Những vườn xung quanh, mai đã bắt đầu trụi lá. Ngày nào, chú Tảo cũng cái quần soọc đen lơ lửng, áo may-ô thủng lỗ chỗ, đầu đội cái nón kết đỏ, len lỏi giữa những hành cây hỏi sang: "Bên ấy chưa nhặt lá à?". Chưa ai nhặt lá mai cả. Trong vườn, mai vẫn rậm rịt, không ai rảnh mà làm việc ấy, gần cuối năm, bà cụ lại được mời đi tỉnh chơi, những người trẻ còn lại trong nhà đùn đẩy nhau, ai cũng ngại, ai cũng cố cho rằng người ta chỉ bày vẽ, chứ cứ thử không nhặt xem, nó có nở không? Nở quá đi chứ!
Rồi một người nhớ ra, bảo "Ờ năm nay không có chú nhỏ nào đến nhặt lá giùm nhỉ?". Ở nhà, không cần quy ước, cứ ai lân la tán tỉnh Hạc đều được gọi là "chú nhỏ", có chú đến rồi đi luôn, có chú lai rai lâu lâu đảo qua một lần rồi biến mất, mỗi chú để lại một vài kỷ niệm trong nhà, trong vườn, trong cái trại gà lợp lá dừa mục nát. Ðó là những cái ghế con đóng vuông vức đầy đinh; những cành cây bị bẻ quặt, uốn cong, cố vặn theo hình con lân, con phụng; là hệ thống máng ăn cho gà, dùng không biết bao giờ mới hỏng... Mọi người vẫn đùa, hỏi: "Hạc! Mày có nhớ thằng nào làm việc nào không?". Hạc vêu mặt cười: "Nhớ chứ, tôi ghi sổ hết mà!". Mọi người cười đe: "Cẩn thận! Một trong những thằng ấy mà vớ được cuốn sổ thì mày khốn!"
...Ờ đúng rồi, mấy năm nay chẳng có ai đến nhặt lá mai cho Hạc. Tuyến lấy vợ. Nhật xuất cảnh. Chức cách đây mấy hôm thấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba, chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch. Ðó là những "chú nhỏ" năm xưa, tay lăm lăm kéo, đứng chông chênh trên cái ghế gỗ, hay khom lưng giữa những tàn mai già, nhặt lá. Lá mai xạm màu rơi đầy gốc, họ lại nghĩ ra việc quét vườn. Hạc lúc tựa gốc mít, lúc đi quanh chú nhỏ, nói chuyện "ngụ ngôn", đôi khi buồn cười, thấy hình như đã nói những câu thế này, cũng trong tiếng chổi lạt xạt quét vườn, vào năm ngoái, với người năm ngoái. Rồi về, nấn ná ở cổng, hẹn Tết nhớ đến coi mai nở, à trước Tết chứ, để còn chở đi chợ. Năm nào Hạc cũng phải giảng giải việc đi chợ Tết cho một người nào đấy, anh chị trong nhà lại cười: "Người vô duyên, không giữ ai được quá một năm!".
2.
Rốt cuộc, cả đám người trẻ tuổi trong nhà vừa quyết định vừ cười láu cá: "Khỏi, thử một năm không nhặt lá, biết đâu hoa ra lác đác lại chẳng đẹp hơn?". Họ vùi đầu vào mua sắm, may cho nhanh mấy bộ quần áo Tết. Hai mươi tám Tết bà cụ mới về, đứng lọt thỏm giữa những bị cói, giỏ cước, trẻ con trong nhà ùa ra, miệng hét, tay xách, người lớn cũng ùa ra, cười: "Tết về rồi!". Bà cụ nhìn khoảng vườn còn rậm rịt lá mai, lắc đầu: "Chúng mày đáng sợ thật!" . Cả lũ lại cười.
Mùng Một, mùng hai Tết, không có mai, Hạc thấy Tết giống như một ngày chủ nhật, như nhà ai giàu có làm đám cưới đốt pháo thật nhiều. Một người nói: "Mày đừng có đổ thừa! Cái hoa mai quê mùa ấy việc gì làm mày mất Tết", rồi ngậm miệng ngay, nhìn Hạc như muốn nói: "Chẳng qua năm nay không thằng nào đến nữa mà thôi!". Hạc cũng chỉ cười, vào nhà nằm, lôi mấy tờ báo Xuân ra xem mà thấy buồn rũ rượi: "Năm nay mình đã bao nhiêu tuổi? Vì sao những ngày lễ Tết mình luôn phải nằm nhà?".
Một đứa cháu trèo lên giường, moi móc từ trong túi ra một đống hạt dưa và một nắm phong bao ra đếm lại. Hạc cười:Dì thấy con đếm phải đến chục lần chứ không ít!.Cô nghĩ:Ngày xưa mình cũng như thế này rồi lơ mơ ngủ mất.
3.
Mọi người kêu lên ngán ngẩm: "Hết Tết!". Rồi vặn đồng hồ báo thức, dậy sớm đi làm trở lại. Bây giờ bà cụ mới đi nhặt lá mai được, lụi cụi từ gốc này qua gốc khác, thỉnh thoảng pháo sót lẹt đẹt đâu đó trong xóm nhỏ. Hạc đi quanh mẹ: "Chi vậy?". Bà cụ móm mém cười: "Tội nghiệp, nhặt để nó nở!".
Mai nở. Một chiều kia, như đã hẹn, một cô bạn dẫn ông anh họ đến nhà Hạc, gửi anh ta lại bảo: "Ra chợ một chút" rồi phóng xe đi mất, lại bỏ nhỏ: "Ông đàng hoàng lắm đó!". Anh ta lù khù, tay khư khư giữ cái mũ vàng như củ nghệ, chậm chạp, mãi mới cởi được xăng-đan để vào nhà. Hạc cau mày: "Khi mình còn trẻ, cỡ này đừng hòng bò đến gần!". Rồi đau đớn nghĩ: "Sao mình cay đắng thế này!".
...Họ ngồi một lúc lâu, có tám trang báo giở qua giở lại, chẳng đọc được tin gì. Cũng không biết nói chuyện gì. Hạc rủ: "Ra vườn xem mai chơi!". Họ đi qua những góc vườn, nơi khoảng một chục cây mai bung ra đặc kịt những hoa vàng nở muộn. Hạc nghĩ: "Có mai rồi đấy, mà vẫn không thành Tết!". Hai người khoanh tay bước, chỉ có tiếng lá mai lạt xạt dưới chân. Họ vẫn không biết nói gì, nghiêm trang như giám khảo hội hoa Xuân... Và nắng chiều tắt dần, như một dải voan cũ vắt trên ngọn cây, nhợt nhạt...
Lưu bị bong gân cổ tay trái đã được bốn ngày. Bạn anh - bác sĩ Hóa - nói anh nên quấn một cái băng thun. “Để phòng bạn bè là chính”, Hóa nói.
Sáng nào Lưu cũng đến quán cà phê Con Tàu. Bốn ngày nay, hễ thấy một người quen nào tiến tới, Lưu đều có phản xạ thu bàn tay đau ra sau lưng, phòng người kia bắt tay. Thế mà vẫn có người nắm được lấy cái tay ấy, lắc lắc. Lưu đau đến tái mặt, nhưng vẫn nhất quyết không đến bệnh viện để Hóa băng cho cái băng thun.
