Chu Thư, tự Ðan Bá, cũng còn gọi là Xích Văn, người Ngô huyện, đã từ lâu cư ngụ ở ngoại ô thành Tô Châu. Tuy không quan tước, nhưng Chu giầu có ngang với bậc phong Hầu. Trong nhà, đình viện, ao hồ thắng cảnh rất là đẹp đẽ
Chu rất ham mê cái thuật nuốt đao nhả lửa của đạo gia, thường đóng cửa tạ tuyệt nhân thế, ở trong nhà luyện tập nội đan.
Lúc mẹ chàng mang thai, từng mộng nuốt phải chữ triện mầu đỏ. Ðến khi sinh hạ ra Chu thì có chim hạc đến múa ở giữa sân, và trên không thoang thoảng nghe có tiếng ca nhạc chuông trống ẩn hiện, một lúc thật lâu mới dứt. Mọi người đều cho rằng sau này Chu sẽ nên một bậc phỉ phàm.
Lớn lên, Chu đọc Trang Tử, Liệt Tử cùng các sách của bách gia, đều như là đã từng đọc qua từ trước. Chu còn đọc cả các sách thuốc, để trị bịnh cho người. Không có người bệnh nào đến tay chàng mà không khỏi bệnh.
Chàng lại chưa từng nhận một đồng thù lao nào của ai.
Tuy thế, nếu chẳng phải là người tử tế lương thiện, thì Chu quyết không chữa.
Chàng thường lập chí lên núi La Phù Sơn, ra biển tìm Bồng Lai đảo để tầm tiên tu đạo.
Bấy giờ lại gặp lúc giặc cờ đỏ nổi lên tạo phản. Cả dùng Giang , Triết đại loạn , thành Tô Châu lâm nguy trong sớm tối.
Chu thường nói với mọi người:
- Ðại họa sắp giáng lên đầu trăm họ, sức người không sao vãn hồi được , hãy mau mau tìm nơi đào tẩu thôi.
Rồi chàng kiếm một chiếc thuyền lớn để chở gia đình chạy đến vùng quê của tỉnh Tô Châu. Những bà con họ hàng chạy theo chàng đông như phiên chợ. Cũng may, nhờ chiếc thuyền khá rộng.
Ở thôn quê, ao hồ thủy đạo rất nhiều, nên lúc đầu, Chu tính dựa vào đấy để làm trường thành phòng ngự chống cự với giặc. Bấy giờ, ở phía Nam có bọn thủy khấu Sào Hồ Thuyền, phía Bắc là bọn thương thuyền, ẩn nấp trong đám lau thưa cỏ rậm, thường dựa vào sóng nước, cướp của giết người giữa ban ngày.
Chu ngồi thuyền đi quan sát khu vực quanh chỗ chàng đình thuyền, trở về bảo với mọi người:
- Ðây không phải địa điểm tốt, bởi vì, nếu giặc dùng hỏa công thì chúng ta chết cả lũ.
Rồi chàng đưa thuyền đến Chu Trang trấn, đậu ở bến Bạch Ðãng. Thuyền của chàng thuộc loại thuyền lớn. Ðà công , đà thủ đều là những tay có bản lãnh thành thạo đường thủy. Trên thuyền lại có trang bị thương pháo chống hải tặc , bắn được mục tiêu ở xa, bách phát bách trúng Chu thường dựa vào binh pháp, dặn dò người trên thuyền , hễ thấy địch tới thì phải tấn công trước ngay lập tức , đó là một cách tự vệ hữu hiệu.
Lúc đó Tô Châu bị giặc tóc dài, tức giặc Thái Bình thường chiếm cứ, hương thôn khắp vùng này bị gót giặc chà đạp, giày xéo cướp bóc, duy có Chu Trang trấn là giặc không dám dễ dàng tấn công. Tên thủ lãnh của bọn thủy khấu Sào Hồ, dựa thế bọn giặc tóc dài, thỉnh thoảng lại có ý muốn đánh chiếm Chu Trang trấn, thường diễu võ dương oai, nhưng cuối cùng không dám thực hành, vì sợ oai của Chụ
Chu lại có dị thuật làm sương mù dày ba dặm, khiến cho giặc đứng đối diện mà không thấy người. Trước đó, khi chàng mới chạy khỏi khu vực giặc chiếm lãnh, đi trên một chiếc thuyền nhỏ, bị giặc truy cản rất gấp, đồng hành cùng với chàng, còn có hai chiếc thuyền nhà quen chở đầy tài vật châu báu, chính là mục tiêu săn đuổi của giặc. Trên thuyền đàn bà con gái kinh hoảng sợ hãi, có người e bị giặc hãm hiếp làm nhục, định nhảy xuống sông tự tận, nhưng nhờ Chu lớn tiếng ngăn lại, rồi chàng trấn tĩnh, ngồi xõa tóc dùng thuật "thốn thổ" , há miệng hà hơi cho khí bay mù trời, và dùng quạt lông phe phẩy. Lát sau, không thấy thuyền giặc đâu nữa. Nhờ vậy, mọi người thoát được đại nạn, ai cũng cho chàng là bậc thần tiên.
Bọn giặc tóc dài nhờ tuyên truyền, dụ dỗ được một số dân chúng hiền lành chất phát, ngay cả viên giám sát của Chu Trang trấn cũng bị giặc mê hoặc. Vì thế, ở trong trấn, bọn giặc tóc dài lẫn lộn với dân chúng. Giặc còn âm mưu với bọn thủy khấu Sào Hồ hợp sức để tấn công đội thuyền của Chụ
Chu mấy đêm liền dùng kim tiền để hỏi quẻ , đều chỉ được quẻ trả lời: "Tam thập lục kế , tẩu vi thượng sánh, bằng không sẽ bị giặc vây hãm và tiêu diệt " . Vì thế, chàng biết được rằng không thể cùng giặc chống giữ được nữa, bèn ra lệnh cho phất phát lên không làm cho thuyền giặc hoang mang giữa đám sương mù dày đặc mênh mông, phải bỏ trốn đi hết . Chu thừa thế thổi tù và ra lệnh đuổi theo , trận đó dù không tiêu diệt được giặc, nhưng cũng làm cho giặc giảm bớt nhuệ khí.
Tuy thế, chàng nhận thấy Chu Trang trấn không còn là nơi có thể ở lại được nữa , bèn dẫn hơn mười chiếc thuyền chạy đến Thượng Hải.
Trên đường đi, Chu cho đoàn thuyền ngừng lại tạm nghỉ ở bến Mão Hồ một đêm.
Ðêm ấy , chàng mộng thấy đi đến một lòa tiểu sơn. Giữa lưng chừng nhà cửa san sát xòe ra hai bên như hai cánh chim , nóc đỉnh màu đỏ lợp ngói màu ngọc xanh, chẳng khác gì chỗ ở của các bậc đế vương. Bên ngoài cửa, có khoảng một trăm quân sĩ cao lớn, trang phục oai nghiêm, tay cầm kích, yên dắt đao, đứng canh gác.
Một người trong bọn ra đón Chu vào trong cửa.
Chàng thấy ở hai bên thềm điện là những người ăn mặc theo lối đại quan , đầu đội mũ cao, đeo hốt rộng, thái độ và nghi biểu có vẻ nghiêm trang trầm lặng. Họ thấy Chu tới không ai hỏi han chào hỏi gì cả.
Chu leo hết chín bậc thềm, hướng nhìn hai bên tả hữu và chung quanh cung điện, tuyệt không có mọi bóng người, chỉ thấy một bức rèm son buông xuống, cách ngăn với bên ngoài.
Người dẫn đường bảo với Chu:
- Xin tiên sinh chờ đợi một lát, sơn chủ thay xong vãn phục sẽ ra tiếp tiên sinh.
Một lát sau. chàng nghe có tiếng bội ngọc thánh thót êm tai, từ xa lại gần , rồi một mùi hương thơm ngào ngạt nức mũi tựa như mùi sạ mà cũng không phải sạ, tỏa rộng ra cả trong lẫn ngoài bức rèm son.
Bỗng nghe có tiếng quan thị vệ từ trong rèm truyền ra bảo với Chu :
- Chu tiên sinh từ xa đến đây khó khăn , chẳng hay tiên sinh còn nhớ truyện ba trăm năm trước tại Hoa Man trên thiên đình, vì chọc ghẹo nàng Hứa Phi Quỳnh mà bị đầy xuống trần gian chăng ? Ðến nay cũng đã sáu lần chuyển kiếp. May nhờ tiên sinh túc căn còn dày, nên không quên nguồn gốc quá khứ đấy chứ ?
Chu nghĩ tới nghĩ lui chẳng biết trả lời câu hỏi thế nào cho phải, thì tiếng người trong rèm lại tiếp:
- Ðêm nay mời liên sinh ở lại đây, thật chẳng phải lý do nào khác, nàng Tử Tiên ở Ngọc Cung vốn có duyên nợ cũ với tiên sinh, cần được hoàn kết hôn nhân đêm naỵ Hẳn tiên sinh chưa quên được việc Tây Vương Mẫu ban cho mười trái đào chín và tiên sinh đã dùng những trái đào ấy để tỏ lòng yêu dấu với nàng Tử Tiên, đã cùng nàng sánh vai kề má hoan lạc, thì cũng nên kết vợ thành chồng . Rồi cho gọi nàng Tử Tiên đến hội kiến với Chu ở điện bên cạnh.
Sau đó, người dẫn đường lại đưa Chu xuống thềm, đi về hướng Ðông, vòng qua mấy dấy hành lang, vào một ngôi nhà mái cong, trên cửa đề: "Hồng Hành Bích Ðổ Chi Quán" .
Trong quán trần thiết trang nhã mỹ lệ. Nào là tiêm ngà, trục ngọc, giá sách, rèm tương, ghế gỗ, đinh cổ, lư hương đều là những vật hiếm có trên đời.
Chu vào đến chỗ này, tất cả mọi niềm tục niệm trần gian đều tan biến bay đi hết.
Sau đó có hai con a hoàn bưng đèn, phò một nữ lang khoan thai chậm rãi bước ra. Chu liếc mắt nhìn, thật quả là một quốc sắc thiên hương kiều diễm khó có ai sánh kịp. Ðến lúc đó người dẫn đường chấp tay cáo từ, đi ra ngoài.
Nữ lang tiến gần Chu vái chàng một vái thi lễ. Chu càng cảm thấy mù tịt, chẳng rõ đầu đuôi gì cả. Nhân thế, cũng vái nàng một lễ trả lại, rồi ngồi bên cạnh.
Nữ lang chợt cười bảo với Chu:
- Từ ngày cùng nhau cách biệt đến giờ, đã hai lần tang thương biến đổi, nào ngờ chàng cũng vẫn như ngày trước.
Nói xong, nàng móc trong người, lấy ra một hột đào, đưa cho Chu , tiếp:
- Vật này , chàng đã đánh mất ngày xưa, nên mang về nhân thế mài ra mà uống, có thể tìm lại được chuyện quá khứ đấy.
Rồi mở cẩm nang của chàng, bỏ hạt đào vào đấy.
Khoảng khắc, đã thấy hai con a hoàn bầy xong tiệc rượu. Chỉ sau ba chén, nữ lang bèn sai cất dọn giắt tay Chu vào trong nội thất. Nơi đây, gối nệm chăn màn đều đã có sẵn đầy đủ. Bon a hoàn cũng tự ý ra ngoài đóng cửa lại
Mãi đến lúc trời lần sáng , bỗng có tiếng chuông chùa văng vẳng, nữ lang mới đánh thức Chu dậy , nói với chàng:
- Chàng không thể ở đây lâu được, nếu như chàng được tái hội tiên cảnh thì còn có cơ hội gặp lại nhau. Xin chàng cố gắng nhé.
Rồi tháo cái vòng đeo ở tay ra tặng Chu, nói:
- Vòng này là vòng lấy từ núi Tu Di Sơn, tẩy rửa ở hồ Côn Lôn, rồi được người thợ bạc nổi liếng thời Xuân Thu gia công chế tạo, trải qua ba nghìn năm mới có hình có chất. Ðeo vào tay, thì tăng tuổi thọ, tránh được hậu hoạn.
Xin chàng giữ gìn cẩn thận ngày sau sẽ dùng đến , trên có thể bảo vệ đất nước, dưới có thể cứu với xóm làng. Chàng nhớ cho kỹ nhé! Chừng nào chim bạch hạc đến đậu ở sân nhà chàng đó chính là ngày chúng ta tái ngộ. Nhân gian hay tiên giới, nơi nào mà chẳng có cái tình quyến luyến nhau.
Sinh từ giã bước ra khỏi phòng, bỗng chân vấp phải cái hố nhỏ ở cửa, té ngã tỉnh dậy, mới biết là mộng nhưng đôi vòng vàng do Tử Tiêu tặng vẫn còn đeo ở cổ tay chàng lấy làm lạ , dấu kín không cho ai biết.
Sau khi đến Thượng Hải làm ăn hơn mười năm đều bị thất bại, tiền của trong nhà hết sạch, Chu phải ở trong một căn nhà tồi tàn, dột nát, miễn cưỡng tránh mưa tỵ gió.
Mỗi khi gặp lúc buồn chán, chàng lại vuốt ve đôi vòng, gõ khe khẽ mà ca rằng:
Trời xanh xanh hề nước mênh mang ?
Nhân sinh hề ai kẻ vội vàng
Ðời gian dối hề ai kẻ trinh lương
Ta sinh ra hề từ đâu lại?
Ta chết rồi hề trở về đâu?
Mỹ nhân một lần từ giã, muôn ngàn cách biệt
Tương ngộ hề biết thuở nào đây?
