Một hôm, một bác nông dân rút ở xó nhà ra chiếc gậy gỗ trăn rồi bảo vợ:
- Này nhà ạ, tôi đi ba ngày nữa mới về đấy. Nếu lái bò có đến mua ba con bò nhà ta, thì nhà bán rẻ cũng được, nhưng phải lấy hai trăm đồng, kém thì đừng có bán nghe chưa.
Vợ đáp:
- Nhà cứ việc đi đi, cầu trời phù hộ. Tôi ở nhà sẽ làm đúng lời nhà dặn.
- Chà! Khi nhà còn bé đã có lần ngã đập đầu xuống đất, đến giờ vẫn còn bị ảnh hưởng. Nhưng tôi dặn nhà nhớ, nếu nhà làm gì vớ vẩn, tôi về sẽ đánh cho thâm tím mình mẩy bằng chiếc gậy tôi đang cầm trong tay đây này, đến một năm cũng vẫn còn vết lằn, tôi nói không ngoa đâu.
Nói rồi bác ta đi.
Sáng hôm sau, lái bò đến. Bác gái cũng không phải nói nhiều lời. Hắn xem bò xong, hỏi giá rồi nói:
- Tình giá ấy được thôi, thật là giá chỗ bà con. Để tôi mang bò đi ngay.
Hắn tháo dây buộc, lùa bò ra khỏi chuồng. Khi hắn dắt bò ra khỏi sân thì bác gái nắm lấy tay áo hắn bảo:
- Bác phải đưa tôi hai trăm đồng đã, không thì tôi không để cho đi đâu.
Lái bò đáp:
- Được, được thôi. Ấy tôi quên không mang theo hầu bao. Nhưng bác đừng lo. Bác cứ yên chí, thế nào tôi cũng trả sòng phẳng. Này nhé, tôi mang đi hai con bò thôi, còn con thứ ba tôi để lại làm tin.
Bác gái cho việc ấy là minh bạch, để cho tên lái mang bò đi và nghĩ bụng:
- Thầy nó thấy mình khôn ngoan thế chắc là mừng lắm đấy.
Đến ngày thứ ba, bác nông dân đúng hẹn về nhà, hỏi ngay xem bò đã bán chưa. Bác gái đáp:
- Dĩ nhiên là bán rồi, thầy nó ạ. Mà như thầy nó dặn, bán đúng hai trăm đồng. Bò nhà mình thì cũng chẳng đáng giá ấy đâu, nhưng bác lái thuận mua luôn, chẳng cò kè gì cả.
Bác trai hỏi:
- Thế tiền đâu?
- Tôi chưa cầm. Bác lái quên mang theo hầu bao nhưng bác ấy mang lại ngay đấy. Bác ấy có để vật làm tin rất chắc chắn.
Bác trai hỏi:
- Của tin gì thế?
- Bác ấy để lại đây một trong ba con bò làm tin, trả tiền xong mới dắt nốt đi. Tôi khôn lắm, thầy nó ạ! Tôi giữ lại con bé nhất vì nó ăn ít nhất.
Bác trai tức quá, giơ gậy lên định cho bác gái một trận đòn như bác đã bảo trước. Nhưng rồi bác lại hạ gậy xuống nói:
- Bu mày thật là ngu như bò, ngu nhất trần đời này. Nhưng tôi thương hại bu nó quá. Thôi để tôi đi ba ngày nữa xem có gặp ai ngu đần hơn bu mày không. Nếu gặp, thì sẽ tha cho bu mày. Nếu không gặp thì tôi nhất định cho bu mày một trận đòn nên thân.
Bác đi theo đường cái rồi ngồi trên một hòn đá, đợi xem sự việc ra sao. Bác thấy một chiếc xe đi tới. Trên xe chỉ có một người đàn bà đứng chứ không ngồi trên đống rơm ở ngay trên xe mà cũng không đi bộ dắt bò bên xe. Bác nghĩ bụng đây hẳn là người ngu đần mình đang tìm, liền nhảy xuống và chạy loăng quăng trước xe y như người mất trí. Người đàn bà bảo bác:
- Ơ bác kia! Tôi có quen biết gì bác đâu? Bác ở đâu đến đây?
Bác nông dân đáp:
- Tôi ở trên trời rơi xuống đấy. Không biết làm cách nào lên trời lại được. Bác có đưa tôi lên được không?
Người kia đáp:
- Không được đâu. Tôi có biết đường đâu. Nếu bác ở trên trời xuống thì bác làm ơn cho tôi hỏi thăm nhà tôi ra sao. Thầy nó đã chầu trời được ba năm nay. Chắc là bác có gặp thầy nó nhà tôi.
- Có, có tôi có gặp bác trai. Lẽ dĩ nhiên là mọi người không phải ai nấy đều ổn cả đâu. Bác trai chăn cừu cũng lôi thôi rắc rối lắm, nó nhảy lên núi, nó lạc vào bãi hoang, bác trai cứ phải luôn đi tìm để hợp đàn. Quần áo mắc vào bụi rậm rơi từng mảnh, phơi cả da thịt ra. Trên ấy không có tuyết, thánh Pêtrut không cho ai vào, như bà nghe chuyện cổ tích đã biết đấy.
Người đàn bà kêu lên:
- Chết chưa, có ai ngờ đâu nông nỗi ấy! Để tôi đi lấy bộ quần áo ngày chủ nhật còn treo trong tủ ở nhà, để thấy nó mặc cho lịch sự. Nhờ bác làm ơn mang giúp cho thầy nó nhé!
Bác nông dân đáp:
- Không được đâu. Không thể mang quần áo lên trời được đâu. Đến cổng trời là bị thu đấy.
- Này bác ạ, hôm qua tôi bán chỗ lúa tôi được khá tiền muốn gửi lên cho thầy cháu. Nếu bác giấu tiền hộ vào túi chắc chẳng ai biết đâu.
- Cũng được thôi! Để tôi giúp bác.
Bác kia nói:
- Thế bác ngồi đợi đây, tôi cho xe về nhà lấy tiền rồi trở lại ngay. Ấy tôi không ngồi trên đống rơm, mà đứng trên xe để cho bò kéo đỡ nặng đấy.