Từ khi bị bong gân, Lưu đi xe máy một tay. Tay đau thu thu trên đùi. Đến chỗ đông, Lưu khẽ vươn cánh tay ra, tì gượng gượng lên ghiđông, luồn lách. Khi đi xe một tay như thế này, Lưu không nghĩ được gì đến nơi đến chốn. Bác sĩ Hóa nói Lưu không nên đi như thế, vì như thế cũng nguy hiểm nốt. “Nhưng chẳng lẽ tôi đi taxi? Hay đi xe ôm?”. Xe ôm là một giải pháp theo Hóa là tối ưu, không tốn lắm. Vả lại, theo Hóa, tiền mình kiếm ra cũng là để một lúc nào đó phục vụ mình, chứ không phải cứ cất vào két. Lưu rất giận câu này của Hóa, vì Lưu nghĩ mình không phải người keo kiệt, mình chi tiêu cái gì là đúng cái đó, giờ Hóa lại nhìn như Lưu keo. Lưu giận lắm, nên sau một tuần vẫn thấy đau không giảm, Hóa bảo Lưu nên đi chụp phim xem có mẻ xương không, Lưu nhất quyết không đi.
Nhưng cái ý tưởng về mẻ xương đã len vào đầu Lưu từ đấy. “Không thể mẻ được - Lưu lập luận - Mẻ là một việc rất khó. Thà rằng gãy... Mà đây chắc chắn không phải gãy”. Mỗi ngày phải có đến hơn mười lần cái thắc mắc “có mẻ xương không nhỉ?” nổi lên trong đầu Lưu. Và cũng có đến hơn mười lần, chính Lưu lại phản bác cái thắc mắc ấy.
Vợ Lưu bảo, anh gàn lắm cơ, sao anh không băng cái băng thun vào cho em nhờ, cho con nhờ; chúng em nhiều khi cũng căng thẳng vì lắm lúc không phân biệt được tay nào của anh đau, cứ sợ va vào. Lưu gắt vợ: “Không nhớ được tay nào của tôi đau thì cả nhà cứ tha hồ va vào”. Và phải mất đến hai hôm sau đó, gần như Lưu không nói câu gì với vợ, cũng không chơi tu tu xịch với hai đứa con.
Vào chiều chủ nhật, băng Con Tàu đồng loạt nhận được tin nhắn của Vinh: “6h30 ở Con Tàu, sau đó biểu quyết xem đi đâu. Vinh chi”. Khi gửi cái tin này đi, Vinh dừng lại ở tên Lưu. Có nên gọi Lưu đi không? Nó đang đau tay, vợ nó hay lục máy, đọc được lại càu nhàu... Cho nên tin nhắn cho Lưu có hơi khác một tí. “Nếu không vướng cái tay đau thì 6h30 ở Con Tàu, sau đó biểu quyết xem đi đâu. Vinh chi”.
Lưu nhận tin khi đang buồn nẫu cả người. Cả chiều thứ bảy, cả sáng chủ nhật đã ở nhà. Nghe máy tít tít, Lưu vồ lấy, đọc tin, rồi tắt phụt luôn. Lưu nghĩ mình không muốn nhìn mặt Vinh nữa. Hóa ra cái tay đau của mình làm nó “vướng” thế đấy. Lưu cám cảnh đời. Bây giờ mới là cái tay đau mà mình đã làm “vướng” người ta. Một ngày kia nếu mình gặp chuyện gì nặng hơn cái tay đau, bạn bè khi ấy sẽ còn thấy “vướng” thế nào.
Băng Con Tàu lục tục đến quán từ trước 6h. Ai đến sớm hơn thì đọc báo, hút thuốc. Tất cả đều hỏi nhau “Lưu đâu?”. Xong đều bốc máy gọi Lưu và lần nào cũng chỉ nghe tiếng tò te tí, báo hiệu máy đã không liên lạc được. Mọi người đoán “chắc nó đau tay nên ngại đi”. Rồi biểu quyết, tất cả nhất trí chọn bãi bia Hùng Rơm, và sau đó sẽ đi hát ở Thủy Ly.
Đã mười bốn ngày, Lưu nâng bát cơm bằng tay đau vẫn thấy ngại ngần. Nhưng trong bữa cơm, Lưu vẫn cầm bát bằng cái tay đau trước cả nhà, mặt không cau lại, tuy cũng không cười được. Đang ăn, con Xít bảo: “Bóng đèn nhà tắm cháy rồi đấy, bố thay đi không tối con không dám vào”. Vợ Lưu bảo: “Bố đau tay, để tí mẹ chở con đi”. Lưu chỉ lừ mắt: “Điện đóm để đấy bố”.
Ăn cơm xong, Lưu đi xe ra cửa hàng điện quang cách đó hai ngã tư, mua một bóng đèn tuýp. Bàn tay đau cầm khư khư cái bóng đèn dài, cứ tuồn tuột dưới lớp giấy bọc trơn như da của một loài cá, Lưu đi xe chầm chậm về nhà bằng một tay còn lại, nghĩ mình quả là một người đàn ông đúng nghĩa của gia đình, bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn chu toàn được, không phải phiền vợ con... Vừa nghĩ tới đó thì cái xe vấp cục gạch, nảy lên một phát. Cái bóng đèn như một con cá quả, ngay lập tức chuồi khỏi cái bao trơn, nhảy xuống đường. Một tiếng “tanh” mỏng manh, mảnh thủy tinh tan trên mặt đường. Trên tay chỉ còn cái bao giấy không thõng thượt, Lưu dừng xe nhìn, và trong thoáng chốc, nhớ ra mình đã từng trải qua biết bao nhiêu mất mát kiểu không ngờ thế này, mà lại còn nặng nề hơn. Dù sao, đây cũng chỉ là một cái bóng đèn, bằng hai bát phở Mai, vẫn có thể làm lại. “Với đàn ông, không cái gì có tên là bất ngờ” - Lưu rắn rỏi.
Trở lại hàng đèn, cô bán hàng hỏi: “Vợ dặn hai mà mua một à?”. Lần này, Lưu bảo cô gái buộc túm hộ cả hai đầu cái bao giấy bọc đèn, rồi dựng thẳng lên trên yên, cho nó tựa vào vai, xong bàn tay đau thong thả ép nó vào sát ngực. Lưu nghĩ cái quan trọng ở người đàn ông là phải nắm được qui luật.
Qui luật ở đây là: “Phải biết tình trạng mà giao việc”. Thất bại lúc nãy là do mình tưởng cái tay đau vẫn làm được việc của một cái tay lành, trong khi nó còn có những vấn đề của nó. Vấp phải cục đá, phản xạ của nó là thu lại để bảo vệ chính nó khỏi đau, việc giữ cái bóng đèn kia chỉ là phụ... Dùng người thì cũng thế thôi... Nghĩ xong, Lưu thấy mình đúng là “bản lĩnh đàn ông”. Đàn ông hơn đàn bà ở chỗ đó. Trong thất bại bao giờ cũng rút ra được bài học. Đàn bà thì không bao giờ rút ra được bài học, chỉ giỏi rút ra được một câu chuyện để kể cho mấy con mụ đồng nghiệp nghe vào ngay ngày hôm sau.
Lưu khoan khoái phóng xe vào nhà xe khu tập thể. Cái khung cửa hẹp làm tay lái Lưu hơi loạng choạng, đầu bóng tuýp đập luôn vào xà ngang. Chỉ nghe “bụp” một phát, và cái bao giấy đang đứng dựng bỗng đổ oặt xuống ngay trên vai Lưu. Chuyện bất ngờ quá khiến Lưu bật cười to lên thành tiếng. Lưu thấy hiện ra ngay cái qui luật thứ hai: “Việc dễ hỏng khi phải cáng đáng”. Lần này thì cái tay lành. Cái tay lành đã phải điều khiển cả một chiếc xe; đúng ra mình không được làm một lúc hai việc: vừa lái xe, vừa giữ bóng đèn.
