Cang nằm êm một hồi, rồi nhỏ nhẹ nói với vợ:
- Nếu tôi mất Nghiệp, chắc tôi phải chết quá mình ơi.
- Chuyện gì mà mất lận. Xin mình bình tĩnh mà xử trí, đừng buồn đừng giận chi hết. Mình làm phải, lẽ nào con nó phụ bạc mình.
- Cha nó đã phụ bạc mình đó. Con do máu thịt của cha mà sanh. Tôi sợ e con nó sẽ phụ bạc tôi cũng như cha nó phụ bạc mình trước vậy.
- Còn máu thịt của tôi sao mình không kể? Con của tôi đẻ mà. Nó cũng có một phần máu thịt của tôi chớ.
- Làm cho Nghiệp nên người, tôi tốn công phu nhiều lắm. Nghiệp từ nhỏ là tâm trí của tôi. Bây giờ trưởng thành rồi, nó là hy vọng của tôi. Vợ chồng mình ăn ở với nhau mấy mươi năm mà không có chút con nào hết. Tuy vậy mà tôi không buồn. Nghiệp sẽ kế chí cho tôi. Nghiệp sẽ cúng quảy tôi. Cầu con làm chi nữa. Bây giờ Nghiệp bỏ tôi mà đi theo cha ruột nó, thì công phu của tôi tiêu tan, hy vọng của tôi bay mất. Làm sao mà níu lại được? Làm sao mà giữ cho được?
- Có lẽ nào nó đành bỏ vợ chồng mình mà theo cha ruột của nó. Con tôi đẻ, con mình nuôi, chắc nó giống tâm hồn của vợ chồng mình chớ.
- Tôi mong mỏi giữ lắm. Tôi vái van lắm mình ơi.
- Tôi nói thật với mình, nếu Nghiệp nó nhìn Bình là cha nó, thì tôi cấm tuyệt không cho nó thấy mặt tôi nữa, không cho nó kêu tôi bằng má nữa.
- Sao vậy?
- Người ta đã phụ bạc tôi, người ta đã bỏ bê nó, mình cứu vớt tôi mà nuôi dưỡng tôi và dạy dỗ nó, bây giờ nó thành nhân rồi, nó không trả oán cho tôi, nó quên thù của nó, nó trở lại cung kỉnh dưỡng nuôi người ta, quên cả công lao tình nghĩa của mình, con như vậy làm sao mà tôi thương yêu cho được.
- Mình làm như vậy, té ra mình ích kỷ quá, ích kỷ mà lại hẹp lượng nữa. Mình cấm con không được nhìn biết và phải oán thù cha của nó, tôi sợ mình phải mang cái tội làm sái đạo luân thường, vì mình ép con bỏ dẹp niềm phụ tử. Khó lắm mình ơi: tôi lo lắm, vì tôi bối rối lắm không biết đâu là đường phải đi.
Ông Ba Chánh đi chơi về. Ông thấy vợ chồng Cang to nhỏ với nhau mà buồn hiu, ông biết đang bàn tính với nhau về chuyện Nghiệp, nên ông đi luôn vô nhà khép cửa phòng mà nghỉ.
Vợ chồng Cang nói chuyện rù rì với nhau đến khuya rồi mới vô đóng cửa tắt đèn.
***
Mấy bữa rày ở dưới hãng hay về trên nhà cũng vậy. Cang lửng lơ lơ lửng, ít muốn nói chuyện, chẳng bao giờ cười.
Mà hễ ăn cơm tối rồi thì Cang lên xe cầm bánh mà đi. Bữa đầu vợ hỏi Cang đi đâu thì Cang nói trời nực quá nên đi hứng gió, nhưng không rủ vợ đi theo như hồi trước. Cô Huyền biết chồng đương bối rối trong lòng, muốn tìm chỗ thanh tịnh mà suy nghĩ, cô sợ đi theo làm rộn cho chồng, nên cô không đòi đi.
Đến thứ bảy, lúc ăn cơm chiều, Cang dặn vợ biểu chị bếp sáng mai đi chợ mua đồ ăn kha khá vì có khách ăn cơm trưa. Cô Huyền hỏi:
- Khách nào đến vậy?
- Có cậu Hoàng ở Cần Thơ lên. Tôi mời cậu trưa chúa nhựt lên nhà ăn cơm trưa. Tôi cũng có mời vợ chồng thằng Nghiệp vô định tính việc nhà.
Cô Huyền nghe như vậy thì hiểu bữa cơm trưa mai là buổi cơm quan hệ, không biết chồng sẽ xử lý thế nào.
Cô lo quá. Suy nghĩ một chút rồi cô nói:
- Xưa rày lâu mời thầy Hai Thanh lên ăn cơm. Nhơn dịp có cậu Hoàng và vợ chồng thằng Nghiệp, tôi muốn mời luôn thầy Hai.
– Ô ! Được. Thuở nay tôi coi thầy Hai cũng như chú bác tôi. Mà thầy lại là bạn cố giao của cha tôi. Thầy cũng như người trong thân. Vậy má nó sai trẻ mời thầy dự bữa cơm gia đình nầy đặng nói chuyện chơi cho vui.
- Để sáng mai tôi mời.
Qua sáng chúa nhựt, lối 9 giờ, thầy Hai Thanh đã lơn tơn xuống trước. Thầy vừa mới nhậu một chung trà nóng với ông Ba Chánh và hỏi thăm về cách bảo hiểm xe hơi, thì xe của cậu Hoàng với xe của vợ chồng thằng Nghiệp tiếp nhau vô sân đậu nối đuôi.