Em tác ca hề lòng ta u sầu
Giọng ca phẫn kích như vàng rơi đá vỡ. Nhiều kẻ không hiểu biết về chàng, lên tiếng cười chê, nhưng chàng không để ý đến.
Chu cũng còn là một đồ đệ của lưu linh, tửu lượng không phải nhỏ , một lúc có thể uống mười chén tống mà không saỵ
Một tối chàng uống đến túy lúy càn khôn, rồi miên man nhập môn . Có tên trộm vặt lén vào nhà, lục lọi tìm tòi nhưng chẳng kiếm được vật gì có giá trị, ngoài mấy bộ quần áo rách và mấy quyển sách nát. Nó chợt thấy trên tay Chu có đôi vòng vàng lấp lánh sáng lạn đến hoa mắt, bèn tiến lại định lấy , chẳng ngờ khi đến gần, liền bị một luồng hào quang cực mạnh từ đôi vòng tung ra như một chiếc dây chằng trói chặt lấy tên trộm vặt, quật nó ngã xuống đất.
Sáng hôm sau Chu thức dậy , thấy có người nằm trong nhà mình, mắng cho một trận, rồi ngồi dậy, gạn hỏi tại sao dám mạo muội đột nhập vào nhà chàng, lúc đó mới biết là tên trộm vặt.
Thời gian trôi qua đã nhiều năm Chu sống tại Thượng Hải, nhưng chưa hề gặp được người đàn bà nào tương hợp.
Ở quê nhà, con chàng được bổ vào học ở Bác sĩ tử đệ, trong trường cũng có đôi chút danh vọng. Các cháu chàng, có đứa đã lên mười ba tuổi, đều theo đòi sách vở thi thự
Chu chưa hề có ý định trở về quệ Có người từng đi lại giao du với chàng hơn ba chục năm, thấy diện mạo của chàng so với ngày trước còn có vẻ trẽ hơn, rất lấy làm kỳ . Bấy giờ những tĩnh ven biển thường bị nước ngoài xâm lược quấy phá, bọn quan lại cầm quyền triều chính đa số chủ trương nghị hòa, lấy việc bồi hoàn chiến phí để giải quyết. Riêng Chu khẳng khái nói:
- Ta có cách để đuổi giặc !
Mọi người gạn hỏi, chàng chỉ cười im lặng không đáp . Gặp lúc có một chiếc tàu lớn của giặc đi xuống miền Nam va phải một mõm đá, bị thủng một lỗ lớn. Có người đến báo cho Chu biết. Chàng vuốt râu đắc ý nói:
- Hải thần hiển linh, phong long thuận mệnh, đủ thấy rằng hồng phúc nước nhà còn lớn, cái cơ hưng thịnh chưa tàn. Từ nay sẽ không còn chiến tranh, nhân dân thanh bình sẽ được vài chục năm nữa.
Từ khi được đôi vòng vàng, Chu chưa sử dụng vào việc lần nào. Nhân thế, một hôm chàng mời tất cả bằng hữu đến Ðông Sơn ở Hồ Ðộng Ðình. Từ trên đỉnh ngọn Mạc Ly Phong, chàng lấy gấm đoạn trải dài hàng mấy trăm trượng, rồi bày đại tiệc đủ các món ăn ngon mỹ vị để thết đãi họ. Những người quen biết chàng, xa gần đều lũ lượt kéo đến. Chàng còn dùng cả thuyền hoa để đón các danh ca kỹ nữ đến để múa hát giúp vui. Cứ mỗi người khách lại có một nàng kỹ nữ thị hầu, rót rượu.
Ðến lúc mọi người hứng cao rượu say túy lúy, thì Chu bước ra giữa tiệc, cầm một cây gậy lên múa bài "Hồ Toàn Vũ" , vừa múa vừa gõ vào chiếc mâm đồng vừa cạ Bỗng từ trên không có một con hạc bay xuống, lông trắng, đầu có mào đỏ, trông hình vóc rất khác thường.
Chu bèn cưỡi lên mình hạc, bay lên không trung chắp tay vài chào mọi người. Khi mọi người ngẩng đầu lên nhìn thì không còn thấy hình bóng Chu đâu nữa. Bấy giờ mới cho rằng chàng đã đắc đạo thành tiên, bay về Bồng Lai.
Có người hỏi Thiên Nam Ðộn Tẩu, tác giả "Hậu Liêu Trai" rằng Chu Thư có phải là một nhân vật thật không. Thì được Thiên Nam Ðộn Tẩu cho biết ông là chỗ giao tình thân thiết từ lâu, nhưng Chu là một người cao lớn, to béo, ngay đến bò mộng cũng không thể chịu nổi sức nặng của Chu, huống hồ một con chim hạc.
Nguyên Tác: Tòng ẩn Mạn Lục
Tác giả: Vương Thao
Last edited by minhtien384; 29-08-2008 at 11:37 PM.
Diêu cẩm, tự là Vân Tiên, một tự nữa là Tiên Thường, con gái một thế gia vọng tộc ở Bình Hồ. Nàng sinh vào hàng thứ bẩy trong các chị em, nên thường gọi là cô Bảy.
Hồi còn nhỏ, Vân Tiên không thích học nữ công gia chánh, mà chỉ say mê đàn địch ca xướng, cái gì cũng chỉ học một lần là tinh thông.
Hàng xóm với nhà Vân Tiên, có mấy anh em nhà họ Khoái, đều thuộc loại "hoa hoa công tử " rong chơi lêu lổng. Mấy anh em nhà này mời được một người thầy đờn về dạy, bèn hàng ngày vỗ đàn ca xướng cung thương cung vũ lên bổng xuống trầm. Vân Tiên ở bên vách tường nghe trộm, nhờ vậy mà lãnh hội được những điều thầy đờn truyền thụ cho anh em nhà họ Khoái. Những lúc vắng người, nàng lại cất giọng du dương ca hát, không sai một điệu. Những ca kỹ tài danh nghe nàng, đều cảm thấy không bằng , nhân thể mới gọi nàng là "Khúc Thánh" . Còn như giong ca của nàng có được tiếng đàn tiếng sáo họa theo thì nghe càng khả ái đáng yêu bội phần .
Một hôm có một thầy đồ kiết mang sách đến nhà Vân Tiên muốn bán , nhưng cha nàng đi vắng, nàng hỏi đó là sách gì ?
Ðáp:
- Ðây là cuốn "Chuyết Bạch Cừu" đã được đóng thành bộ .
Vân Tiên nhìn thấy hàng chữ nhỏ ở bên cạnh gáy sách, biết đây là một cuốn nhạc phổ , lòng mừng rỡ vô cùng, tưởng chừng như gặp được báu vật, lập tức rút chiếc trâm ngọc đang cài ở trên đầu xuống để đổi lấy sách.
Từ đấy , Vân Tiên tùy theo âm điệu ghi trong sách, tìm hiểu từng chữ một, rồi vỡ dần ra. Sau đó, nàng lại học cả thi thơ từ phú, đều như đã học trước rồi.
Chẳng những thiên tính thông minh Vân Tiên còn có một nhan sắc yêu kiều diễm lệ. Các bạn gái thân quen trong họ hàng và làng xóm, đều thẹn không được bằng nàng, lại thêm được cha mẹ yêu thương còn hơn cả ngọc quý trên tay nên xa gần nghe danh nhiều kẻ cầu hôn rắp ranh bắn sẻ, lui tới nhà nàng cơ hồ mòn ngõ. Nhưng rồi, thấp với chẳng tới mà cao cũng không thông, vì điều kiện kén rể của gia đình nàng quá khó khăn nghiêm ngặt.
Ở gần nhà nàng có Thụy Liên Am, chủ trì am là một ni cô lên là Bích Tu, không biết từ đâu đến. Ni cô lúc mới gặp Vân Tiên đã như gặp được cố tri, rất là tâm đầu ý hợp. Mỗi lần nghe nàng ca thì tâm trí ni cô tỏ ra lãnh hội, nói :
- Tiết điệu tuy đã hài hòa, nhưng âm vận vẫn chưa được lưu loát đi xa cho lắm.
Nói xong, ni cô bèn đích thân cầm đàn, lên dây nén phiếm , gảy một khúc nhạc do chính bà đã phổ. Nhịp đàn nghe du dương, trầm bổng, véo von, làm Vân Tiên tâm thần ngơ ngẩn. Khi tiếng đàn đã dứt, nhưng dư âm tưởng chừng như hãy còn phảng phất vấn vít chung quanh mấy cột nhà.
Vân Tiên tỏ ra vô cùng khâm phục, muốn xin được ni cô nhận làm đệ tử.
Ni cô nói:
- Ðây là "nghê thường vũ y khúc" , nếu thật lòng muốn học thì cũng được.
Chỉ ba ngày sau, Vân Tiên đã học được hết chỗ kỳ diệu, bí ảo của âm nhạc do ni cô truyền thụ chọ
Ni cô còn bảo riêng với nàng:
- Ta trông tướng mạo của con có khí phách anh hùng, muốn đem thêm kiếm thuật để truyền thụ cho con, nhưng không được khinh địch sát nhân. Trước sau gì thiên hạ cũng sẽ đại loạn , khi ấy dù có tinh thông đàn địch đến đâu cũng chẳng dùng được việc gì. Người ta không thể cầm đàn tỳ bà để chống chọi với giặc cướp được!
Vân Tiên cúi đầu bái tạ và xin được truyền thụ.
Ni cô bèn mở tráp lấy hai viên thuốc, một mầu trắng, một mầu đỏ, bảo nàng trai giới, tắm rửa, sau đó mới uống.
Mười ngày sau, Vân Tiên cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như loài vượn, nhưng sức khỏe thì có thể mang nổi những vật thật nặng. Sáng sáng, nàng ra trước cửa nhà tập luyện, múa đôi song kiếm người đứng ngoài nhìn chỉ thấy hàng vạn đạo hàn quang vây bọc chung quanh. tuyệt không thấy người nàng đâu. Giả như, có chim bay trên trời , chỉ cần nàng tung kiếm lên, là có thể giết được.
Vân Tiên tập luyện như thế được nửa năm thì ni cô từ biệt nàng ra đi , trước khi lâm hành có dặn dò bảo với nàng rằng :
- Về kiếm thuật như vậy là con đã học thành rồi. Vùng này không thể yên được đâu. Con hãy sớm mà tính kế trước đi.
Vân Tiên đem lời ni cô dặn bảo nói cho cha mẹ nàng biết, nhưng cha mẹ nàng lại cười, cho rằng đó chỉ là những sàm ngôn bậy bạ .
ít lâu sau đó , cả vùng Hàng Châu bị giặc cướp nổi lên như ong vỡ tổ, quan quân đại bại, bỏ chạy tán loạn. Sau đó đến lượt Tô Châu , Thường Châu cũng lần lượt rơi vào tay giặc. Dân chúng trong vùng hoảng hốt giắt díu nhau di tản. Khi vừa ra khỏi thành thì vừa lúc giặc ùa tới. Cả gia đình Vân Tiên bị giặc uy hiếp bắt đi theo, chỉ riêng mình nàng thoát được. Nàng phải ăn mặc giả làm con trai, lẩn vào đám giặc để tìm cha mẹ nhưng cuối cùng biệt vô âm lên. Nàng phẫn hận vạn phần , thề phải giết cho hết giặc mới thời. Nàng tìm đường đến thẳng ổ giặc ở Kim Lăng, làm thân với bọn tướng giặc , thường vào phủ của Thiên Vương , nên dược biết hết các cửa nẻo lai vãng, đường đi lối lại
Một tối Vân Tiên điều tra được biết là Thiên Vương sẽ mở dạ yến ở Hàn Hương Ðình. Bốn phía chung quanh đình là một mẫu đất rộng , trồng hàng vạn gốc hoa mai, lại gặp đúng mùa hoa nở, hương thơm ngào ngạt, tản mạn cánh rơi lả tả như tuyết, bay vào tận cả bàn tiệc.
Vân Tiên bắt chước ăn mặc theo lối cung nữ của giặc.
Cũng tô son điểm phấn, quần áo hoa lệ, ôm chiếc đàn tỳ bà, lẩn vào đám cung nữ để vào trong Hàn Hương Ðình.
Người dẫn đường bảo nàng cùng đám cung nữ ngồi xếp hàng ở ngoài một lan can màu đỏ, chờ lần lượt vào tiệc tấu nhạc hầu rượu.
Ðến phiên Vân Tiên, tiếng đàn tỳ bà của nàng nghe có lúc thì hùng tráng, mạnh bạo, lại lúc nghe như oán như thán, như xoáy vào tâm can phế phổi, khiến cho Thiên Vương phải hết lời tán tụng khen thưởng.
Còn người ái phi của Thiên Vương ngồi hầu bên cạnh thì nghi ngờ, lấy làm lạ, không biết Vân Tiên là người ở đâu đến, vì trong cung vốn không có ai giỏi đàn như thế mới cật vấn người tiếp dẫn, nhưng người này cũng không trả lời được, bèn hạ lệnh khám xét thân thể nàng.
Vân Tiên thấy đại sự đã hỏng, lập tức đập vỡ cây đàn tỳ bà, rút ra ngọn chủy thủ, từ xa phóng thẳng vào người Thiên Vương, nhưng ngọn chuỳ thủ lại trúng vào kẻ ngồi bên cạnh, chết tức khắc.
Bấy giờ trong cung trở nên hỗn loạn dị thường. Bọn tả hữu, kẻ đao người kiếm, đua nhau xông tới đánh chặn Vân Tiên.