“Ta sẽ làm đến cùng, thật cẩn thận, và không thể hỏng được nữa. Là thằng đàn ông, hễ muốn là phải được”. Lưu ném cái bóng đèn vỡ vào thùng rác, rồi trở ra, quyết đi bộ suốt hai dãy phố, quay lại hàng bóng đèn.
Cửa hàng đã đóng, cô bán hàng đang loay hoay treo giỏ xách vào đầu xe máy. Cô bảo, sao anh phải mua lắm bóng đèn thế, làm nhà mới à. Lưu cầm cái bóng bằng tay lành, sải những bước vững chãi, về nhà. Tháng ba, trên đường chẳng có cây gì thơm hoa thơm lá, chỉ có trời sương âm ẩm dìu dịu lạnh. Lưu nhớ rằng phải đến chục năm rồi mình và vợ không đi bộ với nhau trong những buổi tối như thế này. Đúng ra là từ khi có con. Khi mới lấy nhau, cứ ăn xong là hay đi dạo dạo, dạo dạo, rồi ghé vào uống chè lá, vợ ăn thêm cái kẹo lạc... Rồi cái nhu cầu nói thủ thỉ với nhau bớt đi, mất đi. Vợ thì nói nhiều hơn, to hơn, nhưng không phải là cho riêng Lưu nữa, mà như một thói quen của miệng phải phát ra âm thanh, trước bất kỳ việc gì đập vào mắt. Đã có vợ nói quá nhiều, Lưu chỉ còn biết thu về nghĩ ngợi trong đầu, hoặc có nói thì nói với bọn Con Tàu.
... Lưu vào nhà, đi thẳng ngay tới khu nhà tắm, trèo lên gỡ cái bóng cũ, thay cái bóng mới, bật công tắc lên. Bóng đèn mới, nhà tắm sáng bừng. Lưu rửa tay, nhìn mình trong cái gương soi, mỉm cười. Thế mới là đàn ông chứ. Thế mới là hiểu qui luật chứ. Rồi tắt đèn, ra ghế phô-tơi giả da nằm xem truyền hình.
... Lưu đang thiu thiu ngủ quên thì nghe tiếng con Xít hét lên: “Bố, bố thay kiểu gì thế hả?”. Con Xít có thói quen cứ đến tối mới đi nặng. Giờ nó cau có đứng ở cửa nhà tắm. Cái bóng đèn lúc nãy mới chói lòa như thế, nay đã không sáng nữa. Chuyện này thì rõ ràng là không dính gì đến tay lành hay tay đau, và đó mới là điều làm cho Lưu vụt chốc suy sụp hẳn. Chẳng còn lại bài học nào của ý chí ở đây. Chỉ thấy bàn tay thô bỉ của số phận thò ra bóp bẹp ý chí con người. Cố đến mấy, gan đến mấy cũng phải thua nó thôi.
“Bướng bỏ mẹ. Nói mãi rồi cứ không chịu đổi sang bóng tròn cho nó ấm áp mà dễ thay”. Vợ Lưu vừa loay hoay thắp một cái nến trong nhà tắm cho con Xít đi ị, vừa làu bàu. Lưu không thiết cãi lại. Anh lên gác, chui vào cái hốc của mình, vừa nằm vừa nghĩ đến tuổi già có cưỡng mấy rồi cũng sẽ đến, vừa không hiểu vì sao đàn bà chúng nó biến đổi nhanh như thế, từ một thiếu nữ chưa chồng và tinh tế sang một mụ ít thông cảm và lắm điều.
Lưu nói với Hóa rằng anh muốn chụp phim cổ tay xem có mẻ không. Hóa mừng rỡ dẫn anh vào phòng X - quang, và buổi chiều Lưu đã ung dung ra bãi bia uống cùng băng Con Tàu, với cổ tay bó mấy vòng băng thun, trông lại có vẻ nam tính và đầy chất thể thao. Vinh bảo, ông bao giờ cũng thế, ông Lưu ạ. Ông quá chủ quan, quá tin vào phán đoán của ông, như thế này có phải nhẹ nhõm không. Lưu muốn hắt cả cốc bia vào mặt Vinh, nhưng Vinh đã lại quay sang nói chuyện với Hóa.
Trời ụp tối rất nhanh, và hình như có gió mùa về. Lưu thấy tức ngực. Anh ho một chút.
Khoảng sáu tháng trở lại đây, Lưu thấy mình hay tức ngực về chiều, ho từng tràng khan khan. Bác sĩ Hóa bảo Lưu nên đi khám. Vợ Lưu cũng bảo anh nên đi chụp phim, và vác về cho anh mấy chai bổ phế có vẽ hai lá phổi trên nhãn. Lưu thấy mình có phải là đàn bà đâu mà hở tí là đi khám, hở tí là đi khám... Ngoài chuyện ho chút chút đó ra thì hoàn toàn khỏe mạnh, cho nên Lưu không uống thuốc và cũng chẳng làm gì. Nhưng mỗi khi húng hắng và tức ngực, ý nghĩ “có gì không nhỉ” lại len vào đầu Lưu, rồi sau đó cũng lại chính Lưu dập tắt. Một ngày như thế phải có đến hơn chục lần...
Last edited by khungcodangcap; 02-10-2008 at 12:07 AM.
Trong đám trò nhỏ đó, cô thương nhất em. Cậu học trò ngồi dãy giữa, bàn hai, chỉ cần năm phút sau khi tiết một bắt đầu là dép đi đằng dép, chân đi đằng chân. Em nhỏ thó, tóc mỗi tháng mỗi kiểu, có lẽ do bố em không chủ động được tay kéo. Mỗi sáng, em được bố chở đến trường, có bữa là mẹ em. Mẹ em đẹp người. Em giống mẹ. Em học lớp Ba.
Mặc dù đã luôn tự nhủ: "Phải yêu thương đồng đều!" nhưng cô vẫn thương em hơn hẳn. Không chỉ tại em giỏi nhất lớp, (năm nào mà chẳng có trò giỏi nhất lớp), còn tại một cái gì đấy không rõ làm cô luôn dịu xuống trước em. Em trả bài vấp (chuyện này hiếm), cô cứu em bằng câu hỏi giữa chừng, vì cô nghĩ tối qua cúp điện, đến cô người lớn chấm bài còn nhức mắt, làm sao bắt em còn bé mà phải học với đèn dầu. Em đi học trễ, cô nghĩ ngay ra chắc lại hỏng xe, thấy tội nghiệp em hớt hải đi vào, cô chọn cái nhìn thật dịu dàng, biết chắc là khối đứa bạn em đang ganh tị.
Cô nhớ buổi sáng cái ngày ba em tự tử. Ðưa em đến trường, ba em mặc áo ca-rô, thả em xuống xong, còn đứng nhìn theo em xốc lại ba-lô, vào cổng. Mẹ em khác, mẹ em không bao giờ nhìn như thế. Tự nhiên lúc ấy cô nghĩ, em học giỏi là di truyền từ ba. Ba em tự tử vì chuyện gì không rõ, hình như nợ nần, vỡ hụi, hình như ông chủ đòi nhà...