Bà ấy thúc bò đi. Bác nông dân nghĩ bụng:
- Bà này hẳn có máu dở người. Nếu bà ta về lấy tiền thật thì may cho mẹ ** nhà mình khỏi bị trận đòn.
Một lát sau, bà ta mang tiền chạy tới nhét vào túi bác. Trước khi đi, bà ta còn đa tạ lòng tốt của bác mãi.
Bà về nhà thì gặp con trai ở ngoài đồng về. Bà liền kể cho con gặp chuyện bất ngờ như thế nào và bảo:
- Mẹ mừng là gặp may gửi được cho thầy mày ít quà. Có ai ngờ được là ở trên trời mà cũng còn bị thiếu thốn!
Con ngạc nhiên quá bảo:
- Mẹ ạ, ít khi có người ở trên trời rơi xuống như thế. Để con đi ngay xem có gặp không. Để hỏi bác ta xem trên ấy ra sao, làm ăn thế nào.
Anh ta đóng yên ngựa vội vã ra đi. Anh thấy bác nông dân đang ngồi ở gốc cây liễu, định đếm tiền trong hầu bao. Anh gọi to hỏi:
- Bác có gặp người ở trên trời rơi xuống không?
Bác nông dân đáp:
- Có, bác ta lại đi về rồi, bác ta trèo lên đỉnh núi kia để đi cho gần. Anh chịu khó phi ngựa thì đuổi kịp đấy.
Anh thanh niên nói:
- Chà! Tôi làm suốt ngày, vất vả, lại phi ngựa đến đây thì mệt lử rồi. Bác biết người ấy, bác làm ơn cưỡi ngựa này đến nói khéo cho người ấy thuận lại đây hộ.
Bác nông dân nghĩ bụng gã này cũng lại tàng tàng. Bác bảo:
- Thôi thì để tôi giúp cậu vậy!
Bác trèo lên ngựa phóng nước đại. Gã thanh niên ngồi đợi đến đêm cũng không thấy bác nông dân trở về. Anh nghĩ bụng chắc là người kia vội vã về trời nên không muốn quay lại và bác nông dân đã đưa cả ngựa cho người ấy mang cho bố mình rồi. Anh quay về kể lại chuyện cho mẹ, nói là đã gửi ngựa cho bố để bố khỏi phải đi bộ. Mẹ bảo:
- Con làm thế là phải. Con có đôi chân còn vững, đi bộ cũng được.
Bác nông dân về đến nhà, nhốt ngựa vào chuồng cạnh con bò giữ làm tin. Bác bảo vợ:
- Bu mày ạ! Bu mày may lắm nhé! Tôi gặp hai người còn ngu đần hơn cả bu mày cơ. Lần này, tôi tha đánh bu mày, để dành dịp khác.
Rồi bác châm điếu hút thuốc, ngồi vào chiếc ghế bành tứ đại và bảo:
- Thật là món bở. Đổi hai con bò còm lấy một con ngựa béo, lại thêm một hầu bao đầy tiền. Nếu ngu đần mà lại như thế này thì mình cứ là trọng ngu đần mãi.
Bác nông dân nghĩ vậy, nhưng hẳn là các bạn còn thích những người đần độn hơn.
Ngày xưa có một ông vua đi săn ở một khu rừng lớn, vì vua đuổi theo một con thú hăng quá nên quân hầu không ai theo kịp. Tối đến, vua đứng lặng nhìn quanh, thấy mình đã bị lạc đường, không tìm được lối ra. Bỗng vua thấy có một mụ già, đầu lắc lư đi tới: đó là một mụ phù thủy. Vua bảo mụ:
- Này cụ, cụ có thể làm ơn chỉ cho tôi lối ra khỏi rừng được không?
Mụ đáp:
- Tâu bệ hạ, được chứ. Cái đó già làm được, nhưng với một điều kiện mà nếu bệ hạ không chấp nhận thì bệ hạ không bao giờ ra được khỏi rừng này và sẽ chết đói ở đây.
Vua hỏi:
- Điều kiện gì hở cụ?
- Già có một đứa con gái đẹp nhất đời. Bệ hạ chưa từng thấy ai đẹp đến thế đâu, thật xứng đáng làm vợ vua. Nếu bệ hạ đồng ý lấy nó làm hoàng hậu thì già sẽ chỉ đường cho bệ hạ ra khỏi rừng.
Trong lúc hoảng sợ, vua bằng lòng ngay. Mụ già dẫn vua đến ngôi nhà nhỏ của mụ. Con gái mụ ngồi bên lửa. Cô đứng dậy ra đón vua ngay, như đã sẵn sàng chờ vua đến. Vua thấy cô tuyệt đẹp nhưng không thích, nhìn cô, vua cảm thấy rờn rợn. Sau khi vua đặt cô lên mình ngựa thì mụ chỉ đường cho vua. Vua về đến cung điện làm lễ cưới.
Nguyên vua đã lấy vợ một lần và hoàng hậu sinh được bảy con, sáu trai một gái, vua yêu quí vô cùng. Sợ người dì ghẻ đối với con mình không tốt mà còn có thể làm khổ chúng nữa vua đưa chúng đến ở một tòa lâu đài hiu quạnh giữa rừng sâu. Lâu đài rất kín, đường đi đến khó mà tìm được, chính vua cũng không tìm ra đường nếu không được một bà lão cho một cuộn chỉ có phép lạ. Khi vua ném cuộn chỉ về phía trước, nó sẽ tự gỡ ra và chỉ đường cho vua.
Nhà vua luôn luôn đi thăm các con yêu dấu, nên hoàng hậu để ý đến sự vắng mặt của vua. Mụ dì ghẻ tò mò muốn biết vua đi vào rừng một mình làm gì. Mụ bèn cho thị vệ của vua nhiều tiền, chúng nói lộ bí mật cho mụ biết và nói cả đến cuộn chỉ biết đưa đường. Mụ bứt rứt không yên tâm, mãi cho đến lúc mụ tìm ra được chỗ vua để cuộn chỉ. Mụ bèn may một số áo lót bằng lụa trắng và khâu bùa vào vì mụ học được ít phép của mẹ.