Người ái phi của Thiên Vương, vốn gốc người Quảng Tây, sức vóc hơn đời, cũng vội rút thủ thương xạ kích nàng. Chỉ trong khoảng khắc, Vân Tiên đã giết được hơn trăm tên giặc, xác chết la liệt chung quanh. Cuối cùng bọn giặc vẫn không bắt nổi Vân Tiên.
Còn người tiến dẫn cùng các cung nữ tấu nhạc, tất cả đều bị Thiên Vương ra lệnh giết ngay tại chỗ.
Vân Tiên dùng cách ẩn hình, ra khỏi cung đình, đến ngụ tại một lữ quán. Ðêm đó trăng sáng vằng vặc , ánh trăng xuyên qua cửa sổ dọi vào phòng nàng. Nàng trằn trọc không sao ngủ được. Chợt nghe ngoài thềm như có tiếng chim bay bị lạc rơi xuống đất. Rồi cánh cửa phòng tự đông mở ra. Một bóng người thấp thoáng mập mờ đứng ngay cạnh giường Vân Tiên. Nàng ngồi dậy, mở mắt nhìn té ra ni cô
Ni cô bảo nàng:
- Con hành sự làm sao lỗ mãng đến thế . Trăm họ gặp phải kiếp nạn này là do thiên số. Nay muốn dùng chủy thủ để hành thích chúa giặc, như thế há chẳng nghịch với lẽ trời hay sao? Nơi đây không là chỗ tốt , con hãy mau rời khỏi ngay, cha mẹ con đều bình an vô sự, tất mười năm sau sẽ được tái hội.
Rồi rút trong ống tay áo ra hai đạo bùa, đưa cho Vân Tiên, và tiếp:
- Con cất hai đạo bùa này đi sau này khi nào có gặp tai nạn nguy cấp thì đốt, ta sẽ đến cứu. Chớ có khinh địch , dùng không phải lúc.
Nói xong, nhảy qua cửa sổ, biến nhanh như cắt.
Còn Vân Tiên cũng gói ghém hành lý lại, gấp rút rời khỏi lữ quán. Nàng đi chưa đầy mười dậm, thình lình nghe tiếng nổ như sấm. Lửa sáng ngút trời. Té ra một kho chứa hỏa dược vì bất cẩn bị bốc cháy.
Vân Tiên cảm thấy thân gái một mình, di chuyển đi lại bất tiện, bèn bỏ trâm đội mũ, thay đổi nam trang cho thuận tiện.
Nàng từ Hán Khẩu đến Tứ Xuyên, nghỉ ngơi ở Thành Ðô, ngày ngày dạo chơi du lãm núi non sông nước. Một hôm, nàng ngẫu nhiên đến thăm Hoãn Hoa Thảo Ðường, viếng tượng của Ðỗ Phủ, thì gặp một người thanh niên, dáng dấp văn nhã thanh tao, mặc chiếc áo kép màu trắng, đã có mặt ở đó từ trước, đang dựa lan can nhìn ra phía xa, ra chiều đăm chiêu tư lự.
Thanh niên thấy Vân Tiên đến, bèn bước lại thi lễ vái chào. Vân Tiên cũng cúi đầu chào đáp lại, bốn mắt giao quang, không khỏi làm nàng thẹn thùng e lệ, hai má ửng hồng. Lúc hỏi đến tính danh, mới biết người thanh niên ấy cũng là người quê ở Triết Giang, họ Tôn, biểu tự là Trù Quân, cháu của quan Thái Thú.
Trù Quân hỏi về quê quán của Vân Tiên, thì nàng đáp:
- Sau cơn binh hỏa, cả gia đình nhà đệ bị ly tán, còn đệ một thân phiêu bạt, như cánh bèo trên giang hồ, nói ra chỉ làm cho người nghe thêm sầu mà thôi.
Trù Quân bèn ân cần mời nàng về ngụ sở. Nàng cực lực khước lừ, nhưng cùng Quân đối loa, bàn luận thơ ca, kể chuyện phong cảnh quê nhà, thao thao đam mê như nước cuốn, khiến cho Quân càng thêm lòng bội phục, chỉ tiếc rằng gặp nhau quá trễ.
Lại hỏi đến chỗ ở của Vân Tiên, nàng cho biết là ngụ ở lữ quán gần Cẩm Khê phường. Khoảnh khắc thì có một người lão bộc râu dài dắt ngựa đến dân Quân. Thế là hai người phải chia tay giã biệt.
Này hôm sau , quả nhiên Quân đến lữ quán thăm Vân Tiên. thấy hành trang của nàng quá sơ sài, ngoài cầm kiếm thư tịch ra. chẳng còn gì khác. Nhân thế mới bảo với nàng :
- Sao hiền đệ lại nghèo khổ đến thế này? Nhà ta cũng gần đây hiền đệ nên dời về ở chung cho vui. Ðã là chỗ đồng hương, lại thêm đồng bối hà tất phải khăng khăng giữ kẽ với nhau làm gì .
Vân Tiên cười đáp:
- Ðệ vốn tính tình cô tịch, thích sống yên tịnh, không có thói quen ở chung với người khác chứ chẳng phải là từ chối hảo ý của huynh đâu.
Từ đấy, Quân sớm chiều lai vãng lữ quán thăm Vân Tiên. Hai người càng ngày càng tâm đầu ý hợp. Lúc thì làm thơ uống rượu, lúc thì xem hoa thưởng nguyệt. Như thế thành thói quen.
Vân Tiên chẳng những giỏi thơ phú , nhạc khí lại còn là một người tửu lượng rất cao. Ðôi khi có thể uống một lúc đến mười chén tống, mà không đỏ mặt. Những lúc rảnh rang không có gì tiêu khiển, nàng thường đem kiếm ra múa giải sầu. Gặp đêm trăng sáng, ánh trăng và ánh kiếm giao nhau, làm lóa mắt người xem. Có khi múa xong , nàng tung kiếm lên không trung hóa thành một chiếc cầu vồng bắc ngang trời, bay lượn một lúc lâu mới chịu lại xuống.
Quân tõ ra hết sức khâm phục tuyệt kỹ của Vân Tiên, nói với nàng :
- Tài năng của hiền đệ cao siêu như vậy, tiếc rằng triều đình ngày nay không biết trong dụng, để đến nỗi miền Bắc phải chịu cảnh binh lửa hoang tàn, còn miền Nam thì lâm vào cảnh cường khấu, đạo tặc giày xéo cướp bóc .
Vân Tiên chỉ cười, không đáp.
Một hôm Quân nhìn thấy trên bàn của Vân Tiên có một khúc nhạc phổ, gần đầu giường lại treo cả tiêu , cả sáo và đàn tỳ bà. Bèn hỏi:
- Vậy ra hiền đệ còn đam mê cả âm nhạc nữa?
Tiên Ðáp:
- Cũng chỉ là giúp đệ tiêu khiển thôi, chứ chưa được tinh thông lắm.
Quân cố ép nàng ca một bản, nhưng Vân Tiên không chịu.
Một buổi tối, sau khi rượu đã ngà ngà quá chén, Vân Tiên mới bảo với Quân rằng:
- Gió mát trăng thanh, trời đêm nay sao lại đẹp đến thế này? Trước đây, huynh có yêu cầu đệ ca cho huynh nghe một khúc, nay xin phá giới.
Rồi nắn phiếm buông giây, cất cao lời hát , âm thanh vi vút như gió quyện trăng rằm, ngọt ngào như rót mật vào tai, kích thích từng làn da thớ thịt.
Sau đó nàng mới bảo với Quân:
- Ðệ tạm mượn bài ca này để xin từ biệt với huynh.
- Nếu như thế hiền đê hoãn lại ít ngày chờ ta sửa soạn hành lý cùng đi luôn thé. Ta tính sang năm vào kinh ứng thí, đến nay thì đã quá nửa năm rồi. Có hiền đệ đồng hành cũng bớt phần nào cô tịch.
Vân Tiên không chịu nhưng Quân cố nài, đành phải ưng thuận và bảo với Quân rằng:
- Ðệ đồng ý , nhưng huynh phải chấp nhận điều kiện này của đệ. Nghĩa là chúng ta sẽ đồng ngụ mà không đồng phòng. Vì đệ có tính khó ngủ , khi có người ngáy nằm bên cạnh.
Quân đáp:
- Rất sẵn sàng nghe lời chỉ giáo của hiền đệ.
Rồi hẹn ngày cùng nhau lên kinh.
Hai người cưỡi ngựa rong ruổi, thưởng thức cảnh đẹp dọc đường. Khi đến Vân Giao giới Sơn Ðông thì rừng rậm cây cối âm u hiểm hốc. Thình lình nghe có tiếng tên vèo tới rồi tiếng thanh la ầm ĩ.
Từ trong rừng cũng có một người cưỡi ngựa đi ra. Té ra một thiếu nữ mặt hoa da phấn, lưng nhỏ yêu thon, chân đi hài man , mình mặc áo chân, tay cầm lưu tinh trùy, từ xa hơn mười trượng nhắm người Vân Tiên phóng tới.
Vân Tiên cũng vung kiếm lên chặn đánh, chỉ nghe tiếng binh khí chạm vào nhau xoang xoảng. Thiếu nữ thấy vậy ngạc nhiên hỏi:
- Nhà ngươi học được Bích Tu Kiếm thuật ở đâu? Môn kiếm này thây ta chỉ truyền cho nữ giới chứ không truyền cho nam giới. Lẽ đâu thày ta lại thâu hạng đồ đệ lổ mãng như ngươi. Hãy mau khai cho rõ ràng nếu không thanh bảo kiếm này sẽ không dung tha cho người đâu.
Vân Tiên cũng lớn tiếng nạt lại:
- Ðừng có lẻo mép nói nhiều, hãy mau xuống ngựa chịu trói cho rồi.
Giao phong được một lúc, Vân Tiên bị trúng kế thiếu nữ và bị bắt. Nhìn đến Quân, thì chàng cũng bị bắt trói, nằm co dưới đất như con nhím, tay chân run rẩy , mặt xám ngắt như chàm đổ.
Vân Tiên chợt nhớ đến lời ni cô căn dặn, bèn lén lấy đạo bùa của bà đã cho ra đốt. Khoảng khắc thấy bà xuất hiện, hô lớn:
- Ngọc Hoàn ? Sao nỡ bức nhau quá vậy.
Thiếu nữ vội vã xuống ngựa, phủ phục dưới đất vái chào ni cô:
- Con không dám !
Rồi nhìn sang phía Vân Tiên và Quân, hỏi ni cô:
- Còn hai người thanh niên này có phải là đồ đệ của sư phụ không ? Nếu là người xa lạ sao có cũng cùng một kiếm thuật với con.
Ni cô chỉ Vân Tiên nói:
~ Ðây chính là sư muội của con. Vốn là gái giả trai đó thôi.
Vân Tiên bèn thoát đôi hài ra cho Ngọc Hoàn thấy đôi bàn chân nhỏ như búp măng của nàng.
Ngọc Hoàn cười:
- Sao sư muội chẳng chịu nói rõ ra trước!
Rồi dùng kích chí một cái, thì dây trói trên người Quân lập lức bung ra.
Ngọc Hoàn lại nói với ni cô:
- Nhân dịp sư phụ đến đây con xin mời sư phụ cùng với sư muội ghé chơi tệ xá, để con có dịp cùng Vân Tiên hàn huyên chút tình đồng môn.
Vân Tiên cũng hỏi với ni cô:
- Chẳng hay sư tỷ con vừa rồi dùng thuật chi mà hạ được con vậy?
Ni cô đáp:
- Ðó là thuật mà người trần thường gọi là "khổn tiên tác" , nếu gặp đối phương kiếm thuật cao cường hơn, không dám chống trả thì dùng thuật này tức là ra tay trước để chế ngự địch thủ.
Và đến lúc đó Quân mới thực biết là Vân Tiên là gái giả trai, bèn nói với nàng:
- Lúc trước ta cũng có ý nghi ngờ là trên đời này dễ gì có được một người con trai nào đẹp như khanh, lại thấy khanh thường tỏ vẻ e thẹn trong những thái độ quả quyết, mạnh bạo, nay thì mới rõ hết.
Ba thầy trò ni cô đi đến một vùng sơn trang, nhà cửa có vẻ rộng rãi. Tuy rằng gác trúc, cửa giấy , vách đá, rào bằng cây dâm bụt và chuối , hoa cỏ lơ thơ, khiến cho khách lúc mới đặt chân vào, cảm thấy tất cả những tạp niệm trần gian đều bay đi hết.
Tối hôm ấy , Ngọc Hoàn giết gà thết khách thêm vào những món ăn , rau cỏ lạ lùng hiếm hoi nơi sơn dã, mùi thơm vị ngọt khác thường.
Nhân lúc Vân Tiên vào trong phòng thay đổi y trang Quân mới đem chuyện mình nửa đường đứt gánh thê nhi ý muốn tìm người nối giây cầm sắt, nên nhờ ni cô làm người mai mối, lời lẽ vô cùng khẩn khoản.
Ni cô nói:
- Ðây cũng là cái duyên thiên định, lão dù không muốn, cũng không thể làm trái ý ông tơ bà nguyệt được.
Lát sau Vân Tiên ra, ni cô thấy nàng đã thay đổi trang phục nữ nhi, bèn giải thích cho nàng rõ lý do:
- Ngày mai là ngày hoàng đạo cát nhật , có thể làm lễ thành thân được.
Ngọc Hoàn cũng sai tỳ bộc lão thu dọn ba gian phía tả để làm chỗ động vọng, có đủ lư đồng, màn chướng, gối êm chăn ấm không thiếu sự gì.
