Thu qua đông đến, những hàng cây lá vàng được thay bằng những hàng cây trụi lá. Sự khắc nghiệt của cuộc sống làm cho sinh vật cũng phải cố gắng thích nghi. Cũ đi, mới đến phải chăng báo hiệu cho sự tân sinh? Báo hiệu cho đời sống mới? Hay chỉ là sự ra đi của thời đại?
Từ Phong thả mình bước đi trên đường lớn. Hai bên đường là những cửa hàng nhỏ cùng với những bức tường gạch đá loang lổ nhuốm bụi thời gian xen kẽ những hàng cây lớn đã trụi lá.
Ở nơi đây không quá đông đúc, dòng người càng là thưa thớt. Dọc đường đi, hắn nhận ra thương nhân hầu như không có. Ở đây chỉ có những người dân nghèo đang kiếm sống qua ngày cùng với những người trẻ tuổi từ khắp nơi đổ về chiêm ngưỡng tòa thành.
Tòa thành này có tên là Cổ thành, một cái tên ngược và đặc biệt. Đáng lý ra theo chuẩn ngữ pháp, nó phải tên là Thành Cổ. Thế nhưng bất cứ cái tên nào cũng có lý do ra đời và một lịch sử riêng.
Tục truyền ở rất lâu về trước, khi loài rồng Akamana còn thống trị cả đại lục, lúc ấy loài người phải cung phụng và đáp ứng tất cả các yêu cầu của chúng thì mới được phép sinh sống và sản sinh thế hệ mới. Một quy luật bất thành văn đó là nhân loại chúng ta lệ thuộc vào chúng, nhân loại chúng ta chính là nô lệ của chúng.
Ở tất cả bộ lạc, thôn làng hay thành thị, ở khu trung tâm đều phải dựng lên một pho tượng của loài rồng Akamana nhằm thể hiện sự tôn kính. Cứ sáng sớm mỗi ngày, tất cả nhân loại thuộc khu vực ấy phải tập trung về nơi đó mà cung kính quỳ lạy, hoan hỉ đọc lấy những lời cầu xin sáo rỗng, những lời ca ngợi rập khuôn.
Không chỉ như thế, đến hẹn lại lên, nhân loại phải cung kính hiến dâng những thứ trân quý nhất, kể cả những thiếu nữ xinh đẹp động lòng người cho loài rồng thống trị. Ban đầu khi nhận thức còn hạn hẹp, người ta còn không cảm thấy gì. Tuy nhiên theo năm tháng trôi đi, khi nhận thức của nhân loại được cải thiện rõ rệt, con người ta nhận ra được những thứ đen tối ẩn đằng sau bức màn thần thánh ấy.
Rồi việc gì đến cũng phải đến, khi nhiều người cùng chung một tư tưởng, cùng chung khát khao, cùng chung kẻ thù có cơ hội gặp mặt nhau thì họ nhanh chóng liên kết thành một hay nhiều tổ chức. Do đó, chẳng bao lâu sau các cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra liên tiếp. Song đó vẫn chỉ là những cuộc đánh nhỏ lẻ, và do vậy mà kết cục của những cuộc khởi nghĩa này là bị tàn sát đẫm máu. Ở thời kỳ đầu ấy, con người không có khả năng chống lại loài thống trị.
Mãi cho đến khi xuất hiện một vị kỳ tài. Vị anh hùng không có họ, chỉ có tên, và tên chỉ có duy nhất một chữ, đó là “Cổ”. Trong suốt 40 năm đầu, Cổ từ một kẻ sinh sống nơi rừng già đã vươn mình trở thành kẻ thống trị hơn hai phần ba nhân loại trên đại lục. Và ở nơi đây, Cổ xây thành. Một ngôi thành to lớn đồ sộ, hiên ngang khí khái, lẫm liệt như muốn chọc thủng tầng mây mà tuyên bố vĩnh tồn.
Và Cổ đặt tên cho tòa thành này là Cổ thành. Tương truyền Cổ đặt tên như vậy là để tuyên bố rằng ngôi thành này là của Cổ, ngôi thành này là ngôi thành của nhân loại, là ngôi thành không nằm dưới sự thống trị của loài rồng Akamana.
Và hiển nhiên, chỉ vì cái tên của tòa thành, chứ không cần thêm lý do gì nữa, loài rồng Akamana cảm thấy bị sỉ nhục, chúng lập tức tiến hành chinh phạt ngôi thành. Cuộc chiến Đồ Long bắt đầu từ đó. Và chiến trường khốc liệt nhất chính là ở tòa thành này.
Tục kể rằng dưới sự dẫn dắt của Cổ, Cổ thành biến thành chiến trường đẫm máu. Cứ hai ngày là một trận đánh nhỏ, 100 ngày là một trận đánh lớn. Nhân loại vốn khát khao tự do và làm chủ số phận của mình đã ùn ùn kéo đến vùng đất quyết chiến này. Vì thế, ở đây lâm vào giằng co.
Người ta nói rằng trong hai thập kỷ đó, ở nơi đây nhuộm đỏ một màu máu tươi, không chỉ máu của nhân loại, còn có máu của loài rồng thống trị. Không chỉ có máu, xương cốt còn được chất thành đống và hay lấy lửa thiêu làm lời tiễn biệt những người anh hùng đã anh dũng hi sinh.
Suốt 2 thập kỷ Đồ Long, Cổ thành đứng vững trước bao nhiêu cuộc chiến. Nhiều lúc nó vỡ vụn, và nó cũng được sửa chữa ngay sau đó. Song sau trận chiến cuối cùng, mọi người vứt bỏ nó.
Vào trận chiến cuối cùng ấy, bầu trời cũng trở nên đảo điên, sấm vang chớp giật liên miên, đất đá lộn ngược bay lên những tầng mây. Vị anh hùng Cổ cùng với những vị anh hùng khác phải chống chọi với một đội quân rồng hùng mạnh do con rồng chúa dẫn đầu. Trận chiến 7 ngày 7 đêm đó chôn vùi không biết bao nhiêu anh hùng, cũng chôn vùi không biết bao nhiêu con rồng Akamana. Kết quả cuối cùng, Cổ với võ công cái thế đồng quy vu tận cùng con rồng chúa.
Trận chiến chấm dứt, xác chết đầy đất, máu chảy thành sông. Suốt cả mấy ngàn năm sau, nơi đây là một mùi tanh của máu, là một vùng đất đỏ tươi đầy yêu dị mà không có một loài thực vật nào có thể sống được. Bởi vậy, nơi đây bị bỏ hoang. Cổ thành cũng biến mất khỏi lịch sử.
Mãi đến 10.000 năm trước, vùng đất này mới trở nên “dễ mến” hơn. Do đó một số loài thực vật bắt đầu vươn rễ về nơi đây. 7 ngàn năm trước, một số người đã kéo về đây sinh sống, và họ bắt đầu xây dựng lại Cổ thành.
Song nền đất chỉ trồng được vài loại thực vật, vùng đất hoang vắng, vùng đất gần như hẻo lánh khiến nơi đây vẫn giậm chân tại chỗ, vẫn tồi tàn và xác xơ cho đến tận bây giờ.
Những người đến nơi này đa số là người dân bản địa và những thư sinh thích du lịch đó đây, hay những kẻ thích tìm lại lại lịch sử hào hùng.
Quả thật, nơi này không mấy hấp dẫn. Dù cho có truyền thuyết kể rằng dưới Cổ thành chôn giấu một bí mật động trời, một bí mật liên quan đến vận mệnh của cả đại lục, và cũng có thể là một bí mật giúp Cổ có gan khiêu chiến loài rồng Akamana hung tợn.
Đương nhiên vào 10 ngàn năm trước, số người đổ về đây tìm kiếm bí mật trong truyền thuyết nhiều vô số, 7 ngàn năm trước cũng không khác gì. Tuy nhiên thời gian dần qua mà không ai có thu hoạch được chút nào, nhận thức con người lại phát triển ngày một cao, cho nên nơi đây vẫn một màu vắng vẻ.
Từ Phong thả mình bước chậm trên con đường cằn cỗi đầy sỏi đá. Hắn lặng lẽ quan sát và đánh giá nơi đây.
Nơi đây cũng chỉ là một ngôi trấn nhỏ hết thời. Lưa thưa vài căn nhà bằng gỗ cùng với những bờ tường đá cũ kĩ mọc đầy rêu. Cuộc sống của những người dân nơi đây cũng bình dị như bao nơi khác: chồng săn bắn và làm đồng áng, vợ ở nhà dệt vải và chăm sóc con cái.
Nếu bảo nơi đây có gì đặc biệt thì ắt hẳn là màu đất nơi này rồi. Đất nơi này chỉ có một màu đỏ như máu. Và nếu không có thứ gì trên mặt đất, e rằng con người ta sẽ có cảm giác muốn nôn mửa. Thật sự đấy, cứ nghĩ nhìn một không gian bao la cho đến tận chân trời chỉ có một màu đỏ của máu thì sẽ có cảm giác gì?
Thu hồi lại ánh mắt đánh giá, Từ Phong chậm rãi hướng về trung tâm Cổ thành, nơi có mục đích đi tới chốn này của hắn.
4 ngày trước hắn tách khỏi hai mươi hai thành viên Ám bộ, hắn để họ tự rèn luyện. Còn hắn, hắn quyết tâm đi đến nơi đây. Tất cả cũng bởi vì hắn cần nhân tài.
Đánh trận nói riêng và chiến tranh nói chung là một cổ máy xay thịt khổng lồ. Chúng ta không thể nào biết được bao nhiêu “thịt” là đủ. Bởi vậy chúng ta cần chuẩn bị chu đáo. Không chỉ số lượng, chất lượng quân lính mà còn cần cả những vị tướng thống lĩnh.
Song, vạn kim dễ kiếm, một tướng khó cầu!
Câu này đối với tình huống của hắn lúc này là hoàn toàn chính xác. Trước hết nói về vạn kim, hắn có thể tiến hành đánh cướp một gia tộc hay một thương hội nào đó là đủ rồi. Chỉ là hắn phải tàn nhẫn bỏ ra vài trăm hoặc cả nghìn mạng sống của binh lính. Tất nhiên đó chỉ là cái phải đánh đổi chủ yếu nhất. Ngoài ra, hắn còn phải chuẩn bị tinh thần bị người ta trả thù, bị triều đình chú ý và tróc nã. Cũng có khi mấy chục năm sau hắn phải chuẩn bị tâm lý bị thế hệ con cháu của họ ám sát...
Hiển nhiên muốn có gì thì phải đánh đổi, trên đời không có thứ cho không.
Về nhân tài, thứ hắn khao khát và muốn nắm trong tay nhất.
Nhân tài không chỉ hiếm như lá mùa thu mà còn khó tìm. Nhất là ở trong tình hình như bây giờ.
Nếu đây đã là thời loạn thế, thì việc thuyết phục người tài gia nhập vào sơn trại của hắn cũng không phải vô cùng khó khăn. Song đây đang là thời bình, dù cho loạn thế đã ẩn ẩn đến gần, nhưng khi Thiên triều còn không sụp đổ, khi Vương của Thiên triều không làm gì nên tội lỗi tày trời bị dân căm phẫn, bị người chán ghét thì việc thuyết phục một người có tài rời bỏ Thiên triều để đi theo hắn là vô cùng khó khăn, thậm chí là hoàn toàn không thể.
Hãy làm so sánh. Những người tài có thể gia nhập một thế lực nào đó trong Thiên triều, cũng có thể bị lôi kéo vào thế lực ấy, và họ sẵn sàng ngấm ngầm nội đấu trong Thiên triều để giành quyền thống trị. Song xét về toàn thể, họ đang cống hiến cho Thiên triều, họ đang cống hiến cho chữ “Trung” ngàn đời không đổi. Còn về thế lực của hắn thì sao? A ha ha... Nó bị loại ngay từ đầu vì nó không cống hiến cho Thiên triều. Tiếp đó nó bị chà đạp vì nó đi con đường tà đạo, phi nghĩa, độc ác... Sau đó nó bị họ phỉ nhổ vì nó không đáng giá để họ gia nhập. Một cái sơn trại nhỏ đang trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc thì ai sẽ tham gia? Dĩ nhiên họ không có ngu bỏ mạng vô ích để mong chờ một tương lai mờ mịt lại còn xa vời vợi.
