Biarritz, thành phố nhỏ trên bờ biển miền Tây Nam nước Pháp đã mất đi nhiều vẻ quyến rũ của nó so với hồi đầu thế kỷ. Sòng bạc BeUevue một thời lừng danh nay đã đóng cửa vì phải tu sửa quá nhiều, còn sòng bạc Municipal trên phố Mazagran giờ đây là một tòa nhà tàn tạ với mấy cửa hiệu nhỏ và một trường dạy khiêu vũ. Các biệt thự cổ trên những sườn đồi cũng đã mang vẻ sa sút lắm rồi.
Tuy vậy, vào mùa đi nghỉ, khoảng từ tháng Bảy đến tháng Chín, những người giàu có, vương giả của châu Âu vẫn kéo tới đây để chơi bạc, tắm nắng và ôn lại dĩ vãng. Những người không có dinh thự riêng ở đây thì thường ngụ tại khách sạn Palais ở số 1 đại lộ Hoàng Đế. Vốn là một biệt điện mùa hè eủa Napoléon đệ Tam, khách sạn này nằm trên một mũi đất nhô ra Đại Tây Dương, trong một cảnh trí thiên nhiên tuyệt diệu:
một bên là ngọn đèn biển với những tảng đá tai mèo khổng lồ nhô lên sừng sững từ mặt biển xám xịt giống như những con quái vật thời tiền sử, và bên kia là con đường men sát theo bờ biển.
Một buổi chiều cuối tháng Tám, nữ bá tước người Pháp Marguerite de Chantilly bước vào gian tiền sảnh của khách sạn Palais. Đó là một phụ nữ trẻ, tao nhã với mái tóc vàng mềm mại. Nàng mặc chiếc váy dài Giveney bằng lụa màu xanh lục đốm trắng, tôn thêm vẻ đẹp của thân hình đến mức phụ nữ phải ngoái theo ghen ty còn đàn,ông thì há mồm thèm muốn.
Nữ bá tước lại bên người gác cửa. “Cho tôi xin chìa khóa buồng”, nàng nói bằng thứ tiếng Pháp rất quyến rũ.
“Có ngay, thưa nữ bá tước”. Anh ta đưa Tracy chiếc chìa khóa và mảnh giấy ghi lời nhắn lại qua điện thoại.
Trong lúc Tracy bước về phía thang máy, một người đàn ông đeo kính, ăn mặc xộc xệch đột ngột quay người khỏi chỗ trưng bày khăn quàng Hermes đụng vào nàng, làm chiếc ví nàng cầm trên tay rơi xuống sàn.
“Ồ, cô bạn”, ông ta nói. “Tôi hết sứe xin lỗi”, rồi nhặt lên và trao lại cho nàng. “Xin thứ lỗi cho tôi”. Người đàn ông nói giọng Trung Âu.
Nữ bá tước Marguerite de Chantilly khẽ gật đầu vẻ kiêu kỳ, bước đi.
Người phục vụ giúp nàng vào thang máy và đế nàng bước ra ở tầng ba.
Tracy đã chọn thuê phòng 312 vì biết rằng lựa chọn này cũng quan trọng như việc chọn khách sạn ở Capri, thì phải là phòng 522 khách sạn Quisisana. Ở Majorac phải là phòng Hoàng Gia của khách sạn Son Vida, trông ra các sườn núi và cửa biển đằng xa. Ở New York, phải là phòng Tower 4717 của khách sạn Helmslay Palace, còn ở Asterdam thì lại phải là phòng 325 của khách sạn Amstel, nơi mà du khách được ru ngủ nhờ tiếng sóng êm ái của dòng nước trong con kênh đào lớn.
Từ căn phòng 312 của khách sạn Palais nhìn ra có thế thấy một phong cảnh trải rộng của cả đại dương và thành phố. Từ các cửa sổ, Tracy đều có thể ngắm những con sóng ào ạt đập vào những tảng đá lớn nhô lên khỏi mặt biển. Ngay phía dưới cửa sổ là một bể bơi lớn hình bầu dục mà màu nướcs xanh trong của nó thật tương phản với màu xám của biển khơi, và cạnh nó là một bãĩ rộng nhấp nhô ô dù che nắng. Các bức tường trong phòng đều được phủ lụa màu xanh trắng, chân tường ốp đá hoa cương, thảm rèm đều một màu hồng nhạt. Các cánh cửa gỗ đều bóng lộn lên cùng với thời gian.
Khi đã khóa cửa lại, Tracy gỡ bỏ tóc giả và xoa xoa mặt. Nữ bá tước là vai trò nàng đóng khéo nhất. Có hàng trăm tước hiệu để chọn trong cuốn Hoàng tộc và tước vị của Debrett cũng như trong cuốn Niên giám Gotha. Các cuốn sách này hết sức quý giá đối với Tracy, bởi lẽ chúng cho biết lịch sử các dòng họ từ hàng thế kỷ, với tên tuổi cha mẹ, con cái, trường học, nhà cửa và nơi cư trú của họ. Chỉ cần đơn giản chọn một gia đình danh tiếng và trở thành một người họ xa, đặc biệt là một người họ hàng xa giàu có Con người ta dễ bị ấn tượng với những danh vọng và tiền của.
Tracy nghĩ về người đàn ông lạ mặt đâm choàng vào nàng dưới tiền sảnh và mỉm cười. Bắt đầu rời đây.
Tối đó, nữ bá tước Marguerite de Chantiliy đang ngồi trong tiệm rượu của khách sạn thì người đàn ông hồi chiều tiến lại bàn nàng.
“Xin lỗi”, ông ta dè dặt nói, “Tôi thấy cần phải một lần nữa xin cô thứ lỗi cho sự vụng về quá đáng của tôi lúc chiều”.
Tracy nở một nụ cười đầy vẻ khoan dung. “Có gì đâu.
“Đó là chuyện chẳng may mà”.
“Cô thật rộng lượng quá; Ông ta ngập ngừng. “Tôi sẽ thấy dễ chịu hơn nếu được phép mời cô một ly rượu”.
“Vâng nếu ông muốn vậy”.
Ông ta nhẹ nhàng ngồi xuống ghế đối diện. “Xin cho phép được tự giới thiệu. Tôi là giáo sư AdolfZuckerman”.
“Còn tôi là Marguerite de Chantilly”.
Zuckeman vẫy người bồi bàn. “Cô uống gì nhỉ?”.
“Sâm banh. Nhưng có lẽ ...”.
Ông ta giơ tay ra ý có tiền. “Tôi mời được mà. Thực ra thì tôi đang ở sát ngưỡng cửa khả năng mua được bất kỳ thứ gì trên thế giới này”.
“Thế ạ?” Tracy nhoẻn cười. “Ông thật nhiều diễm phúc”.
“Vâng”.
Zuckeman kêu một chai Bolliger, rồi quay sang Tracy, “Điều kỳ lạ nhất đã xảy đến với tôi. Thực ra thì chẳng nên nói chuyện này với một người lạ, nhưng tôi hồi hộp quá”. Ông ta dướn người gần lại và hạ giọng. “Nói thật với cô tôi chỉ là một giáo viên bình thường - hay nói Đúng ra là cho tới gần đây. Tôi dạy môn lịch sử. Cũng dễ chịu thôi nhưng cô biết đấy, không có gì hồi hộp cả”.
Nàng nghe với vẻ quan tâm đủ mức lịch sự.
“Nghĩa là không có gì hứng thú cho tới cách đây vài tháng”.
“Giáo sư Zuckeman, cho phép tôi hỏi, cách đây vài tháng có gì xảy ra vậy?”.
“Khi đớ tôi đang nghiên cứu về hạm đội Tây Ban Nha mà vua Philip phái đi đánh nước Anh hồi năm 1588 ấy, nhằm tìm kiếm các hiện vật sót lại để lôi cuốn đám sinh viên, và ngay trong kho lưu trữ của bảo tàng địa phương, tôi đã gặp một tài liệu quý báu mà không biết tại sao lại lẫn lộn vào những tài liệu khác.
Nó cung cấp tốt cả các chi tiết bí mật về cuộc viễn chinh này. Một chiếc tàu chở đầy vàng nén bị cho là đã chìm trong một cơn bão mà không hề để lại dấu vết gì”.
Tracy ngước nhìn, vẻ cân nhắc. “Cho là bị chìm?”.
“Đúng như thế. Nhưng theo các tài liệu mà tôi tìm thấy thì viên thuyền trưởng và đội thủy thủ đã cố ý đánh chìm con tàu trong một cái vịnh nhỏ hoang vắng với ý định sau này sẽ quay lại để vớt kho báu này lên. Thế nhưng họ đã bị bọn cướp biển sát hại trước khi có thể quay lại cái vịnh đó. Cái tài liệu này còn sót lại chỉ vì không một tên cướp biển nào biết viết hay biết đọc gì hết. Chúng không hề biết giá trị của cái mà chúng có trong tay”.
Giọng ông ta run run vì kích động. “Tôi có tài liệu đó, với các hướng dẫn chi tiết để có thể lấy lại chỗ vàng kia”.
“Ông giáo sư, thật là một phát hiện may mắn cho ông quá”. Giọng nàng đầy vẻ thán phục.
“Chỗ vàng nén đó hiện có thể trị giá tới 50 triệu đôla”.
Zưckeman nói. “Tất cả việc mà tôi phải làm là chỉ vớt nó lên”.
“Vậy cái gì đang ngăn cản ông?”.
Ông ta nhún vai lúng túng. “Tiền. Tôi phải thuê một chiếc tàu để trục vớt kho báu đó”.
“Tôi hiểu. Chuyện đó sẽ tốn bao nhiêu?”.
“Một trăm ngàn đôla. Phải thú nhận là tôi đã làm một điều cực kỳ ngu ngốc.
Tôi đã lấy hai mươi ngàn đôla, khoản tiền dành dụm của cả đời tôi, để đi tới đây, Biarrita, và vào một sòng bạc, hy vọng sẽ kiếm được đủ ...”.
Tiếng ông ta nghẹn lại.
“Và ông đã thua tốt”.
Ông ta gật đầu. Tracy thấy mấy giọt nước mắt ứa ra sau cặp kính.
Người phục vụ đưa sâm banh đến, bật nút chai và rót thứ chất lỏng ngọc ngà ấy vào hai chiếc ly.
“Chúc may mắn” ...Tracy nâng cốc.
“Cám ơn cô”.
Họ nhấm nháp từng ngụm nhỏ trong sự im lặng trầm ngâm.
“Xin lỗi vì đã bắt cô phải nghe những chuyện này”. Zuckeman nói. “Tôi đáng ra chẳng nên kêu ca vì những khó khăn của mình với một phụ nữ xinh đẹp như cô”.
“Nhưng tôi thấy câu chuyện của ông thật hấp dẫn”, Tracy đáp. “Ông chắc là chỗ vàng còn ở đó chứ?”.
“Không nghi ngờ gì cả. Tôi có trong tay các vận đơn nguyên bản và một bản đồ do chính tay viên thuyền trưởng vẽ. Tôi biết chính xác địa điểm của kho báu ấy”.
Tracy nhìn ông ta với vẻ mặt nghĩ ngợi, băn khoăn.
“Nhưng ông cần phải có một trăm ngàn đôla?”.
Zuckeman chép miệng buồn bã. “Vâng. Để có được cái kho báu trị giá năm mươi triệu”.
“Có thể là ...” Nàng ngừng bặt.
“Gì hả cô?”.
“Ông có nghĩ tới chuyện hùn vốn với ai khác không?”.
Ông ta ngạc nhiên. “Hùn ... chung vốn ư? Không. Tôi tính làm một mình.
Nhưng tốt nhiên, giờ tôi đã mất sạch cả tiền ...”. Giọng ông ta lại nghẹn ngào.
“Giáo sư Zuckeman, nếu như tôi sẽ đưa ông một trăm ngàn đôla?”.
Ông ta lắc đầu. “Dứt khoát là không, nữ bá tước ạ. Tôi không cho phép mình nhận tiền như vậy. Cô có thể mất tiền mà không được gì cả”.
“Nhưng nếu ông chắc chắn là kho báu nằm ở đó ...?”.
“Ồ về điều đó thì tôi chắc. Nhưng hàng trăm chuyện có thể xảy ra. Chẳng có gì bảo đảm cả”.
“Trong cuộc sống, ít có những bảo đảm. Câu chuyện của ông rất hấp dẫn. Có thể là, nếu tôi giúp được ông, thì cả hai chúng ta đều may mắn”.
“Không, tôi không bao giờ tha thứ cho mình được nếu vì chuyện không may nào đó mà cô mất không số tiền của mình”.
“Tôi có thể chấp nhận điều đó”, nàng quả quyết. “Và tôi sẵn sàng làm một hợp đồng về khoản đầu tứ của tôi mà, được chứ?”.
“Dĩ nhiên, chuyện đó là cần thiết”, Zuckeman thừa nhận. Ông ta ngồi im, ân nhắc vấn đề, giằng xé với những điều ái ngại. Sau cùng, ông ta nói, “Nếu đó là điều cô tự nguyện thì cô sẽ là bên chung vốn năm mươi phần trăm”.
Nàng mỉm cười hài lòng. “Được. Tôi chấp nhận”.
Ông giáo sư nói thêm ngay. “Tốt nhiên là sau khi trừ các khoản chi phí”.
“Lẽ tất nhiên. Chúng ta có thể sớm khởi sự chứ?”.
“Ngay lập tức”. Ông giáo sư đột nhiên trở nên hăng hái. “Tôi đã kiếm được chiếc tàu mà tôi muốn sử dụng. Nó có thiết bị nạo vét hiện đại và một đội thủy thủ bốn người.
Tất nhiên, chúng ta sẽ phải cho bọn họ một vài phần trăm nào đó của những gì mà chúng ta vớt lên được”.
“Chắc chắn là thế rồi”.
“Chúng ta nên bắt đầu càng sớm càng tốt, nếu không sẽ có thể chẳng thuê được chiếc tàu đó”.
“Trong năm ngày tôi sẽ giao tiền cho ông”.
“Tuyệt diệu!” Zuckeman kêu lên. “Vậy là tôi sẽ đủ thời gian để chuẩn bị. À, mà đây chỉ là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa hai chúng ta, có đúng thế không nhỉ?”.
“Thì còn nghi ngờ gì nữa?”.
“Chúc cho công cuộc của chúng ta “. Ông giáo sư nâng ly lên.
Tracy nâng theo và nói, “Chúc nó mang lại lợi nhuận đúng như tôi đã cảm thấy”.
Họ chạm ly. Tracy nhìn ngang căn phòng và lạnh người. Ở một bàn tít trong góc là Jeff Stevens đang nhìn nàng với nụ cười dễ chịu trên khuôn mặt.
Cùng với anh ta là một phụ nữ rực rỡ trong những đồ nữ trang quý giá.
Jeff gật đầu với Tracy, và nàng mỉm cười nhớ lại cái đêm thấy anh ta bên ngoài dinh thự của De Matigny, với con chó bên cạnh. Mình đã thắng một điểm nàng sung sướng nghĩ.
“Vậy nếu cô cho phép”, Zuckeman nó “Tôi còn nhiều việc phải làm. Tôi sẽ liên lạc với cô sau”. Tracy lịch thiệp chìa tay ra, ông ta hôn lên tay nàng và bước đi.
“Tôi thấy vị khách của cô, và tôi không thể tưởng tượng vì sao. Trông cô trong bộ tóc vàng này thật là tuyệt vời”.
Tracy ngước lên. Jeff đã đang đứng bên. Anh ngồi xuống chiếc ghế mà ít phút trước đó AdolfZuckeman đã ngơi.
“Xin chúc mừng”, Jeff nói. “Vụ De Matiglly thật là tuyệt vời. Rất gọn gang”?.
“Anh mà nói vậy thì quả là một sự đánh giá cao, Jeffạ”.
“Tracy, cô làm tôi mất món tiền lớn đấy”.
“Rồi anh sẽ quen với điều đó thôi”.
Anh xoay xoay chiếc ly đặt trước mặt. “Giáo sư Zuckeman muốn gì vậy?”.
“Ôi, anh biết ông ấy à?”.
“Cứ cho là như vậy đi”.
“Ông ấy ... ô ... muốn cùng uống một ly rượu thôi mà”.
“Và kể cho cô nghe về cái kho báu dưới đáy biển của ông ta chứ gì?”.
Tracy chợt cảm thấy lo ngại. “Làm sao anh biết chuyện đó?”.
Jeff nhìn cô đầy ngạc nhiên. Từng nói với tôi rằng cô đã chấp nhận chuyện đó. Một trò bịp cũ rích”.
“Nhưng lần này thì không đâu”.
“Ý cô nói là cô tin lão?”.
Tracy bướng bỉnh đáp, “Tôi không muốn thảo luận chuyện này, nhưng đúng là tình cờ mà ông giáo sư có được một số thông tin gốc”.
Jeff lắc đầu tỏ ý không tin. “Tracy, lão ta định bịp cô đấy. “Lão đã đề nghị cô đầu tư bao nhiêu”.
“Xin đừng bận tâm”, Tracy nói, vẻ khó chịu. “Chuyện đó chỉ liên quan đến tiền của tôi và nó là việc riêng của tôi mà”.
Jeff nhún vai. “Đúng thế. Chỉ mong cô đừng nói rằng thằng Jeff này đã không cố khuyên ngăn cô thôi”.
