Hồi 1
Giúp đạo lý nhân luân làm người theo nền nếp
Tử sinh dành cho mặc khách tao nhân có dịp luận bàn
Con người sinh ra ở đời lúc nào cũng vất vả, phiền muộn trăm chiều, không mảy may được thư nhàn sung sướng. Cũng may bực thánh nhân mở ra trời đất, bày chuyện ái ân nam nữ để có cái giải muộn giải sầu. theo lời các nhà nho xưa, thì cái vật phía dưới eo phụ nữ chính là cánh cửa sinh ra ta mà cũng là nấm mồ chôn ta.
Nhưng nếu không có vật này thì e tóc sẽ bạc sớm hơn vài năm, tuổi thọ sẽ giảm đi vài tuổi. Không tin cứ nhìn các vị hòa thượng, có mấy ai bốn năm mươi tuổi mà tóc không bạc có mấy ai bảy, tám mươi mà nhục thân không rã. Hoặc giả nếu cho rằng cứ đem hòa thượng ra mà nói thì khó, thì xem như những cư sĩ tại gia, đều cũng theo con đường này cả.
Xa thì gian dâm với phụ nữ, gần thì bỡn cợt với đồ đệ, cũng không khác kẻ phàm tục, không biết giữ nề nếp. Còn như bọn thái giám đời xưa, gian dâm với phụ nữ không được mà bỡn cợt với đồ đệ cũng không xong, vì còn cái gì đâu để mà gian dâm, còn cái gì đâu để mà bỡn cợt. Da nhăn tóc bạc hơn người, tưởng đã sống tới vài trăm năm, tiếng gọi là ông mà thực có khác chi bà.
Nơi kinh sư Bắc kinh, chỉ có kẻ thường dân là sống lâu, còn bậc nội giám nào đã ai trăm tuổi. Thế mới biết hai chữ Nữ Sắc vốn không làm hại gì ai, chẳng qua vì trong Bản Thảo Cương Mục không từng có ghi vị thuốc này, cho nên việc chú giải không định rõ. Người cho là thuốc bổ, kẻ gọi là thuốc độc, nhưng xét cho kỹ thì quả có bồi dưỡng con người. Dược tính của nó chẳng khác nhân sâm phụ tử, có thể dùng chung với các vị thuốc này. Có thể dùng như sâm mà không thể gọi là cơm. Nếu không dể ý tới phân lượng, không quan tâm tới giờ giấc, chỉ cốt sao cho thật no say thì thường là hại.
Cái lợi, cái hại của nữ sắc cũng thế. Trường phục thì âm dương đều hòa, đa phục thì xung khắc như nuớc với lửa, biết dùng như thuốc thì giải được ẩn uất, ăn như cơm thì hại tinh huyết.
Nếu người đời biết dùng nữ sắc như vị thuốc, không thưa thớt quá mà cũng không dồn dập quá, thì không thể không tốt, mà cũng không thể quá tốt. Lúc chưa gần nữ sắc, trong bụng nghĩ rằng vị thuốc này không độc tại sao lại sợ. Khi đã gần nữ sắc rồi, trong bụng nghĩ rằng vị thuốc này không phải là cơm thì sao cứ đắm đuối say mê.
Như thế thì không những dương không quá, âm không bí, không có người chết non, mà có thể giúp cho trai có vợ, gái có chồng đúng theo vương đạo, không phải là vô ích. Chỉ có điều, vị thuốc này dược tính giống như nhân sâm, phụ tử, nhưng nơi sản xuất, cách sử dụng thì có khác đôi chút, người dùng không thể không thấu.
Nói về nhân sâm, phụ tử, thì loại "ngoại địa" tốt. Loại "thổ sản" có uống cũng vô ích, Còn nói về nữ sắc thì trái lại, loại "thổ sản" tốt, loại "ngoại địa" không những vô ích mà còn có hại cho người nữa.
Thế nào là "thổ sản"? (cơm nhà) Thế nào la "ngoại địa"(quà chợ)?
Nay có sẳn đàn bà thê thiếp, không cần phải tìm đâu xa, cũng không tốn kém tiền bạc, với tay trong túi lúc nào củng được, ta gọi đó là "thổ sản". Với loại người này, ta mặc tình ăn nằm dọc ngang, không gì trở ngại, gõ cửa lúc nào cũng được mở, không e dè sợ hải. Đã không làm hại nguyên khí mà còn lợi cho việc truyền giống, một khi giao cảm thì toán thân sảng khoái, gọi đó là bồi dưỡng cho người, há không phải hay sao.
Muốn tìm cho ra diễm sắc, thì phải đến "ngoại môn". Gà nhà vị lạt, thịt không tươi bằng gà đồng, ta gọi đó là "ngoại địa". Gặp hạng phụ nữ này thì không khỏi đêm mơ tưởng, nghĩ cách chiếm đoạt cho bằng được. Tìm vật khêu gợi, rồi đem tặng nhau, hoặc trèo tường để đến hẹn, hoặc đào hang để tư tình. Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản, kẻ mày râu vì xung động nhất thời mà sa vào vực thẳm khôn lường, đương đầu với mối họa phi thường, đã âm thầm làm tổn thương âm đức mà cũng trắng trợn mất phẩm giá, có khi đến nỗi bị giết hại. Mình chết đã không có người đền mạng, mà vợ nếu còn sống, cũng bị thất tiết. Bao nhiêu tai họa thê thảm biết chừng nào, thế mới biết con người ở đời đối với hai chữ Nữ Sắc ra sao.
Rõ ràng là không thể bỏ cái gần mà tìm cái xa, kén cái tinh mà chọn cái béo, chê cái bình thường mà cầu cái quái dị. Người viết bộ tiểu thuyết này thấu rõ lòng dạ đàn bà nên muốn trình bày với đời, khuyên người đời dập tắt lửa dục chứ không khuyến dâm người đời, xin bạn đọc đừng hiểu lầm chủ ý của tác giả. Thế nhưng sao bộ tiểu thuyết này viết thành tiểu thuyết phong lưu lãng mạn? Điều này quả có một cái lẽ khác của nó.
Thưa độc giả, xưa nay không thiếu gì sách thánh hiền khuyến thiện. Nhưng con người vẫn hay ưa tìm sách phong lưu mà đọc, trái với tôn chỉ thánh nhân, xem đó thì người đời đã chán ngán cổ thư,chỉ càng tìm sách chi tiết về trữ tình chừng nào càng được chuộng chừng đó, đến thành một xã hội phi luân
Xưa vua Vũ trị thủy, công cuộc khó thay, "... ngài đắp mãi đê cho cao tới đỉnh núi, nhìn xuống khắp chốn bao la, mới thấy sự rộng lớn, thuận thời thuận sóng mà khai rạch khai mương thoát thủy ra biển, cứu dân thoát nạn lụt".
Thời bây giờ cũng thế, ai muốn khai mở bế tắc luân thường đạo lý cũng phải nương theo sóng tình mà cải biến lòng người. Nương theo chuyện vô luân mà khuyến thiện vậy. Làm cách này không xong, như thánh nhân, phải làm cách kia vậy.. Thiếu gì người ham hố chuyện phong lưu gái đẹp, nhưng biết đâu chả có lúc thấy ra, là không có gì bằng thê thiếp tại gia.
Người đọc hãy tự tìm lấy điều ấy nơi cuối truyện. Đó là cách người viết cuốn này dùng lửa trị lửa, khuyến người bằng tính người. Sen tự nở trong bùn mà ra.
* * *
Còn như ai muốn bảo tôi muốn viết dâm thư, người ấy cứ việc. Ai muốn suy nghĩ hai lần sau khi đọc sách này, đấy là chủ ý cuả tác giả. Mô tả kỹ lưỡng chuyện phòng the chỉ là để chỉ dẩn tới sự cay đắng của đời mà thôi.
Hồi 2
Lão đầu đà khoe hão cái túi da
Tiểu cư sĩ thích nhục bồ đoàn
Truyện xảy ra vào đời Nguyên (1280-1368), khoảng năm Chí Hòa (1328). Lúc ấy trên núi Điểm thương, có một vị ẩn tu, pháp danh Chính nhất, đạo hiệu Cô Phong. Ngài vốn người Châu quận, theo học Khổng thầy là một vị tú tài nổi tiếng. Nhưng do thiện căn, lúc sinh ra mới đầy tháng còn trong nôi đã ê a kỳ lạ, chẳng khác chi học trò trả bài, cha mẹ ngạc nhiên lắm. Có một nhà sư khuất thực trước cửa nhà, gặp a hoàn bồng ngài ở trên tay, mà miệng cứ ra tiếng, khóc không phải khóc, cười không phải cười. Nhà sư mới lắng tai nghe rồi nhận ra đứa bé đang tụng Lăng Nghiêm Đại Tạng, chính là hóa kiếp của một vị cao tăng. Nhà sư xin với cha mẹ đứa bé để được thu nhận làm đệ tử.
Bậc cha mẹ cho là lời xằng bậy, không tin mà từ chối, về sau dốc lòng bắt ngài trau dồi kinh sử để theo đường công danh. Lớn lên ngài học đâu nhớ đó. Rồi vì chuyện khoa danh không phải điều ngài mơ ước, nhiều lần ngài muốn bỏ Nho để học Phật, nhưng đều bị cha mẹ roi vọt, nghiêm khắc cản trở.
Bất đắc dĩ ngài cũng đi thi cho có lệ. Sau khi cha mẹ đều qua đời, ngài chịu tang hai năm, rồi phân chia gia sản cho người trong họ. Phần mình chỉ có mộ cái túi da lớn, chất mõ và kinh kệ vào trong, xong rồi cạo đầu lên núi tu hành.
Người biết gọi ngài là Cô Phong trưởng lão, người không biết gọi ngài là Bố Đại hòa thượng (hòa thượng xách bị). Ngài không giống các nhà sư khác, không những đối với các chuyện rượu thịt, tà dâm... thủ giới rất nghiêm, mà ngay cả với chốn tăng gia cũng giữ luôn ba giới cấm là không khất thực, không giảng kinh, không ngụ nơi danh sơn để tu hành.
Có người hỏi tại sao không khất thực, ngài dạy: "Việc học Phật, đại để bắt đầu từ những hành vi thiện. Phải cực khổ, phải vất vả, phải bị cái đói, cái rách bức bách hằng ngày thì cái ý niệm dâm ô mới không sinh ra, dâm dục không sinh thì cái ô trược bị tống khứ, mà cái thanh tĩnh sẽ mỗi ngày mỗi đến, lâu dần rồi tự nhiên thành Phật, ngay cả kinh cũng có thể không bắt buộc phải niệm, mõ cũng có thể không bắt buộc phải gõ. Nếu không khốn cùng mà vẫn có ăn, không dệt mà vẫn có áo mặc, cả ngày chỉ trông cậy vào bá gia, bá tính cúng dường như vậy rõ ràng đã không thành Phật mà thân sa vào địa ngục mấy hồi. Vì vậy, tôi làm lấy mà ăn, tự giới không khất thực."
Có người thắc mắc tại sao không giảng kinh, ngài dạy: "Lời lẽ trong kinh tạng là từ Phật, Bồ tát nói ra. Trừ phi Phật, Bồ tát giảng thì được, chứ người khác ngày nào cũng đòi giảng thì có khác chi người điên giải mộng. Kinh kệ càng bàn, càng thành chi ly. Đào Uyên Minh tức Đào Tiềm đời Tấn, xưa kia chẳng nói "Độc thư bất cầu thậm giải" (đọc sách không cần phải giải rõ hẵn), đủ rõ ngưới Trung Quốc đọc sách Trung Quốc mà còn không dám mong giải cho rõ, huống hồ người Trung Quốc đọc sách ngoại quốc đòi bình giải, thì chỉ thêm sai mà thôi. Tôi không dám mong làm bậc công thần của Phật với Bồ tát, chỉ muốn được tránh không làm kẻ tội phạm đối với Phật thôi, thế nên tự giới không giảng kinh".
Có người lại hỏi tại sao không tìm nơi danh sơn mà ngụ, ngài dạy: "Kẻ tu hành cấm không được ham thấy sắc. Muốn cho tâm không loạn thì phải tránh xa sắc dục, không những đó là giọng đàn tiếng quyển ngọt ngào, mà còn là ngọn gió mát lướt nhẹ trên da thịt, vầng trăng sáng làm thỏa thích tâm hồn, mà còn là tiếng chim hót líu lo vui tai, là thức ăn khoái khẩu, tất cả đều đáng yêu đáng mến. Trước cảnh sông núi linh thiên đẹp đẽ, làm sao có thể không động lòng mà chẳng chấp bút đề thi, chị trăng dì gió cũng theo người nhập định, thì đêm hôm khuya khoắt làm sao có thể ngồi yên trên bồ đoàn?
Cho nên vào danh sơn để học thì việc học khó thành, vào danh sơn để tu thì tình căn nan tịnh. Huống chi nơi danh sơn nào mà chẳng có các bà các cô đến lễ bái, rồi cùng với các cô, có các cậu sẽ giỡ trò ghẹo nguyệt trêu hoa. Vì thế tôi bỏ nơi danh sơn mà dọn đến hoang sơn dể mắt tai khỏi bị nhiễm, thế thôi."
Người hỏi rất khâm phục khi nghe ngài đối đáp, cho rằng từ hồi nào tới giờ chưa có vị cao tạng nào được như thế. Ngài chỉ thực hiện ba điều giới cấm mà tuy không cầu danh nhưng danh càng nổi, dân chúng xa gần phát tâm chiêm bái thật đông.
Nhưng ngài không thu nhận đệ tử một cách hời hợt. Phải là kẻ có thiện căn thành tín thì mới được xuống tóc, nếu không đều tuyệt đối khước từ. Vì vậy tuy ngài xuất gia đã lâu mà đệ tử không được mấy người. Một góc núi, một túp lều tranh, cày ruộng mà ăn, múc nước suối mà uống, trên cột trước cửa nhà viết một đôi câu liễn:
Học Phật vô an lạc, thân tu hoạt du biến nhất thập bát tầng đia. ngục.
Tham thiền phi dung dị, minh vấn dĩ tọa phá kỷ thiên bách cá bồ đoàn.
Có nghĩa là:
Học Phật mà không cảm thấy an lạc, thì nên đi chơi khắp mười tám tầng địa ngục.
Tham thiền mà không thấy dễ, thì nên tự hỏi, mình đã ngồi nát bao nhiêu trăm ngàn tấm bồ đoàn rồi.
Chỉ cần gặp, là biết ngài bình sinh khổ hạnh như thế nào.
Một hôm trời thu, vào lúc sáng sớm, gió thu hiu hắt tiếng mõ vừa ngưng, côn trùng kêu, nhà sư ra sân quét lá, thay nước cúng Phật, thắp hương xong rồi vào nhà trên trải bồ đoàn ngồi thiền. Ngài ngẫu nhiên quên đóng cửa lại. Chợt có một thư sinh khôi ngô trẻ tuổi và hai tiểu đồng bước vào.
Thư sinh ấy làn da mắt thu thủy, dung mạo tựa Phan An, da mặt trắng như con gái, mày dài quá mắt, đồng tử đen trắng phân minh, long lanh bất định. Đôi mắt ấy, người đời gọi là sắc nhản, mà đã là người có sắc nhãn thì thường không thích nhìn thẳng, chuyên nhìn nghiêng, lại không thích nhìn nơi nào bằng nhìn phụ nữ.