Một hôm, vua ruổi ngựa đi săn vắng, mụ mang áo đi theo cuộn chỉ dẫn đường vào rừng. Bọn
trẻ thấy từ xa có bóng người đến tưởng là cha yêu dấu, vội vui mừng chạy lại đón. Mụ bèn tung trùm lên mỗi đứa một cái áo, áo vừa đụng vào người thì chúng biến ra thiên nga bay vượt qua rừng biến mất. Mụ hớn hở về nhà, tưởng là đã trừ được lũ con chồng. Nhưng mụ không ngờ là còn cô con gái không chạy ra đón cha cùng các anh.
Một hôm, vua đến thăm các con thì chỉ thấy con gái thôi. Vua hỏi:
- Các anh con đâu?
Cô đáp:
- Trời ơi, cha yêu dấu! Các anh con đi mất rồi, bỏ lại mình con.
Rồi cô kể cho vua nghe cô đứng ở cửa sổ nhìn thấy những gì, các anh cô hóa thiên nga bay qua rừng thế nào, và đưa cho vua xem những lông chim cô nhặt được ở ngoài sân. Vua rất buồn bã nhưng không ngờ là hoàng hậu làm việc độc ác ấy. Vua sợ cô gái cũng bị mất nốt nên định mang cô đi cùng. Nhưng cô sợ dì ghẻ nên xin vua hãy để cô ở lại tòa lâu đài trong rừng đêm ấy nữa. Cô gái đáng thương nghĩ bụng:
- Mình không thể ở đây lâu được nữa, mình phải tìm các anh mới được.
Đêm đến, cô trốn vào rừng. Cô đi suốt đêm hôm ấy cả ngày hôm sau, mãi đến lúc mệt quá không đi được nữa. Lúc đó, cô thấy một chiếc lều hoang. Cô bước vào thì thấy một căn buồng có sáu chiếc giường nhỏ. Nhưng cô không dám nằm vào chiếc nào, mà chui xuống nằm ở gầm giường, định ngủ đêm đó trên nền đất rắn.
Nhưng tới lúc mặt trời sắp lặn cô nghe có tiếng lào xào và thấy sáu con thiên nga bay qua cửa sổ chui vào. Chúng ngồi xuống đất, thổi lẫn cho nhau, cho bay hết lông; bộ lông thiên nga trút ra như một chiếc áo lót. Cô gái nhận ra các anh mình, mừng lắm, chui ở gầm giường ra. Các anh trông thấy em cũng mừng rỡ chẳng kém. Nhưng vui chẳng được bao lâu, các anh bảo em:
- Em không ở đây được đâu. Đây là sào huyệt của bọn cướp, chúng về thấy em sẽ giết em mất.
Em hỏi:
- Thế các anh có cách nào che chở em không?
Các anh nói:
- Không, vì mỗi tối, các anh chỉ có thể trút bộ lông thiên nga, hiện nguyên hình người trong một khắc đồng hồ, sau đó lại phải biến thành thiên nga.
Em khóc hỏi:
- Thế không có cách nào giải thoát các anh à?
Các anh đáp:
- Không được đâu! Khó lắm. Trong sáu năm, em không được nói được cười. Trong thời gian ấy, em phải may cho các anh sáu chiếc áo lót nhỏ bằng hoa thúy cúc. Nếu em nói nửa lời là công toi hết.
Các anh vừa nói xong thì một khắc đồng hồ đã qua, các anh lại biến thành thiên nga bay qua cửa sổ mất. Cô gái nhất định giải thoát cho các anh, dù có phải hy sinh tính mạng. Cô rời bỏ chiếc lều hoang, vào giữa rừng, leo lên cây ngủ đêm. Sáng hôm sau, cô đi hái hoa thúy cúc và bắt đầu khâu áo. Cô chẳng nói năng được với ai mà cũng chẳng buồn hé miệng cười. Cô chỉ ngồi một chỗ chăm chú làm.
Một thời gian đã qua. Vua xứ ấy cùng thợ săn vào rừng tìm thú, đến cây cô ngồi. Họ gọi cô:
- Cô hãy xuống đây với chúng tôi, chúng tôi không hại gì cô đâu.
Cô chỉ lắc đầu. Họ hỏi dồn mãi, cô liền ném xuống cho họ chiếc dây chuyền đeo cổ bằng vàng, tưởng làm như thế cho họ yên đi. Nhưng họ vẫn không chịu thôi, cô liền vứt chiếc thắt lưng của cô xuống. Thấy vẫn chưa ổn cô vứt thêm nịt bít tất, rồi dần dần vứt tất cả các thứ mặc trên người có thể vứt được, đến nỗi cô chỉ còn chiếc áo lót. Những người thợ săn không vì thế mà chịu lùi. Họ trèo lên cây, bế cô xuống đưa đến trước mặt vua. Vua hỏi:
- Nàng là ai? Nàng ngồi trên cây làm gì?
Cô không đáp. Vua dùng đủ các thứ tiếng vua biết mà cô vẫn câm như hến. Nhưng cô đẹp quá khiến lòng vua rung động. Vua yêu cô tha thiết. Vua khoác áo ngực cho cô, đặt cô lên kiệu ngồi trước mình đưa về cung điện. Vua cho cô mặc quần áo sang trọng, cô đẹp lộng lẫy như một ngày nắng đẹp, nhưng cô vẫn không nói nửa lời. Vua đưa cô lại ngồi ở bàn ăn, cho ngồi bên mình. Dáng điệu nhu mì và e lệ của cô khiến vua rất hài lòng. Vua nói:
- Ta thiết tha muốn lấy cô này, ta không lấy một ai khác trong thiên hạ đâu.
Mấy hôm sau, vua lấy nàng. Vua có một bà mẹ ghẻ độc ác, không bằng lòng với đám cưới
này, và nói xấu hoàng hậu trẻ tuổi. Bà bảo:
- Không biết cái con này ở đâu ra mà nó không nói năng gì được. Nó không xứng đáng làm vợ vua.