“Thế không phải là anh cũng quan tâm tới số vàng đó ư?”.
Anh giơ hai tay lên, vẻ thất vọng. “Sao cô luôn luôn ngờ vực tôi như vậy nhỉ?”.
“Thật đơn giản”, Tracy đáp. “Tôi không tin anh. Người phụ nữ đi cùng anh là ai vậy?” Nàng lập tức hối tiếc và chỉ ước giá mà rút lại được câu hỏi đó.
“ZSuzanne! Một người bạn thôi”, “Tất nhiên là giàu có”.
Jeff cười gượng gạo. “Quả thật là như vậy, tôi nghĩ rằng cô ta cũng có chút tiền của. Ngày mai mời cô đến ăn trưa với chúng tôi”.
“Cám ơn, tôi không hề nghĩ tới chuyện quấy quả bữa trưa của anh. Anh đổi lại cho cô ta cái gì vậy?”.
“Đó là chuyện cá nhân”.
“Tôi chắc là như vậy”. Giọng nàng chợt gay gắt tới không ngờ.
Qua vành ly, nàng trộm ngắm anh. Thật sự là hấp dẫn ghê gớm. Vóc dáng chắc nịch, gọn gàng, cặp mắt màu trò tuyệt đẹp với hai hàng lông mi dài, và trái tim của một con rắn. Một con rắn thông minh.
“Đã bao giờ anh nghĩ tới việc chuyển sang làm ăn hợp pháp chưa?” Tracy hỏi. “Có thể anh sẽ rất phát đạt đấy”.
Jeff giật nảy người. “Cái gì hả? Từ bỏ tốt cả cuộc sống này à? Cô đùa chắc”.
“Thế mãi mãi anh là một kẻ lừa đảo à?”.
“Lừa đảo chuyên nghiệp ư? Không, tôi là một nhà kinh doanh”, anh đáp quả quyết.
“Ành mà là một ... một ... nhà kinh doanh?”.
“Tôi chạy trốn khỏi gia đình từ năm 14 tuổi và gia nhập một gánh tạp kỹ”.
“Mới 14 tuổi ư?” Đó là chi bết đầu tiên mà Tracy biết đằng sau cái con người hào hoa, quyến rũ và phức tạp này.
“Điều đó là tốt cho tôi. Tôi học được cách phải sống. Khi cuộc chiến tranh lạ lùng xảy ra tại Việt Nam, tôi đã đầu quân vào lực lượng Mũ nồi xanh và được học hành tử tế Tôi cho rằng điều chủ yếu mà tôi đã học được chính là việc thấy rõ cuộc chiến tranh đó là một trò bịp lớn nhất. So với chuyện đó thì cô và tôi chỉ là những kẻ nghiệp dư mà thôi”. Anh đột ngột chuyển đề tài. “Cô có thích đi xem một trận Pơlôtta không?”.
“Nếu đó là một thứ đổi chác của anh thì xin cám ơn. Không dám”.
“Đó là một trò chơi. Tôi có hai vé xem tối nay, và Suzanne không thể đi được. Cô có muốn đi không?”.
Ngoài ý định của mình, Tracy đã buột miệng nhận lời. Họ cùng ăn với nhau ở một quán nhỏ bên quảng trường. Bữa ăn của họ có thứ rượu nho địa phương và món thịt vịt béo ngậy cùng với khoai tây chiên và bánh tây Tất cả đều thơm phức.
Vừa ăn họ vừa nói chuyện chính trị, văn chương và Tracy nhận thấy rằng Jeff có nhiều kiến thức đáng ngạc nhiên.
“Khi mà cô phải sống tự lập từ tuổi 14”, Jeff nói, “cô sẽ học được mọi thứ rất nhanh. Trước tiên cô sẽ biết về các động cơ hành động của mình, rồi biết về các động cơ của kẻ khác. Một trò lừa bịp cũng na ná như môn võ nhu đạo.
Trong môn nhu đạo, người ta giành thắng lợi bằng chính sức mạnh của đối thủ. Còn trong một trò bịp, người ta dùng tới lòng tham lam của con mồi. Hãy làm cử chỉ đầu tiên thôi, việc còn lại kẻ kia sẽ làm nốt cho mình”, Tracy mỉm cười, băn khoăn rằng liệu Jeff có biết họ giống nhau đến thế nào không. Nàng thấy thích thú được ở bên anh, nhưng tin chắc rằng hễ có cơ hội thì anh cũng chẳng ngần ngại chơi cho nàng một vố. Cần phải dè chừng anh ta và Tracy luôn luôn nhắc mình điều đó.
Trận Pơlôtta diễn ra trên một sân ngoài trời lớn bằng một sân bóng đá, nằm giữa khu đồi của vùng Biarritz.
Hai đầu sân là hai bức tường bê tông màu xanh, khá lớn, ở khoảnh giữa là sân bóng, hai bên là những hàng ghế đá dành cho người xem.
Trời chập choạng tối; các ngọn đèn pha được bật sáng. Lúc Tracy và Jeff đến, các khán đài đã Đông chật người hâm mộ, và hai đội bắt đầu thi đấu.
Cầu thủ của mỗi đội lần lượt ném mạnh trái bóng vào bức tường bê tông và rồi hứng nó bật ra bằng một cái rổ dài và hẹp buộc ngang trên tay họ. Pơlôtta là một môn chơi đầy tốc độ và nguy hiểm.
Mỗi khi một cầu thủ hứng bóng trượt, đám đông lại gào lên.
“Họ thật là đam mê”. Tracy nhận xét.
“Cả đống tiền được mang cá cược vào các trận đấu này. Dân Basque là rất máu mê cờ bạc”.
Vì người xem vẫn tiếp tục kéo đến nên các hàng ghế trở nên chật chội và Tracy thấy mình bị ép sát vào Jeff. Không biết anh có cảm thấy thân thể mình áp vào mình không, nhưng dù có, chắc cũng làm bộ không để ý.
Nhịp độ và sự quyết liệt của trận đấu mỗi lúc mỗi tăng và những tiếng la hét của đám đông vang lên ngày càng lớn.
“Nó có nguy hiểm thật không nhỉ?” Tracy hỏi.
“Thưa nữ bá tước, trái bóng kia bay trong không khí với tốc độ gần một trăm dặm một giờ. Nếu nó trứng đầu, cô sẽ chết ngay. Nhưng ít khi các cầu thủ để lỡ bóng lắm”.
Anh vừa nói vừa vỗ lên tay cô một cách lơ đãng, mắt vẫn dán vào trận đấu.
Các cầu thủ đều rất có kỹ thuật, di chuyển hợp lý và hoàn toàn khống chế bóng. Nhưng vào quãng giữa hiệp, hoàn toàn bất ngờ, một cầu thủ ném rất mạnh trái bong nhưng lại chệch hướng và bóng không lao vào bức tường bê tông mà lại la thẳng về phía chiếc ghế băng mà Tracy và Jeff đang ngồi. Người xem rạp người xuống tránh, còn Jeff túm lấy Tracy, đẩy xuống đất và nằm đè lên nàng. Họ nghe tiếng rít của trái bóng ngay phía trên đầu và đập vào bức tường chắn phía sau. Tracy, ngay lúc này, vẫn kịp cảm thấy tấm thân rắn chắc của Jeff. Mặt anh kề sát mặt nàng.
Anh giữ yên nàng trong giây lát, rồi nhổm người lên, kéo nàng đứng dậy.
Đột nhiên cả hai cùng cảm thấy ngượng ngập.
“Tôi ... tôi cho rằng sự hồi hộp, kích động trong một buổi tối thế là đủ rồi”, Tracy nói. “Tôi muốn quay về khách sạn”.
Họ tạm biệt nhau trong hành lang.
“Tôi rất thích thú buổi tối này”, Tracy nói với Jeff một cách thật tình.
“Tracy, cô sẽ không tiếp tục với cái kế hoạch mò kiếm kho báu điên khùng kia của Zuckeman chứ?”.
“Tôi sẽ tiếp tục”.
Anh nhìn nàng hồi lâu. “Cô vẫn nghĩ là tôi săn đuổi chỗ vàng ấy à?”.
Nàng nhìn thẳng vào mắt anh ta. “Thế không phải sao?”.
Mặt anh ta đanh lại. “Chúc may mắn”.
“Chúc ngủ ngon, Jeff”.
Tracy trông theo anh quay người bước ra khỏi khách sạn. Nàng nghĩ anh sẽ đến Suzanne. Tội nghiệp cô ta ...
Người gác cửa nói lớn. “A, chào nữ bá tước. Có một bức điện cho bà”.
Đó là điện của giáo sư Zuckeman.
Adolf Zuckeman đã gặp rắc rối. Một rắc rối to. Ông ta đang ngồi trong phòng của Armand Grangier và sợ đến mức đái cả ra quần. Grangier là chủ của sòng bạc bất hợp pháp trong một dinh thự riêng sang trọng ở số 132 phố Frias.
Với Grangier thì việc sòng Municipal mở hay đóng cửa cũng chẳng có gì phải bận tâm, bởi lẽ cái Câu lạc hộ ở phố Frias này của lão luôn đông đúc các vị khách giàu có. Khác với các sòng bạc do chính phủ kiểm soát, tiền đặt ở đây không hạn chế và khách có thể chơi các kiểu bài khác nhau tùy theo sở thích.
Khách hàng của Grangier gồm có các Hoàng tử ArẬp, các nhà quý tộc Anh, các thương gia phương Đông và các vị quốc trưởng Phi châu. Những cô gái mơn mởn trong các bộ đồ hở hang lượn lờ trong phòng sẵn sàng mang tới phục vụ những ly sâm banh hay uytxky biếu không, bởi lẽ từ lâu Armand Grangier đã biết rõ ràng, hơn bất kỳ ai khác, chính những kẻ giàu cc lại rất muốn kiếm được cái gì đó mà không phải bỏ tiền ra. Grangier sẵn lòng chấp nhận việc mời không những ly rượu. Các ván bài sẽ bù lại cho hắn.
Cái câu lạc bộ này luôn đầy ắp phụ nữ trẻ đẹp sánh vai với những quý ông lớn tuổi, và sớm muộn gì họ cũng bị lôi cuốn về phía Grangier. Hắn là một ông chủ nhỏ bé, nhưng có nét hoàn hảo, cặp mắt nâu tinh nhanh và cái miệng mềm mại đầy khêu gợi. Hắn cao có một mét sáu, vậy mà sự kết hợp giữa vẻ mặt và dáng nhỏ nhắn của hắn lại cuốn hút cáe phụ nữ như một thanh nam châm.
Grangier cư xử với mỗi phụ nữ mỗi khác.
“Em thật tuyệt diệu, em yêu ạ, nhưng không may cho cả hai ta, tôi lại đang yêu một người khác đến phát điên lên được”.
Mà Đúng thế thật. Mỗi tuần hắn lại thay một người đàn bà, bởi lẽ ở Biarritz này không bao giờ hết những phụ nữ trẻ đẹp cả, và Grangier chỉ dành cho mỗi người một chút thời gian nồng nhiệt ngắn ngủi.
Cái mối liên hệ của Grangier với thế giới ngầm và cảnh sát đủ mạnh để giúp hắn duy trì sòng bạc của mình. Hắn đã trở thành chủ sòng từ chỗ là một thằng bé sai vặt cho đám buôn ma túy, những ai chống lại hắn đều chỉ phát hiện ra rằng gã đàn ông bé nhỏ này quả là nguy hiểm khi đã quá muộn.
Lúc này Armand Grangier đang tra hỏi AdolfZukeman. “Hãy nói rõ hơn về cơn mụ bá tướe mà anh đã gạ gẫm vào vụ kho báu kia đi”.
Từ cái giồng giận dữ của hắn, Zuckeman hiểu rằng đã xảy ra chuyện gì tồi tệ, rất tồi tệ.
Ông ta nuốt nước bọt và nói. “Ờ, cô ta là một quả phụ có rất nhiều tiền do người chồng để lại, và cô ta nới là sẽ chịu một trăm ngàn đô la”. Ông ta tự tin hơn khi nghe tiếng của chính mình. Một khi đã nhận được số tiền đó, ta sẽ nói với cô ta là con tàu khốn kiếp kia đã gặp nạn và chúng ta cần thêm năm mươi ngàn. Rồi lại một trăm ngàn khác nữa, và ông biết đấy cứ như thế”.
Ông ta nhận thấy Armand Grangier lộ rõ vẻ khinh miệt. “Có ... có vấn đề gì?
“ Giọng Grangier lạnh như tiền. “Vấn đề là ở chỗ tôi mời nhận được một cú phôn từ người của tôi ở Paris gọi tới Hắn đã làm giả một hộ chiếu cho con mụ bá tước của anh. Tên ả là Tracy Whitney và ả là người Mỹ”.
Miệng Zuckeman chợt khô đắng. Ông ta liền nói. “Cô ta ... cô ta có vẻ thật lòng quan tâm mà”.
“Đồ ngu, ả là một kẻ lừa đảo chuyên nghiệp. Còn anh thì định lừa đảo một kẻ lừa đảo”.
“Vậy sao cô ta lại đồng ý? Tại sao cô ta lại không từ chối phắt đi?”.
Giọng Grangier lạnh tanh. “Tôi không biết. Thưa ông giáo sư Nhưng tôi quyết phải tìm ra điều đó. Và khi ấy, tôi sẽ cho ả ta đi tắm ngoài vịnh. Không kẻ nào có thể biến Armand Grangier này thành một thằng ngốc được.
Còn bây giờ thì cầm máy lên. Bảo cô ả rằng một người bạn của ông đã hứa góp một nửa số tiền, và rằng tôi sẽ đến gặp ả ngay. Ông có làm được việc đó hay không”.
Zuckeman vội vã. “Được. Xin đừng lo”.
“Tôi lo dấy”, Armand Grangier chậm rãi nói, “Tôi lo nhiều về ông, ông giáo sư ạ”.
Armand Grangier vốn không ưa những điều bí ẩn. Cái trò một kho báu dưới đáy biển người ta đã diễn hàng thế kỷ nay nhưng nạn nhân phải là những tay khờ khạo cơ.
Không đời nào một kẻ lừa đảo chuyên nghiệp lại mắc vào trò này cả. Chính điều bí ẩn đó đã làm Grangier bứt rứt không yên và định làm cho ra nhẽ. Và khi hắn đã có câu trả lời thì người phụ nữ kia sẽ được giao cho Brune Vicente.
Brunne rất khoái trò vờn giỡn với nạn nhân của mình trước khi thủ tiêu họ.
Armanđ Grangier bước ra khi chiếc xe sang trọng dừng lại trước khách sạn Palais. Hắn tiến lại chỗ Jules Bergerac, một người Basque tóc bạc trắng đã làm việc tại khách sạn này từ khi mới mười ba tuổi.
“Số phòng của nữ bá tước Marguerite de Chantilly”.
Có một quy định nghiêm ngặt cấm các nhân viên tiết lộ số phòng của khách, nhưng mọi quy định không được áp dụng với Armand Grangier.
“Buồng số 312, thưa ông Grangier”.
“Cám ơn”.
“Và cả phòng 311 nữa”.
“Grangier dừng phắt lại. Hả?”.
“Nữ bá tước thuê cả hai căn_phòng liền luôn với khu phòng của bà ấy”.
“Ô? Thế ai ở đó?”.
“Không có ai”.
“Không có ai? Anh chắc chứ?”.
“Vâng, thưa ông. Bà ta luôn khóa kín. Hầu phòng cũng không được vào mà”.
Vẻ cau có lộ rõ trên mặt Grangier. “Anh có chìa vạn năng chứ?”.
“Tất nhiên”.
Không một giây lưỡng lự, ông ta trao nó cho Armand Grangier. Jules Bergerac trông theo trong lúc Grangier bước về phía thang máy. Không ai dám cãi lại hắn cả.
Tới trước căn phòng của nữ bá tước, Armand Grangier thấy cửa để ngỏ. Hắn đẩy toang hai cánh ra và bước vào. Phòng khách trống không. “Hello? Có ai ở đây không?”.
Một giọng phụ nữ vọng ra từ một phòng khác. “Tôi đang tắm. Tôi ra ngay đây. Xin cứ tự nhiên cho”.
Grangier đi lại ngó nghiêng, mọi thứ đều là quen thuộc bởi lẽ trong nhiều năm qua hắn đã dàn xếp cho nhiều bạn bè tới ở khách sạn này. Hắn sộc vào phòng ngủ. Những đồ nữ trang đắt tiền để bừa bãi trên mặt bàn phấn.
“Tôi sẽ ra ngay đây”, vẫn giọng nói ấy từ phòng tắm vọng ra.
“Đừng vội vàng, nữ bá tước”.
“Bá tước cái cục cứt” Hắn cáu kỉnh chửi thầm. “Được, dù ngươi có giở trò gì ra đi nữa thì ngươi cũng sẽ bị quật lại, cô em yêu quý ạ. Hắn bước tới cái cửa thông sang phòng 311 kế bên. Cửa khóa, Grangier dùng chiếc chìa vạn năng để mở. Không khí trong phòng ngột ngạt. Jules nói là không có ai ở đây cả. Vậy tại sao ả lại cần?