Quân thấy cách bầy biện có vẻ trang nhã sạch sẽ hoàn toàn theo lối cổ, còn hơn cả nơi dinh thự , lòng rất lấy làm mừng.
Ðến lúc hợp cẩn, tình khang lệ tương đắc như cá nước .
Sau này, hỏi đến gia thế Ngọc Hoàn, mới hay nàng vốn họ Ngô, tên chữ là Tú Loan , phụ thân từng làm quan Thủ Bị, nhân khi bọn giặc chạy đến Lâm Thanh thân phụ nàng bị thất cơ thua trận nên mất chức. Hồi còn tráng niên ông làm nghề bảo tiêu, nên thường qua lại vùng giao giới hai tỉnh Sơn Ðông, Hà Bắc Nàng khi còn nhỏ đã được cha truyền thụ côn quyền. Về sau lại gặp ni cô , nên luyện thêm được thuật lưu tinh trùy. Quê quán của nàng vốn không phải ở Sơn Ðông, nhưng theo phụ thân rồi lưu lạc đến đây, không có cách trở về quê được nữa.
Quân lúi húi khuyên nhủ nàng rằng:
- Hành nghề này không phải là kế trường cửu được, chi bằng sư tỷ về Hàng Châu cùng với vợ chồng em, ở gần Tây Hồ em có ngôi biệt thự xin nhường làm chỗ cho sư tỷ cư trú , có được chăng ?
Ngọc Hoàn cười từ tạ:
- Sư phụ trước đây đã nói là người chồng của chị không phải ở Hàng Châu mà ở kinh đô, vậy chỉ xin cho cùng được Bắc hành một lượt, cũng vui rồi.
Quân vào kinh đô khảo thí , khi treo bảng, được đậu cao, vào điện thi đậu Nhị Giáp nhập Hàn Lâm viện. Bạn đồng khoa với chàng có Vệ Văn Trang, tướng mạo khôi ngô, lại giỏi trường mâu, sức có thể địch vạn người.
Một tối, về đến chơi nhà Quân, Ngọc Hoàn đứng trong rèm nhìn thấy, mới bảo với Vân Tiên:
- Ðây chính là ý trung nhân của chị.
Rồi nhờ Quân hỏi thì được biết là Vệ cũng chưa có vợ con gì cả. Quân bèn nhận Ngọc Hoàn là em gái, rồi nhờ người đánh tiếng mai mối.
Vệ cũng hoan hỷ nhận lời, nạp sính lễ rất là hậu hĩ.
Khi đề cập đến việc học võ của Vệ thì mới hay Vệ là cao đồ của Mãng hòa thượng.
Từ đó hai nhà qua lại thân thiết như họ hàng.
Nguyên tác: Tòng ân Mạn Lục
Tác giả: Vương Thao
Last edited by minhtien384; 29-08-2008 at 11:38 PM.
Tiền Ngạc Hầu vốn người đất Thục, hôi còn trẻ đến sống ở Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang, cha mẹ đều đã qua lời sớm. Sinh một mình đơn chiếc, phải đến nương nhờ và làm quản lý cho một người bà con. Chàng là người hiếu học ham thích sách vở, nhưng vẫn chưa đỗ đạt gì. Tuy vậy thi văn của chàng cũng thuộc vào loại hợp cách, không bị thất niêm luật, lại nhờ tính tình phóng khoáng, phong độ tiêu sái, nên được nhiều người yêu mến, kính nể .
Ngoài cái tài thơ văn thi phú ra, Sinh chẳng còn gì đáng gọi là ngón hay, nghề giỏi cả. Suốt ngày thì ở trong nhà ngồi yên lặng trầm mặc, không muốn những sự phồn hoa ô trọc phiền nhiễu đến mình.
Một hôm Sinh theo bạn bè đến lãm du phong cảnh Hồ Tây ở Hàng Châu. Giữa cảnh hồ xanh núi biếc Sinh đủng đỉnh chậm bước, tâm hồn cảm thấy phơi phới, hân hoan . Chợt có một đạo sĩ tướng mạo cổ quái, râu ria xồm xoàm , tiến lại gần chàng chắp tay vái chào , nói:
- Trông tướng mạo tiên sinh có vẻ diềm đạm, quả dục nếu như lập chí tĩnh tâm lu luyện ắt sau này có thể đắc đạo thành tiên được đây.
Rồi đạo sĩ mời Sinh về am mình đem cái thuật "Thốn thổ" truyền thụ cho chàng. Chẳng những Sinh học được rất nhanh đến khi về nhà chàng lai dốc lòng kiên nhẫn tập luyện, dứt tuyệt mọi tục niệm.
Ðến tuổi trưởng thành, có người khuyên Sinh cưới vợ thành lập gia thất, nhưng chàng chẳng một mảy may động lòng, chỉ cười rồi bỏ đấy.
Lại nghe đồn núi Nga Mi nổi tiếng là thiên hạ đệ nhất danh sơn. Sinh bèn nẩy ý đến thăm một lần cho biết. Bạn bè có người lấy cái lẽ là đường vào đất Thục khó khăn, hiểm trở, để khuyên chàng đừng đi, nhưng chàng thản nhiên đáp:
- Ba Thục là quê hương cũ của tôi mà! Cổ nhân có câu nói rằng: " khách hành tuy vân lạc , bất như tảo hoàn hương" , Vả lại, có ai là người đã trưởng thành mà chẳng hề biết đến quê hương bản quán của mình đâu !
Thế rồi, Sinh nhất định khăn gói hành lý , sắp sửa lương khô, từ giã thân thuộc bạn bè lên đường.
Mới đầu chàng thuê thuyền ngược sông qua Hán Khẩu rồi đến Nghi Xương, tạm nghỉ trong một quán trọ.
Gặp ngày mưa dầm liên tiếp cả tuần , đường xá lầy lội ngăn trở không đi được, Sinh phiền muộn trong lòng, mới sai lên tiểu đồng đi mua rượu về độc ẩm, thoáng chốc đã túy lúy càn khôn , tâm thần mông lung mờ ảo. Chợt, chàng cảm thấy như có người ở đằng sau chàng mở cửa bước vào Chàng ngoái lại nhìn, té ra là người anh họ tên là Phạm Thúc Kháng, bèn cười, ngạc nhiên hỏi:
- Huynh ở đâu đến vậy. Sau chúng ta có dịp gặp lại nhau ở đây thế này?
Phạm đáp:
- Muốn đến là đến , muốn gặp nhau là gặp nhau thôi. Ðây là vì duyên tiên mà đến , chứ nợ trần tục đã hết từ lâu rồi.
Sau đó lại bảo với Sinh:
- Mưa liên tiếp mấy ngày nay, buồn thiu cả ruột sao hiền đệ không ra hậu viên chơi, cho giảm bớt cái sầu lữ khách ?
Sinh hỏi:
- Thế ra, nơi này lại còn có cả hậu viên nữa sao?
Thế hiền đệ cứ đi theo ta , ắt sẽ thấy nhiều điều hay lạ.
Sinh đi theo Phạm, qua mấy lần sân, quả nhiên thấy một tòa hoa viên ở trước mặt. Trong vườn, vạn tía ngàn hồng trăm hoa đua nở khoe sắc. Rồi loanh quanh qua mấy dấy hành lang khúc triết, hai người đến một thư hiên, có biển đề là "Ðường Hiên," bên ngoài trồng độ chục gốc hải đường, hoa nở đỏ ửng trông rất là đẹp mắt. Phía mé Tây hiên, có hai người con gái đang ngồi đối diện chơi cờ.
Một cô tay còn cầm con cờ, vẻ trầm tư suy tính, chưa muốn hạ xuống.
Sinh thấy có đàn bà con gái, muốn quay trở lại, thì Phạm cản, bảo với chàng:
- Cô ấy sau này sẽ là bạn phòng the của hiền đệ đấy , việc gì mà phải tránh.
Sinh nghe Phạm nói thế, tâm lý không hiểu muốn nói gì chỉ bước theo Phạm vào trong hiên nội. Hai người con gái thấy Phạm và Sinh thì đều ngưng chơi cờ, đứng dậy, khép nép vái chào. Sinh phỏng chừng hai nàng tuổi khoảng mười sáu , mười bảy nhưng cô nào cũng mắt trong răng trắng má thắm môi hồng , diễm lệ hơn đời.
Riêng người con gái ăn mặc theo lối cung nhân , thoạt trông thấy Sinh thì hai má ửng hồng càng tăng thêm vẽ yêu kiều nũng nịu.
Sinh hỏi danh tính quê quán. thì người con gái ăn mặc theo lối cung nhân, đáp:
- Thiếp tên là Bạch Lệ Quyên, làm cung nhân dưới thời Minh mạt, khi Sấm tặc vào chiếm kinh đô, phi tần cung nữ bỏ chạy thất tán, mỗi người một ngả. Thiếp may nhờ có người thái giám họ Trịnh cho đi theo, chạy thoát khỏi Bắc Kinh. Về sau, thiếp lại theo Phúc Vương vượt biển xuống miền Nam. Phúc Vương cho người dạy thiếp ca vũ, lúc mới đầu được ông rất là tín cẩn sủng ái. Nhưng về sau, vì thiếp nhiều lần can gián khuyên ngăn ông phải chăm lo việc chính sự , yêu thương dân chúng, không nên say mê hưởng lạc. Chẳng ngờ, ông lại nghe lời của bọn xiểm nịnh, mà dần xa cách thiếp. Chưa đầy một năm, Kim Lăng lại bị giặc vây hãm. Một lần nữa, thiếp lại phải đào vong. Lúc đó viên thái giám họ Trịnh cũng đang mang bệnh, nhưng ông ta đã cố gắng đưa thiếp đi vượt biển, nửa đường thiếp bị lạc, còn ông ta nghe nói là đã bị giặc giết trong lúc loạn quân. Ðến Nghi Xương, thiếp vào ẩn náu trong gia đình một người dân thường. nhưng vì ăn uống không nổi, chẳng bao lâu thì chết, xác được chôn dưới gốc lê, sau hoa viên của ngôi nhà này.
Nói xong, nàng rưng rức khóc, nghe hết sức thương tâm. Sinh cũng không cầm nổi lòng, chốc chốc lại buông tiếng thở dài.
Lát sau, Sinh quay sang hỏi lai lịch của người con gái kia. Nàng đáp:
- Thiếp tên gọi là Nghiêm Ngạc Tiên, quê ở làng Tuy Lý. Khi thiếp theo thân phụ đi làm quan ở Hồ Bắc thì gặp loạn, không đến nhiệm sở được: và cũng không thể quay trở về quê nhà được. Rồi ngẫu nhiên , thiếp vào trong một ngôi miếu thắp hương xin sâm hai quẻ, xem vùng nào có thể đến tỵ nạn được , may gặp một đạo sĩ. ông ta đưa cho thiếp hai viên thuốc, một màu trắng, một màu hồng, rồi dăn dò thiếp rằng:
- Hai viên thuốc này có thể quyết định vận mạng sinh tử của cô nương. Ngày nay thiên hạ đại loạn, cô nương hãy uống viên thuốc màu trắng này, tạm chết một thời gian, mượn quan quách mà ẩn thân, nhập địa hạ mà lánh nạn, tránh khỏi bọn bạo cường làm ô nhục. Còn viên thuốc mầu hồng thì khâu vào gấu áo, ngày sau sẽ có người đến cứu sống lại.
Thiếp nhận thuốc tạ ơn, thì đạo sĩ đã biến mất.
Khi về đến quê nhà, lại nghe tin giặc đã phá vỡ Nhạc Châu, sửa soạn đánh xuống miền Nam, cha mẹ thiếp hoảng hốt mang thiếp bỏ quê hương chạy trốn một lần nữa. Lúc chạy đến huyện Nghi Xương này, tiếng đồn giặc sắp đến làm náo loạn dân tình. Vì thế, thiếp bèn bỏ viên thuốc mầu hồng dấu vào gấu áo, rồi nuốt vội viên thuốc màu trắng vào miệng. Sau đó, được phụ thân đem thiếp chôn ở dưới cây hoa thước dược bên mé Tây của hoa viên này. Từ lúc uống viên thuốc màu trắng, thiếp không hề biết là mình đã chết, nhưng cũng chẳng cảm thấy phiền não, hệ lụy ràng buộc chi cả, ngay như âm ty địa phủ cũng chẳng biết ở đâu. Gặp những hôm gió mát trăng trong thì hồn phách bay bỗng lãng du , lúc trở lòng đất thì như nằm ngủ, có khi hàng tháng trời không dậy. Thiếp cảm thấy cuộc sống ở chồn dạ đài ấy vui sướng chẳng khác gì nơi tiên cảnh, còn đem so với đời sống trần gian phiền nhiểu , bi khổ ly biệt, thì khác xa một tròi một vực.
Sinh nghe nàng Ngạc Tiên nói thế thì bỗng nhiên đại ngộ , lòng riêng cảm kích ngưỡng mộ , bèn nói :
- Khanh thật quả là người đã hiểu được cái lẽ lớn của những bậc đại tiên.
Bấy giờ, Phạm mới lên tiếng bảo:
- Mới đây có người bạn nhà giàubiếu một mâm cỗ thịnh soạn , ắt hẳn là thuộc loại thịnh soạn phi phàm, xin mời quí vị cùng vào thưởng thức.
Rồi gọi tiểu đồng đem cỗ ra. Chốc lát, đã thấy ruợu thịt bày kín cả bàn , toàn những loại sơn hào hải vị , trân châu bát bửu, rượu cúc thơm lừng.