Từ đó, em đi học một mình. Cô đi trên đường thấy em nhỏ thó, tóc cắt thật cao kiểu để dùng một lần cho mấy tháng, cứ đi một quãng lại xốc ba-lô lên. Những cái xe tải thỉnh thoảng chạy qua tung bụi mịt mùng che cả em, cô sợ quá. Cô nói em lên ngồi cô chở, em ngồi ngoan như trong lớp vẫn ngồi. Cô hỏi các anh của em làm gì, em bảo một anh thì đi học, một người đi xây nhà. Thế còn mẹ em, cô hỏi, mẹ em nấu cơm với giặt đồ, còn ba em chết rồi, em nói ngây thơ, nhẹ nhàng như thể ba về quê Quảng Ngãi, mấy bữa nữa về thể nào cũng mang theo đường phổi.
Nhưng từ đó, em học sút hẳn. Vẫn nhất lớp, nhưng cái cách nhất của em không được như xưa. Hai tháng sau, dù thương, cô vẫn phải để em tụt xuống hạng hai. Họp phụ huynh, thay cho ba em nghiêm túc mọi khi là anh em, mặt hiền lành nhưng non choẹt, cả buổi họp cứ nhấp nhổm nhìn ra hành lang có cô giáo mới về trường đi qua. Anh của em nghe thông báo em học kém đi rất chăm chú, đầu gật gật, nhưng cô chắc là anh ấy chẳng nghĩ gì, cô sợ những người đi họp kiểu này. Cô lại biết, đây là người học cao nhất nhà em, cô đâm lo, ai sẽ dạy em đây?
Cô quyết định, một chiều kia, đến nhà em. Có mình em ở nhà ngồi bệt dưới sàn, kê vở lên cái ghế con, làm toán. Em bảo cô đợi, em chạy đi gọi ầm trong xóm, mẹ em từ trong một nhà nào đó vội ra. Ngồi ở đây cô còn nghe tiếng mẹ em dặn dò hàng xóm: "Cô giáo tới hả?... Ðợi chút nha, ê... hay mày chơi giùm tao ván này đi". Cô ngồi lật loe hoe hai, ba tờ báo cũ mèm, nghĩ, cô đến làm mẹ em dở dang buổi xòe bài cùng hàng xóm, cô nghĩ chắc tại ba em mất, mẹ em phải giải khuây... Chiều đó, mẹ em cho phép cô đón em về nhà cô một tuần ba buổi chiều, mẹ em hỏi gọn lỏn: "Chịu không?", em ngượng nghịu nhìn cô cười, dựa vào mẹ, gật đầu. Khi cô ra về, mẹ em cùng em tiễn ra cổng, mẹ em hỏi: "Vậy là từ chiều mai, hả cô?".
Thế là em đến nhà cô vào Ba, Năm, Bảy. Cô dạy em học. Cô biết thế là cô thiếu công bằng, những buổi học thế này, đáng lẽ cô phải dành cho trò kém. Nhưng, cô tự bênh vực mình, mình mới ra nghề, mình còn trẻ, phần bản năng trong mình còn lớn... Mình thích sao thì làm vậy, thế thôi. Cô nhìn em ngồi chênh vênh trên ghế ăn cơm với bà, hai chân đong đưa, quần tây cũn cỡn... Buổi tối, cô chưa kịp nói, bà đã bảo để bà mua miếng vải may quần mới cho em, nhưng, bà dặn thêm, mình may chứ đừng đưa cho mẹ nó.
Khi em đã quen với nhà cô, quen cả với mấy con chó đến mức nó đùa được với em thì mẹ em đòi em lại. Một buổi chiều, mẹ em dẫn em đến nhà cô. Em trông khác hẳn, nai nịt gọn gàng, đầu đội cái mũ lưỡi trai tròn đã cũ, đeo bình nước chéo ngực, như sắp sửa đi dã ngoại. Mẹ em nói cảm ơn cô với bà bấy lâu nay cưu mang cháu, nhưng nhà túng quá, phải cho cháu làm gì thêm. Bà hỏi thế nào là làm gì thêm, em non nớt bảo: "Con đi bán vé số!". Cô nhìn em mà thương quá, em của cô sẽ đi giữa chang chang trưa nắng, la cà trong mấy hàng ăn giống những đứa nhỏ bán vé số cô vẫn thấy, đấy là chưa kể đến chuyện tranh giành khách, trông em hiền thế thể nào cũng bị giật bình nước, ném mũ, tát tai... Cô mới nghĩ đến đấy đã rùng mình. Cô nói mẹ em chịu khó vào phòng cho cô nói chuyện riêng một chút. Mẹ em vào phòng cô, nhìn tò mò những hộp phấn, những lọ nước hoa. Cô hỏi mẹ em nếu đi bán vé số thì phụ được bao nhiêu, mẹ em nói có thể đủ tiền chợ. Cô nghĩ lại càng thương, em bé xíu thế này mà đã phải lo tiền chợ. Cô nói mẹ em để cô lo tiền chợ hộ em được không, còn xấp vé số chiều nay cô sẽ nói bà mua hết cho, cô tin cô là con một, nói gì bà cũng chịu.
Rốt cuộc, em lại được về nhà cô tuần ba buổi. Bà thương em hơn sau một lần suýt nữa bị mất em. Tập vé số chiều hôm đó, bà trúng giải thấp nhất. Bà mua con heo đất bỏ vào hết cho em, bà định bỏ heo dần dần, khi em hết cấp I, em sẽ đập heo mua xe đạp nào em thích. Cô thì nghĩ chắc đến đấy em cũng chưa cao được bao nhiêu, (cứ nhìn anh của em thì cô biết), cô nghĩ em đi xe mini an toàn hơn. Bà lại bảo chắc em không chịu đâu vì xe mini xe của con gái...
Lớp Ba kết thúc, em tổng kết lại vẫn nhất lớp. Cô nghe vài phụ huynh xì xào cô nâng đỡ, thêm điểm em. Oan cho cô vì thật ra càng ngày cô càng khắt khe với em. Cô bắt em học bài phải làu làu, cô bắt em làm thêm toán khó, em viết chính tả sai một tý cô cũng cau mày... cô sợ sau này em đi lớp khác, qua cấp khác, đâu phải ai cũng thương em như cô, chừng đó những gì cô chiều em sẽ hại em, người ta sẽ phủi công em: "Thấy chưa, đúng ra có thông minh gì đâu!". Mà cô biết, em thông minh, và tình cảm.
Ðúng ngày phát thưởng, hai cô trò mình đang vui, thì mẹ em lại nói định cho em làm con nuôi ông cụ gần nhà. Ông cụ lâu nay sống bằng tiền con cái ở nước ngoài. Ông chưa yếu lắm, nhưng những việc quét vườn, rửa chén, lau nhà, giặt áo... (nhiều lắm, cô không nhớ hết) thì ông đau khớp, ông không làm được. Em qua đó ở sẽ được cơm ba bữa, một tháng vài trăm (hơn hẳn số tiền cô vẫn đưa). Cô vội hỏi thế sao mẹ em không xin ông cụ để mẹ em làm những việc ấy, còn tiền chợ cô hứa vẫn đưa, cần thì cô nuôi em ba bữa cơm. Mẹ em lúng túng nói: "Không được! Tui phải ở nhà làm công chuyện!". Cô bắt đầu nghi ngờ mẹ em, có cái gì đó vô lý trong sự tính toán này. Cuối cùng, cô hỏi ông cụ trả bao nhiêu... Và thế là em bắt đầu ăn cơm đều đặn ở nhà cô, mẹ em có thêm vài trăm. Bà thì vẫn thương em nhưng đã bắt đầu khó chịu. Bà nói: "Sẽ còn nhiều trò!".