Hơn một năm sau, khi hoàng hậu sinh con đầu lòng. Mụ bắt trộm đi và lừa khi nàng ngủ bôi máu vào mồm nàng. Rồi mụ tâu vua là nàng ăn thịt người. Vua không tin, không để ai làm hại
nàng. Lúc nào nàng cũng ngồi khâu áo lót, ngoài ra không để ý đến cái gì khác. Lần sau, nàng lại sinh một đứa con trai kháu khỉnh. Mẹ ghẻ quỉ quyệt lại lừa vua như lần trước. Vua vẫn nhất định không tin lời mụ. Vua bảo:
- Nàng trong sạch và tốt bụng, không thể làm việc ấy đâu. Nếu nàng nói được và có thể tự bênh vực được thì sẽ minh oan được. Nhưng đến lần thứ ba, mụ già lại ăn trộm đứa bé mới đẻ và lại tố cáo hoàng hậu. Nàng vẫn không nói nửa lời để minh oan. Vua không làm khác được phải đưa nàng ra tòa xử. Nàng bị kết tội chết thiêu.
Đã đến ngày hành hình, cũng là ngày cuối cùng của thời gian sáu năm không được nói, cười, ngày nàng sẽ giải thoát được các anh khỏi yêu thuật. Sáu chiếc áo lót đã khâu xong chỉ còn thiếu cánh tay áo chiếc cuối cùng. Khi nàng bị dẫn đến đống củi, ở dưới sắp châm lửa, nàng nhìn quanh thì thấy sáu con thiên nga bay trên không lại. Nàng cảm thấy mình sắp được cứu thoát, lòng mừng khôn xiết.
Thiên nga bay rào rào tới chỗ nàng, sà xuống thấp để nàng có thể ném áo lót lên tới được. Áo vừa đụng chim thì lông thiên nga rơi xuống liền, các anh nàng hiện lên hình người đứng trước nàng, vui vẻ, đẹp đẽ. Chỉ có người em cuối cùng là chiếc áo còn thiếu cánh tay trái vì vậy ở lưng còn có một cánh thiên nga. Anh em ôm nhau hôn trìu mến; hoàng hậu đến tìm vua, vua rất đỗi ngạc nhiên. Nàng nói:
- Tâu bệ hạ, giờ thiếp mới được phép nói và bộc lộ là thiếp đã bị oan.
Nàng kể lại âm mưu mụ già đã lấy trộm ba đứa con đem giấu đi. Vua tìm được con mừng rỡ lắm, còn mụ dì ghẻ cay nghiệt kia phải đền tội. Mụ bị trói trên đống lửa và bị thiêu ra tro. Vua và hoàng hậu cùng sáu anh hưởng hạnh phúc dài lâu.
Một ngày hè, gấu và sói đi dạo chơi trong rừng. Gấu nghe có tiếng chim hót véo von, liền hỏi bạn:
- Sói này, chim gì mà hót hay thế ?
Sói đáp:
- Vua loài chim đấy. Bọn mình có gặp thì phải cúi chào đấy nhé.
Nhưng đó chỉ là chim hoàng anh. Gấu nói:
- Nếu quả như vậy thì tôi muốn xem cung điện của hắn ra sao. Anh dẫn tôi đi nhé.
Sói đáp:
- Đâu có dễ thế! Anh phải đợi vua và hoàng hậu đi đã chứ!
Gấu và sói để ý chỗ gốc cây có tổ chim rồi đi. Nhưng gấu đứng ngồi không yên, muốn xem cung điện cho kỳ được, nên một lát sau lại lộn lại. Đúng lúc vua và hoàng hậu vừa bay đi khỏi, gấu ngó vào thấy năm sáu con chim nhỏ nằm trong. Gấu kêu lên:
- Cung điện nhà vua gì mà thế này? Nhà ở tồi tàn quá! Hạng chúng bay thì con vua cháu chúa quái gì! Chúng bay chẳng qua là bọn con nhà đê tiện.
Mấy chú hoàng anh nghe thấy thế giận lắm quát:
- Đừng có nói láo! Bố mẹ chúng tôi dòng dõi quí phái cả. Thằng gấu kia, chuyện này nhất định phải làm cho ra nhẽ mới được.
Gấu và sói sợ quá quay về chui vào hang. Các chú hoàng anh vẫn kêu la rầm rĩ. Khi bố mẹ chúng tha mồi về, chúng mách:
- Chúng con không động đến một cái chân ruồi nhỏ đâu. Chúng con can tâm chết đói nếu bố mẹ không làm cho ra nhẽ: chúng con có phải là con vua cháu chúa hay không? Thằng gấu nó đến đây sỉ nhục chúng con.
Vua cha nói:
- Các con cứ yên tâm, cha sẽ làm chuyện này cho ra nhẽ.
Vua cùng hoàng hậu liền bay đến hang gấu gọi:
- Lão gấu già cảu nhảu kia, tại sao ngươi dám sỉ nhục con ta? Thật là vô phúc cho ngươi, ta sẽ đấu với ngươi một trận sống mái cho rõ trắng đen.
Thế là hoàng anh khai chiến với gấu. Gấu cầu cứu tất cả các loài thú. Bò này, lừa này, hươu này, nai này... tất cả các loài vật bốn chân trên mặt đất. Hoàng anh thì đi gọi các loài bay trên trời: không phải chỉ có chim chóc lớn nhỏ mà thôi đâu, mà còn có cả loài ruồi, loài nhặng, loài ong nữa.
Sắp đến ngày đánh nhau, hoàng anh phái trinh sát đi dò xem ai là tướng chỉ huy quân địch. Nhặng là trinh sát tinh khôn nhất bay vào rừng tìm nơi quân địch tập hợp. Quân địch đang bày mưu tính kế ở một gốc cây. Nhặng ẩn mình sau một chiếc lá trên cây nghe thấy gấu gọi cáo bảo:
- Cáo này, mày khôn nhất các giống vật, mày làm tướng chỉ huy đi.
Cáo nói:
- Được, nhưng giờ tao lấy gì làm hiệu nào?
Không con nào nghĩ ra. Cáo liền bảo:
- Tao có một cái đuôi đẹp, vừa dài vừa rậm, rõ là chùm lông đỏ. Hễ tao giơ đuôi lên nghĩa là mọi việc đều ổn, chúng bay cứ việc tiến; hễ tao hạ đuôi xuống, thì chúng bay lo mà chạy thoát thân cho mau.
