Bilder sốt sắng kiểm tra từ đầu xuống chân con vật rồi gào lên :
- Biết ngay mà, tôi biết là thế nào con vật này cũng gặp phiền toái mà; từ hôm qua tới giờ tôi đã chẳng bảo thế là gì? Nhìn mõm nó này, rách hết cả rồi, lại còn vẫn dính đầy mảnh thủy tinh nữa chứ! Chắc chắn là nó định lao qua một bức tường nào đó rồi. Thật xấu hổ cho nhà nào cứ thích cắm mảnh chai lên tường? Ông thấy chưa, tệ hại thế đấy... Lại đây đi, Bersicker...
Ổng già nhẹ nhàng lôi con vật vào trong một ngăn chuồng rồi khóa cửa lại.
Ông không quên quẳng cho nó một tảng thịt trước khi tìm đến nhà ông tổ trưởng báo cáo về sự trở về của con vật.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 17 tháng 9
Ăn tối xong, tôi quay về phòng, định bụng sẽ lên lịch cho những ngày làm việc tiếp theo. Bất thình lình, cánh cửa phòng tôi bỗng bật mở, tiếp đó là sự xuất hiện đường đột của Renfield: hắn lao thẳng về phía tôi với bộ mặt thật hung tợn. Tôi sững sờ đứng nhìn, bởi một bệnh nhân bất ngờ đến tìm bác sĩ trưởng mà không xin phép ai là một việc làm rất ít khi xảy ra ở đây. Tay hắn lăm lăm một con dao sáng loáng. Tôi ý thức ngay được rằng trong cơn điên, hắn có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vậy tôi phải cảnh giác lùi lại, định bụng sẽ lấy cái bàn gỗ làm chướng ngại vật ngăn cách hắn với tôi. Nhưng hắn đã nhanh hơn tôi, trước khi tôi kịp lấy lại thăng bằng, hắn đã vung tay chém tôi một nhát khá sâu vào cổ tay trái. Tuy nhiên, không để hắn vung dao lên lần thứ hai, tôi lập tức lao vào đẩy hắn ngã ngửa xuống sàn nhà. Máu từ vết thương ở tay tôi chảy túa ra thành một vũng nhỏ trên tấm thảm. Renfield vẫn nằm im, dường như không định tấn công lần nữa. Tới lúc đó tôi mới có thời gian băng bó vết thương trong khi mắt vẫn không rời khỏi gã bệnh nhân. Khi mấy tay giám thị tới, chúng tôi mới xúm lại xốc hắn dậy và đẩy hắn trở về phòng, song hắn đã giãy nảy lên và quay ngoắt lại để làm một việc khiến tôi một lần nữa phải kinh ngạc: hắn bò sát xuống sàn nhà giống như điệu bộ của một con chó, và lè lưỡi liếm sạch các vết máu vừa chảy xuống từ vết thương của tôi. Hắn vừa liếm láp vừa luôn mồm lải nhải mãi một câu: “Máu là cuộc sống? Máu là cuộc sống!”
Đúng ra là tôi không được phép sơ ý để mất những giọt máu này mới phải, cho dù chỉ là một giọt. Những ngày qua, tôi cho máu như thế là đủ lắm rồi, biết đâu Lucy lại bị mất máu một lần nữa thì sao? Tôi không thể làm hơn được nữa, dường như tôi đang sắp lâm vào cảnh kiệt quệ nếu như tôi không được nghỉ một đêm. Ôi! Ngủ? Sao tôi muốn ngủ thế không biết! Cũng may là Van Helsing đã không cho gọi tôi, vậy là tôi có thể ngủ dài dài được rồi.
Điện của Van Helsing, Anvers gửi Seward, Carfax
Ngày 17 tháng 9
Tối nay, nhớ phải trở lại Hillingham. Nếu không thức suất được, thì cũng nên thường xuyên vào phòng cô ấy xem mấy bông hoa còn được đặt đúng chỗ không. Rất hệ trọng. Khi tới Luân Đôn, tôi sẽ cố gắng tới gặp anh sớm nhất trong chừng mực có thể.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 18 tháng 9
Tôi sẽ lại đi tàu hỏa tới Luân Đôn. Bức điện của Van Helsing khiến tôi muốn rụng rời chân tay. Lạy Chúa? Kinh nghiệm mấy lần vừa rồi đã cho tôi thấy những gì có thể xảy ra trong một đêm. Có thể là mọi chuyện sẽ suôn sẻ, nhưng cũng có thể sẽ xảy ra một chuyện tồi tệ nhất? Chắc hẳn là phải có một lời nguyền nào đó đang đeo đuổi chúng tôi, bởi nỗ lực nào của chúng tôi cũng được đáp lại bằng kết quả ngược với mong muốn.
Bản ghi nhớ do Lucy Westenra để lại
Ngày 17 tháng 9
Tôi viết những dòng này trên những tờ giấy rời để còn có người tìm đọc được, bởi tôi muốn họ biết thật chính xác những gì xảy ra đêm nay. Tôi cảm thấy mình sẽ chết vì yếu sức. Cầm bút viết đối với tôi bây giờ quả là một việc vô cùng khó khăn, nhưng dù sao thì tôi cũng phải viết, kể cả khi thần chết rắp tâm giữ chặt tay bút của tôi.
Như thường lệ, tôi lên giường nằm sau khi quàng một tràng hoa quanh cổ theo lệnh của giáo sư Van Heling, và tôi chìm vào giấc ngủ gần như ngay lập tức. Nhưng tôi lại bị đánh thức bởi những tiếng cánh vỗ đập vào cửa sổ, đó cũng chính là những tiếng động tôi đã được nghe lần đầu tiên khi còn ở Whitby, chính xác là khi tôi bị mộng du rồi mò mẫm lên vách đá khiến cho Mina phải đi tìm và kể từ đó đến nay, tôi vẫn rất hay nghe thấy những tiếng cánh vỗ quái gở đó. Dù không sợ, nhưng tôi vẫn muốn có bác sĩ Seward ở phòng bên cạnh để có thể gọi khi cần. Tôi cố ngủ lại mà không được. Và rồi nỗi lo sợ bị chìm vào giấc ngủ lại ập đến trong tôi, buộc tôi phải quyết định không ngủ nữa. Nhưng thật kỳ lạ, tôi càng cố gắng thức bao nhiêu thì cơn buồn ngủ lại càng đè nặng lên người tôi bấy nhiêu. Cảm giác cô đơn làm tôi sợ. Tôi vùng dậy mở cửa và kêu lên: “Có ai ở đây không?” Không có tiếng trả lời. Tôi không dám gọi nữa vì sợ sẽ làm mẹ tôi thức giấc. Khi tôi vừa khép cửa lại thì ở đâu đó như là dưới những lùm cây, chợt vang lên một tiếng kêu như tiếng chó tru, nhưng nghe còn thê thảm và đáng sợ hơn nhiều. Tôi đến bên cửa sổ và nhoài người ra xem có cái gì dưới bóng tối ấy, nhưng chẳng thể phân biệt được một vật gì ngoài một con dơi to bự - có lẽ đó chính là con vật vẫn thường đập cánh vào cửa kính phòng tôi Tôi trở lại giường nằm nhưng không thấy buồn ngủ trở lại. Một lát sau, mẹ tôi hé mở cửa và thò đầu vào. Nhìn thấy tôi không ngủ, bà mới bước vào và ngồi gần giường tôi. Bà nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi và nói với tôi bằng một giọng rất dịu dàng, dịu dàng hơn so với thường lệ rất nhiều :
- Mẹ cứ phân vân không hiểu con có cần gì hay không, con gái yêu ạ, vì vậy mẹ phải mò lên đây cho yên tâm.
Sợ bà bị cảm lạnh, tôi bảo bà lên giường nằm cạnh tôi, song bà bảo bà chỉ định nán lại một lúc rồi sẽ về phòng mình. Nằm gọn trong vòng tay bà mà tôi vẫn bị giật mình, bởi cái tiếng động quái gở ấy lại bất ngờ vang lên một lần nứa. Mẹ tôi cũng giật thót người kêu lên: “Cái gì thế”. Tôi phải lựa lời trấn an bà. Cuối cùng thì bà cũng yên tâm nằm xuống bên tôi, mặc dù trống ngực vẫn đập thình thịch. Nhưng rồi tôi lại giật thót người một lần nữa, bởi có một cái gì đó vừa bất thình lình đập vào ô cửa kính khiến nó vỡ tan. Mảnh kính vỡ tung tóe khắp sân nhà. Bức rèm bị gió thổi bay phất phơ như một bóng ma. Người tôi bắt đầu run lên như cầy sấy khi nhận ra cái đầu của một con sói lớn, gầy đét, đang thò đầu qua ô cửa bị vỡ. Mẹ tôi buột miệng thất lên một tiếng khiếp sợ. Bà ngồi dựng dậy trên giường, hay tay vùng vẫy lung tung như muốn túm lấy một vật gì đó để tự vệ. Trong cơn hoảng loạn, bà đã giật đứt tràng hoa ở cổ tôi ném ra giữa phòng. Sau cái hành động tuyệt vọng ấy, bà ngồi đờ đẫn như mất hồn, trong khi tay vẫn không quên chỉ về phía con sói như một bức tượng. Được một lát, bà bỗng đổ vật xuống như bị sét đánh, đầu bà đập cả vào trán tôi. Tôi chết lặng đi trong giây lát. Căn phòng, rồi mọi đồ đạc xung quanh, như đang đảo điên trước mắt tôi, nhưng tôi vẫn cố dán mắt về phía cửa sổ, con sói đã biến mất từ lúc nào. Những chấm nhỏ li ti cuốn ào ào vào trong phòng qua ô cửa vỡ - cảnh tượng này gợi cho tôi nhớ tới những cột cát bị gió cuốn nơi sa mạc. Tôi cố gượng ngồi dậy nhưng vô ích, không hiểu sức mạnh bí ẩn nào đã cản trở tôi làm như vậy. Cơ thể mẹ tôi lúc này có vẻ như hơi lành lạnh... Tôi bỗng không còn ý thức được một điều gì nữa. Tất cả những gì xảy ra sau đó đều không đọng lại trong tiềm thức của tôi.
Mặc dù bị ngất không lâu, nhưng tôi vẫn rất mơ hồ về những phút giây khủng khiếp đã trôi qua. Khi tôi tỉnh táo trở lại, âm thanh đầu tiên vẳng đến tai tôi là tiếng chuông cầu hồn ngân xa, rồi tiếp đó là tiếng chó sủa xung quanh ngôi nhà, và trong các bụi cây giữa vườn, không xa cửa sổ phòng tôi, còn vọng tới những tiếng hót lảnh lót của một con sơn ca. Nỗi ưu phiền, sự sợ hãi, tình trạng sức khỏe suy sụp nghiêm trọng, tất cả như cùng hùa tới một lúc khiến người tôi đờ ra như một kẻ chết rồi. Tuy nhiên, nghe thấy tiếng hót của chim sơn ca, tôi có cảm giác như được nghe thấy giọng nói thân thương của mẹ tôi, giọng nói dịu dàng cất lên giữa đêm tối để an ủi tôi.
Chắc hẳn chuỗi tiếng động lạ tai đã làm những người hầu trong nhà thức giấc, bởi tới nghe rất rõ bước chân trần của họ nhẹ bước trên chiếu nghỉ cầu thang. Nghe tiếng tôi gọi phều phào, họ bước nhanh vào phòng. Tất cả cùng kêu rú lên sợ hãi, khỏi phải nhắc lại họ đã khiếp đảm như thế nào khi hiểu ra nỗi bất hạnh đã xảy đến với chúng tôi và trông thấy mẹ tôi nằm đè lên người tôi. Cơn gió lùa vào qua ô cửa vỡ làm cho cửa phòng thỉnh thoảng lại nghiến ken két. Những cô gái can đảm xúm lại đỡ mẹ tôi sang một bên để tôi có thể ngồi dậy. Biết họ đang rất xúc động, tôi bảo họ nên xuống phòng ăn làm một hớp rượu vang cho bình tĩnh trở lại. Họ mở cửa rồi lại đóng sập lại ngay sau khi bước chân ra khỏi phòng. Tôi còn nghe thấy tiếng họ thất lên một lần nữa, rồi tiếp đó là tiếng những bước chân lao vội vã xuống cầu thang. Lúc này, tôi chẳng còn biết làm gì ngoài việc đau đớn nhặt những bông hoa đặt lên ngực mẹ tôi và hồi tưởng lại những lời dặn bảo của giáo sư Van Helsing, nhưng nhớ chỉ là để nhớ thôi, chứ tôi cũng chẳng cần tới những bông hoa này làm gì nữa... Tôi sốt ruột đợi đám người hầu quay trở lại: chúng tôi sẽ cùng thức bên nhau. Song họ đã không quay trở lại. Tôi cất tiếng gọi: không thấy ai trả lời? Thấy lạ, tôi quyết định mò xuống phòng ăn.
Tôi suýt ngã quỵ khi bất ngờ chứng kiến cảnh tượng trước mắt: bốn người hầu nữ đều đang nằm sóng soài dưới sàn nhà với những hơi thở khó nhọc. Bình rượu vang cạn một nửa vẫn nằm ngay ngắn trên bàn, nhưng trong phòng lại bốc lên một mùi hăng hắc kỳ lạ. Tôi cầm bình rượu lên ngửi: toàn là mùi cồn cần sa. Mở tủ buýp-phê, tôi nhận ra bình thuốc mà người thầy thuốc vẫn dùng để chăm sóc cho mẹ tôi đã hết nhẵn nhụi. Phải làm gì bây giờ? Phải làm gì đây?... Tôi loạng choạng trở về phòng, đến bên giường với mẹ. Tôi không thể rời xa bà. Bây giờ tôi đang ở trong phòng có một mình nếu như không kể đến những nàng hầu tội nghiệp đang lăn ra bất tỉnh dưới nhà bởi thứ cồn thuốc phiện ai đó đã đổ vào bình rượu vang. Một mình với cái chết? Mà tôi cũng không dám ra ngoài, bởi tiếng tru man rợ của con sói ở đâu đó vẫn đang vẳng tới tai tôi qua ô cửa bị vỡ. Những chấm nhỏ li ti kia cũng không chịu dừng nhảy nhót, quay cuồng điên loạn trong phòng theo từng đợt gió lùa ở cửa sổ. Cả ngọn đèn cầy bây giờ cũng trở nên hiu hắt như đang báo hiệu một cảnh sớm lụi tàn... Tôi biết làm gì bây giờ? Đến nay, có lẽ cũng đã đến lúc tôi phải ra đi cùng người! Vĩnh biệt mọi người! Arthur ơi, nếu như phải chết trong đêm nay, thì em cũng xin được vĩnh biệt anh!
Ngày 18 tháng 9
Tôi tới Hillingham từ rất sớm. Để xe đỗ ngoài cổng, tôi đi bộ vào tận nhà. Tôi gọi cửa thật nhẹ để không làm Lucy và bà Westenra thức giấc nếu như họ vẫn đang ngủ. Tôi hy vọng chỉ có người giúp việc nghe thấy tiếng gọi cửa. Đợi một lát không thấy ai ra, tôi gõ cửa một lần nữa, rồi đập mạnh tay hơn. Vẫn không có tiếng trả lời. Tôi đâm ra bực mình với đám người hầu, bởi đã gần mười giờ sáng rồi mà họ vẫn còn say sưa ngủ. Nghĩ mà điên tiết và sốt ruột, tôi đập cửa liên hồi, nhưng tất cả vẫn vô ích. Đành rằng đám người hầu phải chịu trách nhiệm chính cho sự im lặng này, nhưng không hiểu sao trong tôi vẫn trào dâng một cảm giác sợ hãi khó tả. Phải chăng sự im lặng này lại chính là một dấu hiệu nữa của lời nguyền vẫn dai dẳng bám riết chúng tôi bấy lâu nay? Tôi có thực sự đủ can đảm bước chân vào một ngôi nhà mà thần chết đã ập đến trước tôi không? Tôi biết rằng mỗi phút, mỗi giây trôi qua đều có thể dẫn đến những kết cục cực kỳ hiểm nghèo đối với Lucy nếu như tình trạng sức khỏe của cô một lần nữa lâm vào cảnh bi đát, chính vì thế tôi phải quyết định lượn vòng quanh ngôi nhà với hy vọng sẽ tìm được một lối vào mà tôi chưa từng biết.
Tất cả các cánh cửa bị khóa chặt, các ô cửa sổ bị đóng kín đã làm tôi vô cùng thất vọng. Tôi chỉ biết quay trở về chỗ cũ. Đúng vào lúc về tới cửa chính, tôi bỗng ngờ ngợ khi nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập ngoài đường, rồi đột ngột dừng lại ngay trước cổng; vài giây sau, tôi nhận ra bóng Van Helsing bước xuống xe, ông đi như chạy vào nhà. Nhận ra tôi, ông hỏi luôn trong hơi thở hổn hển :
- À! Thì ra là anh? Vậy là anh cũng chỉ vừa mới đến? Cô ta sao rồi? Có còn kịp không? Chẳng lẽ anh không nhận được điện của tôi?
Tôi cố gắng trả lời rành mạch và ngắn gọn rằng tôi chỉ vừa nhận được điện của ông vào đầu giờ sáng, rằng tôi đã thu xếp mọi công việc để đến đây ngay lập tức. Tôi đã gõ cửa, đập cửa hoài mà vẫn không thấy ai trả lời.
Van Helsing bỏ mũ, đứng lặng người đi một lúc. Cuối cùng, ông nói với tôi bằng một giọng rất nghiêm trọng :
- Tôi cho là chúng ta đã đến quá muộn. Ý Chúa vậy là đã thành sự thực!
Ông dừng lại như để lấy thêm can đảm, rồi quả quyết :
- Đi! Nếu các cánh cửa đều không mở, thế nào chúng ta cũng phải tìm một cách nào đó để vào nhà chứ.
Hai chúng tôi cùng vòng ra sau nhà. Van Helsing cầm con dao mổ chỉ về phía một ô cửa sổ bếp. Tôi cầm con dao mỏng manh luồn qua khe cửa hất tung chiếc móc cài và mở rộng hai cánh cửa sổ ra. Tôi giúp giáo sư trèo vào trong bếp trước, tôi leo vào sau. Trong bếp chẳng có ai, trong gian bếp phụ cũng vậy. Chúng tôi nhòm vào các phòng ở tầng trệt, nhưng tất cả cũng đều trống không. Chỉ khi vào tới phòng ăn, nhờ một chút ánh sáng hắt hiu chiếu qua các ô cửa tò vò, chúng tôi mới nhận ra bốn người đầy tớ đang nằm dài trên sàn nhà. Chúng tôi không nghĩ là họ chết, bởi hơi thở nồng nặc mùi cồn thuốc phiện của họ trong phòng đã cho thấy hiện trạng của họ. Van Helsing bình tĩnh bảo tôi: “Chúng ta sẽ trở lại với họ sau”, rồi kéo ngay tôi lên phòng Lucy. Tuy nhiên, lên tới nơi, chúng tôi không vào ngay mà chỉ dám dừng ở cửa để nghe ngóng: tất cả chỉ là một sự im lặng ghê người. Chúng tôi run run mở cửa trong một tâm trạng hồi hộp, lo lắng.
Tôi không biết tả lại cảnh tượng trước mắt như thế nào. Cả Lucy và mẹ cô đều đang nằm dài trên giường. Trên người bà mẹ được đắp một mảnh ga trắng, mép ga bị gió thổi từ ô cửa kính bị vỡ bỏ đi ngược trở ra để lộ một khuôn mặt xám ngoét, hằn rõ những nét nhăn nhúm vì khiếp sợ. Nét mặt Lucy trông còn thảm hại hơn. Tràng hoa quàng cổ lúc này được đặt trên ngực bà Westenra. Tôi dễ dàng nhận thấy hai vết thương nhỏ của cô bây giờ đã trở nên sâu và rộng hơn hẳn so với cách đây ít hôm mà không hiểu tại sao. Chẳng nói chẳng rằng, giáo sư Van Helsing cúi thấp người xuống giường, đầu gần như chạm cả vào ngực Lucy; nghe ngóng được khoảng một giây, ông bỗng đứng bật dậy bảo tôi :
- Chưa đến nỗi quá muộn! Nhanh lên, nhanh lên? Rượu mạnh!
Tôi chạy bổ xuống phòng ăn cầm một chai rượu đưa lên mũi ngửi rồi nếm thử để đảm bảo rằng rượu trong chai không bị ai đó đổ cồn thuốc phiện vào.
Đám người hầu vẫn nằm thở, hơi thở của họ lúc này có vẻ nhẹ nhàng và đều đặn hơn; có lẽ tác dụng của cồn thuốc phiện đang dần dần tiêu tan. Tôi chạy vội trở lại phòng Lucy. Van Helsing vồ lấy chai rượu, dốc ra tay rồi xoa mạnh lên môi, lên cổ tay, cườm tay Lucy. Làm xong cái công việc cấp cứu ấy, ông mới khẽ nói với tôi :
- Tạm thế đã. Bây giờ chẳng còn gì khác để làm cả... Anh xuống đánh thức mấy cô kia dậy đi. Cứ lấy khăn ướt mà vỗ vào mặt họ, đừng sợ như thế là tàn nhẫn! Tôi cần họ tỉnh để đất lửa đun nước nóng. Cô bé này gần như đang chết cóng đây này, người cô ta chẳng khác gì một cục nước đá. Cô ta cần phải được sưởi ấm trước cái đã, sau đó có làm gì thì làm.
Tôi không gặp khó khăn gì khi đánh thức ba người gia nhân đầu tiên; nhưng người thứ tư thì vẫn nằm lì ra như một đứa trẻ, dường như cô ta là người bị ngấm thuốc phiện nhiều nhất. Tôi phải bế cô ta đặt lên trường kỷ để cô ta ngủ tiếp. Ba cô gái vừa tỉnh cứ ngơ ngơ như những kẻ ngây độn. Tuy nhiên, khi sực nhớ lại những chuyện đã xảy ra, họ bỗng khóc òa lên và nức nở kể lại sự tình với tôi. Nhưng tôi vẫn tỏ ra cương quyết và nghiêm nghị, không để họ kể lể nhiều. Tôi bảo họ rằng có một người chết trong nhà là đủ lắm rồi, và rằng nếu họ cứ kể lể mãi như vậy thì có lẽ đến lượt Lucy cũng chết mất. Nghe tôi nói vậy, họ buộc phải nức nở đi vào bếp. Cũng may là bếp lò chưa tắt nên nước trong nồi vẫn còn nóng. Chuẩn bị bồn tắm xong, chúng tôi đặt Lucy vào ngâm. Khi chúng tôi đang tập trung xoa bóp chân tay cho cô thì ở ngoài cổng bỗng có tiếng gõ cửa. Một người hầu tốt tưởi chạy ra mở cửa. Giây lát sau, chị ta chạy vào báo cho chúng tôi biết có một người đàn ông đang đứng đợi ngoài đó, ông ta nói là có thư của Holmwood. Biết không thể tiếp khách trong lúc này, tôi cho người ra bảo ông ta thông cảm đứng đợi. Thú thực là tôi đã quên ngay lập tức sự có mặt của ông ta, tất cả những gì tôi có thể làm bây giờ là tập trung cứu bệnh nhân.
