Ngồi trong tắc xi từ sân bay Hồng Kiều đi ra, Tư Dao nhìn quang cảnh bên ngoài nhưng không có gì lọt vào mặt.
Phải chăng mình đã quá điên rồi, đi tin lời nói của hai người không hề quên biết trên mạng, bay đến Thượng Hải ở xa ngàn dặm? Càng hoang đường hơn nữa là, lại chuẩn bị đối thoại với một hồn ma?
Thậm chí mình còn không muốn chờ đến cuối tuần.
Trước khi đi, cô không dám nói thật với mấy người cùng thuê phòng trong biệt thự về mục đích chuyến đi này, chỉ bảo là đi công tác. Ở công ty, giám đốc lại càng không thể hiểu tại sao cô lại xin nghỉ hai ngày trong khi dự án đang ở giai đoạn quan trọng : vì hai ngày ngắn ngủi mà rất có thể cô sẽ đánh mất cơ hội thăng tiến.
-Anh này, tạm thời chưa đến nghĩa trang Chuyên Kiều vội. Tôi muốn vào nhà thờ Từ Gia Hội một lát, nếu anh đồng ý thì cứ chờ bên ngoài. Đợi sau khi tôi ra, lại đi đến Chuyên Kiều, sẽ thanh toán cả thể.
Tư Dao vốn không định đi “sám hối”, nhưng không hiểu tại sao lại có cảm giác thân thiết với “Con cóc lõi đời”, chi bằng cứ thử cả hai cách xem sao.
Vì không phải ngày cuối tuần nên trong và ngoài nhà thờ đều hết sức yên tĩnh. Lần đầu tiên Tư Dao vào nhà thờ, bởi đang nặng trĩu tâm tư nên cô tự nhiên nghiêm trang hẳn lên.
Vừa bước vào cửa nhà thờ đã thấy một tấm bình phong, phía trước bình phong đặt một chậu nước. Tư Dao đứng ngẩn ra nhìn chậu nước một lúc, vừa may có một người bước ra từ sau tấm bình phong nhúng tay vào chậu nước, đưa lên đầu làm dấu thánh rồi đi. Chắc đây là một nghi thức mà các tín đồ phải làm.
Vòng qua tấm bình phong, chỉ thấy lác đác vài người bên trong sảnh đường rộng lơn, hoặc ngồi quỳ, đều cúi đầu cầu nguyện. Tư Dao quỳ xuống chiếc ghế thấp sát đất, chắp hai tay trước ngực, mắt nhắm lại.
Đức Chúa, nếu người có thể nghe thấy lời sám hối của con- một người không phải tín đồ Cơ đốc, thì xin Người hãy trả lại cho con một bộ óc sáng suốt và cuộc sống yên bình. Con không rõ mình có tội hay không, nhưng chắc là đã làm không ít chuyện sai lầm, đã vô tình làm tổn thương nhiều người, con chỉ mong bi kịch sẽ không xảy ra nữa.
Lòng cô dần dần lắng xuống.
Đúng là một cảm giác vô cùng tốt đẹp. Nếu như tối tối trước khi đi ngủ đều có thể yên tĩnh thế này thì cuộc sống sẽ vui biết bao!
Những tiếng chân bước nhè nhẹ…Tư Dao mở mắt, cô rất kinh ngạc, một hàng các thiếu nữ mặc áo daìa trắng đi qua ngay bên cạnh cô, chậm chậm tiến về bệ theờ chính. Họ là ai thế? Là Thiên sứ chăng? Trong cái thành phố đầy sắc màu lòe loẹt, ô nhiễm nghiêm trọng này, chỉ có Thiên sức mới ặc bộ đồ trắng tinh khiết không chút tì vết, mới có maía tóc dài mượt mà như dòng suối, mới có bước đi khoan thai như thế kia!
Tại sao mình lại trông thấy Thiên sứ? Liệu có phải mọi tội lỗi của mình: ích kỷ, đố kỵ, dục vọng nảy sinh bởi quá yêu thích, những tổn hại gây ra vì sơ suất…đã được tha thứ, bởi thế mình mới được nhìn thấy cảnh thiên đường?
Bỗng Thiên sứ đi sau cùng bất chợt xoay người lại.
Mái tóc dài sũng, một lọn tóc rũ trên trán, khuôn mặt trắng bệch, chính là Kiều Kiều!
-Tại sao cậu không nắm chặt tay mình?
Tư Dao thầm nghĩ: đây không phải là thực, đây là ảo giác! Cô đứng dậy chạy như bay ra phía cửa, tiếng giày da nện trên sàn làm kinh đồng đế những tín đồ đang thành tâm cầu nguyện.
Đặt một bó hồng vàng trước mộ, Tư Dao khom người, tay khẽ rờ lên dòng chữ khắc tên Kiều Kiều trên bia đá, nước mắt lã chã rơi, chẳng mấy chốc đã ướt đầm một khoảng mặt đá ốp trên mộ.
-Kiều Kiều, cậu ở đâu? Có nghe thấy tiếng mình nói không?
Sau khi cậu ra đi, sực cắn rứt đã khiến mình suy sụp. Mình rất ân hận vì đã khăng khăng đòi đi hang quan tại. Mình hối hận vì đã không có đủ sức để kéo cậu lên, hối hận vì trong khoảnh khắc gặp Lâm Mang mình đã để cho tình xưa trỗi dậy, đã khao khát cái mà cậu đang có.
Giữa khao khát và đố kỵ, có ranh giới không?
Mình không nên tiếp nhận Lâm Mang khi anh ấy về Giang Kinh, không nên cùng đi ăn ở “Rừng Họa Mi”, không nên cùng anh ấy vào chời đại học Giang Kinh, không nên nảy ra ý nghĩ cùng anh ấy làm lại từ đầu mới phải. Anh ấy là một chàng trai đặc sắc, anh ấy biết, làm thế sẽ không tôn trọng cậu.
Cậu có thể hiểu hết tất cả những chuyện này không? Cậu có thể hiểu, tuy lòng người là phức tạp, tình cảm khó bề gỡ rối, nhưng mình không bỉ ổi đến mức bỏ mặc cho tuổi hoa của cậu héo tàn. Cậu có thể trả lại cho mình và Lâm Mang sự yên bình không? Bọn mình sẽ mang theo cùng một nỗi nhớ về cậu để vĩnh viễn cách xa đôi ngả.
Gió thổi. Hai cây thông cao nửa thân người trông hai bên mộ khẽ lay động, như khóc như than.
Có thật là tiếng ai đang khóc không?
Tư Dao nghe rõ ràng có tiếng khóc thút thít vẳng tới.
Trời nhiều mây nhưng cũng mới chỉ 3 giờ chiều. Xung quanh còn sáng sủa, lẽ nào không cần phải có màn đêm mà linh hồn cũng hiện lên?
Vẫn là ảo giác? Lại là ảo giác chăng?
Nhưng tiếng khóc nghe rất rõ kia mà.
Có phải Kiều Kiều không?
Cô đứng dậy, nhìn khắp xung quanh. Vì không phải dịp cúng lễ nên khắp nghĩa trang vắng lặng. Cô muốn xác định nơi tiếng khóc đưa đến, nhưng dường như âm thân ấy cứ quanh quẩn trên đỉnh đầu; đành phải đi tìm mà không định hướng.
Kiều Kiều, cậu ở đâu, sao lại trốn tránh mình? Cậu muốn dẫn mình đi đâu?
Tiếng khóc mỗi lúc một rõ ràng hơn, mỗi lúc một thật hơn. Tư Dao đã đi vào Di Xuân Viên – một khu khác của nghĩa trang – từ lúc nào không biết.
Một cô gái đang phủ phục trước mộ khóc thất thanh. Tư Dao chưa bao giờ gặp cô ta.
Tư Dao khẽ thở dài, quay người định đi. Chắc cô ta nghe thấy tiếng bước chân nên ngoảnh đầu lại, khuôn mặt đầm đìa nước mắt. Cô ta trạc 18, 19 tuổi, mái tóc cắt ngáng trông rất ưa nhìn, đôi mặt phương hơi xếch. Cô ta hỏi bằng tiếng Thượng Hải “Chị cũng quen Tiểu Khiết à?”
Tư Dao nhìn tên người chết khắc trên bia mộ là Phó Sương Khiết, một cái tên thật đẹp.
-Không, tôi không biết cô ấy, chỉ đi qua thôi. Xin lỗi đã làm phiên. Em khóc lóc sao mà thảm thiết thế. Em hãy giữ gìn sức khỏe.
-Sương Khiết là chị họ của em. Từ nhỏ hai chị em đã rất thân nhau. Chị ấy học ở đại học Y-Giang Kinh, đã đi thực tập ở bệnh viện. Nào ngờ tháng trước chị ấy đột ngột qua đời, em đau buồn vô cùng. Sau khi chôn chị ấy ở đây, tuần nào em cũng đến thăm chị ấy hai lần.
Không rõ tại sao cô bé này dường như rất muốn thổ lộ tâm tình.
- Thế ư? Chị cũng từ Giang Kinh đến đây. Này, đã một tháng rồi, sao em vẫn chưa thể nguôi? Đau xót là chuyện bình thường, nhưng cũng không nên đau xót quá mức, kẻo ảnh hưởng đến cuộc sống.
Tư Dao vừa nói vừa nghĩ, mình mà cũng đủ tư cách khuyên cô bé này hay sao? Cô gái nhìn Tư Dao đôi mắt cũng dỏ heo, rõ ràng vừa mới khóc. Cô không nén nổi, lại khóc huhu, vừa khóc vừa nói : “Em rất sợ, dăm bữa nửa tháng nữa mình cũng sẽ nằm đây”.
- Gì thế? Sao lại nói như vậy? Tư Dao hốt hoảng.
Cô gái mấp máy miện, nhưng thấy khuôn mặt xa lạ của Tư Dao nên cuối cùng chỉ lắc đầu : Vì em rất đau lòng.
Tư Dao thở dài : Em nên tĩnh tâm, đừng nghĩ ngợi lan man. Tư Dao cảm thấy như đang nói với chính mình.
Lúc nhấn chuông gọi cửa, Tư Dao vẫn chưa nghĩ ra được, enen nói với cha mẹ Kiều Kiều như thế nào về mục đích của lần ghé thăm này. Để tưởng niệm Kiều Kiều, muốn nói chuyện với linh hồn của Kiều Kiều ư? Đây cũng là nguyên nhân cô không gọi điện trước, vì sợ cha mẹ Kiều Kiều sẽ từ chối. Đúng thế, người già không muốn gợi lại nỗi đau về người con gái độc nhất đã ra đi.
Cha kiều Kiều ra mở cửa, thấy khuôn mặt cô gái rất quen, Tư Dao vừa định nói thì ông đã nhớ ra : Chúa là bạn của Kiều Kiều, đúng không/ hồi mùa hè các cháu đã cùng đến đây đưa tiễn Kiều Kiều”. Mắt ông bắt đầu đỏ hoe.
Tư Dao nhanh trí nói luôn : Chú ạ, chúa là Mạnh Tư Dao, cháu đi Thượng Hải công tác, tiện thể đến thăm hai cô chú. Dịp đó chúng cháu đã dặn nhau, hễ có dịp về Thượng Hải thì phải đến thăm cô chú.
Tư Dao đã mua một lô thuốc bổ, cô gượng cười và cầm lên.
Mẹ Kiều Kiều xuất hiện, nhận ra Tư Dao : Kìa Dao Dao! Đến chơi sao không gọi điện báo trước để cho chú chuẩn bị mâm cơm?
-Thôi ạ, cháu chỉ có thể ngồi một lúc.
Ngồi chuyện trò một lát, rồi Tư Dao hỏi : Xin cô chú đừng trách cháu gợi chuyện không vui, cháu muốn thăm căn phòng Kiều Kiều ở ngày trưuớc, cháu muốn được tưởng niệm….
Cha mẹ Kiều Kiều cũng đã chuẩn bị tư tưởng, biết khó tránh nhắc đến chuyện này, và càng cảm động vì tình nghĩa của Tư Dao, liền mở cửa phòng kiều Kiều.
- Không vấn đề gì, các cháu đều là bạn thân, Tiểu Mạn và Viên Thuyên cũng đã vào đây .
Nói xong, mẹ Kiều Kiều lặng lẽ đi ra.
Ảnh Kiều Kiều đặt trên mặt bàn trang điểm, khuôn mặt trái xoan rạng rỡ thanh tú với nụ cười ngọt ngào trong sáng. Đây là Kiều Kiều quen thuộc của Tư Dao, so với ảo giác gần đây thường gặp, thật một trời, một vực.
- Kiều Kiều, mình đến rồi, đến thăm căn phòng xinh xắn của cậu.
