Chương 50
Một thôn làng bình thường, nép mình dưới những rặm tre xanh. Những con lợn, con gà,… chạy loạn khắp làng, kêu la inh ỏi. Những đội quân tu giả dần xuất hiện trên bầu trời, sắp sếp đội hình hành quân tổng thể, kiểm tra lại lần cuối cùng những vũ khí, trang thiết bị chiến tranh cần thiết.
“Mục tiêu Đội Sơn. Xuất phát!”
Viên tướng chỉ huy lạnh ra lệnh, rất ngắn gọn và uy nghi. Đội quân từ từ bay đi theo đội hình trận thế đã được huấn luyện. Tất cả mọi người đều giữ vẻ mặt lạnh lùng, băng giá, không một ai nói chuyện, cả bầu trời ngoài tiếng quần áo, cờ quạt phất trong gió ra, không một tiếng động nào cho thấy đang có một đội tu giả phi hành trên bầu trời.
Nhìn đội tu giả này chiến ý hừng hực như lửa cháy, Thành Đạt khẽ nở nụ cười đắc ý.
Theo các thông tin tình báo mà Thành Đạt thu thập được về quân Trung Nghĩa Môn thì Vũ Hốt là một viên tướng không chỉ là cẩn trọng, làm việc chắc chắn mà còn là một viên tướng có tài năng thực sự trong việc điều binh khiển tướng, có đôi mắt có khả năng nhìn ra những ý nghĩa chính trị, quân sự, kinh tế của các vùng, miền. Một viên tướng như vậy, đương nhiên hiểu rất rõ ý nghĩa quan trọng của cứ điểm Duy Tiên mà lão ta đang đóng quân. Với những hiểu biết đó, nhiều khả năng lão sẽ đưa ra phán đoán rằng Thành Đạt muốn hạ cứ điểm này của lão và việc tên tướng lỗ mãng Đoàn Lai xuất trại đuổi theo đội quân hỗ trợ cho Thượng Khối kia của Thành Đạt chính là đã trúng phải kế phân binh của Thành Đạt và Thành Đạt sắp sửa nhân lúc binh lực của cứ điểm này suy yếu để tấn công nơi này. Với những phán đoán đó, có đến tám chín phần, Vũ Hốt sẽ ra lệnh điều động tất cả quân lực của Trung Nghĩa Môn quanh vùng về đây. Gã muốn bỏ các cứ điểm không quan trọng kia để tập trung về Duy Tiên, tạo ra một đội quân đông đảo, hùng mạnh tạo ra một cái bẫy chết người để ‘chào đón’ Thành Đạt. Nếu như quả thực lão ta làm như vậy thì mới thực sự là trúng kế của Thành Đạt. Có lẽ dù suy tính đến vỡ cả đầu, Vũ Hốt cũng không thể ngờ được mục tiêu tấn công thực sự của Thành Đạt lại là Đội Sơn, một cứ điểm có ý nghĩa về quân sự và chính trị, nơi mà gã ta vừa rút sạch quân đi.
Căn cứ Đội Sơn không phải là một cứ điểm có ý nghĩa chiến thuật gì đối với những mưu tính quân sự chính trị của Đoàn Thượng và Trung Nghĩa Môn. Thực chất, nơi đây vốn không phải là một khu căn cứ quân sự hay một cứ điểm phòng thủ gì hết. Nó vốn dĩ là một khu biệt thự sang trọng của một phú thương trong vùng, nằm trên một ngọn đồi nhỏ, trơ trọi giữa một cách đồng rất đẹp. Khi Đoàn Thượng muốn tiến hành uy hiếp vùng Thuận Lưu, Trung Nghĩa môn đã trưng thu nơi này và biến nó thành một căn cứ tiền tiêu, làm điểm tựa cho các hoạt động tuần tra, trinh sát Thuận Lưu của các đội trinh sát nhỏ lẻ. Nhiệm vụ này, hoàn toàn không có giá trị gì khi Thành Đạt đã xuất quân, chủ động tiến đánh đám quân đội của Trung Nghĩa Môn tại căn cứ Duy Tiên. Vì thế, khó trách Vũ Hốt quyết định rút bỏ khỏi Đội Sơn trong tình hình hiện tại.
Thành Đạt chiếm được căn cứ Đội Sơn mà không tốn đến một giọt mồ hôi nào của đám binh lính. Mặc dù trên thực tế gã cũng chẳng thu được bất kỳ lợi ích cụ thể nào từ việc chiếm lĩnh này nhưng đây vẫn là một chiến thắng, một thứ ‘đồ chơi’, một vật ‘trang trí’ tuyệt hảo cho đám đài báo và lính tuyên truyền của Thành Đạt tha hồ mà hò hét, ca tụng, thổi còi… vang động thiên hạ. Chỉ cần tin này đến được tai của đám Hoàng Phong Tông, Lý Nhân dứt khoát sẽ biết phải làm gì với những thứ như thế này.
Thành Đạt chiếm Đội Sơn!
Vũ Hốt nghe được tin này thì lập tức biết được gã chỉ hư trương thanh thế, binh lực trong tay cũng không đủ để quản những chuyện vớ vẩn nên quyết định tiếp tục tử thủ căn cứ Duy Tiên. Nhưng tên tướng thổ phỉ Đoàn Lai thì đâu đủ trí tuệ để nhận biết thế cục như vậy. Thằng cha đầu óc ngu si, tứ chi phát triển này vừa nghe thuộc hạ báo tin tức này thì lập tức phát hỏa
“Cái gì? Nhà ngươi nói Thành Đạt không tốn một binh một tốt mà hạ được Đội Sơn? Thế bọn binh lính phòng thủ tại đó đâu? Rồi quân tại mấy căn cứ liền kề đó nữa. Chúng chết cả rồi hay sao mà trơ mắt lên cho tên khốn đó chiếm Đội Sơn?”
“Bẩm tướng quân! Tất cả binh lực tại các căn cứ trong vùng đều đã bị tướng quân Vũ Hốt ra lệnh tập trung về hết căn cứ Duy Tiên nên…”
“Cái gì? Thằng giặc già nhát chết đó dám to gan lớn mật làm loạn quân trận sao?” Đoàn Lai đâu hiểu được cái đại trí của Vũ Hốt, vừa nghe nói lập tức gầm lên điên loạn. Đám phụng sự còn tát gió theo mưa
“Tướng quân. Vũ Hốt tướng quân hồ đồ, khiến cho toàn bộ trận thế của quân ta đại loạn. Giờ đây, Duy Tiên đã là một tòa cô thành, đơn độc giữa vòng vây, chỉ e chẳng bao lâu cũng không trụ được mà rơi vào tay kẻ địch. Tướng quân binh lực ít, lúc đó e cũng khó có thể trụ được với địch.”
“Tên khốn Vũ Hốt làm liên lụy đến ta rồi. Vậy giờ ta phải làm sao cho tốt.”
“Chúng ta binh ít, lại ở ngài sáng, địch quân đông, lại ở trong tối. Muốn phá được địch chỉ còn một cách: Vào chỗ chết để tìm ra đường sống!”
“Dốc toàn binh lực, tấn công vào Đội Sơn. Phá vỡ thế bao vây của địch. Kế rất hay!”
Đoàn Lai khen tên tham mưu xong liền lập tức điều động quân đội, gấp rút tiến binh về Đội Sơn.