Grangier chợt thấy lạ mắt. Một sợi dây dẫn điện màu đen, to tướng cắm vào một ổ điện trên tường, bò dọc trên sàn và biến mất vào phỏng vệ sinh. Cánh cửa nhỏ này chỉ hé mở đủ để sợi dây luồn qua được. Grangier không nén nổi tò mò, bước lại mở cánh cửa ra.
Một dãy những đồng một trăm đôla được cặp trên một sợi dây căng ngang để hong khô. Trên chiếc bàn nhỏ đặt chiếc máỷ chữ có một vật gì đó được đậy bằng một tấm vải Grangier giật tấm vải ra và thấy một chiếc máy in nhỏ mà trong đó vẫn còn tờ một trăm đôla còn đang ướt.
Cạnh chiếc máy in là một xấp giấy trắng cỡ bằng đồng tiền Mỹ và một bộ dao xén giấy. Vài tờ giấy bị cắt lẹm nằm vương vãi dưới sàn nhà.
Một giọng giận dữ sau lưng Grangịer. “Ông vào dây làm gì hả?”.
Grangier quay phắt lại. Tracy Whitney đứng sững sau lưng hắn, tóc ướt sũng, mình chỉ quấn có chiếc khăn tắm.
Armand Grangier nói nhẹ. “Tiền giả? Cô định giao cho chúng tôi tiền giả”.
Hắn quan sát vẻ thay đổi trên khuôn mặt nàng. Bác bỏ giận dữ và rồi là vẻ thách thức.
“Đúng vậy”. Tracy thừa nhận. “Nhưng cũng chẳng hề gì.
Không thể nào phải biệt chúng với đồng tiên thật cơ mà.”.
“Bịp”.
“Những đồng tiền này cũng có giá như vàng vậy”.
“Thế cơ à?” Giọng Grangier đầy vẻ khinh bỉ. Hắn gỡ mấy tờ giấy bạc còn ướt từ trên dây xuống yà chăm chú nhìn hết mặt này, rồi mặt kia, và rồi xem xét kỹ lưỡng hơn. Chúng thật hoàn hảo. “Ai làm cái mẫu in này?”.
“Việc đó thì liên quan gì nào? Xem đây, tôi sẽ làm xong một trăm ngàn đô la vào thứ sáu này”.
Grangier sững người. Và khi nhận ra điều mà nàng đang nghĩ, hắn cười phá lên. “Lạy Chúa”, hắn nói.”Cô thật ngu ngốc. Không hề có kho báu nào hết”.
Tracy lúng túng. “Ý ông nói gì, không có kho báu nào à? Giáo sư Zuckeman đã nói với tôi ...”.
“Và cô tin ông ta à? Thật nực cười, thưa nữ bá tước”.
Hắn xem lại đồng bạc trong tay một lần nữa. “Tôi sẽ giữ tờ 100 này”.
Tracy nhún vai. “Ông thích bao nhiêu thì cứ lấy. Nó chỉ là thứ giấy lộn”.
Grangier vơ một nắm những tờ đô la một trăm còn ướt ..Sao cô lại tin rằng đám hầu phòng sẽ không vào đây hả?” Hắn hỏi.
Tôi đã dúi tiền cho chúng rồi. Và khi đi vắng, tôi luôn khóa cửa này”.
Ả cũng khá đấy. Armand Grangier nghĩ - nhưng cũng chẳng đủ để cứu sống ả.
“Không được rời khách sạn”, hắn hạ lệnh. “Tôi muốn cô gặp một người bạn của tôi”.
Armand Grangier đã định giao người đàn bà này cho Brune Vieente ngay, nhưng một linh tính nào đó đã giữ hắn lại. Hắn kiểm tra lần nữa một trong số những tờ bạc.
Cả đống bạc giả từng qua tay hắn, nhưng không có tờ nào có thể sánh với tờ này. Thằng cha nào đúc cái bản in quả là tài năng. Tờ bạc có cảm giác như thật, các đường nét đều gọn gàng, tinh tươm. Màu sắc rõ nét và chính xác, thậm chí dù là còn ướt mà chân dung Benjimin Franklin trên đó vẫn hoàn hảo. Con mụ khốn kiếp kia nói cũng đúng. Khó mà phân biệt được tờ bạc hắn cầm trong tay với đồng tiền thật. Grangier áy náy không biết liệu có thể mang dùng nó như tờ bạc thật hay không. Đó là một ý nghĩ đầy cám dỗ.
Hắn quyết định chưa cho Brưne Vicete biết vội gọi Zucke- man tới và đưa cho ông ta một trong số mấy tờ một trăm đô la giả. “Mang đến nhà băng và đổi sang đồng Phrăng”.
Grangier nhìn theo trong lúc ông ta vội vã bước ra khỏi phòng. Đó là sự trừng phạt đối với những ngu xuẩn của Zuckeman. Nếu bị bắt, ông ta cũng sẽ không há miệng nói đã nhận tờ bạc giả từ ai, nếu như ông ta muốn sống. Nhưng nếu ông ta có thể tiêu được tờ bạc trót lọt ...
Để xem đã, Grangier nghĩ.
Mười lăm phút sau Zuckeman quay lại, đếm đủ số Phrăng vừa đổi được bằng tờ một trăm đô la. “Còn gì không sếp?”.
Grangier nhìn những đồng Phrăng. “Anh có gặp khó khăn gì không?”.
“Khó khăn? Không! Nhưng sao ạ?”.
“Tôi muốn anh quay lại, vẫn nhà băng đó”, Grangier hạ lệnh tiếp. “Tôi muốn anh nói rõ thế này ...”.
Adolf Zuckeman bước vào gian tiền sảnh của Ngân hàng Pháp và đến trước chiếc bàn mà viên quản lý đang ngồi.
Lần này thì Zuckeman ý thức được mối nguy hiểm, nhưng thà ông ta chấp nhận điều đó còn hơn là cơn giận của Grangier.
“Tôi có thể giúp gì ông được?” Viên quản lý hỏi.
“Vâng”, ông ta cố giấu nỗi sợ hãi, “Đêm qua tôi có chơi bài với mấy người Mỹ mà tôi gặp trong quán rượu”. Ông ta ngừng bặt.
Viên quản lý gật đầu ranh mãnh. “Và ông thua sạch cả tiền nên muốn vay một khoản chứ gì?”.
“Không”, Zuckeman nói, “Thật ... là tôi được. Chỉ có điều là tôi thấy mấy người kia không có vẻ thật thà gì”. Ông ta rút ra hai tờ 100 đô la “Họ trả tôi số tiền này và tôi sợ, rằng đó ... có thể lả bạc giả”.
Zuckeman nín thở khi người quản lý nhà băng vươn người ra và đỡ lấy mấy tờ bạc từ bàn tay béo múp của ông ta. Viên quản lý xem xét hai tờ bạc một cách thận trọng, mặt bên này rồi mặt bên kia rồi giơ chúng lên trước ánh sáng.
Ông ta nhìn Zuckeman và mỉm cười. “Ông đã gặp may, thưa ông. Đây là những đồng tiền thật”.
Zuckeman thở phào nhẹ nhõm. ơn Chúa? Mọi thứ đều ổn ca.
“Thưa sếp, không có gì rắc rối. Hắn ta nói chúng là tiền thật”.
Thật là quá mức tưởng tượng. Armand Grangier ngồi lặng suy tính, một kế hoạch đã hình thành trong óc hắn.
“Kiếm mụ bá tước lại đây”.
Tracy được để ngồi trong phòng của Armand Grangier, đối diện với hắn qua chiếc bàn trang trọng.
“Cô và tôi sẽ là bạn chung doanh”, Grangier thông báo.
Tracy nhổm dậy. “Tôi không cần một bạn hàng và ...
“Ngồi xuống”.
Nàng nhìn vào mắt Grangier và ngồi xuống.
“Biarritz này là của tôi. Cô thử cứ tiêu, dù chỉ một tờ trong số bạc đó, cô sẽ bị bắt nhanh đến nỗi không biết vì sao nữa. Hiểu chưa? Nhiều điều tồi tệ thường xảy ra với các cô gái xinh đẹp trong nhà tù của chúng tôi. Ở đây không có tôi, cơ không thể động chân động tay gì được”.
“Vậy là tôi mua sự bảo hộ từ ông à?”.
Cô nhầm. “Cái cô đang mua từ tôi là sự sống của chính cô đấy”.
Tracy tin vào điều đó.
“Bây giờ, cho tôi biết cô đã kiếm được cái máy in kia từ đâu vậy?”.
Tracy lưỡng lự và sự giằng xé đó làm cho Grangier khoái chí. Hắn theo dõi vẻ đầu hàng của nàng.
“Tôi mua được nó từ một người Mỹ sống ở Thụy Sĩ. Ông ta là chuyên gia khắc bản in của trung tâm in tiền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong hai mươi lăm năm, và khi họ cho ông ta nghỉ hưu thì có một trục trặc gì đó về lương hưu và do vậy, ông ta chưa hề nhận được một xu nào.
Ông ta thấy mình bị lừa dí và quyết định tự giành lại sự công bằng, vì thế ông ta đánh cắp các bản in đồng một trăm đô la mà lẽ ra đã bị hủy bỏ và sử dụng các mối quen biết để kiếm loại giấy mà Bộ Tài chính dùng để in tiền”.
Ra vậy, Grangier hân hoan nghĩ, vì thế mà trông tờ bạc cứ như thật. Sự hồi hộp của hắn tăng lên. “Mỗi ngày cái máy đó có thể in ra bao nhiêu tiền?”.
“Mỗi giờ chỉ được một tờ. vì mỗi mặt giấy phải được xử lý và ...”.
Hắn cắt ngang. “Có một máy in cỡ lớn hơn không?”.
“Có, ông ta có một cái máy cứ tám giờ thì cho ra được 50 tờ - năm ngàn đô la một ngày - nhưng ông ta đòi giá nửa triệu đô la”.
“Mua đi”, Grangier nói.
“Tôi đào đâu ra nửa triệu đô la?”.
“Tôi có. Bao giờ thì cô có thể kiếm được cái máy đó?”.
Nàng miễn cưỡng. “Lúc này, tội cho rằng, nhưng tôi không ...”.
Grangier nhấc điện thoại lên và nói vào máy. “Louis, tôi cẩn một số tiền trị giá năm trăm ngàn đô la Mỹ. Lấy tốt số ta có sẵn trong két và kiếm số còn lại từ các nhà băng; mang tới chỗ tôi, nhanh lên”.
Tracy sợ hãi đứng dậy. “Tốt nhất là tôi đi khỏi đây và ...”.
“Cô không đi đâu hết”.
“Tôi thật sự phải ...”.
“Hãy ngồi xuống và im đi tôi đang cần suy nghĩ”.
Hắn có những người bạn liên doanh đáng phải được tham gia vào vụ làm ăn này, nhưng họ đâu có thấy đau với điều mà họ không hề biết cơ chứ. Grangier quyết định sẽ mua cái máy lớn cho chính hắn và trả lại vào tài khoản của sòng bạc số tiền mà hắn đã mượn tạm bằng những đồng tiền mà hắn sẽ mang ra. Sau đó, hắn sẽ bảo Brune Vicente xử lý người đàn bà này. Cô ta không thích có bạn hàng.
Ở, Armand Grangier này cũng không thích.
Hai giờ sau, một túi tiền lớn được chuyển tới. Grangier nói với Tracy. “Cô sẽ trả buồng ở khách sạn Palais. Tơi có một ngôi nhà ở khu đồi ven ngoại, rất riêng biệt. Cô sẽ ở đó cho đến lúc mọị thứ đi vào hoạt động”.
Hắn đẩy chiếc điện thoại về phía nàng. “Bây giờ thì gọi người quen của cô ở Thụy S và báo ông ta rằng cô mua chiếc máy đó”.
“Tôi để số máy của ông ta ở khách sạn. Tôi sẽ gọi từ đó vậy. Cho tôi biết địa chỉ ngôi nhà của ông, và tôi sẽ báo ông ta chuyển cái máy tới đó và ...”.
“Không” Grangier quát lên. “Tôi không muốn để lại dấu vết gì. Tôi sẽ nhận nó tại sân bay. Ta sẽ bàn chuyện đó tối nay, trong bữa ăn. Tôi sẽ đến gặp cô lúc giờ tối”.
Tracy đứng dậy.
Grangier hất hàm về phía túi tiền. “Cẩn thận với chỗ tiền. Tôi không muốn có chuyện gì xảy đến với nó ... hoặc với cô cả”.
“Sẽ không có gì đâu”, Tracy bảo đảm với hắn.
Hắn cười uể oải. “Tôi biết. Giáo sư Zuckeman sẽ đưa cô về khách sạn”.
Hai người lặng im ngồi trong xe, túi tiền để giữa, mỗi người đều mải mê với những suy nghĩ riêng của mình.
Zuckeman thì không biết chắc chuyện gì đang diễn ra, khi cảm giác rằng mọi chuyện sẽ tốt đối với ông ta. Người đàn bà này là clliếc chìa khóa, và Grangier đã lệnh cho ông ta phải canh chừng cẩn thận. Zuckeman sẽ cố làm đúng lời hắn.
Tối hôm đó, Armand Grangier ở trong một tâm trạng hết sức phấn chấn.
Vào giờ này, chuyện mua chiếc máy in lớn kia hẳn đã được dàn xếp xong. Cô ả Whitney nói rằng nó có thể in ra 5000 đô la mỗi ngày, nhưng Grangier muốn làm hơn thế. Hắn định bụng cho chiếc máy hoạt động 24 giờ liên tục. Điều đó sẽ mang lại mỗi ngày 15.000 đô la, hơn 100.000 đô la mỗi tuần, và cứ mười tuần thì được một triệu. Và đó mới chỉ là bắt đầu. Tối nay hắn sẽ biết thằng cha khắc bản in kia là ai vả sẽ hợp đồng đặt làm thêm nhiều chiếc máy nữa. Sẽ không có giới hạn nào đối với số tiền mà hắn muốn có cả.
Đúng 20 giờ, chiếc xe sang trọng của Grangier trườn vào con đường cong lên cửa khách sạn Palais, và Grangier bước ra khỏi xe. Trong lúc đi vào tiền sảnh khách sạn, hắn hài lòng nhận thấy Zuckeman ngồi gần đó, chăm chú để mắt tới cửa ra vào.
Grangier bước lại bàn tiếp tân. “Jules, nói với nữ bá tước De Chantilly là tôi đã đến. Bảo bà ta xuống đây đi”.
Ông già ngẩng đầu lên “Thưa ông Grangier, bà bá tước đã trả phòng và đi rồi”.
“Anh nhầm đấy. Gọi bà ta đi”.
Jules Bergerac cảm thấy lo ngại. Tranh cãi với Armand Grangier thì chẳng lợi lộc gì. “Chính tôi đã làm thủ tục thanh toán cho bà ta mà”.
“Vô lý! Khi nào?”.
“Ngay sau khi trở về khách sạn. Bà ta yêu cầu tôi mang hóa đơn lên phòng để có thể trả thẳng bằng tiền mặt ...”.
Armand Grangier đlên đầu lên. “Tiền mặt? Đồng Phrăng Pháp à?”.
“Đúng như vậy, thưa ông”.
Grangier cuống cuồng. “Mụ ta có mang gì đi không” Vali hay hòm xiểng gì đó?”.
“Không. Bà ta nói là sẽ yêu cầu gửi hành lý sau”.
Vậy là ả đã lấy tiền của mình và đi Thụy Sĩ để mua cho chính ả cái máy kia rồi ... Grangier nghĩ.
“Đưa tôi lên phòng cô ta. Mau lên”.
“Vâng, thưa ông Grangier”.
Jules Bergerac vớ vội chiếc chìa khóa treo trên móc và cùng Grangier lao vào thang máy.
Ngang qua chỗ Zuckeman đang ngồi, Grangier rít lên. “Ngồi đây làm gì hả đồ ngu? Ả chuồn mất rồi”.
Zuckeman ngước nhìn ngơ ngác. “Cô ta chưa thể đi được Cô ta chưa hề xuống tới tiền sảnh này. Tôi đã luôn để mắt mà”.
“Để mắt tới cô ta?” Grangier quát “Anh có để mắt tới một cô y tá ... một bà già tóc hoa râm ... một cô hầu phòng đi ra đằng cổng phụ không”?
Zuckeman lúng túng, “Sao lại phải thế ạ?”.
“Về sòng bạc ngay”, Grangier quát lên, “Tôi sẽ giải quyết với anh sau”.
Căn phòng vẫn y nguyên như Grangier đã thấy lần trước. Cánh cửa thông sang phòng bên mở toang. Grangier bước vào yà Chạy vội về phía phòng vệ sinh, đẩy tung cánh cửa ơn Chúa, cái máy in vẫn còn đó. Cô ả Whitney đã quá vội chuồn mà không kịp mang theo nó. Và đó không phải là sai lầm duy nhất của ả. Grangier nghĩ. Ả đã lừa của hắn 500.000 đô la và hắn sẽ báo thù. Hắn sẽ báo cảnh sát giúp tìm ra và tống cổ ả vào tù, nơi mà tay chân của hắn có thể sờ tới được. Chúng sẽ buộc ả phải nói ra kẻ khắc bản in là ai và rồi bắt ả im miệng hẳn.
