Một tiếng rưỡi trôi qua, mọi người đã nhận ra họ sắp đến chỗ có nhiều người ở. Bằng cách quan sát những dấu vết để lại trên đường, người ta biết đó là dấu chân voi, trâu và ngựa.
Con đường này dẫn đến một cái rào chắn vừa làm cổng vừa dựa trên một cây cầu. Qua những thanh rào chắn, mọi người có thể thấy bóng dáng của nhiều mái nhà hai bên đường dẫn đến một căn nhà xây giống như nhà lãnh chúa trong một thành phố thu nhỏ. Điều gây ra tiếng ồn của bầy chó là René đã rút chiếc tù và đi sàn ra, ngồi trên kiệu và thổi điệu trở về giống như một người đi săn thực thụ.
Ngài James rùng mình. Từ khi xa nước Anh, chưa khi nào anh ta được nghe liệu lệnh mạnh mẽ như thế.
Không chỉ lũ chó chưa nghe tiếng động ấy bao giờ mà cả những dân cư ở đó, trừ những người từ nơi khác đến cũng không hiểu được khí nhạc gì vừa khuấy động màn đêm yên tĩnh, khuấy động không chỉ thói quen gầm rú của ác thú mà còn khiến lũ chó chạy khỏi chuồng khi mà chúng được tự do tháo khỏi xích trong lúc chủ chúng ăn tối tập trung vào thời điểm kết thúc một ngày.
Ngôi nhà như giật mình tỉnh giấc. Những cánh cửa mở ra, kêu kèn kẹt; một tá gia nhân đủ gốc gác: da đen, người Indu, người Trung Quốc xuất hiện, trong tay ai cũng cầm một cầy đuốc tẩm nhựa cây.
Một ông già tiến lên. Qua ánh sáng từ cây đuốc ông cầm trên tay, người ta có thể nhận ra đó là một ông lão khoảng 68 đến 70 tuổi ông ta có mái tóc bạc dài, chòm râu cũng bạc và có lẽ từ khi đến Ấn Độ, chúng chưa phải chạm đến kéo hay bàn cạo lần nào.
Đôi mắt to đen còn lanh lợi nấp dưới cặp lòng mày điểm bạc và rậm; dáng ông thẳng, đầu gối săn chắc. Ông dừng lại cách cửa mươi bước.
- Xin chào những người lạ muốn đến xin trú nhờ - ông ta nói - Nhưng trước khi mở cửa ngôi nhà không phải của tôi, xin được hỏi các vị là ai.
- Lẽ ra sẽ là cha tôi trả lời câu hỏi ấy của bác - Hélène đáp - Cầu chúa ban phước cho bác, bác Rémi Guillaume và cả gia đình bác.
- Ôi lạy Chúa! - ông già thốt lên - Có phải là các cô chủ trẻ mà tôi chưa từng được gặp đấy không? Tôi cứ sợ không được gặp các cô trước lúc nhắm mắt.
- Vâng, chúng tôi đây - Cả hai chị em đồng thanh nói.
Rồi Hélène nói tiếp:
- Bác hãy mở cửa nhanh lên. Chúng tôi quá mệt mỏi sau ba ngày dài trên đường. Chúng tôi mang đến những vị khách, họ còn mệt mỏi hơn chúng tôi nhiều.
Ông già chạy lại phía cổng kêu to.
- Lại đây giúp cha, Jules! Lại đây giúp cha, Bernard! Chúng ta hãy nhanh tay mở cửa cho các vị chủ nhân đáng kính của chúng ta.
Hai thanh niên trạc hai mươi hai đến hai mươi bốn tuổi, rất lực lưỡng chạy vội về phía cổng trong khi ông già tiếp tục kêu to:
- Adda, đi bảo Thứ sáu đốt cái lò lên, bảo Domigo cắt tiết những con gia cầm lớn nhất. Con cầm móc chưa, Bernard? Con xong chưa, Jules?
- Ồ! Bố cứ yên tâm - Hai chàng trai đáp - Chúng con xong rồi đây.
Hai chàng trai nhảy xuống ngựa đỡ Hélène và Jane xuống voi.
- Lạy chúa Jésus! - Rémi thốt lên khi nhìn thấy hai thiếu nữ - Những đứa trẻ mới xinh đẹp làm sao! Tên các cô là gì, hỡi những thiên thần đáng yêu của Chúa?
- Jane và Hélène xưng tên.
- Tiểu thư Hélène - ông già nòi - Cô thật giống ngài tử tước, cha mình, còn tiểu thư Jane, cô lại mang dáng vẻ của mẹ! Ôi những ông bà chủ kính mến - ông già nói tiếp với cái cúi đầu giấu đi giọt nước mắt trên mi - Tôi sẽ không bao giờ gặp các vị nữa! Tôi không bao giờ gặp lại các vị nữa rồi? Tôi không gặp các vị nữa? Nhưng mọi việc vẫn phải tiếp tục. Một ngày nọ, một người đưa tin ở Pégou mang đến một lá thư của cha các cô, những đứa trẻ yêu quý của tôi ạ? Cha các cô thông báo ông cùng các cô sắp đến. Trên thư có ghi "100 phăng cho người mang thư đến" và tôi đã đưa cho anh ta 200 phăng, 100 phăng của cha cô và 100 phăng nữa là tiền của tôi vì tôi hài lòng biết bao trước tin vui mà anh ta mang tới. Các cô sẽ thấy phòng của mình được chuẩn bị từ gần sáu tháng qua. Khi chưa có ai, những căn phòng đó trở nên trống vắng và trái tim tôi cũng trống rỗng. Lạy Chúa phù hộ! Các cô đây rồi, khoảng trống đã được lấp đầy rồi.