Đây là một nước cờ vô cùng nguy hiểm và liều lĩnh. Tấn công vào một cứ điểm của kẻ địch khi không biết rõ tình hình binh lực và bố trí của quân địch là một điều cực kỳ nguy hiểm, đại kỵ của binh gia. Đội Sơn tuy không phải là một căn cứ trọng điểm nhưng vẫn là một căn cứ quân sự được bảo vệ bởi nhiều trận pháp cấm chế khá mạnh mẽ, tạo ra không ít lợi thế cho quân phòng ngự. Binh lực của Đoàn Lai lại không đông, cũng không có những trang thiết bị công thành, phá trại hiệu quả, chiến tranh thánh khí uy lực mạnh cũng không có. Bản thân đội quân này lại luôn nằm dưới sự giám sát chặt chẽ của các đơn vị trinh sát của Thành Đạt, hoàn toàn không thể tạo ra sự bất ngờ nào trên chiến trường. Với thực trạng như thế này, quân đội của Đoàn Lai công hạ được Đội Sơn mới là điều kỳ quái!
Chưa đầy nửa ngày sau, đội quân hơn hai ngàn người của Đoàn Lai đã kéo đến Đội Sơn. Cả khu căn cứ bây giờ đã được tái phục lại vô số trận pháp cấm chế mạnh mẽ, màn hào quang rực rỡ bao bọc khắp nơi như một mái vòm rắn chắc, che chở cho các tu giả ẩn náu bên trong. Khí thế nơi đây, vững vàng, hùng dũng như một con quái vật đang ngủ say, khiến đám tu giả đang phiêu phù trên trời kia tê tâm lạnh cốt.
Đoàn Lai dù sao cũng là một chiến tướng dầy dạn kinh nghiệm trận mạc. Gã nhìn thấy căn cứ này đã được bảo vệ cẩn mật nwh vậy thì cũng không ngu ngốc mà vội vàng tấn công ngay. Gã móc ra trong túi không gian một món pháp bảo kỳ lạ, quang hoa ảm đạm, mờ mờ ảo ảo như một đám mây ngũ sắc nhỏ. Gã vung tay lên huy động pháp bảo, một làn khí mỏng lập tức từ tay gã tràn ra, lướt qua đám binh tốt. Trong chớp mắt, toàn bộ hơn hai ngàn quân của Đoàn Lai đã được bao bọc bởi một lớp mây mỏng, mờ ảo như có như không. Lực phòng ngự của bọn họ cũng nhờ vậy mà tăng lên đáng kể, khả năng liên lạc giữa các thành viên cũng được nâng cao.
“Tấn công!”
Đoàn Lai hô lên dõng dạc hạ lệnh công kích. Từng đội quân dưới trướng gã nhanh chóng tách ra theo trận pháp được huấn luyện từ trước, lần lượt tấn công Đội Sơn với nhiều thủ đoạn khác nhau: sử dụng một số chiến tranh thánh khí mang theo từ xa công kích có; sử dụng pháp bảo, bùa chú công kích cự ly gần cũng có… Tiếng nổ, dư chấn kinh thiên động địa, vang lên ầm ầm không ngớt. Hào quang chói lọi rực rỡ cả một vùng. Đáp lại, từ căn cứ Đội Sơn, vô số tia sáng chết chóc, hỏa cầu, băng thương ào ào được quân phòng thủ bắn ra, gây ra những tổn thất nhất định cho quân tấn công. Phe tấn công có ưu thế về quân số, sự cơ động, di chuyển nhanh nhẹn của quân lính, nên khó bắn hạ. Phe phòng thủ có ưu thế về lực phòng ngự mạnh mẽ, giáp sâu dày, có thể mặc nhiên tiếp đón hầu hết những đòn tấn công của kẻ địch mà không hề hấn gì. Trận đánh nhanh chóng rơi vào trạng thái dằng co, không thể kết thúc nhanh chóng được.
Đúng lúc ấy, quân trinh sát của Đoàn Lai phát hiện ra một đội quân lớn từ đằng xa đang ào ào tiến đến tập hậu đội quân của gã. Đoàn Lai không chút hỗn loạn liền ra lệnh chuyển biến trận thế, một mặt tiếp tục tấn công Đội Sơn, một mặt chuẩn bị ngạch kháng với đội quân sắp đến của kẻ địch. Chẳng bao lâu, đội quân kia cũng hiện ra trước mắt Đoàn Lai. Đây chính là hai đội quân: Cao Thủ và Đột Mãnh của Thành Đạt, do Hoàng dẫn đầu. Hai bên không nói một lời, lập tức lao vào sáp chiến. Cùng lúc đó, đội Nam Quân vốn phòng ngự trong Đội Sơn cũng hùng dũng lao ra, đẩy quân của Đoàn Lai vào thế ‘lưỡng đầu thọ địch’. Hai đội quân của Thành Đạt phối hợp với nhau rất tốt, nhanh chóng phá vỡ thế trận của Đoàn Lại, chia cắt quân địch. Quân Đoàn Lai dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng cũng không thể trụ được trước thế tấn công quá hung mãnh này của hai đội quân Thuận Lưu. Bọn họ nhanh chóng tan vỡ đội hình rồi bị quân Thuận Lưu tiêu diệt.
Thấy thế trận đã định, không thể cứu vãn được nữa, Đoàn Lai chỉ còn có thể dẫn theo đội thân binh cao thủ của mình, mạnh mẽ đột phá trung quân của đội quân Cao Thủ của Thành Đạt, tạo ra một đột phá khẩu và đào thoát khỏi chiến trường, chạy về căn cứ Duy Tiên. Thành Đạt đối với việc này đều mắt nhắm mắt mở, coi như không thấy gì, mặc kệ bọn Vũ Hốt, Đoàn Lai muốn làm gì thì làm.
Không bị quân đội của Thành Đạt uy hiếp lộ liễu, chẳng bao lâu sau, Đoàn Lai phục hồi bản tính trở lại sau trận thảm bại. Gã ta lại muốn xuất quân tiến đánh quân Thuận Lưu, nhưng Vũ Hốt cương quyết không cho. Đoàn Lai vốn ôm trong lòng ý nghĩ: vì Vũ Hốt mà gã mới bị thất bại trận vừa rồi, nên nay càng căm hận Hốt thêm nữa. Không khí căng thẳng giữa hai vị tướng quân nhanh chóng lan ra khắp doanh trại và khiến cho tình hình trong trại Duy Tiên cũng theo đó mà hỏng bét hết cả. Các sĩ quan chỉ huy lâm vào hoàn cảnh khó xử khi không thể biết được họ phải tuân theo mệnh lệnh chỉ huy của ai trong hai vị tướng quân và càng không thể biết được họ nên làm gì trong tình hình rắc rối hiện nay. Cùng lúc đó, Thành Đạt lại có hành động mới.