Bỏ qua những người có tài chung sống suốt đời với chữ “Trung” ấy đi. Tiếp theo chúng ta đến gõ cửa những kẻ có tài mà không có quan niệm “Trung” ấy. Gõ cửa xong chúng ta sẽ bị chửi thúi đầu. Đối với những con người này, lợi ích thực tế là đi đầu. Không có lợi ích thực tế thì đừng có mơ đả động được họ. Thế cho nên, Từ Phong sẽ bại lui là điều chắc chắn.
Kế đến chính là loại người cùng chung suy nghĩ với Từ Phong. Cùng chung suy nghĩ ở đây là cùng chung tầm nhìn về loạn thế, chứ không phải cùng chung ý tưởng to lớn như hắn. Những kẻ có tầm nhìn này chắc chắn là những kẻ có tài, điều đó không cần bàn cãi. Thế nhưng những con người thích ẩn sâu chuẩn bị mưu sự chẳng có kẻ nào không có niềm kiêu ngạo, rõ ràng bởi cái niềm kiêu ngạo ấy, họ mới chuẩn bị mưu sự ở loạn thế. Đối với loại người này, thuyết phục họ là một công việc tốt nhất là đừng nghĩ đến. Vì sao? Bởi vì trừ khi ngươi đả bại niềm kinh hãnh của họ, trừ khi người làm họ tâm phục khẩu phục, và họ thấy được ngươi chắc chắn mang họ đến vinh quang, mà dưới tay của ngươi, họ tỏa sáng nhất trong lịch sử; còn không thì họ sẽ không đi theo ngươi.
Từ Phong hiện tại có khả năng đấy sao? Chẳng lẽ tìm xem ai giống như thế thì mang người tới đánh kẻ đó tả tơi rồi thu phục? Hay là nhảy vào cùng bàn luận thế sự rồi chứng tỏ mình lợi hại hơn? Điều đó là không thể nào. Loại người như hắn đều chuẩn bị sẵn sàng cho loạn thế thì khi đối mặt với con tôm dẫn vài trăm người thì họ có đủ khả năng chạy trốn mất dạng. Còn bàn thế sự? Không có trải qua thực tế thì ai sẽ tin tưởng suy nghĩ của ngươi là đúng? Không có ai ngu si cả, nên hãy thôi mơ mộng.
Dường như Từ Phong hắn chỉ có con đường duy nhất là dùng tình cảm đả động những con người này. Song có thể khai thác từ đâu? Tìm được họ, quan sát cuộc sống của họ, sau đó “đưa than trong ngày tuyết rơi”?
Nghĩ là thế, nhưng làm lại khó khăn hơn nhiều. Thế gian không phải chỉ có ngươi tìm họ, thế nên đừng mong ngươi là người duy nhất “đưa than”, và hiển nhiên nếu “than” của ngươi ít hơn thì ngươi chỉ có thể trơ mắt nhìn họ đi theo người khác.
Rõ ràng những câu chuyện viết rằng chỉ cần tìm đến, sau đó kiên trì bày tỏ lòng thành, kiên nhẫn “đưa than” thì sẽ rước được người tài xuống núi cũng chỉ là câu chuyện mà thôi. Cõi đời này vô cùng rộng lớn, đừng cho chỉ mỗi ngươi là có thể kiên trì, kiên nhẫn và có tâm. Xin thưa rằng, một kẻ mưu sự thì không có kẻ nào là không tàn nhẫn với bản thân mình. Xin thưa rằng vì như thế, họ có lẽ còn kiên trì, kiên nhẫn hơn cả Từ Phong ấy chứ.
Gặp tình huống đó thì thế nào? Từ Phong sẽ bỏ tất cả công việc, chiến sự chỉ để đọ lòng kiên nhẫn với kẻ địch đang tranh giành với mình? Hành vi đó không thực tế chút nào. Chúng ta không thể cho rằng chỉ vì một người mà bỏ cả cơ nghiệp đã vất vả dựng lên là đáng giá. Đáng giá hay không là phải nhìn cái cơ nghiệp đó có giá thế nào cộng với giá của việc đi mời người khác xuống núi so với giá của việc tiếp tục đấu kiên nhẫn để mời kẻ này.
Tuy rằng so sánh về giá có lẽ khập khiễng và không mấy hay ho. Nhưng sự thực chính là như thế. Nếu như người đó là thần thánh, hẳn nhiều người sẽ sẵn sàng bỏ tất cả để kiên nhẫn chờ đợi. Còn không thì chắc chắn họ đều âm thầm so sánh như trên.
Lợi ích là đi đầu. Làm ăn thua lỗ thì không ai làm. Khi gặp những kẻ lớn giọng rao rằng mình làm ăn thua lỗ là vì mọi người thì hãy kệ họ đi, đó chỉ là những con người giả tạo mà thôi. Hãy nhớ rằng ngay cả tiền trợ cấp cho người nghèo của Thiên triều cũng là từ việc thu thuế, mà thu thuế là lấy một phần tiền của người dân, chứ không có ông bà quan lớn nào bỏ tiền túi ra chi trả.
Và cái lợi ích đi đầu đó cũng thể hiện ở chỗ nếu hai người đến mời một người tài. Người tài đó sẽ lựa chọn người có điều kiện tốt hơn. Nghe có vẻ giống như con gái chọn người yêu và phụ nữ chọn chồng, nhưng nó là giống thật chứ chẳng đùa. Đối với con gái, người không có “khả năng” mang lại “hạnh phúc” cho họ thì đừng có mơ họ mở lòng cho, dĩ nhiên là mỗi người con gái có một quan điểm về “khả năng” và “hạnh phúc” riêng. Đối với nhân tài cũng vậy, ngươi không đáp ứng được “cái họ cần” thì ngươi không có khả năng thuyết phục họ, ngươi mang đến “cái họ cần” không bằng người ta thì ngươi cũng thua. Ngươi chỉ có thắng khi ngươi mang đến “cái họ cần” nếu không có ai cùng tranh đoạt, và mang đến “cái họ cần” lớn nhất trong số những người tranh đoạt.
Mà Từ Phong hiện nay thì có thể nào mang được “cái họ cần” lớn nhất? Hắn cũng chỉ có thể cố gắng tìm tòi những kẻ tài mà chưa ai mời, hoặc trong số những người hắn định mời thì hắn là kẻ mang đến “cái họ cần” nhiều nhất.
Vậy đấy, cho nên chúng ta mới hay thấy cảnh những ông quan lớn, những thế lực mới đua nhau chào mời những học viên có tài ở các học viện. Dẫu gì bọn học viên đó ở lúc ấy cũng có tầm nhìn không mấy xa, “cái chúng cần” không mấy to tát cho nên họ bỏ ra cái giá không cao bao nhiêu.
Nhìn ở một góc độ thì công việc tìm kiếm nhân tài từ xưa đến nay là công việc khó khăn đòi hỏi phải có tính chuyên nghiệp.
Phàm Khu dựa theo thông báo mà tìm tới nơi. Trong lòng hắn có phần thấp thỏm, vốn là một kẻ lưu hương, hắn cũng chỉ muốn có ăn.
Hắn tiến lên, hướng về phía hơn mười người trước mặt.
Một người với thân hình cường tráng, mặt lấm tấm râu nhìn hắn, ánh mắt sắc bén như dao, Phàm Khu lập tức cảm thấy cả người phát lạnh. Hắn tuy là một người thanh niên 18 tuổi, nhưng trải đời chưa nhiều, sức chiến đấu thực sự rất kém. Hắn có thể lưu lạc tới đây phần lớn cũng là nhờ vận may. Hắn khẩn trương nuốt nước miếng, toàn thân người lấm tấm râu này tỏa ra khí tức cuồng bạo khiến trong lòng hắn nảy sinh ý sợ.
“Ta...Ta là Phàm Khu... Mới... Mới vừa nghe được thông báo, nói là...”
Nghe Phàm Khu lập cà lập cập cả nửa ngày không nói rõ được ý mình, tên lấm tấm râu thực sự không kiên nhẫn nổi, ngắt lời:
“Đúng rồi! Đúng là đây, không tìm sai.”
Nói xong, hắn dùng một tay nhấc Phàm Khu lên như nhấc một con gà, kéo Phàm Khu ném về phía chín tên kia.
Phàm Khu sợ tới mức nhắm nghiền đôi mắt, cả người run lên bần bật. Tên lấm tấm râu cũng bực tức vô cùng, chẳng biết là ý của ai nữa, không ngờ lại muốn hắn đi tiếp đón đám trẻ con này. Cả lũ ai nấy nhát như chuột, thấy hắn là run như cầy sấy.
“Lại tới một người.”
Chín người phía sau nhìn thấy Phàm Khu bị ném về bên này thì cười lên ha hả.
Phàm Khu sợ hãi nuốt nước miếng một cái. Nếu không vì cái ăn, hắn thật sự không muốn dính líu tới đám người này.
“Ừm, tốp này đã có chín người rồi. Thêm hắn nữa là vừa đủ đi.” – Một người trong số họ thỏa mãn nói.
Nhiệm vụ lần này bọn hắn hoàn thành vượt mức. Căn cứ theo yêu cầu của thủ lĩnh, bọn họ tìm được thêm hai người am hiểu xây dựng, thêm tám người thanh niên nữa, bất cứ ai cũng không chống cự nổi mê hoặc mỗi tháng 100 kí lương thực.
“Mười người rồi, cũng không sai lệch lắm. Thế nào? Kết thúc công việc chứ?” – Gã lấm tấm râu có phần nôn nóng quay lại hỏi.
“Không được. Tuy vượt chỉ tiêu nhưng sợ không thể bằng các tiểu đội khác.”
Gã lấm tấm râu nhíu mày: “Vậy làm sao bây giờ?”
“Chúng ta dùng lương thực mời chào bọn họ, giống như mua bán, là hai bên vừa ý thì mới giao dịch được. Hiển nhiên có lẽ cuộc sống của những người có lại không tồi, cho nên họ không muốn gia nhập.” – Người kia trả lời.
“Chúng ta cứ vậy mà về sao?” – Gã lấm tấm râu không cam lòng, hắn không muốn cứ mãi bị xếp cuối.
Người kia ra vẻ buông tay, nói: “Vậy phải làm sao? Chẳng lẽ đe dọa họ, hay là bắt trói họ để họ gia nhập với chúng ta?”
“Bắt trói đem về” – Đôi mắt của gã lấm tấm râu sáng ngời, hưng phấn vỗ tay: “Ý này rất hay. Sao ta lại không nghĩ tới chứ?”
Người kia vốn nhàm chán, nghe thấy vậy cũng lập tức vui mừng, ra sức gật đầu: “Không sai, không sai. Bắt trói tất cả đem về. Càng nhiều càng tốt!”
Những người khác cười to, trừ một gã đầu tổ quạ.
Gã đầu tổ quạ sợ hãi đến biến sắc: “Không được, không được. Hành động mấy ngày nay của chúng ta không khiến cho triều đình và các sơn trại khác chú ý đã là may mắn lắm rồi. Nếu chúng ta bắt trói người thì nhất định sẽ làm quan lại địa phương kinh động, khi đó thì phiền phức to!”
Gã đầu tổ quạ vội vàng nhìn về phía những người khác với hi vọng có ai đó sẽ cùng ý kiến với hắn. Song tất cả các khuôn mặt còn lại cũng chỉ là một vẻ nóng lòng muốn thử bắt trói đem về.
Gã đầu tổ quạ cảm thấy đầu mình như “ong” lên.
Toàn bộ chín người đều đồng ý với hành động bắt cóc, từ khi đề nghị tới khi thông qua không quá chục cái hơi thở. Có thể bày ra hành động bắt cóc với quy mô như vậy ngay dưới mắt của quan tri huyện địa phương, chỉ nghĩ thôi cũng khiến mọi người ở đây, ngoại trừ gã đầu tổ quạ cảm thấy máu sôi lên.
Khi đã quyết định, đám người nhanh chóng định ra phương án. Có thể không ra ngô ra khoai, nhưng ít nhất có phương án thì họ mới tự tin hơn, vả lại bọn họ là cường đạo, dáng dấp côn đồ chuyên nghiệp đã thấm vào máu từ lâu.
Gã đầu tổ quạ ở bên cạnh nghe vậy mà sắc mặt trắng bệch, hắn thầm nhủ sau này phải nhất định tránh xa lũ điên này một chút.
Ngươi một lời, ta một câu, một kế hoạch đơn giản nhanh chóng hình thành.
...