Ông già ngả mũ ra tay, dẫn đầu đoàn người đi về phía ngôi nhà lớn có những cánh cửa sổ vừa mở rộng. Mọi người vào một phòng ăn rộng được lót bằng gỗ mun và một loại gỗ keo vân vàng. Những tấm chiếu tinh xảo được dệt từ tay những phụ nữ da đen trong nhà trải trên sàn nhà. Một chiếc bàn kê sẵn đã phủ khăn trải bàn và khăn ăn dệt từ sợi cây lô hội. Đồ ăn bằng sứ màu sắc sặc sỡ mua ở đất Xiêm sáng lấp lánh trên bàn. Thìa và dĩa làm bằng gỗ cứng thay cho đô kim loại. Những con dao ăn kiểu Anh mua ở Calcutta hoàn tất cho bộ đồ ăn ấy. Phải có lòng kiên nhẫn cộng với niềm đam mê mới tập hợp được những đồ vật khác nhau ở cái nơi thâm sơn cùng cốc này.
Phần đồ đạc còn lại trong nhà như giường, tủ, gương, đồ phủ tường đều sản xuất từ Anh và mua ở Calcutta. Họ sang Ấn Độ và qua sông Hằng bằng thuyền để mang những thứ vật dụng cần thiết thậm chí là xa xỉ về ngôi nhà lớn ấy.
Ông Rémi Guillaumelàm nghề thợ mộc. Bác cho các con mình mỗi đứa học một nghề. Một người cũng làm nghề mộc, một người làm nghề sắt còn cậu con trưởng làm nghề nông. Cậu con trai cuối cùng mà chúng ta chưa gặp có tên là Justin. Cậu này đang đi rình hổ: một con trâu của cậu đã bị một con hổ tha đi mất nhưng chưa kịp ăn. Cậu đang đi rình gần chỗ thịt còn lại của con trâu. Là một nông dân đồng thời cũng là một thợ săn, cậu là người cung cấp thực phẩm trong nhà. Trong trường hợp cần thiết, cả ba người con trai ấy nếu không là thợ săn cũng là lính phòng vệ nên họ bắn rất giỏi.
Từ khi nhận được lá thư thông báo cho ông Rémi biết tử tước và hai con gái sắp đến, chiếc bàn đã được kê và để nguyên như vậy phòng khi đoàn người có thể về bất cứ ngày hay đêm. Ngày nào người ta cũng cho lau đồ thủy tinh và đồ sứ.
Adda đưa hai cô gái về phòng của họ. Hai cô đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Các cô nghĩ sẽ thấy vài mái nhà tranh tre vách đất hay mấy túp mái rạ nhưng ngược lại, họ lại thấy một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi cần thiết.
Hai con trai của ông Rémi là Jules và Bernard đưa hai chàng trai trẻ về phòng của họ. Jules đã từng đi học ở Calcutta và biết nói tiếng Anh, được đặc cách chăm sóc bên thiếu uý. Còn Bernard chỉ biết tiếng Pháp, vài đặc ngữ Sumatra và bán đảo Mã Lai nên phục vụ René.
Cũng cần nói thêm rằng những từ như "chăm sóc" hay "phục vụ" ở đấy không mang hàm ý giống như hầu hạ. Trong những thanh niên có nhận thức về giá trị của họ này, có đôi chút lòng tự trọng bẩm sinh khiến họ mang dáng vẻ lịch sự với khách hơn là kiểu cách của gia đình. Ngay từ tối đầu tiên René và Bernard đã trở nên thân thiện. Chàng trai người Anh kia hơi kiêu căng một chút nên phải ít lâu mới hoà hợp với Jules.
Khoảng nửa tiếng sau, người ta thông báo cho những người mới đến bữa tối đã chuẩn bị xong.
Những người mới đến vào phòng ăn và nhận ra chỉ có bốn bộ đồ ăn được bày ra. Ông già hai con trai và cô con gái của ông đứng sát tường.
- Adda này - Hélène dịu dàng nói - Trừ anh trai cô đang đi săn, chúng ta còn thiếu bốn bộ đồ ăn nữa trên bàn.
Cô bé ngạc nhiên nhìn Hélène đáp:
- Thưa tiểu thư, tôi không hiểu.
- Một bộ cho cha cô - Hélène nói gần như ra lệnh - Đặt giữa bộ đồ ăn của tôi và em gái tôi, một bộ đặt giữa hai quý ông đây, một bên phải tôi và một bên trái em Jane cho hai anh trai có mặt của cô và bộ thứ năm cho người anh vắng mặt. Tôi chắc chắn rằng ngài René sẽ không phản đối khi để người bạn François cùng ăn với mình. Hôm nay, François đã giết chết một con hổ mà không hề sợ hãi, anh ấy xứng đáng tự hào như một tay thợ săn lão luyện. Theo ý tôi, một người đã giết được một con hổ đáng được ngồi vào mọi loại bàn, thậm chí là bàn của một bậc đế vương.
- Nhưng thưa tiểu thư, - ông già tiến lên nói - tại sao tiểu thư muốn xoá khoảng cách vẫn có giữa kẻ hầu và chủ nhân thế này? Cô muốn nói gì thì nói, chúng tôi sẽ không tuân lệnh đâu.
- Hỡi các bạn của tôi - Hélène nói - Giữa chúng ta làm gì có ai là chủ ai là đày tớ. Ít nhất cha tôi đã nhắc hai mươi lần như vậy. Khi chúng tôi đến trú nhờ ở chỗ bác, bác đã sẵn sàng đón tiếp. Chúng tôi không có ý định thay đổi giờ giấc hay thói quen của bác, nhưng tối nay hãy dành cho chúng tôi niềm vinh hạnh được ăn tối cùng mọi người.