Thành Đạt là một kẻ rất sành chơi trò chơi tâm lý chiến lại hiểu khá rõ về tính cách của hai vị chiến tướng bên kẻ địch nên chẳng khó khăn gì để gã phán đoán được hiện trạng xung đột gay gắt giữa Đoàn Lai và Vũ Hốt và cũng hiểu được gã phải làm gì để ‘cho thêm chút dầu vào ngọn lửa’ giữa hai kẻ địch này. Hành động của Thành Đạt khá đơn giản và hiệu quả. Gã tung ra những đội quân vừa và nhỏ, liên tục đánh phá các khu cứ điểm phòng thủ yếu ớt trong vùng của Trung Nghĩa Môn. Trung Nghĩa Môn với sự hỗ trợ của các thế lực trong triều, lập tức phản ứng mạnh mẽ và nhanh chóng thu được những trận thắng nhỏ. Những trận thắng này không có nhiều ý nghĩa về quân sự hay chiến thuật nhưng lại khiến cho tinh thần quân lính môn phái này trở lên cao vút và làm cho Đoàn Lai lấy lại sự tự tin, cao ngạo ngày nào. Với sự tự tin này, Đoàn Lai lại muốn một lần nữa xuất binh, tìm diệt quân đội Thuận Lưu của Thành Đạt. Đương nhiên, với tính cách cẩn trọng của mình, Vũ Hốt cực lực ngăn cản chuyện này. Xung đột giữa hai người bùng nổ dữ dội với kết cục là Đoàn Lai một lần nữa kéo quan bản bộ một mình xuất binh, rời khỏi doanh trại Duy Tiên, để mặc cho Vũ Hốt một mình trấn giử căn cứ này. Ai ngờ được, ngay khi Đoàn Lai xuất quân thì Thành Đạt cũng lập tức thu binh, lui trở về căn cứ Thuận Lưu. Cả Đoàn Lai lẫn Vũ Hốt đều không đủ gan và binh lực để tiếp tục truy đuổi Thành Đạt vào tận lãnh địa của gã nên đành phải trơ mắt ra nhìn rồi sau đó trút giận lên nhau, rồi quay sang gây gổ với người còn lại, khiến cho quân doanh của hai người này náo loạn hết cả, mãi đến khi Đoàn Thượng phải ra mặt điều chỉnh lại đơn vị quân này thì mọi chuyện mới yên tĩnh trở lại.
Lại nói đến cuộc tấn công vào Thượng Khối của quân chủ lực Trung Nghĩa Môn do Đoàn Thượng dẫn đầu. Tuy binh lực và trang thiết bị chiến tranh thánh khí của Trung Nghĩa Môn vượt xa so với Hoàng Phong Tông nhưng Hoàng Phong Tông lại có lợi thế ‘sân nhà’, nhận được sự hỗ trợ to lớn của các trận pháp cấm chế và các môn phái, gia tộc, thế lực nhỏ yếu khác trong vùng Thượng Khối nên Trung Nghĩa Môn cũng không dễ gì hiếp đáp Hoàng Phong Tông. Nếu Trung Nghĩa Môn liều mạng công kích Thượng Khối thì họ dứt khoát phải trả giá đắt. Đến lúc ấy, các thế lực khác sẽ chẳng đời nào mà buông tha cho họ. Đoàn Thượng cũng nhận ra điều này. Vì thế, lúc đầu lão ta quyết định áp dụng chiến thuật triệt hạ tinh thần kẻ địch bằng một loạt những trận đánh vừa và nhỏ, làm suy yếu Hoàng Phong Tông, phá vỡ liên kết của Hoàng Phong Tông với những thế lực nhỏ yếu khác trong vùng, từ đó hi vọng kết thúc chiến tranh với những hiệp ước thỏa thuận có lợi cho Trung Nghĩa Môn. Với chiến thuật như vậy, Trung Nghĩa Môn bỏ qua những cứ điểm quan trọng của Thượng Khối, lần lượt tìm đến các căn cứ, các đội quân, các thế lực nhỏ yếu trong vùng. Chiến thuật cực kỳ hợp lý này khiến cho Hoàng Phong Tông lâm vào thế bị động, phải giương mắt nhìn kẻ địch tung hoành trong chính lãnh địa của mình, phá hoại các cơ sở kinh tế quan trọng của môn phái một cách đầy bất lực. Cứ như vậy, dù lực lượng của Hoàng Phong Tông không bị thiệt hại nhiều nhưng tinh thần và nền kinh tế của họ vẫn bị đả kích mạnh mẽ theo đúng mong muốn của Đoàn Thượng. Chiến thuật của Đoàn Thượng có lẽ đã thành công rực rỡ nếu như không có sự xuất hiện ‘không đúng lúc’ của đội Bắc Quân, Thành Đạt gửi đến hỗ trợ cho Hoàng Phong Tông và cả hai chiến thắng vang dội (được bọn tuyên truyền Hoàng Phong Tông, Thuận Lưu thổi phồng hết mức) của Thành Đạt tại Đội Sơn. Những thứ này thực sự là liều thuốc tiên, lên tinh thần cho đội quân phòng ngự vào đẩy Đoàn Thượng vào tình thế buộc phải lựa chọn giữa việc phải dốc toàn lực tấn công trực diện kẻ địch trong những cứ điểm vững chắc với việc lui binh, tìm kiếm một cơ hội khác. Đoàn Thượng cũng thực là một đấng anh hùng trong thời loạn lạc. Biết không đánh được Hoàng Phong Tông, lão lập tức ra lệnh lui binh. Cuộc chiến tại Thượng Khối cũng kết thúc im hơi lặng tiếng như vậy.
Chương 51
Trận chiến giữa Trung Nghĩa Môn và Hoàng Phong Tông tại vùng Thượng Khối kết thúc với những tổn thất về nhân mạng khá nhỏ nhưng vẫn khiến cho cả hai bên tham chiến phải gánh chịu những hậu quả nặng nề. Đối với Hoàng Phong Tông, những thiệt hại về kinh tế: nông nghiệp, khai khoáng, thương mại… là không thể đo đếm. Không những vậy, Hoàng Phong Tông còn phải xuất ra một lượng lớn tài vật để viện trợ cho những môn phái, gia tộc, thế lực bị thiệt hại trong cuộc chiến vừa qua, đặc biệt là với ‘đồng minh’ quan trọng của họ Thiên Linh Phái của Thành Đạt tại Thuận Lưu thì bọn họ càng phải chi đậm. Điều này khiến cho Hoàng Phong Tông từ một môn phái sung túc giàu có, phải lâm vào tình trạng khủng khoảng kinh tế trầm trọng.
Trong khi đó, với việc thất bại khi không thể thôn tính được Hoàng Phong Tông, uy vọng của Đoàn Thượng thủ lãnh Trung Nghĩa Môn trong con mắt đám quan đại thần đầy quyền lực tại triều đình (kể cả tên hoàng đế ngu, Huệ Tông) đã hoàn toàn thay đổi. Đám người này vốn định lợi dụng sức mạnh quân sự và kinh tế của Trung Nghĩa Môn để hòng mau chóng xây dựng lại thế lực và quyền uy của triều đình cùng hoàng tộc họ Lý cũng như của bản thân bọn họ, nay thấy, sức mạnh quân sự của Trung Nghĩa Môn không đủ để thực hiện được những tham vọng ‘vĩ đại’ đó thì bọn họ nhanh chóng tìm kiếm những con đường khác.