Armand Grangier quay số máy của sở cảnh sát và yêu cầu được nới chuyện với thanh tra Dumont. Hắn vội vã nói vào máy vài ba phút liền rồi bảo. “Tôi sẽ chờ ở đây”.
Mười lăm phút sau, bạn của hắn thanh tra Dumont đã đến, cùng đi có một người đàn ông với dáng người và vẻ mặt xấu xí nhất mà Grangier từng thấy.
Trán ông ta như sắp bung ra khỏi khuôn mặt, đôi mắt nâu như bị che khuất sau cặp kính dày và cái nhìn của một kẻ cuồng tín.
“Đây là ông Daniel Cooper”, thanh tra Dumont nới.
“Ông Cooper cũng rất quan tâm đến người đàn bà mà anh đã gọi điện báo”.
Cooper lên tiếng. “Ông đã báo với thanh tra Dumont rằng cô ta dính líu tới một hoạt động làm bạc giải.
“Đúng vậy. Ả ta đang trên đường đi Thụy Sĩ vào lúc này. Các ông có thể tóm cô ta ở biên giới. Tôi có các bằng chứng mà các ông cần ở ngay đây”.
Hắn dẫn họ tới phòng vệ sinh, Damel Cooper và thanh tra Dumont nhìn vào trong.
“Có cái máy in mà cô ả dùng để in tiền giả”.
Daniel Cooper bước tới bên chiếc máy và cẩn thận xem xét nó. “Cô ta đã in tiền bằng cái máy này à?”.
“Thì tôi đã nói với ông vậy mà”, Grangier gắt lên. Hắn rút từ trong túi ra một tờ bạc. “Các ông trong đây. Đây là một trong số những tờ bạc giả mà ả đưa cho tôi”.
Cooper bước tới bên cửa sổ và giơ tờ bạc lên trước ánh sáng. “Đây là một tờ bạc thật”.
“Trông nó giống vậy thôi. Bởi lẽ ả sử dụng các bản in đánh cắp mà ả mua lại của một chuyên gia khắc bản in từng làm việc tại trung tâm in tiền ở Philadelphia. Ả đã in những tờ bạc đó trên cái máy này”.
Cooper thô bạo nói, “Ông thật ngu xuẩn. Đây chỉ là một cái máy in bình thường. Thứ duy nhất mà ông có thể in bằng chiếc máy này là phần đầu một bức thư tên người, địa chỉ ...”.
“Phần đầu thư?”. Cả căn phòng bắt đầu quay cuồng.
“Ông thật sự tin câu chuyện hoang đường về một cái máy có thể biến giấy lợn thành những tờ bạc một trăm đô la thật à?”.
“Tôi đảm bảo với các ông là tôi đã nhìn thấy tận mắt ...” Grangier ngừng bặt.
Hắn đã nhìn thấy gì? Vài tờ một trăm đô la ướt được phơi trên dây, vài xấp giấy trắng và bộ dao xén. Sự thật tàn nhẫn của một vụ lừa đảo bắt đầu hiện ra trong óc hắn. Không có vụ làm bạc giả nào hết, cũng không mang thằng cha khắc bản in nào đang chờ ở Thụy Sĩ cả Tracy Whitney đã không hề bị mắc bẫy với câu chuyện về cái kho báu bị chìm kia. Con mẹ khốn kiếp đó đã dùng chính cái âm mưu của hắn làm miếng mồi nhử để lừa hắn nửa triệu đô la. Nếu chuyện này mà lan ra ...
Hai người kia đứng nhìn hắn.
“Ông có muốn tố cáo cô ta về tội gì khác nữa không, Armand? “ Thanh tra Dumont hỏi.
Làm sao được cơ chứ. Hắn biết nới gì được? Rằng hắn đã bị lừa trong khi toan tính tài trợ cho một vụ làm bạc giả ư? Và đồng bọn của hắn sẽ xử với hắn thế nào khi biết hắn đã lấy nửa triệu đô la của họ và quăng qua cửa sổ Hắn đột nhiên thấy ớn lạnh khắp người.
“Không. Tôi ... tôi không muốn tố cáo gì nữa”. Giọng hắn đầy vẻ hoảng hết.
Châu Phi, Armand Grangier nghĩ. Họ sẽ không bao giờ tình ra mình ở châu Phi cả.
Daniel Cooper ngẫm nghĩ - lần sau. Lần sau mình sẽ tóm cô ta.
Chính Tracy đã đề nghị với Gưnther Hartog rằng họ sẽ gặp nhau ở Majorca. Tracy rất yêu hòn đảo nay. Nó là một trong những thắng cảnh đẹp nhất thế giới. bên cạnh đó”, nàng nói với Gunther. “Nó đã từng là nơi trú ngụ của bọn cướp biển. ở đó chúng ta hẳn sẽ thoải mái như ở nhà vậy”.
“Có lẽ tốt nhất là đừng để người ta thấy chúng ta ở cạnh nhau”, ông ta đề nghị.
“Tôi sẽ lo liệu việc đó”.
Chuyện đã bắt đầu với cú điện thoại của Gunther từ London gọi đến. “Tôi có một việc hoàn toàn bất thường dành cho cô, Tracy ạ. Tôi nghĩ, cô sẽ thấy nó thật sự là một thách thức.
Sáng hôm sau, Tracy bay tới Pạlma, thủ phủ của đảo Maiorca. Do bức thông điệp đỏ của Interpol về Tracy, nên việc nàng rời Biamtz đến Maiorca đã được thông báo cho giới chức địa phương. Ngay sau khi Tracy thuê căn hộ Hoàng gia tại khách sạn Son Vida, một đội ngoại tuyến đã được phái tới để theo dõi nàng trên 24 giờ.
Arnesto Marze, cảnh sát trưởng của Palma, đã có cuộc nói chuyện với thanh tra Trigllant của Interpol.
“Tôi tin”, thanh tra Trignant nói, “rằng Tracy Whitney chính là người phụ nữ duy nhất gây ra đợt song tội phạm hiện nay”.
“Thật đáng buồn cho cô ta. Nếu gây ra một tội ác nào ở Majorca này thì cô ta sẽ thấy sự trừng phạt của công lý nhanh chóng và chính xác đến mức nào”.
Thanh tra Trignant nói, “Thưa ngài, tôi còn muốn nói thêm một điều nữa”.
“Vâng?”.
“Ngài sẽ có một người khách Mỹ. Tên ông ta là Daniel Cooper”.
Các thám tử theo dõi Tracy dường như thấy nàng chỉ bận tâm với mỗi việc ngắm cảnh. Họ đã theo sát khi nàng đi vòng vòng quanh đảo, thăm tu viện thánh Francisco, Lâu đài Bellver tráng lệ và bãi biển Illetas. Nàng đã vào xem một trận đấu bò tót và thường đến ăn ở tiệm Plaza de la Reine, và luôn luôn chỉ có một mình”.
Nàng đã thực hiện các chuyến đi tới Formentor, Valdemosa, La Granji và thăm các xưởng chế biến ngọc trai ở Manacor.
Các thám tử đã báo cáo với Arnesto Marze. “Cô ta đến đây là để du lịch, thưa ông cảnh sát trưởng”.
Cô thư ký của viên cảnh sát trưởng bước vào báo. “Có một người Mỹ, ngài Daniel Cooper, đến xin gặp ngài”.
Cảnh sát trưởng Marze có nhiều bạn bè Mỹ Ông ta thích người Mỹ, và có cảm giác rằng bất chấp những điều thanh tra Trignant đã nói, ông ta cũng sẽ thích Daniel Cooper này như thường.
Ông ta đã nhầm.
“Tất cả các ông là những kẻ khờ”, Daniel Cooper quát lên. “Chắc chắn là cô ta không đến đây chỉ để vãn cảnh. Cô ta phải đang săn đuổi một thứ gì đó”.
Khó khăn lắm, cảnh sát trưởng Marze mới kiềm chế nổi. “Thưa ông, chính ông đã nói rằng các mục tiêu của cô Whitney luôn là những gì đặc biệt, rằng cô ta thích làm những thứ dường như là không thể làm được. Ông Cooper, tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng rồi. Ở Majorca không có gì hấp dẫn đối với tài năng của Whitney cả”.
“Cô ta có gặp ai ... nói chuyện với ai không?”.
Giọng hắn thật là xấc xược, Marze nghĩ bụng. “Không. Không ai hết”.
“Vậy cô ta sẽ phải gặp ai đó”. Daniel Cooper nói chắc nịch.
Cảnh sát trưởng Marze tự nhủ, sau cùng thì mình đã biết vì sao họ lại gọi hắn là gã người Mỹ xấu xa.
Có hai trăm hang động mà người ta đã biết đến trên đảo Majorca, nhưng kỳ thú nhất là Cuevas del Drach “Hang con Rồng”, ở gần Porto Cristo, cách Palma chừng một giờ xe chạy. Những nhánh hang từ ngàn đời ăn sâu vào lòng đất, những vòm động mênh mông nhấp nhô đầy những thạch nhũ, bầu không khí hoàn toàn tĩnh mịch trừ tiếng róc rách của những suối ngầm mà màu nước khi thì xanh lục, xanh da trời, hoặc trắng trong tùy” theo các độ sâu khác nhau.
Những hang động ở đây là cả một công trình kiến trúc ngà ngọc nơi tiên giới, một chốn mê cung hư ảo, với ánh sáng mờ mờ của những ngọn đuốc vĩnh hằng đâu đó.
Không ai được phép vào hang mà không có người hướng dẫn, vậy mà ngay từ sáng, tưởng chừng như các vòm động trong hang đều đã chật kín cả rồi.
Tracy chọn ngày thứ bảy để tới thăm hang, ngày đông nhất, với hàng trăm khách du lịch đổ đến từ những nước trên thế giới. Nàng mua vé trước một ghi sê nhỏ và lẫn vào trong đám đông. Danlel Cooper cùng hai nhân viên của cảnh sát trưởng Marze theo sát bên nàng. Một người hướng dẫn đưa các du khách lần theo một lối đi hẹp và trơn vì những giọt nước nhỏ xuống từ các nhũ đá.
Có những vòm đá lớn mà du khách có thể tạt vào để chiêm ngưỡng những khối đá có hình thù giống như những cơn chim, con thú hoặc như những loài cây. Dọc lối đi hẹp với ánh sáng yếu ớt đó có những khoảng tối đen và ở một đoạn như thế Tracy đã biến mất.
Daniel chạy vội lên phía trước, nhưng không hề thấy bóng nàng. Đám đông chuyển dịch liên tục đã khiến cho việc phát hiện ra nàng là không thể được. Ông ta không thể biết nàng đang ở phía trước hay phía sau mình nữa. Cô ta đang toan tính một âm mưu gì? Cooper tự nhủ. Bằng cách nào? ô đâu? Và định cuỗm cái gì mới được chứ?
Trong một cái động ở khu vực thấp nhất của hang Rồng này, bên hồ nước, là một nhà hát kiểu La Mã. Các hàng ghế đá được sắp đặt dành cho khán giả và khách vãn cảnh có chỗ ngồi trong bóng tối, chờ đợi buổi diễn bắt đầu.
Tracy vừa đi vừa đếm, tới hàng ghế thứ hai mươi thì len lỏi vào chiếc ghế thứ hai mươi. Người đàn ông ngồi trên chiếc ghế thứ hai mươi mốt quay sang.
“Có rắc rối gì không?”.
“Ồ không, Gunther”. Nàng hôn lên má ông ta.
Gunther nói gì đó, và vì những tiếng ồn xung quanh, nàng phải ghé tai để nghe cho rõ.
“Tôi nghĩ rằng, tất nhất là đừng để họ thấy chúng ta ngồi cạnh nhau, ngừa trường hợp cơ đang bị theo dõi”.
Tracy nhìn quanh cái động rộng lớn, tối mịt “Ở ờây thì an toàn thôi”.
Nàng tò mò. “Chuyện chắc là quan trọng”.
“Đúng vậy”. Ông ta ghé sát lại. “Một khách hàng giàu có nóng lòng muốn kiếm được một bức tranh. Đó là bức của Goya có tên là Puerto. Ông ta sẽ trả một khoản tiền mặt nửa triệu đô la. Điều đó vượt quá khả năng của tôi:”.
Tracy trầm ngâm, “Còn ai khác muốn làm vụ này không?”.
“Nói thẳng là có đi. Nhưng theo tôi, khả năng thành công rất hạn chế”.
“Bức tranh hiện ở đâu?”.
“Bảo tàng Prado ở Madrid”.
“Prado”. Ngay lập tức, ý nghĩ đầu tiên của Tracy là không thể được.
“Việc này đòi hỏi một tài năng lớn lao. Bởi vậy, tôi nghĩ đến cô đấy, Tracy thân mến”.
“Tôi sẵn lòng”, Tracy đáp. “Nửa triệu đô la à.”.
“Sòng phẳng”.
Buổi biểu diễn bắt đầu và tất cả đột nhiên trở nên im lặng. Các bóng đèn ở đâu đó lần lượt bật sáng và cả khoảng không gian rộn rã tiếng nhạc. Trung tâm của cuộc diễn là hồ nước lớn phía trước mặt khán giả, và trên mặt hồ, từ sau một nhũ đá, một chiếc thuyền độc mộc hiện ra, được chiếu sáng nhờ những ngọn đèn pha giấu kín đâu đó. Trên thuyền, một nghệ sĩ đang chơi Organ, bản Senẹnaà” vọng qua mặt hồ, và ánh đèn màu tỏa sáng như một chiếc cầu vồng trong bóng tối. Con thuyền từ từ trôi ngang mặt hồ rồi sau cùng biến mất trong tiếng nhạc tắt dần.
“Tuyệt diệu:”, Gunther nói. “Chỉ màn trình diễn này thôi cũng đáng công tới đây”.
“Tôi rất thích du lịch”, Tracy nói. “Và ông có biết thành phố nào tôi vẫn luôn mong được tới thăm không, ông Gunther Adrid đấy”.
Đứng ở cổng ra vào hang, Daniel Cooper thấy Tracy Whitney bước ra.
Nàng chỉ có một mình.
Khách sạn Ritz ở Madrid được coi là số một ở Tây Ban Nha, và suốt hơn một thế kỷ qua, các vị nguyên thủ quốc gia của nhiều nước châu Âu đều đã ăn, ngủ tại đấy. Tracy đã nghe về nó quá nhiều vậy mà trên thực tế thì thật đáng thất vọng. Gian tiền sảnh khách sạn trông thật tàn tạ, bẩn thỉu.
Viên phó quản lý đã đưa nàng tới lô phòng số411-412, ở tòa nhà cánh Nam của khách sạn quay mặt ra phố Felipe đệ Ngũ.
“Tôl tin là cô sẽ hài lòng, thưa cô Whitney”.
Tracy bước tới bên cửa sổ và nhìn ra. Ngay phía dưới, bên kia đường, là bảo tàng Prado. “Cảm ơn ông”.
Căn phòng đầy những tiếng ồn ào vọng lên từ dòng xe cộ dưới đường phố, nhưng nó có cái mà nàng muốn:
Vị trí quan sát Bảo tàng Prado.
Tracy đặt mang lên phòng một bữa chiều đơn giản, và sau khi ăn, nàng ngủ sớm. Khi lên giường, nàng có cảm nghĩ phải nằm ngủ trên chiếc giương này quả là một dạng của lối tra tấn thời Trung cổ.
Lúc nửa đêm, một thám tử chết giữ dưới tiền sảnh khách sạn bàn giao lại cho một đồng nghiệp tới thay phiên; “Cô”ta chưa rời.khỏi phòng. Tôi nghĩ đêm nay cô ta sẽ ngủ yên thôi”.
Tại Madrid, Tổng nha cảnh sát nằm ở đại lộ số một và chiếm cả một dãy phố. Đó là một binding xám xịt xây bằng gạch đỏ, trên nóc có một cái đồng hồ lớn. Phía trên cổng chính treo lá quốc kỳ Tây Ban Nha sọc đỏ và vàng.
Trước cổng luôn có một cảnh sát mặc đồng phục và đội mũ bê rê màu nâu sẫm đứng gác, được trang bị một sung tiểu liên, một dùi cui, một súng ngắn, và một khóa tay.
Việc liên lạc với Interpol được duy trì từ trụ sở này. Ngày hôm trước, một bức điện khẩn mang lý hiệu X - D đã được gửi tới Santiago Ramiro, cảnh sát trưởng Madrid, thông báo cho ông ta về chuyến đi của Tracy Whitney. Viên cảnh sát trưởng đã đọc dòng cuối cùng của bức điện hai lần rồi gọi điện thoại cho thanh tra Trigmant ở trụ sở Interpol tại Paris.
“Tôi không hiểu ý ông”, Ramiro nói. “Ông yểu dịu dàng sự hợp tác đầy đủ của cơ quan li cho một người Mỹ nào đó, thậm chí không phải là một cảnh sát”.
“Vì lý do gì vậy?”.
“Ông cảnh sát trưởng, tôi nghĩ rằng ông sẽ thấy sự có mặt của ông Cooper là hữu ích. Ông ta hiểu rõ cô Whitney”.
“Có gì mà phải hiểu? Cô ta là một tội phạm. Cứ cho là có tài đi, nhưng trong các nhà tù Tây Ban Nha thiếu gì những tội phạm tài ba. Người này cũng sẽ không lọt qua lưới của chúng tôi được”.