- Vì tiểu thư đã nói như vậy, Adda, chúng ta vâng lệnh thôi - Rémi nói.
Rồi ông gõ một cái trống dùng để gọi người hầu: bốn người da đen xuất hiện.
- Tiểu thư hãy ra lệnh đi - ông Rémi nói với Hélène.
Hélène sai mang năm bộ đồ ăn và chỉ từng chỗ phải đặt chúng. Hai chị em Hélène dịch ghế để ông già ngồi vào giữa họ, hai con trai ông cũng lần lượt ngồi bên phải Hélène và bên trái Jane. Hai chàng trai cũng ngồi dịch ra, René lịch sự như một chàng trai Pháp thực thụ nhường ghế cho Adda.
Cuối cùng, họ cho gọi François. Sau vài câu từ chối cho phải phép, anh chàng này không chối nữa, can đảm ngồi vào chỗ dành cho người đi vắng.
Từ đó, người ta chuyển sang chú ý đến Adda vì sắc đẹp của cô chính hai chị em gái người Pháp cũng phải ngưỡng mộ.
Adda đẹp như thần vệ nữ người Indu với đôi mắt to đen láy, nước da bánh mật, mái tóc lượn sóng và đen như lông một con quạ đôi môi đỏ như màu đỏ của trái sơ-ri, hàm răng đều đẹp như ngọc, cánh tay và bàn tay đáng làm mẫu để tạc tượng. Cô mặc một bộ san bằng vải miền Belgale với những nếp gấp nhẹ nhàng khác xa với nếp giả tạo của các bộ váy châu Âu. Chiếc váy áo ấy như các nhà điêu khắc hay khoác lên những bức tượng cẩm thạch của họ. Trong cô có sự duyên dáng không chỉ thuộc về phụ nữ mà của cả thú hoang nữa. Ở cô vừa có cái vẻ của con thiên nga lại đượm chút dáng vẻ của con linh dương, kèm với nó là một dòng máu và tinh thần hoàn toàn Pháp. Tuy vậy chẳng có ai có ý định khen ngợi vẻ đẹp của Adda. Người ta chỉ ngắm nhìn cô vậy thôi.
Bốn người đày tớ da đen vừa dọn đi món thứ nhất thì những tiếng chó sủa rộ lên báo hiệu có người. Tất cả đều dừng lại.
Mọi người không cần để ý - ông Rémi nói - đó là Justin về đấy.
Tiếng chó sủa càng mạnh hơn. Hai em trai họ gật đầu với nhau.
- Cậu ấy đã giết chết con hổ à? - René hỏi.
- Đúng vậy - ông Rémi trả lời - Nó mang da con hổ về nên lũ chó mới sủa hăng đến thế.
Đúng lúc ấy, cửa phòng ăn mở ra, người anh cả trong số ba anh em trai, một thanh niên đẹp trai, vóc dáng như lực sĩ Héc-quyn, tóc và râu màu vàng xuất hiện trước ngưỡng cửa với chiếc áo choàng, một kiểu trang phục người Gô-Loa cổ dài đến đầu gối, ngang lưng thắt chiếc đai. Với tấm da hổ vắt ngang vai, nhìn anh ta giống quân giữ cờ thời cổ đại do Le Brun vẽ.
Sự xuất hiện thật lạ lùng và bất ngờ. Cảnh tượng ấy càng thêm hoang dã khi trên trán anh ta còn những giọt máu của con vật khiến ai cũng đứng dậy.
Còn anh chàng ấy chào mọi người từ ngoài cửa rồi tiến thẳng đến chỗ Hélène quỳ một gối xuống và nói với cô:
- Thưa tiểu thư hãy ưng thuận đặt tấm thảm này dưới chân của mình, tôi mong nó xứng đáng với tiểu thư.
Vào năm 1780, tức là trước thời điểm đang nói đến 25 năm, tử tước Sainte-Hermine, thuyền trưởng tàu "Chiến thắng" đã được giao một nhiệm vụ đặc biệt giúp vua Pégou, người vừa giành được độc lập khỏi đế chế Ava. Mục đích của nhiệm vụ này là nhận trong vịnh Belgale, trên bờ biển phía tây của nhà nước quân chủ mới, bảy hay tám dặm đất giữa sông Métra và biển để xây dựng ở đây thành một vùng thuộc địa Pháp.
Vua Louis XVI đưa ra lời đề nghị này đổi lại sẽ cung cấp vũ khí, tiền bạc, thậm chí các kỹ sư Pháp để giúp nhà nước quân chủ mới này củng cố lực lượng.
Vua mới nắm quyền có hiệu là Mendéragée-Praune. Là một người thông minh, ông ta chấp nhận cắt đất đổi lấy một số tài sản trên, đồng thời muốn chứng tỏ lòng tận tụy của mình cho nước Pháp và dành sự mến mộ cho tử tước, đức vua cho ông chọn trong số phần đất đai rộng lớn chưa có dân cư sinh sống, một mảnh đất để xây dựng một khu buôn bán.
Tử tước Sainte-Hermine có một thợ mộc rất thông minh trên con tàu Chiến thắng, ông ta là con trai của người đầy tớ của cha ông.
Người thợ mộc ấy tên là Rémi. Có một cuốn sách ông đọc suốt đó là Robinson Crusoé. Ảnh hưởng của cuốn sách ấy mạnh đến nỗi mỗi khi họ ghé vào một hòn đảo hoang là Rémi lại xin tử tước Sainte-Hermine cho phép ông ta lên bờ mang súng hoả mai và thuốc súng rồi đi thám thính.