Sinh và Phạm cùng hai người con gái mỗi người ngồi trên một chiếc ghế nhỏ. Thoạt đầu , hai nàng còn tỏ ra thẹn thùng lúng túng, lời lẽ giữ gìn , nhưng sau vài tuần rượu bèn thao thao tâm sự, không còn câu thúc gì nữa.
Sinh nhân thế mới hỏi Bạch Lệ Quyên những chuyện đồn đãi trong cung cấm thời Minh mạt. Nàng cũng thành thật kể hết, không dấu diềm điều gì. Chuyện Phúc Vương đắm say tửu sắc dâm loàn , so với chính sử thì không sai nhiều lắm, đại để cũng thuộc hạng Ðông Hôn Hầu và Lý Hậu Chủ. Lại hỏi đến chuyện bà Ðồng phi có phải là vợ chính của Phúc Vương không và sao Phúc Vương lại không chịu lập bà tạ
Ðáp:
- Lúc đó trong cung cũng có người từng lén nhìn trộm Ðông phi, thấy tư dung của bà cũng thuộc vào trung đẳng , nhưng ngôn từ thái độ đúng là thuộc nhà vương giả không thể giả trá được. Lại có người nói rằng Phúc Vương lúc còn hàn vi, bất ngờ gặp được Ðông phi, nên thề nguyền kết nghĩa đồng tâm, hứa sau này tức vị sẽ lập bà làm chính phị Nhưng về sau, do quần thần tiến cử Phúc Vương mới lập con gái Kỳ Bưu Giai làm chính phi, chừng Ðông phi đến, thì địa vị mất rồi, nhân thế mà bị gán là giả mạo.
Sinh nói:
- Phúc Vương đối với tình khang lệ mà còn như thế, thì nói chi đến cái tâm của ông ấy? Phúc Vương tuy không nhận Ðồng phi là vợ, nhưng lại nhận Châu Thái Phi là mẹ, những nhà bàn luận đề chuyện ấy vẫn còn ngờ vực. Nay nghe khanh kể, ta mới vỡ lẽ.
Quyên tiếp:
- Nguyên phi của Phúc Vương là Hoàng thị mất sớm người thứ phi chính là Kỳ thị. Chuyện này, hồi thiếp còn ở Sơn âm từng được những di thần nhà Minh kể cho nghe từ đầu đến cuối.
Sinh nói:
- Chuyện khanh kể có thể bổ khuyết cho chính sử được đấy
Trong lúc hai người đàm đạo thì bầu trời bỗng trở nên quang đãng rạng rỡ. Những áng mây mờ đều đã tan đi bốn phía lộ rõ một mảnh trăng sáng hiện ra bất ngờ, soi tỏ ghế giường, lại còn sáng hơn cả cây đuốc cắm ở cột nhà.
Sinh bèn nói:
- Uống rượu ngon , ngắm hoa đẹp, đêm vui như thế này không thể không có thơ được?
Phạm cũng phụ họa theo:
- Thơ chẳng bằng ca vì ca là cái sở trường tao nhã riêng nổi tiếng một thời của hai khanh, chỉ diễn ở chốn cung đình, chứ nơi thôn dã làm sao mà có được. Chẳng hay hai khanh có thể cho lỗ tai bọn phàm phu tục tử này được nghe một vài âm giai tuyệt vời chăng ?
Cả hai nàng cùng đáp:
- Bọn thiếp đã lâu không có diễn tập, tay chân bị sơ cứng phần nào, e sợ rằng làm trò cười cho các bậc tao văn nhã sĩ mà thôi.
Sinh thấy trong hiên nội treo đủ các loại nhạc khí. Nào là đàn tỳ bà, đàn tranh, tiêu, quản sáo, địch, không thiếu món gì.
Lúc bấy giờ, Phạm bèn cầm một cây địch lên thổi, để họa với liếng ca và liếng tỳ bà của Quyên.
Giọng Quyên thanh thúy, trong vắt, như tiếng xé lụa cao vút đến tận mây xanh.
Sinh khen thưởng :
- Khúc ca này thật là tuyệt vời. Chúng ta mỗi người phải cạn hết ba chén tống mới được.
Quyên ca xong, đến lượt Ngạc Tiên. Nàng nói:
- Ðối với các bậc giai khách đêm nay, nếu đem một cựu khúc ra mà ca lại, thiếp e có phần đường đột. Gần đây thiếp mới điền xong một "khuyết tử" xin ca thử, để mời quí vị bổ chính thêm chọ
Rồi nàng cất tiếng cạ
Lời ca nghe thê thiết, thanh thoát. Giọng ca lại quyến luyến dập dìu, lãng đãng như từng đợt sóng đuổi nhau.
Sinh nghe không cầm nỗi lòng, lớn tiếng khen ngợi:
- Tuyệt! Thật không có bài ca nào có thể hay hơn được bài ca này nữa , âm thanh nghe cảm động đến tận gan phổi. Khanh quả là người thông đạt văn từ ý thú.
Phạm cũng nói tiếp:
- Ðêm nay thật là một đêm vui, không nên để lỡ.
Ðông Tây lưỡng phòng đều có giường ngủ, gối thêu nệm gấm, trang nhã mỹ lệ cũng đã sẳn sàng. Sao bọn mình chẳng vào nghỉ ngơi chốc lát mà rỉ rả chữ tình. Huống hồ, Ngạc khanh rồi sẽ sống lại mai này, chắp mối lương duyên, còn Quyên khanh cũng sẽ đầu thai vào nhà phú quý, trùng phúc tuần hoàn. Em với ta đã từ lâu quen biết, đến đêm nay mai cùng nhau giải kết điều ước nguyện trăm năm cũ .
Nói xong, đứng dậy nắm tay Quyên dắt về phòng mình, và bảo Sinh dắt Ngạc Tiên đi , làm cho hai nàng đều thẹn thùng lúng túng, đỏ hồng hai má, cử chỉ thái độ dè dặt.
Ngày thường, Sinh chưa bao giờ cận kề nữ sắc, đến đây Sinh đành cười, tự bảo mình:
- Mình tìm đạo mà đến, chẳng ngờ lại phá giới mà đi.
Phạm hiểu ý mới bảo:
- Hiền đệ tâm thuật còn non kém nông nổi lắm!
Sinh dắt Ngạc Tiên vào trong phòng tắt đèn rồi ngồi đối diện với nàng.
Ngạc Tiên bảo Sinh:
- Từ sau ngày ly loạn, cỏ cây hoa lá khô cằn tan nát, lâu đài tình tạ ngả nghiêng đồi hoại, không còn cái quang cảnh ngày xưa nữa. Ngay cả ngôi nhà này nay cũng đã ba lần đổi chủ rồi. Xin chàng ghi nhớ cho kỹ là mộ phần thiếp được chôn ở dưới gốc một cây đa trong ngôi vườn này. Chàng cứ nói lại với chủ nhân rằng, trước kia trong lúc loạn lạc phải chôn tạm một người bà con ở vườn này bây giò hòa bình xin được đem hài cốt về quê nhà cải táng.
Hôm sau trời chưa sáng rõ đã thấy Phạm vội vã chạy lại gõ cửa đánh thức Sinh và Ngạc Tiên dậy, rồi nói:
- Quyên sắp sửa đi đầu thai, có muốn tiễn đưa nhau thì đến.
Lai bảo với Ngạc Tiên :
- Khanh cũng nên cùng Quyên cầm tay giã biệt lần chót, để trọn cái tình bầu bạn với nhau hai mươi năm qua , hoặc giả có lời hò hẹn mật ước lai sinh gì chăng.
Sinh cùng Ngạc Tiên theo chân Phạm ra đến cửa vườn đã thấy Quyên ngồi sẵn trong một cỗ xe sang trọng , chừng như sắp sửa đăng trình. Quyên thấy Ngạc Tiên đến dáng vẻ bùi ngùi như muốn khóc bèn ghé vào tai nàng thì thào mấy câu, nhưng người xa phu đã vung roi cho ngựa chạy , phút chốc không còn thấy tông tích, hình dáng gì nữa.
Sinh cũng cảm thấy buồn trong lòng, tưởng như vừa mất một vật gì quí báu lắm. Ngạc Tiên bèn cầm tay áo Sinh có ý muốn kéo chàng cùng đi với mình, nhưng Phạm vội ngăn lại, nói:
- Chưa tới giờ đâu.
Rồi cầm cán quạt gõ nhẹ vào đầu chàng một cái, bất giác Sinh tỉnh dậy. Chỉ nghe tiếng chuông trên lầu điểm canh tư, tiếng đứa tiểu đồng nằm bên cạnh ngủ mê khò khè. Chàng vươn vai ngồi dậy, lẩm bẩm một mình:
- Giấc mộng lạ thật?
Qua song cửa sổ, trời đã có sắc hồng. Sinh ngồi lan man nhớ lại mộng cảnh, không sao ngủ lại được nữa.
Sau khi rửa mặt, Sinh cho mời chủ nhân lữ quán đến bảo:
- Ngày trước tôi có trọ ở quán này một thời gian ngắn mấy tháng. Bây giờ, tôi thấy không còn được như cũ nữa chủ nhân cũng đã vài lần thay đổi, nhưng cảnh sắc vẫn phảng phất một vài đôi nét. Tôi còn nhớ phía sau quán này có một hoa viên lớn , nay không biết có còn hay không ?
Chủ nhân đáp:
- Vườn ấy nay người ta đã phá đi để trồng rau rồi. Dầu vậy vẫn còn lại được vài chục gốc vừa đào, vừa mận, vừa lệ Hôm nay nhân trời nắng đẹp , xin mời quí khách dạo chơi một vòng.
Sinh theo chân chủ quán. Ra đến nơi, quả thấy một vườn rau thật rộng. Nhiều khoảng đất còn bỏ trống, chỗ lồi chỗ lõm, mang vết tích của những ao chuôm đình tạ.
Lại gặp đúng mùa hoa nở , trăm hoa đua sắc, vạn tía ngàn hồng thật diễm lệ dị thường.
Sinh thả bước đi vài vòng quanh vườn. Vô tình, chàng thấy một cây bích đào , cành đầy hoa nở, chúm chím rung rinh lay động trước những cơn gió mát nhẹ nhàng. Trên cây có một con chim nhỏ không biết loại gì, cánh xanh móng đỏ trông rất là khả ái. Nó thấy Sinh đến thì nhảy nhót, truyền tới truyền lui, hót líu lọ Chàng phỏng chừng xác Ngạc Tiên được chôn ở dưới gốc cây đào ấy bèn đem chuyện thuật lại cho chủ nhân nghe để xin đào lên, nhưng chỉ mới gần ba thước đã thấy một chiếc quan tài, gỗ vẫn còn tốt chưa hư hao gì. Sinh đi mua một chiếc quách lớn, đựng quan tài vài bên trong, rồi trở về quê, không còn ý đi Thục nữa.
Về đến nhà, Sinh đặt quan tài ở trong nhà quàn, ban đêm đến mở nắp ra , thấy nhan sắc Ngạc Tiên vẫn còn tươi tốt như sống. mới lần trong gấu áo của nàng, quả nhiên tìm được một hoàn thuốc, vội vàng mài với nước rồi đổ vào miệng Ngạc Tiên. Chỉ nghe ọc ạch mấy tiếng, lát sau đã thấy tay chân da thịt của nàng ấm lại , rồi hai mắt chớp chớp mở ra , trong sáng như sao.
Ngạc Tiên bảo Sinh:
- Thiếp muốn ngồi dậy một chút được không ?
Sinh đở nàng ngồi dậy nhìn kỹ , quả là một tuyệt đại giai nhân , thiên hương quốc sắc , khó có thể thấy trên đời.
Ðến lúc đó, Ngạc Tiên mới hoàn toàn tĩnh lại , buồn bã thở dài:
- Hai mươi năm trời , thật như một cơn mộng ảo !
Nguyên tác: Tòng ân Mạn Lục
Tác giả: Vương Thao
Last edited by minhtien384; 29-08-2008 at 11:38 PM.
Lý Ðỉnh, tên tự là San Thần, hiệu là San Hô Ngư Phủ, người Ngô Giang. Năm mười sáu tuổi Lý đã được
lên học ở tỉnh, nổi tiếng về văn chương.
Lý lại là người tính tình hào phóng, không thích bị bó buộc câu thúc vì lề lối thi cử của loại "bát cổ văn chương "
Ngoài thi từ, chàng còn có tài vẽ nhân vật, rất được người đời hâm mộ. Nhân thế, khách gần xa đến mua tranh của chàng đứng chờ đầy cả cửa. Lý e phiền lụy dời cư đến Hán Khẩu, cất một ngôi nhà năm gian nằm sát ven bờ sông, hiên song rộng rãi. Những thuyền buôn, hay du ngoạn trên sông, đều phải ngang qua nhà chàng.
Thỉnh thoảng, Lý lại ra ngồi câu ở ngoài mái hiên có khi dựa lan can ngắm nhìn trăng lên để tiêu khiển.
Một hôm, vào lúc hoàng hôn, chàng đang quanh quẩn ở ngoài hành lang, chợt thấy một con thuyền nhỏ từ
thượng lưu suối theo dòng thủy triều đi xuống, Trên thuyền có một thiếu phụ và hai người con gái. Người thiếu phụ ước chừng khoảng ba bốn chục tuổi. Thiếu phụ tuy già, nhưng phong vận vẫn còn mặn mòi, cử chỉ lại nhẹ nhàng, nho nhã, nhàn hạ như một người thuộc hạng giầu sang khuê các. Còn hai người con gái đều vào khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, mắt trong răng trắng, tư dung diễm tuyệt, đẹp chẳng thua kém gì tiên nữ.