Cô bật khóc. Lúc sắp đi ra, Tư Dao chú ý nhìn vào máy vi tính. Máy không cắm điện đã đành, mà ngay màn hình và CPU cũng chẳng nối dây. Có trời mới biết Kiều Kiều lên mạng ở nơi nào.
Thấy Tư Dao khóc, mẹ Kiều Kiều lại khuyên nhủ : “ Dao Dao à, cháu đừng quá buồn phiền, cũng chỉ tại Kiều Kiều chẳng ra sao, nó hay kêu không được khỏe, vậy mà lại còn đi du lịch leo núi Vũ Di ; Bạn trai nó muốn đi một mình, khuyên nó nên ở nhà nhưng nó cứ không nghe”
Tư Dao nghĩ bụng : chắc cậu ấy sợ mình và Lâm Mang có thể có chuyện gì, nên mới đi cùng. Cô bèn hỏi : Bạn ấy không được khỏe? Bạn ấy ốm đau ra sao ạ?
Bà mẹ nói : Cô chú cũng không rõ lắm, phần lớn thời gian nó đều ở căn nhà thuê chung với bạn ở Phố Đông, lại vì đang có người yêu nên vài tuần lễ nó mời về nhà. Con gái lớn rồi, thích tự do.
Tư Dao “À” một tiếng, nghĩ bụng : mình vẫn chưa biết chuyện Kiều Kiều lại thuê nhà ở bên ngoài, cứ tưởng là vẫn ở cùng cha mẹ.
Cô chợt muốn làm rõ trước đây trước đây Kiều Kiều đã mắc bệnh gì, có lẽ điều này sẽ làm vợi bớt nỗi cắn rứt của cô chăng?
Người bạn cũng phòng trọ của Kiều Kiều hơi bực mình về người khách không mời mà đến, lại đến vào lúc muộn thế này, không muốn mở cửa; Khi nghe Tư Dao nói tỉ mỉ rằng muốn tưởng niệm Kiều Kiều, cô mới dịu giọng : cô đến cũng chưa gọi là quá muộn đâu, vì phòng Kiều Kiều ở trưuớc đây còn đang bỏ trống. Ngày nay người ta mê tín quá, nghe nói người từng thuê ở đây đã chết, thì không dám đến nữa. Họ thật vớ vẩn, cô ấy có chết trong phòng này đâu? Thế là tôi phải trả tiền thuê cả nhà.
Căn phòng Kiều Kiều đã từng ở trống trơn chỉ có bốn bức tường.
-Tôi là bạn thân của cô ấy, nhưng chưa từng ửo cùng phòng ký túc xá. Cô ấy đã đi xa, chắc cô phải lâu lâu mới quen được… -Tư Dao biết cô bạn này làm cùng công ty với Kiều Kiều, liền nghĩ phải tìm cách để cô ta nói ra hết những điều mình biết.
Cô gái nhếch mép : Mới đầu tôi cũng cảm thấy quái lạ, cũng rất sợ, một thời gain sau lại bình thường. Nói thực, trưuớc khi Kiều Kiều ra đi, tôi dã nghĩ đến việc chuyển nhà. Tôi biết nói thế này cũng không có hậu cho lắm…Kiều Kiều chẳng có điều gì đặc biệt tốt.
Tư Dao gật đầu nói : Tôi quen cô ấy nhiều năm, biết cô ấy quen được nuông chiều, không thích làm việc nhưng điều này cũng chẳng đáng trách. Cô ấy luôn được cưng chiều, từ bé chưa từng phải rửa bát bao giờ. Và, cũng hay chấp nhặt, nhưng thực ra bản chất của cô ấy rất tốt …”.
-Không chỉ là những chuyện này… Cô bạn cùng nhà định nói nhưng lại kìm ngay.
- Thế mà tôi cứ tưởng mình đã rất hiểu Kiều Kiều
-Chỉ là quan niệm riêng của tôi thôi, chẳng nên nói làm gì. Không có chuyện gì to tát đâu.
Tư Dao cảm thấy đã đến lúc có thể hỏi trực tiếp : - Nghe nói khi sống, có một thời gian cô ấy không được khỏe, cô có biết cô ấy mắc bệnh gì không?
-Tôi khong rõ lắm, chỉ thấy cô ấy có lần nôn ọe, hoặc ngất xỉu, phòng y tế của công ty nói là cô ấy huyết áp thập.
Tư Dao nghe nói “nôn ọe, ngất xỉu”, lại thấy vẻ mặt cô bạn hơi khác thường, bèn hỏi “Bạn trai của cô ấy…Lâm Mang, chúng tôi đều quen nhau cả, không biết quan hệ của hai người gần gũi đến mức nào? Xin lỗi, câu hỏi này hơi kỳ cục, nhưng chỉ vì tò mò thôi, cô không nói cũng không sao.
-Cô dã hỏi thế thì tôi cho cô biết vậy. Như cô vừa nói, hai người bọn họ đã …gần gũi đến mức không thể gần hơn đựoc nữa.
- Vậy thì về chuyện cô ấy không khỏe, chắc cô cũng có sự suy đoán.
Rốt cuộc cô bạn này không kìm nến nữa : - Được, chẳng giấu cô nữa. Có một buổi tối tôi về nhà, lúc vào cửa nghe tiếng ti vi bật rất to, Kiều Kiều đang xem một tờ Phiếu khám nên không chú ý đến tôi. Khi vừa thấy tôi, cô ấy lập tức năm tờ giấy lại. Tôi chỉ nói thế thôi, tin rằng cô cũng sẽ suy đoán như tôi.
-Cô nói cô ấy..và anh ta… Tư Dao thấy đầu hơi ong ong.
-Tôi không nói thế…có thể thấy cô cũng không hiểu nhiều về Kiều Kiều. Theo quan sát của tôi, thì Kiều Kiều thích “câu rùa đen”.
-“Câu rùa đen?” Tôi không hiểu.
-Có có biết câu nói “con rể rùa vàng” không? Kiều Kiều…có lẽ hơi yếu đuối, nhưng tự biết mình xinh đẹp. Hoàn cảnh gia đình cô ấy bình thường. Muốn tìm một chỗ dựa thực sự, một chỗ dựa về cả kinh tế lẫn thế lực nên cô ấy đã từng yêu không ít lần, toàn những người gia đình khá giả, thậm chí yêu cả đàn ông đã có vợ. Có lúc bọn họ đưa nhau về đây nồng nàn với nhau khiến tôi thấy rất phiền. Đừng cho rằng Kiều Kiều lẳng lơ. Như cô vừa nói, bản chất của Kiều Kiều trong sáng thuần khiết, rất dịu dàng, nhưng cô ấy lại cứ ra sức gắn hạnh phúc đời mình cho người khác. Bởi vậy chúng tôi mới nói đàu rằng cô ta “câu rùa đên”. Cô ấy đổi bạn trai không biết bao nhiêu lần. Cho đến khi gặp Lâm Mang, một anh chàng gần như hoàn hảo, đẹp trai cao lớn, sự nghiệp cũng rất thành công, nói thật lòng, chúng tôi đều rất ngưỡng mộ, cô ấy mới yên tâm “thu dây câu về”. Những điều này xảy ra trong vòng vài tháng.
-Thế thì tờ phiếu khám đó…chưa chắc đã liên quan tới anh ta?
-Kiều Kiều đã đi rồi, e chẳng ai có thể biết nữa.
Tư Dao nói lời cảm ơn, quay người đi. Người con gái kia còn nói với theo : Thực ra cô không phải là người đầu tiên đến đây hỏi tôi những chuyện này. Một cô gái khác tên là Viên Thuyên cũng đến đây hai lần, lần đầu ngay sau khi Kiều Kiêu chết, lần sau là hai tuần trước ngày Quốc khánh. Thái độ cô này rất tệ, cứ khinh khỉnh, tôi cũng không mấy để ý cô ta nữa.
Tư Dao không ngờ rằng khi trở về Giang Kinh, tâm trạng cô còn nặng nề hơn cả lúc đi. Những câu hỏi trong đầu càng nhiều hơn.
Chẳng phải la không có thu hoạch gì, tuy nhiên thu hoạch đó lại càng làm cô thêm rối tinh rối mù. Cô cảm thấy hình nhưu cô đã cố sống cố chết để đến nhà Kiều Kiều, cô cảm thấy không sao chịu nổi, muốn thăm lại Kiều Kiều, cô chui tọt vào phòng-nơi cất giữ những thứ Kiều Kiều để lại. Lục tìm một hồi, thấy trong ngăn kéo một tờ phiếu xét nghiệm “mang thai bình thường”.
Thượng Hải có 15 triệu dân. Việc có thai trước khi kết hôn chẳng phải chuyện gì ghê gớm, nhưng khi xảy ra cụ thể với một ai đó thì ít nhiều cũng ảnh hưởng đến cuộc sống. Đây chắc chắn là nguyên nhân vì sao cô ấy giấu kín chuyện. Trong con mắt của mọi người, Kiều Kiều là một cô gái kín đáo, giữ gìn, có chừng mực, không phải hạng đa tình bừa bãi. Chức đó là “kết quả” cũng với Lâm Mang, mà nếu đứa tẻ này đúng là của Lâm Mang thật?
Liệu có nên cho anh ta biết?
Nhưng nếu cái thai không pải của Lâm Mang thì sao?
Cho anh biết, rồi sao nữa? Có thể cứu được Kiều Kiều sống lại ư? Để cho anh ta có thêm nỗi đau, sự ngờ vực và cắn rứt chăng?
Điều duy nhất khiến Tư Dao có cảm giác được an ủi một chút là, Kiều Kiều đi Tân Thường Cốc đúng lúc mới có thai nên có thể giải thích đựoc tại sao cô ấy tỏ ra ốm yếu mệt mỏi và tinh thần không tốt, dẫn đến việc trượt chân, để rồi cuối cùng không gượng nổi nữa, rơi xuống vực sâu.
Đây có thể coi là sực việc đã khẳng định sẵn, một sự trùng hợp ngẫu nhiên không thể nào khác.
Tồng thời, nó cũng cho thấy cái chết của Kiều Kiều có tính tất nhiên, khắc hẳn về bản chất so vớic việc Viên Thuyên bị tai nạn xe hơi bất ngờ. Kết nói hai sự việc lại để dự đoán số phận của những người khác, có thể nói là cực kỳ hoang tưởng vô căn cứ.
Nghĩ đến Viên Thuyên, Tư Dao nhớ lại lời nối của mẹ Kiều Kiều và người bạn trọ cùng nàh. Hình như Viên Thuyên cảm thấy cái chết của Kiều Kiều không bình thường. Cô ấy đang điều tra cái gì?
Về Viên Thuyên, em cũng biết rồi, Sở tài chính kế toán của bọn anh hơn trăm nhân viên, chuyên môn nghiệp vụ na ná nhau, đều là những người biết tính toán tỉ mỉ, nhưng cô ấy còn cẩn thận hơn mọi người hàng chục lần. Nếu cô ấy có ý định gì đó, chắc chắn sẽ làm cho thật trọn vẹn, trước khi xong việc không bao giờ tuỳ tiện tiết lộ ra. Ví dụ như chuyện em chuyển nhà, cô ấy gửi quà cho em, cũng sắp xếp đâu ra đấy, ngay anh cũng không hay biết. Phẩm chất và tính cách đó rất hợp với ngành kế toán, cô ấy trẻ tuổi, mới vào nghề bốn năm mà đã được giữ vị trí Phó tổng kiểm toán viên của Ban kiểm toán xây dựng cơ bản, toàn được nhận những dự án lớn. – Dục Chu nói tới Viên Thuyên, thao thao bất tuyệt.
Sauk hi về đến Giang Kinh, Tư Dao lập tức hẹn gặp Dục Chu, mong anh ta có thể giúp mình loại bớt những nỗi ngờ vực, nhưng khi nói chuyện lại tháy Dục Chu cũng không biết gì nhiều hơn cô.
Hai người ngồi trong quán “Bách Gia Thôn”- một quán rượu nho nhỏ nằm ở cuối phố, nổi tiếng nhờ có loại rượu vang ngon. Tư Dao chọn nơi này bởi cô còn nhớ Dục Chu thích uống rượu vang. Vì có sợi dây liên hệ là Viên Thuyên nên hai người đã rất thân quen. Sau khi Viên Thuyên chết, dù rằng chưa từng gặp lại nhau nhưng qua hai lần điện thoại chuyện trò, an ủi lẫn nhau, họ vẫn duy trì được quan hệ bạn bè.
Nhưng Tư Dao chú ý thấy Dục Chu chỉ gọi một cốc Coca.