Hoàng mau mắn chạy vô nhà mà hỏi thăm lăng xăng. Loan đeo theo mừng rỡ cha mẹ chồng, nói cười không ngớt. Còn Nghiệp thì xẩn bẩn một bên ông ngoại rót nước trà mà uống, hỏi sức khoẻ thầy Hai Thanh.
Thấy gia dịch sửa soạn chặt nước đá, Nghiệp kêu vợ mà chỉ và biểu đừng đãi rượu gấp vì còn sớm quá nên cho uống trà thì hợp giờ hơn.
Cô Huyền bước vô trong kêu cho một bình trà. Cô Loan lại tủ rượu mà lấy tách. Cang trầm tĩnh ngồi giữa sa lông, mắt ngó mọi người song không nói chi hết, trên mặt lộ vẻ hiền từ mà kiên quyết. Cang đợi chủ khách đều có đủ mặt trong xa lông, Cang mới kêu Nghiệp mà nói:
- Nghiệp lại ngồi một bên ba đây, đặng ba tỏ việc nhà cho con nghe. Lẽ thì phải để ăn cơm rồi sẽ nói chuyện mới phải. Nhưng còn nhiều thì giờ quá, thôi ba nói đặng nhẹ bụng ăn cơm mới được.
Nghiệp bước lại kéo ghế ngồi một bên chạ Ai nấy thấy Cang nghiêm nghị, biết Cang có việc can hệ muốn nói với con, nên đồng lặng thinh mà ngó, đợi coi Cang sẽ nói chuyện gì.
Cang tằng hắng rồi khởi đầu:
- Nghiệp, ba mới nghe nói hôm con đi chơi, ra tới Nha Trang con có gặp ông Võ Như Bình và con đến thăm ông phải hôn?
- Thưa phải. Con có đến tìm nhà thăm ông Võ Như Bình và ngồi hầu chuyện với ông hơn một tiếng đồng hồ.
- Con biết ông Võ Như Bình là ai không?
- Thưa biết. Ông là cha ghẻ của vợ con, tức cũng là cha ghẻ của anh Hoàng.
- Con biết có bấy nhiêu đó thôi sao?
- Biết có bấy nhiêu đó. Còn gì nữa hay sao ba?
- Còn nữa. Bữa nay có đủ thân tộc bên con và bên vợ con, ba nói ngay cho con biết ông Võ Như Bình đó là cha ruột của con nữa, chớ không phải là cha ghẻ của vợ con mà thôi đâu.
Nghiệp nhướng mắt nhìn Cang trân trân, dường như không hiểu lời Cang mới nói đó. Cô Huyền ngồi thắt thẻo trong lòng. Còn Hoàng với Loan thì ngạc nhiên, day ngó nhau rồi ngó Nghiệp.
Cang thấy bộ tịch Nghiệp nghi ngờ thì nói tiếp:
- Ba nói đó là ba nói sự thật. Ông Võ Như Bình là cha ruột của con. Nếu con không tin lời ba, thì con hỏi má con kia, con hỏi ông ngoại con đó, con hỏi luôn thầy Hai đây kia, coi có quả là sự thật hay không.
Nghiệp vùng đứng dậy đi qua đi lại mà nói lớn:
- Dầu ai nói con cũng không thể tin được. Từ khi con biết cười biết nói, từ khi con biết đi lẫm đẫm thì con chỉ thấy một mình ba đây mà thôi. Nhiều khi ba đút cho con ăn, nhiều lúc ba dắt con đi dạo xóm. Con chỉ biết một mình ba là cha, con không biết ai nữa hết. Mà dầu ông Võ Như Bình thật là cha của con đi nữa, con cũng không cần biết làm chị Khi đứa con còn nhỏ, bổn phận của người cha là hoạn dưỡng nó, lo cho nó ăn học. Thuở nay chỉ có một mình ba hoạn dưỡng con, ba ra giữa Toà lãnh trách nhiệm làm cha của con, ba chăm nom cho con học tập, ba nâng đở lo lắng cho con học đầy đủ hoàn toàn. Các điều ấy là bằng cớ rõ ràng chứng cho ba là cha ruột của con, một mình ba có cái địa vị ấy mà thôi, không ai được phép tranh với ba, dầu ai có nói cách nào con cũng không thể tin được.
Cang ngồi nghe Nghiệp nói trong lòng vui sướng cực điểm , tuy sắc mặt hân hoan, song cặp mắt rưng rưng giọt lệ.
Cô Huyền cũng phỉ dạ nên cô ngồi ngó con rồi ngó chồng với dáng điệu tự hào, với tấm lòng âu yếm.
Thầy Hai Thanh ngồi phía ngoài cửa, thầy chồm qua nói với ông Ba Chánh:
- Đúng lắm! Bác vật nói thiệt đúng.
Ông Ba Chánh tay vuốt râu, miệng chúm chím cười.