Thỉnh thoảng những tiếng quát mắng vang lên không dứt bên tai, khiến Phàm Khu kinh ngạc là những tên cường đạo xung quanh không phát ra một tiếng động nào, không ngừng điểu chỉnh vị trí của bản thân.
Không biết vì sao đám cường đạo này luôn giữ vẻ nghiêm nghị cùng trầm mặc khiến Phàm Khu cảm thụ được một sức mạnh không tên.
Hắn không khỏi quan sát càng thêm tỉ mỉ.
Đội ngũ trước mặt hoàn toàn khác với bất cứ đội ngũ nào hắn từng gặp trước đây. Hơn một trăm người bước đi, đội ngũ nghiêm chỉnh như được đo bằng thước. Những đội ngũ tinh nhuệ hắn từng gặp trước kia so với đám người này chẳng khác nào một đám loạn quân.
Xa xa, thi thoảng lại thấy từng tốp ba đến năm người đi tới đi lui tuần tra, hẳn là cảnh giới.
Càng xem hắn càng kinh hãi, thực lực đội ngũ này biểu hiện ra lại vượt qua cực hạn mà hắn có thể tưởng tượng.
Thần kinh của Nguyễn Dư căng thẳng, hắn đang đảm nhiệm người chỉ huy cho một trăm con người này. Dù trước đó từng chỉ huy bốn trăm cung thủ, nhưng dù gì cũng có một phần là do hắn có kinh nghiệm chỉ huy cung thủ.
Nhiệm vụ đại nhân cấp cho hắn chính là vừa cướp vừa rèn luyện. Ở hắn xem ra, nhiệm vụ này không mấy phức tạp, cướp không nhất thiết là cướp của đội ngũ lớn, rèn luyện cũng không nhất thiết là phải đánh với đội ngũ tinh nhuệ, lúc nghe nhiệm vụ này, hắn đã thở phào nhẹ nhõm. Song khi biết được mục tiêu, sắc mặt của hắn không tự chủ được mà biến đổi.
Đội ngũ của hắn chỉ có 100 người, đội ngũ của địch có hơn 200 người.
Thế nên đây là một nhiệm vụ, cũng là một khảo nghiệm. Khảo nghiệm xem rốt cuộc hắn có năng lực đảm nhiệm chức vụ chỉ huy hay không.
“Bẩm chỉ huy, quân địch còn cách chúng ta hai dặm.” – Một tên lính vội vàng báo cáo.
“Tất cả vào vị trí.” – Hắn thét lên.
...
Thấy đám thuộc hạ ngày càng hiện ra vẻ thành thạo, Nguyễn Dư cũng không khỏi cảm khái, quả nhiên thực chiến có thể rèn luyện người. Mấy ngày nay tiến bộ của bọn họ thậm chí vượt qua việc huấn luyện thường ngày.
Từng điểm sáng đỏ lớn dần trong màn đêm.
Khi nhìn thấy mục tiêu với đèn đuốc sáng choang, con ngươi của Nguyễn Dư co lại, tới rồi!
Thần sắc Nguyễn Dư lạnh lùng nghiêm nghị, nhếch môi lên. Số lượng địch nhân vào khoảng hai trăm người, đằng đằng sát khí trực tiếp hướng bọn họ nhào tới. Sống lưng Nguyễn Dư thẳng tắp, giống như một cây giáo sắc bén thẳng tắp, lẳng lặng mà phiêu phù trong gió, bên tai truyền đến những tiếng rít gào của đám cấp dưới.
“Tất cả tập trung tinh thần! Chú ý vị trí bản thân!”
“Phía trước các ngươi chính là một đám bỏ đi! Giết chết bọn chúng! Giết hết!”
“Ngu thế nào cũng không cần nghĩ, ta đi hướng nào thì đi theo hướng đó! Người nào tụt lại phía sau thì hãy chờ xem ta thu thập hắn như nào!”
“Dựa theo huấn luyện bình thường của các ngươi đi tới!”
...
Vài tên cấp dưới nằm trực tiếp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Dư đang tiến hàng động viên trước khi chiến đấu, thủ hạ đa số là một đám gà mờ, mặc dù đã được nâng cao thực lực của cá nhân, nhưng trong chiến đấu thì nhân tố quyết định thắng lợi chính là hệ thống chiến thuật.
Hoặc thô lỗ, hoặc ngưng trọng, hoặc thoải mái động viên rơi vào trong tai Nguyễn Dư khiến hắn không tự chủ được mà nóng lên, hắn không chú ý tới mắt mình bất chợt xuất hiện nhiều tia máu.
Thực sự làm máu huyết sôi trào a!
Nhìn vào đối phương đang ngày càng gần, một lần nữa Nguyễn Dư vung tay phải lên, tất cả các tạp âm đều biến mất. Một trăm tên lính lặng ngắt như tờ, cả đội ngũ giống như một cây cung áp súc đến cực hạn, tinh thần mỗi người đều căng tới cực điểm. Nhất là đám lính trẻ ở tiền phương, tinh thần của bọn họ cô đọng, khí thế không ngừng dâng lên, chân giống như bị đóng đinh, cứng rắn đứng tại chỗ.
Phàm Khu không tự chủ được mà nín thở, trong đầu hắn rỗng tuếch.
Hắn chưa từng trải quả chiến đấu chấn động như thế này, khoảng yên lặng trầm mặc này giống như một sợi dây thừng vô hình đang từng chút một thít chặt vào cổ hắn, cổ họng bị chặn đứng, hít thở có chút không thông.
Nguyễn Dư lạnh lùng nhìn chăm chút vào phạm vi tiến quân của địch, tay phải vung lên chém xuống.
“Giết!”
“Ba!”
Không khí giống như bùng nổ, tay cầm cung của bốn mươi tên cung thủ ở phía ở hậu phương giống như mất đi ước thúc, chợt thả lỏng, mũi tên xé gió tạo ra âm thanh mãnh liệt bùng nổ trong không khí!
Bốn mươi mũi tên như đột nhiên biến mất trong không trung.
“Rầm rập!”
Âm thanh chỉnh tề như một vang lên.
Ba mươi tên trường thương binh ở tiền phương lao tới như vũ bão.
“Đùng...”
Ba mươi tên thuẫn binh lập tức nối tiếp trường thương binh.
Trận hình chiến đấu số 5, chiến thuật số 2!
Đầu tiên dùng cung thủ đánh bất ngờ tạo thương tổn lớn cho quân địch, cũng như hấp dẫn sự chú ý của địch về hướng này. Tất cả mũi tên nhắm thẳng vào trung tâm trận hình địch với mục đích tạo rối loạn.
Tiếp theo, cung thủ không ngừng bắn tên yểm trợ cho trường thương binh tiến tới đánh cận chiến.
Những mũi tên bay đi không chỉ cần chuẩn xác và có uy lực đầy đủ, mà còn cần tạo ra âm vang làm nhiễu sự phán đoán của quân địch.
Cùng lúc này đây, thuẫn binh từ vị trí trước mặt cung thủ cũng lao lên. Thứ nhất, xuyên thẳng qua trận hình địch, nhất định không cho địch có thời gian phản ứng và tập trung điều chỉnh lại trận hình.
Dưới sự yểm trợ của cung thủ, trường thương binh như một con dao nhọn đâm thẳng vào lòng địch, quyết chí xuyên thủng trận tuyến địch vừa gây dựng trong bàng hoàng.
Mưa máu đầy trời!
Trong trận của địch nhân xuất hiện một vết cắt thật sâu, những nơi trường thương binh đi qua binh lính của địch hoặc bị đứt tay đứt chân, hoặc bị chặt làm đôi! Bẻ gãy nghiền nát, trong nháy mắt xuyên thủng trận địa địch.
Khoé mắt thủ lĩnh quân địch như muốn toát ra: “Quấn lấy bọn họ! Bọn họ chủ lực...”
Đang nói được một nửa thì tiếng mũi tên xé gió trong đêm của mũi tên từ cánh phải đột nhiên lại vang lên.
Yểm trợ đúng thời điểm!
“Phốc... Phốc... Phốc!”
Liên tiếp những âm thanh xương cốt bị xuyên thủng khiến người sợ hãi, những mũi tên có đầu bằng thép nguội không gì không đâm thủng, tiếng kêu thảm thiết không dứt bên tai.
Cung thủ tiếp tục yểm trợ, trường thương binh đột tiến, thuẫn binh lao lên theo con đường trường thương binh đã mở.
“Đùng... Đùng...”
Quân địch định bao vây trường thương binh vào giữa trở thành vô nghĩa. Những tên lính vừa xông ra thì ngay lập tức bị thuẫn binh đẩy văng.
Nguyễn Dư nhanh chóng ra lệnh, uy lực của trận hình chiến đấu số 5, chiến thuật số 2 phát huy ra hết! Quân địch mất hết nhuệ khí, sĩ khí hạ thấp tới tột cùng, chiến ý không còn. Kế tiếp, điều hắn muốn làm chính là một kích sau cùng.
“Xông thẳng về phía tướng địch!” – Nguyễn Dư rống lên.
Tâm chí đã sớm hoảng loạn, thấy trường thương binh và thuẫn binh ép tới, cùng với làn mưa tên, quân địch không khỏi kinh hoảng, trong nháy mắt, trận hình ầm ầm bị phá, phân tán mà chạy!
Đến lúc này, Nguyễn Dư mới thả lỏng thân thể, đại cục đã định.
Chiến thuật số 2 của trận hình chiến đấu số 5 sắc bén vô cùng, nhưng không phải không có nhược điểm. Nhược điểm lớn nhất của nó là không thể liên tục, nếu như địch nhân chống đỡ được sự xuyên thủng của trường thương binh, bọn họ sẽ gặp nguy hiểm.
Trường thương binh bị chặn, thuẫn binh không thể tiến lên, vì thế thuẫn binh chỉ có thể dừng lại giữa chừng. Lúc này cung thủ lại mang tính yểm trợ lại xuất hiện xác suất bắn nhầm quân mình.
Nguyễn Dư thở phào nhẹ nhõm, trận chiến này so với hắn tưởng tượng còn thuận lợi hơn rất nhiều. Lúc này hồi hộp qua đi, chỉ thấy đội trưởng của ba tiểu đội dẫn người xông về những nơi nào có nhiều người, bọn họ sẽ giống như cá mập thấy máu tanh, đỏ mắt chém giết.
Địch nhân thấy thế, không dám chần chờ, xoay người chạy trối chết.
Nguyễn Dư vội vàng hạ lệnh ngừng đuổi, nhiệm vụ của bọn họ là cướp bóc cùng rèn luyện chứ không phải đuổi giết tất cả quân địch.
Rất nhanh, tất cả quân địch đều chạy hết sạch, Nguyễn Dư hạ lệnh cho một ít binh lính đi thu nhặt chiến lợi phẩm, còn lại thì tu chỉnh đội ngũ. Đám lính mới trải qua một tràng chiến đấu, trên mặt vẫn còn vẻ hưng phấn nhưng bọn họ vẫn cẩn thận hoàn thành mệnh lệnh.
Các tiểu đội trưởng cũng thở dài một hơi. Chiến đấu như vậy đối với bọn họ chỉ là một bữa ăn sáng nhưng quân lính là người mới nên bọn họ cảm thấy lo lắng rất nhiều. Nhưng nhìn chung không có vấn đề gì lớn, những vấn đề bộc lộ ra trong chiến đấu cũng không hề ít.
Có 5 – 7 cung thủ khi bắt tên thì kém hơn rất nhiều so với lúc bình thường huấn luyện, thường thường bắn chệch đi, hoặc là tạo ra âm thanh không đủ, hoặc là tính xuyên thủng kém, như vậy rất khó yểm trợ cho trường thương binh.
Trường thương binh cũng bộc lộ điểm yếu là thiếu sắc bén. Nếu như không đủ sắc bén để có thể xuyên thủng đội hình địch, bị trì trệ trong đội hình của đối phương, trong nháy mắt địch nhân sẽ đem bọn họ chém thành từng mảnh nhỏ, trong lòng những gã tiểu đội trưởng trường thương binh vẫn còn vì vậy mà sợ hãi.
Nguyễn Dư không có nhúng tay vào việc các tiểu đội trưởng giáo huấn những tên lính phạm sai lầm, hắn lặng yên quan sát xung quanh. Sợ nhất là vừa đánh xong thì gặp phải một đội quân khác tình cờ đi qua, hoặc vốn là một nhóm ngư ông.