Nhặng nghe thấy thế bay về báo cho hoàng anh. Trời tang tảng sáng, loài vật bốn chân ầm ầm kéo ra trận, mặt đất rung chuyển như có sấm động. Hoàng anh và quân của mình xuất trận trên không trung kêu vo vo, bay rào rào, nghe đến kinh hồn. Hoàng anh phái ong bầu đến bám sát đuôi cáo, ra sức đốt. Cáo bị đốt lần đầu giật bắn mình, giơ một chân lên, nhưng vẫn cố nhịn giơ đuôi lên thẳng. Bị đốt lần thứ hai, cáo đành hạ đuôi xuống một tí. Đến lúc bị đốt lần thứ ba thì cáo chịu không nổi nữa, kêu lên, cụp đuôi vào hai chân. Thấy vậy, các con bốn chân đều cho là mọi việc hỏng bét rồi, vội bỏ chạy về hang. Thế là chim được trận. Vua và hoàng hậu liền bay về tổ gọi con bảo:
- Các con thích nhé, thôi cứ ăn uống thỏa thê đi, chúng ta thắng trận rồi.
Các chim Hoàng tử đáp:
- Nếu bản thân gấu không chịu đến xin lỗi và nhận chúng con là con nhà dòng dõi thì nhất định chúng con không chịu ăn đâu.
Hoàng anh bay đến hang gấu quát:
- Đồ gấu cảu nhảu, muốn sống thì đến xin lỗi con ta, nhận chúng là con nhà dòng dõi, nếu không thì mày thịt nát xương tan bây giờ.
Gấu sợ quá, lết đến tổ chim xin lỗi. Lúc ấy các chim hoàng anh nhỏ mới chịu thôi và ăn uống vui chơi cho đến khuya.
Xưa có một ông vua. Quanh cung điện của vua là một khu rừng lớn trong đó có đủ các loài dã thú. Một hôm, có một người thợ săn được vua phái vào rừng để bắn một con nai, nhưng không thấy anh ta trở về vua bảo:
- Có lẽ hắn gặp tai nạn rồi.
Hôm sau, vua sai hai tên thợ săn khác vào rừng để tìm người thứ nhất, nhưng rồi cũng chẳng thấy ai về. Ngày thứ ba, vua cho triệu tất cả các thợ săn trong xứ đến bảo:
- Các ngươi hãy đi sục khắp khu rừng tìm ra kỳ được ba người mới thôi.
Đoàn người đi rồi lại cũng không thấy ai về. Cả đến đàn chó săn mà họ dắt theo cũng biến đâu hết cả. Từ hôm đó chẳng ai dám vào rừng nữa. Khu rừng càng thêm âm thầm hiu quạnh. Họa hoằn mới thấy bóng một con chim ưng, hoặc một con diều hâu bay ngang qua. Cứ thế cho mãi đến mấy năm sau mới có một người thợ săn lạ mặt đến yết kiến vua, xin chu cấp và tình nguyện vào khu rừng nguy hiểm nọ. Nhưng vua không muốn nhận lời bèn phán:
- Trong đó chẳng an toàn đâu, ta chỉ ngại nhà ngươi sẽ còn phải gặp chuyện rủi ro hơn cả mấy tên trước nữa, khó mà về thoát được.
Người thợ săn đáp:
- Tâu bệ hạ, xin cứ cho tôi thử một phen. Tôi không sợ đâu.
Người thợ săn dắt chó vào rừng. Đi mới được một lát. Chó tìm thấy vết thú. Nó muốn lần theo nhưng chưa được mấy bước đã thấy một cái đầm rất sâu chắn trước mặt, không thể nào đi tiếp được nữa. Liền đó một cánh tay trần trụi từ dưới nước ngoi lên túm lấy nó kéo xuống.
Người thợ săn thấy thế quay về ngay. Anh ta lấy thêm ba người nữa, đem thùng theo định tát cạn cái đầm kia. Lúc đã nhìn được suốt xuống tận đáy đầm, họ thấy có một người rừng nằm dài dưới đó, mình hắn toàn bộ màu nâu như sắt gỉ, tóc phủ qua mắt xõa xuống đến tận đầu gối. Họ lấy thừng trói gô hắn lại rồi điệu về cung điện.
Nhân dân xôn xao kinh ngạc về người rừng. Vua cho nhốt hắn vào một cái lồng sắt đựng ở ngoài sân chầu và nghiêm cấm không ai được mở cửa lồng. Kẻ trái lệnh sẽ bị tử hình và hoàng hậu đích thân giữ chìa khóa. Từ hôm đó, mọi người lại có thể yên tâm vào rừng.
Vua có một Hoàng tử lên tám tuổi. Một hôm, Hoàng tử đương chơi bóng ngoài sân bỗng quả bóng vàng lăn vào trong cái lồng. Hoàng tử chạy theo đòi:
- Trả lại bóng cho ta đây.
Người rừng đáp:
- Hãy mở cửa cho ta rồi ta sẽ trả.
Hoàng tử nói:
- Không được, điều đó thì không được, cha ta đã có lệnh cấm.
Nói xong, Hoàng tử chạy đi. Nhưng hôm sau, Hoàng tử lại đến đòi quả bóng. Người rừng lại dỗ:
- Mở cửa cho ta.
Hoàng tử không chịu. Ngày thứ ba, giữa lúc vua đi săn vắng, Hoàng tử lại tới bảo:
- Cho dù ta có muốn cũng chẳng mở được, vì ta không có chìa khóa.
Người rừng đáp:
- Chìa khóa ở dưới gối mẹ mi ấy, vào đó mà lấy.
Hoàng tử còn nhỏ tuổi, muốn lấy lại quả bóng quá, không kịp suy nghĩ chạy vào lấy luôn chìa khóa đem ra. Mở mãi mới được cái cửa, hoàng tử lại bị kẹp một ngón tay. Cửa mở rồi, người rừng bước ra, trả cho hoàng tử quả bóng rồi đi thẳng. Chú bé hoảng sợ, kêu gọi ầm ĩ:
- Trời, người rừng ơi, đừng đi, ta sẽ bị đòn mất thôi.
Người rừng bèn quay lại, bế bổng Hoàng tử lên vai, rảo bước đi vào rừng.