Cang đợi Nghiệp nói dứt rồi chậm rãi nói tiếp:
- Ba cảm ơn con. Những lời tình nghĩa con mới nói ra làm cho ba cảm động vô cùng. Công với tình yêu của ba được con đền đáp với giá ấy, thì ba vui lòng, ba vinh mặt không biết chừng nào. Con ngồi lại, ngồi đặng ba nói hết cho con nghe. Thuở nay cả nhà điều giấu kỹ, ba má và ông ngoại con cũng vậy, không ai nói rõ nguồn gốc cho con biết. Ba má không nói rõ sự thật vì sự thật đó không bổ ích cho cuộc lập thân của con. Biết sự thật rồi con buồn, thôi thà để êm cho vui vẻ với sự giả. Đống tro tàn nhờ tuế nguyệt bao trùm đã mấy lớp rồi, dại gì bươi xới lên cho nó bay bụi dơ nhà. Mấy bữa rày ba má hay con đã giáp mặt với cha ruột của con, hay con cảm động mà thấy người suy sụp, nên muốn ra tay cứu vớt. Tốt lắm, con có lòng nhơn như vậy, ba rất khen con.
Nghiệp chặn mà nói:
- Con đi thăm ông Võ Như Bình là vì con hay ông là cha ghẻ của vợ con, chớ con có biết ông là cha ruột của con đâu. Còn con cảm động chỉ vì thấy ông suy sụp vất vả, chớ không phải tình nghĩa chi hết.
Cang Đáp:
- Phải rồi. Ba có trách con về sự viếng thăm và cách động lòng đó đâu. Thái độ của con hạp với lễ nghĩa, có chỗ nào sái đâu mà ba trách. Để thủng thẳng ba nói hết cho con nghe. Mấy bữa rày ba hay việc con đã gặp ông Võ Như Bình, ba lo mà cũng buồn nữa, buồn dữ lắm. Ba má hỏi nhau: phải dấu luôn sự thật hay là phải nói ngay cho con biết? Dấu luôn thì có lẽ vợ con vì ăn năn, còn con vì tội nghiệp, vợ chồng con sẽ đem ông Võ Như Bình về nuôi, hoặc sẽ tới lui mà giúp đỡ. Nếu con nuôi dưỡng ông, con lân la ông, thì dưới con mắt của những người biết chuyện cũ, nhứt là đối với ông Võ Như Bình, địa vị của ba má đây kỳ cục quá. Mà con gần với ông thì sớm muộn ông cũng sẽ nói sự thật với con. Con biết sự thật nhờ miệng ông thì bối rối cho con, mà có lẽ con trách ba má nữa, trách ba má ích kỷ để cho con lỗi niềm phụ tử. Mấy bữa nay suy nghĩ kỹ lắm, ba cân phải quấy rồi. Ba cần phải nói ngay ra, không nên giấu giếm, mặc dầu nói ngay ra ba đau đớn, nói ngay ra ba phải san sớt tình yêu của con dành cho người khác.
Nói tới đây Cang ngừng, có ý chờ coi Nghiệp phản ứng thế nào. Nghiệp cúi mặt suy nghĩ rồi ngó ngay Cang mà nói:
- Ba đã nói sự thật, con xin ba nói luôn đi, cho con hiểu tại sao ông Võ Như Bình là cha của con mà ông lại để cho ba thay thế đứng khai sanh và nuôi con?
Cang cười mà đáp:
- Việc đó thì để cho má con, hoặc ông ngoại con, hoặc thầy Hai kia nói cho con nghe mới phải. Ngặt việc đó là việc đã gây buồn rầu cho má con, gây tủi hổ cho ông ngoại con, gây bực tức cho thầy Hai, nên để cho ba người ấy nói, ba vợ vì phiền hoặc vì giận mà nói quá đáng. Ba là người vô can, vậy ba lấy công tâm mà nói rõ sự thật, không vị không hờn ai hết. Chuyện xưa như vầy: lúc má con vừa lớn lên, thầy Hai đây vì tình giao hảo với ông ngoại con, nên đứng làm mai đặng gả má con cho ông Võ Như Bình, khi ấy làm việc chung một hãng với thầy dưới Sài Gòn. Hồi đó Chí Hoà là một xóm hẻo lánh, bởi vậy đám cưới làm sơ sài, không rước lục bộ lập hôn thú. Nãm sau má con sanh con. Mà sanh rồi thì thôi, không ai lo khai sanh cho đủ phép. Con chưa giáp thôi nôi, thì ông Võ Như Bình thi đậu ký lục được bổ xuống đứng thông ngôn cho quan Chủ tỉnh Cần Thợ Vì ông ngoại con ở một mình, tại con còn nhỏ, nên ông Bình để má con ở nhà lo cơm nước cho ông ngoại con. Cách ít tháng má bồng con xuống Cần Thơ mà thăm, thì ông Bình cứ khuyên má con về, nói không muốn để cho ông ngoại con hiu quạnh. Cách ít tháng nữa má con hay tin ông Bình đã cưới vợ khác, cưới con nhà giàu lớn. Má con bươn bã xuống coi, thật quả ông Bình đã có vợ khác, vợ chồng ở chung trong một căn nhà lộng lẫy. Má con có tới đó, có giáp mặt với bà đó, chắc là bà già vợ của con bây giờ. Má con chán nản trước thói bạc bẽo của nhơn tình, nên nói cho ông Bình biết tình nghĩa dứt rồi, không còn kể vợ chồng gì nữa, nói rồi bồng con về Chí Hoà mà hẩm hút với ông ngoại con. Không phải là hạng đại hiền đại đức, má con làm sao mà biết lấy nghĩa mà đáp với oán, lấy trinh bạch mà đáp với bội bạc, bởi vậy má con giận cùng rồi quyết cải giá, lại quyết lấy chồng hạng thợ thuyền, chớ không ham người có học thức nữa. Bây giờ tới giai đoạn ba ra mặt.