Tội nghiệp, em chẳng biết gì. Em nhổ tóc sâu cho bà. Trẻ con trong xóm cô đã biết nhắn bà, chút nữa em đến kêu em ra ném lon. Ngày nào em đi chơi với anh em, bà đi ra đi vào: "Tối nó có về ăn cơm không?" Cô lại phải qua đón em sang. Em sang, líu tíu kể bà nghe hôm nay đua xe, xem khỉ... Rồi em ngủ gật, bà sợ chở về em ngồi sau xe, ngã; lại bắt cô sang xin mẹ em cho em ngủ lại một đêm... Ba tháng hè trôi qua, em có cao hơn, cô đã nghĩ với tốc độ này, lớp Sáu em không cần chạy mini; Bà đi mua cho em cái cặp mới, bình nước mới để vào lớp Bốn... Ðang náo nức đi học như thế, mẹ em bảo cô: cả nhà phải về quê. Bà dặn: "Con cứ lì ra đi, bảo về thì cứ về, xem mụ ấy muốn gì". Cô cũng nghe theo lời bà. Mẹ em nói muốn mời cơm bà và cô, sợ sau này không bao giờ gặp lại. Bà ra hiệu cô cứ bình tĩnh. Cô lại bình tĩnh nhận lời. Tối đó, cô tra hỏi, em bảo tại ông chủ đòi nhà. Em vừa nói vừa nghịch con mèo, em nom nớt như khi kể về bố em tự tử, em nghĩ về quê còn nhẹ hơn đổi lớp. Em bảo, mẹ em đã mua mấy cái bao để đựng đồ... Cô hỏi bà, thế là sao? Bà nói chắc chuyện này có thật, nhưng đợi đến bữa cơm với mẹ em tính tiếp. Cô không chịu được, lén qua hỏi trước, mẹ em nói không có tiền thuê nhà, rồi nhìn thẳng mắt cô. Cô không dám nhìn thẳng mẹ em như những lần trước, cô biết lần này cô thua. Cô nghĩ mãi, rồi rụt rè xin nhận nuôi em. Mẹ em nói, không, em phải ở cạnh gia đình. Cô lủi thủi ra về, xin chở em sang ăn cơm, mẹ em cũng chối từ, nói em phụ dọn nhà, xếp quần áo.
Hôm ấy, cô đưa em ra bến xe. Bà không dám đi, bà sợ người già hay khóc. Trên xe, em được ngồi gần cửa sổ. Học trò cưng của cô mặc áo còn đeo phù hiệu của trường. Cô nắm bàn tay em, từ trước đến giờ, cô nhớ ra, cô chưa bao giờ nắm tay em. Bàn tay em ấm và khô, nhỏ xíu...
Last edited by khungcodangcap; 02-10-2008 at 12:11 AM.
Anh phụ lái vỗ đùng đùng vào hông xe, và cái xe than dừng lại một cách khó nhọc, đít xe mở ra xọc xạch, thả xuống hai đứa con gái rũ rượi như hai con bụi đời. Hai bên bờ là rừng cao su đều thẳng tắp, quy củ mà hoang sơ trong trời xám đất đỏ; trước, sau, đường nhựa uốn dốc, tôi và Hà nhìn nhau bối rối: "Sao mới đến mà buồn thế này ?"
Hai đứa đi giữa lô cao su, vắng lặng và trơn trợt, Hà chỉ lên cao: "Móng rồng kìa !", rồi chỉ vào gốc cây: "Chén đựng mủ kìa !" xong nhìn tôi thăm dò, xem thử may ra mấy cái vặt vãnh lạ lùng ấy có thể làm tôi vui lên chăng. Tôi chưa từng có một mùa hè vui, hè nào cũng đau ốm, hoặc không thì nhân tình nhân ngãi bỏ, mà chủ yếu là nhân tinh nhân ngãi bỏ. Để đỡ buồn, tôi là vài việc, khi thì học cắt giấy, tỉa tót những nét tranh bằng cái kéo to cộ; khi thì cùng một đám bạn đi sưu tầm các quán cafe và ngồi quán nào cũng thấy buồn...Hè năm nay, một chuyện hiểu lầm vặt vãnh, và Tuyển biến mất, tôi hiểu rằng đó chỉ là một cái cớ và người ta đi chỉ vì người ta chán, vậy nên tôi nằm nhà, lôi một chồng tạp chí cũ ra xem, vừa xem vừa ngủ vật vờ, chán nản. Hà bảo: "Mày thảm quá, xem tao này, tao có buồn đâu nên tao mập !". Tôi cười, nó mập thật, mặt không một nếp nhăn, mắt không một quầng thâm mất ngủ... Rồi nó cười: "Ở Suối Tre, nhà cậu tao, mùa này chôm chôm còn nhiều lắm !..."
2. Có vườn chôm chôm nào đâu, nhà cậu Hà nằm cô độc trên một khu đất không biết nên gọi là đồi hay u. Một ngôi nhà kiểu Tây đỏ quạch đất bùn, quanh nhà, cỏ mọc ẩm ướt, buồn thảm. Vài đứa trẻ con trông cũng uể oải như cảnh vật, ngồi trên thành xi măng bể nước, dùng mấy cành cây ngó ngoáy xuống mặt đất... Thấy Hà, bọn nó nhảy xuống, rồi nắm níu, rồi hỏi han: "Mẹ đâu, bố đâu ?"... ầm ĩ; còn tôi, hoàn toàn dửng dưng, tôi chỉ muốn có ngay một cái giường để ngủ !
Trong nhà đầy trẻ con. Đứa nào cũng lem nhem, tưởng chừng như đất đỏ ngấm vào cả da thịt chúng. Cơm chiều, cả nhà quây quần lại nghiêm túc, mấy đứa bé lâu lâu kêu lên: "Nhặt con đậu đen kìa, cạnh bát canh kìa !"... Hà trấn an tôi: "Đừng sợ, con này không bẩn, không cắn". Cả nhà nhìn tôi có vẻ hơi ngộ nghĩnh rồi lại tiếp tục ăn, chỉ một người, một chị tóc dài, thưa thớt, vàng hoe, mặt thuột ra; chị buông bát đũa, nhìn tôi chăm chú và cười, cười mãi. Mợ Hai đút bát vào tay chị, và chị ăn, chậm rãi, có vẻ ăn cho mợ vui lòng, vậy thôi, còn công việc chính lúc này là phải nhìn tôi, nhìn cái đứa sợ giống đậu đen hiền lành kia, và cười. Hà thầm thì: "Chị Hai đó, ăn đi !", rồi nó ngạc nhiên hỏi: "Hoài đâu ?". Cậu mợ thản nhiên: "Nó đi chơi rồi !".