Một lát sau, hơn chục tên lính thu nhặt chiến lợi phẩm hoàn thành công việc, những chiến lợi phẩm này được kéo theo sau, sau khi trở về nộp lên cho thủ lĩnh thì chăc chắn sẽ được luận công ban thưởng.
Phàm Khu trợn mắt há mồm, chiến đấu kết thúc cực nhanh, hắn không thể tưởng tượng ra được. Khi hắn nghe thấy những tiểu đội trưởng quát mắng thủ hạ thì hắn có chút không thể tin được, cái này còn chưa đủ sao? Chiến đấu lưu loát dứt khoát như thế, cấp dưới lợi hại như vậy, còn muốn quát mắng sao?
Hắn không am hiểu chiến đấu nhưng điều đó không có nghĩa là hắn mù. Một đội ngũ có trình độ như thế nào, hắn có thể nhìn ra được. Lúc này hắn nhìn lại, đây chính là đội ngũ lợi nhất hắn từng gặp qua, vừa xa lạ lại vừa đặc biệt, chưa từng biết đến.
Bọn họ thật quá nghiêm khắc! Phàm Khu có chút không thể lý giải.
Trận thắng này làm cho sĩ khí của đám lính mới tăng lên rất nhiều, bọn họ rất mong đợi được đi tới địa phương tiếp theo. Ở giới cường đạo, vũ lực mạnh mới có thể đảm bảo sinh tồn.
“Tình tính tang tình tính tinh tang... Tình tính tang tình tính tinh tinh... Tinh tính tang tinh tình tang tang...”
“Dưới trăng đèn hoa rực rỡ... ơ... ơ...
Sáng soi êm dịu sắc vàng lung linh
Khắp nơi đào mai đua nở... ơ... ơ...
Dưới ao cá lội bơi đùa tung tăng... ớ ơ...”
Giữa đêm tối, tại quán rượu nọ, trong khi các bàn đều ngồi đầy khách, giữa quán, hai cô gái xinh đẹp vừa đánh đàn tỳ ba vừa hát. Khuôn mặt tươi cười như ngàn hoa đua nở, cô gái áo hồng vừa dứt, cô gái áo vàng đã hát nối.
“Trên cầu dạo bước mông lung... ớ ơ...
Ngắm xem đêm hỏi hoa đèn ngất ngây... í i...
Não lòng lữ khách đường xa... há ha...
Dừng chân ghé lại nghe vài khúc ca... há ha...”
Hát xong cô gái áo vàng nghiêng qua dùng đôi tay ngọc lướt qua dây đàn, cô gái áo hồng cũng tiếp tục hát nối.
“Chốn nhân gian bồng lai đâu khác
Nâng tay lướt nhẹ phím đàn... á a...
Cho người tri âm dừng chân ghé lại
Cùng hòa lên khúc nhạc du dương...”
“Tình tính tang tình tính tinh tang...”
“Ba... Bốp... Bốp...”
Khúc nhạc vừa dứt, khách nhân các bàn đều vội vàng nốc cạn ly rượu trên tay rồi đồng loạt vỗ tay khen hay. Riêng ở góc phải, một gã mặt tròn, mắt hí ăn mặc quần là áo lượt phe phẩy cây quạt tỏ vẻ thưởng thức.
“Hay.”
“Hay quá.”
“Hay...”
“Hay quá, hay quá cô chủ quán ơi...” – Phía cái bàn bên trái gần 2 người con gái nhất, một người trẻ tuổi áo đỏ lớn tiếng kêu lên.
Rồi hắn đứng dậy, cúi người chào 2 cô gái và tất cả khách nhân của quán, cầm lên một tờ giấy rồi nói:
“Đây là bài thơ tôi sáng tác để tặng cô chủ quán.”
Vừa dứt lời, hắn lại đưa tay phải ra, cúi người và phất tay phải xuống tỏ vẻ hâm mộ. Ánh mắt thì nhìn đăm đăm vào bộ ngực căng của cô gái áo hồng.
Cô gái áo hồng dường như không biết, nàng vui mừng hướng về hắn mà tạ lễ: “Dạ, xin đa tạ quý khách!”. Nói xong, nàng bước qua bên trái, nhường một khoảng trống giữa quán cho hắn.
Người trẻ tuổi mặc áo đỏ nghe vậy thì vui mừng bước vào khoảng trống ấy và chầm chậm đọc:
“Sắc kia... a a... đã đẹp muôn phần
Tài kia chẳng kém, a a... sánh cùng cố... nhân!”
Nghe tới đây cô gái áo hồng thẹn thùng đưa tay lên vuốt mặt, sau đó nở nụ cười tươi với vẻ e thẹn mỹ miều. Nụ cười của nàng khiến cho tất cả nam nhân trong quán ngây dại một lúc.
“Cầm kỳ thi họa... đều thông
Anh hùng thiên hạ hẹn mừng kén cô... ưm ưm...”
Người trẻ tuổi này vừa ngâm xong, cả quán rượu triệt để náo nhiệt.
“Hay...”
“Hay!”
Tiếng vỗ tay cũng vang lên đùng đùng.
“Xin cảm tạ chư vị.” – Người trẻ tuổi lại cúi đầu tạ lễ.
“Xin đa tạ quý khách.” – Cô gái áo hồng chắp tay hướng về mọi người mà cảm ơn.
“Ha ha... Tài huynh, tới huynh!” – Lúc này, người trẻ tuổi áo đỏ nhìn về phía một cái bàn bên phải nói.
Một người thanh niên 24 – 25 tuổi, hai gò má nhọn và xanh xao, mặc một bộ quần áo màu lam đậm có những chấm tròn trắng xen kẽ đều đặn cười ha hả đứng lên, vừa đi vào giữa vừa nói:
“Huynh có một bài tặng cho tiểu thơ đây thì đệ cũng có một bài tặng cho tiểu thơ.”
Với bước đi loạng choạng, cả thân hình của hắn đong đưa qua lại nhìn cực buồn cười. Khi vào giữa, hắn mở lời:
“Các huynh ở đây nghe nhé.”
“Dô dô...”
Phía dưới có một bàn hò hét cụng ly. Song nó không làm ảnh hưởng đến tâm tình của người áo xanh.
“Rượu kia... ơ ơ... ai nấu mà thơm
Nốc vào một ngụm... ớ ơ... lâng lâng đất trời
Nhìn xem cảnh vật nên thơ... ớ ơ...
Tay ngà chuốc chén... á a... thêm... Nấc... Nấc... thêm phần ngất ngây...”
Quán rượu lại một lần nữa sôi trào.
“Bốp... Bốp... Bốp...”
“Hay.”
“Hay.”
“Hay!”
“Tiếp đi huynh.”
“Dô!”
“Dô!”
“Tiếp đi.”
“Thêm rượu cô chủ quán ơi.”
Hai cô gái nhanh nhẹn hướng về các bàn, lần lượt rót rượu từ bình vào chén cho các khách nhân, miệng liên tục líu ríu.
“Dạ xin mời.”
“Dạ xin mời.”
“Xin mời quan khách.”
Đúng lúc này, từ cửa quán xuất hiện một người trung niên với một chiếc thùng gỗ nhỏ treo ở trước ngực cùng với hơn chục thang thuốc được gói kỹ lại thành mười chồng được xách trên tay phải. Người trung niên mạnh dạn bước vào mà rao:
“Quế trăng quế khâu, con nít bị đau, da vàng bụng hỏng, gân xanh như võng, mắt trắng môi thâm, mồ hôi lâm râm, đi tìm mua thuốc của tôi là hết bệnh ngay đấy quý khách à.”
Vừa rao hắn vừa tiến về cái bàn gần nhất mà chào hàng.
“Mua đi, thuốc của tôi công hiệu lắm.”
Ba người ngồi trên bàn tay đưa tay lên mà lắc. Người trẻ tuổi áo đỏ không chỉ lắc mà còn từ chối:
“Không có mua mà...”
“Không mua, không mua.” – Nghe người trẻ tuổi áo đỏ từ chối, đồng bạn của hắn cũng lên tiếng.
Người trung niên thất vọng đi sang bàn kế bên.
“Dạ, mời quý khách, quý khách mua thuốc đi.”
Ba người bên bàn này đang cụng chén. Trong khi họ nốc rượu liên hồi và người trung niên đang chờ đợi thì phía bên phải có một âm thanh truyền lại:
“Thầy thuốc, thuốc này bán sao?”
“Dạ, thuốc này uống là công hiệu lắm. Uống một thang là thuyên giảm ngay.”
Người trung niên nhất thời vui vẻ bỏ qua cái bàn bên này mà hướng về phía ấy mời chào.
Hai cô gái vẫn tiếp tục rót rượu cho các bàn, phía bên kia, người trung niên cùng cái bàn ấy đã đi đến công đoạn ngã giá.
“Giá cả thế nào?” – Một người trong bàn hỏi.
“Dạ đây, dạ hai lạng bạc.”
Hai bên nhanh chóng trao tiền và trao thuốc. Đang lúc người trung niên định quay lại cái bàn có 3 người đang nốc rượu liên hồi kia thì gã mặc tròn, mắt hí gọi:
“Ông bán thuốc!”
Người trung niên lập tức bước vội sang cái bàn góc phải ấy mà nhiệt liệt chào hỏi.
“Dạ, dạ, quý khách!”
“Thuốc này trồng ở đâu vậy ông?” – Gã mắt hí hỏi.
Người trung niên sững sờ một lúc, ngẩng đầu quay bên trái, rồi đứng thẳng người, nhìn về phía gã mắt hí và đáp:
“Dạ... Ha... Dạ... Thuốc này trồng ở vùng ven núi tuyết, cạnh bờ sông Hải Giang.”
“Vậy à?” – Gã mắt hí hỏi, và cười lớn: “Hà hà hà...”
Gã dùng quạt gõ đầu gối một phát, rồi bung quạt ra, sau đó đứng lên cười nói:
“Vậy thì ông hãy bán cho ta 5 thang.”
“À...” – Người trung niên há to miệng.
Chốc sau, người trung niên phản ứng lại: “Dạ dạ... Dạ dạ có ngay ạ...”
Rồi hắn liếc mắt quan sát toàn bộ quán rượu, khi xác định an toàn, hắn cúi người thì thầm với gã mắt hí.
“Tôi là Bồ Câu. Đại nhân Tiết Sở cử tôi đến gặp ngài!”
Nói đến đó, hắn lại ngẩng mặt liếc nhìn cảnh giới xung quanh.
“Ông về nói với đại nhân Tiết Sở rằng khi nào tôi nhận đủ số vàng thì tôi sẽ giao cho ông phần bản đồ còn lại.”
Người trung niên liếc mắt nhìn gã mắt hí rồi nhỏ giọng: “Được! Tôi sẽ về bẩm lại!”
Và người trung niên nhanh chóng gỡ ra một chùm 5 thang thuốc đưa cho gã mắt hí. Gã mắt hí cũng lấy từ túi ra một cái túi nhỏ bỏ lên bàn, lớn tiếng nói:
“Đây là mười lạng bạc, cần thì hãy kiểm tra.”
Rồi gã đưa đầu lại gần người trung niên mà thì thầm:
“Đấy là một phần bản đồ. Cứ yên tâm đem giao cho đại nhân Tiết Sở. Chỉ cần vàng giao tới đầy đủ, phần còn lại sẽ được đưa đàng hoàng.”
Người trung niên gật đầu: “Tạ ơn ngài.”
Và người trung niên cũng lớn tiếng giữa những âm thanh nhốn nháo nơi đây: “Dạ, vâng. Dạ cảm ơn quý khách. Chúc quý khách mau hết bệnh.”
Sau đó, người trung niên bước từng bước đi ra khỏi quán rượu mà rao lớn:
“Thuốc đây, có ai mua thuốc không?”
Chỉ một lát, thân ảnh của hắn biến mất khỏi hàng cây rậm rạp.
Nhưng hắn và gã mắt hí không ngờ rằng hành động bí ẩn của họ đã bị hai cô gái chủ quán để ý từ lâu. Giữa cuộc trao đổi của hai người, hai cô gái từ hai bên cách xa đều không ngừng quay mặt về hướng này mà đánh giá.
Gã mắt hí vừa giao dịch xong thì lại nhấp thức ăn và uống rượu. Đợi đến khi người trung niên khuất bóng, hắn mới lớn giọng:
“Chủ quán!”
“Dạ, dạ thưa quý khách cần chi ạ?”
Cô gái áo hồng nhanh chóng hướng về phía gã mà thướt tha hỏi nhỏ.