Lúc vua về nhà, thấy cái lồng trống không, vội hỏi hoàng hậu xem sự thể thế nào. Hoàng hậu vẫn chưa biết chuyện mới đi tìm chìa khóa thì chìa khóa đã mất. Hoàng hậu vội lên tiếng gọi con, không thấy ai trả lời. Vua sai người ra ngoài thành tìm mà không thấy. Vua đoán biết là có chuyện gì rồi. Trong triều, không khí nặng nề buồn bã.
Lúc người rừng đã vào tới quãng rừng sâu rồi. Hắn đặt chú bé xuống đất mà bảo chú:
- Mi sẽ không được thấy lại bố mẹ nữa đâu. Tuy vậy ta sẽ giữ mi ở với ta, ta thương mi vì chính mi đã giải thoát cho ta. Mi cứ theo đúng lời ta dặn thì sẽ được đối đãi tử tế. Vàng ngọc ở đây không thiếu, ta có nhiều của cải hơn bất kỳ ai trên thế gian này.
Người rừng dọn cho chú bé một ổ rêu làm chỗ ngủ. Hôm sau, hắn dẫn chú bé đến một cái giếng và bảo:
- Này, cái giếng vàng này sáng và trong như pha lê ấy. Nhiệm vụ của mi là ngồi đây mà canh, không được để cho một thứ gì rơi xuống đó, bằng không, giếng sẽ mất thiêng. Cứ chiều chiều ta sẽ đến xem mi có làm đúng lời dặn không?
Chú bé ngồi bên cạnh giếng, chốc chốc lại thấy một con cá vàng hoặc một con rắn vàng
xuất hiện dưới đó. Chú cũng để ý giữ, không cho bất kỳ thứ gì rơi xuống giếng. Nhưng ngồi được hồi lâu, ngón tay bị kẹp đột nhiên đau dội lên, chú vô tình nhúng nó xuống nước. Chú vội rút lên thật nhanh, song ngón tay đã bị phủ toàn vàng mất rồi, chú ra sức lau mà không tài
nào sạch được. Chiều tối. Hanxơ sắt - tên người rừng, đến nhìn chú bé hỏi:
- Có chuyện gì xảy ra ở giếng thế?
Chú bé đáp:
- Không, không.
Chú cố giấu ngón tay ra sau lưng cho người rừng khỏi thấy. Nhưng người rừng đã bảo chú:
- Mi đã nhúng ngón tay xuống nước rồi. Lần này ta tha, song mi cứ liệu, không được để bất kỳ cái gì rơi xuống nước nữa nhé!
Hôm sau, mới mờ sáng, chú bé đã trở dậy ra ngồi cạnh giếng. Ngón tay lại đau, chú vuốt nó lên đầu cho dịu đi. Không may có một sợi tóc đứt rơi đúng xuống giếng. Chú vội nhặt lên nhưng đã muộn, sợi tóc đã chói một màu vàng. Hanxơ sắt đến, biết ngay là có chuyện.
- Mi lại để một sợi tóc rơi xuống giếng rồi. Phen này ta bỏ qua cho mi, nhưng nếu còn để xảy ra chuyện đến lần thứ ba, cái giếng kia mất thiêng đi, mi sẽ không còn được ở đây với ta nữa.
Ngày thứ ba, chú bé ngồi bên giếng, ngón tay vẫn đau lắm mà không dám động đậy. Nhưng rồi ngồi yên mãi cũng chán, chú mới cúi xuống soi bóng mình dưới lòng giếng. Cúi mãi, cúi mãi, chú cứ muốn soi cho thật rõ, bất ngờ cả mái tóc dài của chú từ hai vai xõa xuống nhúng ngay vào nước. Chú vội đứng thẳng lên thật nhanh, song muộn mất rồi, cả mớ tóc đã nhuốm vàng, rực rỡ như vầng hồng. Chú khiếp đảm quá, rút khăn tay buộc lên đầu cho người khác khỏi nhìn thấy. Lúc Hanxơ sắt đến, hắn đã biết hết chuyện xảy ra nên bảo chú:
- Cởi cái khăn ra.
Tức thì những sợi tóc vàng thì nhau rủ xuống, chú bé ra sức kêu xin nhưng cũng vô ích.
- Mi đã không vượt qua được cơn thử thách nên không thể ở lại đây được nữa đâu. Giờ mi hãy đi ở với thiên hạ thôi. Mi sẽ biết thế nào là cảnh khổ. Song vì mi không có ác tâm và ta cũng mến mi nên ta cho phép mi một điều. Lúc nào gặp khó khăn, mi cứ vào rừng gọi: “Hanxơ sắt", ta sẽ tới cứu mi. Quyền lực của ta rất lớn, lớn hơn mi tưởng nhiều: vàng, bạc ta đều có thừa.
Hoàng tử từ biệt khu rừng đó, cứ chiếu thẳng đường mà đi, đến một thành phố lớn. Hoàng tử định tìm việc làm nhưng không có, vả chăng bản thân cũng chưa từng học nghề gì để có thể kiếm ăn. Sau cùng, hoàng tử đến thẳng cung vua hỏi xem có ai muốn mướn chàng hay không. Triều thần không biết dùng chàng vào việc gì nhưng vì mọi người đều mến chàng nên giữ chàng lại. Chàng được giao việc phụ bếp, ngày ngày khuân củi, xách nước, quét tro. Một hôm, vì không tìm được ai khác, người đầu bếp sai chàng bưng thức ăn lên dâng vua. Chàng không muốn để lộ mớ tóc vàng nên cứ đội nguyên cả mũ mà vào hầu. Vua chưa từng gặp chuyện vô lễ như thế bao giờ, quở ngay:
- Mi mang thức ăn vào dâng vua thì phải bỏ mũ ra.
Chàng đáp:
- Tâu hoàng thượng, tiếc rằng thần không thể làm thế được, thần bị bệnh chốc đầu.
Vua bèn cho gọi ngay người đầu bếp tới, quở hắn sao dám mướn một kẻ như thế giúp việc. Vua hạ lệnh phải đuổi chàng đi ngay tức khắc. Người đầu bếp thương chàng, không nỡ đuổi, cho đổi việc với gã coi vườn. Từ đó, ngày ngày Hoàng tử trồng cây, tưới cây, xới đất, đào đất
ở ngoài vườn chẳng quản gió mưa.