-Nghe những điều anh nói, thì đúng là tính cách của Viên Thuyên! Em và cô ấy học cùng lớp hồi cấp 3. Lên đại học tuy khác chuyên ngành nhưng ở cùng một tầng ký túc xá, có thể coi là em hiểu rất cặn kẽ về Viên Thuyên. Cứ thế mà suy, thì việc cô ấy đi điều tra hai lần về Kiều Kiều chắc chắn phải có chủ đích.
Tư Dao cảm thấy Dục Chu đang truyền đạt thông tin một cách lòng vong.
-Em nói đúng, Viên Thuyên sẽ không làm những việc không có mục đích. Anh nghĩ chắc là cô ấy cảm thấy nguyên nhân cái chết của Kiều Kiều ít nhiều có gì đó kỳ lạ.
Lúc nói câu này, Dục Chu chỉ nhìn vào chiếc cốc thủy tinh, hình như cố ý tránh ánh mắt Tư Dao.
-Chỗ cô ấy cho rằng đáng ngờ, có phải là… Anh nói thật với em đi, có phải liên quan đến em không?
Dục Chu mím môi nghĩ ngợi một lúc mới nói : Dù sao thì cũng là chuyện đã qua, anh nói cho em biết cũng chẳng sao. Cô ấy…đúng là cô ấy đã nói với anh, cảm thấy…cảm thấy lần ấy trên núi Vũ Di, giữa em và Lâm Mang hình như có một…có một sự hiểu ngầm gì đó không thể nói ra. Đướng nhiên cô ấy biết hai người đã từng yêu nha, nhưng thái độ của cả hai không giống như lâu ngày gặp lại, mà là như ngày ngày chạm mặt nhau vậy.
-Ngay cô ấy mà cũng nghĩ thế?! Dù đã dự liệu trước nhưng Tư Dao vẫn cảm tháy rất bức xúc.
-Em đừng nghĩ ngợi gì, đây là một suy đoán hoàn toàn vô căn cứ của Viên Thuyên, là muốn hỏi cho rõ ràng xem Kiều Kiều và Lâm Mang đã từng sâu nặng đến đâu, yêu đương đến mức độ nào. Nhưng xem chừng kết quả thu được không nhiều, cha mẹ Kiều Kiều không rõ mấy về tình hình con gái, còn người bạn trọ cùng Kiều Kiều thì cứ như bẩm sinh đã xung khắc với Viên Thuyên, nên không chịu nói gì. Có lẽ tại thái độ của Viên Thuyên hơi kẻ cả, bởi cô ấy còn trẻ mà đã làm việc rất xuất sắc, nên đã bỏ qua cả những kỹ xảo giao tiếp thông thưuờng. May mà anh thực lòng yêu cô ấy, đương nhiên anh luôn nhất nhất nghe lời cô ấy, chứ nếu là người thì chưua chắc đã chịu như vậy.- Dục Chu nói đến câu “nhất nhất nghe lời”, ánh mắt anh thể hiện nỗi nhớ nhung.
Bọn họ đã từng là một cặp tuyệt vời biết bao.
-Xem ra Viên Thuyên cũng giống Kiều Kiều, đều cảm thấy em có lẽ đã không cố hết sức cứu Kiều Kiều, cho rằng em là một người rất ích kỷ, mất hết lương tâm. Ngán thật!- Tư Dao thấy muốn uống rượu.
-Theo anh thì không đến nỗi tệ hại như em tưởng tượng. Cô ấy chỉ là suy đoán, lại chẳng có chứng cứ gì; vẫn rất tốt với em, giúp em tìm nhà mới. Trong khi đang đi công tác vẫn thu xếp việc gửi quà tặng em. Nếu đúng là không tin em nữa, thì sao lại nhiệt tình như vậy?
Tư Dao như chợt tỉnh ngộ ra, kêu lên “Thảo nào mà…chính vì món quà đó, nên em mới nghĩ chắc là Viên Thuyên bất mãn với em”.
- Sao lại nói thế? Chắc chắn là Dục Chu cảm thấy Tư Dao đang nói ra những chuyện giời ơi.
-Anh còn chưa biết, trong hộp quà đó còn có một bức ảnh chụp Tân Thường Cốc. Em vừa trông thấy đã rụng rời, vì Viên Thuyên bất mãn với em.
- Sao lại nói thế? Chắc chắn là Dục Chu cảm thấy Tư Dao đang nói ra những chuyện giời ơi.
- Anh còn chưa biết, trong hộp quà đó còn có một bức ảnh đó còn có một bức ảnh chụp Tân Thường Cốc. Em vừa trông thấy đã rụng rời, vì Viên Thuyên biết sau cái chết của Kiều Kiều, em sợ nhất là nghe nhắc đến Tân Thường Cốc, thì đâu có thể dùng bức ảnh ấy trang trí cho căn nhà mới được? Nhất định là có ngụ ý sâu xa. Đến hôm nay em mới hiểu, ngụ ý đó là một lời trách cứ thầm lặng.
- Dao dao nghĩ phức tạp quá rồi đấy – Thấy Tư Dao nước mắt giàn giụa, Dục Chu hơi lúng túng.
- Anh hiểu Viên Thuyên, phỏng đoán được tâm tư của cô ấy, em không nghĩ phức tạp sao được?
- Cô ấy không phức tạp như em tưởng tượng! Trong mắt anh, cô ấy bên ngoài thì cứng rắn nhưng bên trong lại vô cùng dịu dàng, là một người tốt, có thể cùng sống đến trọn đời. Đó là lý do tại sao anh đã không do dự cầu hôn với cô ấy, và còn mong được cưới sớm, ngay em cũng đã từng xem phòng mới của bọn anh rồi còn gì? Bây giờ anh đã hiểu, mong ước càng lớn, thất vọng càng nhiều. Giờ đây một mình anh đối mặt với căn nhà trống trải, cảm thấy rất đau buồn.
- Em hiểu, hôm nay anh chỉ uống cô ca mà không uống rượu vang cũng vì chẳng có hứng thú gì.
-Sau khi Viên Thuyên đi xa, anh chưa hề uống một lần nào. Những chai rượu vang chỉ hiện lên ký ức về những lần ở bên cô ấy. Dục Chu ngao ngán.
-Dần dần rồi sẽ đỡ hơn…
- Có lẽ anh sẽ không bao giờ uống rượu nữa. Nhưng ngày vừa qua, vì nhớ Viên Thuyên khủng khiếp nên anh đọc kinh Phật theo lời khuyên của mẹ, đã giải tỏa và bình tĩnh được một chút. Anh đã thấy hơi thích Phật học, thậm chí đã có ý nghĩ cắt đứt trần duyên, suốt đời theo Phật. Ngày mai anh đi công tác ở Thành Đo, cũng muốn nhân dịp này đến núi Nga Mi bái Phật, nói chuyện với các cao tăng ở đó. Anh nói thật, tình cảm của anh và Viên Thuyên đạm sau như vậy, lại sắp cưới nữa, dù sao anh cũng không thể gần gũi với một ai khác, thực không thể tưởng tượng nổi.
-Viên Thuyên thật hạnh phúc vì có được một người chung tình như anh, nhưng anh cũng cần phải nghĩ cho thoáng hơn. Tư Dao xúc động trào nưuớc mắt.
- Đâu có dễ thế… Dục Chu định nói nhưng ròi lại thôi, ngửa cổ uống cạn cốc Côca, có vẻ như tỏ ra đã quyết tâm : Nói thật với em, anh đọc kinh Phật cũng là bất đắc dĩ. Anh…anh.. vẫn luôn trông thấy cô ấy, trông thấy Viên Thuyên.
Tư Dao suýt đánh rơi cốc rượu trong tay, kinh ngạc nhìn Dục Chu. Ánh mắt anh càng lộ rõ vẻ sợ hãi.
-Chắc chỉ là ngủ mê…là ác mộng. Em cũng thường gặp mà.
-Có lẽ vậy, nhưng anh cảm thấy rất thật. Nhất là trong căn hộ mới của bọn anh. Anh vốn không muốn đến ở vì sợ lại đau lòng nhưng một buổi tối, cũng vừa tuần trước, mấy người họ hàng từ Hà Bắc về Giang Kinh, ở kín hết căn nhà nhỏ của anh hiện giờ, nên anh đành sang ở nhà mới. Đến cửa anh cảm giác thấy có gì không ổn lắm: cánh cửa sắt chỉ khép hờ! Anh nhờ rất rõ lần trước đã khóa rồi. Anh tưởng là có kẻ trộm, nhưng lại nghĩ căn phòng trống hoác thế này, bên trong chỉ có vài thứ đồ dùng giản dị, chắc bọn trộm đã mất công toi. Ai ngờ khi vào trong bật đèn, anh sợ thót tim.
Anh thấy trên mặt bếp có một bó hoa tươi sắc màu rực rỡ cắm trong lọ. Còn trong phòng làm việc thì vọng ra tiếng hát bài “Giang Nam” của Lâm Tuấn Kiệt.
Dục Chu bắt đầu thở gấp hơn, trán vã mồ hôi, cầm lấy cốc rượu, hình như định uống một hớp côca nhưng khổ một nỗi trong cốc đã không còn một giọt.
- Lẽ nào..anh cho rằng…- Tư Dao cũng cảm thấy rờn rợn.
- Em và anh biết rõ thói quen của Viên Thuyên, cô ấy rất thích các loại hoa sắc màu rực rỡ. Trước kia gân như tuần nào cô ấy cũng mua hoa về cắm trong phòng, đúng không? Căn hộ mới đó bỏ trống đã lâu, anh vốn chẳng có tâm tư nào để mua hoa về trang trí. Bài hát “Giang Nam” cũng là bài Viên Thuyên rất thích. Lúc ấy ý nghĩ đầu tiên đến với anh là Viên Thuyên vẫn còn ở trong căn nhà ấy.
- Lẽ nào chính vì bó hoa đó…
-Vẫn còn nữa, em nghe anh nói hết đã. Đêm ấy, vì bó hoa đó mà anh cứ nằm trằn trọc mãi, thế rồi lơ mơ ngủ, không rõ có phải là trong mơ hay không. Anh nghe thấy từng tiếng, từng tiếng thở dài. Anh mở mắt, trên đầu giường có một bóng người. Anh sợ quá kêu lên, vội vàng giật công tắc đèn trên bàn nhỏ ở đầu giường nhưng giật đi kéo lại mãi mà đèn vẫn không sáng. Còn bóng người ấy đã bay ra khỏi phòng ngủ rồi. Tuy anh nói đó là “bóng người”, nhưng anh có thể nhận ra dáng vẻ ấy chính là Viên Thuyên!
Anh bước theo ra ngoài phòng ngủ, gọi tên cô ấy, rồi lại bật đèn phòng khách nhưng vẫn không sáng. Trong bóng tối, chỉ thấy Viên Thuyên đi chầm chậm, vòng quanh phòng khách, tay khẽ đưa lên. Vì anh nhơ thương cô ấy rất nhiều, nên dù khiếp sợ nhưng vẫn muốn nói chuyện với cô ấy. Tuy nhiên bất kể anh nói gì cô ấy cũng không đáp lời. Cô ấy cứ đi vòng quanh như vậy khoảng 10 phút, rồi đột nhiên tan biến đi như làn sương khói.
Cùng lúc đó, các ngọn đèn anh đã cố bật, lại cùng sáng lên. Anh đứng đối diện với lọ hoa rực rỡ kia, chợt cảm thấy bó hoa ấy hơi khác thường, có một vẻ kỳ quái rất khó diễn tả. Anh bước lại nhìn kỹ, thì lại không thấy có gì khác lạ, bèn đưa tay ra, khi vừa chạm vào một cánh hoa thì lập tức cả trăm cánh hoa lớn nhỏ cùng rơi xuống.
Dục Chu nói xong, thở ra một hơi dài, sắc mặt vô cùng nhợt nhạt.
Dục Chu cố đòi tiễn Tư Dao về tận nhà, chỗ anh ở cách hồ Chiêu Dương cũng không xa, không có gì quá phiền phức.
Ngay khi xe vừa mới chạy Tư Dao đã cảm thấy có gì đó khác thường.
Cảm giác này đã từng xuất hiện mấy lần. Đêm cô đi dạo với Lâm Nhuận, rõ ràng giác quan thứ sáu mách bảo cô có một đôi mắt đang ngầm theo dõi trong bóng tối.
Cô lấy chìa khóa ra mở cửa, ánh đèn trước cửa quá yếu, mấy lần không tra được chìa khóa vào ổ. Cô cảm thấy sống lưng lành lạnh vì bị đôi mắt nào đó theo dõi, bèn bất thình lình quay người lại thì chẳng nhìn thấy một ai.
Ánh mắt của Tư Dao không thể xuyên thấu bóng đêm.
Hay tại mình yếu bóng vía?
Rốt cuộc cũng mở được cửa, Tư Dao vội bước vào ngay, đóng chặt ba tầng cửa bảo vệ, bật đèn rồi đi lên gác.