Từ khi làm việc với Van Helsing, chưa bao giờ tôi thấy ông chiến đấu chống lại tử thần theo kiểu này. Bởi cả hai chúng tôi đều biết rằng đây là cách duy nhất, là cuộc chiến tận cùng chống lại một cái chết. Khi tôi nói nhỏ điều đó, ông đã đứng ngây người ra trong giây lát. Tôi không hiểu câu trả lời của ông, song cứ nhìn nét mặt nghiêm trọng của ông là tôi khắc biết.
Nếu chỉ có thế, ông nói tôi sẽ cố gắng rời khỏi nơi đây, và tôi sẽ để cho cô bé được nghỉ ngơi yên bình, bởi tôi cũng không dám chắc là cuộc sống có còn đến với cô bé hay không nữa.
Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục các nỗ lực xoa bóp cho cô bệnh nhân trẻ tuổi của mình một cách không mệt mỏi.
Chẳng cần phải đợi lâu, chúng tôi bắt đầu nhận thấy bồn nước nóng đã phát huy tác dụng. Qua ống nghe, tôi cảm thấy nhịp tim và hơi thở của Lucy đang dần dần ổn định trở lại. Khi nhấc cô ra khỏi bồn nước và quấn xung quanh người cô mấy lớp khăn ấm, Van Helsing bảo tôi, nét mặt có vẻ đỡ nặng nề hơn :
- Bước đầu chúng ta đã giành được thắng lợi? Thần Chết đang lùi bước!
Chúng tôi đặt Lucy nằm vào trong một phòng khác. Tôi đặt cô lên giường rồi nhỏ mấy giọt rượu mạnh vào miệng cô. Van Helsing quấn vào cổ cô một mảnh khăn lụa thật mềm. Cô vẫn chưa tỉnh. Nhìn nét mặt cô, tôi biết là cô đang trải qua một cơn đau mà tôi chưa bao giờ được thấy.
Giáo sư Van Helsing cho gọi một đầy tớ lên và ra lệnh cho chị ta đứng ở đầu giường trông bệnh nhân, ông dặn chị ta tuyệt đối không được để mắt đi nơi khác cho tới khi chúng tôi quay trở lại. Sau đó, ông vẫy tay ra hiệu cho tôi cùng bước ra khỏi phòng.
- Bây giờ chúng ta phải nghĩ xem cần tiếp tục phải làm gì. - Giáo sư bảo tôi trong lúc đi xuống cầu thang.
Hai chúng tôi bước vào phòng ăn để nói chuyện cho tiện. Các ô cửa sổ trong phòng đều mở nhưng lại được che rèm kín. Giáo sư quay ra đóng cửa cẩn thận, căn phòng tối sầm lại, nhưng ánh sáng lọt qua các ô cửa sổ vẫn đủ để chúng tôi nhận biết mọi vật xung quanh. Vẻ nghiêm trọng trên nét mặt giáo sư khi nãy đã không còn nữa, thay vào đó là những cảm xúc bối rối. Rõ ràng ông đang tìm cách giải quyết một khó khăn mới nào đó.
- Thế đấy! Chúng ta biết phải làm gì bây giờ? – Ông trầm ngâm. - Ai sẽ là người giúp chúng ta? Dù thế nào thì chúng ta cũng phải thực hiện một ca truyền máu nữa. Ừ, một ca nữa, càng nhanh càng tốt, nếu không cô bé tội nghiệp kia sẽ không thể sống thêm một giờ. Anh bạn trẻ ạ, cũng như tôi thôi, trông anh đã suy kiệt lắm rồi. Tôi thì tôi không muốn bắt những người giúp việc kia phải hiến máu cho dù họ có dù can đảm làm điều đó. Biết tìm đâu ra một người hiến máu bây giờ?
- Chẳng phải tôi đang ở đây hay sao?
Tiếng nói bất ngờ vọng tới từ trên chiếc ghế trường kỷ ở phía bên kia phòng; tôi lập tức thở phào nhẹ nhõm, vì tôi không thể nhầm được, đó chính là giọng của Quincey Morris. Lúc đầu, Van Helsing cớ vẻ rất tức giận, ông quay phắt lại nhìn vị khách trẻ tuổi, nhưng rồi nét mặt ông cũng dần dần dịu dàng trở lại, ánh mắt rạng rỡ hẳn lên. Tôi dang tay bước nhanh về phía người bạn, miệng reo lên :
- Quincey Morris! Làn gió nào đã đưa ông tới đây vậy?... Chắc là Athur đã...
Thay vì câu trả lời, anh ta đưa cho tôi một bức điện. Tôi hồi hộp đọc ngay :
“Không có tin của Seward từ ba hôm nay. Lo kinh khủng. Không thể rời cha, ông cụ vẫn còn ốm. Cho tôi biết ngay tình hình của Lucy. Holmwood.”
- Tôi nghĩ là mình đã đến rất đúng lúc. - Quincey nói. - Bây giờ ông chỉ việc bảo tôi điều tôi sẽ phải làm, đừng nói nhiều nữa.
Van Helsing bước tới nắm chặt bàn tay vị khách mới đến :
- Khi một phụ nữ sức cùng lực kiệt cần được tiếp máu thì dòng máu của một người đàn ông can đảm sẽ là cứu cánh duy nhất cứu sống được cô ta. Quỷ dữ có thể lấy hết quyền năng chống lại chúng ta, nhưng Chúa sẽ luôn mang tới cho chúng ta những người đàn ông thực sự dũng cảm.
Và chẳng nhiều lời, chúng tôi khẩn trương bắt tay vào một ca tiếp máu mới. Công việc diễn ra quá cực nhọc nên tôi không thể kể hết ra đây mọi chi tiết. Lucy hẳn đã phải trải qua một cú sốc khủng khiếp, bởi lần này tôi không thấy cô có những phản ứng như những lần trước. Nếu nhìn cô, nghe cô thổn thức chiến đấu chống lại cái chết để trở về với cuộc sống, chắc bạn sẽ không cầm lòng được. Song rồi nhịp đập của trái tim cô cũng trở nên đều đặn hơn, hơi thở khó nhọc thoát ra từ lồng ngực cô cũng khá lên trông thấy. Tiếp máu xong, Van Helsing còn cẩn thận tiêm cho cô một liều moóc-phin, ông muốn biến trạng thái bất tỉnh bệnh lý của cô thành một giấc ngủ sâu bình thường. Giáo sư ở lại trông Lucy, còn tôi phải đưa Quincey xuống và bảo một người đầy tớ ra trả tiền cho tay xà ích đang đợi ngoài cổng. Sau khi cho Quincey uống một cốc rượu vang, tôi đỡ anh nằm xuống ghế trường kỷ và bảo người làm bếp chuẩn bị cho anh một bữa trưa thật đủ chất dinh dưỡng. Như sực nghĩ ra một điều gì, tôi quay trở lại ngay phòng bệnh nhân. Van Helsing vẫn đứng đó, trên tay ông là mấy tờ giấy. Thoáng nhìn, tôi biết ngay là ông đang nghi ngờ một điều gì đó. Ông chìa tay đưa cho tôi mấy tờ giấy và nói gọn lỏn một câu không đâu vào đâu :
- Chiếc áo cánh của Lucy đã bị rơi lúc chúng ta nhấc cô ra khỏi bồn nước.
Đọc xong mấy tờ giấy, tôi lén nhìn giáo sư một lát rồi mới dám hỏi :
- Lạy Chúa tôi, thế này là thế nào? Cô ấy đã, hay nói đúng hơn là cô ấy đang bị điên hay sao? Hay có một mối nguy hiểm khủng khiếp nào đang rình rập chúng ta ở đâu đó?
Van Helsing lấy lại mấy tờ giấy trên tay tôi.
- Bây giờ chưa phải là lúc để anh nghĩ ngợi lung tung, - Ông nói - hãy cố gắng quên nó đi. Rồi thời gian sẽ trả lời anh tất cả, sẽ giúp anh hiểu tất cả... Nhưng không phải là lúc này. Rồi về sau... Tại sao anh lại quay lên đây? Anh có điều gì muốn nói phải không?
Câu hỏi của giáo sư đã giúp tôi trở lại với chính mình.
- Vâng, chuyện về giấy chứng tử ấy mà. Nếu chúng ta không thực hiện đầy đủ các thủ tục cần thiết thì chắc chắn sẽ có người đến điều tra. Tôi cho rằng không cần thiết để chuyện ấy xảy ra, bởi điều đó rất có thể sẽ làm cho cô bé Lucy tội nghiệp đau lòng mà chết. Giáo sư, tôi và bác sĩ của bà Westenra, tất cả đều biết tại sao bà ấy chết, và chúng ta chỉ việc khai vào giấy chứng tử theo đúng như những gì đã xảy ra. Có lẽ chúng ta phảí làm ngay. Tự tay tôi sẽ mang tờ giấy đến cho nhà chức trách, sau đấy tôi sẽ đi tìm người lo liệu ma chay.
- Được đấy, anh bạn John ạ? Anh nghĩ sâu xa lắm? Quả thực là nếu như Lucy bị những bóng thù hắc ám đeo đuổi, thì ít nhất cô cũng cảm thấy một chút an ủi bởi lúc nào cô cũng có nhưng người yêu thương mình bên cạnh. Đã có một, hai và ba người đàn ông sẵn sàng mở ven tiếp máu cho cô, tất nhiên tôi không kể tới cái thân xác già nua của mình. Quả thật là tôi cũng rất biết ơn anh, anh bạn John ạ! Và tôi rất muốn anh tiếp tục phát huy phẩm chất đáng quý ấy. Bây giờ, có lẽ chúng ta nên xuống dưới nhà đi!
Xuống tới hành lang, chúng tôi gặp lại Quincey Morris lúc anh đang chuẩn bị gửi một bức điện cho Arthur để thông báo về cái chết của bà Westenra cũng như tình hình sức khỏe của Lucy.
Khi tôi nói tôi có việc phải rời khỏi đây một lúc, Quincey không giữ lại mà chỉ hỏi một câu :
- Jack này, khi nào quay về, ông có thể dành một chút thời gian nói chuyện với tôi được không?
Tôi khẽ gật đầu đồng ý.
Khi nói đến cái chết của bà Westenra, tay nhân viên nhà nước dân sự không gây cho tôi bất cứ một phiền hà nào. Và tay phụ trách các vấn đề ma chay của địa phương cũng sốt sắng hẹn tôi rằng anh ta sẽ đến vào buổi chiều tối để giải quyết mọi việc có liên quan.
Khi tôi về, Quincey vẫn đang ngồi đợi. Tôi bảo lúc nào lên thăm Lucy xong tôi sẽ xuống nói chuyện với anh ta. Lucy vẫn đang ngủ, và hình như Van Helsing đã ngồi bên giường cô trong suốt thời gian tôi đi vắng. Trông thấy tôi vào, giáo sư vội đưa ngón tay lên miệng ra hiệu cho tôi giữ im lặng. Chắc hẳn ông đang nghĩ Lucy sắp tỉnh dậy đến nơi, song ông muốn giấc ngủ của cô phải là một giấc ngủ tự nhiên, và sự thức dậy của cô cũng phải là một cái gì đó thật tự nhiên chứ không phải là một sự khiên cưỡng do một tiếng động nào đó gây nên. Vì vậy, tôi phải quay xuống gặp Quincey. Tôi mời anh ta sang một phòng khách sáng sủa hơn, bởi căn phòng này không buông rèm. Vừa ngồi xuống ghế, Quincey nói luôn :
- Jack Seward này, tôi không muốn nói linh tinh về những gì mình không biết tường tận, nhưng xem ra tình hình có vẻ rất nghiêm trọng, đặc biệt... Ông biết rằng tôi cũng rất yêu cô bé này và rằng tôi đã có lần cầu hôn với cô ấy. Mặc dù đó đã là chuyện cũ, song tôi vẫn rất quan tâm và lo lắng. Thực ra tôi vẫn chưa biết chính xác Lucy bị làm sao và đang phải chịu đựng nỗi đau gì. Hồi nãy, khi còn ở trong phòng ăn bên kia, tôi thấy vì giáo sư người Hà Lan đã nói với ông là cần phải có một lần truyền máu nữa, nhưng giáo sư cũng nói thêm rằng cả ông và ông ấy đều đã suy kiệt. Như vậy, Van Helsing và ông đều có ít nhất là một lần hiến máu cho Lucy, tôi hiểu như vậy có đúng không ạ?
- Chính xác là như vậy.
- Thậm chí tôi còn nghĩ rằng cả Arthur cũng đã làm như vậy. Cách đây bốn hôm, khi chúng tôi gặp nhau, tôi thấy anh ta cũng có vẻ xanh lắm. Tôi chưa bao giờ thấy ai thay đổi nhanh đến như vậy, trừ một lần tôi được chứng kiến con ngựa yêu quý của mình bị một giống dơi mà người ta vẫn gọi là ma cà rồng xé động mạch cổ rồi hút bằng sạch máu. Đêm đó, con ngựa đã không đủ sức đứng dậy, tôi đã phải cho nó một phát đạn vào đầu để nó khỏi chết đau chết đớn. Jack ạ, nếu không phải giữ bí mật nghề nghiệp thì xin ông nói cho tôi biết đi. Có phải Arthur là người đã hiến máu đầu tiên không?
Càng nói, chàng trai trẻ càng tỏ ra thiếu bản lĩnh che giấu những lo lắng về tình trạng sức khỏe của người con gái bất hạnh mà anh ta còn yêu mến. Tôi nhận thấy anh ta chỉ còn thiếu mỗi một nước là khóc òa lên mà thôi.
Tôi lặng im suy nghĩ trước khi trả lời Quincey, vì tôi đang do dự không biết có nên nói hết sự thật ra hay không khi còn chưa biết phản ứng của giáo sư Van Helsing như thế nào. Nhưng rõ ràng anh ta cũng đã biết ít nhiều, và cũng không ngoại trừ trường hợp anh ta đoán già đoán non là tôi không thể không trả lời câu hỏi của mình.
- Đúng thế, - Tôi trả lời - Arthur là người đầu tiên...
- Thế chuyện xảy ra khi nào?
- Cách đây khoảng chục ngày.
- Chục ngày? Vậy thì cô bé đáng thương mà tất cả chúng ta đều yêu mến kia đã nhận máu của bốn người trong vòng có mươi ngày thôi ư? Nếu bình thường thì lượng máu ấy quả là quá nhiều đối với một cơ thể mảnh mai như cô ấy.
Quincey bỗng ngồi sát lại gần tôi :
- Thế tại sao cô ấy vẫn thiếu máu nhiều đến thế?
- Đó còn là một dấu hỏi. - Tôi lắc đầu. - Cả Van Helsing và tôi bây giờ đều chưa rõ tại sao... Đúng là có một thế lực nào đó đã chống lại các nỗ lực của giáo sư. Nhưng điều đó không thấy xảy ra nữa. Bây giờ chúng tôi đã quyết định phải ở lại đây cho tới khi mọi việc diễn ra thật tốt đẹp, hoặc cho tới khi mọi chuyện đã kết thúc.
Quincey nắm chặt lấy tay tôi.
- Tôi sẽ giúp các ông một tay. - Anh ta nói - Chỉ cần vị giáo sư người Hà Lan và ông bảo tôi phải làm gì là tôi sẽ làm ngay.
Buổi chiều, khi tỉnh dậy, trước sự kinh ngạc của tôi, cử chỉ đầu tiên mà Lucy làm là luồn tay xuống dưới áo ngủ lấy mấy mẩu giấy mà Van Helsing đã đưa cho tôi đọc. Giáo sư đã cẩn thận trả lại đúng chỗ cũ vì sợ rằng khi tỉnh dậy, nếu không thấy những mẩu giấy ấy, cô bé sẽ hoảng sợ. Cầm mấy mẩu giấy trên tay, cô ngước nhìn Van Helsing một lúc rồi lại quay sang nhìn tôi, vẻ thật sự hài lòng. Rồi cô ngước mắt nhìn khắp phòng như một đứa trẻ vừa được làm quen với một thế giới mới, nhưng khi chợt nhận thấy đây không phải là phòng mình, cô đã khóc nấc lên và đưa hai tay ôm lấy khuôn mặt còn trắng bệch như người chết đuối. Chỉ tới lúc này cô mới nhớ ra một thực tế là cô đã mất mẹ. Chúng tôi xúm lại an ủi vỗ về cô. Nếu chúng tôi làm cho cô nhẹ nhõm trong lòng được ngần nào thì cô sẽ đỡ bị cơn đậu hành hạ ngần ấy. Nhưng Lucy vẫn khóc nức nở trước mặt chúng tôi. Chỉ tới khi tôi nói rằng từ nay trở đi, tôi và Van Helsing hoặc sẽ cùng nhau, hoặc sẽ thay nhau ở bên cô, cô mới an tâm hơn đôi chút.
Màn đêm buông xuống, cô lại bắt đầu đi vào giấc ngủ. Thêm một điều nữa làm tôi ngạc nhiên: trong lúc ngủ, cô đã cầm mấy mẩu giấy khi nãy xé ra làm đôi. Van Helsing định gỡ những mảnh giấy ấy ra, nhưng cô vẫn giữ rất chặt và thậm chí còn xé nhỏ hơn nữa. Cuối cùng, cô đưa tay lên và xòe bàn tay ra như thể muốn ném vung những mẩu giấy vụn lên thật cao. Van Helsing rất lấy làm lạ, nhưng không thấy ông nói gì.
* * * * *
Ngày 19 tháng 9
Suốt đêm hôm đó, Lucy ngủ không yên. Tôi nhận thấy không ít lần cô có những biểu hiện của một tâm trạng sợ ngủ, nhưng cuối cùng thì cô cũng vẫn cứ chìm vào một giấc ngủ sâu. Chính giấc ngủ mê mệt đã làm cô bộc lộ hết những nét bạc nhược trên gương mặt đau khổ, thậm chí còn bộc lộ rõ nét hơn so với lúc cô thức. Van Helsing và tôi thay nhau trong nom cơ; chúng tôi không dám để cô nằm lại một mình một phút nào. Không biết Quíncey Morris nghĩ gì, nhưng suất đêm, tôi cứ thấy anh ta đi đi lại lại xung quanh ngôi nhà.
Buổi sáng, nhìn Lucy, chúng tôi biết là cô không còn một chút sức lực nào. Tôi không dám nói quá lời bởi vì đã có lúc cô không thể trở mình hoặc quay đầu từ bên này sang bên kia được. Hình như lượng dinh dưỡng ít ỏi mà chúng tôi cho cô dùng hôm qua đã không được tiêu hóa để chuyển hóa thành năng lượng. Thỉnh thoảng tôi và Van Helsing lại hồi hộp quan sát những thay đổi diễn ra trên nét mặt cô lúc cô đang chìm sâu trong giấc ngủ buổi sáng. Cũng có lúc nhịp thở của cô chậm và đều hơn. Cô ngủ mà miệng há hốc, để trơ ra hai hàng lợi tím tái tụt sâu xuống dưới chân .răng, khiến cho hai hàm răng có vẻ dài và nhọn hơn hẳn so với bình thường. Khi tính dậy, sự dịu dàng trong ánh mắt, dù vẫn còn lờ đờ, đã trả lại cho cô cái cảm xúc quen thuộc thường ngày. Buổi chiều, cô bỗng đòi gặp Arthur; chúng tôi đành phải đánh điện gọi anh ta đến, và người ra ga đón anh ta sẽ là Quincey.
Arthur đến vào khoảng 6 giờ. Tlết trời chiều vẫn còn nóng bức, đôi má của bệnh nhân có vẻ ửng hồng lên dưới những tia nắng còn vương lại trong phòng. Nhìn thấy Lucy, phải cố gắng lắm Arthur mới giấu được cảm xúc. Chúng tôi không ai có đủ can đảm để nói cho anh ta biết sự thật. Sự xuất hiện của Arthur dường như đã làm cho Lucy dần dần lấy lại sức lực. Kể từ khi tới nhà cô đến nay, chưa bao giờ tôi thấy cô lại nói năng sôi nổi đến vậy.
Bây giờ đã gần một giờ; Van Helsing và Arthur vẫn ngồi trông nom bệnh nhân. Khoảng mười lăm phút nữa, tôi sẽ tới thay ca cho họ. Trong lúc chờ đợi, tôi đã ghi lại những chi tiết này vào chiếc máy hát của Lucy. Sau khi tôi lên thay, hai người sẽ tranh thủ ngủ một giấc đến 6 giờ sáng. Hy vọng là một ngày mai, chúng tôi sẽ chẳng cần phải thức để trông nom cô nữa. Rồi cô bé khốn khổ sẽ phải bình phục. Cầu Chúa hãy giúp chúng con!
Thư của Mina Harker gửi Lucy Westenra
(Thư người nhận chưa mở)
Ngày 17 tháng 9
Lucy thân mến,
Tớ có cảm giác như cả thế kỷ trôi qua mà không nhận được tin tức gì của cậu, hay nói đúng hơn là cả thế kỷ nay tớ chưa viết thư cho cậu. Hy vọng cậu sẽ thứ lỗi cho tớ sau khi đọc những dòng này. Đầu tiên tớ phải thông báo cho cậu biết hai vợ chồng tớ đã về đây ở. Lúc xuống tàu ở Exeter, tớ thấy ngài Hawkins, mặc dù đang bị căn bệnh thống phong hành hạ, đã ngồi sẵn trong xe đợi đón chúng tới Hawkins tự tay lái xe chở hai vợ chồng tớ về nhà ông. Cả ba người đã cùng ngồi ăn tối với nhau. Bọn tớ được ông dành cho những căn phòng rất tiện nghi. Sau bữa tối, ông nói với bọn tớ :
- Các bạn ạ, tôi đã uống vì sức khỏe và hạnh phúc trăm năm của các bạn! Cầu mong các bạn luôn có được những niềm vui trọn vẹn? Tôi biết các bạn từ khi các bạn còn nhỏ, bởi vậy tôi cũng rất tự hào khi được chứng kiến các bạn trưởng thành. Hôm nay, tôi muốn các bạn hay coi đây như là nhà của chính mình vậy. Tôi sống độc thân, chẳng có con cái gì, nên tôi sẽ viết di chúc để lại tất cả gia sản của mình cho các bạn.