Trung Nghĩa Môn dù hùng mạnh hơn phe triều đình rất nhiều nhưng lãnh địa của họ dẫu sao vẫn là hai vùng Khoái Châu và Hồng Châu, còn kinh thành là địa bàn hoạt động của mấy lão quan già. Thêm vào đó, Đoàn Thượng có thể là một chiến tướng, một lãnh chúa tài ba nhưng vẫn chỉ là một nhà chính trị tay mơ. Gã ta chưa phải là đối thủ của mấy lão quan đại thần trong việc đấu đá ngấm ngầm, đâm bị thóc, thọc bị gạo nên… lão nhanh chóng bị lép vế trong triều đình. Nếu là khi trước cuộc chiến ở Thượng Khối, nếu gặp những kẻ như thế này, Đoàn Thượng hoàn toàn có thể lợi dụng sức mạnh quân sự to lớn để đè bẹp đối phương. Khi đó, giết người càng nhiều, uy vọng của lão ta càng to lớn, vững mạnh, thiên hạ càng nể sợ, tôn kính lão. Nhưng sau thất bai tại Thượng Khối, lão không thể làm được như vậy, trừ khi muốn gây ra một cơn hỗn loạn nội bộ lớn. Chẳng bao lâu sau, vùng Khoái Châu có loạn, Đoàn Thượng đành phải rút quân khỏi kinh thành.
Cả Trung Nghĩa Môn và Hoàng Phong Tông đều bị gặp khốn tạo điều kiện cho các thế lực khác mạnh mẽ vươn lên, đặc biệt là hai thế lực lớn còn lại của Tĩnh Thiên Quốc là gia tộc họ Lê ở Hải Ấp và Thiên Linh Phái ở Thuận Lưu. Trong khi Lê Khánh và mấy tên trưởng lão của dòng họ Lê e ngại thế lực của Thiên Linh Phái kề bên nên không dám có hành động gì thì Thành Đạt lại quyết định động binh. Mục tiêu của hành động lần này của Thành Đạt là các môn phái, gia tộc, thế lực nhỏ yếu phía nam sông Hỗn Độn. Lực lượng quân đội lần này của gã là chiến tướng thân tín Hoàng và ba đội quân Nam Quân, Đông Quân và Bắc Quân. Ba đội quân, ba ngàn binh lính tu giả tinh nhuệ thiện chiến, được hỗ trợ bởi hai chiến thuyền hùng mạnh và những thuyền vận quân đặc chế khác ào ào vượt dòng khí hỗn độn, tiến về phía nam.
Đội quân dễ dàng vượt sông Hỗn Độn mà không gặp bất kỳ ngăn trở nào của các thế lực phía nam. Đi đến địa bàn của Nghịch Hà Trại, Hoàng gặp một toán quân chỉ có vài chục người. Thủ lĩnh toán quân này bước lên, vái Hoàng một vái mà nói
“Kính chào đại nhân. Tôi tên là Ngân Hà, thủ lĩnh của Nghịch Hà liên minh kính mong đại nhân dừng bước, dành cho tôi đôi chút thời gian.”
Nghịch Hà liên minh giống như Thuận Lưu liên minh của Thành Đạt đều là liên minh của các thế lực nhỏ yếu, cùng hợp tác với nhau, cầu mong sinh tồn trong thời đại hỗn loạn, cá lớn nuốt cá bé, cá bé nuốt cá bé hơn này, chỉ có điều thực lực của Nghịch Hà liên minh không bằng một góc của Thuận Lưu liên minh. Lý do thì có nhiều nhưng cơ bản nhất là: không phải lúc nào 1 + 1 cũng bằng 2.
Hai thế lực tương đồng, không phải không thể ‘nói chuyện’. Hoàng hiểu ý Ngân Hà liền ra lệnh dừng quân, hạ trại, mời Ngân Hà vào trong lều nói chuyện.
Chẳng bao lâu sau, Ngân Hà đem toàn bộ Nghịch Hà liên minh chính thức sát nhập vào Thuận Lưu liên minh. Thành Đạt liền phong cho Ngân Hà làm Nghịch Hà tướng quân, cho phép tiếp tục nắm giữ Nghịch Hà trại và thay mặt gã cai quản cả vùng Nghịch Hà này, ngoài ra, tài vật, mỹ nữ trọng thưởng là điều không hề thiếu. Tất cả những gì mà Thành Đạt yêu cầu từ Ngân Hà chỉ là những tuyên bố chính trị, ngoại giao cùng với việc cung cấp quân lương và dẫn đường cho đội quân nam chinh của gã. Những thứ này đều không đáng là gì so với những điều kiện mà Ngân Hà sẵn sàng chấp nhận để tránh việc phải quyết chiến với thế lực hùng mạnh này, một trận đánh mà bọn họ khó có thể tránh được những hậu quả thảm thiết.
Ngân Hà thấy sau khi sát nhập vào Thuận Lưu liên minh, quyền lợi của bản thân không những không suy giảm mà còn tăng lên thì mừng lắm. Gã liền vận dụng các mối quan hệ của bản thân đi chiêu an các thế lực khác trong vùng. Có gương Ngân Hà, các thế lực khác trong vùng cũng nhanh chóng quy về với Thuận Lưu. Thế là Thành Đạt không cần tốn một binh một tốt, thu phục được toàn bộ vùng Nghịch Hà này. Thành Đạt liền thưởng lớn cho cả Hoàng và Ngân Hà. Ngân Hà liền tiếp tục tiến cử cho Thành Đạt:
“Nghịch Hà chỉ là vùng đất nhỏ hẹp, nhưng cũng không phải là không có nhân kiệt. Không hiểu đại nhân có biết đến hai người họ Trương không?”
“Các gia tộc, thế lực có họ Trương ở vùng này thực quá đông. Thật tôi vẫn chưa đoán ra được anh muốn nói đến ai.” Thành Đạt khéo léo nói
“Thưa đại nhân. Một người tên Thuấn đang nương thân ở một môn phái nhỏ là Tử Tông Phái, còn người kia tên Tư, hiện đang làm thợ săn quỷ, chuyên đối phó với đám yêu ma quỷ quái sách hại dân lành trong vùng. Hai người này, không ai không có tài kinh thế, am tường nhiều phép lạ nhưng cũng kiêu ngạo lắm. Trước đây, thuộc hạ từng nhiều lần dùng đại lễ để mời ra giúp sức mà cũng không được.”
Thành Đạt nghe thế liền sai Hoàng đem đến tặng mỗi người này một cái chiếc ghế không có mặt ngồi, chỉ có bộ khung làm từ gỗ quý cùng một bức thư mời ra giúp sức. Hai người xem thư và quà thì hiểu ý Thành Đạt, đắn đo suy nghĩ một hồi rồi cũng ra giúp Thành Đạt. Thành Đạt mừng lắm liền phong chức tước cho, giao cho nhiều trọng trách, lại sai hỗ trợ Hoàng bình định các thế lực khác ở phía nam.
Thấy Thành Đạt dễ dàng thu phục vùng Nghịch Hà, môn chủ Thánh Hàn Tông là Lam Cực vội vàng họp bàn với đám thủ hạ
“Nghe nói Hoàng là danh tướng hùng mạnh nhất dưới trướng Thành Đạt, vừa hay tôi lại mới thu được một pháp bảo hùng mạnh đang tìm đối thủ để thử sức. Xin chủ công cho tôi một cánh quân, đóng tại căn cứ Thánh Hạc đón địch.” Một bộ tướng của Lam Cực là Huy Tố nói
Lam Cực mừng lắm liền cho Huy Tố hai ngàn quân đến đóng đồn tại Thánh Hạc đón đánh Hoàng. Chưa hết, Lam Cực còn sai sứ giả, đem linh thạch, tài liệu, bảo vật trân quý, gái đẹp… đến dâng tặng Lê Khánh ở Hải Ấp, Đoàn Thượng ở Hồng Châu và đám quan lại triều đình, xin những thế lực này ra tay cứu giúp. Đáng tiếc, dù loạn ở Khoái Châu đã bình nhưng tình hình nơi đây vẫn còn nhiều rối rắm, Đoàn Thượng vốn uy danh quá thấp, không đủ để phục chúng, nên không dám xuất binh đánh ngoài vào lúc này. Đám quan lại triều đình tuy muốn xuất quân đánh Thuận Lưu của Thành Đạt nhưng lại sợ Hoàng Phong Tông, đồng minh của Thành Đạt như hổ rình sau lưng, nên không dám nhúc nhích. Trong các thế lực chỉ còn lại, Lê Khánh ở Hải Ấp là có thể xuất binh đánh Thuận Lưu, cứu Thánh Hàn Tông. Lê Khánh lập tức động binh, sai em trai là Lê Cổ cầm 5000 vượt sông Hỗn Độn tiến vào vùng đất của Thánh Hàn Tông, hỗ trợ Lam Cực.