Chỗ nhà Lý ở, phía tay trái có chùa Thiên Hậu là nơi cư ngụ của cao tăng.
Lý nghe tiếng người thiếu phụ hỏi người lái đò:
- Ðường còn xa quá, không có chỗ ngủ tối nay, chẳng biết nhà chùa có thể cho chúng tôi tá túc được không?
Tiếng người lái đò trả lời:
- Trong chùa toàn là các nhà sư , e bất tiện. Quanh vùng này bà không có người nào họ hàng thân thích sao?
Lý nghe hai bên đối đáp như vậy, lại thấy thiếu phụ có vẻ lo lắng bồn chồn, bèn nói:
- Nếu bà không chê, xin mời bà vào tệ xá nghỉ ngơi tạm một đêm cũng được.
Tiếng người lái đò đáp:
- Như quả được công tử giúp cho thì còn đi chỗ nào hơn nữa! Rồi quay lại thì thầm bàn với thiếu phụ. Chỉ thấy người thiếu phụ gật đầu tỏ ý đồng tình. Lý bèn xuống dẫn mọi người lên bờ, mời vào trong nhà.
Nhà Lý vốn chỉ là một ngôi lầu nhỏ năm gian trống, không có người ở, duy thư tịch sách vở, tranh vẽ bầy đầy cả nhà Song cửa đều rộng rãi sáng sủa, bàn ghế sạch sẽ không có lấy một hạt bụi. Lý thấy thiếu phụ lộ vẻ vui mừng, bảo với hai người con gái:
- Thật là không ngờ, lại được vào tá túc tại một nơi trần thiết trang nhã thế này.
Khi hỏi đến tính danh, nghề nghiệp của Lý, mới hay chàng cũng là người am hiểu rành rọt về ngành hội họa.
Rồi vô tình mở tranh của Lý ra ngắm, lòng tỏ rất yêu thích, nâng niu không muốn rời tay, nhỏ nhẹ bảo với
chàng :
- Những tranh này đều do tay tiên sinh vẽ?
Lý khiêm nhợng :
Cũng ngẫu nhiên cầm bút mực vẽ để tiêu khiển mà thôi, chứ bàn về sáu cách vẽ thì thật tình lấy làm xấu hổ
lắm, chẳng dám bàn. Lại hỏi:
- Tôi thấy tranh nhân vật của tiên sinh vẽ thật không thua gì tranh của danh họa Cừu Ðậu Phủ, mà ngay cả
danh họa đời nay cũng ít có người so sánh đợc. Vậy chẳng hay, diện mạo của ba chúng tôi có thể làm cho người trong tranh của tiên sinh được chăng?
Lý đáp:
- Chỉ e rằng tay nghề non kém, làm hỏng dung nhan Tây Tử, bằng như không chê, xin phép được cầm bút vẽ ngaỵ
Sau đấy, Lý tập trung tinh thần, tỉ mỉ quan sát nhìn ngắm, im lặng một hồi lâu, mới cầm bút, trải giấy ra, tay
uyển chuyển vẽ thoăn thoăn như có sức thần trợ lực. Chỉ một lát, đã hoàn thành xong bức họa, dung mạo diễm tuyệt và phong tư yểu điệu của những người khách, chẳng thua gì danh họa Cố Khải Chi vẽ người đẹp Bùi Hài, rạng rỡ sinh động như người thật.
Thiếu phụ và hai người con gái thấy thế, rất lấy làm hoan hỷ sung sướng, không ngớt lời khen ngợi tài năng
của Lý, nói:
- Ðây quả thật là tay bút của hóa công ! Vẽ truyền thần là phải do có nhỡn thần mới vẽ được.
Ở trên ìâu, hai bên tả hữu là hai phòng ngủ có sẵn màn gối, chăn đệm đầy đủ, rất là trang nhã sạch sẽ. Lý
dành riêng cho khách chia nhau nghỉ, còn chàng thì xuống ở dưới lầu. Lại sai tiểu đồng chuẩn bị rượu thịt, rau trái để đãi khách. Chỉ vừa hết câu chuyện, đã thấy bầy biện đủ cả Thiếu phụ còn có thể uống được vài chung rượu, chứ hai người con gái chỉ cầm đũa lấy lệ, rồi ăn mấy trái cây mà thôi.
Sáng hôm sau, đến lúc mặt trời đã mọc cao bằng ba con sào, trên đâu vắng tanh, không nghe thấy có tiếng chân người, Lý mới sinh nghi, bèn đi lên thì thiếu phụ và hai người con gái đều biến đâu mất. Bên cạnh gối để lại bẫy hạt minh châu và hai chiếc vàng . Chiếc nào cũng trạm khắc long phụng trông rất là tinh sảo tuyệt mỹ, mà người phàm e khó có thể làm nổi. Còn những hạt minh châu hột nào cũng to bằng hột nhãn, mỗi hột cũng đáng giá cả ngàn vàng.
Lý kín đáo dấu vào trong một chiếc tráp, cẩn thận không dám lấy ra cho người ngoài xem. Riêng bức họa mà chàng vẽ cho thiếu phụ thì vẫn còn nằm trên ghế, không kịp mang đi theo.
Lý mở tranh ra coi, thấy có đề mấy chữ "Hán Cao thu phiếm đồ," kèm với bài thơ:
Nhất khả yên ba phiếm thủy hương
Lâm lưu lâu các cận tà dương
Kinh hồng cố ảnh hà nhân kiến
Ngũ bách niên tiền tự chủ trương
Phong hoàn vụ mấn thủy vân thường
Tả nhập đồ chung diệc miễu mang
Nghi thị Trương Khiên đa tạc không
Thiên hà phi hạ Ðỗ Lan Hương
Lý nhìn bút tích đẹp đẽ, mềm mại uyển chuyển rõ ra nét chữ của đàn bà khuê các, chàng cho là do tiên viết, nên càng trân trọng quý hóa như bảo vật, dùng gấm cổ trang hoàng bao bọc, rồi mới các bậc danh sĩ tiếng tăm đề vịnh .
Bấy giờ Lý cũng đã quá tuổi hai mơi, các nhà thế gia đại tộc cho người mai mối rất nhiều, thêm nữa cha chàng cũng nóng lòng có cháu đích tôn, muốn hỏi vợ cho chàng.
Nhng Lý đem bức họa ra bảo với cha:
- Nếu không được người đẹp như trong tranh này thì con nhất định không có lấy vợ.
Cha chàng cười bảo:
- Thế gian này làm gì có người nào tư dung diễm lệ đến thế. Có chăng thì ở cung trăng.
Rồi cứ ép Lý đi hỏi một người con gái nhà nọ.
Lý lấy làm không vui, vin cớ đi thi để được xa nhà.
Nhưng đến ngày treo bảng, thì chàng lại có tên, bèn viết thơ về báo cho cha rằng chàng phải đi lên kinh đô gấp tìm nhà trọ học, việc cưới vợ xin hoãn lại, đợi đỗ đại khoa cũng chưa muộn.
Rồi chàng theo đường Sơn Ðông ra Bắc, nghỉ ngơi trong một lữ quán. Ngẫu nhiên một hôm, chàng ra ngoài tản bộ, bỗng nhiên có một chiếc xe thật đẹp, do ngựa kéo từ phía Tây chạy như phi tới. Trên xe có hai thiếu nữ, dung nhan tuyệt thế, Lý tưởng chừng như đã quen biết gặp gỡ nhau ở đâu rồi, bèn chắp tay đứng đợi ở bên lề đường.
Thiếu nữ ngồi trong xe vén rèm lên, ngoái ra ngoài hỏi Lý:
- Công tử có phải Lý lang không đấy? Bây giờ ở đâu? Thiếp sẽ cho người đánh xe lại đón công tử về nhà để thù tạ đáp lại cái ơn ăn nhờ ngủ đậu đêm nào.
Lý đáp:
- Ở quán "Bồng Lai" cách đây vài chục căn. Người thiếu nữ nghe Lý nói xong thì buông rèm tủm tỉm cười,
cho xe chạy thật nhanh, thoáng cái đã không thấy đâu nữa. Lý cũng lật đật trở về quán trọ.
Mãi đến lúc trời bắt đầu nhá nhem tối, Lý mới thấy một người lão bộc già, râu thật dài, đánh xe ngựa đến đón.
Lý thay bộ y phục mới, rồi lên xe cầm cương ngựa. Xe chạy như baỵ Nhà cửa, đất đai, cây cối cứ vèo vèo chạy đến chóng mặt. Chỉ lát sau, xe đã vào đến địa giới Ðăng Châu. Khi xe ngừng, người lão bộc xuống trước, hô to:
- Ðến nơi rồi!
Nhưng Lý chỉ thấy núi non âm u thăm thẳm trùng điệp, tòng bách cao ngất trời, suối khe rì rào tuôn chảy rồi hợp thành một thác lớn trắng xóa. Ðến lúc đó, chàng mới cảm thấy tâm thần gân cất thật vô sảng khoái. Giữa một vùng thung lũng sâu, nhấp nhô những mái nhà so le, nhưng cực kỳ nguy nga hoa lệ .
Người giữ cửa đưa Lý vào trung đường, mời chàng tạm ngồi chờ một lát cho a hoàn vào báo với chủ.
Một lát, có mấy đứa tiểu tỷ để tóc trái đào đón Lý đi theo. Rồi qua mấy lần lâu các thì vào đến nội đường . Bên tả nội đường là một gian nhà chái, song mây cột móc, màn gấm lan trạm, giữa sân cỏ hoa rối rắm, hương thơm ngào ngạt.
Lý bước chân vào, lòng nghi ngờ không phải cảnh trí nhân gian. Một lát sau, thì thiếu phụ với hai nữ lang ngày nọ đi ra đón chào Lý, và nói:
- Bữa cơm ngày ấy, vẫn hằng ghi nhớ trong lòng.
Hôm nay, tiểu nữ may gặp được công tử ở giữa đường. Như thế cũng có thể gọi là cái duyên. Ngày thi cũng còn lâu mới đến, bất tất phải vội vã tiến kinh làm gì, công tử sao chẳng dọn về đây mà ở năm sáu tháng, cho hai tiểu nữ được nhận là thầy, học hỏi thi, thư , họa pháp. Ngày sau thành tài, là đều nhờ ơn của công tử.
Lý hết lời ân cần cảm tạ, không dám nhận làm thầy.
Thiếu phụ nói:
- Công tử từ xa đến, hẳn chưa ăn gì, chắc là cũng đói rồi? Rồi lập tức sai sửa soạn tiệc rượu ở ngay phòng khách, thức ăn đồ nhắm sơn trân hải vị đầy bàn, không thiếu một món gì.
Thiếu phụ ngồi đối diện với Lý, còn hai cô gái ngồi hai bên, thù tạc hết chén này đến chén khác, mãi đến lúc Lý ngà ngà say mới chịu về phòng, tắt đèn lên giường năm ngủ .
Sáng hôm sau, hai người con gái đến thụ giáo Lý ôn tồn hỏi han gia thế, mới hay các nàng họ là họ Sơn, vốn dòng giòi đại gia phiệt duyệt cuối triều nhà Minh, vì chạy loạn nên dời cư từ Yên Kinh đến chốn này. Người chị tên là Ðại tự là Mỹ Tiên, còn người em tên là Thúy, tự là Bích Tiên, đều mười lăm tuổi vì là chị em song sinh. Cả hai đều thông minh dĩnh ngộ khác thường, chỉ cần Lý chí điểm một lần, đã lãnh ngộ được chỗ huyền diệu của họa pháp và thư pháp.
Các họa phổ tàng trữ trong nhà hai nàng, đều là những thủ bút của các họa sĩ danh tiếng lừng lẫy.
Người chị nói với Lý:
- Gần đây nghe đồn các họa phẩm của Uẩn Nam Ðiền rất được thủy phủ yêu thích tàng trữ, những ai đi thuyền đi qua sông, mang theo tranh của nhà danh họa này đều bị giao long đoạt mất. Ðó là điều cũng nên biết.
Lý cư trú tại nhà hai nàng đã hơn mười ngày. Mọi việc sai bảo, hầu hạ, chạy đi chạy lại đều do bọn nữ tỳ lo liệu. Mỗi ngày hai bữa, sáng và chiều, Lý thường được thiếu phụ cùng hai cô gái đến bồi bếp, ngoài ra tuyệt không có một ai khác đến đây cả.
Lý còn được biết cả hai cô gái đều chưa hứa gả cho ai, bèn đem ý mình tỏ bầy với thiếu phụ, thì thiếu phụ
cũng có vẻ bằng lòng đáp ứng, nhưng bảo với Lý rằng:
- Hai con tôi đều chưa có chỗ nào thật đấy được rể hiền như công tử, cũng là điều mãn ý lắm rồi, nhưng cần có người mai mối xứng đáng. Vậy hãy chầm chậm vài ngày, đợi chú em nhà tôi đến, mới quyết định được.
Ba ngày sau, quả có khách từ phương xa đến gõ cửa.
Khách mặc nhưng phục, lưng đeo trường kiếm, cử chỉ oai phong lẫm liệt. Cô chị bảo với Lý:
- Ðây chính là thúc thúc đấy.
Lý lấy lễ hàng cháu để tương khách, rất mực cung kính, trong lúc truyện trò đàm luận, Lý biết chú hai nàng tên là Tuyên, tự là Trọng Hằng, từng làm đến Tổng Binh, hiện là Ðề Ðốc tỉnh Quý Châu, có nhiều công lao trấn giữ biên cương danh vọng rất lớn.