Cang ngừng lại nữa, dường như cảm xúc không kiếm được lời nói cho suôn sẻ. Cử tọa đều chong mắt ngó Cang, nhứt là Nghiệp với anh em Hoàng hồi hộp muốn biết cho gấp cái vai của Cang trong tấn tuồng gia đình thân ái nầy.
Cang nói tiếp:
- Lúc ấy ba làm thợ máy trong một hãng xe hơi của người Pháp dưới Sài Gòn, nhà ở trên phía thầy Hai kia. Ba ở chung với anh bạn làm sốp phợ Ba chưa có vợ. Mấy chị trong xóm chỉ chọc, nói má con bị chồng bỏ và họ khuyên ba nói mà cưới đặng có nơi nương dựa, có người nấu cơm cho mà ăn. Ba cậy mai nói. Ông ngoại con giục giặc, sợ có cha ghẻ con ghẻ khó lòng.
Ba liền đến nhà mà nói hẵn hòi rằng con nít nào ba cũng thương, huống chi là con của vợ ba; nếu ba cưới má con thì con riêng của nó tức là con của ba, ba sẽ nuôi dưỡng dạy dỗ như con ruột. Ông ngoại con tin lời nên gả. Ba làm đám cưới đủ lễ, có rước chánh lục bộ lập hôn thú theo phép. Ba dọn dẹp đồ về ở chung với ông ngoại con, hễ đi làm về thì ba chăm nom nựng nụi con như con ruột của ba vậy. Chắc con còn nhớ lúc nhỏ ba dưỡng nuôi dạy dỗ con thế nào, ba không cần phải kể công ơn ra đây làm chị Khi con đến tuổi vào trường học, thì ba đã mở riêng một hãng sửa xe. Chừng con đi thi, người ta buộc phải có khai sanh, ba mới xin Toà lên án chứng nhận ngày và chỗ con sanh, với ba má con là cha mẹ. Tốn công có một chút mà ba hết ái ngại trong lòng, hết sợ tiếng cha ghẻ con ghẻ. Từ đây con là con chánh thức của ba, không ai được phép mỉa mai tranh dành gì nữa. Con học càng ngày càng tấn phát, xưởng xe của ba lần lần thành hãng mua bán xe, nhờ vậy nên con mới được qua Pháp mà học.
Nghiệp dợm muốn nói.
Cang khoát tay mà cản:
- Khoan!..Ba nói chưa hết. Bây giờ con đã hiểu rõ rồi, tại sao ba là cha của con thuở nay, mà ba còn nói ông Võ Như Bình mới thật là cha ruột. Với công nuôi dưỡng từ khi con chưa được dứt sữa, với án Toà ba nắm sẵn trong tay, ba đủ quyền làm cha, không ai có tài gì mà tranh quyền với ba được. Ba cũng không cần phải nói rõ nguồn gốc của con cho con biết làm chi vì con biết thì ba phải sớt yêu, chia kính bớt cho người ta, có hại chớ không có ích chi cho ba hết. Nhưng mà ba phải nói, ba không nên giấu giếm. Ba phải nói vì Võ Như Bình thất thời, suy sụp vất vả ưu phiền, chớ không phải vinh hoa phú quí, lên xe xuống ngựa. Ba phải nói vì ba không đành giả dối với con, khi con gặp người cấu tạo cho con thành hình. Ba phải nói, vì ba không muốn ôm thói ích kỷ mà để cho con lỗi đạo với cha con, là một trong mấy đạo căn bản của xã hội Việt Nam. Được biết người cha rồi, vậy thì con không nên ngó lơ, nhứt là trong lúc người đi lầm đường, nên phải sa chơn vấp ngã. Người dầu có tội lỗi, thì phú Trời định đoạt, phận làm con không phép ghét bỏ đứng sanh thành. Con phải nâng đỡ, con phải cung kính, vậy mới trọn đạo làm con. Con đã học rộng, con đã đủ trí, ba để cho con thong thả tùy lương tâm mà xử sự. Ba chỉ xin con hai điều nầy: Thứ nhứt, đừng trách má con sao không thủ tiết, lại giận lẫy mà cải giá. Tức giận là thường tình của con người. Má con không phải là Phật bà mà thoát khỏi thường tình ấy. Thứ nhì, đừng rước ông Võ Như Bình về mà nuôi, vì làm như vậy phạm danh giá của ba má. Ngoài hai điều ấy thì con tự do, con nhìn nhận cha, con giúp đỡ cha, con làm việc chi ba cũng vui hết.
Cử toa. nghe tới đó ai cũng cảm động cực điểm . Nghiệp bước lại quì gối trước mặt Cang, hai tay ôm mình Cang chặt cứng, vừa khóc vừa nói:
- Ba thật là một vị đại đức, một đấng nghĩa hiệp! Ba thật là người cha yêu quí của con. Con không cần nhìn người cha nào hết. Được biết rõ nguồn gốc rồi, cũng như lúc chưa biết, con ráng giữ bình tĩnh, không hờn giận người hất hủi mẹ con. Con không dám khinh rẻ chê bai, chớ buộc con phải cung kính yêu thương, sợ con khó mà làm được.
Cang đỡ Nghiệp đứng dậy mà nói:
- Nhìn hay không nhìn là tùy ý con. Việc đó ba không cản, ba cũng không ép. Nhưng ba khuyên con chẳng nên thất kính với người sanh thành, chẳng nên bỏ đói khát người lầm đường suy sụp. Con phải quảng đại, phải rộng dung người thất thế, phải thương sót kẻ sa lầy, đừng cố chấp thói điên cuồng, nên lấy đức mà báo oán.