“Tốt. Và ông sẽ phối hợp với ông Cooper chứ”.
Viên cảnh sát trưởng miễn cưỡng đáp. “Nếu ông cho rằng ông ta có thể là hữu ích, tới không phản đối”.
“Cám ơn ông”.
“Có gì đâu thưa ông”.
Cảnh sát trưởng Ramiro, cũng như người đồng nghiệp của mình ở Pans, không thích gì người Mỹ. Ông ta thấy họ thô bạo, thực dụng và ngây thơ. Người này - ông nghĩ bụng - có thể khác những người kia, và mình có thể sẽ ưa ông ta.
Mới nhìn Daniel Cooper, ông ta đã thấy ghét rồi.
Vừa bước vào phòng làm việe của viên cảnh sát trưởng Damel Cooper đã oang oang. “Cô ta đã qua mặt tới một nửa lực lượng cảnh sát châu Âu và có thể với cả các ông nữa”.
Viên cảnh sát trưởng cố kim chế. “Thưa ông, chúng tôi không cần ai phải bảo ban trong công việc của mình. Ngay sáng nay, khi đặt chân xuống sân bay Barajas, cô Whitney đã bị đặt dưới sự giảm sát chặt chẽ. Tôi bảo đảm rằng nếu có ai đánh rơi một cái cặp trên đường phố và cô Whitney của ông nhặt nó lên, cô ta sẽ bị tống giam ngay.
Trước đây, cô ta chưa hề đụng phải cảnh sát Tây Ban Nha”.
“Nhưng cô ta không tới đây để nhặt một cái gì trên đường phố”.
“Vậy ông cho rằng đến làm gì?”.
“Tôi chỉ có thể nới với ông rằng có lẽ là vụ to đấy”.
Cảnh sát trưởng Ramiro tự phụ đáp. “Càng to càng tốt”. Chúng tôi sẽ theo dõi mọi hành vi của cô ta”.
Tracy thức dậy, người mỏi nhừ sau một đêm ngủ mà như bị tra tấn trên chiếc giường kiểu Tomás de Terquenmada, nàng gọi bữa ăn sáng nhẹ cùng với cà phê nóng và bước tới bên cửa sổ nhìn xuống bảo tàng Prado. Đó là một pháo đài cổ, xây bằng đá và gạch đỏ, bao quanh là cây cỏ um tùm. Phía trước là hai cây cột lớn kiểu Dorie và hai bên là hai cầu thang dẫn lên cửa chính.
Thấp hơn một chút, ngang với mặt đường là hai cửa phụ. Học sinh và khách du lịch từ hàng chục nước đã xếp hàng trước cổng bảo tàng và đúng mười giờ, những người gác mở cửa và khách khứa đi VFO qua cửa quay ở giữa và hai cửa phụ hai bên.
Chuông điện thoại réo vang làm Tracy giật nảy người. Trừ Gunther ra, không ai biết nàng đang ở Madrid. Nàng nhấc ống nghe lên. “Hello?”.
”Xin chào tiểu thư”. Một giọng quen quen. “Tôi gọi tới phòng thương mại Madrid và họ đã chỉ thị cho tôi phải làm tất cả những gì có thể được để bảo đảm rằng cô có một thời gian thú vị ở thành phố chúng tôi”.
“Làm sao anh biết tôi ở Madrid, Jeff”.
“Thưa cô, Phòng thương mại biết tất cả mọi chuyện”.
“Đây là lần đầu tiên cô ở đây ư?”.
“Đúng vậy”.
“Tốt. Vậy tôi có thể hướng dẫn cô đi “tham quan một vài nơi. Cô định ở đây bao lâu, Tracy?”.
Đó là câu hỏi chủ yếu. “Tôi không chắc”. Nàng”nhẹ đáp “Chắc là đủ để mua sắm và tham quan đôi chút thôi.
Anh làm gì ở Madrid này thế”. Cũng vậy thôi”. Giọng anh ta giống hệt nàng.
“Mua sắm và ngắm cảnh mà”.
Tracy không tin vào chuyện trùng lặp. Cũng vì lý do như nàng mà Jeff Stevens đã ở đây:
Đánh cắp bức Puerto.
Jeff hỏi. “Cô có rảnh để cùng ăn chiều không?”.
Đó là một lời thách đố. “Được thôi”.
“Tốt quá. Tôi sẽ đặt bàn ở tiệm Jockey nhé”.
Dĩ nhiên là Tracy không hề có ảo tưởng gì về Jeff, vậy mà khi bước ra khỏi thang máy và thấy anh đang đứng chờ, nàng có cảm giác dễ chịu không thể lý giải nổi.
Jeff cầm tay nàng. “Rất vui mừng. Cô thật đáng yêu”.
Nàng đã ăn mặc chu đáo - một bộ đồ Valentme màu xanh nước biển, một chiếc khăn lông chồn Nga, đôi giày Frizen và trên tay là chiếc xắc mang hiệu Hermes Howarth.
Daniel Cooper, tại chiếc bàn nhỏ trong góc tiền sảnh, với ly Perrier trước mặt, đã theo dõi tất cả, và ông ta cảm thấy một sức mạnh to lớn:
Công lý là ta.
Chúa đã nói vậy, và mình là lưỡi gươm của Người. Cuộc đời ta là một sự hành xác và ngươi sẽ giúp ta trả nợ. Ta sẽ trừng phạt ngươi.
Cooper tin rằng không một lực lượng cảnh sát nào trên thế giới đủ khôn ngoan để tóm được Tracy Whitney.
Nhưng mình sẽ làm được - Cooper nghĩ thầm - cô ta thuộc về phần mình.
Đối với ông ta, Tracy đã trở nên ngoài phần công việc.
Đó là một sự khiêu khích. Ông ta mang theo hồ sơ và các bức ảnh nàng đi khắp nơi, và đêm đến - trước khi ngủ, lại giở ra xem. Ông ta đã đến Biarrit quá muộn, và Tracy đã chuồn trước mũi ông ta ở Majorca, nhưng giở Interpol lại đã lần ra dấu vết và Coơper quyết không để lỡ dịp này.
Ông ta đã từng mơ thấy Tracy. Nàng ở trong cái lồng lớn, trần truồng van vỉ ông ta thả ra. Tôi yêu em - ông ta trả lời - nhưng không bao giờ tôi thả em ra cả”.
Jorkey là một tiệm ăn nhỏ, lịch sự nằm trên phố Rios. Đồ ăn ở đây là thượng hạng”. Jeff nói.
Trông anh thật hết sức đẹp trai. Tracy nghĩ. Cũng như Tracy, từ anh toát ra một vẻ kích động nào đấy, và nàng biết lý do:
Họ đang cùng nhau trong một cuộc đấu trí mà phần thưởng rất lớn. Chắc chắn mình sẽ thắng, Tracy nghĩ “Có một tin đồn lạ”. Jeff nói.
Nàng chú ý ngay. “Tin gì?”.
Cô đã bao giờ nghe nói về Daniel Cooper chưa? Đó là một thám tử của bên bảo hiểm, rất giỏi”.
“Không. Có chuyện gì về ông ta thế”.
“Hãy cẩn thận. Ông ta nguy hiểm đấy. Tôi không muốn thấy có điều gì xấu đến với cô cả”.
“Đừng lo”.
“Vậy mà tôi đã lo lắng, Tracy”.
Nàng nhoẻn cười. “Về tôi ư” Tại sao?”.
Anh đặt tay lên trên tay nàng, khẽ nói. “Em là một cơ gái đặc biệt. Cuộc sống sẽ thú vị hơn nhiều nếu có em ở bên, Tracy yêu dấu”.
Jeff có sức truyền cảm khủng khiếp, Tracy nghĩ. Nếu đã không biết quá rõ về anh ta, chắc mình tin ngay mất.
“Hãy gọi đồ ăn đi”, Tracy nói. :”Tôi đói ngấu rồi”.
Trong mấy ngày tiếp theo, Jeffvà Tracy đi thăm khắp Madrid. Không bao giờ họ đi một mình. Hai nhân viên của cảnh sát trưởng Ramiro theo sát họ khắp nơi, và cùng với họ là người Mỹ lạ lùng kia. Việc Ramừo cho phép Cooper tham gia cuộc theo dõi chỉ đơn giản thì nhằm để ông ta khỏi quanh quẩn vướng mắc. Thằng cha người Mỹ này thật láo xược dám cho rằng người phụ nữ có tên Tracy Whitney này sẽ có thể đánh cắp một tài sản quý giá nào đấy ngay dưới mũi cảnh sát Tây Ban Nha. Thật nực cười.
Tracy và Jeff cùng đi ăn ở những cửa hàng tên tuổi của Madrid như Horcher, Hoàng tử Viana và Casa Botin ... nhưng Jeff cũng còn biết cả những nơi mà khách du lịch chưa từng biết:
Cusa; Paco La Chuletta và El Lacon,.. có những món ăn địa phương tuyệt vời.
Dù họ đi bất kỳ đâu, Daniel Cooper và hai thám tử khác cũng không bao giờ tụt lại sau quá xa.
Tữ một khoảng cách đầy thận trọng, Daniel Cooper suy nghĩ về vai trò của Jeff trong màn kịch đang diễn ra.
Anh ta là ai? Một nạn nhân sắp tới của Tracy? Hay là đồng bọn?”.
Cooper hỏi cảnh sát trưởng Ramiro. “Ông có thông tin gì về Jeff không?”.
“Không. Anh ta không có tiền án và đăng ký nhập cảnh để du lịch. Tôi cho anh ta chỉ là người bạn đường tình cờ thôi”.
Linh cảm đã mách Cooper theo một hướng khác.
Nhưng ông ta không định săn đuổi Jeff Stevens. Tracy - ông ta nghĩ - ta muốn tóm ngươi cơ.
Khi Tracy và Jeff quay lại khách sạn Ritz thì đêm đã về khuya, Jeff đưa nàng đến tận cửa phòng. “Tôi có thể vào uống chút gì không nhỉ?”.
Chỉ chút nữa thì Tracy đã gật. Nàng vươn người hôn nhẹ lên má anh. “Hãy coi tôi như em gái của anh, Jeff”.
“Quan điểm của em về vấn đề loạn luân là thế nào nhỉ?”.
Nàng đã khép cửa lại.
Ít phút sau, tới phòng mình, anh gọi điện cho Tracy. “Em có muốn mai đi cùng tôi tới Segevia không” Đó là một thành phố cổ tuyệt diệu, cách Madrid vài giờ xe chạy”.
“Nghe quyến rũ quá. Cảm ơn về một bưởi tối thú vị”.
Tracy nói, “Chúc ngủ ngon, Jeff”.
Nàng thao thức rất lâu, đầu óc đầy những ý nghĩ mới lạ đã từ lâu lắm rồi nàng mới lại vướng vào chuyện tình cảm với một người đàn ông. Charles đã làm nàng đau đớn khủng khiếp, và nàng.không muốn lại bị đau như thế nữa.
Jeff Stevens là một bạn đồng hành hú vị,” nhưng nàng biết không bao giờ được để anh ta trở thành một gì hơn thế. Rất dễ phải lòng một người như anh ta. Và đó là điều ngốc nghếch.
Tan nát.
Hân hoan.
Tracy thấy khó ngủ quá chừng.
Chuyến đi Segevia thật tuyệt. Jeff đã thuê chiếc xe hơi nhỏ và họ rời khỏi thành phố, chạy vào giữa cánh đồng nho tuyệt đẹp của Tây Ban Nha. Một chiếc xe nhãn hiệu Seat bám theo họ suốt cả ngày và nó không phải là một chiếc xe thông thường.
Seat là loại xe duy nhất được sản xuất trong nội tha Tấy Ban Nha, và là một phương tiện được chính thức trang bị cho lực lượng cảnh sát. Các xe kiểu thông thường thì động cơ chỉ 100 mã lực, nhưng các xe được làm cho cảnh sát và cảnh vệ Quốc gia động cơ lại tới 150 mã lực, do vậy mà không có khả năng cho Jeff và Tracy cớ thể thoát khỏi tầm kiểm soát của Damel Cooper và hai thám tử cùng đi.
Tracy và Jeff đến Segevia vào tầm trưa và họ ăn trong một tiệm đầy vẻ quyến rũ tại quảng trường trung tâm, dưới bóng của một đường máng dẫn nước cao ngất mà người La Mã xây nên từ cách đây 2000 năm. Sau bữa ăn, họ lang thang khắp khu thành cổ, ghé thăm nhà thờ Đức bà Maria cổ kính và tòa”thị chính với kiến trúc Phục Hưng, rồi tiếp tục lên xe chạy tới Aleazar, một pháo đài La Mã cổ nằm trên một mỏm núi đá nhô ra phía trên thành phố. Cảnh quan thật kỳ thú.
“Tôi cược rằng nếu chúng ta chịu đợi ở đây, ta sẽ thấy Đôngkisốt” và Xăngxo cưỡi ngựa băng trên những cánh đồng phía dưới kia cho mà xem”. Jeff nói.
“Anh thích đánh trận mồm với cối xay gió chứ?”.
“Còn tùy vào hình dáng của cái cối xay đó”, anh nhẹ nhàng đáp và sát vào nàng hơn.
Tracy rời khỏi rìa mỏm đá. “Kể cho tôi nghe về Segevia đi”.
Ý muốn của nàng quả nhiên được đáp ứng.
Jeff là một người hướng dẫn tận tình, đầy kiến thức về lịch sử, khảo cổ, kiến trúc, và Tracy đã phải tự nhắc mình rằng anh ta cũng còn là một kẻ 1ừa đảo chuyên nghiệp nữa. Với Tracy thì hôm đó là một ngày thú vị.
Một trong hai thám tử người Tây Ban Nha, José Pereira, càu nhàu với Cooper. “Thứ duy nhất mà họ đang ăn cắp là thời gian của chúng ta. Ông không tháy họ chỉ là một cặp uyên ương thôi sao? Ông có chắc rằng cô ta đang mưu tính gì không?”.
“Tôi đoán chắc”. Cooper gắt lên, và phát ngượng với chính phản ứng của mình. Tất cả điều ông ta muốn là bắt được Tracy Whitney để trừng phạt cô ta, vì cô ta đáng phải chịu điều đó. Cô ta cũng như mọi tội phạm khác, đó là chuyện công việc. Thế nhưng, mỗi lần người bạn đồng hành của Tracy nắm lấy tay nàng thì Coopelt lại thấy giận sôi lên.
Khi Tracy và Jeff về Wi Madrid, Jeff nói. “Nếu em chưa quá mệt mỏi, tôi xin giới thiệu một chỗ ăn chiều rất đặc biệt”.
“Vậy thì tuyệt”. Tracy không muốn ngày vui chấm dứt sớm. Mình sẽ dành trọn cho hôm nay, một ngày hôm nay, giống như những người đàn bà khác, nàng tự nhủ.
Người dân Madrid ăn chiều rất muộn, ít có nhà hàng lào mở cửa phục vụ trước 21 giờ. Jeff đã đặt bàn vào lúc 22 giờ tại tiệm Zalacain, một nhà hàng sang trọng mà đồ ăn ngon lành và sự phục vụ cho tốt. Tracy không gọi đồ tráng miệng, thế nhưng người bồi bàn vẫn mang tới một chiếc bánh nướng mà Tracy chưa bao giờ thấy ngon miệng đến vậy. Nàng ngả người trên ghế, tươi tắn và mãn nguyện. “Một bữa chiều tuyệt vời. Cám ơn anh”.
“Tôi rất vui thấy em ăn ngon. Đây là nơi có thể gây ấn tượng với ai đó mà mình muốn”.
Nàng nhìn anh giây lát. “Thế anh có đang toan gây ấn tượng với tôi không, Jeff Anh mỉm cười. “Em có thể đánh cược là tôi đang làm như thế đấy. Nhưng em hãy đợi đến nơi tiếp theo đã”.
Nơi tiếp theo mà Jeff đưa nàng tới là một tiệm cà phê mờ ảo khói thuốc, đầy hấp dẫn. Bên trong đông kín những công nhân Tây Ban Nha mặc áo khoác da đang ngồi hoặc đứng uống ngay ở quầy. Ở phía cuối phòng là một sân khấu, nơi có hai người đàn ông đang chơi ghi ta. Tracy và Jeff được dẫn tới một bàn nhỏ kề bên sân khấu. “Em có biết gì về điệu nhảy Flamence không”ạ Jeff hỏi. Anh phải cao giọng để át những tiếng ồn ào.
“Chỉ biết đó là một điệu nhảy Tây Ban Nha thôi”.
Digan, ban đầu là vậy. Em có thể đến các hộp đêm cao cấp ở Madrid và xem người ta biểu diễn Flamence, nhưng đêm nay em sẽ thật sự được xem điệu nhảy này”.
Tracy phải mỉm cười vì vẻ hăng hái trong giọng nói của Jeff.
Em sắp thấy một màn vũ Flamence cổ điển. Gồm một nhóm ca sĩ, vũ công, vũ nữ và nhạc công. Đầu tiên là họ cùng biểu diễn một lượt sau là từng người một”.
Dõi theo Tracy và Jeff từ một chiếc bàn ở lối vào bếp, Daniel Cooper băn khoăn không biết họ bàn luận gì mà say sưa đến thế.