Người có sắc nhãn không cứ chỉ thấy rõ ở gần, mà còn có thể từ xa hằng mấy mươi trượng, chỉ cần đảo cặp mắt trong vòng hai cái là đã có thể thấy biết được phụ nữ đẹp xấu ngay. Gặp người đẹp tức khắc nhìn đắm đuối, nếu người ấy đứng đắn, sẽ phải cuối đầu mà tránh. Thấy vậy đôi mắt lại chìm đắm hướng về cõi hư vô. Nhưng nếu người phụ nữ cũng là loại có sắc nhãn, nghĩa là cùng một chứng như kẻ nam tử trên, thì bên này đắm đuối qua, bên kia đắm đuối lại, rồi thư tình một bức là xong
Cho nên dù trai hay gái, sinh ra có loại mắt này là một điềm chẳng lành, vì đó là căn do khiến danh dự sẽ tổn thương, tiết hạnh bại hoại. Qúy độc giả, lỡ mà có đôi mắt ấy không thể không thận trọng vậy.
Bấy giờ chàng thư sinh bước vào, quỳ lạy bốn lạy trước tượng Phật, rồi cũng hướng về hòa thưọng mà quỳ lạy bốn lạy, lạy xong đứng yên qua một bên. Hòa thượng vì đang nhập định, nên không tiện đáp lễ, ngay khi nhập định xong, ngài rời khỏi bồ đoàn trang trọng lạy trả bốn lạy. Ngài mời khách an tọa và hỏi thăm tên họ, Thư sinh đáp: "Đệ tử là khách phương xa, nhân đi chơi ngang vùng Giang Triết, biệt hiệu là Bán Dạ Sinh. nhân nghe danh sư phụ là bậc danh tăng ở đời này, là vị Phật sống trong thiên hạ, nên đã trai giới tắm gội, đến để xin cầu kiến."
Tại sao hòa thượng hỏi tên, mà chàng thư sinh chỉ nói đến biệt hiệu mà thôi? Ấy chẳng qua là vì cuối đời Nguyên, sĩ phu không thích gọi nhau bằng tên họ, mà họ chỉ gọi nhau bằng biệt hiệu thôi. Vì thế có người xưng là mỗ sinh, có người xưng là mỗ tử, có người xưng đạo nhân, chữ mỗ có nghĩa "nào đó". Đến như chọn biệt hiệu thì lại tùy theo tính tình của mỗi ngườimà đặtcho hợp, cốt sao cho mình tự hiểu. Thư sinh, sở dĩ lấy biệt hiệu Bán Dạ Sinh, là vì thứ nhất tuổi còn trẻ, thứ hai đam mê tữu sắc, thích ban đêm mà không thích ban ngày, lại thích lúc nửa đêm mà không thích sau nửa đêm. Hơn nữa trong Kinh Thi có câu:
Hữ độ như hà
Kỳ dạ vi ương
Có nghĩa là:
Đêm thế nào
Đêm chưa quá nửa.
Biệt hiệu Vị Ương, hay (Tiền) Bán Dạ Sinh chính là xuất phát từ đó.
Nghe thư sinh kính ngưỡng quá lời, hòa thượng bèn đáp lại bằng một câu khiêm tốn. Thấy thầy trò họ đi bộ từ xa đến chắc đã đói bụng, sẵn cơm chín, hòa thượng giữ họ lại cùng ăn bữa cơm đạm bạc. Trong lúc thụ trai hai người đối tọa và cùng bàn luận đạo thiền rất tương đắc. Thì ra Bán Dạ Sinh vốn rất thông minh, không những học sâu học kỹ, mà còn tham bác cả tam giáo cửu lưu, không sách vở nào mà lọt khỏi mắt.
Đạo thiền vốn tinh thâm, đối với người khác phải giảng đi giảng lại trăm ngàn lần mà còn không hiểu thay, vậy mà đối với chàng, hòa thượng chỉ cần nhắc câu đầu là chàng hiểu ngay cả đoạn.
Tuy không nói ra nhưng hòa thượng đầy thắc mắc trong lòng: "Thật là một thanh niên trí tuệ! Chỉ giận một điều là tại một người học Phật như vậy, tại sao tạo hóa lại ban cho một tướng mạo thật oan nghiệt. Trông hình dung xét cử chỉ, rõ ràng đây là con quỷ dâm dục hạng nặng. Nếu mình không thu phục nó vào trong bị được, chắc chắn sau này không biết bao nhiêu phụ nữ phải khổ vì nó.
Nếu hôm nay mình không thấy thì thôi, đã thấy một người gây loạn như thế mà mình không ra tay trừ nạn cho chúng sinh, thì đâu phải là đạo từ bi. Dẫu nghiệt căn của nó cố định, không lay chuyển được, nhưng mình củng phải vận dụng hết lòng từ bi, xem có cứu được nó chút nào không."
Nghĩ vậy hòa thượng bèn nói với Bán Dạ Sinh: "Bần tăng từ khi lập tâm lánh đời đến nay, đôi mắt này đã nhìn thấy bao nhiêu là người. Cố nhiên là không nói đến bọn ngu phu ngu phụ rắp tâm huớng thiện, ngay cả những người có học thức, có địa vị, đã đến đây ngồi thiền nghe pháp, ai nấy đều là khách xa. Nói chung ngộ đạo và ngộ thiền là hai thứ thông minh khác nhau. Ngộ đạo dễ, ngộ thiền khó. Học nho nghe một có thể biết mười, còn học Phật may ra nghe một chỉ biết hai mà thôi. Không ngờ gặp hiền cư sĩ thông minh mẫn tiệp đến thế. Với tài năng ấy, nếu học thiền thì chỉ trong vài năm là có thể đắc tam muội. Sống ở đời, cái dễ được là cái hình thể, cái khó được là tính linh, dễ qua là thời gian, khó qua là kiếp số. Cư sĩ lại dây với cầu kiến làm Phật, thì đừng theo đường mạVậy thì tại sao không nhân buổi sáng hôm nay cắt bỏ ái dục, lánh hẳn vào cửa thiền. Ý tứ của bần tăng tuy vụng, nhưng chắc bổ ích phần nào. Nếu có thể phát được đại nguyện này, ra sức chứng được đại nhân quả này, thì trăm năm sau sẽ có thể, trên phối hưởng với tăng môn, dưới không theo lệnh của La sát, cư sĩ nghĩ sao?"
Bán Dạ Sinh đáp: "Từ lâu đệ tử vốn tha thiết với đạo thiền, trước sau thế nào cũng quay về với pháp môn. Có điều tam niệm của đệ tử một khi chưa thỏa, thì khó thoát ly. Hiễn đệ tử tuổi còn nhỏ, trước khi quy y phải xong hai việc, hưởng thụ xong vài năm kẻo uổng cả đời người, rồi sau đó sẽ xin xuống tóc quy y cũng không muộn".
Hòa thuợng hỏi: "Dám hỏi cư sĩ hai điều nguyện ấy thế nào? Phải chăng đó là công danh, phú quý, trước là cho bỏ công ăn học, sau là để vẹn nghĩa vua tôi hay không"
Bán Dạ Sinh lắc lắc đầu: "Thưa không, hai chữ công danh tuy nằm trong bổn phận của người đi học, nhưng người ắt được thì ít mà kẻ không thỏa thì nhiều. Hồi trước Lưu Bị cũng chưa từng thi đậu bao giờ, trong khi Lý Bạch là người có đại đăng khoa, thế nên có tài mà cũng cần có mệnh, thì đệ tử làm sao tự làm chủ dược mệnh? Ngay trong việc lập công danh sự nghiệp, cũng còn tùy số trời. Trời không cho, người không chịu, thì cho có lòng trung như Nhạc Vũ Mục, nghĩa khí như Quan Vân Trường cũng chịu thôi. Đành nát lòng, bỏ xác, có chắc gì giúp được cho nước nhà. Hai chữ lợi danh mà người ta coi là quan trọng, đệ tử biết không nên màng, nên nguyện ước của đệ tử không phải là ở chổ đó".
Hòa thượng hỏi: "Rốt ráo, sở nguyện của cư sĩ là gì?"
Bán Dạ Sinh đáp: "Sở nguyện của đệ tử chính là điều mà tự sức dệ tử có thể làm, là điều mà lòng dệ tử tin, tuyệt đối không phải là vọng tưởng, không là điều gì khó nói cho lắm. Không dám nói dấu sư phụ, trí nhớ cuả dệ tử khi đọc sách, sự giác ngộ của đệ tử khi nge đạo, tài chấp bút của dệ tử khi hành văn, nhất nhất hơn người. Mấy tay danh sĩ đời nay chẳng qua chỉ chắp nối, ráp đầu này nối đầu kia thế thôi, viết được vài ba thiên sách, in được một bộ thi văn là đã lập văn đàn nọ, mở thi đàn kia,múa may quay cuồng một cõi, thật chẳng qua chỉ toàn vay mượn. Theo đệ tử, muốn làm một danh sĩ chân chánh, bắt buộc phải đọc hết các sách lạ trong thiên hạ, phải giao thiệp vvới tất cả các bậc kỳ sĩ ở đời, phải đi chơi khắp các nơi danh sơn trong bốn cõi, rồi lui về mai danh ẩn tích, trứ thư lập ngôn để truyền lại cho đời sau, nếu may mà đè tên bảng hổ thì đem tài năng ra giúp nước, giúp đời, tạo dựng sự nghiệp, nếu vạn nhất văn phúc không tròn, cho dù ở địa vị thấp kém hơn người, còn lưu tiếng thơm muôn thuở. Vì thế đệ tử nhủ thầm trong bụng câu thơ sau đây:
Yếu tố thế gian đệ nhất tài tử.
Có nghĩa:
Là trang tài tử nhất trong đời.
Hòa thượng nói: "Đấy là câu thứ nhất, thế còn ước nguyện thứ hai?"
Bán Dạ Sinh dè dặt, như sợ bị hòa thượng cười, không dám nói ra.
Hòa thượng bảo: "Còn câu hai, nếu cư sĩ ngại không nói ra thì để bần tăng nói thay cho"
Bán Dạ Sinh nói: "Chuyện trong lòng đệ tử, làm sao sư phụ nói được?"
Hòa thượng nói: "Thì cứ để bần tăng nói đã, nếu sai thì phạt. Có điều nói ra mà đúng thì cư sĩ phải nhận là đúng,không được chối quanh"
Bán Dạ Sinh nói: "Lời sư phụ không những là của bồ tát, mà của thần thánh. Con muốn được sư phụ chỉ dẩn đâu là đường mê nẻo chánh, há dám chối từ."
Hòa thượng thung dung chậm rãi nói:
"Yếu thú thiên hạ đệ nhất vị giai nhân"
Có nghĩa:
"Muốn lấy một giai nhân bậc nhất thiên hạ"
Bán Dạ Sinh nghe xong bất giác ngẩn ngơ miệng há mắt giương, đứng yên một lát mới cười, nói: "Sư phụ quả là một bậc thần nhân. Hai câu này suốt ngày con chỉ đọc thầm trong bụng mà thôi. Vậy sư phụ như nghe được hết, đã đoán trúng được."
Hòa thượng nói: "Cư sĩ há không nghe câu:
Nhân gian tư ngữ
Thiên hạ nhược lôi?"
Có nghĩa:
(tiếng) Con người thì thầm với nhau
(chẳng khác ) Sấm động ở trên trời.
Bán Dạ Sinh nói: "Lẽ ra chuyện tình ái không nên đem bàn tại cửa thiền, nhưng sư phụ đã đề cập đến, đệ tử cũng xin phép đem thực tâm ra mà giãi bày. Không nói dấu gì sư phụ, đệ tử nghĩ dến đạo thì ít mà tơ tưởng đến tình dục thì nhiều. Xưa nay, bốn chữ tài tử giai nhân khắng khít với nhau, đã có tài tử thì phải có giai nhân mới xứng đôi, đã có giai nhân thì tài tử mới vừa kứa. Cho nay đệ tử chưa từng gặp tuyệt thế giai nhân, còn những phụ nữ có chút nhan sắc thì lại rơi vào tay bọn phàm phu tục tử, như vậy há không tủi phận hồng nhan lắm sao. Tài hoa của đệ tử hẳn không còn phải nói làm gì, ngay cả tướng mạo đệ tử cũng biết là không tệ, nhiều khi soi gương, cho dù Phan An, Vệ Giới ngày nay tái sinh, đệ tử quyết cũng không chịu nhường. Trời đã sinh ra một nam tử thế này, chẳng lẽ không sinh ra một gái nữ nhi thế kia cho xứng. Nay trên đời nếu không có giai nhân thì thôi, đã có thì đệ tử quyết tìm cho được. Vì vậy tuy đệ tử đã quá hai mươi tuổi mà vẫn chưa có chỗ nào, ý đệ tử không muốn phụ lòng trời đất đã ban cho cả tài lẫn mạo. Đệ tử phải về tìm cho được giai nhân mà lấy, rồi sinh dứa con trai để nối nghiệp tông đường. Bấy giờ tâm nguyện đã thỏa, không còn ham muốn gì khác, đệ tử không những chỉ tự quay đầu trở lại, mà sẽ cảm hóa vợ con cùng sang bờ bên kia. Sư phụ nghĩ sao?"
Hòa thượng nghe xong, im lặng một lúc rồi cười lạt nói: "Nghe qua đoán biết cư sĩ có nhiều ý nghĩ đen tối. Có điều ông trời sinh ra con ngườ, tạo nên vạn vật lắm khi không đụng. Nếu ban cho cư sĩ một hình hài xấu xí, thì có phải với trí thông minh sáng suốt không điều gì mà không hiểu rõ của cư sĩ, không chừng cư sĩ có thể quay về với chánh quả. Chính vì vậy mà xưa nay những người sứt cùi gãy gọng nhận chịu hình phạt của trời, lại dễ trở thành Tiên Phật. Cư sĩ được ông trời quá nuông chiều, chẳng khác nào đứa trẻ được cha mẹ tưng tiu, lúc nhỏ không hề bị đòn, bị mắng bao giờ vì bậc cha mẹ sợ con khóc, con đau. Đến khi lớn khôn, có làm điều sai trái mà bị quan đánh đòn, triều đình kết tội, bấy giờ lại trách cha mẹ xưa kia quá chiều chuộng. Đẹp đẽ tài ba thật không phải là là một điềm lành vậy. Cư sĩ cậy mình có tài mạo nhất đời, cứ nằng nặc đòi tìm cho được đệ nhất giai nhân, rồi nghĩ ra trăm phương ngàn kế hầu thõa mãn điều nguyện ước, bấy giờ sẽ xảy ra mọi việc có thể khiến cư sĩ sa vào địa ngục. Cư sĩ muốn xuống địa ngục, hay muốn lên thiên đàng? Nếu cam tâm muốn xuống địa ngục, thì hãy cứ đi tìm đệ nhất giai nhân, nếu còn muốn lên thiên đàng, thì hãy dẹp bỏ những ý nghĩ xằng bậy kia đi, mà xuất gia cùng hòa thượng già này"
Bán Dạ Sinh nói: "Lời sư phụ vừa nói rất có ý vị;có điều bốn chữ thiên đường địa ngục e có phần khuôn sáo cho hạng tầm thường,không giống lời lẽ của một bậc cao tăng."