“Thay cho ta bình rượu.”
“A... Dạ.”
Cô gái áo hồng đáp lời. Đồng thời nàng vươn đôi tay thon thả, mượt mà cầm lên bình rượu trên bàn gã mắt hí.
Thế nhưng khi bàn tay của nàng vừa chạm vào bình rượu, gã mắt hí lấy thế sét đánh không kịp bưng tai đưa tay phải vuốt ve bàn tay của nàng. Cô gái nhanh chóng dùng hai tay cầm lên bình rượu, nàng định quay đi nhưng không thành. Thì ra gã mắt hí được nước làm tới, bàn tay đang vuốt của hắn đã chuyển thành cầm mạnh, siết chặt cổ tay trái của nàng.
Cùng lúc đó là giọng cười dâm dê, đê tiện: “Hé hé hé hé hé...”
Cô gái áo hồng sợ hãi. Nàng vừa dùng tay phải bỏ bình rượu lại, vừa cố dùng tay trái tránh thoát tay phải của hắn, vừa yếu ớt nói:
“Dạ... Dạ quý khách...”
Sự giãy giụa của nàng khiến gã mắt hí phải đứng lên. Nàng càng giãy giụa, hắn càng giữ chặt. Xem ra là hắn không muốn buông tha cho nàng.
Rốt cuộc chỉ chốc sau, nhân cơ hội gã ta lơ là, nàng nhanh chóng lùi lại.
“Quý khách làm gì vậy?”
Vốn nàng không thể thoát bởi vì sức phụ nữ khó có thể hơn sức của đàn ông. Nhưng gã mắt hí rõ ràng chơi trò “mèo vờn chuột”, hắn cố tình buông tay để nàng tránh thoát. Giờ phút này, hắn dang hai tay ra như thể muốn nàng nhào vào ôm hắn, hắn nhìn nàng đầy ngả ngớn:
“Tay nàng đẹp quá. Ha há hé hé...”
Rồi hắn chuyển cái quạt sang tay phải, rồi đứng dậy và bước ra. Hắn lượn một vòng trước bàn, vỗ quạt vào lòng tay trái phát ra từng tiếng “bôp bốp”, cười tươi mà nói:
“Ta không ngờ ở nơi rừng núi hoang sơ như thế này lại mọc lên một bông hoa mẫu đơn thật là tuyệt đẹp. Hé hé hé hé hé...”
Cô gái áo vàng đã nhanh chân tiến về đứng cạnh cô gái áo hồng. Có lẽ việc này không phải là họ chưa gặp, vì thế họ cũng có cách ứng xử và tự bảo vệ như thế này.
Nhận ra cô gái áo vàng đã ở bên cạnh, cô gái áo hồng mới cười gượng đáp lời:
“Dạ... Dạ quý khách đã khen quá lời.” – Vừa nói, nàng lại hành lễ với vị khách vừa vô lễ với mình.
Nhân lúc cô gái áo hồng khẽ khom người tạ lễ, gã mắt hí luồn bàn tay phải vuốt lên cái mông đẫy đà của nàng.
Cô gái áo hồng giật nảy mình, nàng hoảng hốt nhảy lùi về phía cô gái áo vàng: “Ây... Kìa quý khách!”
Gã mắt hí mở to miệng cười, tiếp tục phe phẩy cái quạt với bộ dáng nho sinh.
Cô gái áo hồng thấy thế thì có chút sợ hãi. Nàng quay về nhìn cô gái áo vàng, thấy cô gái áo vàng gật đầu, nàng mới chậm rãi nói:
“Thưa quý khách.”
Rồi nàng nhấn mạnh: “Quán của tôi chỉ đón tiếp những mặc khách, tao nhân; chứ không đón tiếp những phường phàm phu tục tử”. Bốn chữ cuối này nàng đặc biệt gằn ra.
Gã mắt hí bỏ ra khuôn mặt nhăn trong tí chút đầy khinh thường, rồi lại nở nụ cười trào phúng, phe phẩy quạt. Sau đó ngửa mặt lên trời cất tiếng cười to:
“Ha ha ha ha...”
Và rồi hắn xoay cổ liếc nhìn hai cô gái với nửa con mắt: “Ta cũng muốn làm mặc khách, tao nhân lắm chứ.”
Và quay cả người đối mặt với hai cô gái: “Nhưng những lượng sóng ba đào đang nổi dậy ở lòng ta bởi ta yêu nàng và sẽ yêu nàng mãi mãi...”
Cô gái áo vàng buồn phiền không dám đối mặt với tên công tử mắt hí, nàng cúi đầu đầy lo lắng. Cô gái áo hồng lại mạnh mẽ đối mặt với gã ta:
“Nhưng những cánh chim bay chẳng ghé vườn nhà quan.”
Đang lúc cô gái áo hồng nói, gã mắt hí sáp về phía hai cô gái. Không còn cách nào khác, hai cô gái vội vàng tránh về phía ngược lại.
Ở quán rượu lúc này, các khách nhân vẫn chè chén tưng bừng, có lẽ những việc như thế này cũng là việc thường ngày. Ai đến đây mà không si mê hai cô gái, tuy ít có người giở trò lưu manh nhưng không phải là không có. Mà có thì cũng đến điểm dừng.
Song vị khách nhân của ngày hôm nay lại không coi điểm dừng ra gì.
Ở vị trí vừa chộp hụt cô gái áo hồng, hắn tiếp tục phe phẩy quạt, ngửa mặt với vẻ tự cao tự đại bệnh hoạn:
“Dù cánh chim chẳng về mà ánh trăng thề đã soi sáng cả tim ta. Trong lòng bóng thướt tha cho gió với mây ở đâu đây đến vui với trăng, cho cuộc đời tan vỡ dưới trăng mờ, nếu ai hững hờ thì sẽ tiếc lắm thay.”
Cô gái áo hồng đáp lời tức thì: “Dù ai đó có não nề, mà trăng gió chẳng hẹn thề, thì đâu có những phút say mê.”
Gã mắt hí dang rộng hay tay, bước đi xoay quanh 2 cô gái: “Nhưng ta đã say và ta đã mê mà nếu để ta về thì nàng sẽ biết hậu quả thế nào, khi quán này chẳng được yên bề.”
Và khi nói xong, hắn dừng lại, khép quạt và dùng quạt chỉ vào trong quán.
“Dô!” – Trong quán vẫn là âm thanh nhậu nhẹt.
Nhìn hai cô gái đầy ngả ngớn, hắn lại cất tiếng cười dâm dê, đê tiện: “Hé hé hé hé hé...”
Và rồi bất chấp tất cả, sải bước tiến tới ôm chầm cô gái áo hồng.
“A...” – Bị bất ngờ, cô gái áo hồng phản kháng, nàng không ngừng dùng tay giãy giụa, quyết chí không cho kẻ càn rỡ này ôm lấy thân thể mình.
Cô gái áo vàng lo lắng nhìn sang, nàng thật không dám manh động. Cô gái áo hồng thì giằng co cùng với kẻ bệnh hoạn.
“Buông tôi ra! Buông tôi ra!”
Và rồi cô gái áo vàng cắn răng, nàng hợp sức cùng với cô gái áo hồng đẩy ngã kẻ kia.
“Bịch...”
Gã mắt hí với cơ thể bị đào hết sức mạnh vì sắc dục ngã chổng vó phát ra âm vang.
Nghe tiếng kêu cứu của cô chủ quán, cả quán rượu đều ngẩng mặt nhìn về hướng này. Sự việc từ lúc cô gái kêu cứu đến lúc gã mắt hí ngã xuống quá nhanh khiến không ai kịp phản ứng. Nhưng không phải chỉ bởi vậy mà sau đó không có ai phản ứng.
Người trẻ tuổi mặc áo đỏ bước loạng choạng chen giữa 2 cô gái và gã mắt hí, dùng tay chỉ vào mặt gã mắt hí. Hắn đang định nói nhưng bị tiếng cười của cả quán cắt đứt.
“A ha ha ha...”
“Ha ha ha...”
Mọi người dùng tay chỉ về gã mắt hí mà xem thường.
Sau tiếng cười của mọi người, người trẻ tuổi áo đỏ cũng mở lời:
“Ngươi làm như vậy là không được rồi. Ai đến đây cũng thướng thức tài nấu rượu và tiếng hát của cô chủ quán này đây. Nếu công tử cứ cậy mình giàu có mà bắt ép người ta phải chiều chuộng mình thì không xứng đáng làm tri âm, tri kỉ của quán này đâu.”
Gã mắt hí dùng quạt chỉ vào mọi người, ngạo mạn nói: “Ta là Lý Khánh, con quan tri huyện vùng này.”
Hắn bước tới từng bàn, hầm hổ: “Các ngươi coi chừng. Coi chứ ta cho người gông cổ các ngươi lại.”
Rồi quát lớn: “Đi hết, đi hết cho ta!”
Tất cả các khách nhân còn lại đều đứng dậy, nhỏ giọng chửi rủa.
“Đi thì đi.”
“Đi thì đi, làm gì dữ vậy.”
“Đi đi đi đi.”
“Quý khách à, quý khách đừng đi”
“Quý khách à...”
Hai cô gái chủ quán hoảng hốt chèo kéo nhưng không thành. Quyền lực đúng là thứ giấy thông hành mạnh nhất.
Chỉ trong một chốc, quán vắng hoe không một bóng người. Cả quán chỉ còn có 2 cô gái và gã mắt hí.
Cô gái áo vàng tức giận nhìn về phía gã mắt hí: “Ngươi...”
Song gã mắt hí đã ngắt lời, hắn dùng quạt chỉ vào mặt hai cô gái: “Nàng nghe rõ rồi chứ? Thuận ta thì chị em nàng sẽ yên ổn mà sống. Còn không thì đừng trách Lý Khánh này sao độc ác.”
Nói xong, hắn dùng quạt nâng cằm cô gái áo hồng lên. Cô gái áo hồng dùng tay đẩy phăng cây quạt ra, tức giận trừng mắt nhìn hắn.
“Đê tiện!” – Nàng mắng.
Và hai cô gái phẫn nộ bỏ vào nhà trong, chỉ để lại phía sau tràng cười không ra người của gã mắt hí.
“Ha há há... Hé hé hé...”
Cười đã, hắn mỉa mai: “Đẹp như chị em nàng mà bán quán thì tiếc quá.”
Khi hai cô gái vừa đi vào nhà trong, quán rượu tiếp đón một cô gái xinh đẹp khác. Khuôn mặt trái xoan hoàn mỹ, bó tóc đen huyền được chải chuốt tỉ mỉ, bộ quần áo dài màu tím nhạt càng tô lên làn da trắng mịn của nàng.
Vừa bước vào quán, nàng nhìn về phía gã mắt hí mà gọi nhỏ: “Lý lang.”
Gã mắt hí giật mình quay lại. Và khi thấy cô gái áo tím, hắn hừ lạnh một cái, bình thản ngồi xuống cái bàn bên cạnh.
“Cô đến đây làm gì?”
Cô gái nhẹ giọng: “Phụ thân lên cơn bệnh nặng, bảo thiếp phải tìm chàng về gấp.”
Gã mắt hí cười mỉa: “Khỏi tìm. Khi nào lão già ấy chết, ta sẽ đưa tiễn lão bằng một mảnh khăn tang là xong.”
Cô gái khổ sở: “Kìa... Lý lang, dù một ngày cũng nặng nghĩa phu thê, sao chàng nỡ buông lời hận thù cay độc.”
Nghe thế, gã mắt hí cười lớn: “Ha há há ha ha...”
Rồi châm chọc: “ Nàng dám nhắc hai chữ phu thê trước mặt ta à? Há há ha ha...”
“Cha của nàng, vì quá tham vàng bạc, hừ... nên mới dựa vào thế lực của ta. Thấy ta buôn bán với bọn gian thương trở nên giàu có, nên mới gả nàng cho ta.”
Nói tới đó, hắn hớp một ngụm rượu, sau đó dùng quạt chỉ xuống mặt đất, đầy cợt nhã: “Để bòn rút của cải của ta mà thôi. Hãy về nói lại với thằng cha hề bần tiện của ngươi rằng ta đang bận việc quan”.
Rồi hắn đập quạt lên mặt bàn phát ra những tiếng bành bạch, và thét gào: “Đi đi.”
“Lý lang...”
“Đi!”
Cô gái còn định mở lời nhưng lại bị tiếng quát của gã mắt hí cắt đứt.