“Điệu nhảy này hết sức tinh tế, bởi vì mọl thứ đều phải hài hòa với nhau - các chuyển động, âm nhạc, trang phục, nhịp điệu tăng nhanh dần ...
“Sao anh biết nhiều về điệu nhảy này thế” “Tracy hỏi.
“Anh từng quen một vũ nữ Flamence”.
Quả nhiên mà - Tracy nghĩ.
Ánh sáng trong tiệm mờ đi và cái sân khấu nhỏ được chiếu sáng rồi màn ma thuật bắt đầu. Nó khởi đầu rất chậm rãi. Một nhóm nghệ sĩ ùa ra sân khấu. Các nữ nghệ sĩ mặc những váy ngắn, áo ngắn sặc sỡ, tóc bới cao với những bông hồng cài bằng những chiếc trâm xinh xắn.
Các vũ công nam thì mặc quần bó truyền thống, áo vét và ủng da ngắn bóng loáng. Các nhạc công ghi ta tấu lên một giai điệu dìu dặt, trong khi một phụ nữ ngồi ở rìa sân khấu hát bài dân ca Tây Ban Nha.
“Anh có hiểu lời bài ca mà cô ấy đang hát không?”.
Tracy thì thầm.
“Có? Tôi đã muốn rời bỏ người bạn tình của mình, nhưng trước khi làm được điều đó, anh ta đã rời bỏ tôi và làm trái tim tôi tan nát!”.
Một vũ nữ tiến ra giữa sân khấu, bắt đầu với điệu Zapateade đơn giản, nhưng nhanh dẫn lên do tiếng ghi ta đầy kích động. Và điệu nhảy trở thành một màn kích động đầy dục tính, ở các mức độ khác nhau. Các điệu nhảy đều được sáng tạo ra trong những hang động của người Digan từ hàng trăm năm trước. Sự kích động của tiếng nhạc mỗi lúc một tăng, các bước nhảy càng điên cuồng và lại còn có cả những tiếng gào thét cổ vũ của các nghệ sĩ ở bên ngoài sân khấu nữa.
Sau cùng, khi âm nhạc và màn nhảy chấm dứt đột ngột, cả tiệm lặng giây lát và rồi tiếng vỗ tay ào cả lên.
“Cô ta thật tuyệt diệu?” Tracy nói.
“Đợi đã Jeff bảo.
Vũ nữ thứ hai tiến ra sân khấu. Cô ta có một vẻ đẹp cổ điển, nước da màu sẫm và dường như xuất thần, hoàn toàn không để ý gì đến khán giả. Các nhạc công ghi ta bắt đầu chơi một điệu Bolero gam trầm mang dáng dấp những nét nhạc phương Đông. Một vũ công ra nhảy cùng cô ta và các âm thanh của bộ gõ bắt đầu vang lên thúc giục.
Tiếng vỗ tay dồn dập hòa vào với vũ điệu Flamence, cùng với tiếng nhạc kích động làm chó không khí trong tiệm trở nên sống động tới mức tất cả khán giả đều lắc lư nhịp theo điệu Zapateade và say sưa trong những cảm giác đầy hứng khởi.
Thân thể của cô gái và chàng trai đang trình diễn Flamence trên sân khấu lúc tách xa nhau ra, khi thì sáp lại gần làm cho khán giả thấy họ như đang trong cơn thèm muốn điên cuồng, mỗi lúc một tăng, cho đến khi họ như đang làm tình với nhau một cách điên dại, thú vật và đầy bạo lực, đạt tới sự thỏa mãn cao độ đến mức khán giả cũng phải quằn quại. Đèn tắt rồi bừng sáng, đám đông như gào lên và Tracy cũng thấy mình cùng la hét với mọi người. Nàng bỗng ngượng ngùng vì cảm thấy thèm muốn làm tình. Nàng không dám nhìn Jeff nữa. Không khí giữa họ bỗng như căng thẳng Tracy nhìn xuống mặt bàn, xuống hai bàn tay khỏe mạnh và rám nắng của anh và có thể cảm giác thấy hai bàn tay đó đang vuốt ve trên thân thể nàng, chậm rãi, rồi nhanh hơn, rồi đòi hỏi và nàng vội giấu hai bàn tay vào lòng để che đi sự run rẩy không kìm lại được.
Trên đường trở về, họ nói với nhau rất ít. Tại cửa phòng mình, Tracy quay lại nói. “Thật là cả một ...”.
Môi của Jeff đã đặt lên môi nàng, hai bàn tay nàng quàng quanh anh, ôm chặt. “Tracy ...?”.
Chữ “Vâng” đã ở trên môi và nàng phải dùng hết sức mạnh ý chí để nói.
“Thật là một ngàyđài, Jeff. Tôi buồn ngủ lắm rồi”.
“Ô”.
“Tôi nghĩ rằng mai tôi sẽ phải ở trong phòng suốt ngày để nghỉ ngơi”.
Giọng anh đã trở lại bình thường khi đáp. “Ý kiến hay đấy có thể là tôi cũng sẽ làm như thế”.
Người nọ không hề tin lời người kia.
Sáng hôm sau, lúc 10 giờ, Tracy đã đang đứng trong hàng người trước cửa ra vào bảo tàng Prado. Nàng mua một vé vào cửa ra vào cùng với dòng người đi vào một phòng lớn thênh thang có mái vòm. Daniel Cooper và thám tử Pereira theo sát đằng sau và Cooper bắt đầu thấy sự hồi hộp tăng lên.” Ông ta tin chắc rằng, ở đây, Tracy không chỉ là một khách tham quan. Dù mưu toan của cô ta là gì đi nữa thì nó cũng đã đang bắt đầu.
Tracy dạo từ phòng này sang phòng khác, chậm rãi đi ngang các gian trưng bày tranh của Rubons, Titians, Tintorettos, Bosches và Donenikos Theotokoponlos - người đã trở nên- nổi tiếng dưới cái tên El Greco. Các bức tranh của Goya được trưng bày trong một phòng đặc biệt ở phía dưới, tại tầng trệt.
Tracy để ý thấy tại cửa ra vào mỗi phòng tranh đều có một người mặc đồng phục canh giữ, và ngay cạnh tay anh ta là cái nút báo động màu đỏ. Nàng biết rằng khi tiếng chuông báo động cất lên là tất cả các cửa ra vào bảo tàng sẽ bị đóng lại, và sẽ không có cơ hội để thoát ra được.
Nàng ngồi trên chiếc ghế băng ở giữa một phòng tranh trưng bày các tác phẩm của các danh họa Flenmitsơ hồi thế kỷ Mười tám và quan sát căn phòng.
Nàng có thể thấy rõ đôi mắt thần nhỏ xíu ở hai bên cửa ra vào. Đó là điểm xuất phát của những tia hồng ngoại sẽ được bật lên vào ban đêm. Ở những bảo tàng khác mà Tracy từng đến thăm, những người gác thường buồn ngủ, mệt mỏi và ít để ý tới dòng khách tham quan, nhưng ở đây thì họ rất tỉnh táo. Trong các bảo tàng trên thế giới, nhiều tác phẩm nghệ thuật đã bị những kẻ cuồng tín phá hoại, và bảo tàng Prado quyết không để nó cớ cơ hội ở đây.
Ở nhiều phòng tranh, các họa sĩ dựng lên giá vẽ của họ và miệt mài vẽ lại tranh của các danh họa. Bảo tàng cho phép làm điều đó, nhưng Tracy thấy rằng những người gác cũng để mắt cẩn thận tới cả những người này.
Khì Tracy đã xem hết các phòng ở tầng lầu chính, nàng đi theo cầu thang xuống tầng trệt - khu trưng bày tranh của Francisco de Goya.
Thám tử Fereira nói với Cooper. “Thấy chưa, cô ta chỉ xem tranh thôi chứ có làm gì được đâu. Cô ta ...”.
“Anh nhầm rồi”, Cooper vội vã chạy theo.
Tracy thấy phòng tranh Goya còn được bảo vệ nghiêm ngặt hơn so với các phòng khác, và là xứng đáng. Phía trên, hết bức tường này đến bức tường khác người ta trưng bày những vẻ đẹp bất diệt và Tracy ngắm hết bức này đến bức khác, sững sờ trước tài năng của nhà danh họa. Bức Chân dung tự họa của Goya thật tuyệt vời, trong đó trông ông như một thần Păng đứng tuổi ... rồi bức chân dung đầy màu sắc Gia đình Charles đệ tứ ... bức Maja mặc quần áo và bức Maja khỏa thân lừng danh.
Và đây, cạnh bức Ngày nghỉ của các mụ phù thủy là bức Puerto. Tracy dừng chân ngắm nghía, tim đập mạnh.
Ỏ nền trước của bức tranh là chừng hơn một chục đàn ông đàn bà quần áo đẹp đẽ đứng quanh một bức tượng đá, còn ở nền sau, hiện ra một làn sương mỏng mờ sáng, là những con thuyền đánh cá đỗ trong bến và một cây đèn biển xa xa. ở góc trái bên dưới, là chữ ký của Goya.
Đây là mục tiêu. Nửa triệu đô la.
Tracy liếc quanh. Một người đứng gác ở cửa. Suốt dọc hành lang phía sau anh ta nàng còn thấy nhiều người gác nữa. Nàng đứng đó hồi lâu, lặng ngắm bức Puerto. Đến khi vừa rút thì một nhóm du khách đi xuống cầu thang. Lẫn trong họ là Jeff Stevens. Tracy vội ngoảnh mặt và đi vội ra ngoài qua lối cửa bên trước khi anh kịp trông thấy nàng.
Sẽ là một cuộc đua đấy, ông Stevens và tôi sẽ thắng.
“Cô ta đang mưu đồ ăn cắp một bức tranh ở bảo tàng Prado”.
Cảnh sát trưởng Ramiro nhìn Daniel Cooper vẻ không tin. “Vô lý? Không kẻ nào có thể ăn cắp tranh ở bảo tàng Prado được”.
Cooper bướng bỉnh “Cô ta đã ở đó suốt cả buổi sáng”.
“Chưa bao giờ xảy ra một vụ trộm ở bảo tàng Prado, và sẽ không bao giờ có chuyện đó. Ông biết vì sao không?
“Vì đó là điều không thể”.
“Cô ta sẽ không mưu tính theo cách thông thường đâu. Ông phải cho bảo vệ hệ thống thông gió của bảo tàng để ngăn ngừa một vụ tiến công bằng hơi ngạt.
Nếu những người gác được phép dùng cà phê trong phiên trực, thì cần phải biết rõ họ lấy cả phê từ đâu và liệu trong đó có độc tố gì không. Kiểm tra nước uống ...”.
Sức chịu đựng của cảnh sát trưởng Ramiro có hạn. Suốt tuần qua, phải làm việc với gã người Mỹ thô bạo, xấu xí này đã là quá đủ và lại đã phải phung phí nhân lực quý giá để theo sát Tracy Whitney 24 trên 24 giờ trong khi lực lượng cảnh sát quốc gia của ông ta thì vốn đã phải làm việc dưới một ngân quỹ eo hẹp, bởi vậy lúc này, khi nghe thằng cha xấu xí kia” chỉ bảo cách điều khiển cơ quan cảnh sát của mình thì ông ta không còn chịu đựng được nữa.
“Theo ý kiến tôi, người phụ nữ này ở Madrid chỉ để nghỉ ngơi, du lịch. Tôi sẽ cho ngừng việc theo dõi”.
Cooper sửng sốt. “Không? Ông không được làm như vậy Tracy Whitney là ...”.
Cảnh sát trưởng Ramiro đứng thẳng người lên. “Thưa ông Cooper, mong ông làm ơn đừng bảo tôi phải làm gì hoặc không được làm gì. Còn bây giờ,”tôi rất bận, nếu như ông không còn gì để nói”.
Cooper đứng lặng, đầy thất vọng. “Vậy thì tôi sẽ đơn phương tiếp tục công việc”.
Cảnh sát trưởng cười. “Để giữ an toàn cho bảo tàng Prado tránh khỏi sự đe dọa khủng khiếp từ người phụ nữ kia ư. Tất nhiên là tùy ông, thưa ông Cooper.
Giờ thì tôi có thể ngủ vài đêm liền”.
Cơ hội thành công là rất hạn chế. Gunther Hartog đã nói với Tracy - nó đòi hỏi một tài năng lớn lao.
Đó là một khẳng định sai lầm, nàng nghĩ.
Tracy đang đứng bên cửa sổ càn phòng khách sạn nhìn xuống mái bảo tàng Prado, nhớ lại những gì nàng đã biết. Nó được mở cửa cho khách từ 10 giờ đến giờ, trong thời gian đó, hệ thống báo động ngừng hoạt động, nhưng mỗi cửa phòng tranh đều có người gác.
Ngay cả khi gỡ được bức tranh xuống khỏi tường Tracy nghĩ - càng không có cách nào mang thoát ra. Tất cả đồ xách tay đều bị khám xét ở các cửa ra vào.
Nàng quan sát mái nhà và cân nhắc về một vụ đột nhập ban đêm. Có vài trở ngại:
thứ nhất là khả năng bị lộ rất cao. Tracy đã thấy các ngọn đèn chiếu bật sáng về ban đêm; các mái nhà rực sáng đến mức có thể nhìn thấy nó từ xa hàng mấy dặm. Cho dù có thể lọt vào nhà êm thấm, thì lại còn vấp phải hệ thống báo động hồng ngoại và những người gác đêm.
Bảo tàng Prado dường như là bất khả xâm phạm.
Jeff đang tính toán gì đây? Tracy tin rằng anh ta cũng muốn đoạt bức họa của Goya kia. Giá mà biết được cái đầu xảo quyệt của anh ta đang mưu tính chi thì mất gì mình cũng chịu, Tracy nghĩ. Nàng chỉ biết quyết tâm:
không để anh ta đạt tới cái đích đó trước nàng. Nàng phải tìm ra một giải pháp.
Sáng hôm sau, Tracy trở lại bảo tàng Prado.
Không có gì thay đổi, trừ những khuôn mặt của du khách. Tracy cẩn thận để ý tìm Jeff nhưng không thấy.
Tracy nghĩ, hẳn là anh ta đã nghĩ ra cách đánh cắp bức tranh.” Đồ khốn kiếp.
Tất cả sự quyến rũ mà anh ta thể hiện chỉ cất làm cho mình bị phân tán, và ngăn không để mình lấy trước được bức tranh mà thôi.
Tracy tiến lại bức Puerto một lần nữa, và đảo mắt nhìn các bức tranh khác gần đấy. Những người gác vẫn đầy vẻ cảnh giác các họa sĩ nghiệp dư ngồi trên các ghế đẩu trước giá vé của họ, đậm đông đi vào rồi đi ra liên tục, và đột nhiên tim nàng bắt đầu đập nhanh hơn lên.
Mình biết cách phải làm rồi nàng thầm reo trong lòng.
Nàng gọi Gunther gọi từ một buồng điện thoại công cộng trên phố Gran Via và Daniel Cooper - đang dời nhìn từ cửa ra vào của một tiệm cà phê gần đấy - xem chừng sẵn sàng trả cả một năm tiền lương để biết được Tracy đang gọi cho ai, và nói gì, nhưng tin chắc đó là một cú điện thoại gọi ra nước ngoài và cũng chẳng ai thêm ghi âm lại câu chuyện đó. Ông ta thấy nàng lần đầu tiên mặc chiếc váy màu xanh nhạt, lô ra cặp chân trần. Để bọn đàn ông có thể nhìn ngắm mà. Ống ta nghĩ. Đồ ** thõa.
Và giận sôi lên.
Trong khi đó Tracy đang kết thúc câu chuyện trên điện thoại. “Phải bảo đảm đó là một người nhanh nhẹn nhé, Gunther. Anh ta chỉ có tất cả là hai phút.
Thành công hay không phụ thuộc vào hai phút ấy thôi”.
Gửi:J.J Reynolds Hồ sơ số Y - 72 - 830 - 412. Người gửi:
D. Cooper. Mật.
trích yếu:
Tracy Whitney. TÔI CHO RẰNG ĐỐI TƯỢNG ĐANG Ở MADRID ĐỂ MƯU TÍNH THỰC HIỆN MỘT VỤ TỘI PHẠM LỚN. MỤC TIÊU CÓ THỂ LÀ BẢO TÀNG PRADO. CẢNH SÁT TÂY BAN NHA CÓ THÁI ĐỘ BẤT HỢP TÁC NHƯNG TÔI SẼ ĐÍCH THÂN THEO DÕI ĐỐI TƯỢNG VÀ SẼ BẮT GIỮ CÔ TA VÀO THỜI ĐIỂM THÍCH HỢP.
Hai ngày sau, vào lúc 9 giờ sáng, Tracy ngồi trên chiếc ghế băng trong vườn Retiro một công viên xinh đẹp nằm giữa thủ đô Madrid - và đang cho những con chim bồ câu ăn. Công viên này cuốn hút người dân Madrid với hồ nước đầy, trong veo, cây cỏ sum suê được chăm sóc chu đáo và những sân khấu nhỏ để biểu diễn cho trẻ em.
Cesar Porretta, một ông già tóc đã điểm bạc, lưng hơi gù, bước dọc theo lối mòn trong vườn, và khi đến bên chiếc ghế, ông ta ngồi xuống cạnh Tracy, mở chiếc túi giấy và lấy ra những mẩu bánh mì vụn ném cho đàn chim. “Xin chào tiểu thư”.