Lucy ạ, nghe ngài Hawkins nói, trông thấy cảnh ông và chồng tớ bắt tay nhau hồi lâu mà tớ không sao cầm được nước mắt. Buổi tối hôm ấy sao mà hạnh phúc đến thế.
Vậy là chúng tớ đã may mắn được dọn tới ở trong một ngôi nhà cổ kính tuyệt đẹp. Tất cả các phòng mà bọn tớ được lui tới, từ phòng ngủ cho tới phòng ăn và phòng khách, đều trông ra những bóng cây du già bao quanh giáo đường, nhưng chỉ có điều là tối đến, tớ thường hay phải nghe tiếng bầy quạ lượn qua lượn lại trên nóc nhà. Kể ra lũ quạ này cũng lắm lời thật, chúng cứ kêu quang quác đến nhức cả đầu? Tớ biết nói gì với cậu bây giờ nhỉ? Hiện tại, tớ đang rất bận sắp xếp nhà cửa, đồ đạc. Còn Jonathan thì suốt ngày chu mũi vào công việc, vì bây giờ anh đã là phụ tá của ngài Hawkins - người đang khẩn trương bàn giao cho anh tất cả các công việc liên quan đến từng khách hàng.
Mẹ cậu thế nào rồi? Tớ rất muốn tới thăm bà và cậu một vài ngày, nhưng bây giờ thì khó quá, tớ vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Vả lại, nếu Jonathan có khỏe hơn đi chăng nữa thì bệnh tình của anh vẫn chưa thể hoàn toàn bình phục. Thực tình, trông anh ấy vẫn còn vẫn yếu. Thỉnh thoảng tớ lại thấy anh ấy giật mình trong giấc ngủ để rồi lại hốt hoảng tỉnh dậy, mặt mày thì ngơ ngác như một kẻ mất hồn, người run cầm cập. Cứ mỗi lần như valy, tớ lại phải ra sức an ủi, vỗ về anh ấy. Ơn Chúa, chứng bệnh của anh đang mỗi ngày một giảm, và tớ đã dám hy vọng rằng dần dần anh ấy sẽ khỏi hẳn. Bây giờ, cho phép tớ hỏi vài câu về tình hình của cậu. Cậu định bao giờ cưới, và cưới ở đâu? Ai sẽ là chủ hôn? Cậu định mặc áo dài gì? Cậu sẽ mời nhiều bạn bè hay chỉ tổ chức đơn giản thôi? Nhớ phải trả lời đấy, cô bạn yêu quý ạ bởi cậu thừa biết là tớ luôn nghĩ tới cậu, luôn quan tâm tới những gì cậu đang ấp ủ trong lòng như thế nào rồi. Jonathan cũng nhờ tớ chuyển tới cậu những lời thăm hỏi chân tình và cả những lời chúc tốt lành nhất, nhưng tớ thề rằng như thế vẫn là chưa đủ đối với một phụ tá trẻ của một công ty lớn như công ty của Hawkins và Harker. Cũng như cậu thương yêu tớ và anh ấy thương yêu tớ, tớ xin gửi tới cậu những tình cảm chân thành của họ. Tạm biệt nhé, Lucy thân thương. Chúc cậu ngàn lần hạnh phúc.
Mina của cậu”.
Báo cáo của bác sĩ tâm thần Patrick Hennessey gửi bác sĩ John Seward
Ngày 20 tháng 9
“Ông bạn đồng nghiệp thân mến.
Tôi xin được thuật lại rằng tình trạng của một vài bệnh nhân mà tôi đang chăm sóc không có gì đáng nói... Còn về trường hợp của Renfield, tôi thấy có rất nhiều điều cần phải nói. Hắn lại một lần nữa lên cơn, song cơn điên lần này đã kết thúc mà không có một hậu quả đáng buồn nào xảy ra. Tlện thể tôi cũng xin được nói luôn rằng chiều nay, một chiếc tải chở hàng cùng hai người đàn ông đã xuất hiện tại ngôi nhà hoang gần bệnh viện của chứng ta - ngôi nhà mà Renfield đã hai lần trốn viện và vượt rào sang đó, hẳn ông vẫn còn nhớ? Hai gã đàn ông này đã dừng lại trước bệnh viện để hỏi đường người gác cổng, vì theo tôi được biết thì đây không phải là người trong vừng. Lúc đó tôi vừa ăn trưa xong và đang đứng hút thuốc trước cửa phòng, vì vậy tôi đã nhận thấy một trong hai gã đi về phía hành lang ngoài của bệnh viện. Khi gã đi qua cửa sổ phòng Renfield, bệnh nhân này lập tức nhỏm dậy chửi bới lung tung. Hắn chửi rằng gã đàn ông kia không chỉ đến để ăn trộm mà còn định giết hắn, và hắn còn thề lần sau, hắn sẽ không để gã làm hại hắn. Tôi mở cửa sổ và bảo gã lái xe tải đừng để bụng về chuyện này. Sau khi liếc mắt nhìn lại mặt trước tòa nhà bệnh viện, gã mới nhận ra là mình đang đứng ở đâu. Chỉ khi ấy gã mới bảo tôi :
- Cầu Chúa hãy ban phước lành cho ông. Quả thực là tôi vẫn chưa hình dung hết cái cảnh phải đứng trước bọn người điên. Tôi thật ái ngại cho ông và ông chủ của ông đã phải sống giữa những kẻ hung tợn đến như vậy!
Rồi gã lịch sự hỏi tôi lối sang ngôi nhà hoang bên cạnh. Tôi cũng đáp lễ chỉ đường cho gã. Gã đi rồi nhưng Renfield vẫn điên khùng phun ra hàng tràng những lời chửi bới và đe dọa. Khi tôi xuống thăm hắn, trong đầu tôi vẫn tự hỏi là lần này mình có thể tìm ra nguyên nhân khiến cho hắn tức giận hay không.
Xuống tới phòng hắn, tôi rất ngạc nhiên vì không hiểu sao hắn lại lặng lẽ và hiền hòa đến thế. Tôi cố gặng hỏi xem hắn nói gì về chuyện đã xảy ra, nhưng hắn lại hỏi lại là tôi định nói gì. Tôi thấy dường như hắn đã thực sự không còn nhớ gì nữa. Thật không hay ho tí nào khi đó chỉ là một ví dụ mới về đầu óc xảo trá của hắn, bởi chưa đầy nửa giờ đồng hồ sau, hắn lại khiến tôi phải nói về hắn. Lần này, hắn đã nhảy ra ngoài qua cửa sổ và bỏ chạy thục mạng. Sợ hắn làm bậy, tôi buộc phải gọi mấy giám thị và bảo họ bằng mọi giá phải bắt bằng dược hắn về. Và tôi đã không nhầm. Một lúc sau, tôi thấy chiếc xe tải quay ngược trở lại phía bệnh viện, trên xe lúc này là những chiếc thùng lớn. Hai gã trên xe đang lấy khăn lau mồ hôi trên trán, mặt mũi họ đỏ gay đỏ gắt như thể vừa trải qua một cuộc vật lộn ác liệt. Trước khi tôi chộp được tên bệnh nhân, hắn đã kịp nhảy lên bậc xe tóm gáy một gã lái xe và lôi xuống đất, rồi hắn túm tóc nạn nhân và đập đầu gã túi bụi xuống mặt đường. Nếu lúc ấy tôi không kịp chạy bám theo thì có lẽ hắn đã đập chết tươi gã đàn ông kia rồi.
Gã lái xe còn lại cũng vội vàng nhảy xuống đất, tay cầm một ống dây cao su vụt lia lịa vào người tên bệnh nhân. Những đòn đánh này lẽ ra phải làm cho hắn đau đớn điên dại, nhưng không, nhìn hắn không có vẻ gì là như thế, bởi vì sau đó hắn đã thản nhiên đứng dậy đánh lại gã đàn ông đang tấn công hắn, rồi hắn tấn công lại cả ba chúng tôi, xô đẩy chúng tôi nghiêng ngả, dúi dụi dễ dàng như thể hắn làm với mấy con mèo hen. Ông biết rằng tôi chỉ là một thằng còm nhom, song tôi không thể nói như vậy với hai gã lái xe tải: đó là hai gã khỏe như trâu mộng. Lúc đầu, hắn chẳng nói chẳng rằng gì hết, chỉ đến khi chúng tôi tìm cách làm chủ được hắn và khi mấy tay giám thị khoác áo trói lên người hắn, hắn mới gào lên: “Tôi đang phá kế hoạch của chúng! Chúng sẽ không thể ăn trộm của tôi, chúng không thể giết tôi được nữa! Tôi phải chiến đấu vì đức Chúa Trời và vì ông chủ!” Hắn không ngớt tuôn ra những lời nói điên rồ chẳng ai hiểu nổi. Phải khó khăn lắm chúng tôi mới dẫn được hắn về bệnh viện và nhất vào trong phòng. Còn hai gã lái xe tải, lúc đầu cứ luôn mồm dọa sẽ đưa vụ hành hung này ra tòa; nhưng sau đó, tôi lại thấy lẫn với lời đe dọa đó là những câu nói có hàm ý ăn năn, hối tiếc vì cả hai đã để mặc cho một kẻ điên rồ mất trí như vậy đánh đập. Cả hai đều có ý phân bua rằng nếu không phải chịu nhục để mang các thùng hàng đi cho êm xuôi, thì chắc chắn họ đã thắng thế chứ không phải là thằng điên kia! Song họ cũng đưa ra một lý do khác để biện hộ cho thất bại của mình: cơn khát cháy họng sau khi hoàn thành xong công việc bốc vác hàng lên xe đã làm cho họ bị mất sức, trong khi đó, xung quanh đây lại không có bất cứ một quán giải khát nào. Tôi hiểu thực ra họ muốn gì. Vì vậy, sau khi cho họ uống mỗi người hai cốc rượu trắng pha chanh, đường và nước nóng, và giúi vào tay mỗi người một đồng tiền vàng, tôi không thấy họ đả động gì đến chuyện kiện tụng nữa. Thậm chí họ còn nói đùa rằng sẽ có ngày họ sẵn sàng tới tỉ thí với một thằng điên khác, kể cả một kẻ hung tợn hơn nhiều. Tôi đã cẩn thận ghi lại tên tuổi và địa chỉ của họ, vì biết đâu sẽ có ngày chúng ta cần đến. Tất cả những gì tôi ghi là thế này: Jack Smoliet, khu nhà Dudding, phố King George, Great Walworth; và Thomas Snelling, dãy nhà Peter Farley, Guide Court, Bethnal Green. Hai gã này đang làm việc tại công ty vận tải biển Orange Masters Yard của Harris.
Tôi sẽ thông báo tường tận cho ông biết về tất cả những gì quan trọng xảy ra ở đây và sẽ đánh điện gửi ông ngay sau khi có tin mới.
Kính chào ông, Patrick Hennesey”.
Mina Harker gửi Lucy Westenra
(Thư người nhận chưa mở)
“Ngày 18 tháng 9
Lucy thương nhớ.
Bọn tớ đang trải qua một bất hạnh thật lớn lao. Ngài Hawkins vừa đột ngột qua đời, khiến bọn tớ cảm thấy như vừa mất đi một người cha thật sự. Tớ cảm nhận rất rõ điều này, vì tớ chưa một lần được biết mặt cha mẹ đẻ của mình. Còn đối với Jonathan, sự ra đi của một con người hào hiệp luôn coi anh như một người con đẻ đã để lại trong anh một nỗi buồn khôn nguôi. Vậy là trách nhiệm đối với mọi công việc lúc này bắt đầu thuộc về anh ấy, làm cho anh ngày càng cảm thấy căng thẳng hơn và thậm chí, đã có lúc anh bông tỏ ra nghi ngờ với chính mình. Tuy nhiên, tớ đã hết sức cố gắng động viên anh, và chính lòng tin mà tớ đang gửi gắm nơi anh đã làm cho anh tự tin hơn. Dẫu sao thì đây cũng là kết quả của một cú sốc ghê gớm mà chính anh là nạn nhân. Ngày trước, tớ còn nhớ Jonathan luôn là một người đàn ông can đảm và đầy nghị lực - chính đức tính này đã thuyết phục được Hawkins khi ông quyết định giao cho anh nhiệm vụ của một người phụ tá. Thật khó mà hình dung ra rằng bây giờ anh ấy lại suy sụp đến thế! Cô bạn thân à, nếu những điều tớ vừa nói ra đây khiến cậu phải bận tâm lo lắng và làm ảnh hưởng tới hạnh phúc của cậu thì xin cậu hãy thứ lỗi! Nhưng tớ buộc phải tâm sự với một người nào đó trong lúc này, bởi nếu đứng trước Jonathan, tớ tỏ ra can đảm và vững tâm bao nhiêu, thì việc phải âm thầm chịu đựng nỗi ưu tư một mình lại làm tớ suy sụp bấy nhiêu. Tớ sợ rằng ngày kia - tức là ngày bọn tô phải đưa Hawkins về Luân Đôn chôn cất bên mộ cha ông theo ý nguyện cuối cùng của ông tớ sẽ không thể đứng vững được nữa nếu không tâm sự được với cậu. Jonathan sẽ là người đứng đầu lễ tang vì anh cũng chẳng còn cha mẹ nứa. Song dù thế nào thì tớ cũng sẽ cố gắng đến thăm cậu, Lucy thân yêu ạ. Một lần nữa xin cậu đừng trách tớ vì những tin buồn này nhé!
Chúc cậu ngàn lần may mắn?
Mãi mãi là người bạn lớn của cậu, Mina Harker”.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 20 tháng 9
Tối nay, tôi tình nguyện ở lại một mình, và như thường lệ, tôi lại giở sổ ra viết nhật ký. Tôi cảm thấy bất hạnh, mệt mỏi và yếu ớt - cứ như đang chán đời và chán tất cả mọi người - đến nỗi nếu lúc này nghe thấy tiếng đàn dơi vỗ cánh, thế nào tôi cũng nghĩ là thần Chết đang mời mọc mình. Đúng là trong những ngày vừa qua, chúng tôi đã thấy... Lúc đầu là bà mẹ của Lucy, rồi đến cha của Arthur, và bây giờ... Nhưng cứ để cho tôi kể...
Đến giờ hẹn, tôi lên trông Lucy để Van Helsing có thể nghỉ ngơi một chút. Cả tôi và giáo sư đều cố gắng thuyết phục Arthur cùng đi nghỉ, song anh cứ nhất định từ chối. Tuy nhiên, khi tôi giảng giải cho anh biết là ngày hôm sau, chúng tôi có thể rất cần tới sự giúp đỡ của anh và chúng tôi không nên để mệt mỏi thêm chỉ vì mất ngủ, anh đã vâng lời. Van Helsing cũng động viên anh ta :
- Xuống nghỉ đi, anh bạn trẻ? Sự đau đớn và lòng ưu phiền có lẽ cũng đủ làm anh suy kiệt rồi, đừng để cho tình trạng ấy quá lên. Không nên ở lại một mình, bởi vì sự cô đơn có thể sẽ càng làm cho anh thêm đau khổ đấy. Xuống phòng khách cùng tôi đi, ở dưới đó có sẵn lò sưởi và hai chiếc trường kỷ rồi. Hai chúng ta sẽ nằm mỗi người một ghế thay giường vậy. Tôi sẽ kéo ghế lại gần anh, chúng ta phải nằm gần nhau để an ủi nhau trong lúc này, kể cả khi hai chúng ta cùng nằm ngủ khì và không ai nói gì cũng được.
Arthur đau đớn đứng nhìn Lucy một hồi lâu rồi lặng lẽ bước theo Van Helsing xuống cầu thang. Lucy vẫn nằm im bất động trên giường. Đưa mắt nhìn khắp căn phòng, tôi nhận thấy giáo sư vẫn tiếp tục dùng những bông hoa tỏi: ông đã chà xát hoa tỏi vào tất cả cửa sổ của các phòng, chỗ nào cũng sực một mùi hôi hắc của giống cây khó ngửi này. Ông còn tốt vội những bông hoa tỏi vào chiếc khăn tay của Lucy và quàng vào cổ cô. Lucy chưa bao giờ có những biểu hiện đau đớn đến thế. Thỉnh thoảng cô lại thở rống lên với những nhịp thở không đều. Cô vẫn ngủ với những biểu hiện của lần trước: miệng há hốc, hai hàng lợi tím tái và co tụt hẳn lại, hai hàm răng trông có vẻ dài và thậm chí còn nhọn hơn cả lúc sáng, đặc biệt những chiếc răng nanh, trông chúng còn dài và nhọn hơn hẳn những chiếc còn lại. Lúc tôi ngồi xuống mép giường, cô chợt khẽ cựa quậy yếu ớt như thể đang trải qua một cơn đau. Đó cũng chính là lúc có một vật gì đấy vừa đập mạnh vào ô cửa kính. Tôi rón rén bước lại gần cửa sổ, nâng một góc rèm lên nhìn ra ngoài. Dưới ánh trăng bàng bạc, tôi nhận ra một con dơi to bự đang miệt mài lượn đi lượn lại như điên, có lẽ là những tia sáng, dù yếu ớt, hắt ra từ phòng ngủ đã thu hút nó. Thỉnh thoảng tôi lại thấy nó vỗ cánh đập lướt qua mặt kính cửa sổ. Khi tôi quay lại giường, Lucy đã hơi thay đổi tư thế nằm và gạt vung vòng hoa tỏi ra khỏi cổ từ lúc nào mà tôi không biết. Tôi cố gắng sắp xếp lại như cũ. Nằm thêm được một lúc nữa thì cô tỉnh dậy. Tôi cố gắng cho cô ăn một chút đúng như lời dặn của Van Helsing, cô ăn mà cứ như phải chịu một cực hình! Phải nói rằng mặc dù ngay cả cái sức lực vô thức của bản năng bây giờ cũng đã từ bỏ cô, nhưng dường như vẫn có một cái gì đó đang thôi thúc cô chiến đấu đến cùng chống lại bệnh tật và sẽ chiến thắng bệnh tật bằng mọi giá. Tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy vừa mới tỉnh dậy, cô đã vội ôm xiết lấy tràng hoa tỏi. Tôi rất lấy làm lạ về điều này: cứ mỗi lần cô rơi vào trạng thái ngủ vùi khiến cho nhịp thở củạ cô trở nên rất khó nhọc là một lần cô lại đẩy tràng hoa ra xa. Ngược lại, cứ mỗi lần cô tỉnh hoặc sắp tỉnh dậy, tôi lại thấy cô ôm chặt lấy tràng hoa vào người. Còn một chuyện nữa mà tôi không thể nhầm: trong những giờ đồng hồ sau đó, tôi thấy cô tỉnh dậy rồi lại ngủ lịm đi rất nhiều lần, và sự việc cứ tiếp diễn như vậy với những động tác giống nhau của cô.
Vào sáu giờ tối Van Helsing lên thay ca cho tôi. Arthur đã ngủ thiếp đi nên ông không nỡ đánh thức anh dậy. Ông nhìn Lucy mà không khỏi xuýt xoa. Lát sau, ông quay sang bảo tôi, giọng rất nhẹ song cũng rất rõ ràng :
- Kéo rèm lên hộ tôi? Tôi muốn có ánh sáng!
Ông cúi xuống nhấc tràng hoa tỏi ra khỏi cổ Lucy để kiểm tra tình hình cho người bệnh. Tiếng kêu tắc nghẹn trong cổ họng ông đã làm tôi giật mình: “Lạy Chúa?” Tôi lặng người cúi xuống cùng ông, và những gì đập vào mắt đã khiến tôi rùng mình, run rẩy.
Các vết thương trên cổ cô đã hoàn toàn biến mất.
Van Helsing chết lặng đi một lúc, nét mặt ông lộ rõ vẻ cam chịu và nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Khoảng năm phút sau, ông quay sang bảo tôi :
- Cô bé đang chết, mọi chuyện chắc cũng sẽ sớm kết thúc thôi. Nhưng anh hãy nghe tôi nói đây, dù cô ta có chết trong lúc ngủ hay không thì cũng thế thôi. Anh xuống đánh thức Arthur dậy cho anh ta được nhìn thấy người yêu mình lần cuối cùng. Anh ta đang đợi chúng ta gọi dậy vì tôi hứa thế mà.
Tôi bàng hoàng chạy xuống gọi Arthur. Phải mất một lúc anh mới tinh thần lại được sau một giấc ngủ mê mệt. Lúc đầu, tôi buộc phải nói dối anh ta là Lucy vẫn đang ngủ, nhưng dần dần tôi cũng phải thú thực rằng tôi và giáo sư Van Helsing đều rất sợ một kết cục buồn đang tới gần.
Arthur cảm thấy bầu trời như sắp đổ sập xuống, anh ta quỳ gối xuống ghế, hai tay ôm mặt, bờ vai rung lên bần bật bởi những tiếng nấc nghẹn ngào. Anh cứ quỳ gối như vậy mà cầu nguyện trong nhiều phút đồng hồ. Tôi phải nắm tay anh kéo dậy.
- Nào, anh bạn, tôi nói hãy can đảm lên, phải cản đảm lên vì cô ấy chứ.
Trở lại phòng Lucy, tôi thấy Van Helsing vẫn cố gắng tỏ ra bình thường nếu không muốn nói là còn cố làm ra vẻ vui hơn như mọi khi. Thậm chí ông còn lấy lược chải lại mái tóc óng ả như một dãy lụa vương lòa xóa trên gối của cô gái.
Khi chúng tôi vừa bước vào cũng là khi cô mở mắt. Nhìn thấy chồng chưa cưới, cô khẽ thì thào :
- Arthur! Tình yêu của em! Thật là vui khi được thấy anh ở đây!
Arthur cúi xuống định ôm chầm lấy cô gái, nhưng Van Helsing đã kịp ngăn lại :
- Đừng, đừng làm thế, bây giờ chưa phải lúc? Anh cầm lấy tay cô ấy là được rồi, làm như vậy có khi còn an ủi cô ấy được nhiều hơn đấy!
Arthur đành lòng cầm tay người vợ chưa cưới và quỳ xuống bên giường cô. Dù thế nào đi nữa thì trông cô vẫn rất xinh đẹp, những nét dịu dàng trên gương mặt thanh tú của cô thật hài hòa với vẻ đẹp thiên thần của đôi mắt. Hai hàng mi cô từ từ khép lại đưa cô vào giấc ngủ mới. Có đôi lúc, tôi trông thấy lồng ngực cô phồng lên rồi lại từ từ xẹp xuống, nhìn cô thở mà tôi ngỡ là đang nhìn một đứa trẻ bị ốm.
Sự thay đổi bất bình thường mà tôi thấy ở cô trong những giờ trước đó lại bắt đầu xuất hiện: nhịp thở khó nhọc với những hơi thở bị ngắt đoạn, mồm miệng há hốc ra để trơ hai hàng lợi trắng nhợt cùng hai hàm răng dài và nhọn.