Tử tước Sainte-Hermine không hề có tài sản riêng, ông hiểu mảnh đất người ta tặng mình quý giá như thế nào nên đã quyết định nhận lời và đi một vòng tìm hiểu xem nên chọn chỗ nào cho thích hợp. Đây cũng là ý nguyện thoả tham vọng của Rémi.
Có lẽ họ cũng đã đi theo con đường tương tự chúng ta vừa thấy hai cô gái của tử tước mà một trong số hai cô có lẽ chưa ra đời hồi tử tước đi thăm dò, đã đi và họ đã đến mảnh đất mà vào năm 1805, nó có cái tên Đất Trầu.
Địa thế nơi đây rất đẹp. Tử tước đã đánh giá hết những lợi thế của nó. Qua dòng sông Pégou, họ có thể đi sang Rangoon và Xiêm, qua dòng Sittang đến đảo Mergui, qua dòng Tabaluayn có thể đến Maltaban và tất cả bờ biển phía tây Xiêm. Mảnh đất này có lẽ được thiên nhiên ưu đãi lắm. Đó là một bán đảo hầu như được các hợp nhánh sông bao quanh. Đất này cũng từng được trồng thử một thứ cây nông nghiệp mà ở Ấn Độ vốn không mọc tự nhiên, đó là cây trầu. Ở đây, với những hạt cũ rụng, chỗ nào cũng thấy chúng mọc xanh tốt.
Tử tước Sainte-Hermine đã chọn chỗ đất này. Bán đảo ấy phải dài hai dặm, rộng một nửa hoặc một phần tư dặm. Tử tước vẽ một sơ đồ rất chính xác rồi nói với vua Pégou rằng nếu ông ta thật sự muốn thực hiện lời đã nói thì hãy hoàn thành tâm nguyện của tử tước theo bản vẽ ấy.
Tấm sơ đồ chiếm vị trí quá nhỏ trên giấy cũng như trên lãnh thổ đất nước nên nhà vua đồng ý ngay. Nhà vua triện giấy chuyển quyền sở hữu cho tử tước mảnh đất rộng ba dặm của mình.
Rémi đã theo sát cuộc thương lượng ấy với niềm thèm muốn cực độ. Khi giấy tờ được ký, tử tước gọi ông ta đến nhìn thẳng vào ông và nói:
- Này Rémi, tôi hy vọng bây giờ thì anh được hạnh phúc!
- Tôi vui sướng làm sao khi chỗ tài sản ấy đã đến tay ngài, thưa chỉ huy - Rémi đáp.
- Nhưng lúc này thì chỗ tài sản ấy chưa về tay tôi đâu.
- Sao lại như vậy?
Nói rồi Rémi bắt đầu hiểu, mặt đỏ bừng và người run lên.
- Ôi lạy Chúa? Thưa chỉ huy, sao có thể thế được? - ông ta kêu lên.
- Lạy Chúa, đúng thế, cậu sẽ chủ duy nhất của mảnh đất rộng lớn này vì cậu sẽ là đại diện của tôi. Tôi không thể nói trước khi nào mình sẽ trở lại hay liệu có trở lại đây không. Nếu tôi không đến đây, mảnh đất này sẽ không thuộc quyền con tôi, nó thuộc tất về cậu. Nếu tôi trở lại hay con tôi đến đây, chúng ta sẽ chia đôi lợi tức trước đó và lợi tức về sau. Tôi để lại cho cậu 5000 phăng, hai khẩu súng, ba thùng thuốc súng, ba trăm livre chì và tất cả đồ đạc của cậu. Cậu muốn mấy nô lệ, một, hai, hay bốn tôi sẽ để lại.
- Tôi không muốn ai cả - Rémi đáp - nhưng ngài cũng biết là dù bất cứ lúc nào ngài trở lại đây, không phải một phần tư hay một nửa thuộc về ngài mà toàn bộ là của ngài.
- Được rồi! - Tử tước nói - Chuyện đó sẽ tính sau.
Rồi ông bắt tay Rémi, để ông lại giữa lại cánh đồng nơi người thợ mộc định bụng sẽ chặt gỗ làm nhà. Khoảng 10 giờ sáng là lúc Rémi còn lại một mình trước Chúa, đối diện với thiên nhiên trù phú và đầy khắc nghiệt này. Ông nhìn quanh, cao ngạo tự nhủ: "Mình là vua của tất cả những thứ này!". Như thể đáp lại lời ông, một tiếng gầm vang dậy. Đó là tiếng con hổ muốn nói: "Được thôi, nếu ngươi là vua, ta sẽ là ông chủ xứ này".
Khi sở hữu đế chế mới của mình, Rémi đã lường trước những khó khăn như thế nên ông không sợ hãi lắm. Ông chọn một cành cây rà sát mặt đất và trước khi đêm xuống ông đã dựng quanh thân cây ấy một dạng như túp lều có thể tránh được những đợt tấn công đầu tiên của các loài ác thú. Dẫu sao ông vẫn dành một lỗ hổng phía trên cho phép mình có thể trèo lên cành cây cao hơn; trèo những cành cao, ông treo hai tấm ván rồi cài bẫy, gần đó ông đặt những khẩu súng đã nạp đạn dằn. Sau đó, ông cất chỗ thực phẩm mà tử tước đã để lại cho mình.