Hòa thượng nói: "Nguyên tắc của tham thiền chẳng qua là muốn tự giác ngộ mà tu thân, tự lập ở chổ không sinh không diệt, tức là Phật. Vậy há thực sự có thiên đường để lên đó chăng? Cho dù vì thói nguyệt hoa mà phạm tội, thì cũng chẳng qua là tội làm điếm nhục đến danh giáo mà thôi. Vậy há thực sự có địa ngục mà xuống đó chăng? Người làm việc thiện thì lên thiên đường, kẻ làm điều ác thì xuống địa ngục , quả là hai câu sáo ngữ. Đối với người học thức như chúng ta, thì việc gì cũng có thể thoát sáo được, riêng với việc tu thân thì không thể thoát được tí nào. Rõ ràng là thiên đường địa ngục đều không có thật, nhưng cho dù không có thiên đàng, cũng không thể dùng thiên đường để làm bậc tiến lên cõi thiện; cho dù không có địa ngục cũng không thể lấy địa ngục dể răn kẻ ác. Cư sĩ chán nghe những lời khuôn sáo, bần tăng sẽ gác bỏ chuyện âm báo trong tương lai mà chỉ nói dương báo trong hiện tại, có điều nói đi nói lại, e không tránh khỏi có vài câu sáo ngữ giáo đầu. Nguời xưa có câu: "Mình không dâm vợ người, thì người không dâm vợ mình", quả là hai câu sáo ngữ hết sức cũ kỹ, hết sức thô sơ, hết sức bình thường có từ hồi nào đến giờ. Có điều, những kẻ tham hoa hiếu sắc trên đời này có mấy ai thoát được khuôn sáo này? Mình dâm vợ người ta, thì vợ mình cũng bị người ta dâm; mình làm nhục con gái người ta, thì con gái mình cũng bị người ta làm nhục. Muốn thoát được khuôn sáo thì chỉ có cách không gian, không dâm mà thôi; nếu muốn gian dâm thì khó có thể tránh được búa rìu của câu sáo ngữ. Cư sĩ muốn thoát sáo hay nhập sáo? Nếu muốn nhập sáo thì cứ việc đi tìm đệ nhất giai nhân, nếu muốn thoát sáo, thì xin dẹp bỏ những ý nghĩ xằng bậy kia, cùng xuất gia với hoà thượng già này."
Bán Dạ Sinh nói: "Những lời củ sư phụ rất thấu đáo. Có điều khi thuyết pháp cho bọn trẻ con ngu dốt thì phải nói tận tình, thế nào cho chúng toát mồ hôi hột mà không dám làm bậy, còn như thuyết lý với bọn đệ tử chúng con, e rằng không cần phải như thế. Ông trời lập pháp tuy nghiêm, nhưng lập pháp không phải là không có sự khoan thứ; trường hợp gian dâm ắt bị quả báo tuy nhiều nhưng trường hợp gian dâm mà không bị quả báo không phải là không ít. Cứ đi kiểm tra từng nhà thì rõ ngay. Nói chung lẽ tuần hoàn quả báo thật không sai, người làm diều bất thiện không thể không biết đến."
Hòa thượng nói: "Theo lời cư sĩ, thì những hành động gian dâm trên đời cũng có thể không bị quả báo chăng? Chỉ sợ Ông trời sẽ không để sơ hở như vậy khi lập pháp, hay là vì cư sĩ mắt tai trung hậu nên hóa ra như thế. Chứ theo bần tăng thấy thì xưa nay chưa hề có sách nào ghi chép trường hợp gian dâm với vợ người ta mà không bị quả báo. Chỉ miệng đời truyền nhau thôi cũng không biết cơ man nào mà kể, riêng kẻ xuất gia thọ giới không tiện nói ra đấy thôi, cư sĩ thử nghĩ lại xem. Tuy nhiên đi gian dâm vợ con người ta còn tiện nói ra, chứ như vợ con mình bị người ta gian dâm thì không tiện nói ra, do vậy ít người biết. Chưa kể vợ giấu chồng, con gái giấu cha, ngay cả người trong nhà củng hkông biết thay, nên chuyện quả báo cứ bảo làm gì có; mãi đến khi nắp quan đậy lại thì mới biết lời xưa khong ngoa, bấy giờ đã lộ liễu rồi, nhưng lại không thể nói ra cho người khác biết. Bất luận mình gian dâm vợ con người ta hay vợ con mình bị vì lẽ quả báo bị người ta gian dâm, chỉ cần khi ý nghĩ gian dâm đã nảy ra thì bất tri bất giác trong lòng của vợ con cũng sẽ bộc phát bao nhiêu là vọng niệm. Có một chuyện mà nhà nào cũng có xảy ra, người nào cũng có lần qua như thế này; nếu có những người đàn ông trong khi ân ái với người vợ xấu xí của mình đã nghĩ đến một người đàn bà xinh đẹp nào đó đã gặp lúc ban ngày, để tăng thêm khoái cảm, thì cũng có ngững người đàn bà lúc hành lạc với chồng xấu xí đã nghĩ đến một người đàn ông đẹp trai nào đó đã gặp lúc ban ngày để được khoái cảm hơn. Đấy cũng là một hình thức quả báo. Quả báo trong tâm tưởng còn là thế, huống hồ xâm nhập nhà người ta, gian dâm vợ con người ta, thì quỷ thần nào không thấy, trời đất nào không giận, mà hòng danh tiết vợ con mình được trọn vẹn? Bần tăng nói như thế, chắc không phải là sáo ngữ, cư sĩ nghĩ có đúng không?
Bán Dạ Sinh đáp: "Sư phụ nói rất chí lý, riêng có một điều, dám xin hỏi lại sư phụ. Kẻ có vợ mà đi gian dâm với vợ con người khác thì vợ con mình sẽ bị quả báo, điều ấy đã hẳn rồi. Nhưng dối với người không vợ, không con, nếu đi gian dâm vợ con người ta thì sao? Họ đâu có gí để chịu quả báo? Luật tròi như vậy há không phải là thiếu sót hay sao? Ấy là chưa nói trường hợp số vợ con của một người thì có hạn mà nữ sắc trong thiên hạ thì vô cùng. Thí dụ người ấy chỉ có một hai thê thiếp, một hai đứa con gái mà lại đi gian dâm vô số người khác, thì việc quả báo cho dù có chăng nữa, cũng không có gì là công bằng, như vậy có phải là vốn ít mà lời nhiều hay không, ông trời sẽ tính sao đây?"
Hòa thượng nghe Bán Dạ Sinh nói thế, thì biết đây là một tay cứng đầu không gì lay chuyển nổi, đành nử úp nửa mở nói: "Cư sĩ lý luận rất sắc bén, bần tăng thực không dám sánh lời. Có một điều, dó chỉ là lý thuyết suông, không có chi làm bằng, phải đợi khi nào sự việc xảy ra mới rõ. Cư sĩ hãy trở về tìm giai nhân mà cưới, sau đó sẽ có dịp ngồi trên nhục bồ đoàn mà tham ngộ. Từ đây về sau bần tăng sẽ không động khẩu nữ. Chỉ có một điều, đối với cư sĩ là người tài mạo siêu phàm, bần tăng thực không nỡ dứt đi cho được. Vậy thì sau này, vạn nhất cư sĩ vỡ được lẽ đạo, xin hãy về với bần tăng. Kể từ ngày mai trở đi, bần tăng sẽ ngóng cổ chờ".
Nói xong hòa thượng lấy giấy bút ra làm một bài thơ bốn câu năm chữ:
Thỉnh phao bì bố đại
Khứ tọa nhục bồ đoàn
Tu cập sinh thời hối
Hữu sai dĩ cát quan.
Có nghĩa:
Đã bỏ túi da mà đi
Theo đường nhục bồ đoàn
Phải kíp ngộ lúc sống
Đừng chết mới biết sai.
Rồi xếp tờ giấy lại trao cho Bán Dạ Sinh mà nói: "Lão đầu đà thô kệch này không tự lượng nên có bài kệ thường này. Thực ra, đó chẳng qua là xuất phát từ lòng ưu ái đối với cư sĩ mà thôi. Vậy cư sĩ hãy giữ lấy, ngày sau sẽ có dịp xét nghiệm lại".
Nói xong hào thượng đứng dậy với cử chỉ như tiển khách ra về.
Bán Dạ Sinh biết không tiện ngồi nán, tuy nhiên vì nể hòa thượng là một bậc cao tăng, nên không dám hậm hực bỏ đi, chỉ biết cúi đầu tạ lễ, nói: "Tính đệ tử ngang bướng, mong sư phụ từ bi tha thứ, ngày kia đệ tử có trở lại, kính xin sư phụ mở lòng dung nạp".
Nói xong lạy bốn lạy như lúc mới đến, hòa thượng còn dặn dò đôi câu trước khi chia ly.
Lai lịch của hòa thượng đến đây đã trình bày xong. Từ đây về sau này, chỉ xin nói hoàn cảnh Bán Dạ Sinh đắm chìm trong sắc dục mà thôi, tác giả chỉ trở lại với hòa thượng trong hồi cuối truyện.
Last edited by minhtien384; 30-06-2008 at 03:59 AM.
Hồi 3
Lão đạo sĩ kén lầm rể phong lưu
Gái đoan trang trao thân chồng phóng đãng
Lại nói về Bán Dạ Sinh, từ khi chia tay với Cô phong trưởng lão, thì lẩm nhẩm một mình:
"Thật là một bậc chân tu! Nhưng mà mình tuổi mới hai mươi, chẳng khác nào một đóa hoa tươi vừa nở, lại bảo cạo đầu đi tu chịu khổ, trên đời sao mà có con người không tình cảm đến thế. Hôm nọ mình đến, chẳng qua vì lão là một nhà sư nổi tiếng, mình trong bụng cũng có một số kiến giải bất đồng, lại muốn học hỏi cái lẽ mầu nhiệm của đạo Thiền, nào ngờ lão xem mình rất thường. Ăn nói đã khắc bạc không chịu nổi, lại còn làm bài kệ chê người không đáng là một bậc đại trượng phu thân dài vai rộng. Nếu làm quan, mình dư sức cai tri thiên hạ, quản lý muôn dân, chẳng lẽ kiếm một người vở mà không nổi, để lão xài xể như vậy. Nay mình quyết phải đấu với lão một trận, không gặp người đẹp thì thôi, nếu gặp thì nhất định không bỏ lỡ, phải phong lưu một phen, xem món nợ tình này có ai dám đến đòi không. Chẳng phải kiêu căng, cho dù là hạng phụ nữ nào đi nữa, nếu có được một người chồng tài hoa như mình, nhất định là ai mà dụ dỗ nổi. Mà như thế thì làm sao có chuyện thất tiết được. Lẽ ra bài kệ mình phải xé nát rồi đem trả lại cho lão, nhưng nghĩ lại sau này muốn làm cho lão cứng họng thì phải có cái gì làm bằng cớ, nên thôi. Mình giũ đó để xem rồi đây chính lão có biết hối lỗi hay không".
Nghĩ xong , Sinh bèn cuộn tờ giấy mà cất vào tay áo. Về đén nhà, Sinh bèn sai gia nhân đến các nơi mai mối tìm cho được nguời đẹp nhất thiên hạ. Vốn con nhà thế phiệt, lại có dung mạo Phan An, tài không thua Tử Kiến, cho nên tự dắc rằng ai mà không muốn có người rể như mình, có nữ nhân nào không muốn có người chồng như mình.
Thế là hằng ngày khối nhà bắn tiếng cầu thân. Con nhà nghèo thì đến cho chàng xem mắt từ đầu đến chân, con nhà giàu thì vì thể diện thì hẹn gặp nhau nơi chùa miếu, hoặc ngoài đồng vắng, hai người gặp nhau, người có tình, kẻ vô ý, vậy mà khi về lắm cô tương tư thành bệnh.
Riêng chàng không vừa ý ai cả. Có một bà mối nói với Sinh:
"Xem chừng, chắc không có cô nào xứng với cậu. Riêng có tiểu thư con gái của Thiết Phi đạo nhân, tên Qúy Hương, đẹp người đẹp nết may ra hợp với cậu thôi. Có điều, phụ thân của cô tính tình cổ quái, chắc không chịu để cậu xem mắt, mà cậu thì lại đòi xem mặt trước cho được, khó quá khó quá".
Bán Dạ Sinh nói:
"Tại sao gọi ông ấy là Thiết Phi đạo nhân? Làm sao biết cô ấy đẹp? Tại sao không chịu cho xem mắt?"
Bà mai nói:
"Ông lão ấy là một vị túc nho, cả huyện đều biết tiếng. Tính ông ấ rất lạ lùng kỳ quặ. Nhà dư ruộng đất nên không thèm giao dịch vói ai, đời không có lấy một nguời bạn, chỉ một mình đọc sách, bất cứ ai đdến xin làm quen cũng không tiếp. Một hôm có người khách lạ, vì mộ tiếng nên không quản đường xá xa xôi lặn lội đến thăm. Khach gõ cửa thật lâu, nhưng ông vẫn không ra mở, cũng không thèm lên tiếng. Khách đành đi, để lại một bài thọ trên cửa. Thơ có hai câu:
Đản tri cao sĩ bồng vi hô.
Thùy liệu tiên sinh thiết tác phi
Có nghĩa:
Những tưởng cổng nhà cao sĩ làm bằng cỏ bồng
Ai ngờ chờ mải chỉ thấy cánh cửa làm bằng sắt
Về sau, ông lão có dịp đọc câu thơ, rất lấy làm thích và nói:
"Hai chữ Thiết Phi, tức cử sắt, nghe nửa lạ nửa quen, mà không sai"
Ông bèn chọn làm biệt hiệu, tự gọi là Thiết Phi dạo nhân.
Ông không co1 con trai, chỉ sinh được một gái như hoa, như ngọc. Bọn tôi làm mai, từng gặp hàng ngàn, hàng vạn cô gái nhưng chưa từng thấy cô nào sánh nổi. Lại được cha dạy dỗ, không có loại thi từ ca phú nào mà cô không làm được. cô còn là một tiểu thư khuê môn bất xuất, hội hè đình đám không hề lui tới, tuổi đã mười sáu rồi mà chưa từng đi ra ngoài, loại tam cô lục bà như ni cô sư bà... có bao giờ bén mảng tới nhà cô được.
Riêng có một hôm, khi tôi đi ngang qua nhà, ông lão đứng trước cửa gọi:
"Có phải bà là bà mối đấy không?"
Tôi đáp:
"Thưa chính tôi đây"
Họ mới đưa tôi vào nhà. Ông lão chỉ cô gái, nói:
"Dây là con gái của lão, lão muốn tìm một chàng rể tướng mạo dễ coi, lại biết hiếu thuận cha mẹ, bà để ý kiếm dùm lão một người."