Mở toang cửa sỏ, bên ngoài tối om, đôi mắt ấy có di chuyển lên đây không?
Con mèo Linda cũng nhảy lên cửa sổ, cùng chủ nhân nhìn vào bóng đêm, kêu lên một tiếng dài hào hứng.
-Linda, hãy cho ta biết, mi có nhìn thấy gì không?
Linda có vẻ như nghe hiểu, lại nhìn vào bóng đêm một lúc, rồi như mất hứng quay mình nhảy xuống. Nó biết chủ nhân sắp tắt đèn đi ngủ, bèn xuống nhà dứoi đi chơi.
Mở máy tính ra, Tư Dao chợt nhớ mình chưa cảm ơn hai người tốt bụng đã góp ý kiến.
Yêu Yêu: Cảm ơn anh. May mà có lời khuyên của anh, tôi đã về quê người bạn ấy, viếng mộ co ấy, thu hoạch được rất nhiều.
Hoàng Dược Sư: Ơn trời là bạn đã trở về.
Không biết tại sao, mấy ngày không nhận đựoc tin của bạn, tôi có cảm giác bạn gặp nguy hiểm.
Yêu Yêu: Lạ nhỉ, anh là Hoàng Dưuợc Sư, mà cũng có lúc “không biết” à?
Hoàng Dược Sư: Tôi là phiên bản.
Yêu Yêu: Nếu như ngay anh cũng không thể nói rõ, thì hơi kỳ lạ, tại có cảm giác nguy hiểm? Anh đang ở đâu?
Hoàng Dược Sư: Có lẽ là một nơi rất xa chỗ bạn.
Yêu Yêu: Đảo Hoa Đào?
Hoàng Dược Sư: Còn xa hơn thế nữa.
Yêu Yêu: Anh không muốn nói cũng được, dù là không biết, tôi vẫn ngủ ngon.
Hoàng Dược Sư: Thật không?
Yêu Yêu: Sigh, nếu như cô ấy không đến.
Tôi cảm thấy đã kết nối được với cô ấy rồi, ở trong nghĩa trang, thậm chí tôi còn nghe thấy tiếng cô ấy khóc, chắc cô ấy có thể buông tha tôi.
Hoàng Dược Sư: Ít ra thì cô ấy cũng không gửi QQ cho bạn nữa
(Tư Dao nhìn lên tên Kiều Kiều trong danh sách bạn bè, cô thở phào)
Yêu Yêu: Đúng, không gửi nữa, tôi tìn rằng đã hiểu thêm một chút về cái chết của cô ấy, có lẽ cô ấy sẽ buông tha tôi.
Hoàng Dược Sư: Nếu thực sự như vậy thì tốt quá. Phải đi làm rồi đây. 88 (bye bye)
Yêu Yêu: Làm đêm à?
Hoàng Dược Sư: Không, ở đây đang rực nắng.
Anh chàng Hoàng Đựoc Sư đó nói xong, lập tức thoát khỏi mạng. Tư Dao nghĩ một lúc về chữ “rực nắng”: phải chăng anh ta ở nước ngoài? Người này thật là bí hiểm, dường như rất chú ý giữ kín vè bản thân, cũng rất tôn trọng sự riêng tư của mình, chưa từng hỏi gì thêm.
Cô lại gửi tin cho “Con cóc lõi đời”, cảm ơn về gợi ý của anh ta, nhưng cô không nói mình đã nhìn thấy gì, nghe thấy gì trong nhà thờ.
Những việc xảy ra trong nhà thời, liệu có phải lại là ảo giác? Hay đúng là linh hồn của Kiều Kiều?
Tại sao đến hôm nay vẫn chưa hề thấy ảo ảnh về Viên Thuyên? Căn cứ vào sự phân tích của Dục Chu, Viên Thuyên lúc sống đã nghi ngờ về cái chết của Kiều Kiều, thậm chí nghi ngờ cả mình, nên trước khi chết mới gửi bức ảnh Tân Thường Cốc đến đây. Còn quả cầu pha lê nữa ,không chỉ là một dự báo cho tương lai, phải chăng cũng còn có ngụ ý gì đó?
Quả cầu pha lê trong suốt, Viên Thuyên hy vọng lòng mình không vướng chút bụi trần, trong sáng long lanh như pha lê? Đúng, đây chính là tâm tư của Viên Thuyên.
Trước khi ngủ, Tư Dao nghĩ đến đôi mắt trong bóng tôi ở ngoài kia, bèn đóng chặt cửa sổ lại. Có lẽ cánh cửa sẽ chặn được ánh nhìn ấy, nhưng cô lại phải vật lộn với một nỗi sợ khác.
Chính lúc cô đóng cửa sổ thì nỗi sợ hãi không gian khép kín đã trào dâng như nước thủy triều.
Cô cũng không thể nói rõ từ khi nào mình bắt đầu sợ bị nhốt một mình ở trong phòng. Trước khi thì có mẹ ở bên, khi ở ký túc xá thì còn có bạn cũng phòng. Khi trưởng thành, vì mong có thể đối diện với cuộc sống độc lập, cô đã phải nhờ đến sự trợ giúp của bác sỹ mới xóa bỏ được những trở ngại tâm lý này. Nhưng mấy ngày gần đây, những nhược điểm trong tâm lý của cô dường như đang “tổng động viên”, chứng bệnh sợ bị giam cầm tìm đến trước hết.
Có lúc cô nghĩ, sống thế này thực chẳng thú vị gì.
Có lẽ, lại đến phúc phải đi gặp bác sỹ tâm lý.
Hình như mỗi lần đi ngủ mà phải đóng cửa, đều gặp ác mộng.
Cảnh trong mộng tĩnh lặng như cõi chết, không thanh không sắc, nhưng chỉ trong khoảnh khắc cô đã ngập chìm trong biển lửa.
Cô muốn kêu lên, lại bị sặc khói đến noĩi không thể há miệng, chỉ có thể gào lên trong tiềm thức : cho tôi ra, cho tôi ra. Nhưng lại không có lối ra.
Ra được sẽ an toàn hơn hay sao? Ngoài kia có ánh mắt theo dõi, lại có cả bước chân bám theo trên con đường vắng ngắt ở ven hồ.
Biển lửa này, chẳng phải là thứ xiềng xích dành cho mình hay sao? Nỗi sợ hãi và tự trách mình đã hóa thành lửa, thiêu đốt không thương tiếc.
Làn gió ẩm ướt từ hồ thổi tứi, lập tức thổi tắt đám lửa đang cháy dữ dội. Mình vẫn nên mở cửa sổ thì hơn.
Gió mang theo hơi nước, đúng là gió từ hồ Chiêu Dương thổi lại.
Tư Dao chợt tỉnh,nhớ ra trước khi đi ngủ cô đã đóng cửa sổ nên không thể nào cảm thấy làn gió ẩm ướt ấy được.
Nhưng cô mở to mắt, và thấy cửa sổ đang mở toang.
Có một bóng người trong bóng tôi.
Kiều Kiều, là cậu à?
Gió mắt lạnh làm cô nhanh chóng tỉnh hắn. Bóng người đó thấp bé, không phải là dáng vẻ thướt tha của Kiều Kiều. Động tác của hắng ta gọn nhẹ và nhanh, là một người thật.
Phảu ứng đầu tiên của cô là kêu to một tiếng cho vơi bớt nỗi kinh hòang đang tràn ngập, nhưng cô ngạc nhiên khi nhận ra mình lại có thể bình tĩnh một cách khác thường, không những không kêu một tiếng , mà vẫn còn nằm bất động, như đang ngủ. Có lẽ vì đã trải qua nhiều phen sợ hãi, cho nên có thể xử lý các tình huống bất thường một cách lý trí hơn; hay chỉ là một dạng tê liệt, thậm chí là một dạng buông xuôi chấp nhận.
Hoặc là, vì kinh hãi quá mức nên dã không biết phải làm gì để giải tỏa, cũng không hiểu, giải tỏa rồi thì mình có thoát được tình cảnh nguy hiểm này không?
Hét lên, vật lộn giằng co? Coi chừng mất mạng.
Kẻ đột nhập hoàn toàn có thể ra tay trong khi mình đang ngủ, nhưng hắn không làm thế; đủ thấy giết người không phải là mục đích của chuyến “viếng thăm” này. Nhưng tại sao hắn không dùng thuốc mê? Báo “Buổi Chiều” vẫn hay đăng tin bọn trộm cướp dùng thuốc mê gây án, hay là tên này không phải tội phạm chuyên nghiệp? Nhưng hắn tỏ ra rất linh hoạt, có thể đột nhập qua đường cửa sổ đã đóng chặt mà mình không hề biết, hoàn thoàn không giống một tay mới vào nghề. Rốt cuộc hắn muốn gì đây?
Cô quyết định tiếp tục nằm im, quan sát hành vi của kẻ đột nhập.
Một luồng sáng bất chợt lóe lên, Tư Dao vội nhắm mắt lại, khi xác định luồng sáng đó không chiếu vào mình, cô mới từ từ mở ra. Thì ra bóng đen kia bật đèn pin , ánh đèn pin đang soi vào một ngăn kéo ở bàn làm việc.
Hắn đang lục lọi thứ gì? Tiền? Thẻ tín dụng? Séc?
Ví tiền để ở dưới gối, tiền của mình phần lớn đều ở đây.
Mắt cô càng thích ứng hơn với bóng đêm. Bóng đen vẫn là bóng đen, áo đen quần đen, khăn đen quấn quanh đầu, giốgn hệt bọn đạo tặc trong phim võ hiệup.
Sau khi lục hết mọi ngăn kéo, kẻ đột nhập chuyển sang bàn trang điểm, lại mở ngăn kéo ra tìm tiếp.
Tiền? Đồ trang sức?
Có vẻ hắn ta không tìm được thứ cần tìm, hai vai xuôi xuống có vẻ rất nản. hắn lại chuyển sang bàn làm việc, bắt đầu lật giở chồng giấy tở, kế hoạch của doanh nghiệp, và bản thiết kế mặt bằng. Chẳng lẽ là liên quan đến công ty? Là “thám tử” do đối phương cạnh tranh sai đi đánh cắp bí mật kinh tế? Mình phải rút ra bài học, sẽ không bao giờ mang “tài liệu mật” của công ty về nhà nữa. Không phải!
Nếu đúng như là như vậy, thì hắn sẽ lục tìm chồng tài liệu này đầu tiên, chứ không lục ngăn kéo trước.
Tên này rõ ràng không hứng thù vời trò gián điệp kinh tế, hắn mau chóng rời khỏi bàn làm việc.
Rồi bước về phía giường ngủ của Tư Dao.
Theo bản năng, Tư Dao nín thở, nhưng nín thở chác sẽ khiến kẻ đột nhập kia cảnh giác sinh nghi. Bửi vậy cô lại bắt đầu thở đều đều, tiếng thở nhẹ và dài giống y như một người đang say giấc.
Hắn dừng lại trước giường, Tư Dao nghĩ, cho dù chỉ nhìn thấy ánh mắt hắn cũng được, nếu hắn là kẻ điên rồ, có thú tính thì mình phải chủ động tấn công trước.
Nhưng cô không thể mở mắt.
Tuy nhiên cô có thể cảm thấy hắn ta cũi xuống, tiếp theo là cảm giác như chiếc gối hơi nhúc nhích, chắc chắn là tay hắn đụng vào. Ví tiền và điện thoại ở dưới gối, tên này hẳn là có kinh nghiệm, biết giường con gái thường cất những thứ quan trọng dưới gối khi đi ngủ.
Bàn tay đã rút ra, tin chắc là không phải tay không. Kỳ lạ là sau một thoáng, chiếc gối lại nhúc nhích, hình như hắn trả lại đồ.
Nhưng hắn vẫn chưa đi. Tư Dao vẫn thở đều đều, he hé mắt, thấy hắn đứng thẳng, hình như đang nhìn mình chằm chằm. Cô khép mắt lại, tự hỏi : rốt cuộc hắn muốn gì?
Đột nhiên, cô cảm thấy có hai ngón tay lạnh giá vuốt trên khuôn mặt mình, nói đúng hơn đó là ngón tay đi găng, có vẻ như găng tay dệt bằng sợi tơ hoặc sợi cô-tôn mỏng ôm sát tay. Hắn muốn làm gì đây?!
Sự trấn tĩnh mà cô đã giữ được rất lâu đang lung lay, không biết lúc nào sẽ sụp đổ. Nỗi sợ hãi đang bao trùm lên cô, cũng giống như bóng đen kia.