Cô Huyền với cô Loan cảm động quá, nên mẹ con đều khóc hết. Ông Ba Chánh cứ vuốt râu mà cười.
Thầy Hai Thanh rất hân hoan, thầy nói lớn:
- Thợ máy xuất thân, mà xử sự cao thượng như vầy, thì cần gì học nhiều, cần gì giàu to, cần gì chức lớn. Nãm xưa cô Hai giận chồng bỏ, cô nói thợ thuyền có lẽ biết nhơn nghĩa hơn. Lời nói lẫy mà thật đúng lắm. Anh nhớ không anh Ba.
Ông Ba Chánh gật đầu.
Cậu Hoàng đứng dậy ngó ngay Cang mà nói:
- Thýa bác, cháu với em cháu mồ côi cha sớm quá. Mẹ cháu lại cải giá, giao anh em cháu cho bà ngoại nuôi. Bà ngoại cháu tuy cơm tiền nhiều song là một bà già lục đục trong chốn thôn quê, không thấy xa hiểu rộng. Vì vậy nên anh em cháu thiếu môn giáo dục gia đình. Có lẻ tại sự thiếu đó, nên khi mẹ cháu mất, anh em cháu mới bạc đãi ông già ghẻ, thành ra gắt gao khổ khắc. Hồi hôm em cháu nó thuật chuyện gặp ông Võ Như Bình đưõng vất vả ngoài Nha Trang cho cháu nghe, nó làm cho cháu hồi tâm mà hối hận. Bữa nay cháu được nghe những lời vàng ngọc bác nói với Nghiệp, thật cũng như Bác cầm đuốc mà soi sáng đường lối cho mọi người thấy đường phải noi theo, thấy nẻo dại mà bước tránh. Cháu kính cẩn cảm ơn bác, và xin bác từ nay dạy dỗ dùm anh em cháu cũng như con trong nhà. Bây giờ cháu xin phép bác mà tỏ bày ý kiến của cháu về việc ông Võ Như Bình. Nghiệp không khứng nhìn ông. Mà cháu nghĩ Nghiệp nhìn khó lắm, vì nhìn rồi phải tới lui, thì phạm danh giá của hai bác. Vậy cháu xin lãnh phần chăm nom cha ghẻ cháu, đặng chuộc tội cháu khắc bạc với ông. Cháu ở nhà lớn trên chợ Bình Thuỷ. Cái nhà tại Cái Khế thuộc ngoại ô Cần Thơ, là nhà của bà ngoại cháu sắm cho má cháu với cha ghẻ ở, hiện nay cháu mướn người giữ chớ cháu không ở. Cháu tính rước cha ghẻ cháu về đó và giao cả 400 mẫu ruộng để ông thâu huê lợi ông xài.
Ông ở đó, hưởng huê lợi đó cho mãn đời ông, rồi anh em cháu sẽ làm chủ. Bác nghĩ thử coi, cháu tính như vậy được hay không?
Cang không cần suy nghĩ, liền đáp rằng:
- Cậu Hoàng định cấp cho Võ Như Bình tới 400 mẫu ruộng, nên xét lại coi có phải nhiều quá hay không?
- Thưa thầy, 400 mẫu ruộng thì nhiều thật. Nhưng vì ông nói ruộng ấy là ruộng của ông xuất tiền ông mua, rồi ông mượn má cháu đứng bộ dùm nên cháu giao hết cho ông hưởng mãn đời.
- Nghe nói trong hai mươi mấy năm nay, ông bốc lột thiên hạ dữ lắm nên có lẽ ông có tiền mua ruộng ấy được. Mà bà hưởng hai gia tài huê lợi của bà cũng nhiều, bà cũng có thể xuất tiền của bà mà mua đặng để cho con, nên bà mới đứng bộ chớ. Nếu giao hết sợ e cậu bị lừa gạt.
- Hồi má cháu mất, ông xin để cho ông phân nửa là 200 mẩu.
- Hai trăm thì vừa, ông bà làm bạn với nhau trót 25 nãm, chẳng khác nào hùn với nhau mà lập hội. Nay rã hội thì tài sản chia hai là phải.
- Thôi để kiếm rước ông về rồi sẽ nhứt định. Bây giờ phải cậy người đi rước ông.
Cô Loan nói Tý Cầu biết chỗ ông ở, nên phải cậy Tý Cầu đi dùm. Cang nói Tý Cầu không đủ tư cách mà rước ông được. Thầy hai Thanh, hồi trước có quen với ông. Vậy nên cậy thầy đi với Tý cầu thì phải hơn.
Hoàng suy nghĩ một hồi rồi nói:
- Lúc nầy cháu rãnh. Vậy cháu sẽ đi với thầy Hai và Tý Cầu.
Đồng hồ gõ 12 giờ. Việc nhà tính đã ổn thoả, Cang biểu vợ với dâu coi dọn cơm ăn. Bữa cơm gia đình này thật là vui, vì mọi người đều phỉ tình mát ruột, không ai còn lo ngại, không ai còn giận hờn, không ai còn hối hận chút nào nữa.