Nghe tin Lê Khánh xuất binh cứu viện, Lam Cực mừng rỡ liền họp thuộc hạ, cùng bàn bạc việc phối hợp với quân đội của Hải Ấp. Một mưu thần của Cực là Hoàng Tuân nói
“Quân Hải Ấp là lính ngoài, chỉ nên sắp đặt những vị trí phòng ngự tầm thường để trợ chiến, không nên giao cho giữ những vị trí quan trọng của chúng ta cho chúng.”
Nhưng Lam Cực bác luôn
“Ta vất vả lắm mới mời được bọn họ đến đây giúp ta kháng địch, sao có thể chỉ để làm tượng trưng mà không dùng?”
Nói rồi sai sứ giả đến gặp Lê Cổ, bảo Cổ đem binh đến đóng tại trại Thiên Ký, một khu căn cứ trọng điểm cực kỳ quan trọng trong chiến tuyến của Thánh Hàn Tông đối đầu cùng với quân Thuận Lưu. Lê Cổ thấy bản thân bị đưa ra chiến trường trước nhất thì bực tức nói với đám thủ hạ.
“Bọn Thánh Hàn Tông này thật đúng là một lũ khốn nạn. Chúng nó gặp nguy. Chúng ta từ xa cất công đến hỗ trợ chúng. Chúng lại dám đem chúng ta ra tiền tuyến làm tốt thí. Loại người này thực không nên hợp tác. Nhưng chúng ta mang trên mình mệnh lênh của tộc trưởng, không thể chống đối. Vậy chúng ta nên làm sao cho tốt?”
Một tên sĩ quan tham mưu liền hiến kế
“Tộc trưởng bảo chúng ta đến cứu chúng chẳng qua chỉ là vì không muốn Thuận Lưu nuốt chửng cả vùng Thánh Hàn này mà thôi. Sao ngài không đòi tên Lam Cực phải khao quân rồi nhân lúc đó, ra tay khống chế gã và Thánh Hàn Tông?”
Lê Cổ khen kế hay rồi lập tức làm theo, sai sứ đến gặp Lam Cực đòi gã phải đích thân khao quân. Đây cũng là lẽ thường nên Lam Cực đồng ý, hẹn Lê Cổ đến ngày lành tháng tốt thì vào tổng đàn Thánh Hàn Tông cùng dự tiệc rượu, làm lễ khao quân. Lê Cổ lấy cớ đang có chiến sự, tình hình trị an không ổn định, đòi đem theo một ngàn quân làm vệ sĩ bảo vệ. Mưu sĩ của Lam Cực vội can
“Chúa công chớ nên làm như vậy. Tên Lê Cổ đó đang có tà ý với chúng ta đấy.”
Lam Cực không cho lời khuyên đó là phải, chấp nhận cho Lê Cổ được phép mang theo thân binh, vệ sĩ nhập tổng đàn. Lê Cổ nhận tin, mừng lắm liền đem theo một ngàn quân, rầm rộ tiến vào tổng đàn của Thánh Hàn Tông.
Lê Cổ vừa vào được trong tổng đàn của Thánh Hàn Tông liền lập tức trở mặt, khống chế bộ chỉ huy của toàn bộ tông môn này và sai người thân tín nắm giữ tất cả các yếu địa trọng điểm của tổng đàn. Thánh Hàn Tông tuy còn mấy ngàn tu giả trong tổng đàn nhưng vẫn chỉ có thể trơ mắt ra nhìn tông môn rơi vào trong tay đám người Lê Cổ.
“Ha ha ha… Tên Lê Cổ này đúng là một thằng ngu. Ta trước còn không biết phải làm sao để đối phó với nhà họ Lê ở Hải Ấp nhưng bây giờ thì… Ha ha ha…” Tại căn cứ Thuận Lưu nghe tin Lê Cổ đoạt được vùng Thánh Hàn Tông thì đắc ý cười rộ lên. Tiếp đó, gã gửi một mật thư cho Hoàng, sai sát thủ giết chết Lam Cực hiện đang bị Lê Cổ giam lỏng trong tổng đàn Thánh Hàn Tông.
Lam Cực bị giết, lập tức khiến cho toàn bộ những tướng lĩnh cũ của Thánh Hàn Tông rúng động, kinh sợ và phân nộ. Tất cả bọn họ đều tin chắc rằng vụ việc này do đám Lê Cổ ra tay hòng khiến cho Thánh Hàn Tông hoàn toàn biến mất trên cõi đời này và đều e sợ kẻ phải chết tiếp theo chính là bọn họ. Thanh danh của đám Lê Cổ, Lê Khánh trong mắt những thế lực phía nam sông Hỗn Độn xuống thấp đến cực điểm. Lê Cổ, Lê Khánh lúc này có khổ cũng chỉ tự mình biết, bị oan tày đình mà không thể nào biện giải được, chỉ có thể ‘theo lao’ dùng sức mạnh để củng cố quyền lực và địa vị của nhà họ Lê ở vùng phía nam sông Hỗn Độn này. Tình thế toàn miền vô cùng hỗn loạn.
Hay tin vùng phía nam hỗn loạn, Đoàn Thượng dùng đang gặp không ít rắc rối ở Khoái Châu cũng lập tức phát binh, vượt sông hi vọng kiếm chút lợi ích! Binh lực của Đoàn Thượng gấp đôi gấp ba lần gia tộc họ Lê ở Hải Ấp nhưng thanh danh thì còn tệ hại gấp nhiều lần gia tộc này. Sự xuất hiện của đội quân này khiến cho các thế lực trong vùng kinh hãi. Bọn họ, ai cũng sợ môn phái mình trở thành Thánh Hàn Tông thứ hai còn bản thân trở thành Lam Cực thứ hai. Trong tình trạng hỗn loạn đó, khẩu hiệu, ‘liên yếu kháng mạnh’ của Thành Đạt nhanh chóng trở thành cứu cánh cho các môn phái nhỏ yếu này. Chẳng bao lâu sau, liên minh Thuận Lưu của Thành Đạt đã thu nhận được thêm hàng chục môn phái, gia tộc mới nữa. Nếu tính riêng trong vùng phía nam sông Hỗn Độn này, thế lực của Thành Đạt bây giờ đã hoàn toàn vượt trội so với cả gia tộc họ Lê ở Hải Ấp lẫn đội quân nam chinh của Đoàn Thượng. Cả Thượng lẫn Khánh đều không chút chậm trễ, vội vã tăng binh cho những đội quân này, một mặt phát binh uy hiếp Thuận Lưu, khiến Thành Đạt không thể tăng quân cho Hoàng được.