3. Bọn trẻ con vác bộ cờ cá ngựa ra, giảng giải: "Ở đây tối chẳng có chỗ nào để đi, mưa nữa, bẩn lắm...Sáng mai em dẫn xuống vườn mua sầu riêng... Mấy chị chơi cá ngựa không ?" Và cứ hai người một màu ngựa mà đấm mà đá lẫn nhau. Hà trầm ngâm trước bàn cờ: "Bọn này hiếu chiến lắm, mình muốn về chuồng cũng không được. Tao với mày đi thế này nhé, đá là chủ yếu, đừng cho đứa nào qua !". Rồi rình rập nhau, trẻ con cay cú hờn dỗi, người lớn mưu mô, rồi la hét ầm ĩ, giường chiếu run bần bật... Tôi dựa lưng vào cái bàn máy may kê đầu giường, thấy chị Hai đứng đó từ lúc nào, tóc xoã, miệng vẫn cười cười, mắt ngây ngô vô hồn. Tôi bảo: "Ngồi xuống giường này, chị Hai, đứng chi cho mỏi !". Không nói tiếng nào, chị vuốt ve cạnh bàn, ngơ ngẩn... Hà lại hét lên: "Con Thảo sắp về chuồng rồi, bỏ mẹ rồi !", thế là hùynh hụych đuổi theo con ngựa của Thảo, những cục xí ngầu vội vàng tung lên, rơi xuống, bọn trẻ con lại rên rỉ...
Cứ vậy đến đêm, mưa ngoài kia rả rích, đậu đen rớt xuống bàn cờ, tôi quay lại, vô tình tìm thấy chị Hai, và hoảng sợ. Trong ánh đèn nê-ông xanh xao khuất bóng, một khuôn mặt biến dạng, nó dài ra kì lạ, u uẩn như chìm trong một cơn đau dai dẳng. Tôi bấm tay Hà: "Chị Hai kìa !". Hà ngước lên nhìn rồi bình thản bảo tôi: "Tại tụi mình vui quá đó !", quay lại, chị đã biến mất, như ma, và tôi không còn tâm trí đâu mà chặn đường đấm đá với mấy con ngựa nữa.
4. Ván cờ kết thúc trong những cái ngáp dài, những bóng dáng trẻ con, người lớn nghiêng ngả dựa nhaụ Hà bảo: "Không có tiền là không thắng nổi"... Bọn trẻ hỏi: "Hai chị ngủ đâu ?". "Cho tao cái giường cạnh cửa sổ, không cần gối, với một ly nước để nửa chừng tỉnh dậy tao uống". Rồi hai đứa tựa thành cửa nhìn xuống khoảng đất dông dốc mờ ảo ngoài kia. Mưa đã tạnh và trời lạnh lẽo, cây lá thả nước lộp độp theo mỗi trận gió, tôi chợt thắt lòng mà nghĩ đến Tuyển, giờ này hẳn đang ngủ, mắt xếch mày dài khép lại, cái mặt luôn hờn dỗi ngoẹo qua một bên gối, và tôi thấy buồn cườị.. Chợt Hà lẩm bẩm: "Vì tình !". Tôi hỏi: "Cái gì ?". Nó chỉ về một gốc cây gần bể nước: "Chị Hai !". Chi Hai ngồi đấy, một cái bóng thẳng đuột như một khúc cây trông có vẻ ngây ngô, biếm họa hơn là u uẩn hay mơ mộng. Tôi hỏi Hà: "Lâu chưa ? Vì ai vậy ?". Nó cười ruồi: "Mấy năm! Thằng cha nào làm bên bệnh viện, không biết. Mà cũng không hẳn vì tình hoàn toàn, xưa kia bả cũng tàng tàng rồi, cái ông quỉ kia chỉ là cái cớ thôi..." Tôi cười: "Tàng tàng mà cũng có người yêu sao ?" Hà phì cười: "Yêu hồi nàỏ Bả lên khám bệnh, mê ổng, còn ổng có biết chị Hai tao là ai đâu !"...À thế là điên thật, điên có sẵn ! Tôi thấy buồn cười, trước đây tôi vẫn quen với hình ảnh những thiếu nữ thất tình xinh đẹp của tiểu thuyết, đầu đội hoa chẳng hạn, quần áo vẫn sạch sẽ, đi lang thang vơ vẩn giữa những hàng cây, để lại sau lưng những chuyện tình đẹp như truyền thuyết. Còn chị Hai của Hà, một mối tình "độc mã", một gương mặt dài ngây dại, một dáng ngồi thẳng đơ giữa một đêm miền Đông, trong tiếng côn trùng rỉ rả chán đời !
...Hà khép hai cánh cửa sổ ẩm ướt lại: "Ngủ đi, mai còn ra rẫy !". "Có gọi chị Hai vào không ?". "Không, hồi nữa tự chị vào, mày ngủ đi !". Tôi chui vào màn, chăn chiếu nồng mùi nước đái, nước rãi trẻ con mê sảng nhả ra trong đêm, thật khó ngủ. Hà cũng vậy, nó xoay xở như con mậy lộn, gãi lưng, gãi cổ: "Có kiến". Cửa lớn vẫn mở hé, gió lùa vào lạnh toát, tôi lay Hà: "Sao không ai gọi chị vào, cảm lạnh chết ?". "Gọi thì không vào, mà không ai muốn nhắc đến chị Hai". "Cậu mợ mày không thương chị sao ?". Hà thì thào: "Dĩ nhiên cậu tao không thương, mợ tao thương nhưng ngượng, mà chán nữa. Chị Hai là "kỷ vật" của mối tình đầu đó, cậu tao lấy về sau này mới vỡ lở, mà quê thật, tưởng cái kỷ vật ấy nó lãng mạn ra làm sao, cuối cùng lại tòi ra cái của này !" Rồi Hà cười, khịt khịt mũi có vẻ rất vênh váo, bề trên...
Tôi không thích cái lối kể về những ngóc ngách tối tăm của gia đình một cách lạnh lùng như Hà. Tự nhiên tôi sợ, tôi quay mặt vào tường, nghe bên ngoài rào rạt lá, biết đâu sẽ có lúc Hà kể lại chuyện không hay của tôi cho một người bạn thân khác nghe, rồi cũng khịt khịt mũi diễu cợt như đêm nay ?
5. Chúng tôi tỉnh giấc vì qua cửa sổ, nắng chiếu vào thẳng mặt. Ngoài kia, một giống chim gì đó loé choé, kêu chứ không phải là hót. Giường bên kia, một đứa con gái lạ, đầu mới gội, mặt đẹp và ngang tàng nhổ tóc ngứa cho chị Hai. Hà hỏi: "Mày đi đâu bây giờ mới về vậy Hoài ?", nó đùa: "Đi ngựa !" rồi hỏi lại: "Hai chị ăn xôi nha ! Ăn đi rồi đi vườn chơi !" Hà rỉ tai tôi: "Hoài, em tao, quậy lắm !". "Nó học lớp mấy rồi ? ", tôi hỏi, "Đang đợi kết quả rớt đại học ! Nó mà học gì ! Bồ không hà !". Tôi lại liếc nhìn Hoài, nó cũng nhìn tôi, cười vui vẻ, ý như muốn nói: "Thôi tôi biết tỏng các chị đang thầm thì cái gì rồi ! Mà đâu có sao, phải không ?". Chị Hai ngồi dưới chân giường, mắt vẫn lờ đờ, miệng cười cười, thỉnh thoảng kêu lên: "Ôi, đau ! Nhổ đau quá !". Hoài ấn vai chị "Im để tôi tết lại nào!", rồi nó bảo: "chừng nào em có tóc bạc tới phiên chị Hai nhổ cho em nha !". Tôi nằm, nhìn tóc Hoài đen nhánh che nửa mặt, nửa mặt còn lại trắng như ngọc với mắt rợp, miệng ngang, đẹp như những hình quảng cáo trang họa báo nước ngoàị.. mà nghĩ: "Đẹp thế này làm sao già nổi !"