Cô mở mắt ra trong một trạng thái gần như vô thức, trong ánh mắt ấy là một nỗi buồn vô tận lẫn với sự đau đớn vô vọng, chỉ có giọng nói là vẫn vậy, dịu dàng và chan chứa yêu thương :
- Arthur! - Cô nhắc lại những lời trước đó – Ôi! Tình yêu của em! Em thật hạnh phúc khi lại được thấy anh bên mình? Hãy ôm hôn em đi?
Chỉ đợi có thế, Arthur lập tức lao tới định ôm chầm lấy người vợ chưa cưới, nhưng một lần nữa, tôi và Van Helsing buộc phải cản anh lại. Van Helsing túm chặt hai vai Arthur và đẩy mạnh anh ta lùi lại tới tận gần cuối phòng, quả thực tôi chưa bao giờ nghĩ ông khỏe đến thế.
- Anh bạn tội nghiệp ơi, đừng nên làm như vậy? – Ông khẽ kêu lên - Đừng bao giờ làm như vậy, phải biết thương cô ấy và thương lấy chính mình chứ!
Arthur chỉ còn biết đứng chết lặng tại chỗ, mặt thẫn thờ đau khổ như đang chờ đợi một điều tồi tệ nhất sắp xảy ra. Van Helsing và tôi không đám rời mắt khỏi Lucy lấy một phút. Chúng tôi thấy hình như trên khuôn mặt cô bắt đầu có những biểu hiện đầu tiên giống như những biểu hiện của chứng co giật. Tiếp đó, hai hàm răng nhọn của cô chợt há ngoác ra rồi bất ngờ khợp mạnh vào nhau tạo thành một âm thanh nghe khô khốc và ghê rợn. Tôi có cảm giác như cô vừa cắn một cái gì đó. Rồi đôi mắt cô từ từ khép lại, và cũng như những lần trước, nhịp thở của cô bắt đầu trở nên khó nhọc hơn.
Nhưng chỉ ít phút sau, cô lại mở mắt ra, vẫn ánh mắt dịu dàng trên khuôn mặt đau khổ. Cô khó nhọc đưa bàn tay trắng muốt nhưng gầy guộc nắm lấy bàn tay Van Helsing rồi hôn nhẹ lên đó.
- Người bạn già đáng kính của tôi. - Cô thổn thức nói bằng một giọng yếu ớt và run run như không còn kìm nén được cảm xúc khó tả trong lòng. - Người bạn già tốt bụng của tôi, cũng là người bạn già tốt bụng của anh ấy! Ôi? Hãy chăm sóc anh ấy giúp tôi, và hãy cứ để mặc tôi?
- Xin cô hãy yên tâm, tôi xin hứa với cô như vậy? – Giáo sư vừa nói vừa quỳ xuống bên giường bệnh.
Rồi ông quay sang bảo Arthur :
- Lại đây đi, anh bạn, hãy cầm lấy tay và hôn lên trán cô bé đi, song nhớ là chỉ được một lần thôi đấy nhé!
Đôi vợ chồng chưa cưới lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau thay vì một nụ hôn. Arthur chỉ làm có thế rồi lại lui xa ra.
Đôi mắt cô gái một lần nữa từ từ khép lại. Van Helsing cầm tay Arthur, trong khi mắt ông vẫn không rời khỏi cô gái.
Chúng tôi chợt nghe thấy những tiếng ran thoát ra từ lồng ngực thoi thóp của cô gái và rồi chẳng còn gì nữa, đến một hơi thở nhẹ cũng không!
- Thế là hết, ông lẩm bẩm tất cả đã kết thúc rồi.
Tôi nặng nề dìu Arthur xuống phòng khách, chỉ đợi đến bên chiếc ghế bành, anh đổ vật xuống, hai tay ôm mặt khóc nức nở. Nhìn người anh rung lên trong tiếng nấc nghẹn ngào, tôi không sao cầm lòng được.
Tuy nhiên, tôi vẫn phải lên gặp Van Helsing. Ông đang đứng chết lặng nhìn cô gái xấu số, nét mặt ông đau khổ hơn bao giờ hết. Phải tội, nhìn Lucy, tôi có cảm giác như cái chết phũ phàng đã trả lại cho cô cái vẻ đẹp vốn có: vầng trán, rồi cả hai gò má của cô nữa, lúc này không còn những nếp nhăn nheo, thậm chí cả đôi bờ môi cô cũng đã mất đi cái màu trắng nhợt của xác chết. Dường như khi trái tim cô không còn đập nữa, dòng máu trong người cô đã dồn lại tô hồng cho làn môi để làm mất đi cái vẻ nhợt nhạt đáng sợ của một thây ma. “Vậy là khi cô bé đang ngủ, chúng tôi cứ tưởng là cô đã chết; còn bây giờ, khỉ cô ấy đã chết, chúng tôi lại ngỡ là cô đang ngủ”. - Tôi thầm nghĩ, trong lòng xót xa, cay đắng.
Tôi đến bên Van Helsing và khe khẽ nói như sợ làm cô bé thức dậy :
- Cuối cùng thì cô bé cũng được bình yên! Mọi nỗi đau đối với cô coi như đã chấm dứt.
- Chúa ơi, không đâu? - Ông quay sang nói với tôi, giọng thì thào. - Chúa ơi, không phải như vậy đâu! Những nỗi đau ấy mới chỉ vừa bắt đầu thôi.
Tôi hỏi giáo sư nói gì tôi không hiểu; ông lắc đầu trả lời :
- Bây giờ vẫn còn quá sớm để hành động. Chúng ta hãy cứ đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra!
Chúng tôi quyết định hai ngày nữa sẽ tổ chức tang lễ cho cả Lucy và mẹ cô. Tôi bận lo mọi thủ tục giấy tờ. Các nhân viên nhà tang lễ có vẻ rất phục tùng ông chủ của họ, ngay cả bà già lắm lời chuyên làm công việc tắm rửa cho người quá cố cũng rất nhiệt tình với nhà đám. Khi bước ra khỏi phòng Lucy, bà ta còn tâm tình với tôi bằng một giọng rất nghề nghiệp :
- Ông thấy không, cô bé chết rất đẹp ma, được chăm lo cho cô ấv lúc này quả là một ưu tiên đối với chúng tôi. Nếu có nói cô ấy sẽ mang lại vinh hạnh cho công ty chúng tôi thì cũng chẳng phải là quá lời!
Trong suốt thời gian tôi bận công việc, Van Helsing không hề bước chân ra khỏi cửa. Chúng tôi không ai biết bà con họ hàng của người quá cố. Đã thế, ngày mai, Arthur lại phải về nhà để lo tang lễ cho người cha xấu số, vì vậy tôi và Van Helsing phải đứng ra lo mọi công việc tang gia và kiểm tra lại toàn bộ số giấy tờ có trong nhà. Giáo sư đặc biệt quan tâm đến số giấy tờ của Lucy. Không hiểu tại sao ông lại làm như vậy, bởi vì là một người nước ngoài, chắc gì ông đã hiểu hết các chi tiết của pháp luật hoàng gia Anh và cha biết chừng sự bỡ ngỡ của ông còn khiến chúng tôi rơi vào khó khăn trước các nhà chức trách địa phương nữa ấy chứ.
- Anh đã quên mất rằng - Ông đáp lại sự nghi ngờ của tôi - tôi làm tiến sĩ luật cũng tốt như làm bác sĩ. Mấy hôm trước, anh hoàn toàn đúng khí nói chúng ta cần phải tránh những cuộc điều tra phiền toái không cần thiết! Hơn nữa, vấn đề không chỉ dừng lại ở luật pháp, mà còn mở rộng sang cả khía cạnh khác. Biết đâu chúng ta lại chẳng tìm ra các giấy tờ... Chẳng hạn như...
Vừa nói ông vừa lôi trong sổ tay ra mấy tờ giấy mà Lucy luôn giữ bên mình, đó chính là mấy tờ giấy mà cô đã xé tan tành trong giấc ngủ mê mệt.
- Nếu tìm được viên công chứng nhà bà Westenra, anh cứ điền đầy đủ và gửi cho ông ta toàn bộ số giấy tờ có liên quan đi Về phần mình, tôi sẽ qua đêm ở đây hoặc ở trong căn phòng cũ của Lucy. Tôi định tìm hiểu thêm một vài vấn đề nữa.
Vậy là tôi lại phải tất tả chạy đi hoàn thành phần việc mà giáo sư đã giao cho. Nửa giờ sau tôi mới tìm ra danh tính và địa chỉ của viên công chứng nhà Westenra. Toàn bộ số giấy tờ của người phụ nữ đáng thương đã được chuẩn bị đầy đủ, đặc biệt là ý nguyện về nghi lễ tổ chức đám tang của bà cũng đã được thảo đâu ra đấy. Lúc tôi sắp xếp lại các giấy tờ cũng là lúc giáo sư Van Helsing bước vào phòng. Câu hỏi của ông làm tôi ngạc nhiên :
- Tôi giúp anh được chứ, anh bạn John? Tôi chẳng còn biết làm gì cả. Nếu có việc gì, anh cứ bảo tôi giúp một tay.
- Nhưng giáo sư đã tìm thấy gì mới chưa?
- Chẳng tìm thấy cái gì quan trọng cả. Tôi hy vọng là mình sẽ tìm ra một điều gì đó mới mẻ, nhưng rất cuộc vẫn chỉ là vài lá thư và một đoạn nhật ký. Tôi đã cầm cả dây rồi, nhưng tạm thời cứ để nguyên đấy đã. Chiều tối mai, tôi sẽ gặp anh chàng tội nghiệp ấy và nếu được phép, chúng ta sẽ sử dụng số giấy tờ đó.
- Anh bạn John ạ, - Giáo sư tiếp tục giãi bày sau một thoáng trầm ngâm - có lẽ bây giờ chúng ta có thể đi ngủ được rồi đấy. Tôi và anh cần phải đặt lưng ngủ một chút. Ngày mai sẽ có rất nhiều việc phải làm, còn tối nay, như thế là đủ rồi!
Tuy nhiên, trước khi đi ngủ, chúng tôi vẫn không quên ngó qua căn phòng cô bé Lucy đang yên nghỉ. Căn phòng đã được nhân viên nhà tang lễ biến thành một nhà thờ nhỏ đặt đầy những tràng hoa trắng. Không khí trong phòng có vẻ đỡ nặng nề và lạnh lẽo hơn. Khuôn mặt Lucy được phủ kín. bằng một mảnh vải lanh trắng. Chẳng hiểu sao giáo sư Van Helsing lại nhấc mảnh khăn ấy lên. Chúng tôi không khỏi bất ngờ khi nhìn thấy khuôn mặt người chết rạng rỡ hẳn lên dưới ánh sáng lung linh của những ngọn nến. Trong cái chết, Lucy bỗng trở lại với vẻ đẹp nguyên sơ từng có trước cái ngày cô lâm vào căn bệnh khó hiểu. Hàng giờ trôi qua kể từ khi cô trút hơi thở cuối cùng dường như chỉ càng làm cho cô trở về với vẻ đẹp của những ngày cô còn sống. Trông cô đẹp đến nỗi tôi không khỏi nghi ngờ là mình đang đứng trước một kẻ đã chết.
Trông giáo sư có vẻ suy nghĩ ngợi nghiêm trọng lắm. Ông không yêu cô gái như tôi đã từng yêu, và khóe mắt ông cũng chẳng ngấn đầy những giọt lệ như tôi.
- Cứ đợi tôi ở đây, - Ông bảo tôi - đừng có ra khỏi phòng đấy nghe chưa.
Lát sau, ông trở lại với một mớ hoa tỏi trên tay. Đó là những nhánh hoa tỏi ông đã cất vào trong một cái hòm sắt đặt ngoài hành lang. Ông khẽ cắm kèm từng bông vào giữa những bông hoa trắng đặt khắp phòng, nhất là ở xung quanh giường nằm của Lucy. Rồi ông nhấc cây thánh giá nhỏ bằng vàng nằm lấp dưới cổ áo cô đặt lên môi cô và nhẹ nhàng che lại tấm khăn trên mặt cô. Chúng tôi lặng lẽ bước ra ngoài.
Về phòng, tôi chưa kịp thay quần áo thì đã thấy Van Helsing đập cửa bước vào, ông bảo tôi :
- Chiều tối mai, tôi muốn anh mang cho mượn mấy dụng cụ mổ xác.
- Cái gì? Chúng ta phải mổ xác sao?
- Đúng và cũng không hẳn là như vậy. Đúng là tôi định làm phẫu thuật, nhưng không phải theo cách mà anh vẫn nghĩ đâu. Cứ để tôi giải thích, chỉ có điều anh phải tuyệt đối giữ bí mật, anh hiểu ý tôi rồi chứ? Tôi e rằng có lẽ chúng ta phải cắt đầu và thậm chí phải lấy trái tim cô ấy ra đấy. Sao? Anh không bị sốc đấy chứ, nhà phẫu thuật trẻ? Tôi đã chẳng thấy anh mấy lần phẫu thuật tim cho các bệnh nhân trong tình trạng chỉ mành treo chuông đó là gì? Phải can đảm lên, anh bạn John ạ? À, phải rồi! Thứ lỗi cho tôi nhé? Lẽ ra tôi không được quên là anh cũng yêu cô bé! Vậy thì tự tay tôi sẽ làm phẫu thuật, và anh chỉ phải hỗ trợ cho tôi thôi. Tôi định làm ngay tối nay, nhưng rõ ràng là không thể dược, bởi vì Athur vẫn còn có mặt ở đây. Tất nhiên là ngày mai, khi chôn cất cho cha xong, thế nào anh ta cũng sẽ quay trở lại để được thấy người yêu mình một lẩn nữa. Nhưng khi quan tài đã được đóng nắp và đợi mọi người đi ngủ cả rồi, tôi và anh sẽ quay lại mở mở quan tài để tiến hành phẫu thuật. Sau đó, chúng ta sẽ làm lại như cũ, miễn là đừng để ai nhìn thấy.
- Nhưng xin hỏi thật, chúng ta phẫu thuật để làm gì chứ? Cô bé tội nghiệp đã chết rồi, tại sao lại phải mổ xác một cách vô cớ như vậy? Có phẫu thuật cũng chỉ là vô ích nếu như nó chẳng mang lại một điều gì thiết thực cho người đã khuất, cho chúng ta, cho khoa học hay thậm chí là cho tri thức của loài người. Vậy thì mổ xẻ để giải quyết vấn đề gì kia chứ? Làm thế thì nhẫn tâm quá!
Giáo sư khẽ vỗ vai tôi và trả lời bằng một giọng chỉ vừa đủ nghe :
- Anh bạn thân mến ạ, tôi rất hiểu nỗi phiền muộn trong lòng anh và cũng rất thông cảm với anh. Tôi biết làm vậy sẽ khiến nỗi đau của anh càng sâu sắc thêm gấp bội phần. Tôi cũng đau lắm chứ. Nhưng còn nhiều điều anh chưa biết đâu, rồi anh sẽ sớm nhận ra những gì tôi chưa muốn nói, cho dù đó toàn là những đlều chẳng vui vẻ gì. John ạ, đã nhiều năm trôi qua kể từ khi anh trở thành một người bạn thân thiết của tôi, vậy đã bao giờ anh thấy tôi làm bừa một việc gì đó mà không có mục đích thiết thực chưa? Tôi có thể nhầm lẫn, bởi nói cho cùng tôi cũng chỉ là một con người, nhưng tôi luôn tin ở những gì mình làm. Chẳng phải vì thế mà anh đã mời tôi đến đây đó ? Phải chứ! Và cũng chẳng phải là anh đã không ngạc nhiên hay nói đúng hơn là anh đã không bị sốc khi thấy tôi ngăn cản Athur ôm hôn người vợ chưa cưới của anh ta khi cô ấy sắp chết và lôi xềnh xệch anh ta ra xa cái giường đó ư? Phải! Nhưng anh cũng đã được thấy cô bé cám ơn tôi bằng một giọng nói yếu ớt và bằng cả đôi mắt tuyệt đẹp sắp vĩnh viễn khép lại, trong khi đôi môi cứ hôn mãi lên bàn tay già nua của tôi rồi phải không? Phải! Không phải là anh đã nghe thấy tôi thề sẽ làm theo đúng với những gì cô yêu cầu đó ư? Phải! Bởi thế nên bây giờ tôi đã có đủ lý do chính đáng để làm theo những gì tôi muốn. Vả lại, anh đã tỏ ra rất tin tưởng ở tôi trong ngần ấy năm rồi kia mà, anh cũng rất tin ở tôi trong suất những tuần đầy những chuyện kỳ quái vừa qua. Hãy tin tôi thêm một thời gian nữa đi, anh bạn John thân mến ạ. Nếu anh không chịu, tôi buộc phải nói ra tất cả những nghi ngờ của mình ngay bây giờ, chỉ có điều đó toàn là những lời anh không muốn thôi. Hơn nữa, nếu bắt tay vào việc mà không có sự tin tưởng trọn vẹn của anh bạn, xin lưu ý là dù anh có tin hay không thì tôi vẫn phải kiểm nghiệm xem mình đúng hay sai chắc chắn tôi sẽ phải tiến hành công việc trong một tâm trạng nặng nề và không thể tránh khỏi cảm giác đơn độc. Bởi vậy, tôi rất cần sự sự giúp đỡ tận tình và lòng can đảm của anh!
Ồng trầm ngâm một lát rồi nói tiếp :
- Hãy tin ở tôi đi, anh bạn John ạ, những ngày khủng khiếp nhất vẫn đang chờ đợi chúng ta đấy. Điều tôi cầu mong bây giờ là sao cho trong hai chúng ta, dù thế nào cũng chỉ cần một người thôi là đủ để thực hiện suôn sẻ những gì cần phải làm.
Tôi lặng lẽ nắm chặt tay ông như muốn hứa mình sẽ đặt trọn vẹn niềm tin ở ông giống như những ngày đã qua.
Tôi mở cửa tiễn ông về và đứng nhìn theo mãi cho tới khi bóng ông khuất hẳn vào căn phòng ông sẽ ngủ. Mải nghĩ, tôi bỗng giật thót người khi nhận ra một nàng hầu lùi lũi đi qua chiếu nghỉ cầu thang bước vào căn phòng Lucy. Cái bóng câm lặng của người đầy tớ làm tôi xúc động thực sự. Cô đã dũng cảm vượt qua tất cả nỗi sợ hãi, sự lạnh lẽo đến ghê người mà một thây ma có thể gây ra cho người đang sống, để chăm nom chiếc quan tài mà cô chủ nhỏ đang yên nghỉ, để cái xác tội nghiệp kia không phải chịu cảnh cô đơn trước khi đi về nơi vĩnh hằng...
* * * * *
Hẳn là tôi đã ngủ rất lâu và say lắm, vì khi Van Helsing vào phòng gọi tôi dậy thì ngoài trời đã sáng lắm rồi. Giáo sư bước lại giường bảo tôi, giọng chán nản :
- Đừng mang dụng cụ mổ đến nữa. Tôi không muốn làm nữa đâu.
- Sao vậy? - Tôi sửng sốt trước sự thay đổi bất ngờ của ông.
- Bởi vì, - như thường lệ, giọng ông vẫn rất nghiêm trọng sau hàng loạt sự kiện khó hiểu những ngày qua - bởi vì đã quá muộn... hoặc là vẫn còn quá sớm!
- Anh hãy nhìn đi? - Vừa nói ông vừa giơ cây thánh giá nhỏ bằng vàng cho tôi xem. - Đêm qua đã có kẻ lẻn vào lấy trộm nó.
- Sao lại lấy trộm... được. Nó vẫn đang sờ sờ trên tay ngài đó thôi?
- Tôi đã giành lại cây thánh giá này từ tay một kẻ bất hạnh, một người đàn bà lấy trộm của cả người sống và người đã chết. Chắc chắn cô ta sẽ bị trừng phạt, nhưng tôi sẽ không dính dáng gì đến chuyện ấy. Cô ta không biết mình đã làm gì, cô ta chỉ là thủ phạm của một vụ trộm. Đơn giản thế thôi?
Dứt lời, ông lẳng lặng bỏ ra ngoài. Nhiều chuyện quá? Tôi biết mình có cố tìm cách làm sáng tỏ bí ẩn mới này cũng vô ích.
Buổi sáng hôm nay sao mà sầu thảm và lê thê đến thế! Tuy nhiên, vào buổi trưa, viên công chứng cũng đã có mặt: đó là Marquand, một người đàn ông trông rất tử tế của văn phòng luật sư Wholeman. Ông cảm ơn chúng tôi về tất cả những việc chúng tôi đã làm. Toàn bộ những thủ tục cuối cùng và các chi tiết nhỏ nhặt nhất sẽ được ông hoàn tất nốt theo đúng tư cách pháp nhân của mình.
Vào giờ ăn trưa, ông nhắc chúng tôi rằng trước khi chết, bà Westenra đã định đặt đâu ra đấy toàn bộ công việc của gia đình, ông cũng thông báo cho chúng _tôi biết vì không trao được quyền sở hữu cho người cha của Lucy, và vì không tìm được người con cháu trực hệ nào của gia đình, nên toàn bộ số của cải, bất động sản của bà sẽ được dành cho Athur Holmwood. Viên công chức cố giải thích thêm :
- Thực ra mà nói, chúng tôi đã cố ngăn cản thân chủ của mình đưa ra các điều khoản chúc thư như vậy. Chúng tôi đã lưu ý với bà Westenra rằng có thể sẽ xảy ra những chuyện không thể lường được khiến cho cô con gái bà rơi vào tình trạng không một đồng xu dính túi, hoặc sẽ cản trở quyền quyết định của nó vào cái ngày tổ chức đám cưới. Mọi việc giữa chúng tôi và thân chủ bỗng trở nên tồi tệ đến nỗi bà đã nổi cáu mà hỏi chúng tôi cố định quan tâm đến việc thực hiện các ý nguyện cuối cùng của bà hay không. Rõ ràng chúng tôi chẳng còn lựa chọn nào khác hơn là im lặng chấp nhận. Nhưng về nguyên tắc mà nói thì chúng tôi vẫn có lý đến chín mươi chín phần trăm, bởi theo lôgích của các sự kiện, chúng tôi có thể chứng minh được lời tư vấn của mình. Tuy nhiên, tôi cũng phải thừa nhận rằng trong trường hợp cá biệt này, mọi hình thức chúc thư khác đều không thể thực hiện được các ý nguyện của bà. Bởi vì theo lôgích, bà sẽ phải ra đi trước cô con gái và cô con gái sẽ được thừa hưởng toàn bộ của cải và bất động sản. Ấy vậy mà cô gái chỉ sống lâu hơn bà mẹ được chốc lát và chẳng thấy để lại một di chúc nào, việc kiểm tra cho thấy rõ điều này nên có thể coi đây là trường hợp một người chết không lập di chúc. Như vậy, huân tước Godaiming, mặc dù là một người bạn rất thân thiết và đồng thời cũng là người chồng chưa cưới của cô gái trẻ, sẽ tuyệt đối không có một quyền lợi gì. Có lẽ những người thừa kế, dù là những người đang ở xa xôi, cũng sẽ không chịu nhường cho một người xa lạ vì những lý do tình cảm. Họ là những người trở về hợp pháp. Các ngài cứ tin ở tôi, đây là một lập luận khiến tôi hài lòng thực sự.