Trời đã sang hè, một hôm đương lúc mải làm, oi bức quá, chàng bỏ mũ cho mát. Ánh nắng rọi vào mớ tóc sáng rực, tia vàng phản chiếu lọt vào đến tận phòng riêng của công chúa. Nàng nhỏm dậy, ra xem có chuyện gì lạ. Tức thì nàng thấy chàng trai, liền gọi lại:
- Này chàng kia, hãy mang lại đây cho ta một bó hoa.
Hoàng tử vội vã đội ngay mũ lên đầu, bó một bó hoa đồng mang lại. Chàng đương lên thang thì gặp người coi vườn bảo:
- Sao dâng hoa lên công chúa lại dám lấy rặt những giống hoa dại này? Xuống lấy bó khác ngay đi, chọn những giống hoa đẹp nhất và hiếm nhất ấy.
Chàng đáp:
- Không đâu, chính hoa dại lại thơm hơn, chắc chắn công chúa sẽ thích hơn.
Lúc chàng bước vào phòng, công chúa bảo chàng:
- Bỏ mũ xuống đi, đứng trước mặt ta mà đội mũ là không được.
Chàng lại đáp:
- Bẩm, thần không dám, vì thần bị chốc đầu.
Nhưng công chúa giơ tay nhấc luôn cái mũ khỏi đầu chàng. Tức thì mái tóc vàng kia rủ xuống đến tận vai chàng, nom rất đẹp mắt. Chàng định bỏ chạy, công chúa kéo tay chàng lại, cho chàng một nắm tiền vàng. Chàng cầm tiền đi ra. Nhưng vì chàng chẳng thiết vàng nên đem lại cho người coi vườn, và bảo:
- Tôi gửi tặng các cháu nhỏ đây, để chúng làm đồ chơi.
Hôm sau, công chúa lại sai chàng đi hái một bó hoa đồng. Chàng cầm bó hoa vừa bước qua cửa phòng, công chúa đã vội giật cái mũ định lấy. Chàng nắm cả hai tay giữ chặt mũ lại. Công chúa lại cho chàng một nắm tiền vàng và lần này chàng vẫn không muốn giữ tiền, đem cho người coi vườn mang về cho con chơi.
Ngày thứ ba cũng như hai ngày trước. Công chúa vẫn không lấy được mũ. Chàng cũng không muốn lấy vàng của công chúa. Ít lâu sau, xứ có giặc. Vua cho gọi trăm họ lại. Chính vua cũng
chưa biết liệu rồi có chống cự nổi hay không. Thế giặc mạnh lắm, chúng có một đạo quân rất lớn. Chàng coi vườn tâu vua:
- Thần cũng đã trưởng thành, nên muốn được đi tòng chinh, xin hãy ban cho thần một con ngựa.
Những người khác thấy thế đều cười rộ lên mà rằng:
- Hãy chịu khó đợi cho bọn ta kéo đi hết đã rồi hãy vào tàu ngựa mà chọn, bọn ta sẽ để lại cho một con.
Khi mọi người đã kéo đi hết cả rồi, chàng vào dắt ngựa ra thì thấy đó là một con ngựa què, khập khiễng bước cao bước thấp. Tuy vậy, chàng cũng vẫn lên ngựa, phóng vào rừng sâu. Đến bên cạnh rừng rồi, chàng cất tiếng gọi ba lần: "Hanxơ sắt!". Tiếng gọi đập vào rừng cây nghe vang dội. Tức thì người rừng hiện ra hỏi:
- Mi muốn gì?
- Ta muốn có một con ngựa chiến thật khỏe để đi đánh giặc.
- Được, mi sẽ có ngựa và còn nhiều hơn thế nữa.
Người rừng quay trở vào. Chỉ một lát sau, đã thấy có người coi ngựa dắt một con ngựa chiến từ trong rừng đi ra. Lỗ mũi con vật thở phì phì tưởng chừng rất khó điều khiển được nó. Sau con ngựa là cả một đám quân lính mũ sắt giáp sắt, lưỡi kiếm sáng ngời dưới ánh nắng.
Chàng trai trao con ngựa què lại cho người lính coi ngựa, nhảy lên con chiến mã rồi vượt lên cả đoàn quân. Lúc chàng tiến tới gần chiến trường thì bên nhà vua đã bị chết nhiều người và đang sắp phải rút lui. Chàng liền thúc đoàn quân đầy đủ áo giáp và mũ trụ, như một cơn lốc đánh thốc vào giữa quân giặc, đập tan hết thảy mọi sức kháng cự. Giặc định rút chạy nhưng không kịp, chàng trai đã tiến sát sau lưng chúng rồi và chàng cứ thúc quân đánh, đánh mãi kỳ cho đến lúc không còn một tên giặc nào sống sót. Nhưng sau đó chàng chẳng quay về chỗ vua mà lại dẫn quân theo đường tắt trở lại khu rừng cũ, gọi Hanxơ sắt. Người rừng hỏi:
- Mi muốn gì?
- Nhận lại ngựa của mi đi, trả lại cho ta con ngựa què.
Mọi việc xảy ra sau đó như ý muốn của chàng. Chàng cưỡi con ngựa què trở về. Lúc vua về đến cung điện, công chúa ra mừng thắng trận. Vua nói:
- Không phải do ta đánh thắng trận, đó là công của một người kỵ sĩ lạ mặt đã đem quân đến giúp ta.
Công chúa hỏi người kỵ sĩ đó là ai, nhưng chính vua cũng không biết, nên vua chỉ nói:
- Người ấy còn mải đuổi theo quân giặc, nên ta cũng chưa được gặp lại.
Công chúa bèn hỏi thăm người coi vườn về tin tức chàng trai nọ. Bác ta cười mà thưa rằng:
- Anh ta cưỡi một con ngựa què vừa về đến nhà xong.
Mọi người đều giễu cợt và bảo:
- Anh chàng tập tễnh về kia rồi.
Họ còn hỏi mỉa gã:
- Này, suốt thời gian vừa rồi, cậu rúc vào ngủ ở xó nào đấy?