Bình tĩn, Tư Dao, ngươi không còn lựa chọn nào khác. Căn cứ vào hành động vừa rồi, có lẽ hắn thuộc loại lưu manh rất thận trọng. Loại lưu manh như thế có tính mục đích rất cao, không muốn để lộ, nên sẽ không thay đổi chủ đích ngay tức thời. Hắn vuốt má mình, đương nhiên là do bản năng của “giống đực”, điều này hoàn toàn có thể hiểu được. Chỉ cần ý định của hắn không phải là hại người, thì mình chắc sẽ an toàn, nếu bây giờ phản kháng, tức là đánh động hắn ngay. Bọn lưu manh thận trọng thường rất chú ý tự vệ, nhất định mang theo hung khí, sự phản kháng của mình chỉ dẫn đến hậu quả thiệt thân thôi.
Nghĩ vậy Tư Dao lấy lại sự bình tĩnh, lặng lẽ “ngủ say”.
Quả nhiên, hắn ta chỉ vuốt rất nhẹ lên mặt Tư Dao, rồi lập tức rút tay về đi ra chỗ khác. Nghe âm thanh nhè nhẹ trên sàn có thể đoán rằng hắn đi ra cửa sổ.
Tư Dao lại hé mắt nhìn, chỉ thấy bóng đêm bám tay vào bậu cửa sổ, nhảy lên bệ cửa, chui ra, đứng bên ngoài đóng hai cánh cửa lại, tất cả những động tác này chỉ diễn ra trong chớp mắt đã xong. Lại nghe thấy một tiếng “cách” khẽ vang lên, Tư Dao lúc này đã nhổm dậy, rất kinh ngạc khi phát hiện ra cái chốt ở giữa hai cánh cửa sổ đã tự động tra vào.
Hắn là người hay ma?
“Trái tim cô đã bị anh ta chiếm mất một khoảng lớn!” Hinh về đến buồng bệnh nhân, bỗng nghe tiếng bà San nói ở phía sau. May mà Hinh có trí nhớ khá tốt, nếu không, mấy hôm nay bà ta đã sắm nhiều vai như thế - cô khó mà nhận ra đó là tiếng bà ta.
“Bà nói về anh ấy à? Anh ấy chỉ là một bạn đồng hương của cháu”. Hinh không muốn để ý nhiều đến bà ta, nhưng vì nể trọng người già và cũng không nỡ cau có lạnh nhạt nên cô chỉ đáp lại một câu cho phải phép.
“Tôi không nói anh ta, mà là nói anh ta!”
Thật không sao hiểu nổi nữa.
Hinh biết, ngay trong lúc bình thường không “sắm vai” gì, thì bà San đã là người rất “khó khăn”, cô bèn gật đầu, rồi đi về phía giường mình. Nhưng tiếng bước chân vẫn cứ ở phía sau cô, tiếng nói cũng bám theo: “Thật không sao hiểu nổi nữa!”
“Bà nói gì thế?” Hinh quay người lại nhìn bà San. Tại sao bà ta có thể biết cô đang nghĩ gì? Thực ra bà ta là một bệnh nhân như thế nào?
“Tôi là một bệnh nhân như thế nào, chẳng lẽ họ không nói với cô à? Tôi là một người đa nhân cách - một loại bệnh thần kinh khiến người ta cười nhạo nhất!” Hình như bà ta lại đọc được ý nghĩ của Hinh.
“Bà có thể đoán biết ý nghĩ của cháu à?” Đang giữa ban ngày thật, nhưng Hinh lại cảm thấy hơi sờ sợ.
“Cho nên vừa nãy tôi nói là anh ta, chứ không phải là anh ta!”
“Ai đã chiếm một khoảng lớn trong trái tim cháu? Bà có thể nói rõ là ai không?” Nếu bà San nói ra đúng tên Tạ Tốn, liệu có thể coi bà ta là “dị nhân” không đây?
“Cô chẳng nên biết thì vẫn hơn!”
“Thực là nực cười! Tất nhiên là cháu biết mình nhớ đến ai chứ!” Hinh bắt đầu cho rằng bà San chỉ như các thầy tướng số giang hồ cố làm ra vẻ bí hiểm, cô bèn chớt nhả dùng cái câu nói kiểu nữ văn sĩ Quỳnh Dao, chắc sẽ làm cho bà ta phát ngán, để “cảnh tỉnh” bà ta.
“Nhớ nhung ai đó, là một việc nguy hiểm, đã dấn một bước rồi thì khó bề quay trở lại”.
Hinh như bị gai đâm, ngây người nhìn bà San, rồi thong thả hỏi: “Cháu nghe không hiểu mấy, bà thử ví dụ xem, một việc như thế nào gọi là đã dấn bước rồi khó bề quay trở lại?”
“Thôi không nói làm gì, kẻo nói ra, tôi e cô không chịu đựng nổi”. Tại sao... câu trả lời này nghe quen quen?
“Bà cứ nói đi, cháu đã chuẩn bị tinh thần rồi!” Cảm giác tuyệt vọng bắt đầu trỗi dậy trong Hinh.
“Ví dụ, người ta nhảy lầu tự tử. Đã nhảy ra rồi thì quay lại sao được nữa?”
Đây chính là câu đối thoại giữa Tạ Tốn và Hinh khi ngồi trên tàu hỏa hồi nọ.
“Thực ra bà muốn gì? Tại sao bà không chịu buông tha tôi?” Hinh gần như hét lên một cách rồ dại, không chờ bà San trả lời nữa, cô bước nhanh về giường của mình nằm vật xuống, toàn thân run rẩy. Cô định òa khóc, nhưng lại nhận ra rằng mình không có nước mắt.
Tạ Tốn, anh hãy mau đến với em, đưa em ra khỏi chốn này!
“Tiếc rằng anh chẳng phải siêu nhân, nếu không anh sẽ đưa em rời khỏi đây, sẽ đi thật xa, đi khỏi trường đại học, đi khỏi cái thành phố này!” Nghe Hinh kể xong mọi chuyện, Tốn nhíu đôi mày rậm, dằn giọng nói.
“Nếu thế thì biến thành một đôi rủ nhau đi trốn à? Mẹ em sẽ ghét, sẽ không thèm nhìn mặt em nữa! Em chỉ muốn mau được về trường học tập như bình thường”. Hôm nay lại là một buổi chiều xuân nắng vàng rực rỡ, hai bên con đường rải đá cuội trong khu vườn, dường như mọi bông hoa trong vườn đều đang nở rộ, lại có những cánh bướm đang rập rờn sánh đôi. Hinh ngả người trong vòng tay Tốn, lòng cô xốn xang. Có Tốn kề bên, Hinh cảm thấy cuộc sống lại êm đềm như trước. Chỉ tiếc rằng anh không thể suốt ngày sớm tối ở bên Hinh.
“Anh nói em đừng lấy làm lạ, anh cho rằng vào lúc nhạy cảm này, em ở lại đây không hẳn là nơi không an toàn đâu!”
“Sao anh lại có ý nghĩ này?” Hinh cảm thấy Tốn lại đang tuyên bố những ý tưởng kỳ cục, nhưng cũng không phải là không có lý. “Anh nói cứ như mình là bác sĩ chuyên trách của em, ông ấy cũng đã nói như thế. Có điều, đây chỉ là cách né tránh tiêu cực, chứ không phải là biện pháp để thật sự giải quyết vấn đề. Năm xưa Tưởng Dục Hồng đã nằm viện tâm thần, thoát chết năm đầu, nhưng vẫn không tránh được tai họa năm sau”.
“Cho nên em vẫn muốn điều tra rõ sự thật? Nhưng thời gian lại không ủng hộ em, anh đoán chắc em có cảm giác mỗi ngày dài như một năm”.
“Nhưng khi anh đến, thì mỗi ngày của em lại chỉ ngắn như một giây! Có lúc em thật sự lo mình sẽ lún vào quá sâu, nếu thế thì sẽ khó mà thoát ra được”. Hinh chợt thấy rùng mình, cô lại nhớ đến cuộc nói chuyện với bà San hôm qua.
Hinh biết, bà ta sẽ không buông tha cô.
Hinh thậm chí cảm thấy đôi mắt bà San đang nhìn chằm chằm vào cô, đến nỗi sống lưng cô lạnh toát, cô bất giác nhìn quanh bốn phía tìm kiếm. Tốn chào từ biệt, cô cũng không nghe thấy.
Dưới gốc cây sung, bà San đang ngồi trên chiếc ghế mây, tay phải cầm cây bút chì. Thấy Hinh ngoái nhìn rồi bước đến, mép bà hơi động đậy - vừa giống như buồn bã vì thấy xót thương, lại vừa giống như cười khẩy nảy sinh từ nỗi oán hờn.
“Bà đang vẽ thật không đấy? Khi vẽ thì nên tập trung tâm trí mới đúng, nhưng bà thì lại cứ nhìn cháu, tại sao thế?” Hinh đến bên gốc cây, nhưng cô lại “cảnh giác” dừng bước.
“Cô rất xinh đẹp, con gái đẹp lại mặc áo bệnh nhân trắng tinh đã là một bức tranh tuyệt mỹ rồi, đâu cần tôi phải làm cái việc vẽ rắn thêm chân!”
“Thế thì bà cầm giấy vẽ bút vẽ, để giả vờ vẽ cái gì ạ?”
Bà San thở dài: “Thấy cảnh đẹp, thì quấy quá vẽ chơi, hành hạ mấy tờ giấy!”
“Nhưng nếu bà vẽ đẹp, thì không gọi là hành hạ gì được!” Hinh cảm thấy lời lẽ của bà San chứa đầy ẩn ý sâu xa.
“Cô thử nhìn xem, tôi vẽ ra sao?” Bà San đưa cho Hinh bức vẽ.
Hinh thoáng do dự, nhưng rồi cũng đón lấy, chỉ thoáng nhìn cô đã phải im bặt tiếng cười: “Đây là cảnh gì vậy? Lúc này mặt trời lên cao nắng vàng rực rỡ, trăm hoa khoe sắc... nhưng bà lại vẽ gió táp mưa sa, hoa rơi lả tả, và người này thì... được, cháu công nhận là bà vẽ rất giống cháu, cháu không phải là rắn, bà cũng không vẽ thêm chân, nhưng vẽ cô gái toàn thân ướt sũng này thì không thể nào là cảnh thật trước mắt!”
Bà San rướn người cầm lại bức vẽ, mồm lẩm bẩm: “Tri âm hiếm thấy, đứt dây đàn nào còn ai nghe!”
Hinh định nói “Chẳng ai hiểu nổi bà, mà bà còn đòi có tri âm!” nhưng chưa kịp nói thì Hinh ngớ ra “gay rồi!” Thì ra cô đứng dưới cây nên không để ý, chẳng biết mây đen bốn bề đang cuồn cuộn, tiếng sấm mùa xuân vang rền, chỉ trong nháy mắt, mưa to đổ ập xuống!
Hinh vẫn đứng đó, và thấy càng thêm khiếp sợ bà San: bà ta có khả năng tiên tri!
Gió mạnh đến cùng mưa rào, những đóa hoa đang nở rộ lập tức bị đập tả tơi, cánh hoa rơi quá nửa, tất cả bỗng tan hoang. Cây sung này tuy lá cành rậm rạp nhưng cũng không chịu nổi trận mưa như trút nước, toàn thân Hinh ướt đẫm. Tờ giấy trên tấm bảng vẽ tất nhiên cũng bị “hành hạ”!
“Bà nói đi, bà dõi nhìn cháu mãi, bà thấy những gì?” Hinh nói gần như cầu xin.
“Tôi biết lòng cô đang rất mâu thuẫn, cô sợ sẽ lún vào quá sâu. Cô vốn nghĩ mình rất cứng cỏi và tự chủ, nay lại mắc mớ với một con người thì cô khó tránh khỏi phải nghĩ ngợi”. Bà ta nói như một chuyên gia phân tích tâm lý siêu hạng.
“Bà còn chưa trả lời cháu: bà nói cháu đang nghĩ đến một người, người đó là ai? Tên là gì?”
“Tên, chỉ là một thứ tín hiệu mà thôi!”
“Thì ra là bà không biết!”
Bà San thở dài thườn thượt: “Giả sử tôi nói tên là “Tạ Tốn”, thì có thể nói lên điều gì? Cũng chỉ là một cái tên gọi mà thôi!”
“Nhưng trong lòng cháu, thì cái tên này nói lên tầm quan trọng của anh ta đối với cháu”. Hinh bắt đầu cảm thấy sự bí hiểm của bà San không chỉ là có “đa nhân cách”, cô bèn thổ lộ tâm tình.
“Thứ đang xâm chiếm lòng cô, không phải là một cái tên, mà là một bi kịch”.
Hinh hơi nao núng: “Bà lại nói hão huyền chẳng đâu vào đâu! Tại sao bà lại biết? Trừ phi bà thực sự có thể nhìn thấu tim gan người khác? Lẽ nào bà thực sự có khả năng tiên đoán tương lai?”