“Lý lang.”
“Đi đi!”
Cô gái nức nở: “Có phải chăng sau lúc kết liễu hoa đài và bòn rút hết bạc vàng của cải.”
Rồi nàng hận hận dùng ngón trỏ tay trái chỉ vào mặt gã mắt hí: “Nên ngươi đã để lộ chân tướng của một gã bất lương.”
“Ngươi say mê thứ liễu ngõ hoa tường nên đã xua đuổi ta để tìm hương lạ của hoa.”
“Hức... hức... Vì sao sau lúc cuồng mê ta thành kẻ đứng bên lề, mang tâm sự nhói đau... Bởi đã bị ngươi chán chê! Lúc tàn cuộc đổi trao giữa thế lực kim tiền, ngươi thỏa mộng ngông cuồng, còn ta chuốc khổ triền miên...”
“A... Há há há há...” – Gã mắt hí khinh thường cười to.
“Khổ à?” – Hắn đay nghiến.
“Ngươi chớ có than vãn, bởi cha ngươi quá tham vàng mà nhắm mắt làm càn, nên mới chuốc khổ cho ngươi. Chứ ta biết rõ cha ngươi chẳng có tài cán gì, lão chỉ giỏi núp bóng huy hoàng và vinh quang của kẻ khác.”
“Phạch...”
Hắn đứng hẳn dậy, phe phẩy cây quạt, nghiến răng nghiến lợi nói tiếp: “Ngày thái bình lão chiếm hết, vơ vét của chúng dân.”
Bước tới trước mặt cô gái, tay phải của hắn cầm và giật mạnh tay trái của nàng, đồng thời nhìn thẳng vào đôi mắt u buồn của cô gái mà xỉa xói:
“Đây là kết cục của kẻ tham lam!”
Tiếp theo, hắn đẩy nàng té xuống đất mà căm hận: “Ngươi đừng oán trách chi ta.”
Cô gái bò dậy, giận dữ quát: “Ngươi không được quyền nói xấu cha ta.”
Tiếng quát lớn chứa đựng oan khuất không nguôi nhưng có vẻ yếu mềm vô lực. Và đổi lại chính là tiếng cười gằn của gã mắt hí.
“Kha... Ha ha ha ha... Không nói xấu cha nàng? Ta cũng muốn nói tốt cho lão già ấy lắm đấy chứ. Nhưng cả cái vùng này, có ai lạ gì cha của ngươi? Hừm... Ha há ha ha...”
Cô gái không nói nên lời phản bác, nước mắt lại trào ra từ đôi mắt đẹp.
Gã mắt hí vẫn cứ cười gằn: “Cha ngươi? Lúc loạn lạc thì hứa gả con. Ngày thái bình thì bán con cho kẻ quyền uy, thế lực.”
“Câm đi!”
“Chính ngươi đã phải cúi đầu câm lặng để trả tiền cho lão già ấy.” – Hắn quay sang dùng đôi tay xanh xao lúc này tràn đầy gân xanh chụp vào đôi vai nhỏ bé của cô gái mà hét lên.
“Giờ ta không cần nàng nữa. Cút đi. Cút đi cho khuất mắt ta.”
Nói xong hắn lại đẩy ngã cô gái.
“A...” – Cô gái té xuống đất, đôi tay nhỏ xuất hiện vài vết trầy xướt, máu cũng thấm ra.
“Nhớ đừng bao giờ cho ta thấy mặt.”
Gã mắt hí giận dữ quát lớn, sau đó phe phẩy quạt, rồi bỏ đi.
Nghe ầm ĩ, cô gái áo vàng chạy ra. Nàng đỡ cô gái áo tím dậy, lo lắng hỏi han:
“Tiểu thư, tiểu thư có sao không?”
“Tiểu thư đứng dậy đi.” – Nàng dìu cô gái áo tím đứng dậy.
Đưa cô gái áo tím ngồi vào một cái bàn, nàng quan tâm: “Tiểu thư không sao chứ?”
Cô gái áo tím dùng cánh tay phải đỡ cánh tay trái đang đau, khẽ cầm chặt trong run rẩy, vì đau nàng cũng có chút nhăn mặt.
Cô gái áo vàng thấy vậy thì bất bình chạy ra trước cửa quán mà mắng: “Hừ... Như vậy mà cũng tự xưng là mặc khách, tao nhân à? Hừm... Đồ vũ phu ti tiện.”
Rồi nàng quay vào, khẽ vỗ những chỗ quần áo lấm bẩn, sửa sang tóc rối cho cô gái áo tím. Căm giận nói:
“Tiểu thư, tên Lý Khánh đó, hắn là chồng của tiểu thư hả?”
Cô gái áo tím đau khổ thốt ra: “Hay nói đúng hơn là hắn đã mua tôi. Nhưng dù sao thì thân tôi cũng phải gọi đó là chồng.”
Có ai biết được khi nói ra, trái tim nàng bị giày xéo cỡ nào. Phận của nàng đã định sẵn lận đận thế rồi.
“Tại sao?” – Cô gái áo vàng hỏi.
“Tại vì tôi là nạn nhân của một cuộc trao đổi. Mà đến lúc sau cùng, thì những người thân của tôi đã bỏ tôi lại một mình trong bóng tối của... liễu vươn... vươn trĩu nặng nỗi niềm tiếc thương. Thầm nghe tiếng lòng thê lương, ước mơ đầu cũng đã trôi dạt ngàn phương. Tim rung động nỗi u hoài, cùng trầm lặng trong những năm dài. Tôi lạc loài trong đêm gió mưa, chỉ có cô đơn sớt chia niềm đau.
Ơn nghĩa này tôi xin khắc ghi, xin cho phép tôi rời chân.”
“Tiểu thư, tiểu thư...” – Nhìn cô gái áo tím bước đi, cô gái áo vàng gọi với lại.
“Tiểu thư vội đi đâu giữa chốn sơn khê bốn bờ cách trở?”
“Tôi cũng chưa biết phải về đâu.” – Cô gái áo tím quay lại đáp.
“Nhà tiểu thư ở đâu? Tôi sẽ đưa tiểu thư về.”
“Tôi không muốn trở lại quê xưa với bao kỉ niệm ấm êm của tuổi mộng mơ nơi quãng đời niên thiếu. Bởi vì một áng mây xám phủ giăng làm hoen ố tuổi tròn trăng, và che kín nẻo quay về. Khi ước vọng tuổi thơ đã rơi rụng như chiếc lá bên lề, tôi đã trở thành kẻ suốt đời câm nín, ôm cúi tuyệt tình và chết lạnh dưới trời sương. Khi trái tim hồng còn nặng trĩu tình thương nhưng nghịch cảnh thâm sâu đã ngăn cách đôi đường, để kẻ đầu sông phải khóc kẻ cuối sông, biết hướng về đâu cho vơi sầu lẻ bóng.” – Cô gái áo tím thút thít chia sẻ nỗi tâm tư.
Nghe cô gái áo tím nói, cô gái áo vàng cũng mười phần đồng cảm: “Đời con gái sao quá nhiều cay đắng, người mình yêu mà chẳng được ở bên nhau. Nghe cảnh tình của chị đây mà em nghe lòng mình xót xa khôn kể. Thương cho cuộc tình trái ngang của chị, mà lại tủi buồn cho chính cuộc đời em. Bởi lễ giáo gia phong nên đường tình duyên không trọn, nuốt đắng cay về sống bên người. Chẳng nói tiếng yêu thương, chẳng nói hẹn hò. Vì chữ hiếu nên em đành cam lòng nhắm mắt để cho cha mẹ được yên bề khi tuổi đã cao. Nhưng rồi cuộc sống đó cũng chẳng được bao lâu, cha mẹ em mất, còn em thì bị chồng ruồng bỏ. Thân gái bơ vơ nhờ chị Tuyết Mai thương lòng cứu giúp, nên mới nương náu nơi đây như mái ấm gia đình. Nếu tiểu thư không chê cứ ở tạm nơi đây, dẫu mái lá đơn sơ nhưng không thiếu nghĩa tình. Rồi sẽ có ngày tiểu thư sẽ hội ngộ với tình quân.”
Cô gái áo tím mỉm cười: “Xin đa tạ lòng tốt của cô nương.”
Và rồi lại tự thương lấy số phận của mình: “Nhưng chẳng bao giờ đôi chim được liền cánh tung bay bởi thế lực đã xoay vần và đưa đẩy, bắt buộc kẻ chung tình không nên duyên nợ, phải trở thành kẻ phụ nghĩa thâm giao. Để trọn đời phong kín vạn niềm đau, chẳng biết nói sao khi ân tình không trọn, đành phải quay đi không dám về quê cũ, như cuối chân mây đâu che lấp được nỗi thanh sầu?”
“Xin tiểu thư đừng quá bi thương mà làm cho phấn hương sớm chiều phai nhạt. Biết đâu nay mai sẽ có ngày gặp gỡ , tiểu thư sẽ trọn tình và vẹn cả ước mơ.” – Cô gái áo vàng an ủi.
“Xin cảm ơn cô nương đã an ủi cho tôi. Xin tạm biệt.”
“Tiểu thư...” – Cô gái áo vàng muốn nói, nhưng nhìn vẻ quyết tâm trên khuôn mặt của cô gái áo tím nên đành thôi.
Cô gái áo tím rời đi trong cô độc và sầu khổ. Ở phía sau chỉ từng tiếng gọi hi vọng nàng hồi tâm chuyển ý.
“Tiểu thư...”
“Tiểu thư.”
...
Cành lá xào xạc, bụi đất bay loạn.
Giữa một vùng trống trong khu rừng, một người thanh niên đang múa kiếm. Không, người thanh niên đang luyện kiếm.
Từng đường kiếm mạnh mẽ ẩn sau từng chiêu thức mềm mại lao đi “soàn soạt” đầy cương nghị như chính bản thân người luyện kiếm.
Từng động tác không hề có một trúc trắc và sai lầm, từng động tác hoàn mỹ như được tập luyện vô số lần.
Bên hông người thanh niên có đeo theo một cái hồ lô rượu, cộng thêm đôi mắt luôn nhắm của người thanh niên tạo nên một nét gì đó phá hỏng đi không gian hoàn mỹ nơi đây.
“Phốc.”
Đột nhiên người thanh niên giẫm phải một viên đá, đôi chân trượt tới, người thanh niên sắp ngã xuống lớp đất mịn.
“Ớ... ơ!”
Hắn nhanh chóng dùng kiếm chống đỡ thân hình, thế nhưng nội công đang vận hành lại bỗng nhiên đứt đoạn khiến hắn bị nội thương. Một ngụm máu trào lên cổ họng nhưng lại bị hắn ép xuống.
Song, hắn vẫn phát ra tiếng rên khẽ.
“A...”
Lúc này, từ cánh trái, cô gái áo vàng lao tới đỡ hắn dậy: “Kìa Triệu huynh! Triệu huynh không sao chứ?”
Sau đó, nàng giật lấy thanh kiếm và vỏ kiếm, vừa cho thanh kiếm vào vỏ vừa nhắc nhở: “Mắt của Triệu huynh chưa bình phục. Khi nào mắt của Triệu huynh chưa bình phục thì Triệu huynh đừng có luyện kiếm. Khi nào mà mắt của Triệu huynh bình phục hẳn rồi thì Triệu huynh luyện kiếm cũng đâu có muộn.”
Rồi nàng đỡ người tên là Triệu huynh ngồi xuống một tảng đá một cách từ từ: “Triệu huynh ngồi xuống đây đi.”
Vừa ngồi xuống, người thanh niên dùng tay lấy hồ lô từ bên hông ra. Hắn đang định uống vào thì bị cô gái ngăn cản:
“Á... Triệu huynh không được uống rượu.”
Người thanh niên với tay tìm kiếm những cô gái đã nhanh chân kéo dài khoảng cách. Người thanh niên mở miệng: “Uyển Nhi.”
Rồi hắn đứng phắc dậy: “Tại sao vậy?”
Uyển Nhi đáp: “Vì em đã hứa với chị Tuyết Mai là sẽ thay chị chăm sóc cho anh nên em phải có trách nhiệm quan tâm, lo cho sức khỏe của anh mỗi ngày.”
Người thanh niên lắc đầu: “Tôi nào có đáng chi để nhọc lòng như vậy? Nghĩ càng thêm ái ngại. Cuộc đời tôi chẳng có tương lai, vận số không may vướng lấy đau buồn.”