Tôi mới nhắc đến cậu, thì ông ấy nói:
"Già này có nghe danh của cậu ấy, nhưng không rõ đức hạnh ra sao"
Tôi nói:
"Cậu ấy tuy tuổi thiếu niên nhưng tài lão thành, tiếng đồn không ngoa. Duy có một điều là cậu ấy muốn thấy mặt người rồi mới nộp sính lễ. Như tiểu thư đây tài mạo song toàn chắc vừa ý cậu, nhưng không rõ tôn ông có cho phép cậu ấy đến thăm không"
Ông lão nghe xong sầm nét mặt nói:
"Ăn nói hồ đồ. Chỉ có người Dương châu nuôi ngựa gầy mới phải cho người ta xem trước, chứ con gái nhà ta đời nào lại cho trai đến xem mặt."
Nghe ông lão nói vậy, tôi không biết nói gì thêm nên rút lui, bởi vậy e rằng việc này khó thành.
Bán Dạ Sinh suy nghĩ rồi nhủ lòng:
"Như ta hôm nay, trên khôngcòn cha mẹ, dưới không có anh em, một thân một mình, mai kia cưới vợ, biết nhờ ai trông trước trông sau, nhất là những lúc vắng nhà vì phải đi học xa hoặc ra làm quan. Ông cụ đây tâm tính như thế, phép tề gia như thế nào, không cần nói cũng rõ. Mình mà vào làm rể nhà này thì việc nhà việc cửa đã có cha vợ, đi đâu cũng khỏi lo gì cả, thật càng hay chứ sao"
Rồi tuy không nén được vui mừng, chàng cứ nằng nặc đòi được dàn xếp để được thoáng thấy tư dung hay nghe qua tiếng nói cuả nàng, vì vợ con là chuyện một đời. Bà mối mới bảo:
"Sao cậu không đi tìm thầy đồng xem quẻ? Nhân duyên tốt thì cậu cứ gọi Lưu bà này xucù tiến mối manh, tiện lợi đôi bề".
Chàng nghe lời, hôm sau lại thầy đồng nổi tiếng trong vùng, khấn khứa tên tuổi đôi đàng, xóc quẻ thì đươcï quẻ dạy:
Không còn hồ nghi
Nữ nhân quý báu
Cẩn thận canh chừng
Không cho ruồi phạm
Sinh đọc xong, nhủ rằng vợ chưa cưới chắc hẳn là đẹp, nhưng còn muốn được rõ hơn, mới xin xăm thêm một quẻ, quẻ thứ hai ra rằng:
Lấy vợ đoan trang
Chồng phải kính lễ
Khóa chặt cửa nhà
Ruồi vô không lọt
Chàng bằng lòng lắm, mới cho gọi mụ mối đi liệu việc hôn nhân. Thiết phi đạo nhân ban đầu còn từ chối, sau mụ mối nói mãi, rồi cũng thuận gã, lại còn viện lẽ nhà neo người, bắt Sinh ở rể.
Lại nói về dung mạo của quý hương, hôn lễ xong xuôi, tấm mạng che mặt tân nương đêm động phòng một khi đã tháo, quả thật dung nhan hoa nhường nguyệt thẹn, trên đời có một không hai, còn hơn lời mụ mối mô tả nhiều, hẳn nhiên là vậy
Duy một điều, tính tình nết na có thừa mà lẳng lơ tình tứ lại không đủ nên đôi phần không được hạp ý chồng. Ấy chẳng qua vì thường ngày ở nhà được cha mẹ dạy dỗ nghiêm túc, tai không nghe dâm thanh, mắt không nhìn tà sắc, sách đọc nếu không là Liệt nữ truyện thì cũng là Hiếu nữ kinh. Mà những điều này thì trái lại với tâm sự của Bán Dạ Sinh , cho nên Sinh đã đặt cho nàng hỗn danh Nữ đạo học, bởi vì từ ngôn ngữ dến cử chỉ đều giống hệt tác phong của cha.
Nghe ai nói một câu cợt nhả là nàng đỏ mặt, lập tức bỏ đi chổ khác.
Bán Dạ Sinh đôi phen đòi hoan lạc vơi nàng lúc ban ngày để đưọc ngắm xem chổ kín nhưng nàng xấu hổ, quyết liệt từ chối. Đôi dịp định kéo vợ lại lột bỏ xiêm y thì nàng la hét inh ỏi như bị cưỡng dâm vậy.
Ban đêm nàng ngoan ngoãn trong bổn phận vợ chồng, có điều trông nét mặt không vui, không biết sao, chỉ thấy nhạt nhẽo mà không thấy gì hào hứng. Lúc ân ái với nàng, Sinh chỉ vừa vừa phải phải mà thôi,vì nàng không muốn chồng bày vẽ nọ kia. Muốn gần gụi theo lối "cách tường thủ hỏa" (cách vách lấy lửa), tức ôm hậu bộ), thì nàng cho là điều nhơ nhuốc, không hợp tác. Muốn xáp trận theo lối "đảo kiêu lập chúc" (chúi ngọn nến xuống, tức trồng chuối), thì nàng sợ hãi như lỗi đạo phu thê, phải khó nhọc lắm mới gác được chân nàng lên vai. Còn khi khoái cảm đến tột cùng, có kêu nàng mấy tiếng em em, mình mình, nàng cũng làm ngơ không đáp
Bán Dạ Sinh rất đỗi khổ tâm, nghĩ thầm trong bụng:
"Tiếc thay một tuyệt thế giai nhân, mà không có một chút lơi lả. Nàng chẳng khác một khúc gỗ, một pho tượng, nằm bên cạnh mình, có khoái lạc gì dâu, nhưng biết làm sao đây. Thôi thì từ từ uốn nắn, may ra có thay đổi được chăng".
Bèn ghé hiệu sách mua một quyển Xuân cung trình bày rất tinh xảo ba mươi sáu tư thế nam nử hợp hoan. Quyển này do học sĩ bản triều làTriệu Tử Ngang soạn gồm ba mươi sáu bài thơ dùng ca tụng lạc thú ái ân. Sinh đem về phòng để cùng đọc với nàng, thâm ý là để nàng thấy trai gái giao hoan với nhau không phải đơn giản chỉ là một lối, trái lại thiên biến vạn hóa vô cùng, khiến cho lạc thú phòng the thêm lên nhiều vẻ, rỏ ràng là những trò nọ kiểu kia giữa nam nữ bất lâu không phải do Sinh tự bày ra, người xưa cũng đã làm rồi, sách vở thời sau ghi lại là để làm chứng đấy thôi.
Lúc mới cầm sách, Qúy Huơng không biết bên trong nói gì, nghĩ bụng nếu không phải nói về núi sông thì chắc phải nói về hoa cỏ.
Nhưng khi giở sách ra xem thì lại thấy ở hai trang đầu có đề bốn chữ đại tự Hán cung di chiếu (hình ảnh còn lưu lại trong cung điện nhà Hán). Nàng nghĩ trong cung điện nhà Hán có rất nhiều hiền phi thục viện, chắc đây là di ảnh của các bà ấy, nên tò mò lật xem. Chừng lật qua trang ba thì thấy một ngươi đàn ông ôm một người đàn bà, cả hai đều trần truồng như nhộng, giao tình bên một hòn non bộ. Lập tức nàng đỏ mặt tía tai, nổi giận mà rằng:
"Loại cách bậy bạ này lấy ở đâu về? Sao lại để ở đây làm ô uế phòng ta? Mau gọi a hoàn đem đi đốt".
Bán Dạ Sinh cản lại, nói:
"Đồ cổ dấy, giá trăm lượng vàng. Anh mượn của bạn về xem. Nếu em có trăm lượng vàng để thường cho người ta, thì hãy đốt; nếu không, em nên để đó cho anh xem chơi vài hôm, rồi đem trả cho người ta"
Qúy Hương thưa:
"Xem danh thư pháp họa để bồi dưỡng tính tình, chứ loại sách nhảm nhí này đọc có ích gì?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Nếu là truyện sằng bậy, thì họa công vẽ lại để làm gì và người sưu tầm cũng không dại gì bỏ ra một số tiền lớn để mua về. Phải nói chỉ vì từ khi khai thiên lập địa đến giờ, dây là việc làm đứng đắn nhất. Cho nên văn nhân học sĩ dùng màu sắc để vẽ dùng lụa là để thêu, hoặc bày nơi hàng sách, hoặc giữ chốn kho tàng, để người sau biết mà bắt chước, nếu không lẽ âm dương giao cảm dần dần sẽ bị mai một, đến nỗi sẽ xảy ra cảnh chồng bỏ vợ, vợ Oán chồng, nhân gian tuyệt đường sinh con đẻ cháu. Hôm nay anh mượn về, không nhũng để chính anh xem, mà còn muốn cho em đọc để hiểu lẽ đời, rồi mới thụ thai sinh con đẻ cái. Có như vậy sẽ hết bị trói buộc bởi quan niệm đạo đức, mà tình vợ chồng sau này còn đơm bông kết trái nữa. Sao em tỏ vẻ muộn phiền?"
Qúy Hương bảo:
"Em không cho đây là việc đứng đắn. Sao xưa cổ nhân không bày ra phép tắc dạy người ân ái công khai giữa ban ngày, mà lại lén lút chờ canh khuya thanh vắng trong phòng tối tăm chật chội, khác nào kẻ trộm. Xem thế đủ rõ là không phải chút nào".
Bán Dạ Sinh đáp:
"Nàng nói vậy cũng có lý. Nhưng toàn do lỗi từ thân phụ, bởi hồi nhỏ cứ nhốt nàng trong nhà, mặt trời không thấy, không hề nghe chuyện trăng hoa, đầu óc hẹp hòi, kiến văn ít ỏi, nào có biết đời là gì. Đời thì chỉ có anh đây, giữa bọn đàn ông mới hiểu rành chuyện phong lưu lịch duyệt mà thôi. Cứ như đàn bà con gái ai cũng như em cả, nào ai dám nghĩ vợ chồng cũng nên hợp hoan bạch nhật? Cặp nào hành dâm ban ngày rồi công bố cho đời biết? Nếu chưa ai hề làm thế, sao họa công lấy đâu làm căn cứ, vẽ lại trong sách, tài tình sống động như vầy... làm ai ngó cũng xao xuyến tâm can?"
Qúy Hương nói:
"Vậy chớ ba má em không phải vợ chồng sao, mà nào có bao giờ yêu đương ban ngày".
Bán Dạ Sinh nói:
"Xin hỏi làm sao em biết được là ba má không giao hoan ban ngày?"
Qúy Hương nói:
"Nếu có thì em cũng bắt gặp một lần. Chẳng lẽ em tới muời sáu tuổi rồi mà không bắt gặp được lần nào hay sao. đừng nói chi thấy, ngay cả nghe, em cũng chưa nghe bao giờ".
Bán Dạ Sinh cười to:
"Thôi đi cô ơi, việc đó con cái trong nhà không thấy, không nghe, chứ còn bọn a hoàn, nô tỳ thì có đứa nào không nghe không thấy. Ba má khi nào giao hoan thì phải đợi em đi khỏi, rồi khóa trái cửa lại, chứ em mà biết đươc, lỡ động lòng xuân rồi sinh dạ băn khoăn, ấm ức trong lòng thì sao, cho nên ba má phải giấu em. Em không tin cứ hỏi a hoàn của em mà xem ba má ban ngày có làm tình hay không."
Qúy Hương suy nghĩ một chập, nói:
"Ban ngày ba má cũng thường đóng cửa ngủ, có lẽ để làm việc này cũng không biết chừng, sau đó hai ông bà nhìn nhau có vẻ ngượng ngùng."
Bán Dạ Sinh nói:
"Làm tình ban ngày thích hơn làm tình ban đêm gấp mưới lần. Cái thú ở chổ vợ chồng nhìn thấy nhau mới hào hứng hơn. Riêng có hai loại vợ chồng không bao giờ yêu nhau ban ngày."
Qúy Hương hỏi:
"Hai loại nào vậy?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Loại thứ nhất, chồng xấu vợ đẹp, loại thứ hai vợ xấu chồng đẹp"
Qúy Hương nói:
"Tại sao hai loại vợ chồng này không làm tình ban ngày được?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Khi lâm trận, thì cả hai vợ chồng phải thương yêu nhau, tinh thần huyết mạch phải giao hợp với nhau mới thích. Nếu người vợ da dẻ trắng phau, nỏn nà như một viên ngọc từng giũa mài, thì người chồng cởi xong quần áo ôm vợ vào lòng, vừa ân ái vừa ngắm nhìn, tự nhiên sẽ cảm thấy cực kỳ khoái lạc, hạ bộ bất giác sẽ cứng lên và to ra. Nhưng nếu người đàn ông xấu như ma, thịt vừa den vừa thô, mặc quần áo để che lấp, chứ đã cởi rồi thì cái xấu xí sẽ lộ hết ra ngoài, không còn cách nào che giấu được. Đặt cái xấu xí bên cạnh cái mỷ miều, thì làm sao người đẹp không chán ghét mà buột miệng chê trách thành lời. Thế là cái vật cứng kia sẽ mềm đi, cái vật to kia sẽ thun lại, không biết đến bao giờ mới hành sự lại được, thử hỏi còn khoái lạc ở đâu. Thành ra đành làm tình ban đêm là hơn, vì còn che dấu được. Đó la trường hợp vợ đẹp chồng xấu. Còn trường hợp vợ xấu chồng đẹp cũng vậy, không cần phải nói thêm làm gì.
Riêng vợ chồng mình thì khác: em trắng, anh cũng trắng, em hồng anh cũng hồng, em nõn nà anh cũng nõn nà, nếu mình không hành lạc ban ngày, không cùng khoe da thịt với nhau mà cứ chui vào chăn mền để tìm khoái cảm, há không phải là mai một cả một đời, có khác gì những cặp vợ chồng xấu xí. Em không tin, mình cứ thử xem, so cái thú vị với lúc làm tình ban đêm ra sao."
Qúy Hương nghe đến đây, yên lặng nghẫm nghĩ, mặt tuy bẽn lẽn mà lòng đã xiêu, má ửng hồng, mắt long lanh.
Bán Dạ Sinh nghĩ thầm:
"Dục tình đã dậy, còn đợi chi chưa ra tay.
Có điều nàng chớm động tình, sóng tình chưa dậy, nếu vồ vập ngay thì có khác gì kẻ đói gặp thức ăn, cứ chụp nuốt, không kịp nhâm nhi, rốt cuộc nào biết thơm ngon là gì. phải làm cho nàng thành quýnh quáng, dâm tình tột độ, chừng đó hãy gầy cuộc mây mưa".
Sinh bèn ngồi lên ghế bành, kéo nàng vào lòng lật từng bức họa trong quyển Xuân cung cùng xem với nàng. Phần trìngh bày có khác với loại sách cùng loại. Trong mỗi bức họa, nử trang trên vẽ cảnh xuân tình, nửa trang dưới là lời bạt, mấy câu đều giải thích sự việc, mấy câu sau ca tụng tài nghệ của người vẽ, tất cả đều là bút phê của các bậc danh nhân.
Bán Dạ Sinh dặn nàng tưởng tượng như đang ở trong cuộc, thấm nhuần tinh thần từng bức họa để sau này bắt chước cho khéo. Sinh vừa xem vừa đọc cho nàng nghe.
Bức thứ nhất vẽ thế Túng điệp cầm phong (mặc bướm tìm hương). Lời bạt ghi: người nữ ngồi bên hòn non bộ, hai chân bẹt ra, người nam đưa ngọc hành vào âm cung, luồn bên này lách bên kia nhu bướm tìm nhị hoa. Bấy giờ:vì nam, nữ mới nhập cuộc chưa đến hồi cụp lạc, nên mắt họ giương to, trông không khác lúc bình thường cho lắm.