“Xin chào. Ông có thấy khó khăn gì không?”.
Không cô ạ. Thời gian và thời điểm là tất cả những gì tôi cần”.
“Hiện thì chưa có”, Tracy nói. “Nhưng sẽ có ngay thôi”.
Ông ta cười một nụ cười móm mém. “Cảnh sát chắc sẽ phát điên. Chưa ai làm thế này bao giờ”.
“Do vậy mà sẽ thành công đấy”. Tracy đáp. “Tôi sẽ thông báo với ông sau”.
Nàng tung mẩu vụn cuối cùng cho đàn bồ câu và đứng dậy, bước đi, làn váy lụa đong đưa trên hai đầu gối sao mà khêu gợi.
Trong lúc đó, Daniel Cooper đang lục soát căn phòng khách sạn của nàng.
Ông ta đã thấy Tracy rời khách sạn đi về phía công viên và vì nàng không” yêu cầu mang đồ ăn lên phòng nên Cooper cho rằng nàng đi ăn sáng đâu đó. Ông ta tự cho phép mình có ba mươi phút. Việc đột nhập phòng Tracy chỉ đơn giản là tránh né các cô hầu và sử dụng một chiế móc đặc biệt để mở khóa. Ông ta biết mình đang phải tìm kiếm cái gì:
Một bản sao của một bức họa. Không thể đoán biết Tracy định đánh tráo nó bằng cách nào, nhưng ông ta tin chắc mưu đồ của nàng phải là như vậy.
Ông ta lục soát một cách thành thạo, nhanh chóng và hoàn toàn trong im lặng, không để lọt qua mắt một thứ gì Sau cùng lả phòng ngủ. Ông ta ngó vào tủ áo, xem xét từng chiếc váy, áo và rồi quay sang chiếc tủ com mốt, rút ra từng ngăn kéo một. Tất cả đầy những quần lót, xu chiêng và tốt chân. Ông ta nhặt một chiếc quần lót màu hồng lên và áp nó vào má, mơ màng từ mùi thơm quyến rũ của da thịt nàng. Và đột nhiên ở khắp nơi đều có mùi thơm ấy cả. Ông ta đặt chiếc quần lót lại chỗ cũ và nhanh chóng ngó qua các ngăn kéo khác. Không thấy bức tranh nào hết.
Ít phút sau ông ta bỏ ra ngoài, cũng nhanh như khi đến, và cắm đầu cắm cổ đi tới một ngôi nhà thờ gần đấy.
Sáng hôm sau Tracy rời khách sạn Ritz, Daniel Cooper bám theo. Giờ đây, Cooper thấy giữa họ có một sự gần gũi chưa từng tồn tại trước đó. Ông ta đã biết mùi da thịt nàng, đã thấy nàng tắm, đã được ngắm thân thể trần truồng của nàng ngập trong làn nước ấm. Nàng như đã hoàn toàn thuộc về ông ta, để ông ta mặc sức hủy hoại.
Cooper đã quan sát nàng đi bộ dọc theo phố Gren Via, xem hàng hóa bày trong các cửa hiệu, và theo nàng vào một cửa hiệu bách hóa lớn, thận trọng dừng ở ngoài tầm mắt nàng. Ông ta thấy nàng nói gì đó với một nhân viên rồi đi về phía phòng vệ sinh nữ. Conper đứng gần đó, thất vọng. Đó là nơi mà ông ta không hề theo vào.
Giá mà Cooper lọt được vào trong thì ông ta đã có thể thấy Tracy đang nói chuyện với một người đàn bà to béo trạc tuổi trung niên.
“Bà luu ý nhé”, đững trước gướng, Tracy vừa nói vừa bôi thêm son lên môi, “Sáng mai, 11 giờ”.
Người đàn bà lắc đầu. “Không nên, thưa cô. Ông ta sẽ không thích như vậy đâu. Không còn ngày nào tồi tệ hơn ngày đó cả. Ngày mai, Thái tử Lucxembourg sẽ đến đây trong một chuyến thăm cấp nhà nước, và báo chí đưa tin rằng ông ta sẽ được đưa tới thăm bảo tàng Prado. Vậy là sẽ có thêm cảnh vệ và cảnh sát canh gác trong khắp bảo tàng”.
“Càng đông càng tốt. Ngày mai”.
Tracy bước ra khỏi cửa, và người đàn bà nhìn theo, lẩm bẩm, “Thật kỳ quái ...”.
Phái đoàn Hoảng gia Lucxembourg được dự kiến sẽ đến bảo tàng Prado vào đúng lúc 11 giờ, và các đường phố quanh đó đều bị cảnh vệ Quốc gia chặn lại. Do sự chậm trễ của buổi lễ tại dinh Tổng thống, mãi đến gần giữa trưa phái đoàn mới đến. Các xe mô tô cảnh sát xuất hiện cùng với tiếng còi hú rầm rĩ, hộ tống đoàn xe gồm năm, sáu chiếc chạy tới trước cửa thềm bảo tàng Prado.
Tại cổng vào, giám đốc Christian Machada nóng lòng chờ đợi khách quý.
Trong buổi sáng, Machada đã kiểm tra cấn thận để bảo đảm rằng mọi thứ đều chu đáo, còn những người gác đều đã được nhắc nhở phải đặc biệt cảnh giác. Viên giám đốc vốn rất tự hào về bảo tàng-tranh của mình, và ông ta muốn gây một ấn tượng tốt đẹp với Thái tử.
Có bạn bè ở những vị trí cao thì bao giờ mà chẳng có lợi, Machada nghĩ, và có khi tối nay mình còn được mời tới cùng ăn với Thái tử tại dinh tổng thống cũng nên.
Điều hối tiếc duy nhất của Machada là việc không có cách nào chặn cái đám khách du lịch đang lang thang khắp chỗ trong bảo tàng. Tuy vậy, các cảnh vệ tùy thân và nhân viên an ninh của bảo tàng sẽ đảm bảo việc giữ gìn an toàn cho Thái tử. Tất cả đều đã sẵn sàng.
Phái đoàn Hoàng gia bắt đầu thăm tầng lầu chính.
Viên giám đốc đón vị thượng khách rất nồng nhiệt và tháp tùng ông ta, theo sau là các cảnh vệ vũ trang, đi qua căn phòng có mái vòm lớn vào các căn phòng trưng bày tranh của các họa sĩ Tây Ban Nha hồi thế kỷ 16:
Juan de Juanes, Pedro Machuaca, Fornande Yanos.
Vị Thái tử bước chậm rãi, thưởng thức những gì đang trưng bày trước mặt.
Ông là người bảo trợ cho, nghệ thuật và thực sự yêu quý các họa sĩ - những người có thể làm cho quá khứ sống động và trở nên vĩnh hằng. Thậm chí, vì bản thân không có năng khiếu hội họa, ông còn thấy ghen tỵ khi thấy các họa sĩ nghiệp dư đứng trước các giá vẽ đang cố chộp lấy những nét thiên tài của các danh họa.
Khi phái đoàn đã thăm hết lầu trên, Machada tự hào nói. “Và bây giờ, nếu ngài cho phép, tôi xin đưa ngài xuống tầng dưới thăm Goya”.
Tracy đã trải qua một buổi sáng hết sức căng thẳng. Khi vị Thái tử không đến được bảo tàng Prado vào lúc 11 giờ như dự định, nàng đã bắt đầu lo lắng.
Tất cả các sắp đặt của nàng đã được tính được từng giây, và cẩn có sự có mặt của Thái tử để giú vào kế hoạch này.
Tracy đi từ phòng này sang phòng khác, lẫn vào đám khách tham quan và cố tránh không gây bất kỳ sự chú ý nào. Ông ta không đến mất, Tracy nghĩ, mình sẽ phải hoãn lại thôi. Nhưng đúng lúc đó nàng nghe tiếng còi xe cảnh sát vọng lại từ ngoài đường.
Đang theo dõi Tracy từ một vị trí thuận lợi ở phòng kề bên, Daniel Cooper cũng đã nghe thấy tiếng còi. Về lý thì ông ta tin rằng không ai có thể đánh cắp một bức tranh ở bảo tàng này, nhưng linh tính thì mách bảo với ông rằng Tracy đang âm mưự làm việc đó, và Cooper tin vào lính tính của mình. Ông ta tiến lại gần nàng hơn, cố lẩn sau đám đông, quyết không rời mắt một lây nào hết.
Tracy đang ở cạnh phòng bày bức Puerto. Qua khuôn cửa để ngỏ, nàng có thể nghe thấy tiếng ông già gù lưng, Cesar Porretta, ngồi trước một giá vẽ đang sao lại bức tranh Maja mặc quần áo của Goya, treo cạnh bức Puerto. Một người gác đứng cách đó có ba bước chân. Trong căn phòng có Tracy, một nữ họa sĩ đứng trước giá vẽ đang mê mải sao lại bức tranh Người phụ nữ vắt sữa bò cố gắng bắt chước các nét vẽ kỳ diệu của Goya.
Một nhóm du khách Nhật Bản đổ vào phòng, ồn ào như một bầy chim lạ.
Nào? Tracy tự nhắc mình. Đầy chính là thời điểm mà nàng chờ đợi, và tim nàng dập mạnh tới mức nàng sợ người gác kia cũng có thể nghe thấy. Nàng nhường lối cho nhóm khách Nhật Bản đang tiến tới, lưng quay về phía người họa sĩ.
Đúng lúc một người Nhật Bản bước qua chạm lướt vào phía trước, Tracy ngả người ra sau, dường như là bị đẩy vậy, đè vào người nữ họa sĩ kia, xô chị ta cùng giá vẽ, bức tranh và màu vẽ xuống sàn.
“Ôi, tôi xin lỗi?” Traey kêu lên. “Xin để tôi giúp”.
Và khi hối hả giúp người nữ họa sĩ đang thẩn thờ, gót giày của Tracy giẫm lên những chỗ màu vẽ vương vãi dưới sàn và bôi lung tung khắp nơi. Daniel Cooper, người đã trông thấy tất cả vội lại gần, mọi giác quan đều căng lên vì tập trung chú ý. Ông ta tin chắc Tracy đã thực hiện hành động đầu tiên.
Người gác phòng tranh lao đến, la lên, “Cái gì thế này, hả?”.
Sự cố đã thu hút chú ý của đám du khách và họ đứng quây quanh người nữ họa sĩ bị xô ngã, giầy dép họ làm dây thêm màu vẽ ra khắp sàn gỗ căn phòng.
Thật là một sự bừa bãi kinh khủng, và vị Thái tử lại sắp xuất hiện tới nơi rồi.
Người gác hất hoảng kêu. “Giải tán ngay, nhanh lên”.
Tracy đã thấy người gác từ phòng bên chạy sang để giúp giữ trật tự. Trong phòng chỉ còn lại có một mình Cesar Porretta với bức Puerto.
Tracy vẫn đứng giữa đám đông lộn xộn, ồn ào. Hai người gác đang ra sức đẩy những du khách ra khỏi khu vực sàn nhà bị dây bẩn.
“Kêu ông giám đốc”.
Người gác kia vội chạy ra phía cầu thang.
Hai phút sau, Christian Machada đã có mặt tại hiện trường. Ông ta sửng sốt nhìn “và hét lớn. “Đưa mấy cô phục vụ lại đây” Bàn chải, giẻ lau và cánh kiến.
Mau lên”.
Một người phụ tá vội vã lao đi thực hiện mệnh lệnh.
Machada quay sang một người gác, quát. “Về vị trí của anh ngay”, “Thưa ông, vâng”.
Tracy thấy người ấy lách qua đám đông trở về căn phòng mà Cesar Porretta đang làm việc.
Cooper không một giây rời mắt khỏi Tracy. Ông ta chờ đợi hành động tiếp theo. Nhưng điều đó không xảy ra. Cô ta đã không lại gần bất kỳ một bức tranh nào, cũng không hề tiếp xúc với bất kỳ một ai. Tất cả những gì cô ta làm chỉ là gây đổ cái giá vẽ và đánh dây một ít màu vẽ trên sàn nhà mà thôi, song ông ta tin chắc rằng, đó là những hành động cố ý. Nhưng để làm gì? Tuy nhiên, Cooper cảm thấy điều mà cô ta tính toán đã xảy ra rồi. Ông ta nhìn quanh bức tường. Không thiếu một bức nào.
Cooper chạy sang phòng bên. Không có ai cả trừ người gác và một ông già còng lưng ngồi trước giá vẽ, đang sao lại bức Maja mặc quần áo. Tất cả các bức tranh đều còn nguyên. Nhưng chắc là đã có chuyện rồi. Cooper tin vậy.
Ông ta bước vội tới trước viên giám đốc - mà trước đó ông ta đã gặp để trao đổi công việc. “Tôi có lý do tin rằng”, Cooper thốt lên, “một bức tranh nào đó đã bị đánh cắp trong vòng vài phút vừa qua”.
Christian Machada nhìn người Mỹ có cặp mắt dữ dằn kia. “Ông đang nói gì vậy? Nếu có chuyện đó thì những người gác đã báo động rồi”.
“Tôi cho rằng, bằng cách nào đó, một bức tranh giả đã được tráo vào một bức thật”.
Viên giám đốc nở một nụ cười độ lượng. “Giả thuyết của ông có chỗ sai, thưa ông. Tuy rằng công chúng thì không được biết, nhưng sau mỗi bức tranh đều có bộ cảm nhận điện tử. Nếu có ai đó toan gỡ một bức tranh ra khỏi tường, điều chắc chắn sẽ phải làm, nếu muốn thay vào đó một bức khác, chuông báo động sẽ vang lên ngay tức khắc”.
Daniel Cooper vẫn chưa thấy hài lòng. “Hệ thống báo động của ông có thể bị ngắt điện không?”.
“Không. Nếu ai đó cắt đường dây dẫn điện, việc đó cũng gây báo động ngay.
Thưa ông, không, ai có thể đánh cắp một bức tranh ra khỏi bảo tàng này. Hệ thống bảo vệ của chúng tôi là cái mà ông có thể gọi là hệ thống ngăn chặn mọi xâm phạm”.
Cooper run lên vì tuyệt vọng. Tất cả những gì mà viên giám đốc nói ra đều có sức thuyết phục. Chuyện đó dường như là không thể xảy ra. Vậy thì tại sao Tracy Whitney lại cố tình làm dây màu vẽ ra sàn?
Cooper vẫn chưa chịu. “Xin ông chiều ý tôi. Đề nghị ông cho nhân viên kiểm tra lạ tất cả để đảm bảo rằng không có gì bị mất. Tôi sẽ chờ ở khách sạn”.
Daniel Cooper không còn làm gì hơn được nữa.
Tối hôm đó, Christian Machada gọi điện lại cho Cooper. “Thưa ông, tôi đã đích thân kiểm tra lại toàn bộ. Tất cả các bức tranh đều nguyên vẹn. Bảo tàng không mất gì cả”.
Vậy đó, dường như đó là một sự ngẫu nhiên. Nhưng Danlel Cooper, với linh cảm của một người thợ săn, cảm thấy rằng con mồi đã chạy thoát.
Jeff đã mời Tracy ăn tối tại phòng ăn chính của khách sạn Rizt.
“Tối nay trông em đặc biệt rạng rỡ”. Jeff nhận xét.
“Cảm ơn anh:
Tôi cảm thấy thật dễ chịu”.
“Đó là nhờ có bạn bè ở bên, tuần sau hãy cùng tôi đi Barcelone, em sẽ thích”.
“Xin lỗi, Jeff. Tôi không thể. Tôi sắp rời Tây Ban Nha rồi”.
“Thật ư?” Giọng Jeff đầy vẻ nuối tiếc. “Khi nào vậy?”.
“Một vài ngày nữa”.
“Ồ, tôi thất vọng đấy”.
Anh sẽ còn thất vọng hơn nữa. Tracy nghĩ, khi anh biết rằng tôi đã đánh cắp bức tranh Puerto. Nàng băn khoăn không biết anh ta đã định đánh cắp nó như thế nào. Giờ đây điều đó không còn quan trọng nữa. Vậy là mình đã vượt mặt anh chàng Jeff Stevens thông minh. Nàng đắc thắng nghĩ vậy. Vậy mà, không hiểu vì sao, Tracy bỗng thấy có chút ân hận.
Ngồi trong phòng làm việc, Christian Machada đang nhấm nháp ly cà phê buổi sáng và tự chúc mình về thành công tốt đẹp của chuyến viếng thăm bảo tàng của Thái tử Trừ sự cố đáng tiếc của việc màu vẽ dây ra sàn phòng tranh, tất cả đều tốt đẹp. Ông ta mừng là Thái tử và đoàn tùy tùng đã được dẫn quanh đi nơi khác cho đến lúc tất cả được lau chùi sạch sẽ. Viên giám đốc mỉm cười nhớ tới tay thám tử ngớ ngẩn người Mỹ đã cố thuyết phục ông rằng ai đó đã đánh cắp một bức tranh khỏi bảo tàng Prado.
Ngày hôm nữa không, ngày hôm nay không và ngày mai cũng không thể có chuyện đó - ông ta hài lòng nghĩ.
Cô thư ký của ông bước vào. “Xin lỗi? Có một quí ông muốn gặp. Ông ta yêu cầu tôi chuyển lại cho ông cái này”.