Rémi đang vô cùng sung sướng, đây là lần đầu ông được làm chủ chính mình. Giống như hoàng đế Auguste, ông cứ ngỡ mình đang làm chủ cả vũ trụ. Rémi đã quên bẵng tiếng gầm buổi sáng. Có cái gì động đậy cách chỗ ông sáu chục bước làm ông nhớ lại nó. Lập tức, vừa tiếp tục ăn, ánh mắt ông không rời đám cỏ lớn đang xao động.
Đó là một con báo không có may mắn được ăn trưa như ông, nó đang đi kiếm bữa trưa. Rémi không quen lắm với thói của loài thú này nên cứ yên tâm đứng ở cành đầu tiên còn tay bám vào cành thứ ba, mãi sau ông mới leo lên cao hơn. Khi đã đến chiếc ghế của mình, tức là cách mặt đất gần 25 bước thì ông ngồi lại yên tâm trong pháo đài kiên cố của mình.
Con báo đã đánh hơi thấy ông. Nó tiến lên, bụng trườn sát đất như một con mèo và giống một con mèo đang rình một chú chim. Cách cái cây khoảng hai chục bước, con báo lấy đà rồi nhảy phắt lên cây dưới Rémi chỉ hai mét.
Rémi dắt sẵn một cái rìu thợ mộc ở thắt lưng. Ông tận dụng lúc con báo đang với chân để bám vào thân cây. Ông chém mạnh và khéo léo lưỡi rìu cắt đứt một chân khiến cái chân rơi từ cành này sang cành khác rồi rơi xuống đất.
Con báo gầm rú vì đau đớn và tức giận, nó tiếp tục choài cái chân thứ hai, Rémi lại chém nhát nữa, không kém phần mạnh và khéo léo như lần đầu, gửi cái chân thứ hai xuống nằm cạnh cái chân thứ nhất.
Con báo lại gầm lên lần nữa và trong lúc mất thăng bằng, nó rơi bịch xuống mặt đất cách đó hai mươi bộ.
Ồng Rémi cầm một trong năm khẩu súng của mình, không chờ cho con báo kịp chồm dậy sau cú ngã, ông bắn vỡ sọ nó. Sau đó ông nhảy xuống, dùng dao găm lột da treo lên một cái cây, đóng hai chân nó vào cửa như ông từng thấy những cái chân sói treo ở cửa rồi lại tiếp tục bữa ăn trưa của mình, bụng bảo dạ:
- Người ta cứ thổi phồng mọi chuyện bí hiểm. Khi chỉ đứng nhìn từ xa, còn khi lại gần thì đâu có chuyện gì?
Những con báo khác không dám bén mảng đến gần cái lều nữa. Chính lẽ đó mà cái lều dần dần được thay đổi hình dạng. Ban đầu nó chỉ là một đống bởi những cành cây cài buộc lại, những gần một tháng sau đã trở thành một pháo đài nhỏ kiên cố với những thân cây đẽo vuông khớp mộng với nhau. Một lớp ván xà rầm chắc chắn tạo thành cái kho có thể trèo lên bằng thang. Sáu tấm ván khớp với nhau tạo thành một chiếc giường dã chiến và một cái bàn có bốn chân chắc chắn.
Một buổi sáng, Rémi thấy một đoàn ngựa đến gần lều của mình. Ngài tử tước Sainte-Hermine đã đoán trước khi đến Pégou anh chàng đơn độc đáng thương của ông thiếu những gì. Ngài gửi ông ta thóc, lúa mì, ngô, một con ngựa đực, một con ngựa cái, một con bò mẹ và một con bò con, một đôi lợn, một con gà trống và sáu con gà mái, một chú chó canh gác to lớn cùng ả bạn gái của nó và cuối cùng là đôi mèo. Tất cả đàn lũ ấy nhìn như đang đến cối xay để xay lúa mì vậy. Ban đầu Rémi đã hoảng hốt trước chỗ của cải ấy. Ông biết nhốt chúng ở đâu bây giờ? Thật may là ngài tử tước còn gửi thêm một chiếc cũi lớn có khoá và một lô những thứ Rémi không thể tìm ra ở nơi khỉ ho cò gáy ấy.
Tuy thế vẫn phải nghĩ đến chuyện dựng chuồng cho chúng. Ngay hôm đầu, lũ gà mái mới đến đã đẻ trứng.
Đoàn người chở hàng cho Rémi đã được tử tước trả tiền trước nhưng Rémi cũng đưa thêm cho họ vài talks gợi là tiền thưởng.
Sau ngày đoàn người ấy đi, Rémi thả các con vật vào đồng cỏ. Lũ chó, mèo nhanh chóng chấp nhận nghĩa vụ của loài vật nuôi trong nhà. Lũ chó nằm ngoài cửa còn đôi mèo leo lên nhà kho.
Cái kho ấy có dáng một pháo đài lắm, nào là chục khẩu súng thường nạp đạn sẵn, đặt ngay tầm với, nào là năm chục viên đạn sẵn sàng chờ đến lượt chúng hạ thủ đối phương. Từ nhà kho này, người ta có thể quan sát xung quanh, bắn từ mọi phía mà không bị lộ.
Những con vật còn lại nhảnh nha ra đồng cỏ, gà thì quanh quẩn gần nhà. Đến tối, theo bản năng, chúng lũ lượt kéo nhau về chuồng. Qua những tiếng gà kêu, tiếng chó sủa, người ta có thể đoán vài con hổ hay báo vẫn quanh quẩn đâu đó. Nhưng ngày cũng như đêm mọi việc vẫn bình yên.
Tuy thế, Rémi ly bắt đầu cảm thấy ngần ấy con vật, ngần ấy công việc là khá nhiều cho người đàn ông sống một mình: Đôi khi ông nghĩ rằng một người phụ nữ sẽ không phải là quá thừa cho mảnh đất sinh sôi này.