Bức thứ hai vẽ thế giáo phong nhưỡng mật (ong khôn lo hút mật), lời bạt ghi: Người nữ nằm ngữa trên chăn bông, tay nắm ch8ạt hai vế đưa lên cao để đón ngọc hành, người nam do d0ó, thấy rõ nhị hoa ở chỗ nào, tùy tiện tấn công. Bấy giờ vẽ mặt người nữ khao khát, còn người nam thì mặt mày gay cấn, khiến người xem phải hồi hộp, lo âu giùm, rõ thật tạo hóa trớ trêu.
Bức thứ ba vẽ thế Mê điểu quy lâm (chim lạc bay về rừng). Lời bạt ghi: người nữ nằm trên giường, hai chân giơ lên, hai tay đỡ vế của người nam, người này từ trên ấn thẳng xuống, nom như chim kia đi lạc đã lâu, thấy rừng cũ lao thẳng về. Nam nữ thần khí bừng bừng nét vẽ kỳ diệu chẳng khác nào bút bay mực múa vậy.
Bức thứ tư có tên Ngạ mã bôn tào (ngự đói tìm máng cỏ). Lời bạt ghi: Người nữ nằm trên giường, hai tay ôm quàng lấy người nam, trông như bị buộc bào nhau, hai chân gác lên vai của người nam. Ngọc hành mất hút vào trong âm cung, khít khao không hở một chỗ nào như ngựa đói vục đầu ăn cỏ trong máng vậy. Bấy giờ cả hai như lả người đi, mắt định nhắm mà vẫn muốn trông, lưỡi định thụt vào mà vẫn thè ra. Nét vẽ rất thần tình.
Bức thứ năm vẽ thế Song long đấu luyện (hai rồng mệt đấu nhau). Lời bạt ghi: Đầu người nữ kê bên gối, hai tay buông xuôi mềm mại như bông, đầu người nam thì dựa bên tai người nữ, toàn thân buông xuôi cũng mềm mại như bông. Bấy giờ hai người đã thỏa, hồn thả theo mộng đẹp, lặng lẽ sau cơn kích động mạnh, tuy nhiên hai chân của người nữ vẫn còn gác trên hai vai của người nam chưa hạ xuống, thần thái ẩn vẻ sinh động, nếu không có khác gì hai tử thi, người xem khoái cảm đến cực độ, tưởng chừng mình cũng đang cùng họ "chung quan chung huyệt" vậy.
Xem đến đây, Qúy Hương bất giác không dằn được nỗi hứng tình, Bán Dạ Sinh định lật sang trang khác. Sinh đang định lật sang trang khác xem tiếp với nàng thì nàng đẩy quyển sách ra rồi đứng dậy, uể oải nói:
"Sách hay ở chỗ nào, làm người ta thấy khó chịu. Anh xem một mình đi, em đi ngủ đây".
Bán Dạ Sinh ôm nàng vào lòng cười nói:
"Em cưng, trang sau còn hay lắm, xem xong mình sẽ đi ngủ".
Qúy Hương nói:
"Chẳng lẽ ngày mai không còn thì giờ để xem hay sao, làm gì nhất định phải xem cho hết ngày hôm naỵ"
Bán Dạ Sinh biết nàng đã động lòng, bèn kề miệng lại mà hôn. Cả tháng nay, vợ chồng tuy đã ăn ở với nhau, nhưng Bán Dạ Sinh nào biết lưỡi vợ dài ngắn, vì mỗi lần Sinh định hôn, miệng nàng dều mím lại. Lần này thì khác, miệng hoa hé nở, lưỡi nàng còn êm ái giao tiếp với chồng.
Bán Dạ Sinh nói:
"Em cưng, mình không cần lên giường làm chi, cứ coi ghế này là hòn non bộ rồi bắt chước theo sách mà làm, xem sao."
Qúy Hương làm mặt giận, nói:
"Bừa bãi như vậy há có phải là con người nữa không?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Rõ ràng không phải việc của người, mà là việc của thần tiên. Anh với em thử làm thần tiên với nhau một lát nhé."
Nói xong, Sinh đưa tay lần cởi giải lưng nàng. Qúy Huơng tuy ngoài miệng không chịu nhưng bụng đã ưng. Nàng chịu gác chân lên vai để mọi sự dễ dàng.
Cởi xong quần ra, với nhau thấy ướt một khoảng, thì biết nàng đã rịn dâm thủ trong khi xem tranh. Sinh cũng tháo quần mình, đặt nàng ngồi trên bụng,dang hai đùi mà đưa dương cụ vào âm cung, xong xuôi mới cởi nốt áo phần trên mình vợ. Tại sao không bắt đầu từ trên xuống, lại cởi quần trước rồi mới đến áo? Phải là tay sành sỏi như Bán Dạ Sinh mới làm như thế, vì nếu cởi áo trước, người nữ mặc dầu trong lòng rất nôn nóng, nhưng ngoài mặt vẫn còn e thẹn, do đó dễ gặp kháng cự. Còn khi đại tướng nơi bản doanh đã bị kềm chế rồi thì các nơi khác muốn làm gì chả được. Binh pháp gọi đó là Cầm vương đảo huyệt (đập hang bắt vua).
Quả nhiên Qúy Hương riu ríu để Sinh từ từ lột sạch quần áo.
Bán Dạ Sinh cũng cỡi hết y trang trên mình, khởi cuộc mây mưa.
Hai chân nàng dang ra hai bên ghế, dương vật vào trong rồi cứ thế mà theo bức họa thứ nhất mà thực hành, hết cạ bên nọ lại cào bên kia. Nàng soải tay với nắm hai thành ghế, hạ thể nhấp nhô đáp ứng phu quân, ngẫu nhiên theo đúng bức họa số hai trong Xuân cung. Bỗng dương cụ chạm đến một nơi mà nàng bỗng cảm thấy tê nhưng không phải tê, mê nhưng cũng không biết có phải là mê, nhột mà như ngứa, chịu không thấu mà bỏ không đành.
Nàng nói:
"Một chỗ ấy thôi anh ơi".
Bán Dạ Sinh biết nhị hoa đã chạm, nên càng ra sức tróc nã trong cấm địa, dồn hết sức lục công kích một nới mà thôi. Một cách dìu dặt, ngọc hành dần dần trổ tài, hết đi từ cạn đến sâu, lại đi từ chậm đến nhanh, trước sau ra vô tới mấy trăm lần. Hai tay Qúy Hương bất giác ôm ghì lấy mông Sinh, người nảy lên, nhục thân như ra công vây hảm chặt tướng địch đang hỗn xược tung hoành, tình thế gay cấn, thật không khác tình trạng bức họa đồ số ba. Bán Dạ Sinh cũng lấy tay o bế hạ thể nàng, nhưng trơn tuột không biết bám tay vào đâu, vì dâm thủy lêng láng khắp cả.
Bán Dạ Sinh nghĩ thầm:
"Cô này đang đê mê cực độ, lẽ ra còn phải phá ccô ấy một phen. Nhưng đây là bước đầu, phải để cô ấy thật no say đã rồi mới áp dụng phép nuôi vịt."
Sinh bèn nhắc chân nàng lên vai, hai tay ôm lấy eo thon của nàng tiếp tục thẳng cánh thọc vào.
Bấy giờ ngọc hành trơ trẻn và hùng hổ hơn, lấp hết âm cung không chừa một chỗ trống. Sinh lại thúc đẩ thêm vài trăm lần nữ. Mắt Qúy Huơng trở nên mông lung đờ đẫn, tóc tai xổ tung, thân thể lả ra như người buồn ngủ.
Bán Dạ Sinh vuốt ve nàng, nói:
"Em cưng, anh biết em sắp tới bờ rồi. Trên ghế này không tiện, mình lên giường tiếp tục nhé".
Qúy Huơng đang hồi khẩn trương, sợ bỏ lên giường thì không khỏi ngọc hành rút ra ngoài mất, hứng thú gián đoạn, huống chi lúc bấy giờ chân tay rũ liệt không thể nhấc lên được, có muốn lên giường cũng không tự đi dược. Vì vậy nghe Sinh đề nghị, nàng nhắm mắt lắc đầu.
Bán Dạ Sinh nói:
"Em cưng, em không đi nổi phải không?"
Qúy Hương gật.
Bán Dạ Sinh nói:
"Anh không nỡ để em đi. Anh bồng em lên nhé"
Sinh bèn ôm chặt lấy tấm lưng thon, miệng nút chặt lưỡi nàng, dương cụ vẫn khắn khít nơi xuân cung hkông rời, ẵm nàng lên dập dình đi theo kiểu "tẩu mả khán hoa" (cỡi ngựa xem hoa). Đến giường, Sinh đặt Qúy Hương xuống, lấy gối chêm dưới eo nàng, rồi cong chân nàng lại, thúc đẩy thêm vài trăm lần nữa.
Qúy Hương bỗng rên lên:
"Anh yêu, em chịu hết nổi rồi"
Chỉ nói được bấy nhiêu, rồi nàng ôm chặt Bán Dạ Sinh mà rên như người s8áp chết.
Bán Dạ Sinh biết âm tinh đã ra, nên nhắm vô nhị hoa, từ bên tên nhấn ngọc hành mạng thêm như thể bồi cho nàng chết luôn. Qúy Hương liền hồn siêu phách lạc.
Rồi hai người ôm nhau lả ra mà ngủ. Hồi lâu Qúy Hương cựa mình, nói:
"Anh yêu, em mới chết đi sống lại, anh có hay không?"
Bán Dạ Sinh nói:
"Sao anh không hay. Như thế không gọi là chết, mà là đê mê"
Qúy Hương nói:
"Thế nào là đê mể"
Bán Dạ Sinh nói:
"Nam có dương tinh, nữ có âm tinh. Lúc hành lạc, khi khoái cảm lên đến cực dộ, thì tinh suất. Lúc sắo xuất tinh, thì từ da thịt đến gân cốt thảy dều tê cứng, hồn phách mê mẩn, rồi tinh mới xuất. Như thế là đê mê, như trong bức họa Xuân cung số năm ban nãy. Em đã xem qua, chẳng lẽ không nhớ sao?"
Qúy Huơng nói:
"Theo anh nói đê mê xong có thể tỉnh lại, có nghĩa là không chết, phải không?"
Bán Dạ Sinh nói Người nam, người nữ mỗi lần làm tình với nhau có đê mê. trong khi người nam đê mê có một lần thì người nữ, nếu âm tinh chưa ra vẫn có thể đê mê mấy chục lần. Đê mê là cực khoái, chớ có phải là chết đâu."
Qúy Hương nói:
"Khoái lạc như thế, dẫu chất cũng vui, huống chi là không chết. Như thế này thì từ nay về sau, ngày nào em cũng đê mê, đêm nào em cũng đê mê".
Bán Dạ Sinh cười to:
"Em thấy chưa, anh nói có sai đâu, cuốn Xuân cung này có phải bửu bối hay không"
Qúy Huơng nói:
"Đúng là bảo vật. Chỉ sợ bạn anh đòi về"
Bán Dạ Sinh nói:
"Nói gạt em chơi, chứ thật ra sách này của anh muạ"
Qúy Hương nghe xong, vui mừng khôn xiết nên bật cười. Ân ái xong, hai người trở dậy vận y phục rồi cung nhau tiếp tục xem quyển Xuân cung, đến khi cao hứng, lại cùng nhau ân ái. Kể từ hôm ấy, hai vợ chồng trở nên tâm đầu ý hiệp, đường tình càng thêm khắng khít.
Từ khi xem Xuân cung, Qúy Hương đã vơi lễ giáo, thành môn sinh chăm chỉ trong trường phong lưu, ngày đêm không quản ngại thực hành cách thức mới của thú gió trăng trong sách, dẫu táo bạo khó khăn đến đâu cũng thực tập cho được, hoặc trồng chuối theo "đảo điêu lập chúc", ôm mông như "cách sơn thủ hỏa". Rồi thì ba tất sen vàng gác lên vai chồng mà ngủ, có muốn hạ xuống lại không phải dễ.
Rồi dần dần trong khi ân ái, tiếng động da thịt cọ xát, nào tháo độ hăng say dâm cuồng giúp cho cuộc mây mưa thêm phần nồng thắm, tất cả đều không thiếu. Và để tăng thêm hứng thú, Bán Dạ Sinh còn dến tiệm sách mua về các loại sách phong tình, như Tú Tháp dã sữ, như Quân truyện, như Bà tử truyện, cả thảy một hai chục cuốn đóng thành bộ, để trên bàn cho nàng xem lúc nào cũng được, còn sách đã đọc xong trước kia thì bó lại cất, chỉ e nàng bỏ mới ôn cũ, mà trở về vẻ đạo mạo như ngày trước. Tình vợ chồng thắm thiết, hòa hợp, vui sướng hơn bao giờ, nay thì dù có vẽ ba trăm sáu mươi bức xuân cung cũng không diễn tả cho hết được
Có thể nói, Bán Dạ Sinh đến đây là khoan khoái tột độ rồi, riêng có một diều là trong hki vợ chồng hết sức hài hòa, thì giữa ông nhạc và chàng rể có chút gì không hợp. Nguyên nhân là Thiết phi đạo nhân vốn cố chấp, thích chất phác ghét phồn hoa, không ưa chuyện trăng hoa, chỉ mến bàn về vấn đề đạo lý.
Từ khi Bán Dạ Sinh vào ở rể, trông thấy Sinh ăn mặc diêm dúa, bảnh bao, đạo nhân cảm thấy buồn rầu, đâm ra hối hận, than thầm:
"Gã này chỉ có cái mã mà không có cái ruột, chắc không nên người, con gái ta còn biết nương tựa vào đâu. Nhưng sính lễ đã nhận, duyên châu trần đã kất, không thể thay đổi gí được nữa. Thôi đành đã lỡ tính theo lỡ, tùy cơ mà răn đe, dạy dỗ nó nên người đứng đắn".
Vì vậy từ lối ăn mặc tiếng nói đến việc đi đứng ngồi nằm, nhất nhất đều để tâm sử trị.
Lời xưa nói rất đúng "giang sơn dí cải, bỉnh tính nan di", Bán Dạ Sinh tâm tính trẻ tuổi, lại cha mẹ mất sớm, chưa từng bị người lớn kềm chế, nân ai dễ gì bắt bẻ được. Vì vậy có mấy lần Sinh bất bình cha vợ. Có điều nghĩ đến tình vợ chồng sợ bị sứt mẻ, Sinh đành nhẫ nhục, nhưng nhịn mãi rồi cũng tới mức mà thôi.
Sinh Dành dấu Qúy Hương mà, bàn riêng với nhạc phụ:
"Con vốn quê mùa cục mịch, trên thiếu thầy giỏi, dưới vắng bạn hiền, do đó học hành không tiến, công danh chẳng đạt. Nên con muốn xin phép bái biệt nhạc phụ đi đó đi đây, trước là để mở rộng kiến văn, sau là tìm thầy chọn bạn học hành, đọi khoa thi, may ra đỗ đạt hầu xứng với công ơn nhạc phụ đã chọn con làm rể, ý nhạc phụ nghĩ sao?"