Cô ta đưa cho viên giám đốc một bức thư. Ngoài phong bì đề tên Bảo tàng Kunsthau - Zurich.
Đồng nghiệp kính mến của tôi, Bức thư này xin giới thiệu ông Henri Renđll, chuyên viên nghệ thuật cao cấp của chúng tôi. Ông Renđell đang trên đường đi thăm các bảo tàng trên thê”giới và rất sốt sắng muốn được thấy bộ sưu tập không gì so sánh nơi của ông. Tôi mong ông tạo mọi điều kiện giúp đỡ ông ấy.
Bức thư đo ông giám đốc bào tàng kia ký.
Sớm hay muộn, v iên giám đốc sung sướng nghĩ, mọi người đều sẽ đến với ta.
“Đưa ông ta vào đây”.
Henri Rendell là một người cao lớn, hói đầu, vẻ mặt dễ gây ấn tượng và giọng nói Thụy Sĩ. Khi bắt tay nhau. Machada nhận thấy bàn tay phải của người khách thiếu mất một ngón trỏ. Henri Rendell nói. “Tôi rất vui mừng. Đây là lần đầu tiên tôi có cơ hội đến thăm Machada, và tôi mong mỏi được thấy các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của ông”.
Christian Machada nhã nhặn nói. “Tôi không nghĩ là ông sẽ phải thất vọng, thưa ông Rendell, Xin mời đi cùng tôi Tôi sẽ tự đưa ông thăm các phòng tranh”.
Họ chậm rãi đi qua các phòng lớn có mái vòm trưng bày tranh của các danh họa Flemmitsơ, của Ruben và các họa sĩ cùng trường phái, và rồi thăm khu triển lãm chính với tranh của các danh họa Tây Ban Nha. Hean Rendell xem xét thận trọng từng bức một. Hai người đã trò chuyện với nhau như hai chuyên gia bậc thầy, đánh giá phong cách, nét phối cảnh và cảm nhận màu sắc của các họa sĩ.
“Bây giờ”, viên giám đốc tuyên bố, “Xin vì niềm tự hào của đất nước Tây Ban Nha”. Ông ta dẫn khách xuống tầng dưới, đi vào khu triển lãm tranh Goya.
““Thật là sướng mắt?”. Rendell kêu lên, ngỡ ngàng.
“Xin được cho tôi đứng mà ngắm thôi”.
Christian Machada vui lòng chờ đợi, thích thú trước sự thán phục của khách.
“Chưa bao giờ tôi được thấy thứ gì huy hoàng thế này”. Rendell thừa nhận.
Ông ta chậm rãi ngắm nghía từng bức tranh. Ngày nghỉ của các mụ phù thủy.
Rendell lẩm bẩm, “Một bức tranh tuyệt đẹp”.
Họ bước tiếp.
“Chân dung tự họa, thật kỳ lạ”.
Christian Machada mỉm cười.
Rendell dừng lại trước bức Puerto. “Một bức tranh giả thật khéo”. Ông ta toan bước đi.
Viên giám đốc chộp lấy cánh tay ông ta. “Cái gì? Ông vừa nói gì vậy?”.
“Tôi nói rằng đó là một bức tranh vẽ lại thật khéo”.
“Ông thật đã rất nhầm”, viên giám đốc cảm thấy bị xúc phạm.
“Tôi không cho là mình nhầm đâu”.
Chắc chắn là ông nhầm”, Machada quả quyết. “Tôi bảo đảm với ông đó là tranh thật. Tôi biết nguồn gốc của nó mà”.
Henri Rendell bước lại gần bức tranh và xem xét cẩn thận hơn. “Vậy thì nguồn gốc của nó cũng đã là giả mạo.
Đó là bức vẽ của đồ đệ Goya, Eugenie Lucas Padilla. Tất nhiên ông phải biết là Lucas đã vẽ hàng trăm tranh giả của Goya”.
“Chắc chắn là tôi biết vậy”, Machada gắt. “Nhưng đây không phải là một trong số các bức đó”.
Rendell nhún vai. “Tôi đành thua sự phán xét của ông”. Ông ta dậm chân định bước đi.
“Tôi đã đích thân mua bức tranh này. Nó đã được phân tích quang phổ và hóa nghiệm”. Ông giám đốc nói thêm.
“Tôi không nghi ngờ gì chuyện đó. Lueas vẽ ngay cùng thời với Goya và cùng dùng một thứ nguyên liệu, Henri Rendell cúi xuống xem xét chữ ký ở góc dưới bức tranh.
“Ông có thể tái bảo đảm một cách rất đơn giản, nếu ông muốn. Đưa bức tranh trở lại phòng phục chế và kiểm tra lại chữ ký này”. Ông ta bật cười. “Cái tôi của Lucas đã xui ông ta ký tên mình dưới bức tranh, nhưng túi tiền buộc ông ta phải ký mạo tên Goya” lên trên chữ ký của mình, cốt để tăng giá bức tranh mà”. Rendell nhìn đồng hồ. “Xin ông thứ lỗi. Tôi sợ rằng tôi sẽ trễ hẹn mất.
Cảm ơn ông đã chia sẻ kho tàng của mình”.
“Có gì dâu”, viên giám đốc lạnh nhạt. Thằng cha này rõ ràng là ngu xuẩn, ông ta nghĩ.
“Tôi đang ở biệt thự Magna, nếu ông thấy cẩn xin cứ gọi. Cảm ơn ông một lần nữa”. Henri Rendell ra về.
Christian Machada trông theo. Thế nào mà gã Thụy Sĩ ngớ ngẩn này lại dám cho rằng bức tranh quý giá đó là của dổm nhỉ?
Ông ta quay lại nhìn bức tranh một lần nữa. Một kiệt tác. Ông ta cúi nhìn chữ ký của Goya. Hoàn toàn bình thường. Nhưng mà, liệu có thể là thế không nhỉ? Nỗi nghi ngờ cỏn con không chịu mất đi. Mọi người đều biết, họa sĩ đương thời với Goya, Eugenie Lucas Padilla, đã vẽ hàng trăm tranh Goya giả, và trở nên nổi tiếng cũng nhờ thế.
Machada đã trả ba triệu rưỡi đô la để mua bức tranh Puerto này. Nếu như ông ta bị lừa thì đó là một vết nhơ ghê gớm, điều mà chỉ nghĩ tới cũng đã không thể chịu được.
Henri Rendell đã nói một điều có ý nghĩa:
thực sự có một cách đơn”giản để tái khẳng định tính xác thực của nó. Ông ta sẽ kiểm tra lại chữ ký rồi gọi điện cho Rendell và nhận xét một cách lịch thiệp nhất rằng có thể Rendell nên tìm một nghề chuyên môn khác thích hợp với khả năng của ông ta.
Viên giám đốc gọi người phụ tá và hạ lệnh “được tranh Puerto xuống để xét nghiệm lại.
Xét nghiệm một tác phẩm hội họa là công việc hết sức tinh tế, bởi lẽ chỉ thiếu thận trọng một chút là đã có thể phá hủy mất một tác phẩm vố giá, và không thể có lại được. Cánh phục chế của bảo tàng Prado đều là các chuyên viên, phần đông là đám họa bĩ, không thành đạt và xin vào làm việc ở đây để được gần gũi với môn nghệ thuật mà họ yêu thích. Họ bắt đầu với tư cách là thợ học nghề, dưới sự chỉ bảo của các chuyên viên, và phải làm việc nhiều năm trước khi trở thành thợ phụ, rồi mới được phép động tới các kiệt tác và luôn luôn dưới sự trông nom của các bậc thầy.
Juan Delgado, người phụ trách việc phục chế của bảo tàng Prado đặt bức Puerto lên một cái giá gỗ đặc biệt trước sự giám sát của Machada.
Tôi muốn ông kiểm tra chữ ký xem”, viên giám đốc nói.
Delgado không dám bộc lộ sự ngạc nhiên của mình. “Vâng, thưa ông giám đốc”.
Ông ta rót chút rượu izôprôpin vào miếng bông nhỏ rồi đặt nó lên chiếc bàn bên cạnh bức tranh. Miếng bong thự hai đựợc nhỏ lên đó vài giọt một thứ hóa chất có tác dụng trung hòa.
“Thưa ông, tôi đã sẵn sàng”.
“Vậy thì bắt đầu đi. Vẫn phải cẩn thận đấy”.
Đột nhiên Machada như cảm thấy khó thở. Ông ta theo dõi Delgado nhẹ nhàng chấm miếng bông thứ nhất lên chữ G trong chữ ký của Goya. Ngay tức khắc Dalgado dùng miếng bông thứ hai thấm lên đó để trung hòa cho rượu khỏi thấm sâu hơn xuống dưới. Hai người” cùng xem xét chất vải, nơi thấm hóa chất.
Delgado cau mày. “Xin lỗi nhưng tôi chưa thể nói gì được, ông ta nói. “Tôi sẽ phải dùng một hóa chất hòa tan mạnh hơn”.
“Làm đi”. Viên giám đốc hạ lệnh.
Delgado mở nắp một bình hóa chất khác:
ông ta thận trọng nhỏ chất đimantinpêtôn lên một miếng bông sạch rồi dùng nó thấm lại lên chữ cái đầu của chũ ký trên bức tranh. Căn phòng lập tức sặc mùi cay nồng của các hóa chất. Christian Machada đứng chết lặng, không thể tin “vào cái mà ông ta đang nhìn thấy nữa. Chữ G trong”tên của Goya mờ dần đi và ở vị trí của nó là một chữ L rõ ràng.
Delgado quay sang, mặt tái nhợt- “Tôi ... tôi có tiếp tục không”.
“Tiếp tục đi Machada nói, giọng khản đặc.
Từng chữ một, chữ ký của Goya mê đi dưới tác dụng của chất hòa tan và chữ ký của Lucas hiện” ra. Mỗi chữ như một cú đấm thẳng vào bụng Machada. Ông ta, người đứng đầu một trong những bảo tàng lớn nhất thế giới, đã bị lừa. Ban giám đốc sẽ biết, nhà vua Tây Ban Nha sẽ biết, cả thế giới sẽ biết điều đó. Thật nhục nhã.
Ông ta lê gọi cho Henri Rendell.
Hai người ngồi trong phòng làm việc của Machada.
“Ông đã đúng”, giọng viên giám đốc nặng nhọc. “Đó là một bức tranh của Lucas. Khi chuyện này lan ra, người ta sẽ cười vào mũi tôi”.
“Lucas đã đánh lừa nhiều chuyên gia”, Renđell an ủi.
“Sự giả mạo của ông ta lại là sở thích của tôi đấy”.
“Tôi đã trả ba triệu rưỡi đô la để mua bức tranh đó”.
Rendell nhún vai. “Ông có thể đòi tiền lại được không?”.
Viên giám đốc lắc đầu thất vọng. “Tôi mua nó của một góa phụ - người đã quả quyết rằng đó là tài sản của gia đình chồng bà ta trong nhiều đời. Nếu tôi phát đơn kiện, vụ kiện sẽ giằng co hết phiên tòa này đến phiên tòa khác và dư luận sẽ là rất xấu. Mọi thứ trong bảo tàng này sẽ bị nghi ngờ hết”.
Henri Rendell trầm ngâm hồi lâu. “Đúng lả không nên để lộ ra công luận.
Sao ông không giải thích mọi chuyện với cấp trên, và lặng lẽ ném bức Lucas đi nhỉ. Ông có thể gửi nó cho hãng Sotheby hay Christian để họ đưa ra bán đấu giá”.
Machada lắc đầu, “Không được, vậy thì cả thế giới sẽ Gương mặt Rendel1 chợt sáng lên. “Ông còn gặp may cũng nên. Tôi có một khách hàng sẵn lòng mua bức này.
Ông ta sưu tầm tranh Lucas mà. Và là một người hành động tùy hứng”.
“Dứt bỏ được nó thì thật sung sướng. Tôi không muốn nhìn thấy nó nữa.
Một thứ của rởm giữa kho báu của tôi. Tôi thà cho không nó đi”. Ông ta cay đắng nói thêm.
“Chẳng cần phải thế. Người khách của tôi có thể sẵn sàng trả ông, chẳng hạn, 50 ngàn đô la để mua nó. Tôi sẽ báo cho ông ta chứ?”.
“Ông thật tốt bụng, ông Rendell”.
Tại một cuộc họp được triệu tập vội vã, ban giám đốc đang bối rối đã cho rằng việc để lộ ra một trong những bức tranh có giá trị cửa bảo tàng Prado là một thứ giả mạo cần phải tránh bằng bất cứ giá nào. Cuộc họp quyết định rằng, tốt nhất là dứt bỏ bức tranh, càng lặng lẽ, càng nhanh càng tết. Các thành viên dự họp, trong các bộ . Complê sẫm màu, im lìm bước ra khỏi phòng. Không ai nói một lời với Machada đang đứng lặng vì đau khổ.
Chiều hôm đó, vụ mua bán đã được thực hiện. Henri Renđell đến Ngân hàng Tây Ban Nha và trở lại với một tấm séc bảo đảm trị giá 50 ngàn đô la và bức Lucas đã được trao lài cho ông ta buộc trong một tấm vải mộc rẻ tiền.
“Ban giám đốc chúng tôi sẽ rất phiền lòng nếu sự cố này được công luận biết đến”, Machada tế nhị nói.
“Nhưng tôi đã bảo đảm với các vị kia rằng khách hàng của ông là một người biết giữ miệng”.
“Ông có thể tin vào điều đó”. Rendell hứa.
Sau khi ra khỏi bảo tàng, Henri Rendeii đi một chuyến tắc xi tới khu dân cư ở rìa phía Bắc của Madriđ, mang bức tranh lên một căn phòng ở tầng ba và gõ cửa. Tracy là người mở. Phía sau cô là Cesar Porretta. Tracy đưa mắt nhìn Rendell và ông ta mỉm cười.
Họ đã nóng lòng muốn ném nó đi dấy”. Henri Rendell đắc chí.
Tracy ôm lấy ông ta. “Xin mời vào đi”.
“Còn bây giờ”, người lưng gù nói. “Các vị sẽ thấy phép màu. Một Goya sống lại.
Ông ta lấy ra một lọ hóa chất và mở nắp. Mùi cay nồng lập tức tỏa ra tràn ngập căn phòng. Trước mặt Tracy và Rendell, Porretta để thứ rượu đó lên một miếng bông và lướt rất nhẹ lên chữ ký của Lucas, từng chữ cái một. Dần dần, nó biến mất. Dưới đó là chữ ký của Goya.
Renđell nhìn, đầy thán phục. “Tuyệt vời?”.
“Đó là ý của cô Whitney”, người lưng gừ thừa nhận.
“Cô ấy đã đặt vấn đề liệu có”thế phủ lên chữ ký ban đầu của họa sĩ một chữ ký rởm rồi lại phủ lên chữ ký rởm này một chữ ký nữa của họa sĩ?”.
“Ông ấy đã tính toán sẽ phải làm như thế nào”. Tracy mỉm cười.
Porretta khiêm nhường nói, “Thật quá sức đơn giản. Mất chưa đầy hai phút mà. Cái mẹo là ở chỗ các thứ thuốc vẽ mà tôi đã dùng. Đầu tiên tôi phủ lên chữ ký của Goya một lớp keo thượng hạng, trong suốt để bảo vệ nó.
Rồi trên đó, tôi viết tên Lucas bằng một thứ màu vẽ khô nhanh điều chế từ axêrylle. Bên trên nữa, tôi lại viết tên Goya bằng một thứ dầu màu pha keo. Khi chữ ký trên cùng này bị phá hủy thì tên Lucas hiện ra. Nếu mà họ tiếp tục thì họ đã có thể phát hiện ra tên GĐ và ở dưới cùng. Nhưng dĩ nhiên là họ không làm thế”.
Tracy trao cho họ mỗi người một phong bì dày cộp và nói. “Tôi muốn cảm ơn cả hai ông”.
“Bất kỳ khi nào cô cần một chuyên gia hội họa, xin cứ gọi”. Henri Rendell nháy mắt.
Porretta hỏi. “Cô định làm thế nào để chuyển bức tranh qua biên giới”.
“Tôi có một người giao hàng sẽ nhận nó ngay ở đây. Hãy đợi ông ta nhé”.
Nàng bắt tay cả hai người rồi bước ra.
Trên đường trở về khách sạn, Tracy tràn ngập niềm phấn chấn. Tất cả đều là ở vấn đề tâm lý con người, nàng nghĩ. Ngay từ đầu, nàng đã thấy là không thể đánh cắp bức tranh được, bởi vậy nên phải lừa họ, đưa họ vào cái tâm trạng muốn dứt bỏ bức tranh Tracy hình dung, hộ mặt Jeff khi biết rằng mình đã bị qua mặt như thế nào, nàng cười vang.
Tại phòng khách sạn, Tracy chờ đợi người giao hàng kia, và khi ông ta đến, nàng gọi điện cho Cesar Porretta.
“Hiện “người giao hàng đã ở đây”, Tracy nói “Tôi sẽ phái ông ta đến nhận bức tranh. Hãy lưu ý để ông ta ...”.
“Cái gì? Cô đang nói cái gì hả?” Porreta hét lên. “Người của cô đã nhận nó cách đây cả nửa giờ đồng hồ rồi mà”.