“Cô có biết tại sao tôi phải vào viện này bốn chục năm nay không?”
Hinh không hỏi dồn nữa, cô ngẫm nghĩ. Mấy câu nói của bà San đã tác động mạnh đến cô: nếu bà già này nói đúng (đã gọi ra tên Tạ Tốn, đã biết rõ tâm lý của cô, đã sắm vai Tưởng Dục Hồng và Thẩm Vệ Thanh rất chuẩn - điều đáng sợ là bà ta hầu như chưa nói sai một câu nào) thì cái bi kịch kia sẽ là gì? Chẳng lẽ mình không thoát khỏi kết cục của “vụ án mưu sát 405”? Hay là bà ta vẫn đang tiếp tục sắp đặt để đưa mình vào vai “nạn nhân”, cùng bà ta sắm vai cho thật giống?
Tại sao bà ta phải làm như vậy?
“Trang Ái Văn là ai?” Hih cảm thấy có lẽ mọi sự bí ẩn đều liên quan đến cái nhân cách bí hiểm của bà San: áo trắng, tóc dài, tiếng hát tuyệt vời, và... khuôn mặt nát bươm nữa!
Đôi mắt già nua của bà San thoáng ánh lên một tia sáng rạo rực của tuổi xuân, tuy chỉ thoáng ánh lên nhưng đã lắng đọng trong đôi mắt thẳm sâu của Hinh.
“Mưa mỗi lúc một to, tôi cũng mệt rồi. Các cô y tá cũng kém tận tình, chẳng thiết gọi chúng ta vào nhà. Bác sĩ Tuấn nói tôi đang ở giai đoạn lên cơn nguy hiểm, không nên để cho bị tác động nhiều. Tôi phải vào nghỉ đã”.
Bây giờ đến lượt cháu không buông tha bà.
“Bà hãy nói xem chị ta là ai? Nếu bà không nói, cháu sẽ đoán phứa lên. Cháu nghĩ, chắc chị ta phải là một nhân vật rất quan trọng trong cuộc đời của bà. Có lẽ là một người mà bà rất mến yêu. Bà mê điện ảnh, chắc vì hồi trẻ bà đã từng mong làm ngôi sao màn bạc, cho nên bà mới mô phỏng những con người bà đã từng tiếp xúc và gây ấn tượng mạnh cho bà. Trương Ái Văn là thần tượng của bà hồi trẻ, chắc chị ấy rất đẹp, trang nhã thanh cao, có giọng nói như của một thiên sứ. Chị ấy là cô gái rất tuyệt vời trong con mắt của bà. Nhưng tại sao chị ấy lại mang chiếc mặt nạ nát bươm? Hay là chị ấy có khuôn mặt nát bươm thật?” Nói đến câu cuối cùng, Hinh cũng như đang “u mê”.
Bà San bỗng đứng thẳng lên bước lại gần Hinh giật phắt lấy bức vẽ ném đi, nắm thật chặt hai cánh tay Hinh, khiến cô thấy đau tay: “Cô có muốn tôi cho cô biết thật không? Tôi đã nhìn thấy...” Bỗng toàn thân bà San run lên bần bật, da thịt trên khuôn mặt già nua rúm ró biến dạng.
“Bà đã nhìn thấy cái gì?”
“Tôi đã nhìn thấy... cô ấy... ở ngay chính cô!” Nói xong, bà San như trút được một gánh nặng, rồi cười rất kinh dị.
Bà Kiều Doanh đã tổ chức xong đợt hoạt động thời trang, trong khi chờ một thách thức tiếp theo, bà muốn tranh thủ về Giang Kinh một tuần. Bấy lâu nay, cảm giác cắn rứt đang dày vò Kiều Doanh: vào lúc cô con gái rất cần được quan tâm thì bà lại đành phải bôn ba vì “sự nghiệp”. Cũng may, bà thấy Diệp Hinh tươi tỉnh hơn trước, hình như cô không mảy may tỏ ý oán trách bà, trái lại, cô nắm tay mẹ trò chuyện liến thoắng, lời lẽ cũng không gợn chút kỳ dị lạ lùng. Bà cho rằng trước đây mình đã quyết định đúng, đồng ý với nhà trường và bệnh viện đưa Hinh vào nằm viện tâm thần, nên mới có được chuyển biến tốt như hiện nay. Cảm giác cắn rứt trong bà cũng vơi đi ít nhiều.
Được gặp mẹ, Hinh rất đỗi vui mừng. Nhất là khi mẹ nói sẽ đến với cô những một tuần, cô càng vui sướng hơn.
Trong lúc trò chuyện việc nhà với mẹ, Hinh nghĩ ngợi “có nên giới thiệu Tạ Tốn với mẹ không nhỉ?”
Mẹ không thể không nghe nhắc đến cái tên Tạ Tốn, cái tên này cùng với tên mình đã trở thành “tiếng xấu” trong trường rồi cũng nên!
Hinh nghĩ đi nghĩ lại mãi, rồi kết luận phải chờ thời cơ chín muồi đã, rồi mới giới thiệu với mẹ về “người tình hạng sao” Tạ Tốn.
Hinh ngày nào cũng sống trong sự khắc khoải đợi chờ Tốn. Khi Tốn đến, là quãng thời gian rực sáng của một ngày. Chắc anh đã phải trốn học khá nhiều, có hôm anh vào thăm Hinh đến vài lần. Hinh lo Tốn sẽ học hành sa sút thì gay. Tốn cười: “Càng hay, anh sẽ chờ em ra viện để cùng nhau học bù!”
“Hôm nay mẹ em nói là đã gặp bác sĩ Điền để bàn về bệnh tình của em. Ngày mai ông Điền sẽ tổ chức buổi đánh giá về em, mong sao ông ấy sẽ cho em ra viện. Em có cảm giác rằng ông ấy ngày càng tin em hơn”.
“Thế thì quá hay, chúng ta sẽ luôn luôn được ở bên nhau. Nhưng chỉ sợ lúc đó em lại ngán anh mất thôi!”
Hinh biết là Tốn nói đùa, hoặc nên nói là Tốn đang “vờ lỏng tay để lại tóm cho chặt”, cô chỉ im lặng mỉm cười nhìn anh, và thầm nghĩ “anh chàng ngố ạ, anh có biết ít hôm nay em đợi chờ anh và anh đến với em, gộp cả lại đã đủ để em nặng lòng với anh cả đời rồi không?” Hinh bỗng nhớ lại cái bài hát ngày nào, bèn hỏi: “Anh chỉ chuyển nói úp mở nửa vời, anh còn chưa cho em biết câu chuyện ở phía sau bài hát “Chờ đợi, đợi chờ” là như thế nào!”
“Cứ nên chờ em ra viện đã, rồi hãy hay. Kể các chuyện sinh tử biệt ly vào lúc này, thì chỉ bất lợi cho tâm trạng của em. Em ở đây đã khó mà nghỉ ngơi yên ổn rồi, không nên khuấy động gì thêm kẻo sẽ ảnh hưởng đến việc đánh giá của bác sĩ”.
“Nói lời phải giữ lấy lời, sau khi em ra viện, anh phải cho em biết đấy nhé!”
“Anh sẽ giữ lời, cũng như đã hứa là ngày nào cũng vào đây thăm em vậy”.
“Trước hết tôi phải nói rõ với cô Hinh rằng, hôm nay tôi gặp riêng cô để nói về vấn đề đánh giá là nằm trong khuôn khổ chuyên môn của tôi, nhưng cũng có phần gọi là “cầm đèn chạy trước ô tô”, vì cô là bệnh nhân của bác sĩ Tuấn, nên sau khi kết luận đánh giá rồi, tôi vẫn cần phải bàn với bác sĩ Tuấn. Ông ấy là thầy thuốc hàng đầu về chuyên ngành này, hai chúng tôi sẽ cùng đưa ra một kết luận hợp lý”. Bác sĩ Đình nói chậm rãi, ông rót một cốc nước khoáng mời Hinh. Cách nói của ông cũng nhạt nhẽo vô vị như cốc nước này, chứ không có sức lôi cuốn như cách nói của bác sĩ Tuấn.
“Có phải hiện nay cô vẫn hay nghĩ ngợi về “vụ án mưu sát 405” không?”
“Xin nói thật, cháu không thể không hề nghĩ ngợi, nhưng cháu càng ngày càng cảm thấy rằng: trước kia cháu hay vương vấn về chuyện này, thực chất chỉ là hiện tượng tâm lý bị ám ảnh bởi các tình tiết lịch sử và các lời đồn đại ly kỳ. Cháu cũng có bị ảnh hưởng - ít ra là ảnh hưởng đến việc học tập, nhưng cháu không cho rằng đã đến mức gọi là tâm thần phân liệt!”
“Nếu ít hôm nữa để cô ra viện, thì cô không sợ rằng mình sẽ trở thành nạn nhân thứ 13 hay sao?” Ông Đình chợt thấy không biết mình nên hay không nên tin vào lời của Diệp Hinh. Mấy hôm nay hình như cô ta đã trải qua một chuyện gì đó.
“Tất nhiên là cháu sợ. Không dễ gì mà gỡ bỏ được nỗi ám ảnh tâm lý kia, nhưng cháu tin rằng nhà trường sẽ bố trí bảo vệ chu đáo căn phòng ký túc xá của chúng cháu”.
“Nghe nói trước đây nhà trường đã từng có biện pháp an toàn, nhưng vẫn không ngăn chặn được, đã khiến người ta có cảm giác rằng không sao tránh thoát!”
“Cháu thật sự không tin bất cứ điều gì gọi là số phận an bài, cháu chỉ tin rằng tuổi xuân phơi phới của mình cần được nâng niu gìn giữ”.
“Cô sống ở đây có tạm gọi là thích nghi không?”
“Thoạt đầu thì cháu không hợp lắm, ban đêm luôn ồn ào không sao ngủ được, nhưng mấy hôm nay thì đã khá hơn. Các thầy các bạn cũng hay vào thăm, đem đến cho cháu tình cảm đầm ấm của tập thể...”
“Cô đã từng nhắc đến... tôi đang nghĩ xem cô nên nói là... một người bạn trai, một người bạn học tên là Tạ Tốn. Anh ấy có vào thăm cô không?”
Đang trả lời rất lưu loát trôi chảy, Hinh bỗng im bặt. Mình có nên nói thật không nhỉ? Mấy câu vừa nói, là cảm nhận rất chân thật của Hinh - tuy hơi thi vị hóa một chút. Trong trường đã đồn đại như thế, thì có lẽ các bác sĩ cũng đã biết cả, mình tội gì phải phụ họa củng cố thêm? Chưa biết chừng nhà trường lại còn cho rằng Tạ Tốn là nhân tố đáng kể khiến mình “có vấn đề thần kinh”! Nếu bây giờ mình khai rằng Tạ Tốn hằng ngày vào đây vài lần thì sợ rằng sẽ bất lợi cho anh ấy, và tình hình sẽ càng thêm rối. Anh ấy vào đây lần nào cũng đều là với tư thế của kiến thực tập sinh, cũng không có ai biết rỗ anh ấy là ai kia mà!
Hinh bèn gật đầu: “Nói anh ta là bạn trai của cháu thì không thật xác đáng, từ khi cháu nằm viện, anh ta chưa vào thăm cháu lần nào cả. Trước đây, cháu chỉ có một hình cảm mơ hồ không rõ rệt với anh ta, khi bị áp lực quá căng, cháu có hơi nghĩ quá lên về sự tồn tại của anh ta. Thực ra anh ta chỉ là một bạn học khác lớp, chúng cháu không có quan hệ gì thân thiết”.
Ông Đình thấy Hinh đang sôi nổi bỗng trở nên trầm lặng, nhưng nói năng vẫn rành rọt đâu ra đấy, ông hiểu cô khó tránh khỏi những thăng trầm về tình cảm, nhất là trong những ngày như thế này. Có thể tháo gỡ được, thực không dễ dàng gì, rõ ràng là cô ta đang rất cố gắng.
“Từ đầu đến cuối, mọi câu trả lời của cô ấy đều không có điểm nào mơ hồ né tránh, cũng không có điểm nào không phù hợp với thực tế. Nói cách khác, tức là cô Hinh không có bất cứ dấu hiệu nào tương tự như chứng bệnh ảo giác. Cô ấy rất chân thật, rất biết suy nghĩ, thậm chí còn biết phân tích tại sao mình lại có nhiều hành vi khiến cho người ta thấy khó hiểu như thế...”
“Ý bác sĩ Đình là... cô ấy có thể ra viện?” Bác sĩ Tuấn nhìn tập bệnh án của Diệp Hinh đặt ở trước mặt, nhưng ông không đọc. Ông Tuấn vẫn không thể hiểu nổi tại sao ông Đình cứ “lệch pha” với mình trong ca Diệp Hinh này.