Thiết phi đạo nhân nói:
"Từ khi con vào làm rể nhà ta đến nay đã được nữa măm rồi, nay mới có câu nghe được, chứ mọi khi toàn lời lẽ của bọn đãng tử. Con chịu đi xa cầu học là điều rất tốt, sao ta lại không bằng lòng."
Bán Dạ Sinh nói:
"Cha đã bằng lòng, nhưng e vợ con lại trách con bội bạc, ăn ở với nhau chưa được bao lâu mà đã vội đi xa, chi bằng cha cứ nói đây là ý cha muốn, không can gì đến con, để con ra đi khỏi trở ngại"
Đạo nhân nói:
"Cũng phải"
Thế là việc bàn tính đã quyết. Trước mặt con gái, đạo nhân khuyên rể đi xa cầu học. ra vẻ không chịu, đạo nhân bèn làm mặt giận, bấy giờ Bán Dạ Sinh mới chịu vâng lời.
Qúy Huơng đang thời say mê khoái lạc, bỗng nghe nói chồng sắp ra đi thì chẳng khác nào trẻ con bị dứt sữa, vô cùng buồn khổ.
Thế là nơi buồng the, mây mưa dập dồn nối tiếp, cốt để bù trước những lúc thiếu thốn sau này. Riêng Bán Dạ Sinh cũng hiểu, rằng trên con đường muôn dặm lẻ loi, không chắc gì nhất thời tìm được một giai nhân nào, nên dốc lòng ra sức để thỏa mản vợ, chẳng khác mình đặt tiệc đãi người, mà thực sự để mình cùng hưởng.
Qua mấy đêm ân ái mặn nồng, ai mà không bảo thật là một đôi vợ chồng keo sơn gắn bó, duy chỉ có người trong cuộc mới tự biết các tâm sự khác biệt mà thôi.
Lúc sắp lên đường, nó lời trấn an, để lại mọi thứ, chỉ đem theo hai tên gia đồng cũ trước kia.
Last edited by minhtien384; 30-06-2008 at 03:59 AM.
Hồi 4
Nghỉ nơi hoang vắng, lòng khách muôn phần tịch mịch
Thức suốt đêm thâu, nghe trộm kể chuyện tâm tình
Sau khi cùng cha vợ và vợ chia tay, Bán dạ sinh lên đường, chân bước đi mà lòng nào định, cốt nơi nào có gái đẹp thì ở.
Cứ mổi lần đi qua một phủ, một huyện là Sinh ở lại vài tháng. Vốn là một danh sĩ trẻ tuổi, tài cao, là nho sinh ắt phải nghe danh. Vì thế đến đâu, Sinh cũng được bạn bè ở đó mời xướng họa thi văn, nhưng đối với Sinh đó toàn là việc phụ, việc chính là phải diện kiến giai nhân. Tinh mơ nào Sinh cũng đảo một vòng từ đường lớn đến hẻm nhỏ, mà chỉ toàn gặp loại phụ nữ tầm thường. Lúc nào trong đầu Sinh cũng nghĩ đến điều này, trong miệng Sinh cũng lẩm bẩm điều này là tại sao ở một nơi cảnh trí hửu tình đến thấ mà không có được một người đẹp. Lúc đầu Sinh còn lầm thầm trong miệng một mình, về sau bất kỳ gặp ai quen lạ Sinh cũng nói toạc ra, khiến bạn bè gọi lén là gã "sắc si" (điên vì sắc dục).
Một hôm hai tên gia đồng đều bệnh, Sinh không đi ra ngoài được vì e đi một mình, lỡ gặp phụ nữ thì mất thể diện, đành ở lỳ trong lữ điếm một mình, chịu đựng sự tịch mịch chốn phương xa, lẩn quẩn quanh quán trọ mà thôi. Một hôm đang buồn, ngồi nhắm rượu một mình, bỗng khách cùng quán ngồi bàn bên bước sang, nói:
"Công tử ngồi đây một mình, chắc là đang buồn. Tại hạ có sẵn bình rượu đằng kia, dám thỉnh công tử qua cạn ly, được chăng?"
Bán dạ sinh nói:
"Quả là duyên bèo nước, dám đâu làm phiền ai. Nếu thế, xin cho tiểu đệ được mời."
Khách nói:
"Người đọc sách đều thoát tục, công tử sao câu chấp như vậy. Từ xưa đã có câu "tứ hải nội giai chi huynh đệ" (người trong bốn biển đều là anh em), lại cũng có câu "cố nhân hà xứ bất tương phùng" (đã là cố nhân thì đi đâu mà chẳng gặp). Tớ tuy phận thấp hèn, nhưng rất thích kết giao bằng hữu, chỉ e công tử tương lai rộng mở, nên không dám vời cao. Nay đã chung quán trọ, thật là cơ hội hy hữu, thỉnh công tử qua bàn."
Bán dạ sinh đang buồn, lại cũng rất muốn tìm người trò chuyện, thấy người kia mời mọc chân thành, nên nhận lời.
Khách mời Sinh ngồi đầu chiếu, tự mình ngồi một bên. Nhưng Sinh nằng nặc không chịu. Sau vài lời khách sáo, mới hỏi nhau tên tên họ. Bán dạ sinh cho biết biệt hiệu của mình, đồng thời cũng hỏi người kia danh xưng là gì.
Khách kia nói:
"Công tử là người có học, mới có biệt hiệu. Tớ dây vốn là kẻ tục tử, chỉ có hổn danh mà thôi. Người ta gọi tớ là Tái Côn Lôn, trong trăm dặm, nói đến danh tự này ai mà không chấn động".
Bán dạ sinh nói:
"Tôn xưng sao nghe lạ, tại sao lại chọn ba chữ này?"
Khách bảo:
"Nói ra e công tử sợ hãi, cho dù không sợ hãi, thì cũng sẽ bỏ đi không dán cùng tớ đối ẩm".
Bán dạ sinh nói:
"Tiểu đệ cũng là kẻ hào hiệp phóng túng, cho dù trước mặt tiểu đệ đây, ông anh có là thần hay quỷ, đệ cũng không ngán, còn như ông anh sang hay hèn, hiền hay ngu, cũng không sao. Ông há nghe nói dưới trướng của Mạnh Thường Quân có những người hùng chuyên môn giả làm gà gáy chó sủa, hoặc Kinh Kha thừa lúc sang nước Yên, cũng giết chó uống rượu say hay sao? chỉ cần khí hợp với nhau, thì có gì mà chẳng được".
Tái Côn Lôn nói:
"Nếu thế thì không ngại nói ra. Bình nhật tớ làm nghề ăn trộm. Cho dù tường cao vách dày thế mấy, tớ không muốn thì thôi, chứ đã rắp tâm thì trèo qua dễ dàng không tốn hơi sức. Tớ có thể vào thẳng phòng ngủ của người ta dọn hết đồ đạc, qua ngày hôm sau mà cũng không ai biết. Người ta nói hồi trước có Côn Lôn kỳ sĩ từng bay vào dinh của huyện lệnh họ Quách cướp con gái của quan huyện là Quyên nữ. Có Điều cả đời lão ta chỉ làm được một lần, còn tớ từng làm cả trăm lần. Vì thế người ta mới đặt hỗn danh là Tái Côn Lôn."
Bán dạ sinh hốt hoảng nói:
"Ông anh làm nghề này đã lâu, lại nổi tiếng, ai cũng biết, chẳng lẽ không bị bắt bao giờ"
Tái Côn Lôn nói:
"Nếu bị kẹt thì không phải là người hào kiệt. Từ xưa đã có câu "Bắt trộm phải có tang vật", nếu không bắt được tang vật, cho dù tớ có thú, họ cũng không làm gì được tớ. Khắp xa gần, không ai lại chẳng ngán tớ, sợ tớ xử trí. Tuy nhiên, bình sinh tớ là người nghĩa khí, trong đời có năm điều không hề làm."
Bán dạ sinh nói:
"Năm điều đó là gì?"
Tái Côn Lôn nói;
"Gia chủ gặp chuyện buồn không trộm, gặïp chuyện vui không trộm, trộm một lần rồi không trộm nữa, không đề phòng trước không thèm trộm, đã quen biết nhau không trộm."
Bán dạ sinh nói:
"Năm điều ấy rất hay, xin giảng từng điều một xem sao".
Tái Côn Lôn nói:
"Nếu gia chủ gặp việc chẳng lành, hoặc bệnh tật hoặc có tang chế, hoặc bị tai bay vạ gió gì đó, người ta đang bối rối như vậy mà mình đến trộm nửa thì khác gì lửa cháy thêm dầu, thiên hạ sao chịu nổi, vì thế tớ không làm.
Nếu gia chủ có việc mừng, hoặc cưới vợ gả con, hoặc sinh con mừng thọ, hoặc xây nhà dọn cửa, nói chunglà đang có chuyện vui mà mình đến trộm, tuy người ta mất chút ít của cải không đến nỗi nào, nhưng chỉ e về sau làm ăn xui xẻo lụn bại, vì thế tớ không làm. Còn đối với người quen biết, mình biết người, người không biết mình, lại không thèm giao thiệp với mình, mình đến trộm đâu có gì quá đáng. Trái lại người ta lúc nào cũng chào hỏi mình, mà mình lại đến trộm, cho dù người ta không nghi ngờ mình, liệu khi gặp người ta mình chẳng thấy xấu hổ hay sao. Chẳng hạn ban nãy tớ mời công tử sang uống rượu mà công tử từ chối, thì rõ ràng là một người kiêu ngạo coi tớ không ra gì, bất luận công tử từ đâu đến đây di nữ, sau này cũng không thoát khỏi tay tớ. Nay công tử vui vẻ qua đây, lại bằng lòng đối ẩm với tớ, có một người đáng mến đến thế, lẽ nào tớ nỡ trộm đạo.
Còn đối với bọn tài chu tiền bạc dồi dào, nếu chưa bị trộm bao giờ thì tớ sẽ viếng nhà. Chỉ cần một lần là d8ủ kiệt quệ. Nếu ăn quen mon men lần nữa, chẳng hóa ra mình không tài nghệ hay sao. Việc ấy tớ không chịu làm.
Cũng có những người ngày cũng như đêm lúc nào cũng đề phòng trộm cắp, miệng luôn nói đến trộm cắp, họ coi mình không ra gì thì mình cũng không coi họ lại ra gì, mình phải đến trộm để họ thấy mình cũng đủ kiến thức, cho dời không ám khi dễ mình. Còn đối với những nhà có tấm lòng đại độ, không coi nặng đồng tiền, lỡ mà cổng trước, cửa trong quên đóng, nếu thừa cơ lẻn vào có khác gì chuột, chó. Tiên sư của tớ là Liễu đạo chân nhân cấm ngặt, lẽ nào tớ lại đi làm hay sao. Những điều tớ vừa kể, tớ gọi là Ngũ Bất Thâu (Năm điều không trộm) là thế.
Chính vì tớ chủ trương như vậy mà bà con xa gần, tuy biết rõ tớ là trộm, nhưng không đối xử với tớ như đối xử với một kẻ trộm, tuy biết rõ tớ là trộm, nhưng không đề phòng tớ như đề phòng phường trộm. Họ thành thật giao du với tớ mà không cho là nhục, mà chính tớ cũng nói là không có gì làm nhục họ cả. Nay nếu công tử không chê, xin được kết nghĩa anh em tại đây, sau này có việc gì xin hết sức giúp nhau, chết cũng không từ nan, không như trong đám người khoe chử kết nghĩa với người, khi lợi thì tìm đến mà không lợi thì tránh xa. Loại như vậy bọn tớ không ưng kết giao".
Nghe Tái Côn Lôn, Bán dạ sinh không ngớt gật đầu lia lịa, trong bụng trầm trồ:
"Không ngờ trong đám đạo tặc lại có người hào hiệp như thế. Nếu mình chơi thân với anh ấy, chuyện khác mới không nhờ, chớ như khi mình gặp được bậc tuyệt thế giai nhân ở chốn lầu cao cửa rộng mà tin ong nhgẽn lối, kín cổng cao tường, mượn tay anh ấy còn gì bằng. Hôm nay tương kiến chắc gặo kỳ duyên, đâu chừng trời sai dị nhân giúp đỡ."
Sinh nghĩ đến đây tự nhiên thấy phấn chấn, sau đó khi nghe nói đến kết nghĩa anh em vẫn do dự. Ngoài miệng nói "được thế thì tốt lắm", mà trong lòng không hề hăng hái lắm.
Tái Côn Lôn hiểu ý, nói:
"Công tử miệng đã quyết, nhưng lòng thì chưa quyết, chắc là sợ liên lụy chứ gì. Như tớ đây, đừng nói chi tới các bậc lão trượng trong nghề, chưa từng bị kẹt bao giờ, cho dù có bị kẹt đi nữ, thì cũng xin chịu chết một mình, quyết không khai đến người vô tội. Xin công tử an tâm. Chỉ mong kết nghĩa với nhau làm anh em, mai này công thành danh toại, công hầu một vùng thì đã biết tính nhau, chớ làm khó dễ mỗ là đủ".
Bán dạ sinh thấy Tái Côn Lôn nói trúng tim đen lại giải được mối nghi hoặc, nên luôn miệng nhận lời, không còn phân vân nữ. Thế là hai ngưới chung tiền sai tữu bảo sắm đồ tế lễ, khai ngày sinh tháng đẻ, lập thệ rồi cắt máu ăn thề sống chết không bỏ nhau, hương án lập ngay trong quán trọ. Tái Côn Lôn lớn tuổi làm anh, Bán dạ sinh nhỏ tuổi làm em. Hai anh em dọn đồ cúng xuống ăn nhậu đến khuya, ly chén la liệt, mới chịu chia tay đi ngủ.
Bán dạ sinh nói:
"Mình ngủ hai nơi, chẳng hóa ra cùng tịch mịch, chi bằng anh cùng ngủ chung phòng với em, mình tâm sự cho hết đêm dài, anh nghĩ sao?"
Tái Côn Lôn khen phải. Hai người thay y phục, rồi lên giường.
Bán dạ sinh mới bận uống rượu, ham chuyện, nên không có thì giờ nhắc lại những lời từng ôm ấp trong lòng. Bây giờ, rượu đã uống xong chuyện trò đã dứt, nên trước khi ngủ, chưa nằm ấm chỗ đã để lộ chân tướng. Sinh luôn miệng than mấy lượt hai câu:
"Sao một nơi cảnh trí hữu tình thế này, mà lại không có bóng một giai nhân?"
Tái Côn Lôn nói:
"Người đâu lại chẳng có, em nhắc hai câu này để làm gì, hay là em chưa vợ, muốn đi khắp nơi để tìm người sửa túi nâng khăn?"
Bán dạ sinh nói:
"Vợ em đã có, nhưng chẳng lẽ một người đàn ông sống mãi với một người đàn bà cho đến già, ắt là ngoài vợ ra, phải tìm thêm vài ba người gọi là để đổi thay nhan sắc. Không nói dấu gì anh, tính em thích chuyện trăng hoa. Giàu sang, danh vọng sau này muốn có lúc nào chẳng được, không đáng quan tâm. Diều cần gấp, là chuyện này mà thôi. Nay em đi, tiếng là để cầu học, nhưng thật là tìm nữ sắc. Qua nhiều câu chuyện, em chỉ gặp toàn những phụ nữ đen đúa bôi son trát phấn để làm đẹp, chưa gặp một người không trang điểm mà đẹp tự nhiên. Vì vậy em chán, cứ lẩm bẩm hai câu ấy cho hả nỗi bất bình".