Một đêm, sau khi mải quay cuồng với những ám ảnh quen thuộc mà ông coi như những ám ảnh của quỷ thì Rémi chợt thức giấc trước lúc trời sáng một tiếng vì có tiếng gà, tiếng chó sủa và cả những phát súng vang lên từ phía bờ sông.
Ông xách súng, nhét đầy đạn vào túi rồi theo lũ chó lao về phía bờ sông nơi có lẽ xảy ra cuộc đụng độ.
Vài xác chết nằm xõng soài bên bờ sông. Ba người đã tắt thở, chắc chắn họ bị bọn cướp theo dòng Sittang từ bờ biển nước Xiêm tấn công. Ông tìm quanh, cất tiếng gọi nhưng không có tiếng trả lời. Khi trời sáng hình như ông thấy một người đang quỳ gối, câm bặt, cứng đờ như một pho tượng.
Ông tiến lại gần, đó là một cô bé người Indu khoảng mười hai, mười ba tuổi đang quỳ bên một người đàn ông quãng bốn nhăm tuổi đã chết. Một viên đạn đã găm đúng ngực ông ta.
Từ hai tháng ở một mình chốn đèo heo hút gió này, Rémi với bộ râu ria xồm xoàm trông cũng không khác gì một tên cướp. Tuy nhiên, cô bé nhìn ông mà không tỏ ra sợ sệt. Cô chỉ vào người đàn ông đã chết, cúi xuống hôn lên đầu ông ta rồi bật khóc.
Rémi để vài phút cho cô bé trấn tĩnh qua đi rồi ra liệu cho cô bé đứng dậy đi theo mình. Cô bé đứng lên, kêu to ba tiếng nhưng không có ai đáp lại. Thế là với sự duyên dáng trẻ trung cộng với vẻ tự nhiên hoang dã, cô ngả đầu vào vai Rémi bước đi cùng nhịp với ông. Khoảng mười lăm phút sau, họ đã đến bờ dậu.
Từ xa, lũ vật đã chạy ra cổng bày tỏ những cơ chỉ thân thiện rồi rẽ ra cho họ đi qua. Chó sủa, lợn ủn ỉn, bò rống, ngựa hí, mèo kêu meo meo, gà trống gáy vang. Cô bé bước vào chốn thiên đường cõi trần trong sự chào đón của loài vật mỗi con một kiểu.
Chỉ duy nhất người đàn ông là không nói gì, nhưng khi mở cửa nhà mình, trái tim của ông đã đập rộn ràng như chưa bao giờ được đập.
Rémi ôm vài bó cây giống như cây dương xỉ, thứ cây mọc rất nhiều quanh nhà, mang tên nhà kho căng lên phía trên tấm da báo, làm thêm cầu thang và nhà kho trở thành phòng của cô Ève mới đến.
Rémi ngắm nhìn cô gái Miến Điện như thể ông chưa từng nhìn bao giờ và ông thấy cô thật duyên dáng: Cô mặc một chiếc váy dài màu thiên thạch, thắt ngang bụng bằng một dải thêu bằng lụa, cổ áo và cổ tay áo đều thêu viền, đôi giày tết bằng rơm ôm lấy đôi chân trẻ con, hai bàn tay để trần và nước da sẫm hơn da trên mặt. Đôi mắt thông minh nhìn Rémi đầy biết ơn và như muốn nói "Bất hạnh đã đưa tôi đến với ông, tôi có thể làm gì cho ông đây?".
Về phần mình, Rémi làm mọi thứ để giúp cô bé khuây khoả nỗi đau, họ nhanh chóng học được những từ cần thiết trong giao tiếp hàng ngày hoặc sang tiếng Pháp hoặc sang tiếng Miến.
Có lẽ cô bé này sống trong một bộ tộc làm nghề nông vì cô biết chăm sóc lũ vật rất khéo. Cô nói con lợn đực và vợ nó phải được nhốt riêng, thế là ngay hôm đó, một chuồng mới được dựng riêng. Con bò con đã lớn, không cần bú mẹ nữa nhưng vì háu ăn hoặc vì lười biếng mà nó vẫn quấn lấy mẹ. Cô bé dùng một loại cỏ đan thành chiếc sọt chắc chắn đến độ có thể đựng được sữa giống như cấp vại bằng gỗ hay bằng sành. Cô thu trứng gà, chia ra thành gà đẻ và gà ấp giúp cho trong nhà luôn có trứng ăn lại có gà con ra bới thức ăn quanh nhà.
Tuy nhiên, một phát hiện quan trọng mà cô bé tìm ra đó là loại cây trầu, một thứ cây, một thứ cây leo mọc khắp nơi. Cô cũng biết trồng ngô và lúa mì. Cô hướng dẫn Rémi cách tra ngô và gieo hạt lúa mì.
Rémi rất yêu thích những công việc mới ấy. Ông cũng đóng một chiếc cối xay và dạy cô làm bánh. Nhờ bơ và pho mát cô thu được từ lượng sữa khá nhiều, cuộc sống ngày càng sung túc hơn.
Ngoài ra cô gái còn biết đan lưới bằng sợi cây lô hội, làm thành một loài công cụ bắt cá cung cấp thêm thực phẩm cho họ. Cuối cùng, một hôm Rémi nhận ra công việc trang trại không thể phát triển thêm mà không có người làm. Vậy là ông quyết định đi Toungoo, nơi cách đó mười lăm dặm, để xem có thể mua ở đó vài nô lệ hay thuê mấy người làm hay không. Mặt khác ông cũng muốn biết liệu có thu lợi gì từ chỗ trầu mà Ève chuẩn bị cộng với số lượng đáng kể ông có thể cung cấp như mong muốn hàng năm.