...Cả lũ kéo nhau vào rẫỵ Trời chợt âm u, đường đi lúc lên dốc, lúc xuống dốc... đến mệt. Hoài khoác tay chị Hai đi cạnh Hà và tôi, mấy đứa em ríu rít sau lưng, bọn nó gọi: "Xuống rẫy ông Cụt nha chị Hoài !". Hoài giải thích cho chúng tôi: "Vào rẫy ông Cụt là thoải mái nhất, vừa bán vừa chọ..", rồi nó dựa vào người chị Hai, cười: "Mốt em có rẫy, cho chị Hai coi việc bán trái cây, nha ! Bán được không ?" Chị Hai cười, ngơ ngẩn: "Được". Mấy đứa trẻ con kêu lên: "Trời ! Ai dám cho bà ở chung, thấy bả, ai dám mua mà bán !". Tôi giật mình, thầm trách sao bọn trẻ con mà độc miệng. Hoài cũng vừa quay lại, nó hất tóc ra sau, không có vẻ gì là giận dữ: "Không ở với tụi mày thì ở với tao!", rồi lại ngả vào chị Hai, cặp chặt tay chị hơn, nó hỏi: "Bà chịu về với tôi không ?", chị Hai lại đờ đẫn cười: "Chịu".
Vào đến rẫy thì trời đổ mưa. Cả lũ chạy vào một căn nhà lụp xụp, trong nhà ngào ngạt mùi sầu riêng, một ông già cụt tay đang hút thuốc lào lọc xọc, nhìn tụi tôi, nói: "Mới sáng mà đã mưa há tụi bây!". Trên cái võng mắc chéo ở góc nhà một anh chàng mắt một mí, có vẻ như mới tập để ria, đang nằm. Thấy Hoài vào, anh ta ngồi bật dậy, lúng túng nhường võng. Hoài "Ứ" một cái rồi liếc anh: "Chủ nhật mà không đi chơi sao ông ?". "Có ai đâu mà đi". Hoài giới thiệu với tụi tôi: "Anh Lương, bác sĩ bệnh viện công ty". Bọn trẻ con lại nhao nhao với tôi: "Công ty cao su gần nhà đó !"... Mưa tạnh, ông Cụt vô ý dục anh bác sĩ: "Tạnh rồi kìa! Đi lẹ không lại mưa !", anh chàng đến góc nhà, xách một cái túi to đầy chôm chôm, giải thích: "Người nhà anh dưới Saigon lên ! Anh về nha !". Hoài lại "Ứ", liếc anh: "Về sao, vậy thôi sao ?". Anh bác sĩ hiểu ra, cười: "Em thích gì, lựa đi !". Hoài bảo: "Cho chị Hai lựa sầu riêng đó !", và chi Hai tình ngay vào góc nhà lựa trái, anh bác sĩ sung sướng trả tiền cho người đẹp, lũ trẻ con lem nhem đứng cười rạng rỡ, nghĩ rằng phe ta kì này thế là đã thắng to.
Loanh quanh trong vườn một chút, trời lại mưa, lần này mưa dai dẳng, trời sũng nước, mấy đứa bé sau khi đã ăn chôm chôm mỏi miệng, đòi: "Về luôn đi chị Hoài, không tạnh đâu !". Hà cũng nhìn tôi: "Về luôn nha !". Hoài nhìn trời, ước lượng, rồi "Ừ". Nó bảo ông Cụt: "Bác cho con mượn cái áo mưa, con đưa chị con về, lát hồi con đem qua." Ông Cụt chỉ lên vách: "Có tấm ni-lông với cái nón thôi, tao không có áo !" Hoài cười: "Tốt rồi !", xong gọi: "Chị Hai lại đây !". Nó đội nón cho chị, choàng tấm ni-lông qua vai rồi buộc lại bằng cái nút to tướng ở cổ, nó ra lệnh: "Đưa chân ra đây tôi sắn quần cho không té !", rồi dặn: "Đi từ từ thôi nhe chị Hai !". Chị Hai cười, ngu ngơ, lũ em, tay xách giỏ, tay nắm quần, cùng cười. Cả bọn lại dò dẫm trên con đường về nhà, đất đỏ giờ nhão ra, trơn như sáp. Những lô cao su bên đường vắng lặng, gây cảm giác sờ sợ... Tôi thì thầm vào tai Hà: "Hoài nó thương chị Hai quá ha !". Hà gật đầu, cười: "Ờ, cả nhà được mình nó, hên mà có nó, không có nó, sau này chị Hai biết sống với ai !". Tôi thấy điều này hơi ngây ngô, tin sao được tình cảm một đứa bé mười tám, mười chín, nhất lại là một đứa lang bạt như Hoài ! Vậy nên, tôi chỉ cười nghi hoặc, Hà trợn mắt nhìn tôi: "Thật đó! Nó đi suốt, nhưng nó mà ở nhà đừng có ai hó hé gì với chị Hai", rồi cũng như nghĩ lại, Hà buông một câu: "Mà bây giờ thì thế, sau này còn biết bao nhiêu chuyện, phải không ?".
6. Về thành phố, nghỉ được một tháng, đi học lại được khoảng hai tuần nữa thì tôi nhận được tin Hoài mất. Một cái chết đuối như mọi trường hợp chết đuối khác, rủi ro xảy ra trong một cuộc picnic nào đó trên hồ. Người ta phải đau lòng chờ chực để vớt được xác Hoài, đã căng đầy nước và hồn phách có lẽ đang lang thang ở một góc trời nào đó. Đưa Hoài về, chị Hai hỏi mợ: "Em đâu ?", mọi người lại oà khóc, khóc nhiều hơn là khi nghe các câu kể lể, than thở khác. Tôi muốn biết chị Hai có khóc không, Hà bảo: "Tao không hỏi !". Có lẽ cũng không ai để ý đến điều này.
Lại mưa, mùa mưa. Tôi nghĩ rừng cao su, với những chiếc chén đựng mủ đeo bên hông cây, giờ này hẳn buồn lắm. Và trong cái nhà ẩm ướt đỏ quạch màu đất ba gian ấy, chị Hai chắc đang ngơ ngẩn nhìn mưa trong đồi cỏ, tóc dài không ai tết hộ, lại xõa ra, vô hồn.
Last edited by khungcodangcap; 02-10-2008 at 12:15 AM.
Từ đây - nó nghĩ - mọi thứ tự, luật lệ đã thay đổi!
Với mẩu giấy này nó trở nên một người có vai vế trong nhà. Nó sẽ được tự do, tự do tiếp bạn bè vào chiếu tối, thoải mái mà đi chơi và nhất là, nó đã có cái cớ để đổ tội cho những sai lầm nếu có, sau này.
Tờ giấy thông hành ấy nhỏ bằng hai bao diêm, một cạnh xé lam nham, vội vã, một lời hẹn yêu đương của một người già quên tuổi tác và nghĩa vụ - bố nó với một người nó không hề có một tí khái niệm nào về tuổi, đẹp, xấu, nghề nghiệp... hoàn toàn lù mù, chỉ hiểu bố nó tha thiết viết: "Em!"...