Marquand hẳn phải là một công chứng viên xuất sắc, nhưng không hiểu sao ông lại thấy vui trước những chi tiết ấy - những chi tiết mà nghề nghiệp luôn buộc ông phải chú ý khi kẻ bất hạnh đang đứng trước một thảm kịch. Đây quả là một ví dụ cứng nhắc và thiếu sự cảm thông mà chúng ta vẫn thường gặp ở một số người.
Viên công chức chỉ nán lại với chúng tôi một lúc rồi ra về với lời hẹn sẽ quay trở lại vào buổi chiều để gặp huân tước Godalming. Dù sao thì sự có mặt của ông cũng ít nhiều an ủi được chúng tôi, vì ông đã mang lại cho chúng tôi một cảm giác yên tâm về những gì mình đã làm kể từ khi bà Westenra và cô Lucy qua đời.
Chúng tôi đợi Athur đến năm giờ chiều. Trước đó một chút, chúng tôi còn ở trong nhà tang. Tôi gọi vậy là vì bây giờ cả hai mẹ cơn bà Westenra đều an nghỉ trong đó. Nhân viên nhà đòn hôm nay có vẻ nhiệt thành hơn thường lệ. Khung cảnh sầu bi trong căn phòng nhỏ khiến chúng tôi ngập chìm vào một cảm giác tê tái không chịu nổi. Van Helsing yêu cầu nhân viên nhà đòn phải đặt mọi thứ trong phòng trở lại nguyên trạng trước đó. Ông nói huân tước Godalming sắp đến nên việc được thấy duy nhất người vợ chưa cưới của mình ở đây sẽ làm anh ta đỡ đau đớn hơn.
Tay nhân viên nhà tang lễ vờ làm ra vẻ ân hận với hành động ngớ ngẩn của mình rồi bắt tay ngay vào công việc theo yêu cầu của vị giáo sư. Khi Athur có mặt, căn phòng đã được trả lại nguyên trạng như tối hôm qua chúng tôi đã làm trước khi đi ngủ.
Thật tội nghiệp cho Athur! Trong tâm trạng tuyệt vọng tột độ vì những nỗi đau nối tiếp nhau, dường như anh ta không còn là chính mình nữa. Tôi hiểu anh rất yêu cha mình. Việc mất cha đối với anh vào lúc này chẳng khác nào một cú đòn trời đánh. Anh đã chứng tỏ cho tôi thấy thế nào là tình bạn và đối với Van Helsing. Anh luôn thể hiện mình là một người lễ phép và mạnh mẽ, nhưng tôi thấy dường như nỗi đau đã biến anh thành một người gần như mất hết sự tự chủ. Chắc chắn giáo sư cũng có chung một cảm giác như tôi, bởi ông vừa khoát tay ra hiệu cho tôi cùng vào với chàng trai khốn khổ. Tôi không định nghe lời giáo sư vì nghĩ rằng có lẽ lúc này Athur chỉ muốn vào một mình với cô vợ chưa cưới Lucy. Nhưng khi thấy tôi định bước ra khỏi cửa, anh đã vội túm tay tôi kéo vào.
- Cậu cũng yêu cô ấy, anh bạn ạ. - Anh nghẹn ngào nói. - Cô ấy đã kể cho tôi nghe tất cả, trong đám bạn bè, cô ấy chẳng có ai thân thiết hơn cậu. Tôi thật chẳng biết làm gì để tạ ơn cậu vì những gì cậu đã làm cho cô ấy. Cả bây giờ nữa, tôi cũng không thể...
Athur bỗng bật khóc với những tiếng nấc không ngớt, anh ôm choàng lấy bờ vai tôi mà thổn thức :
- Trời ơi? Jack ơi, Jack? Rồi tôi sẽ ra sao đây? Thế là mất tất cả rồi, tôi còn biết sống trên đời làm gì nữa.
Dù biết mọi lời nói trong lúc này đều là vô ích, nhưng tôi vẫn cố lựa lời an ủi anh. Một tay nắm chặt lấy bàn tay, một tay đặt lên bờ vai run run của một nỗi lòng tan nát, một tiếng nấc không thể cầm lòng hòa cùng những tiếng nấc ai oán, đó là tất cả những gì trái tim đã bảo tôi phải làm để chia sẻ và vỗ về người bạn đau khổ. Đợi những tiếng nấc trong anh thưa dần, tôi mới dám khẽ nhắc :
- Nào, ta vào thăm cô ấy đi!
Chúng tôi lại gần giường người quá cố và khẽ lật tấm khăn phủ mặt sang một bên. Chúa ơi, sao mà cô đẹp đến thế! Dường như mỗi giờ đồng hồ trôi qua là một lần cơ trở nên xinh đẹp hơn trước. Điều đó không chỉ làm tôi ngạc nhiên mà còn làm tôi thấy sợ nữa. Về phần Athur, tôi thấy dường như sự ngờ vực, nỗi phiền muộn đã làm anh điên đảo, người anh bắt đầu run lên bần bật như một kẻ bị sốt rét. Cuối cùng, sau một hồi im lặng, anh ghé vào tai tôi hỏi nhỏ :
- Jack, có đúng là cô ấy đã chết rồi không?
Tôi buộc phải khẳng định với anh về sự bất hạnh của cô bé, bởi tôi biết cảm giác nghi ngờ của anh dù thế nào cũng chỉ có thể kéo dài trong giây lát. Tôi giải thích để anh hiểu rằng thông thường, con người ta sau khi chết, các nét trên khuôn mặt sẽ mang một sắc thái vừa dịu hiền vừa phảng phất một diện mạo gợi lại thời trẻ trung, và điều này càng được thể hiện rõ hơn đối với những người phải trải qua những đau đớn tột độ kéo dài trước khi chết. Có vẻ như cách lý giải của tôi đã thuyết phục được anh. Sau một hồi lâu quỳ gối bên giường ngây người ngắm nhìn người vợ chưa cưới, anh định đứng dậy bước ra ngoài. Tôi phải nói với anh rằng đã đến lúc nói lời vĩnh biệt cô bé, vì người ta sắp sửa đặt cô vào quan tài. Nghe vậy, anh thổn thức quay lại nắm chặt bàn tay bé nhỏ của người yêu đặt lên môi và cay đắng cúi xuống hôn lên trán cô. Cố gắng lắm anh mới lê được đôi chân ra khỏi phòng, nhưng đầu vẫn ngoái lại nhìn hình hài thân thương của cô gái một lần cuối, cho tới khi bóng cô khuất khỏi tầm mắt.
Tôi dìu anh về nghỉ ở phòng khách rồi vội vàng đi tìm gặp Van Helsing khi ông đang kêu đám nhân viên nhà đòn chuẩn bị nhập áo cho những người xấu số.
Tôi kể lại cho giáo sư nghe chuyện Athur đã thắc mắc như thế nào về diện mạo của người vợ chưa cưới của anh.
- Điều đó chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào cả. - Ông nói với tôi. - Chính tôi cũng đã có lúc không tin ở mắt mình nữa là?
Trong bữa tối, tôi để ý thấy Athur đã rất cố gắng giấu đi nỗi đau xé lòng của mình. Van Helsing chỉ ngồi im, mãi tới khi chúng tôi ngồi châm thuốc, ông mới lên tiếng với Athur :
- Thưa huân tước...
- Không, đừng gọi tôi như thế, lạy Chúa! - Athur ngắt lời - Dù thế nào cũng đừng gọi tôi như thế! Xin lỗi, thưa ngài, tôi không định làm ngài phật ý. Nhưng xin hãy hiểu và tin ở tôi, đám tang nhà tôi chỉ vừa mới...
Van Helsing đáp lại bằng một giọng chùng hẳn xuống :
- Tôi gọi vậy chẳng qua là vì không biết nên xưng hô như thế nào với cậu cho phải... Thực ra tôi đâu có thích gọi cậu là “ngài”, bởi vì cho tới lúc này, tôi đã rất, rất mến mộ cậu, chàng trai ạ. Đối với tôi, cậu luôn là Athur.
Athur kính cẩn đưa tay về phía người bác sĩ già :
- Xin ngài cứ đặt cho tôi một cái tên tùy thích, nhưng dù là tên gì thì tôi cũng hy vọng ngài luôn coi tôi như một người bạn. Thú thực đã nhiều lần tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với ngài nhưng vẫn không biết giãi bày ra sao. Ngài đã hết lòng vì người thân của tôi! - Athur im lặng một lát rồi tiếp tục - Tôi biết cô ấy sẽ hiểu tấm lòng của ngài hơn tôi, nếu như lúc này tôi không biết cách xử sự cho phải phép thì... Xin ngài thứ lỗi cho.
Câu trả lời của Van Helsing một lần nứa chứng tỏ sự cảm thông thực sự của ông.
- Tôi biết - Giọng ông đều đều và chậm rãi - rất khó để anh hiểu và tin tưởng hoàn toàn ở tôi, bởi để tin tưởng ở nhau, trước hết người ta phải hiểu nhau. Tôi cho là cậu đã không... hoặc đúng hơn là chưa tin ở tôi, vì cậu chưa hiểu tôi. Tuy nhiên, vẫn còn những tình cảnh tôi rất cần lòng tin của cậu, nhưng cậu lại không hiểu hoặc chưa thể hiểu nổi! Song thời gian cứ thế trôi qua, cuối cùng thì cậu cũng sẽ tin tưởng hoàn toàn ở tôi, khi mà cậu đã hiểu mọi điều rõ như ban ngày. Vậy thì thế nào cậu cũng sẽ cầu chúc cho tôi về những hành động mà tôi đã làm vì lợi ích của cậu, của người khác và của đứa con khốn khổ mà tôi đã thề là sẽ hết sức bảo vệ tới cùng.
- Cớ chứ, có chứ, - Athur đáp lời - tôi sẽ hoàn toàn phó thác cho ngài. Tôi biết ngài đang mang trong mình một trái tim hào hiệp, và ngài là bạn của Jack cũng như ngài và Jack là bạn của cô ấy. Ngài sẽ hành động theo đúng bổn phận mà ngài tin là của ngài.
Sau một hồi nghĩ ngợi, Van Helsing trầm ngâm nói tiếp :
- Tôi có thể hỏi cậu một câu được không?
- Tất nhiên là được.
- Cậu có biết là bà Westenra đã để lại cho cậu toàn bộ số tài sản mà bà ấy có không?
- Không. Tội nghiệp bà! Không... Tôi chẳng bao giờ nghĩ tới điều đó.
- Bây giờ toàn bộ số tài sản đó đã thuộc về cậu nên cậu có quyền sử dụng tùy ý.Tôi định xin phép cậu cho đọc tất cả các loại giấy tờ và thư từ của Lucy. Đừng nghi ngờ gì nhé, không phải là do tôi tò mò đâu. Tôi làm vậy cũng vì một lý do mà tôi biết là cô ấy sẽ đồng ý. Tôi đã tìm được số giấy tờ và thư từ. Hiện tại, tôi đang cầm tất cả trước khi trả lại cho cậu như một phần còn lại của cô ấy. Tôi sẽ đọc tất cả nếu cậu cho phép và nếu cậu chưa được nhìn thấy những kỷ vật ấy, như thế sẽ tốt hơn vào lúc này - tôi sẽ cất giữ chúng vào một nơi chắc chắn. Tôi đảm bảo sẽ không để mất bất cứ một mẩu giấy nào của cô ấy. Đến một lúc thích hợp, tôi sẽ hoàn trả lại cậu tất cả. Có lẽ tôi đòi hỏi hơi nhiều, nhưng tôi biết là vì tình yêu đối với Lucy, thế nào cậu cũng sẽ đồng ý, đúng không anh bạn?
Chẳng cần nghĩ ngợi nhiều, Athur trả lời ngay bằng một giọng thẳng thắn và thành thực đúng với những gì tôi bíết ở anh :
- Thưa bác sĩ Van Helsing, ngài cứ việc làm như ngài mong muốn. Tôi biết rằng nếu còn ở đây, thế nào Lucy cũng sẽ chứng giám cho những gì tôi nói. Tôi sẽ không đặt ra bất cứ một câu hỏi nào cho tới khi tự ngài thấy đã đến lúc phải đưa ra lời giải thích về việc làm của mình.
- Cậu nói đúng lắm. - Giáo sư bật dậy nói bằng một giọng thật nghiêm trọng.
- Tất cả chúng ta đều còn rất nhiều việc phải làm và cũng có không ít điều phải bận tâm, nhưng không chỉ có những điều phải bận tâm, mà đằng sau đó chúng ta còn phải tìm hiểu thêm không ít vấn đề khác nữa.
- Bác sĩ Seward và tôi, và cậu nữa, Athur ạ, - cậu chứ không phải ai khác - cả ba chúng ta sẽ phải vượt qua những giờ phút chua xót trước khi trở lại với cuộc sống bình yên. Phải can đảm lên mới được, dừng nghĩ tới bản thân mà phải nghĩ tới bổn phận trước tiên, có như vậy mới thành công được!
Đêm hôm đó, tôi ngủ trên trường kỷ trong phòng Athur.
Van Helsing không ngả lưng chút nào. Ông cứ đi qua đi lại như định đi tuần trong nhà, nhưng không lúc nào bỏ xa căn phòng đặt quan tài của Lucy. Không giống với mùi hương lý hay mùi hoa hồng, những bông hoa tỏi cài rải rác trong căn phòng luôn tỏa ra màn đêm một mùi hăng hắc.
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 22 tháng 9
Tôi ngồi viết trên đoàn tàu dẫn chúng tôi tới Exeter. Jonathan đang chìm trong giấc ngủ.
Tôi thấy dường như mình chỉ mới viết những dòng nhật ký này từ hôm qua, ấy vậy mà không biết bao nhiêu điều đã xảy ra từ khi chúng tôi ở Whitby để thực hiện những dự định cho tương lai, trong lúc Jonathan đang lang thang nơi đất khách quê người và tôi thì lúc nào cũng mong ngóng tin anh. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thế mà bây giờ tôi đã làm đám cưới với Jonathan, một công chứng viên, một chủ nhân ông của một văn phòng luật sư của chính mình. Ngài Hawkins đã được chôn cất chu đáo, còn Jonathan lại vừa trải qua một cơn bệnh biến mới khiến tôi không khỏi lo về những hậu quả không mấy tất đẹp có thể xảy ra sau này, Có thể sẽ có một ngày, anh hỏi tôi về những chuyện đã qua trong lúc anh không ý thức được... Tôi chợt nhận thấy kỹ năng viết tốc ký của mình bị thui chột hẳn, có lẽ thỉnh thoảng tôi phải tranh thủ luyện tập lại mới được...
Đám tang được tổ chức giản dị nhưng cũng thật xúc động. Chỉ có hai chúng tôi, mấy gia nhân và hai, ba ông bạn già từ Exeter đến, một nhân viên người Luân Đôn và một quý ông nữa tự giới thiệu là John Paxton, chủ tịch một công ty luật tổng hợp. Tôi và Jonathan nắm chặt tay nhau, trong lòng cảm thấy trống vắng khi biết chắc rằng người bạn tốt nhất, thân thiết nhất của chúng tôi đã đi xa và chẳng bao giờ trở về...
Để về thành phố, chúng tôi phải đi xe buýt và xuống bến ở Hyde Park. Muốn làm tôi vơi đi nỗi buồn, Jonathan rủ tôi dạo bước trên một lối nhỏ trong công viên, nhưng tôi cũng chẳng đi được nhiều, hai chúng tôi tìm một chỗ ngồi cho đỡ mỏi. Trong công viên ít người quá, tất cả các ghế đã đều trống trơn. Cảnh bụồn nơi đây làm tôi bất giác nghĩ tới chiếc ghế trống không mà chúng tôi sẽ gặp lại khi trở về nhà. Vậy là chúng tôi cũng chẳng ngồi được lâu, tôi đứng dậy kéo Jonathan đi về phía Piccadilly. Jonathan khoác tay tôi như anh vẫn thường làm ngày xưa, hồi anh còn đưa tôi đến trường. Thú thực, tự nhiên tôi cảm thấy cử chỉ ấy của anh lúc này đã làm tôi thấy không tiện lắm. Nhưng bây giờ Jonathan đã là chồng tôi, vả lại chúng tôi cũng chẳng biết một ai trong số những người đi đường kia, mà kể cả một vài người trong số họ có nhận ra chúng tôi thì cũng chẳng có gì quan trọng cả. Chúng tôi vẫn tiếp tục dạo bộ thẳng về phía trước... Tôi chợt để ý đến một cô gái trẻ rất đẹp, đầu đội một chiếc mũ rộng vành đang ngồi trong một chiếc xe mất Victoria đỗ trước nhà Guillano. Nhưng Jonathan đã làm tôi giật mình bởi anh bỗng dưng xiết chặt tay tôi khiến tôi đau điếng. Tôi chợt thấy lo khi anh ghé vào tai tôi nói bằng một giọng như nghẹt thở: “Lạy Chúa tôi!” Đã bao ngày xui xẻo trôi qua khiến tôi không thể không lo lắng khi nghĩ về anh, vì lúc nào tôi cũng sợ anh lại rơi vào một cơn bệnh biến mới khiến hệ thần kinh của anh không còn giữ nổi thăng bằng. Tôi quay ngoắt sang hỏi xem đã xảy ra chuyện gì.
Không hiểu sao mặt mũi anh bỗng tái xanh như không còn một hột máu, hai mắt như lồi hẳn ra với những tia máu long sòng sọc. Hình như anh đang để ý tới một người đàn ông cao lớn, gầy nhẳng, có cái mũi khoằm như mũi diều hâu, bộ ria mép đen xì và bộ râu dài nhọn hoắt phía trước mặt. Và người đàn ông đó cũng đang nhìn chòng chọc vào cô giả trẻ thì phải. Gã mải nhìn cô gái đến nỗi chẳng còn để ý đến ai xung quanh, vì vậy tôi có thể thoải mái quan sát gã. Bộ mặt gã đúng là chẳng nói lên một điều gì tốt lành. Trông nó cứng nhắc, cục cằn và ẩn chứa đầy nhục dục, sợ nhất là hai hàm răng trắng ởn và to như răng ngựa của gã. Giữa cặp môi đỏ như ớt, hai hàm răng ấy trông cỏ vẻ nhọn như răng của một con thú vật. Jonathan vẫn ngây dại nhìn về phía gã đàn ông lạ mặt. Tự nhiên tôi cảm thấy sợ gã, vì quả thực gã có một vẻ gì đó rất đáng ngờ. Khi tôi hỏi tại sao lại đờ đẫn người ra như vậy, Jonathan đã hỏi lại cứ như tôi cũng biết mọi chuyện từ lâu rồi :
- Em biết ông ta chứ?
- Không, làm sao mà em biết được! Ai thế?
Câu trả lời của anh làm tôi thực sự bị sốc. Nghe giọng anh nói, tôi có cảm giác anh không còn biết tôi là ai nữa :
- Đúng là lão rồi... Đúng là lão!
Rõ ràng là người chồng thân yêu của tôi đang sợ hãi, chính xác hơn là quá khiếp sợ một điều gì đó. Tôi tin rằng nếu không tựa vào tôi, chắc chắn là anh sẽ ngã khuỵu xuống đất mất. Anh như đang bị thôi miên bởi một gã đàn ông hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Chợt có một người đàn ông bước ra khỏi một cửa hàng đi về phía cô gái trẻ và đưa cho cô một bọc gì đó. Gã lạ mặt kia vẫn nhìn chòng chọc vào cô gái. Khi chiếc xe chuyển bánh đi ngược về phía Piceadilly, gã vội vàng gọi ngay một chiếc xe cáp chạy đuổi theo. Jonathan vẫn ngây dại nhìn theo, một lúc sau anh mới lẩm bẩm như nói với chính mình :
- Đúng rồi, mình tin chắc đó chính là lão bá tước, nhưng trông lão có vẻ trẻ ra thì phải? Lạy Chúa tôi? Nếu đó là lão...
- Ôi? Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa tôi! Giá như mình biết, giá như...
Tôi phải kìm nén lắm mới không đặt ra một câu hỏi nào, vì tôi sợ nếu làm khác đi, tôi sẽ gợi nhắc những ý nghĩ nào đó khiến anh lại vật vã như bị tra tấn. Vậy là tôi phải giữ im lặng và kéo anh tiếp tục dạo bộ về phía một vườn cây mang tên Khuôn viên Xanh. Trời thu hôm nay sao mà nóng bức thế không biết, chúng tôi phải tìm một chiếc ghế đá nằm dưới một lùm cây um tùm để ngồi nghỉ. Jonathan thẫn thờ nhìn vào nơi xa xăm như một kẻ mất hồn, nhưng anh chỉ ngồi được một lát rồi gục đầu vào vai tôi, hai mắt nhắm nghiền, anh đang đi vào một giấc ngủ ngon lành. Tôi chợt thấy vui khi thấy anh ngủ. Rõ ràng anh không còn bị những cơn bệnh hành hạ như trước nữa. Khoảng hai mươi phút sau, anh bừng tỉnh và nói với tôi bằng một giọng rất vui :
- Mina! Thế là anh cũng đã ngủ được một giấc. Ôi! Xin lỗi nhé, em yêu... Nào, chúng ta tìm một chỗ nào đó uống trà đi.
Tôi hiểu anh đã quên hẳn cuộc gặp của hai chúng tôi với gã đàn ông xa lạ vừa rồi, và trong trạng thái bệnh lý của mình, anh cũng quên tất cả những hồi ức nào đó mà cuộc gặp ấy đã gợi lại trong anh. Nhưng dù vậy, tôi vẫn không dám hỏi một câu nào, vì tôi biết chắc có làm thế cũng chỉ tổ gây ra những hậu quả tai hại khó lường hơn là một kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, dù thế nào thì tôi cũng phải biết cho bằng được cuộc hành trình ra nước ngoài vừa rồi của anh. Có lẽ đã đến lúc tôi phải cởi dãy băng xanh buộc cuốn sổ tay của anh ra rồi. Ôi, Jonathan, hãy tha lỗi cho em! Em luôn hiểu những gì mình làm, em sẽ phải đọc những gì anh viết trong cuốn sổ ấy. Nếu em có làm vậy thì cũng chỉ vì anh thôi.