Uyển Nhi lập tức cướp lời: “Triệu huynh! Huynh đừng vì cha mẹ không còn mà trở nên nhụt chí. Em cũng đâu khác gì, mẹ cha đều mất cả. Chiến cuộc khiến bao gia đình tan nát.”
Người thanh niên với tay tìm kiếm xung quanh: “Vậy là kẻ khốn khổ gặp bạn không may, phải uống rượu mừng sự tao ngộ hôm nay.”
Uyển Nhi nhanh chân tránh thoát, nàng nói: “Ý... Hổng có được! Chị đã dặn rồi, anh không được uống rượu đâu.”
Người thanh niên: “Tại sao vậy?”
Uyển Nhi: “Mà anh phải kiên cường luyện võ ngày đêm, không được bi quan nghĩ đến chuyện buồn. Chị nói đôi mắt của anh sẽ tìm thầy chữa trị. Sớm muộn gì cũng bình phục.”
Người thanh niên khe khẽ lắc đầu: “Bình phục?”
Uyển Nhi vẫn nói tiếp: “Rồi anh sẽ lại sáng mắt như xưa, qua cảnh tối tăm tìm lại cuộc đời.”
Người thanh niên cười giễu: “Ha ha ha ha... Sáng mắt để làm gì khi nhìn cuộc đời gian trá? Tham phú phụ bần rồi bỏ quên câu nhân nghĩa? Đoạt lợi, tranh danh? Bất cần đạo lý?”
Uyển Nhi thở dài: “Có lẽ anh đang nhớ tới chuyện xưa nên trong lời nói anh chẳng được vui. Không những vậy, mà Triệu huynh còn chán ngán cuộc đời đầy rẫy những bất công.”
Người thanh niên than thở: “Phải! Ta chán ngán nhân tình thế thái này lắm rồi. Kẻ xấu xa, đê tiện thì mọc lên như nấm. Còn người tốt, chung tình thì bị hao mòn dần. Vậy mà... vậy mà ta đành phải bất lực!”
Uyển Nhi an ủi: “Triệu huynh!”
Vào giây phút này, từ bên trái lại đi ra một cô gái, cô gái đó là cô gái áo hồng có tên Tuyết Mai. Nàng lớn giọng nói:
“Triệu huynh! Nếu Triệu huynh nghĩ rằng chất men đắng sẽ giúp Triệu huynh bớt đi đau khổ...”
Và nàng hướng về phía Uyển Nhi, giật hồ lô rượu từ tay cô nàng, mang về nhét vào tay người thanh niên, nức nở nói:
“Đây! Triệu huynh hãy uống đi!”
Trong nháy mắt, người thanh niên dùng hai tay đưa hồ lô rượu lên miệng và nốc một hơi thật dài, chỉ để hai cô gái bên cạnh đầy kinh hoàng nhìn hắn.
Tuyết Mai thật sự nhìn không nổi nữa, nàng vội vã chạy lại giật hồ lô rượu trên tay của người thanh niên. Xoay cả cơ thể người thanh niên lại, mặt đối mặt với người thanh niên mù, đau đớn nói:
“Triệu huynh...”
Nàng sầu khổ bày tỏ lòng mình: “Nhìn anh em xót xa trong lòng, mong rằng anh sẽ mau vượt qua cơn gió giông, tìm về tương lai ta cùng nhau đắp xây cuộc đời, dù bao gian khó có nhau mình cùng chung lối. Xin chớ nặng mang lòng đau đớn vì đời quá u sầu. Ta sẽ cùng nhau vượt qua, lúc mây tan rực ánh dương hồng.”
Người thanh niên thất lạc, khuôn mặt ưu thương, chầm chậm buông lời: “Nếu như sự thủy chung của một kẻ cuồng điên si dại như tôi chỉ để cho đời phụ bạc, thì xin hãy cho tôi được làm kẻ ương hèn có cái chết để khỏi kéo dài thêm một kiếp sống bơ vơ, mà bao nhiêu khát vọng tuổi thơ đã chết lặng giữa biển sương mờ... Có phải chăng vì tôi vốn là kẻ dại khờ, mơ hạnh phúc cho kẻ mà nụ cười đã tắt, vì sâu nặng nghĩa tình nên số kiếp tối tăm? Khi tôi trở thành kẻ tật nguyền thì bị đuổi xua, người con gái năm xưa cũng ôm cầm theo thuyền khác, tôi phải sống kiếp lang thang khắp đầu đền cuối bãi, bỏ lại sau lưng tất cả thâm tình.”
“Về đâu lữ khách anh hùng? Đường xưa đã khuất, mịt mờ khói mây!” – Tuyết Mai chua xót.
Người thanh niên mù ôm đầu quỳ xuống: “Tìm đâu bóng dáng thơ ngây, tìm đâu cho gặp bóng hình người xưa. Mưa dập, gió vùi, đường hoa tan nát, làm cho tình tôi dở dang theo nhịp sóng âm thầm. Vì tôi chưa nói trọn tiếng yêu thì đã gọi cố nhân rồi. Đó là một thoáng chiêm bao mơ thấy toàn mộng đẹp, khi tỉnh giấc rồi thì thực tại chỉ là trái sầu thương. Tôi lặng lẽ quay đi, lòng chẳng chút vấn vương, ân oán năm xưa tuy xóa mờ trong tâm tưởng, nhưng tôi chán sống đơn côi như mây trời muôn hướng, mà muốn làm hạt mưa sa để trở lại cội nguồn.”
Tuyết Mai khuyên nhủ: “Nhưng những hạt mưa khi rơi xuống sông dài lại trôi ra biển cả, rồi hóa kiếp thành mây. Chỉ có những hàng cây là trọn đời thi gan cùng mưa bão.”
Người thanh niên mù ảm đạm: “Tôi muốn làm cây tùng, cây bách nhưng họ đã cướp sạch mảnh đất dưới chân tôi.”
Tuyết Mai nói: “Triệu huynh ơi dù tình đời đen bạc như vôi, dù sự điêu ngoa có xói mòn ơn nghĩa, nhưng nếu anh vẫn là người tốt thì em sẽ vì anh mà bất chấp khổ đau. Dù cho đến tận bao giờ, dù cho phải chờ phải đợi, dù cho suối cạn non mòn, lòng em vẫn nguyện giữ vẹn ân tình em đã trao, chẳng phai mờ theo tháng năm. Triệu huynh ơi, anh hãy nghe lời Tuyết Mai phân tỏ, đừng vì thế thái nhân tình mà buông xuôi đời mình theo năm tháng. Dù cho cuộc đời này lắm thử thách chông gai, anh hãy vững lòng tin đừng nản chí. Hãy để cho thời gian cuốn trôi đi quá khứ, mà tạo dựng niềm tin, lẽ sống đời mình.”
“Tạo dựng niềm tin? Liệu còn có được chăng? Hay chúng ta đang cố tìm niềm tin trong hư ảo?”
“Niềm tin đó đang chờ anh phía trước. Ngày ánh sáng quay về, anh sẽ tìm thấy tương lai.”
“Phải rồi đó Triệu huynh, dù có gian nan đến đâu, em cũng quyết đi tìm thầy chữa trị đôi mắt cho Triệu huynh.” – Uyển Nhi xen lời.
“Chắc sẽ không còn vị thần y nào có thể chữa lành cho đôi mắt của tôi đâu. Xin 2 người đừng tìm mà phải hoài công vô ích.”
Uyển Nhi kéo kéo cánh tay trái của người thanh niên mà nói: “Kìa Triệu huynh.”
“Triệu huynh, Triệu huynh đừng có tuyệt vọng. Em nghe nói ở Cổ thành có một vị lương y rất đại tài. Em sẽ tìm vị lương y đó cho Triệu huynh.” – Tuyết Mai dấy lên hi vọng.
Và cuối cùng, sau một lúc thuyết phục, người thanh niên cũng bị đánh động, bản thân hắn cũng thắp lên hi vọng, giọng nói của hắn cũng mang theo niềm vui nhỏ:
“Uyển Nhi, Tuyết Mai.”
“Triệu huynh!” – 2 cô gái đồng thanh vui mừng.
...
“Dạ mời đại công tử. Dạ mời, dạ mời. Mời đại công tử.”
Lý Khánh nhanh chân tiến tới đẩy cửa, dìu một người tuổi tầm 20 – 22 vào ngồi trên một cái bàn.
Người trẻ tuổi ăn mặc đồ thượng hạng được làm từ những thứ tơ tằm xa xỉ, đầu búi tóc trông giống nho sinh, quanh thân tỏa ra khí tràng riêng biệt mà chỉ có những tên công tử quyền quý mới có. Hắn liên tục rên khẽ và dùng tay xoa đầu, dường như đầu hắn rất đau thì phải.
“A... A...”
Lý Khánh đặt người trẻ tuổi ngồi xuống, lên tục nói:
“Dạ mời đại công tử ngồi. Mời đại công tử ngồi. Dạ mời...”
“Công nhận đại công tử quả là tài giỏi, chỉ cần một kế nhỏ nhoi thì đã tóm được bọn gian thương và kho hàng của chúng.”
“Lúc nãy ông có mời ta một chung rượu bồ đào.”
“Dạ.”
“Mà sao giờ này ta cảm thấy say sẩm và hơi mệt?”
“Dạ thưa đại công tử. Rượu bồ đào dù cho chỉ uống một chung nhỏ cũng đủ làm cho con người ta lâng lâng và khoái lạc.” – Lý Khánh thưa.
“Vậy à? Vậy sao ông không đưa ta về, mà lại đưa ta ghé vào quán này để làm gì?” – Người trẻ tuổi lại thắc mắc.
“Dạ thưa công tử, quán này có nhiều chuyện vui lắm, thưa công tử.”
Người được gọi là công tử dựa một tay vào cái bàn, ngẩng đầu nói: “Ta vì nể ông nên mới bước chân vào quán này. Chứ ta còn cần dành nhiều thời gian để tìm hiểu xem bọn gian thương câu kết với kẻ nào ở đây. Dân hay là quan? Biết đâu bọn chúng là gian tế, lén sang đây để do thám tình hình của đất nước chúng ta?”
Khuôn mặt Lý Khánh nhanh chóng biến đổi rồi quay về bình thường, hắn quay người lại nịnh nọt gã công tử:
“Dạ! Dạ chắc chắn là như vậy, đối với bọn chúng thì chúng ta cần phải trừng trị thẳng tay.”
Gã công tử giơ lên bàn tay phải, đong đưa ngón trỏ: “Vì thế ông phải cho người canh phòng cẩn mật sáu tên gian tế đó.”
“Dạ, tôi đã cho người canh phòng cẩn mật, dù cho bọn chúng có ba đầu sáu tay cũng không tài nào thoát được.” – Lý Khánh phất quạt tung hô.
“Tôi hỏi ông.” – Người trẻ tuổi lại hỏi.
“Dạ.”
“Chuyện này ông đã biết từ lâu sao ông không bẩm báo về triều? Sao không bẩm báo với quan tuần phủ? Để hôm nay chúng lộng hành như vậy?”
Khẽ lau mồ hôi đổ ra trên trán, Lý Khánh trả lời: “Dạ có đấy chứ? Tôi định bẩm báo lên trên thì quan khâm sai đã phái công tử tới đây điều tra.”
Nói đến đó, Lý Khánh nôn nóng đập nhẹ cây quạt vào lòng bàn tay: “Tình ngay mà lý gian.”
Rồi quay mặt hướng về nhà trong của quán rượu mà gọi to:
“Chủ quán đâu.”
“Dạ.” – Một tiếng đáp lại từ bên trong vọng ra.
Người trẻ tuổi vội nói: “Khoan đã! Ta không muốn ông bày một bữa tiệc rượu linh đình mà chỉ muốn một bữa cơm đạm bạc là được rồi.”
Lý Khánh nhanh nhảu: “Dạ đâu có được, đại công tử không thể nào dùng đạm bạc được.”
Rồi lại quay mặt vào nhà trong của quán mà quát lớn:
“Chủ quán!”
“Dạ!”
“Cho mâm rượu thịt.”
“Dạ có ngay.”
Người trẻ tuổi dùng tay chống đỡ cái đầu trong bộ dáng đầy mệt mỏi, còn gã Lý Khánh thì không ngừng dùng quạt quạt cho người trẻ tuổi.
Một lúc sau, Tuyết Mai mang theo mâm rượu thịt đi ra.
“Dạ, dạ xin chào quý khách. Dạ mời quý khách dùng rượu trước đã.”