Tái Côn Lôn nói:
"Em nói sai rồi. Người phụ nữ đẹp ở đời quyết không để ai thấy mặt, nếu để ai thấy mặt quyết không phải à phụ nữ đẹp rồi. Đừng nói chi con gái nhà lành, ngay trong xóm Bình khang, chỉ có những cô nàng xấu xí, không ai đoái hoài mới trường mặt cho người mua vui, còn những nàng có chút tên tuổi thì chỉ ngồi nhà đợi khách đến, còn làm khó dễ nọ kia để người ta thỉnh mấy luợt mới ra, nói gì bọn con gái chưa bao giờ ra khỏi cử hoặc con nhà quyền quý, có ai tựa cửa cho mình xem mặt bao giờ? Em cần biết một điều là trên đời này chỉ mình anh mới có thể nói có phụ nữ đẹp hay không."
Bán dạ sinh nghe nói thế, bất giác ngẩng đầu lên hỏi:
"Điều này lạ, Anh không phải trong giới trăng gió, thì làm sao biết được chuyện đó?"
Tái Côn Lôn nói;
"Tuy anh không thuộc giới ăn chơi, nhưng những chuyện phong lưu anh đều rành rọt, nhiều điều chỉ mắt anh thấy đủ, chỉ tai anh tường tận, ngay cả người trong cuộc cũng chỉ biết đại khái mà thôi, huống còn những chi tiết nhỏ nhất người thường làn sao hiểu nổi"
Bán dạ sinh nói:
"Tại sao?"
Tái Côn Lôn nói:
"Anh xin hỏi em, người đẹp trên đời này phần nhiều là người giàu sang hay là kẻ nghèo hèn?"
Bán dạ sinh nói:
"Lẽ tự nhiên là người giàu sang, kẻ nghèo hèn làm sao sánh."
Tái Côn Lôn nói:
"Thế, đối với bọn con gái đẹp con nhà giàu sang nầy, muốn nhìn thấy họ cặn kẽ, thì phải nhìn lúc nào? Lúc trên mặt còn son phấn, trên mình còn quần áo hay lúc son phấn đã rửa, xiêm y đã tháo?"
Bán dạ sinh nói:
"Lẽ tự nhiên là khi họ đã rửa sạch son phấn, cởi hết quần áo thi mới thấy rõ bản sắc của họ, chớ còn son phấn, còn quần áo, thì phân biệt thế nào được."
Tái Côn Lôn nói:
"Như vậy đã rõ. Dân ăn trộm các anh dĩ nhiên là đâu chịu đến viếng nhà nghèo, mà thường đi tìn các nhà giàu sang. Lúc đi thì đâu có đi ban ngày mà phải đợi đến khi đêm khuya thanh vắng. Đây là lúc các cô thân thể lõa lồ dưới ánh trăng, hay vén màn ưu tư dưới ánh đèn. Vì sợ họ chưa ngủ, nên mình đâu dám ra tay, tất nhiên là phải núp ở một nơi kín đáo, đôi mắt bám sát vào thân họ, nghe ngóng động tĩnh. đợi khi nào họ ngủ rồi mới động thủ. Cho nên lúc bấy giờ cái gì cũng phải quan sát thật cặn kẽ, không những mắt mũi, mặt mày, mình mẩy không sót một tý gì, mà ngay cả dưới phần hạ thể, nở nang cao thấp âm mao đa thiểu, cũng đều phải biết. Trong vòng vài trăm dặm trở lại, từ nhà giàu có đến chỗ quan quyền, cô nào đẹp, cô nào không đẹp, anh đều thuộc nằm lòng, nếu em muốn làm chuyện này, chỉ cần anh chỉ dẫn cho là đủ."
Lúc đầu Bán Dạ Sinh còn trùm chăn nghiêng tai nghe, nhưng khi nghe nói đến đây thì sinh bất giác ngồi dậy, ngực nghiêng vai hở. Sinh nói:
"Có lý, cho dù mình là gì đi nữa, cũng làm sao nhìn thấy được con gái người ta, có nhìn thấy, cũng không sao rõ ràng được. Nếu hôm nay anh không nói ra, chắc là uổng lắm. Với lại còn điều này, anh trông thấy người đẹp thế kia, thân thể đẫy đà thế kia, lỡ dâm hứng nổi lên không cầm được thì sao?"
Tái Côn Lôn nói:
"Hồi đầu tuổi còn trẻ, nên lúc nhìn thấy cảnh ấy, anh đâu chịu nổi, vì vậy trong đêm tối cũng nhìn người đẹp mà máy mó tay chân như đang trông thấy nàng làm tình vậy, nhưng về sau thấy nhiều quá rồi, nên không còn tha thiết nữa, nhìn âm cung như một vật gì rất thường, không mảy may động tình. Có điều, khi họ đang làm tình với chồng, miệng trên hít hà, ở dưới lép nhép, quả thật cũng khó không động hứng."
Bán Dạ Sinh nghe nói đến chỗ tuyệt diệu, thì chuyển mình nằm sát lại, sợ cách hai, ba thước không nghe rõ, mặc dù giường hai người cách nhau không xa.
Tái Côn Lôn nói:
"Nếu em không thấy nhàm, để anh kể một vài kinh nghiệm trong số các điều tai nghe mắt thấy, em sẽ nhận ra rằng tuy đi ăn trộm, nhưng đối với việc gió trăng, anh không phải là không biết gì, hai chữ phong lưu không phải là hoàn toàn mù tịt."
Bán Dạ Sinh nói:
"Thật tuyệt. Nếu được vậy thì quả thật nói chuyện với anh một đêm còn hơn đọc sách mười năm, xin anh vui lòng kể ra".
Tái Côn Lôn nói:
"Bình sinh anh chứng kiến nhiều việc lắm, không biết em muốn anh bắt đằu từ đâu, hay là em hỏi đến đâu, anh sẽ nói đến đấy."
Bán Dạ Sinh nói:
"Cũng phải đấy. Xin hỏi anh, đáy lòng phụ nữ họ có khao khát tình dục như đàn ông hay chỉ đàn ông mới thích chuyện dâm ổ"
Tái Côn Lôn nói:
"Lẽ dĩ nhiên số người khát khao ân ái rất đông. Có chị nào mà không thích làm tình, đại khái trong một trăm người thì chỉ có một, hai người không thích mà thôi, còn lại bao nhiêu đều thích cả. Trong bọn này lại cũng chia ra làm hai hạng: có hạng ngoài mặt thèm khát, mà lửa dục trong lòng chỉ bằng nháng lửa trong chảo. Thường đòi hỏi cho được, khi lâm cuộc, đảo điên ngắn ngủi, mau thỏa mản, rồi xụi lơ, lăn ngay ra ngủ, bỏ mặc nam nhân còn ấm ức. Một loại ngoài mặt trơ như đá lạnh như đồng, nhưng ngầm chứa đòi hỏi dục lạc không chán, trong bụng muốn mà ngoài miệng bô bô nói không, mặt cố ý làm như không muốn, đợi chồng này ép lên giường mới để lộ chân tướng. Trong hai hạng hạng thứ nhất động dâm mau hơn cả, lúc ấy bất chấp liêm sỉ, họ tấn công chồng trước để gầy cuộc. Có điều mới mấp máy một chập đã đê mê, rồi mệt mỏi, rồi buồn ngủ, rồi để mặc chồng làm gì thì làm. Anh đã có lần đến trộm một nhà nọ. Chồng kéo vợ để hành lạc. Vợ tỏ vẻ chống cự, chồng leo lên bị chị vợ hất xuống, cuối cùng chồng lăn ra ngủ. Cô nàng trằn trọc cố ý trăn trở để đánh thức chồng, thấy chồng vẫn ngủ, bèn lấy tay nhéo, không ngờ chồng ngủ ngon quá không thèm đoái hoài đến. Vợ bèn gọi to lên : trong nhà có trộm, như để đe dọa cho kẻ trộm bỏ chạy. Anh biết người vợ đâu phải nói với tên trộm, mà chỉ muốn đánh thức chồng dậy để làm tình. Quả nhiên như đã dự liệu, chồng hốt hoảng chỗi dậy. Người vợ nói trớ rằng mới rồi là tiếng mèo săn chuột, vì sợ quá, nên la lầm. Chị ta ôm chồng, sát âm vật bên dương vật rồi cạ tới cạ lui. Chồng không chịu nổi, leo lên. Lúc mới lâm trận, chưa thấy gì, nhưngkhi nạp được vài năm phút, thì từ từ có tiếng kêu chót chét phát ra, vì nước dâm tuôn tràn. Thế là giao tranh nhau một lúc, họ lại ngừng để lau chùi, cho đến lúc nửa đêm thì người chồng xuất tinh. Người vợ vẫn bừng bừng lửa dục, vẻ mặt trông rất thiểu não, vì không có cách nào đưa chồng trở lại cuọc chiến, cứ ư ư? như ngưòi bệnh. Mụ cứ nhéo ngực, rờ bụng chồng, người chồng ngủ không được , mà cũng không dằn được, lại leo trở lên mình vợ, thành thử cuộc giao hoan kéo dài cho đến khi gà gáy sáng, báo hại anh rình cả đêm mà không lấy được gì, đành phải len lén trở về. Phụ nữ như bọn này quả dâm sự rắc rối, làm thiệt hại cho người."
Bán Dạ Sinh nói:
"Thậy hay. Xin hỏi anh một câu, trongkhi dâm dục, phải chăng phụ nữ cũng điên cuồng mê man như đàn ông chúng ta hay không?"
Tái Côn Lôn nói:
"Trừ có rất ít, còn thì chị nào khi động cỡn cũng điên đảo chả thua nam giới. Có ba loại âm thanh cực kỳ dâm đãng mà đàn bà phát ra trong khi hành lạc. Chỉ những ai trong nghề với anh đây mới phân biệt được ràng rẽ mà thôi."
"Dám hỏi, ba loại âm thanh ấy như thế nào?"
"Loại thứ nhất, là tiếng kêu phát ra lúc mới khởi đầu cuộc giao hoan, cốt để kích thích, tỏ vẻ mến yêu nhau, nào là cưng ơi, nào là yêu ơi... làm cho bạn tình tăng hứng. Âm thanh phát ra do miệng.
Loại thứ hai là trong lúc đang xáp trận, lửa dục ngùn ngụt, cửu khiếu bị kích thích, tòan thân ngất ngây, hơi thở dập dồn, ngắn dài không đều, âm thanh mơ mơ hồ hồ không rõ, hỗn loạn bất thường, do hơi thở tạo ra. Loại thứ ba thiệt khẽ, chỉ có lúc đàn bà cực kỳ thỏa mãn, khi cả người lịm đi, mới có một loại âm thanh thật nhẹ, phát ra từ cuống họng. Chính loại thứ rất khẽ, rất nhỏ mà khó nghe được này mới làn con người ta chịu không nổi. Ba thứ này, chỉ bọn trong nghề với anh mới phân biệt rành rẽ, ngay cã người trong cuộc cũng không nghe ra.
Một đêm anh nghe được cả ba loại ấy. Cặp nọ lúc mới lâm trận cũng kêu rên như thường, nhưng cuối hồi tiếng đàn bà bặt hẳn. Anh tưởng người đàn ông nọ đã giết nàng, cố nép mình nhỏng tai nghe ngóng. Mải rồi mới nghe được một thứ âm thanh cực nhỏ như tiếng rên, như đứt như liền. Từ đấy anh biết là khi ngây ngất cực độ, thì giác quan đàn bà thành vô cảm hẳn. Cho nên anh phân được ba loại âm thanh dâm đãng của phụ nữ."
Sinh bỗng cảm thấy toàn thân ngứa ngáy, rồi bất giác tinh khí chắt chíu lâu ngày tự vọt ra. Sinh còn định hỏi thêm chuyện khác, không ngờ trời đã sáng bét.
Hai người trở dậy rửa mặt chải đầu xong, lại ngồi xuống nói chuyện, dĩ nhiên là những chuyện rất hấp dẫn, người nói đôi khi mệt mỏi sinh lười, nhưng người nghe thì trái lại say mê không chán một chút nào. Hai người từ đó càng quấn quít bên nhau, tình bạn càng thêm khắn khít.
Bán Dạ Sinh nói với Tái Côn Lôn:
"Từ khi ra đi đến nay, em cũng có gặp nhiều phụ nữ, nhưng chưa có người nào lọt vào mắt cả, vì vậy em cứ cho rằng trên đời này không có người đẹp. Theo lời anh nói thì anh đã gặp qua rất nhiều người, mà không phải chỉ một lần. Em vốn sống chết vì nữ sắc, may được gặp anh, có thể nói là tam sinh hữu hạnh, nếu không kể hết tâm sự cho anh nghe, há không phải là đáng tiếc lắm sao. Dám mong anh chỉ cho em một người đẹp nhất trong số những người anh đã thấy, rồi dàn xếp cho em được gặp qua người ấy. không nói dấu gì anh, số em có Hồng loan chiếu mệnh. Bình sinh một khi em đã thích người phụ nữ nào rồi, cho dù em không đi tìm, tự nhiên người ấy cũng tìm đến em. Bây giờ xin anh làm phép thần thông cho em được việc. Em xin đền công ơn anh thiệt hậu".
Nào dè Tái Côn Lôn lại không phải là Côn Lôn tái thế, chịu giúp người anh em kết nghĩa làm việc của Thôi sinh. Tái Côn Lôn lắc đầu nói:
"Thế này không được đâu. Anh vốn tự răn mình nơi nào đã trộm qua thì không ttrộm nữa, ngay cả của cải còn không nỡ lấy, huống chi là việc liên quan đến danh tiết người phụ nữ. Thôi thì từ đây về sau, nếu anh muốn giúp em, thì đột nhập nhà nào mà có đàn bà đẹp, anh phải bỏ qua, lhông ra tay nữ, về điềm chỉ cho em hay chỗ mà ra tay. Anh nghĩ làm như vậy thì được. Phần em cũng nên lóng tai lóng mắt, tìm chỗ ở quanh đây mà chờ. Khi có tin vui, anh sẽ cho hay. Còn muốn tiền bạc tạ Ơn, anh mà muốn, thì tài sản của em để đâu mà anh không lấy nổi. Hãy chớ để chuyện tiền bạc xen vô ân nghĩa".
Bán Dạ Sinh nói:
"Em có mắt mà không tròng, không thấy người ân tình nghĩa khí. Những lời lẽ vừa rồi của em thật quá đường đột."
Nói rồi mừng rỡ dập đầu lạy tạ. Sau đó Sinh theo lời bàn mà kiếm chổ ở.
Last edited by minhtien384; 30-06-2008 at 04:00 AM.