* * * * *
Một lúc sau
Một chuyến trở về nhà buồn thảm không chỉ vì một lý do. Quả là nhiều chuyện quát Jonathan trông vẫn xanh xao như một người bệnh thật sự. Chưa hết, còn một bức điện của một ông Van Helsing nào đó đang chờ đợi chúng tôi :
“Tôi rất lấy làm tiếc khi báo cho ông bà biết về cái chết bất ngờ của bà Westenra cách đây năm hôm và cái chết của cô con gái Lucy xảy ra vào ngày hôm kia. Cả hai đều đã được chôn cất chu đáo vào ngày hôm nay.”
Trời ơi? Sao chỉ có mấy dòng thôi mà hàm chứa nhiều nỗi buồn như vậy? Tội nghiệp bà Westenra? Tội nghiệp Lucy! Thế là họ đã ra đi, đã mãi ra đi rồi Thật tội nghiệp, tội nghiệp cho Athur, cuộc sống với anh bây giờ chẳng khác nào một sự tồn tạ cơ cực và buồn tẻ! Cầu Chúa hãy giúp chúng con vượt qua nỗi đau này?
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 22 tháng 9
Mọi việc vậy là xong. Athur lại trở về Ring cùng với Quincey Morris. Kể ra Quincey cũng là một chàng trai thật đáng mến. Cậu ta cũng đau đớn về cái chết của Lucy như bất cứ ai trong chúng tôi, song cậu ta lại rất biết cách giữ vẻ mặt bình thản của mình với lòng can đảm như một tay cướp biển Bắc Âu. Nếu tiếp tục sản sinh ra những người đàn ông như cậu ta thì chẳng bao lâu nữa, nước Mỹ sẽ trở thành một cường quốc trên thế giới. Về phần mình, Van Helsing đã chịu nghỉ ngơi một chút trước khi lên đường về nước. Ông phải trở về Amsterdam để giải quyết một số việc riêng. Tuy nhiên, chiều tối mai ông cũng định tới Luân Đôn và ở lưu lại đó nếu có thể để giải quyết một việc khá mất thời gian. Thú thực tôi vẫn lo sức chịu đựng bền bỉ của ông không còn kéo dài được như trước nữa. Trong tang lễ, tôi để ý thấy ông đã có những biểu hiện hơi không bình thường. Khi công việc kết thúc, chúng tôi lại tập trung xung quanh Athur khi anh đang rất xúc động nói về dòng máu mà anh đã hiến dâng cho Lucy. Tôi thấy sắc mặt Van Helsing hết tái lại chuyển sang đỏ tía. Athur nói kể từ khi cho Lucy dòng máu của mình, anh bỗng có cảm giác cô đã thực sự trở thành vợ anh trước sự chứng giám của Chúa. Tất nhiên, chúng tôi không dại gì nói ra những lần truyền máu khác mà Athur chưa biết, và chắc chắn chẳng bao giờ chúng tôi để lộ ra điều đó. Athur và Quincey cùng dẫn nhau ra ga, Van Helsing và tôi trở lại đây. Chúng tôi vừa bước lên xe thì giáo sư bất ngờ bị động kinh, ý tôi muốn nói là thần kinh của ông bị kích động rất mạnh. Nhưng về sau, ông đã nhất quyết phủ nhận cơn kích động này. Ông giải thích đó chẳng qua chỉ là một cảm giác khôi hài sau những gì tồi tệ đã xảy ra. Ông bật cười, cười ra nước mắt, cười nức nở đến nỗi tôi phải hạ hết vải rèm xung quanh xe xuống để cho người ngoài khỏi thấy ông trong trạng thái không bình thường như vậy, rồi ông bật khóc, khóc thực sự, khóc như một đứa trẻ con. Sau đó tôi lại phải chứng kiến ông cười, cười sằng sặc. Cuối cùng, ông vừa cười lại vừa khóc, khóc tức tưởi như một người đàn bà, nói đúng hơn là như một thằng điên: Tôi ra sức an ủi, vỗ về ông, thậm chí còn nghiêm giọng bảo ông giữ bình tĩnh, nhưng mọi cố gắng của tôi đều vô ích. Đã thế thì cứ để ông điên khùng, bao giờ chán thì thôi. Trong tình huống tương tự như vậy, phụ nữ thường có những phản ứng khác với đàn ông. Cuối cùng, khi nét mặt ông trở lại với cái vẻ nghiêm nghị, hệ trọng vốn có, tôi mới dám hỏi cái gì đã làm ông có thể cười được trong lúc buồn như vậy.
Ông đã trả lời thật lôgích, song cũng khó hiểu như chính con người ông vậy.
- Chà? Anh bạn John ạ, vậy là anh lại không hiểu tôi rồi? Đừng tưởng rằng tôi cười là tôi không buồn đâu nhé. Tôi đã khóc ngay cả khi tôi buộc phải cười sằng sặc? Nhưng cũng đừng tin rằng tôi chỉ bày tỏ nỗi buồn khi tôi khóc... Đừng bao giờ quên tiếng cười tới gõ cửa nhà anh và hỏi: “Tôi có thể vào được chứ?” Không phải là nụ cười thật. Đừng bao giờ! Tiếng cười ấy chính là một ông hoàng, nó đến nhà anh khi thấy nhà anh vui theo cách của nhà anh! Nó chẳng cần phải xin phép ai cả, chỉ có niềm vui là quan trọng đối với nó. Tôi lấy ví dụ thế này, ngày đêm tôi vẫn day dứt về cô gái trẻ dịu hiền ấy, dù đã già và mệt mỏi, song tôi vẫn định hiến máu để cứu sống cô ấy. Tôi vẫn dành thời gian, khoa học và cả giấc ngủ của mình cho cô ấy.
Tôi đã bỏ mặc những bệnh nhân khác của mình để dành tất cả cho cô ấy. Vậy đấy? Thế mà chỉ trong phút chốc, tôi đã cười phá lên ngay trước mộ cô ấy, cười mãi, khiến cho máu mặt tôi bốc lên đỏ gay đỏ gắt. Chưa hết. Trái tim tôi cũng đã thắt lại khi nghĩ đến chàng trai đáng thương ấy - một chàng trai chạc tuổi con trai tôi nếu như tôi có phúc còn giữ được nó; mà sao mắt mũi, tóc tai chúng lại giống nhau đến thế không biết! Bây giờ thì anh đã hiểu tại sao tôi lại quý mến anh chàng ấy đến như vậy rồi chứ? Mặc dù vậy, khi nói với chúng ta về tình cảm vợ chồng chưa một lần được hưởng ấy, anh chàng đã làm tôi động lòng và để lại trong tấm lòng phụ tử của tôi một sức lôi cuốn kỳ lạ mà tôi chưa từng được trải nghiệm đối với các học sinh của mình.
Tất nhiên là cả đối với anh cũng vậy, anh bạn John ạ, bởi vì tất cả những gì chúng ta đã làm và đã sống cùng nhau đều chỉ mang lại cho chúng ta một quan hệ bình đẳng hơn là tình cảm cha con. Tôi xin nhắc lại là mặc dù vậy, Đức ông hoàng cười vẫn đến và hét vào tai tôi: “Ta đây, tạ đã đến đây!”, to đến nỗi tôi cảm thấy có một dòng máu trong người bốc lên ngùn ngụt khiến cho tôi mặt đỏ tía tai như ông mặt trời vậy. Thế đấy, anh bạn ạ, thế giới của chúng ta thật kỳ lạ? Một thế giới buồn tẻ, cơ cực, bất hạnh và luôn đầy những âu lo. Tuy nhiên, khi Đức ông hoàng Cười đến, tất cả lại cùng nhau nhảy nhót trong cái không khí mà ông ta luôn cảm thấy thỏa thích? Những trái tim rỉ máu, những hài cốt nằm trong nghĩa địa, những giọt nước mắt cháy bỏng trên gò má, tất cả bỗng cùng hùa vào nhảy nhót với nhau theo điệu nhạc phát ra từ miệng Đức ông hoàng Cười. Cứ tin tôi đi, anh bạn ạ chúng ta rồi cũng phải biết ơn Đức ông ấy? Bởi vì chúng ta, những người đàn ông và cả những người phụ nữ nữa, đều có thể so sánh với những sợi dây đàn bị căng ở hai đầu, để rồi có những giọt nước mắt nhỏ xuống, giống như những hạt mưa đậu trên từng phím đàn, bỗng làm chúng ta căng cứng lại cho tới một lúc nào đó, cái căng cứng ấy sẽ đạt tới mức thực sự không thể chịu nổi nữa, và thế là chúng ta đứt tung hết cả. Đúng vào lúc xuất hiện cái ranh giới đó, ông hoàng Cười bỗng bất ngờ xuất hiện như một tia nắng mặt trời, làm chùng sợi dây lại, và chúng ta lại có thể tiếp tục công việc của mình bất kể ở hiện trạng nào.
Tôi không định làm giáo sư bị tổn thương khi thú thực với ông rằng tôi chẳng hiểu gì về cái triết lý đó của ông. Mặc dù ông đã giải thích, nhưng quả thực tôi vẫn chưa xác định được lý do gì khiến ông cười sằng sặc lên như vậy. Tôi buộc phải nói thẳng với ông về sự thiếu thông thái của mình.
- Chà chà? - Ông tiếp tục giải thích. - Đó chẳng qua chỉ là một sự trớ trêu bi ai nhất mà thôi! Cô bé dịu dàng ấy nằm yên giữa những bông hoa trắng tinh. Cô đẹp như chính cuộc sống vậy, đẹp đến nỗi hết người này đến người khác trong chúng ta phải tự hỏi không hiểu cô đã chết thật hay chưa. Bây giờ thì cô bé đã ngon giấc ngàn thu dưới nấm mồ đá trong một nghĩa địa xa xôi, nơi những người thân thiết nhất của cô cũng đang an nghỉ. Chúa ơi? Tiếng chuông cầu hồn ấy sao mà mà buồn và thê thảm đến thế! Và cả những vị linh mục nghiêm trang đọc lời cầu nguyện trong bộ đồ trắng... Còn chúng ta, tất cả đều nghiêng mình, cúi đầu... Tại sao lại thế? Chẳng phải là cô ấy đã chết rồi ư?
- Nhưng thưa giáo sư, tôi vẫn chưa thấy gì đáng để cười trong những lời giáo sư vừa nói! Thậm chí tôi thấy lời giải thích của giáo sư càng lúc càng rối rắm hơn là đằng khác. Nếu như việc chôn cất có điều gì buồn cười, chẳng lẽ anh chàng tội nghiệp Athur, một con người đang rơi xuống tột cùng của đau đớn lại...?
- Chính xác! Anh ta chẳng nói dòng máu mà anh ta hiến cho Lucy đã làm cho cô bé trở thành vợ anh ta rồi là gì?
- Đúng là Athur có nghĩ như vậy, nhưng đó là điều sẽ an ủi được anh ta.
- Phải! Nhưng nếu thế sẽ có chuyện không ổn. Bởi nếu chỉ cho máu thôi mà Athur đã cảm thấy Lucy là vợ của mình rồi thì không 1ẽ cô bé cũng là vợ của chúng ta cả hay sao? Ha? Ha? Vậy là Lucy, cô bé dịu hiền Lucy đã có rất nhiều phu quân. Còn tôi, tôi cũng có thể nói là mình mất đi một người vợ đáng thương, nhưng Giáo Hội và thiên đàng vẫn còn cô ấy. Tôi cũng trở thành một người chồng chung thủy của một cô vợ không còn trên trái đất này nữa, tôi là người đã hai vợ!
- Tôi vẫn chưa thấy gì đáng buồn cười cả! - Tôi buộc phải thú nhận sự mông lung của mình một lần nữa, bởi thực ra những lưu ý của ngài vẫn chẳng có gì hay ho.
Ông vỗ vai tôi và tiếp tục những lời giải thích của mình :
- Anh bạn John ạ, xin lỗi nếu có làm anh đau đầu. Tôi đâu có thói quen đem bừa tình cảm của mình dành cho những người khác, vì điều đó rất dễ làm họ bị tổn thương. Nhưng đối với anh thì lại khác, John ạ. Giá như anh nhìn được tất cả những gì xảy ra tự đáy lòng tôi lúc tôi đang cười, hoặc lúc tiếng cười xuất hiện trên môi tôi, giá như lúc này anh nhìn được những gì tiếp tục ẩn chứa trong lòng tôi khi Đức ông hoàng Cười đã cởi bỏ vương miện và xiêm y - bởi ông ta sẽ bỏ đi rất xa, rất xa tôi trong một thời gian rất rất dài - thì chắc là trong số chúng ta, tôi sẽ là người mà anh cảm thấy ái ngại nhất.
- Tại sao vậy? - Tôi hỏi, trong lòng cảm thấy thực sự xúc động khi nghe ông nói đến câu cuối cùng. - Tóm lại là tôi vẫn không hiểu được lòng ngài.
- Tại sao ? Tại vì tôi biết là như vậy?
Bây giờ thì chúng tôi đã tạm biệt nhau, mỗi người lại tìm về sự cô đơn dưới mái nhà lạnh lẽo của mình. Vậy là Lucy đã yên nghỉ trong khu mộ của gia đình, một khu mộ câm lặng nằm giữa một nghĩa. địa cổ kính, nơi âm thanh đời thường của thành Luân Đôn không thể vẳng tới, bầu không khí không hề vẩn một chút bụi đời, mà chỉ có những tia nắng mặt trời óng ả nhẹ buông từ đỉnh đồi Hampstead và những bông hoa dại mọc vương vãi trên từng thảm cỏ xanh mướt như nhung.
Vậy là tôi có thể kết thúc những dòng nhật ký này được rồi. Chỉ có Chúa mới biết đến bao giờ tối lại bắt đầu những dòng tự bạch khác mà thôi. Nếu tôi có thêm một lần như thế, hoặc giả nếu tôi lại tiếp tục những dòng nhật ký này, thì chắc chắn tôi sẽ viết về những con người khác, hoặc những câu chuyện khác hẳn. Sau khi ghi lại toàn bộ câu chuyện tình đơn phương của mình và trước khi trê lại với cuộc sống của công việc, tôi đã buồn bã buông một tiếng chẳng hề hàm chứa một chút hy vọng nào hết.
* * * * *
Báo Westminster Gazette, ngày 25 tháng 9
Một bí ẩn ở Hampstead
“Các khu vực phụ cận Hampstead đang xảy ra nhiều sự kiện gợi nhắc lại những chuyện mà chúng tôi đã có lần nói đến trong các bài báo nhan đề: Nỗi kinh hoàng ở Kensington, hoặc Người phụ nữ bị đâm đao, hoặc Người đàn bà mặc bộ đồ đen. Quả thực là từ hai ba ngày nay, người ta đã xì xào nhiều về chuyện những đứa trẻ biến khỏi nhà, hoặc nói đúng hơn, không ai thấy chúng về nhà sau khi ra chơi ngoài trảng.
Đành rằng lu trẻ còn quá nhỏ để có thể đưa ra những lời giải thích thuyết phục về trường hợp vắng mặt của mình, song lần nào trở về chúng cũng đều nói rằng chúng đi theo một “người đàn bà vấy máu.” Và lần nào cũng vậy, cứ quá xẩm tối là người ta lại không còn nhìn thấy chúng đâu nữa. Có hai đứa trẻ trong số bị mất tích trong đêm chỉ được tìm thấy vào rạng sáng ngày hôm sau. Khi trở về nhà, đứa trẻ mất tích đầu tiên có kể lại rằng “người đàn bà vấy máu” đã gạ gẫm rủ em đi dạo cùng. Những trường hợp khác cũng kể lại một câu chuyện tương tự. Chúng ta đều biết rằng bọn trẻ ngày nay rất không thích bắt chước nhau, nên chuyện cùng dối nhà bỏ đi qua đêm là không thể có. Một thông tín viên của chúng tôi cho biết anh đã thấy mấy chú bé có điệu bộ rất nực cười khi chúng bắt chước bộ dạng và cử chỉ của “người đàn bà vấy máu”. Nếu thích, các nhà biếm họa của chúng ta có thể học hỏi được nhiều điều khi xem các điệu bộ bắt chước của những chú nhóc này!
Tuy nhiên, sự việc xem ra không phải là không đặt ra những vấn đề nghiêm trọng, vì hai đứa trong bọn trẻ tức là những đứa trẻ bỏ đi qua đêm đã bị những vết cắn nhỏ ở cổ. Có vẻ như đó là những vết cắn của một con chuột lớn hoặc một con chó nhỏ. Mặc dù chưa có gì nghiêm trọng, nhưng các vết thương đều chứng tỏ một điều: dù là chuột hay là chó, con vật cũng chỉ luôn cắn người theo đúng một cách không đổi. Cảnh sát đã nhận được lệnh theo dõi những trẻ thường bén mảng tới chơi ngoài trảng Hampstead hoặc ở các khu vực phụ cận, nhất là những cô, cậu còn ít tuổi, và canh chừng cả những chú cho hay lảng vảng gần đó”.
* * * * *
Báo Westminster Gazette, ngày 25 tháng 9
Số đặc biệt
Nỗi kinh hoàng của Hampstead thêm một nạn nhân mới
“Chúng tôi vừa nhận được tin là lại thêm một đứa trẻ nữa bị mất tích vào xẩm tối ngày hôm qua và chỉ vừa được tìm thấy trong một bụi cây kim tước trên đồi Thợ Săn một khu vực thuộc trảng Hampstead, ít người lui tới hơn các khu vực khác vào sáng hôm nay. Với một vết cắn nhỏ trên cổ giống y như các nạn nhân nhỏ tuổi trước đó, cậu bé được tìm thấy trong một tình trạng yếu ớt và nhợt nhạt. Sau khi được đưa về nhà và bình tĩnh trở lại, cậu bé đã khai rằng cậu cũng bị người đàn bà vấy máu lôi kéo”.
Ngày 23 tháng 9
Sau một đêm bứt dứt không yên, hôm nay, trông Jonathan có vẻ đã khá hơn. Tôi cảm thấy vui khi thấy anh làm việc nhiều hơn, bởi chỉ có vậy anh mới bớt nghĩ ngợi lung tung... Quả thực tôi đã phấn chấn hẳn lên khi thấy anh bận bịu với những công việc mới, vì tôi biết anh sẽ tỏ ra là người xứng đáng, đủ năng lực đảm nhận những trách nhiệm mới, bất kể là trách nhiệm gì! Anh đi suốt ngày và dặn không ăn tra ở nhà. Sau khi làm xong mấy việc nội trợ lặt vặt, tôi hồi hộp quay về phòng đọc những trang nhật ký anh đã ghi lại trong suất cuộc hành trình tới Transylvanie...
* * * * *
Ngày 24 tháng 9
Tối hôm qua, tôi không thể viết được dòng nào, bởi cuốn nhật ký của Jonathan đã làm tôi choáng váng. Thật tội nghiệp cho chồng tôi! Dù là chuyện thật hay chỉ là một sự tưởng tượng, thì chắc anh cũng đã phải chịu rất nhiều cơ cực. Có một câu hỏi luôn ám ảnh đầu óc tôi: trong câu chuyện đó có phần nào là sự thật không? Anh đã mô tả những điều khủng khiếp sau khi mắc phải chứng bệnh sốt não, hay chứng bệnh ấy là kết quả của những điều tưởng tượng hãi hùng? Tôi sợ mình không tìm được câu trả lời, bởi có thể tôi sẽ chẳng bao giờ dám nhắc lại chuyện đó với anh. Nhưng có vẻ như Jonathan đã nhận ra gã đàn ông mà chúng tôi nhìn thấy hôm qua... Có lẽ cái chết đột ngột của người bạn lớn Hawkins đã gây ra cho anh nhiều ảo giác quái gở và mơ hồ, thế thôi... Nhưng xem ra vẫn có một mối liên hệ lờ mờ nào đó giữa các sự kiện mà tôi chưa thể nắm chắc... Lão bá tước đáng ngờ kia dường như đang thực hiện một mưu đồ ở Luân Đôn... Nếu đúng là lão đã tới Luân Đôn với hàng triệu bạc thì chắc chắn thành phố này đang lâm vào một cảnh cực kỳ tồi tệ mà người đứng ra giải quyết sẽ không phải là ai khác ngoài chúng tôi. Chúng tôi không được phép lùi bước trước nhiệm vụ bất khả kháng này. Vậy đấy! Tôi sẽ phải bắt tay vào chuẩn bị ngay từ bây giờ, tôi sẽ soạn lại nhật ký của chồng mình bằng máy chữ, vì làm như vậy thì khi cần, người nào vào cuộc cũng có thể đọc và hiểu được vấn đề. Tôi sẽ tự mình giải thích toàn bộ câu chuyện, bỏi tôi không muốn ai quấy rầy Jonathan.
Thư của Van Helsing gửi J. Harker
Ngày 24 tháng 9
“Thưa quý bà kính mến,
Tôi thành thực xin lỗi vì chuyện đột ngột gửi bà lá thứ này, song thực ra, ít nhiều tôi đã là người bạn của bà, bởi tôi chính là người mang một nghĩa vụ khó nhọc là phải báo cho bà biết về cái chết của cô Lucy Westenra. Với sự đồng ý thực lòng của huân tước Godalming, tôi đã đọc toàn bộ các giấy tờ và thư từ của Lucy, vì tôi đang rất quan tâm đến một số sự việc cực kỳ quan trọng có liên quan tới cô ấy. Trong số các giấy tờ có được, tôi thấy có cả thư của bà, những lá thư thể hiện một tình bạn cao cả mà bà và cô ấy đã dành cho nhau. Lạy Chúa tôi! Thưa bà Mina, nhân danh tình bạn trong sang ấy, tôi cầu mong bà hãy giúp đỡ tôi! Vì lợi ích của mọi người, tôi mạo muội đề nghị bà... để hàn gắn lại những nỗi đau mà tội ác đã gây ra, để ngăn chặn những bất hạnh khủng khiếp nhất, mà chắc chắn nếu có là người giàu trí tưởng tượng nhất, bà cũng không thể nghĩ tới được. Bà có thể dành chút thời gian vàng ngọc cho tôi gặp mặt được chứ? Tôi nghĩ bà có thể tin tưởng ở tôi. Tôi là bạn của bác sĩ John Seward và cũng là bạn của huân tước Godalming (tức là Athur của cô Lucy như bà đã biết). Nhưng một lần nữa tôi phải xin lỗi bà vì tôi chưa thể nói ra những gì tôi cần phải hỏi, ít nhất là trong lúc này. Tôi sẽ tới Exeter thăm bà ngay sau khi bà thông báo cho tôi biết ngay, giờ thích hợp nhất. Hy vọng bà sẽ thứ lỗi cho sự đường đột của tôi, thưa bà? Qua những lá thư bà gửi Lucy, tôi hiểu bà là một phụ nữ nhân hậu đến nhường nào, và tôi cũng rất hiểu người chồng yêu dấu của bà đang phải vật lộn với căn bệnh thần kinh ra sao! Nếu có thể được, tôi đề nghị bà đừng để cho ông ấy biết về chuyện này, vì tôi sợ rằng những gì tôi phải nói với bà sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của ông ấy. Một lần nữa xin bà thứ lỗi.