Một buổi sáng, thay vì thả ngựa, họ buộc yên cương và Rémi trèo lên. Lập tức con ngựa cái cứ đòi đi theo. Họ cũng buộc yên cương cho nó rồi mở cổng hàng rào. Nhưng Ève đứng chặn ở đó, giang tay ra chực khóc, trong số những từ bằng tiếng Pháp cô biết cô nhắc đi nhắc lại:
- Với ông, với ông, với ông.
Rémi cũng rất phiền lòng khi phải để Ève ở lại một mình trong hai ba ngày. Ông sợ trong lúc ông vắng mặt sẽ có điều không may xảy ra cho cô bé. Nếu bị tấn công, Ève không thể tự bảo vệ trong một túp lều đơn sơ. Vả lại nếu phải mất một trong hai, ông thà để mất ngôi nhà và lũ vật nuôi hơn là để mất Ève.
Thế là họ giấu súng và thuốc súng, những thứ mà Rémi cho là quý nhất vào một cái hố. Còn về đám vật nuôi thì không phải lo, chúng có thói quen tự kiếm được đồ ăn vì phần số đều là thú ăn cỏ ông cũng mang theo hai mươi lăm đồng louis vàng trong kho của cải của mình.
Cuối cùng, không còn vướng bận gì nữa, ông giao lại điền sản nho nhỏ của mình vào bàn tay canh gác của Chúa. Rémi có một cái la bàn, nhờ nó ông có thể định hướng về Toungoo. Họ chủ phải vượt qua một nhánh của dòng sông Sittang. Rémi muốn tìm chỗ nông để lội qua nhưng cô bạn gái của ông ra hiệu không cần vì cô biết bơi. Hai người tiến lại gần bờ nắm tay nhau rồi thúc ngựa lội xuống nước.
Ngay tối hôm ấy, họ đã đến Toungoo.
Đến đây, Ève càng thấy rõ tầm quan trọng với ông. Cô biết nói tiếng Miến nên làm phiên dịch cho ông rồi nhắc ông mua nhiều thứ vật dụng mà trong chốc lát ông quên mất.
Nhưng thứ có giá trị lại là cây trầu, nó giúp ông trao đổi đủ loại thực phẩm. Người mua còn cam đoan sẽ mua hết số hàng cô bé chuẩn bị trong ba tháng tới. Lần sau, họ không cần phải đến chợ vì người buôn sẽ tự đến trang trại, nơi mà từ đó mang cái tên Đất Trầu.
Họ mua thêm hai người đàn ông và hai phụ nữ da đen, thuê hai thanh niên quen việc trồng lúa, hai phụ nữ để giúp Ève chăm sóc súc vật và trồng trọt cây trầu.
Cuối cùng, họ mua hai con trâu đực và dĩ nhiên cả một con trâu cái để kéo một công cụ giống cái cày do Rémi chế tạo gồm một mảnh gỗ tếch có gắn với một lưỡi bằng sắt.
Chặng đường về nhà mất ba ngày vì đoàn người và vật không theo kịp bước hai con ngựa. Lần vượt sông thật may mắn là không gặp rủi ro nào. Cuối cùng, họ cũng về đến túp lều bé xíu.
Vừa nhận ra chủ, hai con chó đực và chó cái đã lao ra dẫn đầu cả đoàn súc vật ngoại trừ con gà trống đang đứng trên hàng rào, lũ gà mái mải đưa con đi tìm mồi và hai con mèo canh hai bên cửa uy nghiêm như những vị thần.
Trong lúc chủ vắng nhà, trong ngoài vẫn bình yên vô sự. Rémi nhận thấy mọi chuyện suôn sẻ trong chuyến đi quá nên giang tay định tạ ơn trời thì Ève lại tưởng ông giang tay vì mình nên sà vào đó rất vô tư. Rémi ôm cô vào lòng, và lần đầu tiên đôi môi họ trao cho nhau một nụ hôn.
Kể từ đó, thói ghét người của Rémi biến mất, ông không đọc cuốn sách Robinson nữa và dấu tích duy nhất còn lại trong nhà là một trong hai người đàn ông da đen mua về mang cái tên Thứ Sáu.
Cũng kể từ đó, công việc được phân công rõ ràng, ai vào việc nấy và ngày tháng đều đặn trôi đi.
Bằng tài khéo léo của mình, Rémi đã hoàn tất việc cày đất, ông cho mấy con trâu cày hơn chục mẫu đất để gieo hạt. Cày xong thì bừa cũng không khó, chẳng bao lâu lúa mì đã nảy mầm.
Một trong hai thanh niên mà ông thuê về để giúp ông làm đất đã tìm được một khoảng đất sình lầy, anh ta khơi một con lạch dẫn nước để cấy lúa ở đó.
Người thanh niên thứ hai chuyên săn bắn và đánh cá chịu trách nhiệm lo thực phẩm trong nhà nhưng vì thú săn và cá nhiều và dễ bắt nên phần lớn thời gian anh ta giúp các chị da đen trồng và chăm sóc cây trầu làm chúng lớn nhanh hơn mức Rémi tưởng tượng.
Chỉ một chị da đen và Ève là đủ cho việc chăn nuôi và làm việc nhà. Nhờ sự trợ giúp nhân lực mới này, cái mảnh đất vỡ hoang đã mang một dáng dấp mới. Những công nhân xong việc không phải làm gì cả vì sau công việc họ được nuôi ăn và đối xử như những người phục vụ chứ không phải như những nô lệ. Từ sớm tới tối, khuôn mặt ai cũng tươi rói rạng rỡ chỉ trừ ông chủ Rémi. Ông ta không còn ghét người nữa, và ông còn mắc căn bệnh tệ hơn, ông đang yêu.