Người chú hai nàng cũng tỏ rất là ngưỡng mộ Lý. Sau đó, chọn ngày lành tháng tốt để làm lề thành hôn cho hai nàng với Lý, đúng theo phép chị em Nga Hoàng Nữ Anh lấy chung một chồng ngày xưa. Và tuy là chung một chồng, nhưng trong đạo phu thê ân ái, hai chị em Mỹ Tiên và Bích Tiên không xây ra sự bất hòa xích mích.
Lý sống với hai nàng được nửa năm, bấm đốt ngón tay thấm thoắt sắp đến kỳ thi, chàng tính tạm từ biệt hai nàng để phó kinh dự thí, bèn đem chuyện ra bàn, thì hai nàng đều nói:
- Tục cất của chàng thật là khó chữa? Ðược đọc sách hay, được ngắm hoa lạ, điều lạc thú này dù có quay về hướng Nam mà xưng vương xưng đế, chắc gì đã bằng, hà tất phải lăn lộn chen lấn vào chốn danh lợi làm gì?
Lý cho là phải. Từ đấy, chàng không còn lưu tâm đến việc tiến thủ công danh nữa. Phía sau ngôi nhà của vợ chàng có một hoa viên rộng hơn mười khoảnh , có đầy đủ lâu đài đình tạ, cây cối suối đá, lớp này lớp khác liên miên, dù có đi một tuần cũng không hết. Lại còn các loại chim muông, cầm thú kỳ lạ hiếm hoi, cỏ hoa quý báu, phần lớn không biết tên là gì.
Thỉnh thoảng, Lý cùng hai nàng dạo chơi du ngoạn đến lúc mệt mỏi, lại ngủ đêm ở vườn. Cảnh trí quanh
vùng, đa số đều rất đẹp và lạ lùng. Có con thác cao cả ngàn trượng giống như một giải lụa bạch từ trên trời đổ xuống. Từ bề bốn bên là non xanh núi biếc, khói mây biến ảo tươi tết rậm rạp như một kỳ quan. Những nơi Lý cùng hai nàng đi qua, đều có đề thơ rồi thuê thợ khắc vào đá, đủ mọi loại tự thể.
Hai nàng cười, bảo với Lý:
- Chàng khắc tước tổn hại đến xương cốt của núi non, nhất định sẽ làm phiền lòng thần núi đấy!
Lý đáp:
- Khắc chữ vào đá núi, cũng chỉ nhằm mục đích để dễ tìm sau này có đi trở lại.
Hai nàng lại nói:
- Phàm đã có nơi đến thì khỏi cần tìm nơi đi, và hễ đã có nơi đi thì lại không có nơi trở lại nữa. Xin chàng hãy nhớ kỹ lời bọn thiếp nói ngày hôm nay, để sau này kiểm chứng.
Lý sống trong núi như vậy được hơn mười năm, bỗng một hôm, tình cố hương thức dậy, lòng buồn rơi lệ bảo với hai vợ chồng rằng:
- Cha mẹ ta đều đã già cả, ắt là phải nhớ đến ta đã lâu ngày xa cách, huống hồ lại chỉ có mình ta là trai, không được hầu hạ dưới gối, mỗi khi nghĩ đến, thì lại thêm xấu hổ? Ta muốn đem song thân đến đây để phụng dưỡng, cùng hưởng hạnh phúc, chẳng hay có được chăng?
Hai nàng đáp:
- Ðó là cái tâm hiếu thảo của chàng, bọn thiếp nào đâu dám lưu giữ chàng ở lâu làm gì .
Rồi sai nhà bếp sửa soạn tiệc rượu tiễn hành.
Người mẹ được tin cũng ra từ biệt Lý.
Hai nàng vừa chuốc rượu mời Lý vựa khóc, nước mắt đầm đầm rơi vào chén ngọc và bảo với Lý:
- Lang quân hỡi lang quân? Một lần từ giã, biết bao giờ mới lại gặp nhau đây.
Lý đáp:
- Chỉ tạm thời chia tay thôi, hà tất phải bi thảm quá thế.
Sau đó đưa tiễn Lý ra ngoài rồi mới từ biệt Lý lên ngồi chiếc xe đã đưa chàng đến, chỉ nghe thấy gió thổi
bên tai vù vù. Chớp mắt đã về đến ngoài thành Ngô Giang.
Khi Lý xuống xe để hỏi han tin tức, lúc ngoảnh lại đã không thấy xe đâu nữa. Về đến nhà, Lý thấy cha mẹ đều khang an mạnh khỏe.
Mấy tháng sau, Lý trở lại Ðăng Châu, tìm đến chỗ cũ, nhưng chỉ thấy núi non trùng điệp, sông nước mênh mông, không còn vết tích gì cả.
Lý buồn rầu rơi lệ, đành quay trở về nhà.
Nguyên tác: Tòng ân Mạn Lục
Tác giả: Vương Thao
Last edited by minhtien384; 29-08-2008 at 11:41 PM.
Chư Sĩ Tuấn, tên chữ là Hiểu Bình, ngụ cư tại Bì Châu tỉnh Sơn Ðông. Cha chàng là một vị Hiếu Liêm nổi
tiếng làm giáo thụ ở Tế Nam.
Sinh đậu Tiến sĩ lúc còn rất trẻ, nhưng chỉ ham đọc sách, không tha gì đến việc tiến thủ nơi quan trường.
Chàng cùng mấy người bạn tâm đầu ý hợp, sống ẩn dật ở Mông Sơn, dựa vào chân vách núi, dựng nên một phong cảnh tuyệt mỹ, có đủ cả suối trong, non bộ, hoa tươi cổ thụ. Giữa lưng chừng núi đã có sẵn từ trước một ngôi chùa cũ, mái xanh tường đỏ, điện đường cao ráo rộng rãi. Ða số các hòa thượng đều tỏ ra nỗ lực tu trì khổ hạnh.
Ngôi chùa chỉ cách chỗ ở của Sinh chừng độ trăm bộ.
Trong chùa trồng đủ các loại hoa mẫu đơn, năm sắc khoe màu, hương thơm ngào ngạt, không đâu bằng. Mỗi khi gặp mùa hoa nở, nam thanh nữ tú đua nhau đến ngắm, nối đuôi nhau không dứt.
Một hôm, Sinh ngẫu hứng đi lại quanh quẩn dưới chân núi, thấy một đám thiếu nữ, quần hồng áo tía, kết
thành đoàn, phần đông là gái nhà quê, hoặc giả thành thị, nhưng chả có cô nào đáng gọi là giai nhân cả, nên Sinh cũng chẳng hề lưu tâm đến.
Mãi đến lúc mặt trời sắp lặn, bóng ô đã gác đầu non, du khách đều đã mệt mỏi, sau một ngày du ngoạn. Sinh cũng tính đóng cửa để vào nhà, thì chợt từ xa, chàng thấy có hai con a hoàn để tóc trái đào, dẫn một người con gái, khoan thai tiến lại.
Người con gái coi ý tứ, thái độ có vẻ phong nhã, linh hoạt, khác hẳn các cô gái khác. Lúc đến gần, Sinh thấy quả là một trang quốc sắc, diễm tuyệt trần hoàn. Chàng nhủ thầm trong bụng, vùng thôn trang quê mùa này, lẽ nào lại có người đẹp đến thế. ý chừng hẳn là người từ phương xa lại.
Lát sau, lại thấy người con gái từ trong chùa đi ra.
Cũng lại đi ngang qua cửa nhà Sinh, bấy giờ chàng còn đứng đó. Thế là hai người vô tình bốn mắt nhìn nhau.
Người con gái e thẹn cúi đầu bước đi.
Sinh những muốn cùng nàng bắt chuyện, nhưng không tìm được cơ hội, thì vừa may, người con gái vì cấp bách bước đi, để rơi chiếc khăn tay xuống đất, Sinh vội vã chạy lại nhặt lên, hô gọi con a hoàn để trả cho nàng.
Người con gái nói mấy lời tạ ơn Sinh, khóe thu ba long lanh đưa đẩy, càng làm cho Sinh cảm thấy chứa chan thâm tình, bất giác hồn tiêu phách tán ngẩn người ra như tượng gỗ.
Người con gái đi được chừng hơn mười bộ, thì quay lại rút trong ống tay áo ra một chiếc khăn tay bằng lụa trắng, bên trong gói một vật, trao cho con a hoàn để đưa lại cho Sinh và nói:
- Vật này chẳng biết có phải ông tú đánh rơi đó chăng?
Sinh sợ người ngoài nhìn thấy, vội vã dấu vào trong bụng, quí như được vật báu vua ban.
Trước khi đi, người con gái còn nói với a hoàn:
- Trước cửa nhà mình có hai câu liễu, tơ buông phơ phất mỗi khi có gió thổi, trông rất đẹp mắt. Trong vườn trồng chuối xen lẫn hoa đào nở. Như quả ông tú có dịp đi hội đạp thanh ngang qua, thì xin mời ông ấy vào chơi uống chén trà xanh nhá.
Người con gái cố ý nói cho Sinh nghe thấy. Lời nói dịu dàng, nhỏ nhẹ mà líu lo như tiếng chim oanh hót trên cành hoa.
Nói xong, nàng cùng hai con a hoàn vội vã đi về hướng Ðông.
Còn lại mình Sinh tâm thần ngơ ngẩn, nhìn theo cho đến lúc bóng người con gái đã khuất mới chịu vào trong nhà. Bấy giờ mới mở chiếc khăn tay bằng lụa màu trắng của người con gái ra coi, thấy bên trong có gói một con ve sầu làm bằng ngọc, sắc trắng trơn tru nhẵn nhụi, điêu khắc rất là tinh mỹ tỉ mỉ, không phải là vật thuộc thời đại bây giờ.
Sinh quí báu như bảo vật, đêm ngày đeo bên người.
Vài hôm sau, Sinh nẩy ý muốn đi tìm tông tích của người con gái, bèn sửa soạn dung mạo, áo quần cho thật chỉnh tề đắc ý, rồi mới khởi hành. Chàng men theo đường đi về hướng Ðông. Ði được vài dặm, quả nhiên gặp một thôn nhỏ, ước chừng năm sáu nóc nhà lơ thơ, cửa gỗ, nhìn xuống suối, bên trên có chiếc cầu nhỏ bắc xéo ngang.
Sinh bước sang cầu, rồi men theo bờ suối đi về hướng Ðông. Từ xa đã thấy một tòa nhà mới chỉnh trang lại, tường quét vôi trắng có vẽ hình chữ Vạn của nhà Phật.
Trong vườn đủ cả hoa đào, hoa mận, hoa lê, hoa hải đường trăm hoa đua nở, lại được gió đông phe phất đưa đẩy, hương thơm ngào ngạt đến tận gan phổi.
Sinh nhủ thầm trong bụng, đây hẳn là nhà của người con gái, tuy vậy chàng cũng chưa dám liều đến gõ cửa, chỉ bồi hồi chậm bước đi đi lại lại, hy vọng có gặp được người nào chăng.
Mãi một lúc thật lâu, Sinh thình lình nghe tiếng mở cửa ken két, rồi hai con a hoàn từ trong nhà bước ra, tay bưng một lẳng hoa. Sinh vội vã tiến gần lại, ân cần hỏi thăm tin tức. Hai con a hoàn cũng nhận ra Sinh, bèn hỏi họ tên của chàng, rồi nói:
- Chủ nhân hôm nay đến Thê Hà Sơn để học đạo, trong nhà chỉ còn có đàn bà con gái, không tiện giữ ông tú lại để khoản đãi biết làm sao bây giờ.
Sinh hỏi hai đứa a hoàn đi đâu, thì chúng đáp:
- Ðem lẳng hoa này sang biếu các chị em ở xóm bên.
Sinh ngắm nhìn lẳng hoa, thấy đủ mọi loại.
Hai đứa a hoàn lại nói:
- Lẳng hoa này do đích thân tay A Cô kết thành đấy.
Sinh hết lời khen ngợi sự thông minh mẫn tiếp của người con gái. Ðứa a hoàn lại nói:
- Xin ông tú tạm thời đứng chờ một chút, đợi chị em tôi đi xong việc trở về, sẽ vào thông báo cho A Cô biết, hoặc giả có mời ông tú vào chơi chăng?
Một lát sau, hai đứa a hoàn trở lại, rút từ trong tay áo ra một cái túi đưa cho Sinh xem và nói:
- Món này là quà của cô Thiến bên xóm Ðông tặng ông tú, chẳng hay vật gì thiếu.
Sinh chỉ cười không đáp, cầm lấy vật cất đi.
Hai đứa a hoàn đi vào trong nhà rồi trở ra, dẫn đường cho Sinh theo, đi vòng qua mấy bụi dâm bụt, vài bụi chuối, và hơn trăm gốc bích đào đang độ khai hoa thì đến một phiến cửa bằng gỗ, rồi mới vào cửa trong.
Ðứa a hoàn lại dặn bảo Sinh:
- Chỗ này kề cận với ngọa thất của A Cô, lượt sau ông tú có đến, đừng đi lối cửa trước. Gia quy của chủ
nhân rất là nghiêm ngặt, nếu bị bắt gặp thì nguy hiểm lắm đấy ! Lúc mở cửa, Sinh đã thấy người con gái dựa bên cột nhà đứng chờ, đon đả cười đón Sinh, nói:
- ông tú thật là người giữ chữ tín!
Sinh thấy trú phòng gồm có ba gian, rất là trang nhã sáng sủa. Ðồ đạc trần thiết toàn một thứ đỉnh đồng, lư hương và các loại đồ cổ hiếm trên đời. Trên án thư có hơn mười bộ thiếp 'Au hương quán tập" của Uẩn Nam Ðiền, có lẽ là do người con gái tự tay mô phỏng chép lại, vì chữ của nàng trông rất giống chữ họ Uẩn. Lại còn một tập thi cảo, đề tên là "Hồng Nhuỵ Cận Cảo."