Cách hai bữa sau, cậu Hoàng ngồi xe hơi đi Nha Trang với thầy Hai Thanh và Tý Cầu. Ra tới đó thì Võ Như Bình đã đi mất. Hỏi tên Lung thì nó không biết ông đi dâu. Ông trả nhà cho chủ, ông thôi mướn nó, ông xách hoa ly lên xe lửa mà đi ra phía ngoài. Chủ nhà đã bán cái nhà. Người mua họ đương dở mà chở đi cất chỗ khác. Hỏi cả xóm cũng không ai biết ông Võ Như Bình đi xứ nào mà kiếm.
Cậu Hoàng ở đến ba bữa mà hỏi không ra mối, đành phải trở về Sài Gòn, thầy Hai Thanh ghé nhà mà thuật chuyện đi kiếm không được cho ông Ba Chánh với cô Huyền nghe.
Ông Ba Chánh nói:
- Võ Như Bình trốn đi mấy tháng không muốn cho Nghiệp gặp nữa. Biết xử trí như vậy cũng còn khá.
Năm 1942 là năm hoàn cầu điên đảo, khói lửa tưng bừng, nhà cửa hư hao, sanh linh đồ thán.
Đường giao thông gián đoạn, cuộc thương mãi gập ghình. Nhiều nhà buôn bị lỗ nặng nên phải đóng cửa mà chờ thời, song cũng có nhiều nhà buôn, nhiều chợ đen mà thạnh vượng. Hãng xe hơi Việt Nam của Lê Thành Cang tự nhiên phải chịu ảnh hưởng của thời cuộc. Thật hãng không mua được xe mới mà bán. Nhưng hãng xông pha trong thời cuộc cũng rất vững vàng, đã khỏi bị lỗ như người mà còn thâu lời thập bội. Ấy là nhờ Cang lanh lẹ, kiếm mua xe cũ đem về sửa sơn lại làm cho máy êm, màu đẹp, mà bán với giá thật cao. Nhứt là Nghiệp sáng suốt, biết thế cuộc sẽ đổi thay, nên mua trước mà trữ những vỏ ruột với các thứ đồ phụ tùng chất chứa đầy hãng đầy kho rồi thủng thẳng bán lại, vốn một lời mười, có thứ khan gắt, thì một vốn lời tới 50 hoặc 100, song người ta cũng kiếm mua, chẳng hề dụ dự.
Trót năm năm vừa qua, nhà của Cang cũng như Nghiệp, vợ chồng cũng âu yếm, cha con vẫn thân yêu. Mãi mãi cảnh vui cười cứ tiếp diễn trong gia đình, chẳng hề có một điểm buồn lo hoặc một cụm mây phưởng phất.
Cậu Hoàng thấy thời cuộc chộn rộn, cậu không làm thầu khoán, không dám lập vườn, mà cũng không gấp cưới vợ. Cậu chỉ lo cho mướn ruộng và góp lúa, lúc rảnh chạy lên Sài Gòn ở chơi, sống một cảnh đời tự do mà trưởng giả.
Cô Loan sanh được một đứa con trai. Vợ chồng Cang cưng như vàng như ngọc, Nghiệp hễ về nhà thì vui chơi với con, dường như đã quên hẵn cái nguồn gốc tối tăm mà Cang đã khai ngay ra hồi năm trước. Có khi vợ chồng trò chuyện, Loan nhắc lại Võ Như Bình, Nghiệp liền ủ mặt châu mày, kiếm chuyện mà nói lãng. Cô thấy chồng như vậy, thì cô không dám khiêu gợi mạch sầu của chồng nữa.
Một buổi sớm mơi, đến giờ nhơn viên sở bưu điện phát thơ, thì người giữ cửa hãng lãnh đem vào để trên bàn của Nghiệp một chồng thơ hơn 10 cái.
Nghiệp ngồi lần lượt xé từng bao lấy thơ ra mà đọc. Đến bao thứ ba, gồm một bức thơ có một tờ nhàu nhè kèm theo, Nghiệp đọc bức thơ vừa được ít hàng thì biến sắc, bật ngửa, lưng dựa vào bộ ghế, chăm chỉ mà đọc.
BỨC THƯ CỦA XÃ LƯƠNG
Prok (An Khê), ngày 27 tháng 3 năm 1942.
Kính gởi ông Lê Thành Nghiệp chủ hãng xe hơi Việt nam
ở đại lộ De La Somme
Sài Gòn.
Thưa ông.
Vâng lời quan phủ hưu trí, quí danh là Võ Như Bình tôi ghim theo thơ nầy mà gởi cho ông một tờ mà do tay ngài viết để bày tỏ nỗi lòng hối hận của ngài.
Từ 4 tháng nay, ngài đau ruột hay đau bao tử điều đó tôi không biết chắc vì tôi hông phải là thầy thuốc. Tôi có xin ngài để cho tôi đưa ngài về Sài Gòn đặng ngài kiếm lương y chuẩn mạch mà điều trị. Tôi năn nỉ hết lời mà ngài không chịu đi. Cứ ở ngoài nầy uống thuốc nam, thuốc mọi, không có hiệu quả chi hết, nên bịnh càng ngày càng thêm nặng, rồi phải mạng chung.
Tờ nầy tôi thấy ngài cặm cụi ngồi viết, lúc bịnh chưa nguy lắm, song có lẽ ngài đã hết hy vọng sống được nữa. Đến giờ chót, ngài mới giở áo gối rút tờ ấy ra mà trao cho tôi, và căn dặn hễ ngài mất thì làm ơn chôn cất cho xong, rồi sẽ gởi tờ ấy vào cho ông, theo địa chỉ ngài có biên đó.