Bất chấp những điều này, Thành Đạt vẫn từng bước hoàn thành quá trình chuẩn bị. Lúc này đây, gã lạnh lùng ra lệnh cho Hoàng tiến đánh quân Hải Ấp đang đóng ở Thánh Hàn Tông. Có lệnh, Hoàng lập tức xuất quân từ căn cứ điểm hiện tại, kéo đến trước căn cứ Thánh Hạc. Tướng trấn thủ căn cứ này là Huy Tố dàn quân ra đối địch.
Hai bên dàn quân đối kháng, Huy Tố bay lên trước, đến khoảng giữa hai bên thì dừng lại, lớn giọng thách chiến
“Ta là Huy Tố. Ai dám ra đấu với ta.”
“Thằng thần kinh. Chiến tranh tập đoàn mà bày trò đấu đơn!” Hoàng đứng trong trận khịt mũi kinh bỉ, rồi không thèm hồi đáp, thúc quân xông lại. Cả mấy ngàn quân ào ào ập đến. Huy Tố cả kinh, bay vội vào trong quân. Quân tiên phong của Hoàng lao đến như gió thoảng, Húy Tố không kịp quan sát trận thế hai bên chỉ còn cách thúc quân đánh bừa. Trận thế của quân Tố cũng vì vậy mà rối loạn cả. Đánh một lúc thì không cự nổi quân Hoàng, quân chúng bắt đầu tan tác. Một đạo quân của Hoàng phát hiện ra đội chỉ huy của Huy Tố liền xông lại. Huy Tố vội há mồm, phun ra một chiếc nồi nấu đất nung đỏ au bay lơ lửng giữa không trung. Quân Hoàng không thèm để ý đến bảo vật ấy cứ thế tế pháp bảo theo trận thế tấn công Tố. Tố bắt quyết, niệm chú, huy động pháp bảo. Chiếc vung đất bung ra, một đạo hào quang như dòng nước bạc phun ra từ trong chiếc nồi. Đạo hào quang này đi đến đâu, pháp bảo pháp quyết, bùa chú của đám tu giả phe Hoàng lập tức mất khống chế, bị đạo hào quang cuốn lấy, thu hết vào trong nồi cả. Nhưng liền đó, mấy đội quân khác của Hoàng cùng ập đến. Tố hoảng quá, vứt bỏ cả bảo vật và quân lính, kéo theo đám cận vệ, phá vây bỏ chạy. Pháp bảo nồi đất được một tu giả quân Hoàng thu lấy.
Tố chạy, quân Tố như rắn mất đầu, nhanh chóng hạ vũ khí đầu hàng Hoàng. Hoàng đưa quân vào căn cứ Thánh Hạc, kiểm kê chiến lợi phẩm và hàng quân, lại sai người đem những thứ pháp bảo tài liệu quý giá, có cả chiếc nồi đất thần kỳ của Tố mang về dâng cho Thành Đạt. Thành Đạt thấy Hoàng làm mất thời gian chỉ vì mấy việc ngớ ngẩn này thì không vui, nhưng cũng không nói ra miệng, chỉ ra lệnh giục Hoàng khẩn cấp tiến quân đánh vào căn cứ tổng đàn Thánh Hàn Tông của quân Lê Cổ.
Chương 52
Nhận lệnh điều động khẩn cấp của Thành Đạt, Hoàng không dám chần chừ nữa mà dốc hết toàn quân tiến thẳng về tổng đàn của Thánh Hàn Tông trước đây căn cứ chủ của đội quân Lê Cổ hiện nay.
Trong lúc đó, Lê Cổ đã nhận được đợt chi viện mới của Lê Khánh và tuyển được một lượng lớn tu giả chiến đấu địa phương, binh lực tăng mạnh lên đến gần tám ngàn quân. Với binh lực hùng mạnh trong tay, gã muốn đem quân tấn công các vùng xung quanh, mở rộng thế lực. Ngay lúc này, được tin Hoàng đem ba đội quân, ba ngàn tu giả đánh bại hàng binh quân Tố tại căn cứ Thánh Hạc và cấp tốc mang binh đến tấn công thẳng vào thủ phủ. Lê Cổ vội tập hợp lực lượng tham mưu họp bàn đối sách. Một mưu sĩ hiến kế
“Quân ta tuy đã chiếm được Thánh Hàn Tông nhưng lòng dân không phục, người bất mãn còn nhiều. Hơn nữa, quân ta vừa mở rộng chiêu mộ binh chúng, còn chưa kịp sắp xếp tổng thể, rất hỗn loạn. Còn quân Hoàng lại vừa thắng lớn, sĩ khí đang hăng. Theo tôi thấy không nên trực tiếp đối kháng với địch. Thủ chắc chờ cơ hội là hơn.”
Lê Cổ nghe vậy đập bàn mắng
“Tên súc sinh ngươi sao dám nói lời hoang đường làm hỗn loạn lòng quân. Mau lôi gã ra ngoài!”
Binh lính lập tức tiến vào lôi vị mưu sĩ đáng thương đó ra. Những người khác thấy vậy thì khiếp hãi, không dám nói câu nào. Lê Cổ liền nêu ý kiến của mình
“Quân ta đông gấp ba lần quân nó, binh tinh tướng mạnh hơn quân địch cả ngàn lần. Ta muốn dốc toàn quân, đón đánh bọn chúng, các vị thấy sao?”
Một vị mưu sĩ cả kinh vội vàng khuyên
“Xin tướng quân chớ làm như vậy. Quân địch ít như vậy, chúng ta chỉ cần phái bốn năm ngàn quân ra đối địch với địch là đủ rồi. Việc gì phải dốc toàn quân?”
Lê Cổ nghe vậy có chút ngần ngừ chưa quyết thì một mưu sĩ khác đã cất lời
“Đánh bại địch thì đúng là chỉ cần bốn, năm ngàn quân là đủ. Nhưng nếu địch chỉ bị bại thì chúng chỉ việc thu nhặt tàn quân, rút về căn cứ của chúng tại vùng Nghịch Hà, lại tuyển thêm binh lính, tăng cường cố thủ, cầu viện Thuận Lưu hay liên minh với đám Trung Nghĩa Môn kia thì tướng quân muốn thu phục vùng này sẽ vô cùng khó khăn. Chi bằng nhân lúc nay, kẻ địch đang tiến vào địa phận của ta, dốc toàn lực, tiêu diệt chúng tại trận. Như vậy, tướng quân muốn thu phục vùng Nghịch Hà sẽ dễ dàng như trở bàn tay.”
Lê Cổ khen hay đáo để rồi lập tức ra lệnh xúc động toàn quân, tiến ra nghênh đánh quân của Hoàng. Quân đội hai bên nhanh chóng hội binh cách trại chủ Thánh Hàn Tông của quân Lê Cổ không xa.