“Tôi vẫn cho rằng lúc đầu cho nhập viện là không thật cần thiết! Đúng là cô ta có hiện tượng ảo giác, bản thân cũng không thể giải thích rõ được, nhưng chỉ cần được tư vấn tâm lý là đủ rồi. Bác sĩ Tuấn là chuyên gia ở lĩnh vực này, nhưng hình như anh chưa bắt đầu xúc tiến điều trị cho cô Hinh, mà mới chỉ cho dùng thuốc. Tuy nhiên, hiện nay cô ấy cũng không cần thiết phải được tăng cường điều trị nữa!”
Ông ta lại bắt đầu chỉ trích mình điều trị sai? Ông Tuấn bắt đầu thấy nóng mặt nhưng vẫn cố kiềm chế: “Cô Hinh mới chỉ nhập viện nửa tháng nay, hiệu quả dùng thuốc cũng đang rất ổn. Lịch trình công tác của tôi thì kín đặc, còn rất nhiều ca cần được điều trị sát sao hơn. Riêng ca Uông Lan San đã ngốn của tôi không ít thì giờ...”
“Vậy thì kết luận về Diệp Hinh là thế nào?”
“Mấy vị lãnh đạo công tác sinh viên của trường cô ta đã nói chuyện với tôi, chủ yếu nhắc đến hai chữ “thận trọng”. Phía nhà trường cũng đang phải chịu áp lực vì sắp đến ngày 16 tháng 6!”
“Cô Hinh rất cần được trở về với cuộc sống bên ngoài!”
“Anh Đình ạ, cô ta vẫn là bệnh nhân của tôi, lần đánh giá này của anh vốn không phải là thủ tục phải có. Tôi cho rằng, vì thận trọng, tôi cần phải giữ cô Hinh ở lại để quan sát thêm ít lâu. Nếu phải thế, thì cũng phải chờ sau ngày 16 tháng sáu sẽ cho cô ta ra viện”.
“Tôi đành nói thẳng vậy, xem ra, nhà trường và cả anh Tuấn nữa cũng tin rằng ngày 16 tháng 6 sẽ xảy ra chuyện không hay gì đó. Thế thì trước đây cô Hinh muốn tìm hiểu rõ sự thật - việc đó có quá nhiều điều đáng ngờ chăng?”
Ông Tuấn chợt ngớ ra, không biết nên đối đáp ra sao. Hiếm có lúc ông bí không thể trả lời đối phương, mặt ông đỏ bừng, thở gấp hồi lâu, rồi mới nói giọng đều đều: “Anh Đình đừng quên rằng mấy cô sinh viên mà anh đã từng điều trị - cuối cùng đã ra sao. Bao năm qua, anh có ngủ ngon giấc không?”
Buột miệng nói ra rồi, ông Tuấn mới thấy mình đã quá nặng lời. Đúng thế: ông Đình cảm thấy ngực ông đau nhói, đau thấm lên vai, xuyên sang lưng, một tay áp lên ngực, ngồi xuống, tay kia vội sục tìm khắp túi áo... Ông Tuấn lập tức nhận ra rằng bác sĩ Đình bất chợt bị nhồi máu cơ tim.
“Nếu không có anh, em chẳng biết mình sẽ ra sao”. Sau khi được Tốn khuyên giải an ủi, tâm trạng Hinh đã bình thản trở lại rất nhiều. Ông Tuấn đã cho cô biết cuối cùng khoa vẫn quyết định cô phải ở lại thêm một thời gian nữa. Hinh có cảm giác mình bị bỡn cợt, nhưng Tốn đã hết lòng an ủi cô, cô mới bằng lòng, sẽ tiếp tục vâng lời các bác sĩ.
Tốn ra về rồi, Hinh lại không nén nổi buồn phiền vì không được ra viện. Cô muốn nằm ngủ một lát, có lẽ vì nghĩ ngợi nhiều quá nên lại thấy hơi nhức đầu.
Bác sĩ nội trú đã kê đơn cho Hinh dùng thuốc giảm đau, nhưng uống thuốc rồi thì đầu lại nhức dữ dội hơn. Hinh thấy hình như trong đầu mình có một luồng khí ngỗ ngược đang xông xáo tung hoành, lại thấy hình như nó bị hút bởi một từ trường nào đó, nó chỉ chực phá tung đầu cô để chạy ra.
Hinh không sao nằm yên được nữa, bèn đứng dậy để đi lại trong phòng. Thoạt đầu, đôi chân cứ không chịu nghe lời... nhưng nào ngờ mới chỉ đi được ít bước, cô hình như đã mất tri giác, rồi chẳng biết mình đã bước đến cửa phòng từ lúc nào.
Một cô y tá sợ Hinh sẽ đi lại lung tung bèn chạy đến, thấy nét mặt Hinh như đang rất đau đớn, bèn hỏi cô định đi đâu. Hinh quá đau không sao nói được một câu, cô chỉ lắc đầu rất khó khăn, đôi chân tiếp tục bước đi. Biết Hinh đang rất đau đớn, cô y tá bèn dìu Hinh đi bách bộ, có lẽ đi lại, hít thở không khí trong lành sẽ làm dịu cơn nhức đầu.
Ra khỏi buồng bệnh nhân, Hinh không dừng lại ở lối vào vườn hoa, cô đi dọc theo hành lang. Cô y tá hỏi: “Diệp Hinh, em định đi đâu thế?”
Mặt Hinh đầy mồ hôi lạnh, hai tay ôm lấy đầu, nói một cách vất vả: “Em muốn đến... chỗ ấy”.
“Là chỗ nào?”
“Em cũng không biết nữa”.
Cô y tá nghĩ bụng: bác sĩ Tuấn đã thận trọng rất có lý! Cô này nào đã bình phục? Đâu có thể cho ra viện được! Nhưng cô cũng rất ngạc nhiên, vì từ khi vào đây, Hinh rất thuần, chưa bao giờ thấy khác thường như thế này. Cô quyết định không ngăn cản Hinh, cô muốn quan sát xem Hinh có hành vi gì bất ổn không, biết đâu có thể hữu ích cho bác sĩ Tuấn điều trị.
Hai người đi chừng già nửa quãng hành lang, đi qua cửa vào khu buồng bệnh có nhân viên bảo vệ gác, đi qua hai chốt nữa, đến tòa nhà khám bệnh và các phòng hành chính. Đây là tòa nhà bảy tầng, tầng một hai ba là các phòng khám, tầng bốn và năm là phòng điều trị và khôi phục thể lực, các tầng trên là các phòng ban hành chính và văn phòng của các thầy thuốc có thâm niên.
Hinh đứng trong đại sảnh của phòng khám, dường như không hề để ý đến mọi người đi lại xung quanh, cô ngẩng đầu nhìn, đôi mắt rực sáng, môi hơi mấp máy như đang lẩm bẩm gì đó. Cô y tá thấy hơi hoảng vì hình như mình đã quyết định sai lầm, cô vội hỏi: “Nếu cô Hinh không nói rõ định đi đâu, thì chúng ta quay về nào!”
“Em biết... em phải đi đâu. Em cảm thấy... là ở trên gác”.
“Là ở tầng mấy?”
“Em... không biết. Cứ đi tìm... từng tầng một”. Hinh thở rất khó khăn.
Cô y tá nghĩ ngợi, nhưng rồi cũng gật đầu: “Được, ta đừng đi thang máy, cứ lên từng tầng xem sao. Nếu cảm thấy là đến rồi thì cho tôi biết!”
Đi hết tầng hai ba, rồi lên tầng bốn. Hinh thở mỗi lúc một nặng nhọc, chân bước cũng càng chật vật, chắc sẽ gục mất thôi. Khi lên đến tầng năm, Hinh bỗng mở to mắt, vừa thở vừa nói: “Là tầng này. Nhưng chúng ta phải... nhanh lên, em có... cảm giác... không hay”.
“Nào, đi đâu?”
Hinh chỉ tay về hành lang phía đông, cô y tá dìu Hinh, cả hai cùng rảo bước. Lúc này Hinh thấy đầu càng nhức dữ dội, cứ như chỉ chực vỡ tung, nhưng hình như cô bị một sức mạnh bí hiểm nào đó dẫn đi, kêu gọi cô đi lên tầng nhà này.
Họ dừng lại trước một phòng điều trị. Cửa phòng đang khép kín, Hinh gọi: “Nào mau vào đi, chắc vẫn còn kịp!”
“Vẫn còn kịp cái gì?” Nhìn biển số phòng điều trị này, cô y tá lập tức có một linh cảm không hay. Cô nhớ rằng giờ này có lẽ bác sĩ Tuấn đang ở đây điều trị phân tích thần kinh cho bà Uông Lan San.
Cô gõ cửa, một nữ y tá ra mở cửa. Phòng này ngăn thành gian ngoài gian trong, có một cửa thông sang nhau, gian trong là nơi bác sĩ điều trị phân tích thần kinh cho bệnh nhân, các y tá hỗ trợ điều trị thường ngồi ở gian ngoài. Cô y tá ở đây thấy Hinh mặc áo trắng bệnh nhân, thì rất ngạc nhiên: “Hai người đến đây làm gì? Đã được hẹn chưa? Bác sĩ Tuấn đang làm việc, không ai được làm phiền!”
“Mau ngừng lại! Ngưng điều trị ngay đi!” Hinh bỗng gọi to.
“Các cô không được làm bừa! Điều trị phân tích thần kinh nếu bị gián đoạn thì sẽ gây ra hậu quả rất xấu!” Cô y ta gay gắt nói. Và trách cô y tá đi kèm Diệp Hinh: “Cô thật là... ngay cả kiến thức thông thường mà cô cũng không hiểu? Sao cô lại để cho bệnh nhân điều khiển thế này? Mau đi về đi!”
Cô y tá đi kèm Hinh cũng biết là đuối lý, bèn kéo tay Hinh: “Nơi này đang rất yên ổn, tất cả đều bình thường, ta đi thôi!”
Hinh vùng vằng thoát khỏi tay cô y tá, chạy bổ vào gian trong, nhưng Hinh ra sức đập cửa hay xoay tay nắm cửa thật mạnh, cửa vẫn cứ đóng chặt.
Hai cô y tá xúm vào lôi Hinh ra, cô y tá ở đây gọi với vào gian trong: “Xin lỗi bác sĩ Tuấn, có một bệnh nhân bị lên cơn, chúng tôi đã khống chế được rồi. Anh cứ tiếp tục điều trị đi!” Nói xong, cô áp tai vào cửa nghe ngóng, mặt cô bỗng biến sắc, cô lẩm bẩm: “Chuyện gì thế nhỉ? Sao bên trong lại có một giọng đàn ông khác?”
Cô nghĩ ngay rằng sự việc đã trở nên nghiêm trọng, bèn lấy chìa khóa để mở cửa ngăn cách, nhưng hình như cửa lại bị khóa trái, không sao mở ra được. Hinh gọi luôn: “Khỏi cần chờ đợi nữa, ba chúng ta xô cửa vậy!” Hai cô y tá nhìn nhau, cảm thấy có lẽ không còn cách nào khác tốt hơn. Cả ba cùng hợp sức xô cánh cửa ấy.
Cửa bật tung, cả ba cùng ngây người trước cảnh tượng trước mắt.
Chỉ thấy cửa sổ lắp kính đã mở toang, một người đang đứng ở gờ ngoài mép cửa, chính là bác sĩ Đằng Lương Tuấn! Còn bà Uông Lan San thì đang ung dung ngồi trên ghế sô-pha của bác sĩ điều trị phân tích thần kinh, chân ghếch lên, tủm tỉm cười ông Tuấn đang đứng trên mép cửa.
“Bác sĩ Tuấn!”
Ông Tuấn dường như bừng tỉnh lại sau khi nghe thấy tiếng gọi và tiếng xô cửa vừa rồi, ông quay người lại, lưng hướng ra ngoài, nghi hoặc nhìn ba người vừa xông vào.
Bà San bỗng cất tiếng, nhưng lại là một giọng đàn ông: “Có phải ông lại không nỡ rũ bỏ danh lợi phù phiếm tầm thường không? Ông cho rằng đến bao giờ mới có thể dừng lại? Dù có làm chủ nhiệm khoa, hay bác sĩ chánh chủ nhiệm, sau đó là giám đốc bệnh viện, rồi sao nữa? Trên chặng đường đã đi qua, ông đã làm biết bao chuyện trái với lương tâm của mình? Nào là chữa bệnh án, nhận phong bì, sao chép luận văn... Nay lại vẫn muốn tiếp tục đi nữa ư?
Điều đó sẽ rất đáng buồn.
Bầu không khí ở thành phố này rất bẩn, nhưng vẫn còn sạch hơn tâm hồn của con người.