Van Helsing.”
Điện của bà Harker gửi tiến sĩ Van Helsing
“Ngày 25 tháng 9
Nếu không bận, ngài có thể tới ngay Exeter bằng chuyến tàu 10 giờ 15 ngày hôm nay. Tôi ở nhà cả ngày.
Wilhelmina Harker.”
Nhật ký của Mina Harker
Ngày 25 tháng 9
Tôi thật sự không thể ngồi yên khi chờ đợi Tiến sĩ Van Helsing. Tôi không biết tại sao mình lại sốt ruột như vậy, nhưng tôi hiểu rất rõ một điều: có thể ông sẽ hé mở cho tôi một chút ánh sáng về cái sự thực buồn thảm mà Jonathan đã phải trải qua. Hơn nữa, vì là một thầy thuốc trực tiếp chăm sóc Lucy trong suốt những ngày qua, nên thế nào ông cũng cho tôi biết những gì ông đã cảm nhận được về căn bệnh của cô. Ôi! Tôi đúng là một con ngốc? Có lẽ Van Helsing tới đây chỉ để nới cho tôi biết về Lucy và những cơn mộng du của cô, chứ đâu phải để nói về Jonathan. Vậy là tôi chỉ còn biết cam chịu, chẳng bao giờ biết rõ sự thật về cuộc hành trình của anh... Cuốn nhật ký anh viết ám ảnh tôi nhiều đến nỗi tôi đã tưởng tượng ra đủ điều, thậm chí tôi còn hy vọng bừa ở sự giúp đỡ của Van Helsing nữa chứ! Rõ ràng ông đến đây là để nói với tôi về Lucy! Chắc chắn trong thời gian qua, cô lại bị những cơn mộng du mới. Và có lẽ cuộc miên hành ra vách đá lạnh lẽo giữa đêm khuya hiu hắt ngày nào - một kỷ niệm thật hãi hùng đối với tôi? - đã làm cho cô đổ bệnh nặng. Quả thực trong những ngày qua, vì bận quá nhiều việc riêng, nên tôi đã quên khuấy mất là cô luôn có những trắc trở khiến chúng tôi không thể không quan tâm lo lắng! Chắc chắn Lucy đã kể lại cho Van Helsing nghe chuyện cô đã mộng du tới vách đá cheo leo nọ ra sao và chuyện tôi đã hốt hoảng chạy bổ đi tìm cô như thế nào. Có lẽ Van Helsing định tới đây để hỏi thêm một số chi tiết bổ sung cho hồ sơ bệnh án của ông. Hy vọng tôi đã làm đúng bổn phận của mình khi không nói cho bà Westenra biết cái đêm hãi hùng của cô con gái bà. Tôi sẽ chẳng bao giờ tha lỗi cho chính mình nếu như vì chuyện đó mà tình trạng sức khỏe của Lucy trở nên tồi tệ đi. Tôi cũng hy vọng bác sĩ Van Helsing không oán giận tôi vì những việc tôi đã làm. Dẫu sao thì trong thời gian vừa rồi, tôi đã có quá nhiều phiền muộn mà có đôi lúc tôi cảm thấy mình không thể chịu đựng nổi, nhưng rồi cuối cùng tôi vẫn phải vượt qua! Hẳn là Lucy đã khóc nhiều lắm. Hy vọng là những giọt nước mắt đã làm cô nguôi ngoai đi phần nào nỗi buồn tủi và đau đớn trong những ngày cuối đời...
Sáng nay, Jonathan phải tạm xa tôi, anh chỉ trở về vào sáng ngày mai. Kể từ khi cưới nhau, đây là lần đầu tiên chúng tôi xa nhau lâu như vậy. Hy vọng anh sẽ bảo trọng sức khỏe và cầu mong anh sẽ không gặp chuyện rắc rối... Chuông đồng hồ vừa điểm hai giờ, chắc là bác sĩ Van Helsing cũng sắp đến. Nếu như ông không có lời đề nghị, tôi sẽ không nói cho ông biết về cuốn nhật ký của Jonathan. Về phần mình, tôi có thể dễ dàng sao lại cuốn nhật ký của chính tôi cho ông. Tôi sẽ để ông đọc nếu ông muốn biết thêm chi tiết về Lucy, điều đó sẽ giúp tôi khỏi phải có những lời giải thích dài dòng và phức tạp về cô.
* * * * *
Một lúc sau
Ông đến và lại đi rồi. Quả là một cuộc nói chuyện cảm động và thú vị?... Đầu óc tôi vẫn chưa hết quay cuồng, điên đảo! Tôi có cảm giác mình vừa trải qua một cơn mê. Có thể nào đó lại là sự thật, dù chỉ là một phần thôi? Nếu chưa đọc nhật ký của Jonathan, chắc chắn tôi sẽ không thể tin nổi một lời nào trong câu chuyện quái gở này! Tội nghiệp, tội nghiệp Jonathan quá? Bây giờ tôi mới hiểu đằng sau những cảm xúc vật vã kia, anh đã phải chịu đựng rất nhiều. Chúa muốn tôi không được phép gây thêm đau khổ ê chề cho anh sau những gì tôi vừa được biết. Tôi cần phải nén lòng để giấu kín những gì mà Van Helsing vừa nói. Với tư cách là một thầy thuốc, tiến sĩ Van Helsing hẳn phải là một con người rất tất bụng, vì ông là bạn của Athur và bác sĩ Seward, và chính họ là những người đã mời ông từ Hà Lan tới đây chăm sóc cho Lucy. Vả lại, chỉ cớ gặp ông tôi mới hiểu tấm lòng hào hiệp của ông. Ngày mai, khi ông trở lại, có lẽ tôi phải nói cho ông biết về tình hình của Jonathan và những chuyện đã xảy ra với anh. Cầu Chúa hãy ban phước lành để chúng tôi lại được sống những ngày thật bình yên. Lúc nào tôi cũng nghĩ nghề làm báo sẽ mang lại cho mình một niềm vui Một người bạn của Jonathan làm cho tờ Tin tức Exeter từng có lần bảo tôi rằng trong nghề làm báo, điều quan trọng là phải có trí nhớ, tức là phải có khả năng tái hiện lại một cách chính xác từng lời nói của người được phỏng vấn trước khi biên tập nội dung của vấn đề. Chắc chắn nội dung cuộc nói chuyện của tôi và bác sĩ Van Helsing không phải là điều bình thường, nhưng tôi sẽ cố gắng ráp nối lại từng chi tiết trong câu chuyện xem sao.
Hai giờ ba mươi, chợt nghe tiếng gọi cửa. Tôi hồi hộp chờ đợi. Vài phút trôi qua, người hầu Mary chạy vào báo với tôi Van Helsing đã tới.
Tôi cúi đầu chào vị khách quý. Đó là một người đàn ông tầm thước, khá khỏe mạnh. Con người ông toát lên một vẻ hoàn toàn đáng tin cậy với nét mặt hiền hậu, nhân từ, đôi mắt xanh thẳm, mở to, nghiêm nghị, sáng ngời và nằm không gần nhau, vầng trán cao, hơi vát như càng rộng thênh thang bởi mái mái tóc hung đỏ được vuốt ngược ra sau.
- Có phải là bà Harker?
Tôi gật đầu trả lời.
- Người trước kia vẫn được gọi là Mina Murray?
Tôi vẫn chỉ khẽ gật đầu đáp lại.
- Vậy là tôi đang đứng trước cô Mina Murray của ngày nào, một người bạn của đứa con khốn khổ Lucy Westenra.
- Vâng, thưa bà Mina, tôi đến đây là để nói cho bà biết về chuyện của Lucy.
- Thưa ngài, tôi thật không biết làm thế nào để diễn tả hết lòng tốt của ngài, một người bạn đã hết lòng chăm sóc, giúp đỡ Lucy Westenra để cô được sống an lành trong những ngày cuối đời.
Tôi rụt rè chìa bàn tay ra như một cử chỉ biết ơn tấm lòng của một con người luôn biết sống hết mình vì người khác. Ông nắm chặt tay tôi và nhẹ nhàng đáp lại :
- Ôi? Bà Mina, tôi biết rằng bạn của người con gái trong trắng ấy hẳn phải là một người có trái tim thật nhân hậu, nhưng tôi còn phải... nói cho cùng, tôi muốn biết...
Ông bỗng ngập ngừng cúi đầu như một cử chỉ lịch sự trước tôi và chỉ tiếp tục giãi bày khi tôi đề nghị :
- Thế này nhé, thưa bà! Tôi đã đọc tất cả những lá thư bà gửi cho Lucy. Mong bà đừng chấp, nhưng tôi không thể không bắt đầu bằng việc phải hỏi một ai đó, song tôi lại không biết phải tìm ai để mà hỏi. Qua mấy lá thư, tôi biết bà từng có thời gian sống với Lucy và bà Westenra ở Whitby. Tôi cũng biết rằng thỉnh thoảng cô ấy còn viết nhật ký, xin bà đừng ngạc nhiên, thưa bà Mina. Lucy đã viết nhật ký sau khi bà ra đi, tôi thấy dường như cô ấy đã làm theo gương bà thì phải. Đọc nhật ký của cô ấy, tôi cứ ngờ ngợ mình đã tìm thấy những lời bóng gió ám chỉ một cuộc dạo chơi lang thang trong lúc bị mộng du và bà chính là người đã tìm cứu cô ấy. Chính vì vậy nên tôi phải tìm tới đây với hy vọng là bà sẽ cho tôi biết thêm những chi tiết mà bà còn nhớ.
- Thưa bác sĩ Van Helsing, tôi nghĩ tôi hoàn toàn có thể kể lại cho ngài nghe một cách chính xác về toàn bộ cuộc lãng du đó.
- Sao, toàn bộ cuộc lãng du? Toàn bộ các chi tiết!... Nếu thế thì bà quả là người có trí nhớ tuyệt vời đấy, bà Mina ạ! Đó là điều hiếm thấy ở những phụ nữ lúc nào cũng tối mặt vì công việc.
- Thưa bác sĩ, thú thực tôi luôn có thói quen ghi lại những sự kiện hàng ngày mà tôi đã được chứng kiến. Tôi có thể cho ngài thấy điều đó... trong nhật ký của tôi... nếu ngài muốn.
- Ôi! Tôi thật không biết làm gì để cám ơn bà, thưa bà Mina! Bà đã giúp tôi một việc thật có ích?
Tại sao tôi lại phải kìm nén ý định đùa chơi ông một chút cho đỡ căng thẳng kia chứ? Việc gì cứ phải cục mịch như một hòn đất mãi? Tôi nghĩ phụ nữ chúng tôi đâu phải lúc nào cũng như vậy.
Tôi lấy cuốn nhật ký tốc ký của mình đưa cho Van Helsing. Ông lịch sự nghiêng mình cầm cuốn sổ và khẽ hỏi lại :
- Tôi có thể đọc được chứ ạ?
- Tất nhiên! - Tôi điềm nhiên trả lời.
Ông mở cuốn sổ liếc nhanh vài trang. Tôi nhận ngay ra vẻ bối rối trên gương mặt ông. Ông đứng bật dậy nghiêng mình đáp lễ tôi một lần nữa.
- Ồ! Bà quả là một phụ nữ gây cho tôi nhiều ngạc nhiên đấy! Tôi hiểu Jonathan đã ngưỡng mộ bà từ lâu. Thưa bà Mina, sẽ rất vinh dự cho tôi nếu bà giúp tôi đọc cuốn nhật ký này, bởi thú thực với bà là tôi không biết tốc ký?
Tôi thấy trò đùa của mình có vẻ hơi quá nên đâm ra hơi xấu hổ. Vì vậy, tôi chỉ còn cách đưa ngay bản đánh máy cho ông để chữa ngượng.
- Xin ngài thứ lỗi... Tôi biết ngài đến đây là vì chuyện của Lucy, và tôi cũng hiểu có lẽ ngài không có nhiều thời gian để nán lại đây lâu, vì vậy tôi đã chuẩn bị sẵn cho ngài bản sao của cuốn nhật ký.
Van Helsing cầm tập bản thảo đánh máy của tôi, nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên.
- Bà quả là một người rất tâm lý và tốt bụng! Nhưng tôi có thể đọc ngay bây giờ được chứ? Bởi chỉ có vậy tôi mới mong bà giải đáp ngay giùm tôi một số thắc mắc.
- Chắc chắn rồi! Ngài cứ việc ngồi đọc, còn tôi sẽ đi kiểm tra xem mấy người giúp việc đã chuẩn bị cơm nước đến đâu rồi. Ngài có thể hỏi tôi tùy thích trong bữa cơm trưa nay.
Vị khách người Hà Lan rối rít cảm ơn tôi một lần nữa rồi tìm ghế ngồi, lưng quay ra cửa sổ. Tôi hiểu ông đã bị lôi cuốn ngay vào những dòng nhật ký kia. Tôi chỉ còn biết về ngay văn phòng để không làm ông cảm thấy bị quấy rầy. Khi quay trở lại phòng khách, tôi thấy ông đang đi đi lại lại khắp phòng, mặt đỏ tía như một chú gà chọi. Thấy tôi bước vào, ông vội chạy lại nắm chặt lấy tay tôi :
- Ôi! Bà Mina đấy à! Tôi biết nói với bà thế nào về bổn phận của mình bây giờ? Cuốn nhật ký này chẳng khác nào một tia nắng mặt trời rực rỡ tỏa sáng trong tôi! Nó đã mở ra trước mắt tôi một cánh cửa... Tôi đang bị chói lòa, thực sự bị chói lòa bởi tia nắng đó. Song không phải là không có những đám mây đen thỉnh thoảng lại lượn lờ đằng sau... Nhưng bà không hiểu tôi muốn nói gì đâu... bà sẽ không thể hiểu được... Chỉ biết rằng tôi còn mắc nợ bà - một phụ nữ thực sự thông minh rất nhiều. Thưa bà, - Ông tiếp tục bằng một giọng rất hệ trọng - tôi hy vọng chừng nào Abraham Van Helsing còn làm được một điều gì đó cho bà, hoặc những người thân thiết của bà, thì chừng đó bà còn có thể tin tưởng ở ông ta. Tôi thích... à, tôi luôn muốn giúp bà như một người bạn, vâng, như một người bạn, nhưng cũng xin nói thêm là một người bạn chân thành, không gì lay chuyển nổi. Vâng, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp bà và những người bà hằng yêu mến. Cuộc đời thật nhiều điều đen tối, nhưng cũng không vì thế mà mất đi nguồn ánh sáng. Bà chính là một phần của nguồn sáng đó. Bà rồi sẽ được hạnh phúc, được bù đắp tất cả cho những ngày buồn tủi đã trôi qua, và người chồng yếu dấu của bà sẽ tìm thấy ở bà một niềm vui trọn vẹn.
- Nhưng, thưa bác sĩ, có vẻ như ngài ca ngợi tôi hơi nhiều... Làm sao ngài biết được con người tôi kia chứ?
- Tôi mà lại không nhận biết được bà là người như thế nào ư? Tôi, một ông già đã dành cả cuộc đời để trải nghiệm, quan sát sự khác biệt của người đàn ông với người phụ nữ, để nghiên cứu bộ não của con người và tất cả những gì liên quan tới nó, lại không đủ khả năng để nhận ra bà là người như thế nào ư? Tôi, người vừa chăm chú đọc từng dòng nhật ký bắt nguồn từ hơi thở cuộc đời thực của bà, người đã đọc lá thư bà viết cho Lucy ngay sau khi ông bà làm đám cưới, lại không thể nhận biết được con người bà kia đấy! Hỡi ôi! bà Mina ạ, những người phụ nữ độ lượng không phải lúc nào cũng dùng câu chữ để kể về chuyện của riêng mình. Trong cuộc đời này, hàng ngày, hàng giờ và thậm chí là hàng phút trôi qua, các thiên thần bao giờ cũng chú ý đọc thấu câu chuyện mà họ đã viết. Còn những người đàn ông chúng tôi luôn có một khao khát cháy bỏng nhất là được quan sát để nhìn nhận vấn đề, vì vậy mà con mắt của chúng tôi cũng chẳng khác mấy con mắt của các thiên thần. Đức phu quân của bà hẳn phải là một người hào hiệp lắm. Cả bà cũng vậy, vì bà là người luôn có niềm tin ở cuộc sống, và để có niềm tin ở cuộc sống, con người ta cần phải có lòng nhân ái... Mà ông nhà sao rồi? Có lẽ bà phải nói cho tôi biết đôi chút về ông ấy đi. Ông đã hoàn toàn bình phục rồi chứ? Hy vọng là những cơn sốt vô lý ấy không còn hành hạ ông ấy nữa.
Tôi hiểu đã đến lúc phải nói cho Van Helsing biết rõ những gì liên quan đến sức khỏe của Jonathan để xem ông có nhận xét gì.
- Ông nhà tôi gần như đã bình phục, nhưng khổ nỗi cái chết của ngài Hawkins lại giáng cho anh ấy một đòn...
Bác sĩ người Hà Lan ngắt lời tôi :
- Chà? Vâng, tôi hiểu... Tôi hiểu... Tôi đã đọc hai lá thư mới nhất mà bà...
- Nhưng nói cho cùng, tôi tiếp tục, chính vì sự ra đi của người bạn già ấy mà ông nhà tôi đã bị xúc động rất mạnh... Và hôm thứ năm vừa rồi, khi chúng tôi đang ở Luân Đôn, hình như nhà tôi lại bị một cú sốc nữa thì phải.
- Lại một cú sốc nữa? Bị không lâu sau một cơn sốt não...
- Chà, chà! Tai hại thật đấy... Bà thấy ông nhà có biểu hiện như thế nào?
- Jonathan nghĩ anh đã trông thấy một ai đó khiến anh trở lại với một hồi ức khủng khiếp, một hình ảnh chính là nguyên nhân gây nên chứng bệnh hoảng loạn của anh.
Nói đến đây, người tôi chợt run lên như không còn đứng vững được nữa, rõ ràng là tôi cũng đang bị xúc động. Tình yêu tôi dành cho Jonathan, những lo sợ về những gì anh phải trải qua, điều bí ẩn hãi hùng mà tôi đoán già đoán non khi đọc nhật ký của anh, rồi cả sự lo lắng mơ hồ ngày càng lớn trong tôi sau khi đọc những gì anh viết... tất cả dường như đang hùa tới giằng xé ruột gan tôi, khiến tôi gần như bị mất trí trong giây lát, bởi tôi đã quỳ gối, giơ cao hai tay về phía Van Helsing để cầu xin ông cứu giúp chồng tôi. Trông thấy bộ dạng ấy của tôi, ông vội vàng chạy tới buộc tôi đứng dậy và dìu tôi ngồi xuống ghế. Ông bối rối ngồi bên cạnh, tay vẫn nắm chặt tay tôi như một cử chỉ vỗ về an ủi.
- Tôi luôn sống độc thân, - Giọng trầm ngâm của ông như chứa cả một tấm lòng cao cả - bởi cuộc sống của tôi luôn bị choán đầy những công việc, nên có thể nói rằng trước đây, tôi chẳng còn thời gian để mà hy sinh cho bạn bè, người thân. Nhưng kể từ cái ngày cách đây không xa lắm, khi anh bạn trẻ John Seward thân mến mời tôi sang đây, tôi mới chợt nhận thấy rằng cuộc đời có không ít người mang trong mình một trái tim cao thượng, một dòng máu cháy bỏng khát vọng được sống, được yêu và được hy sinh cho mọi người. Vậy mà bao năm qua, tôi chi biết sống cho riêng mình. Xin bà cứ tin rằng tôi đến gõ cửa nhà bà chính là vì sự tôn trọng tuyệt đối tự đáy lòng tôi đối với bà, bởi những lá thư bà gửi cho cô Lucy đáng thương đã mang tới cho tôi một hy vọng tràn trề. Những lá thư ấy không chỉ giúp tôi khám phá một điều gì đó tôi đang tìm kiếm, mà còn giúp tôi hiểu rằng trên đời này còn có những người phụ nữ luôn mang lại một ý nghĩa tất đẹp cho chính cuộc sống, những người phụ nữ mà sự hiện hữu của họ luôn là một tấm gương sáng người cho những đứa con mà họ sẽ sinh ra. Tôi thực sự hạnh phúc khi được tới đây, được làm một việc gì đó vì bà, bởi nếu ông nhà vẫn chưa qua cơn hoảng loạn, tôi tin là mình có thể làm được một việc gì đấy để chữa lành vết thương lòng trong ông. Tôi hứa sẽ dành tất cả kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình để giúp Jonathan nhanh chóng bình phục, chỉ có điều là bà phải... phải tin ở tôi...
Tôi chỉ còn biết lặng người nghe ông bộc bạch. Mọi cử chỉ, lời nói của ông đều mách bảo tôi rằng ông quả là một con người mẫu mực, một người bạn tận tụy và chân thành mà tôi hoàn toàn có thể tin cậy. Lời tâm sự của ông đã giúp tôi lấy lại bình tĩnh và cảm giác yên tâm.
Trong bữa cơm trưa, ông hỏi tôi rất nhiều về Lucy và nhiều hơn cả là về Jonathan. Tôi chỉ có thể nói cho ông biết thêm về chứng mộng du của Lucy, còn về những chuyện khác, hẳn là ông đã biết, thậm chí còn biết rõ hơn tôi nữa là đằng khác. Về chuyện của Jonathan, quả thực là tôi thấy rất khó trả lời. Nhưng những thắc mắc của ông dần dà đã gợi ra cho tôi một mối liên hệ nào đó, dù mơ hồ, giữa các sự việc tưởng như chẳng ăn nhằm gì với nhau. Chính cảm giác mơ hồ đó đã thôi thúc tôi quyết định cho ông mượn nốt cuốn nhật ký - mà tôi đã thảo lại bằng máy chữ - của Jonathan. Tôi nghĩ mình đã làm một việc hoàn toàn đúng đắn. Khỏi phải nói Van Helsing đã cảm động như thế nào khi cầm bản sao cuốn nhật ký trên tay trước khi ra về khách sạn.
Thư của Van Helsing gửi bà Harker
Exeter, 6 giờ chiều ngày 25 tháng 9
“Thưa bà Harker,
Tôi thực sự xúc động khi đọc cuốn nhật ký của ông nhà, Tội nghiệp ông ấy quá! Ông đã trải qua biết bao cơ cực với những điều hãi hùng và quái đản. Song thưa bà, xin bà hãy tin đó là sự thực, hoàn toàn là sự thực? Nhưng tôi cũng khẳng định với bà một điều rằng một người đàn ông đủ can đảm để leo xuống bức tường thăm thẳm của tòa lâu đài rùng rợn đó tới hai lần như ông nhà quả không phải là người để chúng ta phải lo lắng. Tôi rất muốn được tiếp kiến ông ấy vào sáng mai.