Nhưng gã chỉ ôn tồn đáp: "Ta đã làm hết sức mình, không có ta có lẽ đất nước đã nguy rồi", khiến mọi người cười ầm lên. Đức vua phán bảo con gái:
- Ta định báo là sẽ mở hội lớn trong ba ngày liền. Nhân dịp ấy con sẽ ném một quả táo bằng vàng, biết đâu chàng kỵ sĩ lạ mặt kia sẽ đến.
Sau khi biết tin, chàng trai vội vào rừng gọi Hanxơ sắt. Gã hỏi:
- Mi muốn gì?
- Ta ước mong sẽ bắt được quả táo vàng của công chúa.
Hanxơ sắt đáp:
- Được, chắc mi sẽ toại nguyện, nhưng mi phải nhớ mặc một bộ giáp đỏ và cưỡi một con ngựa hồng thật oai phong.
Đến ngày hội, chàng trai cưỡi ngựa tới, đi lẫn vào trong đám kỵ sĩ mà không ai nhận ra được chàng, công chúa bước ra nhằm phía các kỵ sĩ mà ném quả táo vàng. Chàng bắt ngay được rồi thúc ngựa phóng luôn đi mất. Ngày thứ hai, Hanxơ sắt cho chàng một bộ áo giáp bạc trắng với một con ngựa bạch. Chàng bắt được quả táo và lại thúc ngựa phóng đi mất. Đức vua giận lắm phán:
- Không thể được, hắn phải ra chầu trước mặt ta để ta hỏi tên họ.
Vua ra lệnh:
- Kỵ sĩ nào bắt được quả táo mà bỏ chạy sẽ bị đuổi theo, nếu không tự ý quay lại sẽ bị đâm chết.
Đến ngày thứ ba, chàng trai được Hanxơ sắt cấp cho một bộ áo giáp đen với một con ngựa ô. Chàng lại bắt được quả táo. Lúc chàng bỏ chạy, đám quân sĩ của nhà vua hò nhau đuổi theo. Có một người đuổi rất sát, liền chém một nhát, mũi kiếm lướt ngang chân chàng khiến chàng bị thương. Chàng chạy thoát nhưng vì con ngựa phải nhảy dữ quá, chiếc mũ trụ của chàng bị tuột khỏi đầu rơi mất, mọi người đều trông thấy mái tóc vàng rực. Họ quay ngựa về nói lại cho vua biết. Hôm sau, công chúa hỏi thăm người coi vườn về chàng trai.
- Gã ta đang làm ở ngoài vườn. Thế mà gã ta cũng đi dự hội đấy, mãi tối qua mới về. Gã có cho các cháu nhà tôi xem ba quả táo vàng mà gã bắt được.
Vua cho đòi chàng. Chàng vào hầu, đầu vẫn đội mũ. Nhưng công chúa đã bước tới bỏ chiếc mũ xuống. Tức thì mái tóc vàng rủ xuống đến tận vai, đẹp quá, mọi người đều phải kinh ngạc. Vua hỏi:
- Có phải chính ngươi là người kỵ sĩ đến đám hội mỗi ngày trang phục một màu và đã bắt được ba quả táo vàng đó không?
Chàng đáp:
- Dạ thưa chính thần đó ạ, và đây là ba quả táo.
Chàng móc túi lấy ba quả táo dâng lên vua:
- Nếu như hoàng thượng còn đòi thần phải có vật chứng gì khác nữa thì xin hãy xem vết thương đây. Thần đã bị thương trong lúc bị đám quân sĩ đuổi. Nhưng thần cũng chính là người kỵ sĩ đã giúp hoàng thượng chiến thắng quân giăc bữa trước đó.
Vua phán:
- Ta thấy rồi, ta chịu ơn nhà ngươi, ta có thể làm gì để ngươi vui lòng.
Chàng đáp:
- Tâu hoàng thượng, thần chỉ xin được cùng công chúa kết duyên.
Công chúa cười mà rằng:
- Chàng thật không biết úp mở chút nào.
Nàng tiến lại ôm hôn chàng.
Hôm cử hành hôn lễ, cả cha mẹ chàng cũng đến, hai người rất vui mừng vì họ đã mất hy vọng gặp lại con từ lâu lắm rồi. Vừa lúc mọi người ngồi vào bàn tiệc xong, bỗng thấy ngừng tiếng nhạc, cửa lớn mở ra, một vị hoàng đế oai phong lẫm liệt bước vào, theo sau
không biết bao nhiêu là người hầu. Vị hoàng đế ấy bước thẳng đến chỗ chàng trai, ôm chàng bảo:
- Ta chính là Hanxơ sắt đấy. Ta đã bị phù phép biến thành một người rừng nhưng con đã giải thoát cho ta. Từ nay mọi thứ của cải mà ta có đều thuộc về con.
Câu chuyện giúp các em hiểu về tình nghĩa của con người đối với nhau. Chính sự giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn đã giải thoát được cả bùa mê và phù phép.
Một chàng chăn chiên muốn hỏi một trong ba chị em nhà kia làm vợ. Ba cô đều xinh, anh chàng phân vân mãi, không biết nên chọn cô nào. Chàng liền hỏi ý kiến mẹ. Bà bảo:
- Con cứ mời cả ba cô đến ăn. Con đem đặt trước mỗi cô một miếng phó mát và để ý xem các cô cắt phó mát thế nào.
Chàng nghe lời mẹ.
Chàng thấy cô cả ăn phó mát cả cùi. Cô hai cắt cùi vội quá, để sót nhiều ruột mà cứ thế vứt đi. Cô út gọt cùi cẩn thận, không quá dày cũng không quá mỏng. Chàng chăn chiên kể lại cho mẹ nghe. Mẹ bảo:
- Con nên lấy cô út.
Chàng nghe lời, quả nhiên sống với vợ rất là sung sướng.
Câu chuyện chỉ đơn giản kể về một chàng trai được bà mẹ mách cho một diệu kế để chàng có thể chọn được một người vợ tử tế. Nhưng đã nói lên được sự khôn khéo và tế nhị của bà mẹ, đồng thời ca ngợi tính chăm chỉ, cẩn thận của người con gái.