Sinh định mở ra đọc, nhưng ngời con gái vội vàng giữ lại, nói:
- Nay hãy tạm bàn gẫu chút đã, làm gì có thời giờ đàm luận học vấn văn chương lúc này!
Sinh ngẩng đầu lên nhìn, thấy một tấm biển đề " Lục thiên thâm xứ." Nguyên do vì bên ngoài song cửa có trồng nhiều chuối và ngô đồng.
Ðến lúc đó Sinh mới biết người con gái là Vương tự là Thiềm Hương, lại còn một tự khác nữa là Tiểu Quyên.
Trong lúc hai người trò chuyện, đàm đạo, Tiểu Quyên thỉnh thoảng lại pha lẫn âm giọng men Ngô quận. Sinh hỏi duyên cớ.
Nàng ớ áp :
- Lúc còn bé thiếp theo mẹ đến sống ở Kim Sương. Ðến năm mười bốn tuổi thì mẹ thiếp qua đời, thiếp mới đến đây sống với phụ thân. Cha thiếp là người ham thích đạo thuật. ông đi Thê Hà Sơn rồi, có thể sẽ đi lãm du ở vùng biển nữa, chắc chắn là phải hơn một tháng mới về, chàng cứ tạm ở đây đừng lo lắng gì cả.
Tiểu Quyên lại lấy ra một quyển sách nhờ Sinh giải nghĩa. Sách đề là: " Xam Ðồng Khê "
Sinh vốn chẳng biết gì về nội dung của loại sách này, nhưng nhờ vào những tiết mục của sách, nên cứ cắt nghĩa bừa đi, khiến cho Tiểu Quyên phải bưng cười khúc khích, nói :
- Chàng đúng là người ở ngoài môn này rồi.
Sau đó sai sửa soạn tiệc rượu ở ngoài trúc hiên đình.
Nàng cùng Sinh ra trước. Khi đến nơi, Sinh thấy nào là giả sơn non bộ, tre trúc mọc đầy, xanh hồng vui mắt chỗ đầy chỗ thưa, nghiêng ngả coi rất là nhã chí. Vào đến bên trong đình, quần áo đều ánh lên tươi rọi như màu ngọc biếc.
Tiểu Quyên sai người đem rượu "Lục bích tửu " rót mời Sinh. Vị rượu vừa ngọt, lại vừa cay, Sinh tập một hớp, nói :
- Chà? Thứ rượu này ngon quá.
Sau đó, uống liền một lúc mười chén tống, bụng cảm thấy hơi men túy lúy, ngà ngà. Tiểu Quyên cũng đã có phần chếnh choáng, và lúc đó trời đã về khuya rồi, nàng bèn sai hai con a hoàn cầm đèn đưa Sinh về ngủ ở phòng nơi hành lang phía Ðông.
Nơi đây, giường ghế trạm trổ rất là tinh mỹ, lại sẵn chăn thêu nệm ấm. Sinh nghĩ ngủ một mình cô độc, có
phần sợ hãi, nên bảo hai đứa a hoàn ở lại bần bạn, nhưng cả hai đều từ chối không chịu, cầm đèn bỏ đi.
Bên ngoài chỉ nghe tiếng gió nổi vi vụ Bóng trăng mông lung mờ ảo. Sinh ngồi một mình bên song cửa,
trong cảnh u tĩnh, cô liêu, càng cảm thấy hiu hắt buồn chán. Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng búng gõ nhè nhẹ.
Sinh ra mở cửa. Té ra là Tiểu Quyên.
Nàng mặc chiếc áo lót chẽn tay, tóc búi hơi cao, càng tăng thêm vẻ yêu kiều diễm lệ khả ái.
Nàng cười bảo với Sinh:
- Ðể chàng phải cô đơn tịch mịch một lúc, có oán thiếp không đấy? Thiếp phải chờ cho hai đứa a hoàn ngủ, mới dám lại.
Rồi cởi quần áo treo lên giá ở bên cửa sổ, liếc mắt đưa tình nhìn Sinh, sau đó chủ động chui vào mùng trước .
Sinh bấy giờ cũng không cầm nổi lòng, bèn lên giường cùng nàng xoắn xuýt, mây mưa mặn nồng, không kể ra hết được.
Ðến mãi lúc trời sáng, nghe có tiếng chuông chùa lanh lảnh, Tiểu Quyên mới mặc quần áo vào người để đi
rạ Nhưng Sinh cố lưu lại.
Nàng nói:
- Sợ hai con a hoàn nó biết, rồi thì thào đồn đãi, làm chúng mình không thể kéo dài chuyện này lâu được nữa.
Buổi sáng dậy, người đến hầu hạ Sinh bưng thau rửa mặt, pha trà, quét tước, sai bảo đi lại, đều là hai đứa a hoàn.
Sinh thấy thế, mới hỏi:
- Nhà ta không có đầy tớ hay sao, mà phải phiền hai em bận rộn vất vả vậy?
Hai đứa đáp:
- Nhà cũng có một bà lão giữ chìa khóa để đóng cổng mở cổng, chưa từng đặt chân vào ngọa thất của cô nương lần nào. Còn bọn bộc dịch thì đều lo việc ở trên sảnh đường, có chuyện cần bẩm báo thì gõ vào tấm ván gỗ làm hiệu, chỉ phục thị chủ nhân mà thôi. Nơi đây tuyệt không có tin tức gì hết.
Sinh hỏi họ tên của hai đứa a hoàn thì được biết một đứa tên là Tiếc Hoa, và một đứa tên là ái Nguyệt, tuổi đều khoảng chừng mười lăm, nhan sắc cũng diễm lệ khả ái cử chỉ thái độ lại nũng nịu dễ yêu, nhí nhanh uyển chuyển nh chim yến ríu rít bên ngời.
Sinh cợt nhả, ôm cả hai đứa vào lòng, rồi bế để ngồi lên đùi. Hai con a hoàn cũng đùa bỡn kề má, sờ tóc, vuốt ve thịt da Sinh, khiến chàng dục niệm nhúc nhích.
Giữa lúc chàng sắp sửa cùng hai đứa a hoàn bước lạc vào thiên thai, thì Tiểu Quyên đã trang điểm xong, thình lình đi ra bắt gặp.
Nàng cười, nói:
- Hai con tì tử ngốc nghếch này, nếu hơi nhờn mặt, thì không còn trên dưới thể thống gì nữa.
Cả hai đứa a hoàn đều ngượng nghịu, đỏ hồng đôi má như say rượu , rồi cười tủm tỉm bỏ đi.
Từ đấy, Sinh và Tú Quyên ngày thì bàn luận bút nghiên, đêm thì gối chăn vân vũ, ái ân đằm thắm, chẳng
khác gì chim hồng chim nhạn họa ca trên vân lộ, chim phỉ thúy đùa rỡn chốn lan thiều.
Vui vẻ như vậy được hơn một tháng.
Một hôm, bỗng ngoài sảnh đường có tiếng gõ ván làm hiệu, người lão đưa tin vào nói là chủ nhân đã từ Lao Sơn trở về cần gặp Tiểu Quyên để bàn chuyện.
Tiểu Quyên hấp tấp dấu Sinh vào chỗ màn kép, rồi vội vã đi ra.
Một hồi lâu mới trở về, chau mày sau mặt, nói với Sinh:
- Hôm nay nguy quá, nếu thiếp chẳng phải là người giỏi biện bác, thì chuyện chúng mình ắt bị lộ rồi. Phụ thân thiếp bảo là thiếp lúc này mặt mày rạng rỡ tươi tỉnh, không giống ngày trước, hết lời căn vặn truy vấn. Thiếp trả lời là vì mấy ngày gần đây được đọc sách Trang Tử, thiên Thu Thủy, nên lãnh ngộ được phần nào. Thôi, bây giờ thì chàng không thể ở lại đây lâu được nữa.
Nói xong, tháo chiếc vòng ngọc ở cổ tay ra, đưa tặng Sinh và tiếp:
- Chiếc vòng này là do ngoại phiên tiến cống dưới triều Tùy, tàng trữ trong cung, ngoài dân dã không ai có được Rồi nàng lại lấy từ trong rương ra một cái túi, đổ ra hơn một trăm viên ngọc nhỏ bằng hạt đậu, trao cho Sinh, nói:
- Chàng dùng số ngọc này bán đi mà mua sắm hành trang tiến kinh khảo thí. Thiếp sẽ gặp lại chàng ở Hán
Khẩu, xin chàng đợi ít lâu, thiếp sẽ tự đến.
Sau đó, Tiểu Quyên sai hai con a hoàn đưa Sinh ra lối cửa sau.
Khi chàng về đến nhà, các bạn đồng môn hỏi chàng đi đâu, Sinh nói dối quanh quéo cho xong, rồi khăn gói quả mướp tiến kinh.
Họ hàng thân tộc, có người thấy thế cười, bảo:
- Việc ông tú học đạo chỉ là lời nói cửa miệng, chứ không, sao cái bụng công danh lại sôi nổi đến thế!
Sinh không lý đến những lời nói của họ, cứ thuê thuyền đi Hán Khẩu ngaỵ Ðến nơi, chàng kiếm một nơi
vừa kín đáo vừa yên tĩnh để trú ngụ còn tên tiểu đồng thì cho ở căn phòng phụ.
Một tối, chàng ngồi lặng lẽ bên đèn, tưởng niệm đến cố nhân, rồi đi tới đi lui hiu quạnh. Chợt nghe ngoài thềm hình như có tiếng chim bay rơi xuống đất, lòng hoài nghi bèn ra mở cửa, té ra là hai đứa a hoàn của Tiểu Quyên đang đứng ngay trước cửa.
Hai đứa a hoàn nói:
- Cô nương nghĩ chàng một mình quán trọ cô đơn, nên sai bọn em đến trước cùng chàng bầu bạn cho khuây khỏa. Nhất tiễn song điêu, chàng thật là người có phúc, được hưởng cả.
Rồi sắp gối trải khăn, cùng Sinh quấn quít, vô cùng hoan lạc đê mệ
Việc xong, Sinh hỏi thăm Tiểu Quyên bao giờ mới đến, thì hai đứa a hoàn đều bảo là nàng đi đường bộ, tính ra cũng phải mất mười ngày.
Ðến kỳ hạn, Sinh cùng hai đứa a hoàn thuê xe ra ngoài ngoại ô đón Tiểu Quyên. Một lát thấy một chiếc xe phủ màn gấm, do một người lão bộc râu dài kéo, chạy tới như phị
- Cô nương? Cô nương? Xin ngừng lại.
Sinh nhìn thấy Tiểu Quyên đã thay đổi trang phục theo lối người Tô Châu, nhan sắc lại càng mặn mòi kiều
diễm. Rồi cùng về cả chỗ Sinh trú ngụ, ăn ở với nhau như vợ chồng .
Chừng khi Sinh lên kinh đô dự thí, chỉ một lần đã đỗ, được nhập Hàn Lâm Viện. Chàng nói thác Tiểu Quyên là vợ lấy ở quê nhà, rồi đem nàng về ngụ sở. Quan trên quan dưới thấy mặt Tiểu Quyên cho nàng là tiên nữ giáng phàm.
Từ đấy Sinh tuyệt không đến thư quán ở Mông Sơn, sợ rằng thời gian trôi đi uổng phí. Còn Tiểu Quyên lại chỉ quen uống loại trà hái trên đỉnh Mông Sơn, Sinh phải tìm mọi cách mua về cho nàng.
Một tối, Tiểu Quyên nửa đêm tỉnh giấc, ngồi khóc thút thít. Sinh gạn hỏi thì nàng không đáp, Sinh phải khéo léo an ủi mãi, nàng mới nói:
- Phụ thân thiếp đã biết là chàng lấy thiếp, nên muốn đón thiếp về ngay, sợ rằng sự chia ly của chúng mình sẽ xây ra trong nội nhật ngày mai thôi.
Sinh nói:
- Nếu vậy thì dù có phải cùng khanh trốn đến thiên nhai hải giác, ta cũng đi theo.
Nàng đáp:
- Vô ích! Duyên hết thì phải chia lỵ Tình cạn thì phải chấm dứt. Thiếp chưa từng thấy trên đời này có cặp vợ chồng nào sống bất tử đâu. Chàng cứ coi là thiếp đã chết rồi.
Sinh nghe nói thế, lòng ngậm ngùi thi lệ, không vui, thề cùng nàng tử sinh.
Tiểu Quyên phải an ủi chàng:
- Chàng sớm đỗ đại khoa, chính là phải đem cái thân hữu dụng ra giúp nước, làm quan thì tận tâm với dân, ở nhà phụng thờ cha mẹ, đó là bổn phận của chàng ngày nay, còn quyến luyến nhi nữ nào có ích gì? Thiên hạ đàn bà đẹp cũng nhiều, hà tất phải như thiếp . Vả, thiếp Với Chàng, duyên tuy tận, nhưng tình chưa dứt, vẫn còn hy vọng. Chàng cố kiên trì học đạo, ngày sau sẽ có ngày tác ngộ.
Ngày hôm sau, quả nhiên trời đất bỗng tối sầm, sấm sét nổi lên đùng đùng, nhà cửa chấn động, đến khi mây tạnh mưa tan, không còn thấy Tiểu Quyên và hai con a hoàn đâu nữa.
Nguyên tác: Tòng ân Mạn Lục
Tác giả: Vượng Thao
Last edited by minhtien384; 29-08-2008 at 11:41 PM.