Chào thân ái.
Abraham Van Helsing.”
Nhật ký của Jonathan Harker
Ngày 26 tháng 9
Thú thực chẳng bao giờ tôi nghĩ mình lại có ngày đặt bút viết tiếp vào cuốn nhật ký. Vậy mà... Tối hôm qua, lúc trở về nhà, Mina đã kể cho tôi nghe cuộc viếng thăm của vị giáo sư người Hà Lan Van Helsing và chuyện cô đã đưa cho ông bản sao cuốn nhật ký của tôi. Tôi cũng đã đọc lá thư mà ông gửi cho vợ tôi chiều hôm qua. Lá thư ngắn ngủi ấy đã đem lại sức mạnh và niềm tin cho tôi. Vâng? Tất cả những gì xảy ra đối với tôi hoàn toàn là sự thật? Nhưng bây giờ tôi đã trở thành một con người khác hẳn: tôi không còn thấy sợ nứa, kể cả trước lão bá tước quái đản kia. Sự xuất hiện sáng nay của Van Helsing quả là một luồng sinh khí thổi vào con người bải hoải, yếu ớt của tôi. Ông đúng là người tôi mong đợi bấy lâu. Tôi đã thú thực với ông tất cả những gì tôi phải trải qua trong cuộc viễn du đầy ác mộng ấy.
Tôi nói với ông rằng đã có lúc tôi không còn biết phải tin vào cái gì và cũng chẳng biết phải hành động ra sao, trông cậy vào ai nữa. Lúc tỉnh táo, lúc mê muội, tôi cảm thấy mình như đang đi vào một vết xe đổ mà không thể thoát ra được. Mặt khác, tôi vẫn phải cam chịu cái mệt mỏi từ những công việc đang càng ngày càng lộ rõ là một lối mòn có vết xe đổ đó, và vì thế mà tôi bắt đầu không còn tin ở chính mình nữa.
- Thưa bác sĩ, chắc là ngài không hiểu nghi ngờ tất cả và nghi ngờ chính bản thân mình là một cảm giác như thế nào đâu? Không, ngài không thể hiểu được! Không thể và không thể? Tôi chẳng nhận ra bất cứ một biểu hiện gì trên vầng trán thanh tao của ngài cả.
Van Helsing phì cười đáp lại :
- Chà! Ông lại còn biết cá nhân tướng học nữa kia đấy! Từ khi tới đây, cứ mỗi giờ trôi qua là tôi lại biết thêm ít nhiều điều mới. Tôi cảm thấy thật vinh hạnh khi được cùng ông chia sẻ bữa điểm tâm ở đây. Ông bạn ạ, ông sẽ cho phép ông già này nói chuyện một cách chân thành nhất chứ? Ông thật hạnh phúc khi có được một người vợ như vợ ông bây giờ! Giáo sư Van Helsing đã không ngớt lời ca ngợi Mina trong suốt cả buổi trò chuyện, đến nỗi tôi chỉ còn biết gật đầu im lặng lắng nghe.
- Bà nhà quả là một người của Chúa. Chúa đã tạo ra bà bằng chính bàn tay của Ngài, để chứng minh cho chúng ta thấy rằng trên đời này thực sự có một thiên đường, một thiên đường mà một ngày nào đó, các con chiên của Ngài đều có thể bước lên. Thiên đường ấy quả thực đang tỏa ánh hào quang rạng ngời xuống cuộc sống trần trụi của trái đất này. Một người có lòng trung thành với Chúa và vôi mọi người, có lòng nhân từ, dịu dàng nết na, biết hy sinh tất cả vì những người xung quanh như bà nhà đâu phải là nhiều trong cái thế kỷ đầy rẫy những nghi kỵ và ích kỷ của chúng ta. Và cả ông nữa, ông bạn ạ... Tôi đã đọc tất cả những lá thư gửi Lucy của bà nhà, trong đó có cả những dòng kể về ông. Vì vậy, không phải đến bây giờ tôi mới biất về ông, song tôi cũng chỉ thực sự hiểu con người ông kể từ chiều tối hôm qua. Nào, ông bạn, tôi bắt tay anh được chứ? Chúng ta sẽ mãi là bạn của nhau.
Chúng tôi xiết chặt tay nhau, sự chân thành của Van Helsing một lần nữa làm tôi thực sự cảm động.
Còn bây giờ, ông tiếp tục tôi có thể đề nghị ông giúp đỡ được chưa? Trước mắt tôi còn một việc rất quan trọng cần phải giải quyết, nhưng để làm được như vậy, điều trước tiên mà tôi cần là phải biết. Tôi tới đây cũng là vì sự giúp đỡ của ông. Ông có thể nói cho tôi biết những gì đã xảy ra trước khi ông hành trình tới Transylvanie được không? Sau đó, có thể tôi sẽ còn phải tiếp tục nhờ cậy ở ông, nhưng là để giải quyết các vấn đề theo một trật tự khác. Chỉ cần ông trả lời câu hỏi đó ìà đủ đối với tôi trong lúc này.
- Nhưng, thưa ngài, tôi chẳng thấy có mối liên hệ nào giữa lão bá tước và câu chuyện mà ông đang bận tâm cả.
- Có đấy, ông bạn ạ! - Ông nghiêm nét mặt trả lời.
- Nếu vậy thì xin ngài cứ tin ở tôi.
Sau bữa điểm tâm, tôi tiễn ông ra ga. Lúc chia tay tôi, ông bảo :
- Nếu tôi mời, ông có thể tới Luân Đôn được không? Tất nhiên là cả bà Mina nữa?
- Chúng tôi sẽ lên đường ngay lập tức nếu ngài cảm thấy tiện.
Tôi mua tặng ông mấy tờ tin buổi sáng, và cả vài tờ tin buổi chiều số ra ngày hôm trước, để ông ngồi đọc trên tàu cho đỡ buồn. Ông vừa bước lên cửa toa xe vừa đọc lướt qua các tít báo. Tôi nhận thấy ánh mắt ông như vừa bị hút vào một hàng chữ lớn trên tờ Westmirlster Gazette; sắc mặt ông bỗng tái nhợt đi ngay sau đó. Tôi nghe rõ tiếng lẩm bẩm sợ hãi của ông :
- Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! Đây rồi! Ra rồi!.
Tôi tin chắc rằng trong tâm trạng xúc động khó hiểu, ông đã quên khuấy sự có mặt của tôi.
Tiếng còi hơi bất chợt rú lên một hồi dài thê thảm trước khi đoàn tàu từ từ chuyển bánh. Van Helsing giật mình trở lại với thực tại, ông ngoái ra khỏi cửa vẫy chào tôi :
- Cho tôi gửi lời chào bà nhà nhé! Tôi sẽ gửi thư cho ông bà ngay khi nào có thể.
Nhật ký của bác sĩ Seward
Ngày 26 tháng 9
Nói cho cùng thì chẳng bao giờ có điều gì kết thúc cả. Kể từ hôm tôi viết chữ “hết” trong nhật ký đến nay vẫn chưa đầy một tuần, vậy mà tôi đã lại phải cầm bút tiếp tục ghi lại những ưu tư của mình, và điều tệ hại là tôi vẫn không thể tránh khỏi những chuyện mà với tôi tưởng chừng phải kết thúc rồi. Đúng là cho đến tận chiều hôm này, tôi chẳng có lý do gì để nghĩ về những gì thuộc về quá khứ cả. Bệnh nhân Renfield đã trở nên hiền hòa hơn bao giờ hết. Từ vài tuần nay, hắn chỉ biết chăm sóc cho đàn ruồi của hắn. Còn bây giờ, hắn như đang bị lũ nhện hút mất hồn, vì vậy tôi không còn bị hắn quấy rầy nữa.
Tôi vừa nhận được thư viết hôm chủ nhật của Arthur. Theo những gì anh nói trong thư, tôi hiểu anh đã dần khỏe trở lại. Quincey Morris đang ở cùng anh để giúp anh trở lại với cuộc sống bình thường sau những cú trời giáng vừa qua. Morris bao giờ cũng là một chàng trai năng động và đầy nhiệt huyết. Cậu ta cũng vừa gửi thư báo cho tôi biết Arthur đã ít nhiều tìm lại được niềm vui của cuộc sống. Như vậy thì tôi yên tâm rồi.
Về phần mình, tôi cũng cố gắng bắt tay vào công việc với sự say sa vốn có của mình. Tôi hoàn toàn có thể tin tưởng rằng vết thương do cái chết bi ai của cô bé Lucy tội nghiệp để lại trong tôi đang dịu đi từng ngày. Hôm qua, Van Helsing tới Exetel và chỉ trở về vào ngày hôm nay. Khoảng năm giờ chiều, ông tới tìm tôi với tờ tin chiều Westminster Gazette trên tay.
- Anh nghĩ thế nào về chuyện này? - Ông vừa nói vừa đưa tờ báo cho tôi rồi lùi lại vài bước, hai tay khoanh trước ngực.
Tôi chỉ đọc lướt qua tờ báo, bởi thú thực tôi vẫn chưa hiểu ông định ám chỉ điều gì. Nhưng ông đã bước tới khẽ giật lại tờ báo và chỉ cho tôi thấy một bài nói về chuyện những đứa trẻ bị mất tích ở khu vực xung quanh Hampstead song đều đã được tìm thấy. Tôi thấy chẳng có điều gì đặc biệt cho tới khi giật mình biết rằng tất cả những đứa trẻ bị mất tích đều bị một vết thương nhỏ, giống như những vết cắn ở cổ. Trong đầu tôi chợt lóe lên một ý nghĩ khiến tôi phải ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt Van Helsing.
- Anh nghĩ thế nào?
- Đó cũng chính là những gì đã xảy ra với Lucy.
- Thế anh giải thích như thế nào về điều đó?
- Rất đơn giản, tất cả đều có một nguyên nhân. Cái gì đã làm Lucy bị thương thì cũng làm cho bọn trẻ bị thương.
- Đúng... gián tiếp, nhưng cũng không phải là không trực tiếp?
- Ngài định nói gì vậy, giáo sư?
Thú thực tôi không hiểu giáo sư định nói gì sau câu trả lời ấy. Tôi định phàn nàn là đạo này ông hay nói khó, hoặc thần kinh của ông có vẻ như vẫn chưa ổn định sau những ngày căng thẳng vừa qua, nhưng khi nhìn nét mặt ông, tôi đã phải thay đổi ngay ý định của mình. Quả thực là chưa bao giờ, kể cả khi căn bệnh của Lucy đẩy chúng tôi tới tột cùng của tuyệt vọng, Van Helsing tỏ ra thất kinh như vậy.
- Thế giáo sư nghĩ như thế nào? Xin giáo sư giải thích giùm cho! Có lẽ tôi chỉ biết tưởng tượng chứ không biết lý giải ra sao cả.
- Anh bạn John ạ, anh sẽ không làm tôi tin rằng anh không hề nghi ngờ những gì có thể là nguyên nhân dẫn đến cái chết của Lucy chứ? Tất nhiên, tôi không chỉ đưa ra các sự việc, mà còn phải có cả những lời bình luận, những suy nghĩ day dứt bấy lâu nay để giúp anh hiểu ra vấn đề.
- Có lẽ là suy nhược cơ thể do mất quá nhiều... quá quá nhiều máu, có phải thế không ạ?
- Thế cái mất quá quá nhiều máu như anh nói đó là do đâu, anh có biết không?
Tôi lắc đầu chịu chết. Thấy vậy, ông ngồi xuống bên tôi, rồi tiếp tục câu chuyện của mình :
- Anh thông minh lắm, John ạ. Anh có lý lẽ thật đúng đắn và cũng rất thật thà, nhưng anh đã không tránh được các định kiến chủ quan. Anh không chịu để mắt, để tai đến sự việc, và rõ ràng điều đó đã không trở thành một phần cuộc sống hàng ngày của anh, vì thế nên anh chẳng bao giờ nắm chắc được một điều gì cả. Chẳng lẽ anh không nghĩ trên đời này lại có những điều mặc dù anh không hiểu, nhưng vẫn tồn tại hay sao? Và rồi một số người trong chúng ta có thể thấy được những điều mà người khác không thể thấy nữa? Nhưng công bằng mà nói, trên đời này vẫn còn khối chuyện mà con người ta không thể hiểu nổi bởi vì họ biết hoặc là suy ngẫm, hoặc là nhận biết - những chuyện đó khác với những gì người ta đã dạy cho họ. Thế đấy? Đó chính là khiếm khuyết của khoa học: khoa học lúc nào cũng muốn giải thích tất cả, và khi không giải thích nổi, nó sẽ đưa ra một tuyên bố là chẳng có gì phải giải thích cả. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy ngày nào cũng có các học thuyết mới - hay nói đúng hơn là các học thuyết tự xưng là mới - ra đời ở đâu đó, thực ra chúng chỉ là những lý thuyết cũ mèm nhưng lại được biện bạch sao cho thật mới mẻ - kiểu như những người đẹp mà ta vẫn thấy trong các nhà hát kịch ấy. Nào, bây giờ tôi xin được hỏi tiếp nhé, anh có tin ở sự biến hóa của các cơ thể không? Anh sẽ trả lời là không chứ? Anh cũng không tin ở thuyết vật chất hóa? Cũng là không? Thế còn các vật chiếu mệnh? Có hay không? Và thuyết đọc được ý nghĩ? Lại không? Vậy anh nói thế nào về phép thôi miên?...
- Có chứ, nhà khoa học Charcot đã có khá nhiều bằng chứng cho chúng ta...
Ông mỉm cười và tiếp tục những lý lẽ của mình :
- Vậy là anh đã bị thuyết phục rồi nhé! Hiển nhiên là anh rất hiểu cơ chế của các thuyết và anh cũng đã để ý cách chứng mình của ông già Charcot! Vậy mà ông ta lại không còn nữa... Này, anh bạn John thân mến này, tôi có cần phải hiểu anh chỉ biết thừa nhận sự việc, hay kết quả của sự việc, một cách đơn giản mà chẳng cần đào sâu thêm vấn đề hay không? Không hả? Vậy thì tôi biết giải thích như thế nào? Xin đừng quên tôi cũng là một chuyên gia về bệnh tâm thần đấy nhé! - về việc anh thừa nhận lý thuyết của chứng mộng du, song lại phủ nhận hoàn toàn phép thần giao cách cảm? Anh bạn ạ, để tôi nói nhé: trong thời đại ngày nay, người ta thừa biết rằng dòng điện được sinh ra từ chính các vật chất mà ngày trước, những người phát minh ra nó đã phải trả giá bằng cả tính mạng của mình. Hồi đó, phát minh của họ bị coi là một trò phù thủy bịp bợm, một hành động báng bổ thần thánh, chính vì vậy mà họ phải chết trên giàn thiêu. Cuộc sống lúc nào cũng đầy những bí ẩn. Tại sao Mathusalem đã sống được chín trăm năm, trong khi cô bé Lucy đáng thương của chúng ta, mặc dù được bốn người truyền máu, lại không thể sống thêm được một ngày? Bởi vì chỉ cần sống được thêm một ngày nữa thôi là có thể cô ấy sẽ được chúng ta cứu sống! Anh có hiểu thấu đáo sự bí ẩn của sự sống và cái chết không? Anh cũng biết tường tận về giải phẫu học so sánh chứ? Nào, anh nói lại, tại sao có một số gã đàn ông lại có tính vũ phu, trong khi những người khác lại không như vậy? Anh có chắc mình đủ khả năng lý giải được hiện tượng là trong khi các con nhện khác đều chết trẻ, thì con nhện khổng lồ từng sống qua nhiều thế kỷ trong tháp một nhà thờ cổ của Tây Ban Nha ấy lại cứ lớn lên, lớn lên mãi cho tới khi đủ sức để bò xuống uống bằng sạch số đầu chứa trong tất cả các ngọn đèn ở đền thờ không? Còn nữa, anh làm thế nào để giải thích cho tôi tại sao, giữa một thảo nguyên mênh mông ở Nam Mỹ, và cả ở các nơi khác cũng vậy, đàn dơi không chỉ lần mò giữa đêm, đi hút máu của những con vật nhỏ bé, mà còn dám trích cả động mạch của những con ngựa to xác để thỏa thuê hút đến những giọt cuối cùng đây? Anh giải thích ra sao về việc ở một số hòn đảo thuộc Đại Tây dương, đàn dơi - vâng, vẫn là loài dơi - lúc nào cũng đậu lơ lửng trên các cành cây, đợi khi các thủy thủ ngủ quay ra trên các boong tàu vì thời tiết nóng nực chẳng hạn, sẽ lao ập xuống người họ, và thế là sáng dậy, người ta thấy họ không còn thở nữa, họ đã chết vì mất máu giống như những biểu hiện của Lucy?
- Chúa ơi! Thưa giáo sư, phải chăng giáo sư định nói rằng Lucy chính là nạn nhân của một con dơi nào đó? Và ở đây, trong cái thành phố Luân Đôn giữa thế kỷ mười chín này, cùng có thể xảy ra một chuyện tương tự?
Ổng khoát tay ra hiệu cho tôi im lặng và tiếp tục :
- Anh có thể giải thích tại sao giống rùa lại sống lâu hơn bao đời người, tại sao loài voi lại được chứng kiến sự suy tàn của hết triều đại này đến triều đại khác của con người, và tại sao con vẹt chỉ chịu chết khi bị cắn bởi một con mèo hay một con chó không? Anh có thể nói cho tôi biết vì lý do gì mà con người, ở mọi lúc và mọi nơi, đều muốn mình được sống vĩnh cửu không? Tất cả chúng ta đều biết - như khoa học đã khẳng định rằng loài cóc có thể sống hàng ngàn năm trong đúng một cái hang nhỏ nằm dưới các mỏm đá. Nào, anh giải thích đi, tại sao một đạo sĩ khổ hạnh Ấn Độ lại có thể tự hy sinh và tự chôn mình lại, rồi cho người niêm phong cửa mộ và gieo lúa mì lên đó. Tại sao người ta vẫn tiếp tục gieo mầm trên đó sau vụ gặt đầu tiên, và tại sao khi những ngọn lúa mới này được gặt đi rồi, người ta lại đến bỏ niêm phong ra và thấy đạo sĩ đang nằm dài trong mộ, không phải là không chết, bỗng lập tức đứng dậy để cùng bước đi với họ?
Ông chợt im bặt. Về phần mình, tôi thấy đầu tôi như sắp nổ tung ra đến nơi. Van Helsing đang bắt tôi chịu đựng toàn những chuyện kỳ quái của tự nhiên, những cái không thể bị biến thành những cái có thể mà trí tưởng tượng của tôi, dù rất phong phú, vẫn không thể hình dung ra nổi. Tôi ngờ rằng hình như ông đang định chứng minh cho tôi thấy một điều gì đó giống như ông đã từng làm ở Amsterdam ngày xưa, có điều là khi đó, ông chỉ muốn tìm cách nói cho tôi biết mục đích buổi lên lớp của ông để tôi có thể lĩnh hội một cách ấn tượng nhất bài giảng của ông mà thôi. Còn hôm nay, tôi không sao nắm bắt được cái điểm khởi đầu trong câu chuyện của ông, nhưng thú thực tôi cũng chẳng có ý định bám theo cái ý tưởng bác học và chuỗi các diễn biến sự kiện mà ông đã nêu ra.
- Thưa giáo sư, - Tôi nói - hãy cứ coi tôi là một học trò được yêu mến của giáo sư như ngày xưa. Xin giáo sư cứ nói thẳng vấn đề để tôi có thể liên hệ với các lý thuyết mà giáo sư đã truyền dạy cho tôi ngày nào, chỉ có vậy tôi mới mong hiểu được những gì giáo sư định nói. Lúc này, tôi chẳng khác gì một kẻ điên, đầu óc tôi hoàn toàn không được thông thái để chắp nối các ví dụ mà giáo sư vừa nêu. Tôi thấy mình như một đứa trẻ đang bì bõm nhảy từ bụi cỏ này sang bụi cỏ khác, giữa một đầm lầy đầy sương mù, mà chẳng biết mình phải đi về đâu.
- Được đấy, anh tưởng tượng cũng được đấy. Thế này vậy, tôi sẽ nói ngay lập tức điều tôi định nói: tôi muốn anh phải tin.
- Phải tin cái gì...?
- Phải tin những điều mà từ trước đến nay anh không tin. Hãy cứ để tôi giải thích. Có lần tôi nghe nói có một người Mỹ định nghĩa về niềm tin như thế này: “Đức tin là một bộ môn cho phép chúng ta tin ở những điều mà chúng ta cho là không đúng”. Tôi hoàn toàn hiểu ý của ông ta. Ông ta muốn nói chúng ta cần giữ cho đầu óc thông thái và đừng để một chân lý nhỏ cản trở sự tiến bộ của một chân lý lớn hơn. Điều quan trọng là trước tiên, chúng ta phải hiểu được cái chân lý nhỏ ấy, song chúng ta cần đánh giá đúng giá trị thật của nó và không được để mình bị thuyết phục rằng đó là chân lý của cả cái vũ trụ bao la này.
- Vậy giáo sư định nói rằng các ý niệm định kiến không thể biến thành chướng ngại cản trở việc thừa nhận các ý niệm khác đặc biệt hơn?
- Chà! Anh lúc nào cũng là một học trò xuất sắc nhất của tôi? Tôi chẳng cần mất nhiều thời gian để giải thích cho anh một điều gì cả? Bây giờ, anh đã sẵn sàng tìm hiểu vấn đề như một bước đi đầu tiên, và tôi tin là anh sẽ hiểu. Vậy thì anh có nghĩ các vết thương nhỏ trên cổ của bọn trẻ đều có chung một nguyên nhân từng gây ra các vết thương mà chúng ta đã thấy trên cổ cô bé Lucy không?
- Có, tôi cho là...
Van Helsing bỗng đứng bật dậy.
- Vậy là anh đã nhầm rồi, anh bạn John ạ. Ôi? Giá như sự thật đúng là như vậy thì đỡ biết bao! Nhưng, lạy Chúa? không phải... Sự thật còn khủng khiếp hơn nhiều, rất nhiều nữa là đằng khác...
- Lạy Chúa tôi! Thưa giáo sư, ngài định nói gì mà tôi không hiểu?
Ông thả người ngồi phịch xuống ghế, khuỷu tay đặt mạnh xuống bàn, hai tay bưng mặt, vẻ thất vọng đến tột độ. Tôi bàng hoàng khi nghe giáo sư nặng nề buông ra một câu :
- Thật đáng tiếc? Những đứa trẻ ấy lại chính là nạn nhân của Lucy?