Hồi 5
Kén mỹ nhân ghi danh quả thực khắt khe
Đền đáp duyên kia đâu lý gì tuổi tác
Sau khi cùng Sau khi bàn định với Tái Côn Lôn , Bán Dạ Sinh dọn về trọ buồng sau của một cái miểu. Đây là miểu thờ ông Trương Tiên, phòng ốc rất nhỏ. Miểu này trưóc kia không chịu cho ai thuê ngụ, nhưng vì Bán Dạ Sinh trả giá cao, gấp đôi giá người khác, nên ông từ phá lệ cho Sinh ngụ. Tại sao Bán Dạ Sinh chịu trả giá cao như vậy? Vì ông Trương tiên tại miểu này rất linh thiên, đàn bà đến cầu tự rất đông, Bán Dạ Sinh lợi dụng chổ này làm nơi để chọn người đẹp. Quả thật, từ khi Bán Dạ Sinh vào trọ, hàng ngày thấy biết bao lượt các bà các cô đến dâng hương. Họ không giống với những người đàn bà đi dâng hương tại các chùa miểu khác. Ở đây trong số mười người, có đến một hai người tạm được. Bán Dạ Sinh buồn chán vì rình mãi mà không hề thấy được một phụ nữ xuất sắc, mà sao đàn bà con gái tầm thường cứ lũ lượt đến dâng hương cầu tự. Chẳng biết làm gì cho hết ngày, chỉ ở miết trong phòng không thèm rình sau hương án nữa, dặn hai đứa tiểu đồng khi có giai nhân đến thì mật báo cho mình mà thôi. Tuy thất vọng nhưng chẳng lẽ Bán Dạ Sinh lại ra thông báo cấm phụ nữ xấu xí đến, mà chỉ có người đẹp được đến thôi hay sao?
Độc giả nên biết rằng chùa miểu nào cũng có phụ nữ đến dâng hương, trong số nhiều người già, ít người trẻ. Người già và trung niên thì được hai phần, còn người trẻ chỉ có một phần mà thôi, do đó người coi được thì ít mà người coi không được thì đông. Ở đây thì khác, người ta đến đây để cầu tự, cho nên không có những người già hoặc trung niên bởi vì đôi với những người này thì hoặc kinh nguyệt đã dứt, sinh lý không còn, hoặc sinh lý sắp dứt, đường con đã tuyệt, rốt lại chỉ có bọn trẻ tuổi đến đây dâng hương mà thôi, trong số này thỉnh thoảng cũng có người trung niên đi nhưng không nhiều. Mà phàm là con gái mười bốn tuổi trở ra, hai mươi tuổi trở lại, trong khoảng năm sáu tuổi nầy, bất luận đẹp hay xấu, cô nào cũng má đỏ hây hây, nhìn thấy cũng động lòng, cho nên trong mười người, cũng có một hai người coi được.
Bán Dạ Sinh lắm hôm cũng dậy sớm, ăn diện tề chỉnh rồi đi qua lại trước bàn thờ như kép chính trên sân khấu, khi thấy phụ nữ đến, thì núp sau tượng của Trương Tiên, nghe đạo sĩ cầu nguyện cho người đẹp rồi xem người đẹp xưng tên dâng hương khấn vái, có thể nói mãn nhãn không sót một tý gì, xong rồi bất thình lình bước ra ngoài.
Các bà các cô trông thấy dung mạo đẹp đẽ, cốt cách phong lưu của Sinh, ai cũng kinh hoàng, ngỡ là lòng chí thành của mình mà Trương Tiên hiển kinh xuống trần để cho con, nhưng khi Sinh phe phẩy đi qua, họ mới nhận ra là người trần, thì linh hồn họ đã bị tiên sống cướp mất rồi, họ như mê dại, có người thì liếc mắt đưa tình, lưu luyến không dứt được, cũng có người cố ýlàm rớt khăn hoặc vờ quên quạt cho dễ làm quen.
Cho nên mỗi ngày từ sáng đến tối, Bán Dạ Sinh thường nhặt được mấy loại kỷ vật thành ra đâm kiêu, cử chỉ tỏ ra rất tùy tiện, còn tinh thần thì càng lúc càng thêm phóng đãng. Sinh đoan chắc đàn bà đẹp ở đời nhất định phải thuộc mình, đàn bà phải sẳn lòng dâng hiến mình cũng không có gì quá đáng. Từ khi mới vào trọ sau miểu, Sinh đóng một quyển sổ riêng dấu trong túi, trên bìa ghi bốn chữ "Quảng thu Xuân sắc" (thu thập rộng rãi các vẻ đẹp).
Phàm là các bà các cô đến dâng hương mà có chút nhan sắc, Sinh đều nghe lén rồi ghi trong sổ chi tiết nào tên gì, tuổi tác bao nhiêu, họ tên chồng là gì, nhà cửa ở đâu, tả dáng người vẻ đẹp vân vân, lại dùng bút son khuyên tròn để định cao thấp. Đặc hạng thì khuyên ba vòng, thượng hạng thì khuyên hai vòng, trung hạng thì khuyên một vòng, còn phía sau thì lại thêm rồi phê bút viết theo lối tứ lục như trong bài thi hương, để biểu thị ưu điểm của đương sự.
Sinh có được những chi tiết kể trên là nhờ mỡi lần có ai đến dâng hương vị đạo sĩ đều hỏi căn cước đầy đủ, Bán Dạ Sinh chỉ cần để ý nghe, rồi khi người ta đi rồi, thì lấy sổ tay ra ghi lại không khó khăn gì cả. Chính cũng nhờ vậy mà chưa đưọc mấy tháng đã Sinh đã ghi chép đầy đủ lai lịch của nữ sắc trong vùng.r>
Có điều lúc ngắm người thì Sinh dễ dãi, khi tuyển chọn ghi vô sổ thì hết sức nghiêm khắc. Trong sổ tay đã ghi nhiều tên, nhưng mới có loại thượng hạng hoặc trung hạng, còn đặc hạng thì chưa được một người, Sinh nghĩ thầm:
"Chí hướng bình sinh của ta là phải lấy cho được đệ nhất giai nhân trên đời. Người vợ ta cưới trước tiên thì ở quê nhà đã là vào bậc nhất rồi, nhưng nay xem lại thì số người đẹp như nàng rất đông, vì thế không thể xếp nàng vào bậc nhất nửa. Người đẹp trong thiên hạ há chỉ có người vào hạng bảng nhãn thám hoa mà không có người vào hạng trạng nguyên hay sao. Chắc là phải có một người ta chưa tìm gặp đấy thôi. Những người có tên ghi trong sổ chỉ thuộc trung hạng mà thôi, cứ ghi để đó, bao giờ không tìm được người bậc nhất thì sẽ đôn lên. Ta hãy nán đợi thêm vài hôm nữa, xem những người vô sau này thế nào.
Từ đó, không những Sinh chọn người gắt gao hơn, mà ngay khi xét người, cũng không rộng rãi như trước nữa.
Một hôm, vì tinh thần mệt mỏi, Sinh đang nằm ngủ trong phòng sau miếu thì chợt có tên gia đồng từ ngoài chạy vào,hổn hển bảo rằng:
"Công tử, mau dậy xem người đẹp, trễ một khắc là không trông thấy đấy."
Bán Dạ Sinh vội bò dậy, chít khăn mới, mặc áo đẹp, lại còn soi gương, dịp may tưởng muốn lỡ. Sinh liền vội bước ra, thì thấy hai cô trẻ tuổi, một người áo đỏ, một người áo màu cánh sen, cùng đi có một người đẹp cỡ trung niên vận áo lụa huyền. Cả ba dáng vẻ đài các, dâng hương mới xong và sắp sửa ra về.
Từ xa, Bán Dạ Sinh nhìn thoáng qua hai cô gái. Họ quả là thần nữ vu sơn, tiên phi lạc phố, khác xa những người đã gặp trước đây. Phép ngắm phụ nữ cung như ngắm một bức tranh, không nên ngắm từng nét trước mà phải đặt cách xa rồi nhìn xem thần khí thế nào. Thần thì tốt, tức tranh đẹp, thần khí yểm yểm, không sinh động tức tranh xấu. Tuy nhiên, đối với người phụ nữ, muốn thấy hết các nét đẹp trong tư dung thì lại phải nhìn thật gần. Nét đẹp ấy có thể nói là ở trong hình thể thì lại không phải trong hình thể, nó kỳ kỳ ảo ảo thật khó diễn khó tả.
Được chứng kiến ba nhan sắc tuyệt trần mà hụt mất dịp nghe lúc họ khấn khứa để biết tên tuổi, Bán Dạ Sinh như điên như dại. Biết họ chưa trở ra, Sinh chạy vòng đến thềm cửa, thụp quỳ xuống cúi đầu hướng về bên trong miểu mà dập đầu lia lịa, báo hại hai tên gia đồng và vị đạo sĩ kinh hoàng há miệng trợn mắt, chỉ sợ các cô nổi giận.r>
Ai ngờ, tuy ngoài mặt Sinh si mê như điên cuồng, nhưng trong bụng đã chứa sẵn chủ trương. Sinh nghĩ:
"Một là, nếu ba người phụ nữ này đến cùng mục đích với mhững người mìng đã gặp trước thì, khi họ hiểu mình quá ngưỡng mộ nhan sắc đến nỗi mình quỳ lạy, mặc dù trước mặt đông người họ không tiện đáp lễ, chắc là họ không giận lắm. Hai là nếu họ cương nghị, không bằng lòng sự phóng túng, mà nổi nóng bắt bẻ, thì sẽ đổ thừa là mình cũng đến miểu Trương Tiên này để cầu tự, vì thấy bên trong có nhiều phụ nữ, không tiện bước vào, nên quỳ lạy ngoài thềm cửa. Biết đâu, một khi rõ là mình ngụ trong miếu, họ chẳng đến nữa làm quen, cho biết tên tuổi, mình hết còn thui thủi như bấy lâu"
Thực ra ba nàng không biết Sinh trọ Ở đây, lại cho rằng cũng là người đến đây cầu tự. Họ đứng tránh sang một bên, đợi Sinh lạy xong mới cất bước ra về. Lúc Sinh hướng về mình lạy, hai cô trẻ tuổi đều nhìn Sinh, có điều mặt không lộ vẻ gì.
Riêng người đẹp trung niên tỏ ý đẹp dạ, che miệng cười tủm tỉm, lại như thúc hai cô kia nhận lấy cho người tấm lòng thành. Lúc quay đi, người đẹp này còn liếc nhìn Bán Dạ Sinh mấy lần.
Bán Dạ Sinh ngây người, không nói nên lời, trong bụng nghĩ:
"Tư dung của hai cô trẻ khỏi phải nói rồi, ngay như người dẹp trung niên kia, thì nhan sắc đâu kém gì hai nàng trẻ tuổi. Không cần nói chi khác, chỉ cặp mắt nàng ấy cũng thật vô giá, hai đồng tử long lanh như biết nói vậy. Ban nãy, nàng đã liếc mắt đưa tình, nhưng vì bận ngắm hai nàng kia, mình không kịp đáp lễ, thật là vô tình. Tuổi nàng tuy hơi lớn, tư dung tuy sút giảm, da thịt có hơi đẫy đà, nhưng có thua sút bất cứ ai. Đã đi chung với hai cô xinh đẹp kia, nếu không phải là chị em bạn dâu, chắc cũng bà con chi đây.r>
Thôi thì tiêu chuẩn sắc đẹp cũng nên châm chước cho nàng đôi phần, huống chi dáng điệu tình tứ thật đáng yêu. Còn hai cô kia miễn chấp cho mình như vậy, chắc hẳn là người biết điều, một khi biết được tung tích, lo gì không gần gũi với mình về sau. Nhưng biết đâu mà tìm với cái đầu đã mất hết hồn vía thế này. Tạm thời mình hãy ghi chi tiết về cả ba nàng, kèm theo ba lời tán tụng tột bậc. Như vậy, một là mình đáp lại được cảm tình nàng lớn tuổi đã cho mình, hai là mình cũng chứng tỏ với hai nàng nhỏ tuổi kia là "thương ai thương cả đường đi", ba lànếu có dịp tìm được một nàng, mình sẽ đưa sổ này cho hai nàng kia xem. Khi tỏ trước thiện chí, họ phải đối lại bằng hảo cảm, đi đâu mà thiệt"
Nghĩ vậy, Sinh bèn cầm bút sửa chữ nhị thành tam, tức là thay vì ghi "hai" người quốc sắc thì đổi là "ba" người quốc sắc. Bên cạnh lại khoanh ba vòng son lớn, cùng tỉ mỉ ghi lại ngày thang gặp mặt, dáng vẻ cùng màu áo sắc quần. Sửa xong, Sinh gấp sổ lại bỏ vào túi.
Từ hôm ấy, Sinh không còn nhòm nhỏi gì đến các bà các cô đi lể tại miếu Trương Tiên. Họ có trông được hay không cũng mặc, Sinh lúc nào cũng tơ tưởng đến ba nàng kia thôi, suốt ngày kè kè cuốn sổ dạo khắp phố phường, nhưng bóng chim tăm cá biết đâu mà tìm.
Sinh nghĩ thầm:
"Tái Côn Lôn là người nhiều kiến thức nhất, lại thông thạo đường đất, sao mình không đi hỏi anh ấy. Có điều, anh ấy vốn có hứa là sẽ tìm cho mình một người. Mấy hôm nay không gặp, chắc là anh ấy đang lo chuyện này cho mình cũng không biết chừng. Bây giờ nếu mình đem chuyện ba cô ra nói, e rằng anh ấy sẽ nói mình tìm được chỗ ưng ý rồi anh ấy sẽ không lo chuyện kia nữa. Hốnh chi, với ba cô này, mình cũng không biết tên, biết họ, làm sao anh ấy có thể dò la cho mình được. Hay là mình cứ để bụng đã, đợi thêm ít hôm nữa, biết đâu anh ấy sẽ tìm được cho mình một người.r>
Thứ gì khác còn sợ nhiều, chứ đàn bà đẹp dù là đôi ba chục cô cũng đâu có sao. Mình cứ ân ái với người đẹp đã, còn mấy người kia mìng sẽ ân ái sau, có muộn gì.
Thế là từ hôm ấy, mỗi ngày cứ mở mắt ra là Sinh đi rong ở ngoài đường cầu mong có gặp được ai không hoặc ngồi đợi miết ở nhà. Một hôm đang đi ngoài đường, Sing gặp Tái Côn Lôn đằng kia đi lại. Sinh mừng rỡ chận lại hỏi:
"Chuyện hôm trước anh hứa với em sao không thấy hồi âm, hay là anh đã quên rồi?"
Tái Côn Lôn nói:
"Sao quên được, lúc nào cũng canh cánh trong lòng. Chẳng qua người tầm thường thì đông, mà tranh tuyệt sắc cực hiếm. Đã đi tìm một dạo và mới đây thấy được một người rồi, định đến bảo em biết thì vừa may gặp em đây".
Bán Dạ Sinh nghe vậy thì nói:
"nói chuyện ngoài đường không tiện, mời anh đến chỗ trọ của em"
Hai người nắm tay nhau đi. Lúc về đến phòng trọ, họ đuổi gia đồng ra ngoài rồi khóa cửa phòng lại.
Không biết tạo hóa sẽ xui khiến vợ nhà ai gặp tên đàn ông ham chuyện ong bướm này, cũng không biết chồng nhà ai sẽ phải khổ sở vì tên gian phu ác nghiệt này.
Last edited by minhtien384; 30-06-2008 at 04:00 AM.