Tôi nên hòa tan vào không khí ở đây, ít ra cũng có tác dụng đóng góp một phần nguyên liệu cho mọi người hít thở”.
Ba người phụ nữ đều nhận ra tình thế đầy nguy hiểm. Hinh và cô y tá đi kèm mình cùng bước đến ghì chặt bà San, Hinh còn bịt miệng bà ta nữa. Cô y tá của phòng điều trị này từ từ bước đến bên cửa sổ, khẽ gọi: “Bác sĩ Tuấn bị lừa bịp đó thôi! Anh là một thầy thuốc chân chính, anh còn có tương lai rộng mở, anh hãy xuống đi...”
“Được, tôi sẽ xuống!”
Cô y tá rú lên một tiếng kinh hoàng, Hinh ngẩng đầu nhìn, trên bậu cửa không thấy bóng bác sĩ Tuấn đâu nữa.
Chương 19
Mình có phải là người cậu yêu thương nhất?
Kiều Kiều: Cậu đến rồi, lâu quá không gặp
Kiều Kiều lên tiếng chào. Kiều Kiều mỉm cười, Kiều Kiều, có phải cậu muốn hủy diệt mình đến cùng không?
Tư Dao chăm cú nhìn hình mặt cười Kiều Kiều đính them vào. Đây là một hình vẽ bày tỏ tình cảm thông thường trên mạng, nhưng lúc này khiến cô lại cảm thấy vô cùng kỳ dị.
Hoàng Dược Sư không biết Tư Dao gặp chuyện bất ngờ trên mạng, vẫn tiếp lời cô: “Đương nhiên không thể một đòn đánh chết luôn (1), vẫn phải tùy tình hình cụ thể”. Qua một lúc, chắc cảm thấy khó hiểu vì Tư Dao im lặng rất lâu, nên gửi một lời thoại tới: “Sao bạn không nói gì thế?”
Tư Dao vội trả lời: “Cô ấy lại đến rồi”.
Hoàng Dược Sư: Cô nào?
Yêu Yêu: Người bạn đã chết của tôi.
Hoàng Dược Sư: ???!!!
Tư Dao nghĩ bụng, phiên bản của Hoàng Dược Sư này đã sợ hết hồn thật rồi. Cô lại nhìn sang: “con cóc”, hầu như “con cóc” không chào cũng đã lủi mất.
Kiều Kiều lại gửi một câu tiếp theo: “Sao cậu không nói gì thế?Hay là đang nói chuyện với anh ta?”
Tư Dao hoảng sợ: “Cậu nói ai?”
Kiều Kiều: Cậu hiểu rất rõ mà.
Yêu Yêu: Lâm Mang à? Anh ấy đã đi rồi, giữa hai chúng mình không còn bất cứ quan hệ gì.
Kiều Kiều: Cậu còn tưởng thật à? Minh trêu cậu thôi, mình biết Lâm Mang đã đi rồi.
Yêu Yêu: Sao cậu biết?
Kiều Kiều: Ngốc thế, mình đang ở ngay bên cậu.
Tư Dao bất giác nhìn ra cửa sổ, bên ngoài, khuôn mặt trắng bệch của Kiều Kiều thoáng lướt qua.
Lẽ nào chuyến đi Thượng Hải của mình là vô ích?
Kiều Kiều: Chuyến đi Thượng Hải của cậu thật ra rất thành công.
Yêu Yêu: Sao cậu biết được mình đang nghĩ gì?
Kiều Kiều: Không thấy mình lợi hại hơn trước rất nhiều à? Cậu đến nghĩa trang, đến nhà mình, mình đều biết. Mình rất cảm động, cảm động vì long chân thành của cậu.
Phiên bản của Hoàng Dược Sư quả là cao nhân. Tư Dao nhìn nhận Hoàng Dược Sư khác hẳn, cô rất cảm kích gửi cho anh ta một lời cảm ơn: “Cô ấy nói việc kết nối đã có tác dụng, cảm ơn gợi ý của anh”.
Hoàng Dược Sư: Đang đắc ý.
Ai dè, một câu khác của Kiều Kiều làm cô sợ dựng tóc gáy: “Dù mình tin cậu thêm một chút nhung cô ấy vẫn không tin”.
Yêu Yêu: Ai?
Kiều Kiều: Người bạn thân nhất của cậu. Thế nào? Cô ấy phải lên mạng rồi mới phải chứ. Để mình gọi điện tìm.
Tư Dao bắt đầu thấy hơi lạnh, gió mùa thu đáng chết, mạng QQ đáng chết, cô muốn tắt vi tính, nhưng tay vẫn chưa chạm vào nút tắt thì tiếng “cách cách” đã vang lên, lại có thông báo tin của QQ.
Tiếng cách cách như gõ vào tim Tư Dao, mỗi tiếng gõ lại gây nên một cơn đau.
Việc cô sợ nhất nay đã xảy ra: Viên Thuyên gửi tin nhắn đến.
Cô không nhìn nhầm. Viên Thuyên chết đã gần một tháng nay gửi tin nhắn đến.
Cô tự nhủ không nên kinh ngạc. Kiều Kiều chết đã 3 tháng mà vẫn nói chuyện được với cô kia mà?
Lời thoại của Hoàng Dược Sư lại đến: “Sao không nói nữa thế?”
Yêu Yêu: Cô ấy cũng đến rồi.
Hoàng Dược Sư: Lại them ai nữa?
Yêu Yêu: Người bạn thân nhất của tôi, đã mất cách đây 1 tháng.
Hoàng Dược Sư: ???!!!
Hoàng Dược Sư! Bản lĩnh của anh chỉ có thế thôi ư?
Tư Dao đứng bật dậy, miệng rì rầm khấn: “Viên Thuyên, cậu đừng trách mình, đây không phải là lỗi của mình, thật sự không phải lỗi của mình”. Cô thầm nghĩ, quả nhiên Viên Thuyên cho rằng cái chết của mình lien quan đến chuyến du lịch núi Vũ Di, thảo nào cô ấy gửi bức ảnh ấy đến. Đúng bức ảnh đấy! Đây là dịp tốt nhất để hỏi.
Yêu Yêu: Cảm ơn món quà cậu tặng mình, mình rất thích quả cầu pha lê, nhưng mình không hiểu sao lại là bức ảnh Tân Thường Cốc?
Viên Viên Khuyên Khuyên: Sao cậu lại không hiểu? Xin thứ lỗi cho mình hay nghĩ ngợi. Rốt cuộc, cậu và Tân Thường Cốc có liên quan gì? Cảm giác như đã từng trông thấy nó từ đâu ra? Có phải tất cả đều là cái bẫy không?
Yêu Yêu: Mình thật sự không ngờ sự hiểu lầm của cậu đối với mình lại sâu đến thế! Cậu không cho rằng mình độc ác thế ư?
Viên Viên Khuyên Khuyên: Cậu biết rồi, mình không dễ tin bát cứ một người nào, một sự việc nào. Sự việc tiến triển có vẻ đúng như lời ông ta nói, chúng ta lần lượt từng người chết đi.
Yêu Yêu: Mình không có cách nào giải tỏa được sự nghi ngờ của cậu, vì quá giới hạn hiểu biết của mình. Sự nghi ngờ của cậu về cái chết của Kiều Kiều đã có kết quả gì chưa? Có phải do mình “hạ độc thủ” không?
Viên Viên Khuyên Khuyên: Dao Dao! Cậu nói chuyện nên có lí trí một chút, mình không hề nghĩ cậu xấu xa đến thế. Cái chết của Kiều Kiều, dù nhìn bề ngoài hoàn toàn là sự cố nhưng chắc chắn có điều gì đó kỳ lạ. Tiếc rằng mình vừa điều tra được chút đầu mối thì lại bị tai nạn xe hơi.
Yêu Yêu: Nói cho mình biết manh mối gì, mình sẽ giúp cậu tiếp tục điều tra
Viên Viên Khuyên Khuyên: Vì liên quan đến cậu, nên mình không nói, sợ cậu sẽ buồn.
Yêu Yêu: Cậu gửi bức ảnh đó đến, lẽ nào không phải để làm cho mình buồn sao?
Viên Viên Khuyên Khuyên: Cậu hoàn toàn có thể lí giải như vậy. Nói cho mình rõ bức ảnh đó đâu rồi? Mình mong cậu sẽ cho nó vào khung kính.
Yêu Yêu: Cậu BT (dở hơi) rồi! Mình đã xé nát nó, bây giờ có lẽ đã ở trên đỉnh một núi rác nào đó, đang ngạo nghễ nhìn xuống.
Tư Dao cũng không hiểu tại sao mình lại nói dối về chuyện bức ảnh, có lẽ là một kiểu trả đũa sự nghi ngờ của Viên Thuyên. Trước bổi tôi hôm nay, bức ảnh ấy dù gợi lại cho cô ký ức đau buồn nhưng là quà của người bạn thân trước lúc chết đã gửi tặng, cô nhất định phải cất thật sâu- để không bị “thấy vật nhớ người”, nên đã đặt xuống dưới cái đế rộng đặt quả cầu pha lê. Hai thứ đều do Viên Thuyên tặng cô, để vào một chỗ là phải.
Lần này, Hoàng Dược Sư lại gửi đến một câu: “Bạn vẫn đang nói chuyện… với…người chết à?”
Yêu Yêu: Tôi còn có thể làm gì được nữa!
Hoàng Dược Sư: Không biết phải làm gì để có thể xác định rốt cuộc có phải là người chết không?
Yêu Yêu: Không nhầm đâu, ngay cả những tiếng long mà hai chúng tôi đang dung cũng đều đúng hết.
Tư Dao chợt nảy ra một ý. Cô lập tức chào Hoàng Dược Sư, nói là cần gọi điện thoại. Rồi cô bấm số gọi vào máy của Dục Chu.
“Máy vi tính của Viên Thuyên đang để ở đâu?” Cô hỏi độp ngay.
Chỗ Dục Chu đang ở rất ầm ỹ tiếng nhạc và tiếng hát karaoke, thảo nào anh ta hét to như đang xé cổ họng, “Gì cơ, cô nói gì?”
“Anh đang ở nơi quái quỉ nào thế?” Tư Dao sốt ruột không buồn lựa chọn từ ngữ nữa, cảm thấy chính mạng QQ của mình mới thật sự là “nơi quái quỉ”
“Thành Đô, ở một KTV, khách thì nhiệt tình, ông chủ thì ép, tôi không từ chối được”. Giọng Dục Chu lộ vẻ bất lực.
“Máy vi tính của Viên Thuyên đang để ở đâu?” Chính Tư Dao cũng cảm thấy câu hỏi này đưa ra không đúng lúc.
“Ở căn hộ mới của bọn anh. Cái máy đó đã lâu không mở, em hỏi để làm gì?”
“Viên Thuyên… em nhận được tin nhắn QQ của Viên Thuyên!”
“Hả?” Giọng Dục Chu run run “Em đừng pha trò…”
“Một là em không có bụng dạ nào để mà đùa, hai là, vấn đề này không thể đùa, càng không đáng cười. Nói thật đấy!”
“Anh không uống rượu nhưng nghe em nói cũng thấy choáng váng. Em định thế nào?”
“Em muốn nhìn tận mắt, Viên Thuyên có ở đó không, vì cô ấy ám chỉ rằng… cô ấy gửi tin nhắn cho em từ căn hộ mới của 2 người”
Dục Chu trầm ngâm hồi lâu, trong điện thoại chỉ còn nghe ầm ĩ những tiếng hát không sao nghe nổi. Cuối cùng anh lẩm bẩm như nói với chính mình: “Sớm biết sẽ có ngày hôm nay, thì nên bán quách căn hộ đó đi mới phải”.
“Rốt cuộc anh có cách gì để em vào đó không? Trước đây em đã cùng Viên Thuyên đến đó rồi, em vẫn còn nhớ địa chỉ”.
Dục Chu lại do dự một lúc nữa: “Có lẽ em còn nhớ căn hộ của anh có 2 lớp cửa, chìa khóa dự phòng của cánh cửa sắt chống trộm phía ngoài, anh gửi người bảo vệ của tiểu khu, tên là Phương Tuấn, một người đáng tin cậy. Sau cửa sắt là cửa chính, đây đều là sự sắp đặt của Viên Thuyên khi còn sống, vì sợ có ngày bọn anh đánh mất chìa khóa thì sẽ không vào nhà được”.
Tư Dao ghi số điện thoại khách sạn của anh, rồi dặn anh gọi điện nói trước cho người em họ và Phương Tuấn, sau đó tắt máy tính không chút do dự, không cần biết Kiều Kiều và Viên Thuyên còn muốn nói điều gì
(1) Ý nói vơ đũa cả nắm, phủi tất.