Nhìn thấy Tuyết Mai bước ra, Lý Khánh chẹp miệng một cái, tuy trong lòng muốn đưa nàng lên giường mà dằn vặt cho thỏa thú tính, nhưng gã ta lại né sang bên khác.
Khi Tuyết Mai đặt thức ăn lên bàn, người trẻ tuổi ngẩng đầu lên. Vừa nhìn thấy khuôn mặt tuyệt đẹp của Tuyết Mai, người trẻ tuổi giật mình. Vốn có rượu trong người, hắn không áp chế được lửa nóng, tà hỏa nhộn nhạo dâng lên. Khẽ “chậc” một tiếng, người trẻ tuổi nhìn về ngực của Tuyết Mai rồi liếc xuống eo và mông nàng, không ngừng nuốt nước miếng.
Song vì được giáo dục từ nhỏ, người trẻ tuổi kiềm chế lại dục vọng, dùng đôi mắt sáng rực nhìn về Tuyết Mai mà chào hỏi: “Cô nương đây là?”
Lý Khánh ở phía sau quan sát tình cảnh này, khóe môi nhếch lên, gã trả lời ngay tức thì: “Dạ, dạ đây là cô chủ quán rượu này, nàng tên là Tuyết Mai.”
Trong khi Tuyết Mai rót một ly rượu đưa cho vị công tử, Lý Khánh tiếp tục chỉ vào người trẻ tuổi mà giới thiệu: “Còn đây là đại công tử con của quan khâm sai. Hôm nay công tử đến đây là để thăm Lý Khánh tôi.”
“Dạ chào công tử.” – Tuyết Mai khom người hành lễ.
Người trẻ tuổi cũng khẽ cúi người đáp lễ. Có thể thấy được người trẻ tuổi cũng không phải kẻ vì có chút quyền lực mà khinh mạt người khác, mà cũng có thể là vì muốn lấy điểm tốt trong mắt người đẹp.
Ngay từ đầu nhìn thấy Tuyết Mai, người trẻ tuổi nhìn chằm chằm vào. Vào lúc này Tuyết Mai nhận ra điều đó nên vội vàng đi qua chỗ khác lảng tránh. Nàng có chút sợ rồi.
Đúng thời điểm này, Lý Khánh tiến lại, kề môi vào tai vị công tử mà nói: “A… Chẳng hay công tử có muốn mời cô nương này một vài ly rượu để thắp chặt thâm tình giữa người quan với người dân thôn giã không ạ?”
Hai chữ thâm tình gã cắn mạnh từng chữ một.
Người trẻ tuổi hướng về phía Tuyết Mai mà cười nhẹ: “Ha ha ha ha… Chẳng hay cô nương có…”
Tuyết Mai vội vàng cắt đứt: “Dạ xin lỗi công tử, tôi không có biết uống rượu.”
“Không biết uống rượu? Vậy sao nàng mở quán?”
“Tại vì tôi muốn đem lời ca tiếng hát và niềm vui đến cho tất cả mọi người.”
“A… Ha ha ha… Thích đem niềm vui đến cho mọi người à?” – Vị công tử mỉm cười, vẻ ngoài bình dị dễ gần nhưng trong lòng buồn bực không thôi. Hắn là con quan khâm sai, tuy rằng không thể giữa ban ngày ban mặt làm chuyện ti tiện, nhưng làm mà không ai biết thì hắn cũng đã làm nhiều rồi.
Tuyết Mai đáp: “Dạ!”
Thấy tình cảnh đi chệch với mưu đồ của mình, Lý Khánh nhanh chóng kéo lại: “Dạ thưa công tử, chẳng những cô gái này xinh đẹp mà giọng hát lại càng hay.”
Người trẻ tuổi gật đầu, Lý Khánh liền lớn tiếng nói với Tuyết Mai: “Nè, công tử ta là người rất yêu thơ nhạc, chẳng hay nàng có nể tình ta mà hát cho công tử nghe một bài có được không?”
Mặc dù ghét cay ghét đắng Lý Khánh, nhưng Tuyết Mai vẫn cung kính đáp lời: “Dạ, vâng ạ.”
Nàng quay mặt vào nhà trong, gọi: “Uyển Nhi ơi!”
Đã chuẩn bị sẵn từ trước, Uyển Nhi cầm hai cây đàn tỳ bà bước ra: “Dạ.”
Uyển Nhi đưa một cây đàn tỳ bà cho Tuyết Mai, Tuyết Mai nhận lấy, rồi hay cô gái ngồi lên vị trí vẫn thường ngồi hát, và bắt đầu khúc ca.
“Tình tính tang tình tính tinh tang... Tình tính tang tình tính tinh tinh... Tinh tính tang tinh tình tang tang...”
“Dưới trăng đèn hoa rực rỡ... ơ... ơ...
Sáng soi êm dịu sắc vàng lung linh
Khắp nơi đào mai đua nở... ơ... ơ...
Dưới ao cá lội bơi đùa tung tăng... ớ ơ...”
“Trên cầu dạo bước mông lung... ớ ơ...
Ngắm xem đêm hỏi hoa đèn ngất ngây... í i...
Não lòng lữ khách đường xa... há ha...
Dừng chân ghé lại nghe vài khúc ca... há ha...”
“Chốn nhân gian bồng lai đâu khác
Nâng tay lướt nhẹ phím đàn... á a...
Cho người tri âm dừng chân ghé lại
Cùng hòa lên khúc nhạc du dương...”
“Tình tính tang tình tính tinh tang...”
Nghe xong bài hát, người trẻ tuổi đứng dậy, cảm thán: “Nơi đây có cảnh cổ tình.”
Và lấy tốc độ nhanh như cắt vươn tay phải vuốt lên khuôn mặt của Tuyết Mai: “Cô chủ quán rất xinh đẹp.”
Bị tập kích bất ngờ, Tuyết Mai không kịp tránh, nàng vội vã lấy bàn tay đẩy ra bàn tay của người trẻ tuổi, bối rối nói: “Ơ kìa công tử.”
Và nhanh chóng lùi về phía sau.
Người trẻ tuổi cảm nhận được dư âm mềm mại trên tay, hắn đem những ngón tay vừa vuốt mặt cô gái, sờ đi sờ lại, bật cười: “Ha ha ha ha…”
Thời điểm này Uyển Nhi đã cầm hai cây đàn đi vào,chỉ còn mỗi Tuyết Mai ở ngoài, người trẻ tuổi tiếp tục nói: “Tuyết Mai ơi, nàng đẹp lắm.”
Trong lòng thì thì thầm: “Còn mịn màng nữa. Trông nàng ngon nước ngọt canh.”
Cũng đồng thời đấu tranh tư tưởng: “Bỏ đi thì phí!”
Khi này đây, dục vọng bị ép xuống của hắn lại bùng lên dữ dội, khuôn mặt vốn hồng hào vì rượu của hắn trở nên đỏ bừng, hắn thở hổn hển như trâu đực vào mùa giao phối.
Thấy tình huống này, Lý Khánh nhanh chân nhảy vào nhà trong bịt miệng và kéo Uyển Nhi ra phía sau nhà. Còn chuyện kia? Hắn đã chuẩn bị xong từ lâu.
Ngươi trẻ tuổi dang rộng đôi tay, nhào lại ôm Tuyết Mai mà cười: “Ha ha ha ha… Tuyết Mai ơi, nàng đẹp lắm, đẹp hơn tất cả các cô gái mà ta đã từng gặp. Và ta phải thú thật với nàng là ta rất thích nàng.”
Tuyết Mai né qua, đầy sợ hãi nhìn hắn. Nàng định chạy vào nhà trong như lại bị gã công tử cản lại, định chạy ra ngoài như lại bị gã công tư chặn lại.
Người trẻ tuổi dừng lại, dùng tay trái chỉ vào tim mình và nói: “Nàng chính là ngọn sóng ba đào nhấn chìm hồn ta vào nơi sâu thẳm. Khi được nghe giọng hát của Tuyết Mai, ta ngất ngây, hồn nhiên bay bổng theo tiếng đàn, tiếng hát… A… Tưởng như ta vừa lạc bước tiên cung, còn nàng đây chính là chị Hằng.”
Dù sợ hãi, Tuyết Mai cũng chỉ có thể trả lời: “Công tử khen quá lời, tôi nào dám sánh với Hằng Nga. Có xá chi một cành hoa dại, mà công tử phải cợt trêu, xin công tử hãy giữ mình.”
Thoáng loạng choạng, gã công tử cười nói: “Không! Ta nào có cợt trêu, mà ta đã ngất ngây lòng trước một vẻ yêu kiều, thướt tha. Ha ha ha ha…”
“Công tử… A, công tử đã say rồi, công tử hãy về đi, hôm khác lại đến đây đối ẩm.” – Tuyết Mai nhanh trí nói.
“Ha ha ha ha… Tuyết Mai, nàng đừng xua đuổi ta. Hãy đến đây với ta! Ha ha ha ha…”
Nói xong, người trẻ tuổi nhào tới, dùng hai cánh tay to khỏe giữ chặt hai tay của Tuyết Mai, không ngừng kéo vào trong lòng. Tuyết Mai cố gắng giãy giụa tránh thoát. Hai người lâm vào giằng co. Trong lúc giằng co, Tuyết Mai không ngừng van xin.
- Công tử, công tử à, buông tôi ra! Buông tôi ra!
- Ha ha ha ha…
Rất nhanh tình huống nghiêng về một bên. Và rồi cái gì đến cũng đến.
…
Rất lâu về sau.
Lý Khánh từ bên ngoài gọi với vào: “Đại công tử, đại công tử ơi đại công tử.”
Ở bên trong, Tuyết Mai ôm lấy quần áo đã bị xé rách, khóc nức nở mà chạy vào bên trong. Còn vị công tử thì nhanh chóng mặc quần áo. Nơi quán rượu chỉ còn lại từng tia máu nhỏ li ti cùng với những mảnh vụn của quần áo.
Tên công tử hắng giọng: “Chuyện gì?”
Nhìn thấy bộ dạng Tuyết Mai hở trước hở sau chạy vào nhà trong, thoáng nhìn một chốc, Lý Khánh nhanh miệng nói: “Trời! Nguy rồi đại công tử. Nguy rồi!”
Khi người công tử vẫn còn chút men say và mệt mỏi lắc lư, Lý Khánh la lớn: “Bọn gian thương và kho hàng đã biến mất.”
“Cái gì?” – Đầu có vẫn còn mông lung, người trẻ tuổi nghi ngờ hỏi.
Lý Khánh gõ quạt một cái “bộp” lên lòng bàn tay trái, đầy sầu lo nói: “Bọn gian thương và kho hàng đã biến mất rồi!”
Như bị dội một gáo nước lạnh, người công tử trở nên tỉnh táo trong nháy mắt, hắn dùng hai tay nắm chặt cổ áo của Lý Khánh mà gào lên: “Sao? Ông nói sao? Ông nói với tôi là canh phòng cẩn mật mà bây giờ kho hàng mất là sao?”
“Tôi làm sao biết tại sao?” – Lý Khánh run rẩy.
“Đại công tử, chuyện này mà đến trong tai của quan khâm sai, ấy thì… cả cái mạng của đại công tử và cái mạng của tôi cũng khó bảo toàn.” – Lý Khánh tiến về phía vị công tử, đầy sợ hãi nói ra.
Trong khi người công tử còn đắn đo và lo lắng, Lý Khánh tiếp tục nói: “Đại công tử, hay đại công tử quay về và coi như…chưa từng có chuyện gì xảy ra hết.”
Người trẻ tuổi đưa tay lên, nắm chặt nắm đấm, giơ lên tới trước mặt Lý Khánh, rồi lại dừng lại.
Lý Khánh vẫnvới bộ dáng sợ chết cực độ nói: “Dạ, dạ thưa đại công tử, âu cũng như cái việc của đại công tử và tiểu thư…”
“Lý Khánh, ngươi!” – Người trẻ tuổi quát lớn.
Lý Khánh liên tục khom người: “Thưa đại công tử, không còn cách nào đâu!”
Rồi hắn đưa tay ra dấu tiễn khách: “Dạ mời đại công tử.”
Người công tử tức giận nhìn Lý Khánh, bỏ lại một tiếng “hừ” rồi bước nhanh ra ngoài. Trong chốc lát, biến mất giữa rừng cây.
Phía sau mà câu nói to rõ của Lý Khánh: “Bỏ qua nha đại công tử!”