Lê Cổ đứng trong trận, cao giọng chửi mắng Hoàng bất nghĩa, ăn cháo đá bát, giọng điệu khinh thường, coi Hoàng chỉ là một tên nô bộc của nhà gã. Hoàng tức giận liền cao giọng chửi trả Lê Cổ là phường bất nghĩa, lừa gạt lòng hiếu khách của Lam Cực để đoạt lấy lãnh địa của lão, còn tàn nhẫn giết chết một kẻ tù binh, hung ác giống như Tàu Bựa. Lê Cổ tức lắm liền đánh trống, phất cờ giục quân đánh Hoàng. Hoàng cũng mạnh mẽ điều quân đánh lại. Hai bên ác chiến quyết liệt một hồi, chưa phân thắng bại. Đúng lúc này, trong quân Lê Cổ bỗng rối loạn rồi truyền lên tiếng gào sợ hãi của binh lính
“Có kẻ địch tập kích, phóng hỏa đốt trại!”
Lê Cổ cả kinh, vội quay đầu nhìn lại thì thấy khắp trại chủ, tổng đàn Thánh Hàn Tông, lửa cháy ngùn ngụt, nhả khói đen kịt, che kín cả bầu trời, tất cả cấm chế, trận pháp phòng thủ đều bị phá hủy tan hoang hết cả. Lê Cổ cả kinh vội đem quân về cứu. Gần đến nơi thì thấy một đạo quân bay ra đón đầu. Cổ nhìn lại hóa ra hai tướng Ba Giai, Tú Xuất dưới trướng gã, vội hỏi
“Chuyện gì vậy? Là kẻ nào tập kích chúng ta? Phải Trung Nghĩa Môn không?”
Ba Giai chỉ kiếm vào mặt Cổ mắng lớn
“Tên súc sinh đê tiện, dám sát hại Tông chủ của tao. Mau đem đầu ra đây cho tao.”
Nói rồi hai tướng thúc quân lao vào đánh Cổ. Cổ biết là hai tướng làm phản, giận lắm, liền thúc quân đánh ngay. Nhưng lúc này, Hoàng đã vượt qua được đám hậu quân cản đường của Cổ, ào ào kéo quân đến. Cổ bị vây đánh cả trước lẫn sau thì lúng túng. Hàng binh bản địa trong quân Cổ vốn đi theo Cổ chỉ vì bị cưỡng bách, không muốn liều mạng vì Cổ nên nhanh chóng rối loạn, tan vỡ. Hoàng, Ba Giai, Tú Xuất hai tướng điều thúc quân đánh mạnh vào đám quân này, rồi đánh lan ra toàn quân Cổ. Quân Cổ tan vỡ, Cổ thua to, phải phá vây chạy về trại Thiên Ký.
Hoàng đại thắng, tiến quân vào tổng đàn Thánh Hàn Tông, dập lửa khôi phục lại trận pháp cấm chế phòng ngự rồi mở tiệc khao quân. Trong tiệc, Hoàng cảm tạ hai tướng Ba Giai Tú Xuất đã giúp đỡ, thì hai tướng cả cười mà rằng
“Chúng tôi từ lâu đã muốn đi theo Thành Đạt đại nhân, vốn đã âm thầm bí mật liên lạc với Ngài. Đại nhân sai chúng tôi nằm vùng tại tổng đàn Thánh Hàn Tông, chờ đợi thời cơ. Nay chẳng qua là vứt bỏ mặt nạ để chính thức đầu về với Ngài mà thôi.”
Hoàng nghe vậy thì cả kinh. Đến lúc này, gã mới hiểu được Thành Đạt lệnh cho gã đem quân nam tiến không phải vì chút xúc động và thời cơ nhất thời mà là cả một quá trình chuẩn bị công phu từ trước. Thực chất đám Lê Cổ bại dưới tay Thành Đạt chứ không phải dưới tay gã. Không rời tổng đàn vẫn có thể đánh bại đại địch phương xa, tính liền mấy nước không chút sơ suất! Tài ấy, trí tuệ ấy, thực đáng để ta thán! Lê Cổ bại cũng không oan chút nào! Hoàng càng thêm bội phục tài trí của vị chủ nhân này.
Sau đó, Ba Giai, Tú Xuất liền đi khắp vùng Thánh Hàn Tông du thuyết các thủ lãnh, chưởng môn, tộc trưởng các thế lực địa phương, khuyên bọn họ hàng về với Thuận Lưu. Các thủ lĩnh này thực lực thì không phải là đối thủ của Hoàng, lại được Thành Đạt đảm bảo giữ nguyên lợi ích nên nhanh chóng quy phục. Cả vùng Thánh Hàn, ngoài trại Thiên Ký do Lê Cổ đóng, đều về theo với Thành Đạt. Thế lực Thành Đạt tăng vọt, hoàn toàn đủ sức so bì với đệ nhất môn phái của Tĩnh Thiên Quốc là Trung Nghĩa Môn. Ba thế lực lớn còn lại trong nước là gia tộc họ Lê tại Hải Ấp, hoàng tộc họ Lý tại kinh thành, Hoàng Phong Tông tại Thượng Khối giờ đây đều không thể so sánh với gã được nữa.
Thành Đạt một mặt lệnh cho Hoàng đem quân uy hiếp trại Thiên Ký của Lê Cổ, khiến gã không dám nhúc nhích mảy may, nhưng không đánh hạ trại, dứt điểm đám bại tướng, tàn bình này, một mặt phong cho Ba Giai làm Thánh Hàn lệnh, giao cho gã quản lý cả vùng Thánh Hàn, biến vùng Thánh Hàn và vùng Nghịch Hà thành hai hậu phương lớn của gã, chuyên cung cấp quân lương, tiền bạc, vật tư… cho Thuận Lưu. Có nguồn cung ổn định và to lớn này, Thuận Lưu nhanh chóng phát triển mạnh mẽ về kinh tế, thu hút không biết bao nhiêu thương nhân đến đầu tư, kinh doanh, đem lại cho vùng Thuận Lưu những món lợi lớn kinh người. Đời sống của người dân vùng này cũng chuyển biến mạnh mẽ. Địa vị chính trị của Thành Đạt cũng tăng tiến vượt bậc.
Chẳng bao lâu sau, hoàng đế Lý Huệ Tông tùy tiện kiếm một cái cớ, phong cho Thành Đạt thành Thuận Lưu Hầu, mời gã về triều giúp hoàng đế, quản lý thiên hạ và lệnh cho bá quan phải nghe lệnh gã.
***
Cấm địa tối cao của Thiên Linh Phái, một căn mật thất được xây dựng ngầm trong lòng đất và được bảo vệ cẩn mật tại Thuận Lưu. Thành Đạt im lặng đứng chắp tay sau lưng, chăm chú quan sát một bức phù điều kỳ dị, một thứ gì đó rất giống như một thân cây khẳng khiu, đầy những cành trơ trọi, không một chút lá, nhưng lại nặng trĩu những trái cây tròn trịa, xinh xắn như một trái cam, bóng lóng như giọt sương và… đỏ tươi như máu. Bên trong mỗi quả cầu đó tồn tại một luồng khí tăm tối, kỳ lạ liên tục di chuyển không ngừng như một dòng nước nhỏ.
“Chúc mừng chàng!” Từ sau lưng Thành Đạt, nàng vampire lai Moka hiện ra từ trong bóng tối, nơi mà trong khoảnh khắc trước đó hoàn toàn không hề có một bóng người. Nàng tiến đến, ôm lấy cánh tay của Thành Đạt, ép bộ ngực mịn màng, tràn đầy sức sống của nàng vào nó và tiếp tục vừa cười ngọt ngào vừa nói “Hoàng đế phong chức tước, trao quyền hành cho chàng; cây Tà Huyết cũng đã trưởng thành, có thể thu hoạch bất kỳ lúc nào! Hôm nay đúng là một ngày kỳ diệu! Ai có thể ngờ được hai niềm vui to lớn lại cùng nhau đến với chàng, trong một ngày như thế này chứ!”