Ngài tắt hơi tại nhà tôi, hôm ngày 20 tháng 3 dương lịch nầy, hồi 7 giờ tối, tắt hơi trong tay tôi đương ngồi một bên mà đỡ ngài. Ngài không có trối một lời chi hết , duy chảy nước mắt rồi thở ra mà đi xuôi.
Tôi lo chôn cất tử tế, đào huyệt trên triền một cái đồi nhỏ nằm phía sau vườn trà của tôi. Tôi có khắc mộ chí mà cặm trước mộ. Ngài nằm chỗ đó cao ráo, cảnh chung quanh rất đẹp. Tôi đã làm xong phận sự đối với một ông bạn đường, đồng phiêu lưu đất khách với tôi. Vậy bây giờ gởi tờ nầy đến cho ông rồi, thì tôi làm vẹn vẽ các điều ngài phú thác.
Trân trọng kính chào ông.
Trần Hiền Lương
Chủ vườn trà ở xóm Prok
gần An Khê - Kon Tum.
TỜ DI NGÔN CỦA VÕ NHƯ BÌNH
Chừng tôi chết và chôn cất tôi xong rồi xin làm ơn gởi dùm thơ nầy cho Lê Thành Nghiệp, chủ hãng xe hơi hiệu “Việt Nam” ở đại lộ La Somme trong thủ đô Sài Gòn.
Con người lúc trẻ tuổi, khí huyết mạnh mẽ, nên hăng hái lập chí tấn thủ; lại thêm sống với đời vật chất hoàn toàn nên phải ham muốn tiền bạc cho nhiều, vì nếu thiếu tiền bạc thì không thể nào có danh dự được.
Lúc tôi còn nhỏ tôi gặp cảnh đời như vậy, tự nhiên tôi bị phong trào tham danh háo lợi đó nó lôi cuốn đi, cũng như nó lôi cuốn cả ngàn ngàn muôn muôn người khác.
Vừa lớn lên, tôi bắt đầu kết nghĩa vợ chồng với cô Huyền, là con gái của một ông thầy thuốc ở Chí Hoà, sanh được một đứa con trai, đặt tên là Nghiệp.
Cách ít tháng sau, may gặp tiền trình rộng mở, tôi phủi cả vợ nghèo con nhỏ mà gây cuộc vợ chồng khác với một goá phụ giàu có lớn, tên cô Hai Hương ở Bình Thuỷ, mong nhờ gia tư phong phú của người vợ mới mà xây dựng một địa vị giàu sang rực rỡ cho mau.
Thật đường công danh tôi bước lên rất lẹ và rất mau, trót 25 năm trường tôi mê man khoái lạc giữa cảnh đời tốt tươi sáng lạng, oai quyền lừng lẫy, tiền bạc dẫy đầy.
Tưởng là địa vị giàu sang ấy sẽ vững chắc lâu đời, nào dè đường vinh hoa đi chưa hết, mà sung sướng lại sụp đổ nửa chừng, trong có mấy tháng mà danh dự vỡ tan, bạc tiền tiêu hết.
Mấy năm nay tôi suy nghĩ lại, tôi muốn đổ sự thất bại thình lình đó cho mạng số để an ủi nỗi lòng. Nhưng sự ăn năn hối hận vẫn cứ hừng hực trong thâm tâm, vởn vơ trong trí não, ăn năn về sự tôi bội nghĩa vợ con, mà cũng ăn năn về sự tôi bốc lột thiên hạ.
Vì sự ăn năn đó mà năm nọ tình cờ tôi gặp lại con tôi là Nghiệp ở Nha Trang, thì tôi đau đớn hết sức, đã đau đớn mà thêm hổ thẹn nữa, đau vì được giáp mặt con mà không được nhìn con, hổ vì ham trèo lên cao nên phải sa suống thấp. Lúc ấy tôi liền muốn tự vận phứt đi cho rồi, đặng chấm dứt cảnh đời của tôi cho tôi hết đau khổ hổ ngươi, mà cũng cho con tôi nó không hay biết thói xấu xa của đấng sanh thành ra nó, khỏi ghi một đốm đen trong hạnh phúc tươi cười của nó vừa mới cấu tạo.
Nhưng tôi lại nghĩ ở đời hễ có vay thì phải trả. Tôi đã làm quấy thì tôi phải đền tội, không được phép tìm cái chết mà trốn tội, vì vậy nên tôi không tự vận, tôi chỉ bỏ đất Nha trang cho khỏi gặp lại con tôi nữa bỏ đi cho xa mà tá túc nơi đất lạ nhà người, để vùi lấp cảnh hình hài tội lỗi đê hèn trong đớn đau cực nhọc, hoặc may có chuộc tội được chút ít.
May tôi gặp được người quen, hồi trước cũng vì ham bạc tiền nên có tội phải kiếm chỗ ẩn thân, người sẵn lòng cho tôi đùm đậu, nên trót năm năm nay tôi được an thân, mà an là an về phần xác mà thôi, chớ về phần trí thì luôn luôn tôi vẫn hối hận không bao giờ tôi được thơ thới.
Hôm nay tôi có bịnh, có bịnh nhiều, chắc không còn sống được nhiều ngày nữa. Tôi ráng ngồi viết tờ nầy để bày tỏ lòng hối hận với đứa con trai mà ngày xưa tôi đành bỏ bê nó trong lúc nó chưa biết đi, chưa biết nói, để cho nó nhờ người khác nuôi dạy cho nó khôn lớn và nên danh.