2
Nó như một con rắn, nó trườn đến một hàng photocopy thật xa, ở đấy chắc không ai biết, nó là ai: hai tờ, một tờ đút túi, một tờ nó lẳng lặng đưa cho ông bố đang ngồi đọc báo, và cười, một cái cười ngang hàng, không phải của con dành cho bố. Một trật tự mới ngay lập tức được thiết lập, bố nó cầu khẩn và căm thù nhìn nó, cái đứa lầm lì nhất trong bốn đứa đây, cái đứa ít nhìn vào mắt ông nhất trong nhà, hầu như hai bố con không trao đổi gì ngoài những câu chào, tiếng mời cơm. Ðứng trước nó, ông thật sự thấy mình là chủ gia đình, một gia đình của trăm năm xa xưa mà trong thâm tâm ông đàn ông nào cũng ao ước... Bấy giờ, nó đứng trước ông, điệu bộ rất lễ phép, cũng lẳng lặng không một lời... chỉ có cái cười nhẹ nhàng và đôi mắt... Ông bố hiểu ra, nó thỏa mãn biết bao nhiêu, nó đã căm hờn ông biết bao lâu...
3
Bà mẹ không biết gì, chỉ thấy các con mình ít bị la mắng hơn, những bữa cơm dọn trễ một chút cũng không sao, đứa nào chậm chân ngồi vào trễ một chút cũng không sao, ông chồng đăm chiêu, thờ ơ và dễ tính... lẫn lộn.
Và nó, nó không sử dụng ngay cái quyền của "giấy thông hành" ấy, vẫn chưa thằng bạn trai nào được tiếp vào chiều tối, vẫn chưa một buổi đi chơi nào quá lâu... không phải vì nó còn sợ, chỉ đơn giản là nó chưa quen được tự do, chỉ thế thôi, chẳng có tí ti đạo đức nào trong việc chậm trễ này cả. Rồi nằm dài một trưa, nó nghĩ: "Hay thật, mình bây giờ lại còn đạo đức hơn bố mình! Bây giờ, bây giờ mà đi chơi nhiều, đàn đúm nhiều thì lại hư bằng nhau. Mình càng nghiêm trang, ông cụ càng hãi, như vậy đã hơn".
4
Và như thế, hằng ngày, nó quan sát lại mọi việc trong nhà. Nó nhìn bố nó, ông hiệu phó của một trường cấp III. Lầm lũi với cái cặp đen, gầy gò mực thước trong bộ quần áo phẳng phiu đến lớp, nó cười thầm: "Ði giảng đạo đức đây!". Nó quan sát mẹ nó say sưa trong cái trò rửa thịt, nhặt rau, nhìn bà mẹ hồn nhiên giữa mấy đứa con lít nhít, đứa nào cũng giống mẹ, mắt lồi. Nhìn mấy mẹ con quấn lấy nhau trong góc bếp, nó nghĩ: "Chẳng cần có bố cũng sống được!". Nhưng khi ngồi vào bàn ăn, nhìn thấy mẹ mình yêu thương và sợ sệt gắp thức ăn cho chồng, nó tủi thân một cách trẻ con: "à, cái đám mắt lồi chúng mình đây được yêu thương chẳng qua vì chúng mình là sản phẩm của ông bố này. Mẹ yêu bố gấp đôi tụi mình. Nếu bây giờ có một đám cháy, cho mẹ cứu một người duy nhất, hẳn là mẹ sẽ cứu bố". Rồi như thật, nó kín đáo liếc các em nó, liếc những đứa bé sẽ bị bỏ rơi trong đám cháy thử thách mà nó đã tưởng tượng ra... Rồi bình tâm trở lại, nó nhìn bà mẹ rất đơn giản ấy mà thương hại: thôi giấu đi là vừa, mẹ hiền quá chắc cũng chẳng làm gì được, và ngây ngô quá, chưa chắc đã khổ, chuyện lớn, thành trò đùa, bố sẽ quen đi rồi sẽ không ai sợ ai trong nhà này cả". Vậy là nó tiếp tục ăn, mẹ tiếp tục gắp, bố tiếp tục lặng lẽ, các em nhai nuốt hồn nhiên, ngày này qua ngày khác, không ai biết có hai người khổ sở trong nhà.
5
Nó khổ sở trong nhà, cũng chẳng nghĩ đến việc thù tiếp bạn bè hay chơi bời khuya khoắt nữa. Cảm thấy mình giống một tên "thừa nước đục thả câu", nó cụt hứng. Ngồi lặng lẽ bên một đám bạn ồn ào, nó nhìn hàng dầu gió bên đường thả quả như những cái trực thăng tý hon và nghĩ: "Khốn nạn thật, nếu không có chuyện bẩn thỉu kia thì bây giờ phải đạp bán sống bán chết về nhà rồi!". Và một tối, một thằng bé chưa biết luật lệ của cái gia đình nghiêm khắc này, cao hứng ở lại đến 9 giờ, cười cười nói nói, tay chân múa may không biết sợ. Ông bố, theo thói quen cùng một chút tự ái thua cuộc đi ra rồi bất lực đi vào. Tự nhiên, nó thấy cái miệng thằng bé sao mà rộng, tay chân sao mà như hề, và nó cáu lên một cách vô lối, nghĩ rằng từ đây mọi trò vui của mình có được chẳng qua cũng nhờ một trò đáng khóc.
Rồi nó tiếc, phải như không nhặt được cái tờ giấy quỷ quái ấy. Nhặt được, tưởng rằng từ đấy sẽ có gan nhìn thẳng vào mắt bố nó khi cần thiết, hóa ra càng ngày càng ít dám nhìn, nhìn nhau, mắt hai bố con dại đi, và nó ngượng.
Cay đắng, nó nghĩ đến cuộc sống gia đình đen tối mà nó sẽ phải có. Nó sẽ không được hồn nhiên trời phú như mẹ nó. Chồng nó, dễ gì có được cái địa vị mực thước như bố nó, có nghĩa là cái gia đình tương lai ấy càng dễ tan nát gấp trăm lần cái tổ ấm bây giờ. Nghi ngờ, nó gác lại những kế hoạch yêu đương; sợ hãi và giễu cợt, nhìn những thằng bạn đi bên cạnh như nhìn những tên lừa đảo còn ẩn mình trong lá ủ!
Và ông bố, mỗi sáng lầm lũi trên đường đến trường, ông nghĩ ra mọi cách để giải thích tại sao lâu nay mình ít nói trước học trò, ông sợ một ngày nào đó, rủi như chuyện này vỡ lở, những cái áo dài nết na kia, những bộ đồng phục ngoan ngoãn kia sẽ làm thịt ông như trả thù một nhà đạo đức giả hiệu bao lâu nay vẫn áp bức chúng nó. Rồi lo sợ, ông miên man nghĩ đến bà vợ và những đứa bé ở nhà như một cái án treo lơ lửng trên đầu, và co rúm người lại ông vô tình tập trước cái tư thế sẽ thay cho tác phong uy quyền xưa nay.
Nước mắt, người và xe nhòe nhoẹt, ông nghĩ đến đứa con gái lớn: "Mình mất nó thật rồi! Nó có rơi xuống bùn, mình cũng không đủ tư cách mà kéo nó lên: thò tay xuống kéo, biết đâu nó sẽ trừng mắt rồi tự nguyện lăn luôn xuống đáy!". Rồi tủi thân của một người già, ông loạng choạng đạp xe giữa cây cỏ hai bên đường: "Mình chết đi, nó có khóc không?". Lẩn quẩn, như mơ, ông tưởng tượng ra một đám tang, một bà vợ, mấy đứa bé mịt mù khóc cùng nhang khói. Chỉ một đứa, nó lặng lẽ đứng bên quan tài, một đứa con gái lầm lũi và cương quyết, như đang canh gác một phạm nhân.
8 - 1991
Last edited by khungcodangcap; 30-09-2008 at 12:17 PM.