“Hừ! Thế lực hiện tại của ta chỉ còn thua kém Trung Nghĩa Tông một chút. Lãnh địa của ta lại sát ngay gần kinh thành. Huệ Tông muốn dựa vào ta thì có gì là lạ!” Thành Đạt khẽ khịt mũi nói với giọng khinh miệt “Tên khốn đấy cũng khá khôn khéo khi phong cho ta làm Thuận Lưu Hầu và cả cái chức quan thái sư đầy quyền lực kia, lại còn ra vẻ ra lệnh cho đám quan lại trong triều phải nghe lệnh ta nữa chứ! Hắc hắc hắc… Thằng ngu đó chắc chắn đang hi vọng ta sẽ bắt chước đám gian thần ngu ngốc của mấy tiểu thuyết ba xu của Tàu Bựa, tự biến mình thành công địch của cả thiên hạ! Hừ! Đúng là đồ trẻ con!”
“Nhưng chắc chắn ngài có ý định bỏ qua cơ hội hiếm có này để mở rộng lực lượng phải không ạ?” Moka nhỏ nhẹ nói
“Đương nhiên!” Thành Đạt cười gằn “Tô Trung Từ và cả Đoàn Thượng, thất bại thê thảm là do chúng bắt chước mấy thằng cha nhân vật trong tiểu thuyết ba xu của lũ Tàu Bựa, mong muốn một bước lên trời, muốn đóng vai gian hùng, bắt cóc thiên tử, ra lệnh cho chư hầu nên mới nếm trái đắng. Hừ! Một lũ ngu ngốc! Chúng quên mất rằng tiểu thuyết thì vĩnh viễn chỉ có thể là tiểu thuyết, chỉ là một mớ lời văn câu chữ của một đám gà mờ chưa bao giờ ra trận, chưa bao giờ làm chính trị, thậm chí, có khi còn không có khả năng quản lý cả… vợ chúng, mơ mộng tưởng tượng ra. Những thứ đó, làm sao có thể áp dụng vào thực tế được cơ chứ?”
“Nga…” Moka kêu lên yêu kiều rồi ‘thả mồi’ cho Thành Đạt có cơ hội khoa trương “Ngài có thể nói cho em biết đôi chút về kế hoạch vĩ đại của ngài được không?”
“Hắc hắc hắc… Có gì là không được!” Thành Đạt kiêu ngạo cười vang “Kinh thành hiện tại, tuy tiếng thuộc về hoàng tộc họ Lý, do Huệ Tông đứng đầu nhưng thực chất đã bị khống chế bởi rất nhiều thế lực, do đại thần quyền cao chức trọng thống trị. Bọn người này mới là những ông chủ thực sự của kinh thành! Nếu ta chỉ dựa vào một cái mệnh lệnh của tên Huệ Tông rồi đòi nhảy lên đầu bọn chúng, bọn chúng đương nhiên không thể chấp nhận được, sẽ giở mọi thủ đoạn bỉ ổi để chống phá ta. Mà đám rác rưởi này, làm gì thì không biết chứ… phá hoại ngầm sau lưng người khác thì tuyệt không kém ai trên đời này đâu.”
“Nga… Phải chăng ngài định…” Moka ra vẻ kinh ngạc, cố ý dừng lời nửa chừng để nhường Thành Đạt nói tiếp
Thành Đạt quả nhiên hưng phấn cười vang như sấm rền, ra chiều vô cùng mãn ý
“Ha ha ha… Chính xác! Chính xác! Nếu ta muốn ‘khống chế thiên tử, ra lệnh cho chư hầu’ thì không thể không giữ lại đám quan lại chó má đó. Nhưng nếu ta không có ý định này thì chẳng cần phải quan tâm đến bọn chúng làm gì cho mất thời gian. Cứ thẳng tay mà diệt trừ chúng thôi!”
Moka mỉm cười nhè nhẹ nhưng không nói gì cả. Nàng hiểu những gì mà Thành Đạt muốn nói và định làm. Nàng cũng không thể không bội phục nhãn quan chính trị tinh tế mà ác độc của Thành Đạt và cảm thán cho Lý Huệ Tông và đám mưu thân. Đám người đó thực sự rất thông minh, nhưng chỉ là thông minh vặt, thông minh kiểu trẻ con, kiểu chợ búa, kiểu đám du côn đầu đường xó chợ! Chút thông minh đó dùng để tranh danh đoạt lợi, đấu đá nhau trong triều thì có dư mà để bình thiên hạ, giải trừ quốc nạn thì… đúng là nằm mộng. Có một chút thông minh đó mà cũng dám đối đầu với một người như Thành Đạt; đám quan lại tai to mặt lớn trong triều thảm rồi!
Thành Đạt khẽ liếc mắt nhìn Moka, khẽ mỉm cười rồi tiếp
“Nhưng ta không thể phủ nhận việc cây Tà Huyết trưởng thành và kết trái lúc này đúng là một niềm vui bất ngờ. Có nó, ta có thể nâng cao Huyết Trì của mình thêm một bậc nữa. Nếu như may mắn, thậm chí ta có thể nhanh luyện thành Huyết Luyện Ma Quân trong truyền thuyết mà không cần phải giết sạch thế giới để lấy máu huyết, tà khí nuôi Huyết Trì!”
Cây Tà Huyết là một pháp thuật vô cùng kỳ bí mà Moka đã đem dâng lên cho Thành Đạt ngay từ khi nàng đem thân trao gửi cho gã. Về bản chất, cây Tà Huyết khá giống với Huyết Trì của Thành Đạt, đều có khả năng hấp thu huyết khí, tà khí, oán khí… trong thiên hạ để biến thành sức mạnh, hỗ trợ chủ nhân. Nhưng không giống với Huyết Trì chỉ có thể hấp thụ trực tiếp huyết khí, tà khí trong thiên hạ, cây Tà Huyết có thể cắm sâu vào lòng đất, hút lấy những thứ sức mạnh khủng khiếp của mặt đất, biến chúng thành linh lực, huyết khí, tà khí… đúc kết chúng lại thành những quả Tà Huyết, những bảo vật vô giá, không chỉ có tác dụng hỗ trợ chủ nhân thực hiện những pháp thuật tà ác mà còn có thể làm cho Huyết Trì nhanh chóng thăng tiến cấp bậc. Ngoài ra, những trái Tà Huyết này còn có thể… giúp những bán yêu Vampire như Moka tăng tiến lên thành một yêu quái thực thụ, thậm chí có thể trở thành một vampire thuần chủng, một trong những sinh vật hùng mạnh nhất thế gian, có thể làm cho cả ‘tiên thật’ cũng phải vãi đái ra quần chứ đừng nói là ‘tiên giả’!
Dù trong đầu liên tục hiện ra viễn cảnh tương lai tươi sáng vô bì đó, Moka vẫn nhẻo miệng, nở một nụ cười ngây thơ, thuần khiết như một cô bé con, kết hợp với gương mặt tuyệt mỹ, không chút tỳ vết của nàng, tỏa ra một sức quyến rũ phi thường! Thành Đạt đứng bên cạnh không nhịn được, liền đưa tay, xiết chặt thân thể nàng vào người gã thêm một chút.