Tôi phải viết tờ nầy là vì tạo hoá trớ trêu, khiến đứa con tôi bỏ, nó lại cưới đứa con ghẻ bỏ tôi.
Hai đứa gần nhau, tôi sợ e chẳng sớm thì muộn con tôi nó sẽ tìm biết nguồn cội tối tăm của nó, rồi vợ chồng đều thù oán vong linh của tôi, đứa thì oán tôi phụ phàng mẹ nó, đứa thì oán tôi phá hý tiết hạnh của mẹ nó. Tôi phải viết tờ này mà yêu cầu cả hai rộng lòng tha thứ cho người lầm lỗi ăn năn hối hận.
Ngày nay con tôi nó nhờ do đường thẳng ngay đứng đắn mà lập thân. Nó được thành công rỡ ràng, đã có danh lớn mà là danh thơm tho, lại thêm có của nhiều mà lại thêm của chánh nghĩa. Nó đương say sưa với hạnh phúc. Tôi chắc nó sẽ sẵn lòng hỷ xả cho người thân sanh nó đã mang nặng tội lỗi ở dương trần.
Sắp nhắm mắt mà xa lánh mùi đời, tôi không muốn ôm theo lòng hối hận. Vậy tôi thành thật nhìn nhận cả hai tội lỗi của tôi , lỗi với con tôi, và lỗi với bà mẹ nó.
Mà tôi xét kỹ nghĩ xa, thì tôi thấy dường như, lỗi ấy chẳng phải tại do chơn tánh của tôi gây ra, có lẽ một phần tại giáo dục và một phần tại xã hội.
Giáo dục mà nhằm mụch đích no cơm ấm áo, nuôi chí hướng dua bợ người trên để vơ vét kẻ dưới, giáo dục dường ấy thì làm sao biết được chỗ thúi hôi mà tránh.
Còn xã hội mà mọi người đều lo tranh đua cướp giựt, ai được tiền nhiều là khôn, ai được trèo cao là quí, ai không có tiền là dại, ai chịu ngồi yên là ngu.
Học tập với giáo dục như vậy, sanh sống giữa xã hội như vậy, thì làm sao tôi khỏi đi sai đường, làm sao tôi khỏi vướng tội lỗi.
Nói như vậy chẳng phải tôi có ý viện lẽ chữa mình mà gở tội lỗi. Không, tôi chẳng hề tính gở tội, sở dĩ tôi nói ra là vì tôi muốn vạch cho con tôi thấy rõ hoàn cảnh khiến cho tôi phải mang tội lỗi mà thôi. Thật dầu con tôi không khứng hỷ xả tội của tôi, thì tôi cũng phải chịu, chịu mà không phiền, không trách.
Trên đây là những lời thành thật thốt ra để bày tỏ nỗi lòng hối hận của nạn nhân thời đại sắp chết là “ VÕ NHƯ BÌNH”.
Lê Thành nghiệp đọc dứt rồi sắc mặt buồn hiu, chớ không khóc. Nghiệp xếp kỹ lưỡng mà đút tờ di ngôn của Võ Như Bình với thơ của Hiền Lương vào bao rồi bỏ vào túi áo. Nghiệp khoanh tay rồi ngó lên trần mà suy nghĩ rất lâu. Bây giờ Nghiệp mới rưng rưng nước mắt.
Nghiệp đứng dậy, tính đi xuống xưởng sửa xe mà kiếm chạ May lúc ấy Lê Thành Cang đương lên bàn viết mà ngồi. Nghiệp đón trao cả phong thơ cho cha mà nói:
- Ba đọc thơ trong bao nầy mà coi ba.
Cang lấy phong thơ mà hỏi:
- Thơ của ai vậy?
Nghiệp không trả lời, liền trở lại bàn viết ngồi tiếp mở mấy bao thơ khác ra mà
đọc.
Phía bên kia, Cang ngồi đọc thơ của Hiền Lương rồi đọc tới của Như Bình, Cang đọc thật kỹ, nên đọc rất lâu. đọc xong rồi, Cang bỏ hết vào bao, bước lại trả cho Nghiệp và nói:
- Người lỗi lầm mà biết ăn năn thì cũng đáng cho con kính mến. Mà gặp con rồi, biết trốn tránh con, cử chỉ như vậy không tệ lắm. Tuy không dưỡng , song có công sanh, bây giờ người đã mất rồi con phải làm cho trọn niềm phụ tử, con phải đi ra An Khê, tìm cho thấy mồ mã của đấng thân sanh. Con phải kiếm thế mà xây mồ cho ấm cúng. Ba muôn cho con làm việc nghĩa đó, ba chắc má con cũng không cản trở đâu.
Nghiệp ứa nước mắt. Cang xây lưng mà trở xuống xưởng sửa xe.
Tuần sau Nghiệp với Hoàng lên xe hơi mà đi An Khê cũng có Sáu Bính với Tý Cầu theo hộ tống. Trên con đường quốc gia rộng rãi, chiếc xe hơi lộng lẫy chạy bon bon.
Lần nầy Nghiệp với Hoàng đi mà chẳng phải đi kiếm cuộc vui, hay đi xem nguồn lợi, chánh là đi cho trọn tình, đi đặng đáp nghĩa.
Thanh niên tân tiến đã ham vui, mưu lợi, mà cũng báo nghĩa, thì quí hoá vô cùng!
Đáng mong mỏi thay!