Về phần Ève, cô cũng yêu ông bằng cả trái tim và trọn lòng thơ ngây trinh bạch. Nhưng chính sự vội vã ấy lại là nhát dao xuyên vào trái tim ông: Giá Ève đừng yêu ông, giá cô đừng nói với ông thì ông còn đủ sức một mình cưỡng lại tình yêu của mình nhưng cả tình yêu của hai người cộng lại thì tình cảm ấy vượt quá sức của ông.
Có lẽ một câu hỏi sẽ xuất hiện trên đôi môi độc giả của tôi: "Tại sao?”.
Tôi sẽ đáp ngay trước khi câu hỏi ấy dứt: bởi vì Rémi, một người đàn ông đứng đắn, một con chiên ngoan đạo, con trai hợp pháp của Mathunn Rémi và Claudine Perrot không bao giờ muốn sinh một cậu con trai đầu lòng lại có nguồn gốc lạc đạo.
Đây là cuộc chiến giằng co giữa ý muốn và ý thức, nhưng rồi một buổi tối, lũ chó sủa không phải vì giận dữ như khi báo có nguy hiểm mà nhẹ nhàng như thông báo có một người bạn đến nhà. Rémi ra mở cửa. Người gõ cửa đúng là một người anh em.
- Đó là một thày tu người Pháp đang đi truyền đạo Thiên chúa ở Trung Quốc.
- Xin chào mừng cha hai lần, cha của con! - ông Rémi sung sướng - Vì chắc chắn cha sẽ mang đến cho chúng con nhiều hơn thứ mà không bao giờ chúng con có thể mang lại cho cha.
- Ta có thể mang được điều kỳ diệu nào đến với các con của ta thế? - Người của Chúa hỏi.
- Cha sẽ mang đến cho cô gái này sự giải thoát và mang hạnh phúc đến với con. Cô ấy là người ngoại đạo, tối nay cha sẽ rửa tội cho cô ấy, con yêu cô ấy và ngày mai, cha sẽ làm lễ thành hôn cho chúng con.
Các nghi thức nhập đạo cũng không lâu. Người ta hỏi liệu cô gái có thừa nhận Chúa nào khác ngoài Chúa của Rémi không, cô trả lời là không. Người ta lại hỏi cô có muốn sống và chết trong cùng đạo với Rémi không, cô đáp là có.
Ngay tối hôm ấy, Rémi thông báo hôm sau là ngày lễ, không ai phải làm việc.
Cuối cùng, ông đưa cha xứ đến một quả đồi, trên đỉnh có dựng một cây thánh giá nơi sớm tối Rémi vẫn đến cầu nguyện.
- Thưa cha - ông nói với người của Chúa - Đây là nơi ngày mai cho sẽ ban phúc cho chúng con, và con xin hứa trước một năm kể từ ngày cha ban phúc, nơi đây sẽ được dựng một nhà thờ.
Ngày hôm sau, trước sự chứng kiến của hai phụ nữ và hai người đàn ông da đen cùng với hai chàng trai Pégou, Rémi và Ève tổ chức hôn lễ.
Như vậy lễ rửa tội diễn ra trước lễ cưới quá nhanh, đến nỗi được hiểu quá ít về tôn giáo của chúng ta, về không kịp xưng tội thậm chí không suy nghĩ gì. Cũng ngay hôm cưới, cha cố theo tục lệ xưa sau khi ban phúc cho ông chủ, bà chủ, những người phục vụ các con vật nuôi và ngôi nhà, đã lên đường.
Loài vật trong nhà chẳng cần phải đợi lời ban phúc mới sinh đàn đẻ đống. Con bê con đã thành một anh chàng bò mộng một tuổi con trâu cái cũng sinh một con nghé con, con ngựa cái đẻ một con ngựa con, gia đình nhà mèo đã có sáu thành viên, nhà chó cũng mau mắn với mười con, còn nhà lợn thì đông không đếm nổi, thậm chí những con lợn con thả rông còn có nguy cơ trở thành lợn rừng.
Thời điểm lái buôn phải đến đã tới: ông ta đến cùng đôi ba người cùng hội, những người yên tâm về sản lượng hàng năm mà mảnh Đất Trầu mang lại. Họ đưa ra giá hợp lý, nhưng vì mảnh đất cho thu hoạch gấp ba lần sản lượng người ta mong đợi nên kết quả là Rémi không chỉ kiếm được chín nghìn talks từ dinh cơ nho nhỏ của mình vì các thương lái khác biết trước đây là vụ làm ăn lớn nên cũng mang theo đầy những thỏi vàng nhỏ dùng để trao đổi ở Miến Điện.
Những người buôn đề nghị Rémi: họ cam kết trả mỗi năm một khoảng 15 nghìn talks trong đó 12 nghìn cho trầu và phần còn lại cho ngô, lúa và lúa mì. Nếu mùa màng thất bát, Rémi sẽ dùng trầu thế cho những thứ thiếu. Họ còn hứa sẽ gửi thêm hai con trâu, bốn đàn ông, hai phụ nữ da đen và hai người Pégou trong đó hai người Pégou một là thợ sắt, một là thợ mộc.
Chín tháng vài ngày sau hôm vị cha cố dòng Tên nọ ra đi, Ève sinh được một cậu con trai tên là Justin. Một chị da đen làm bà đỡ đã hoàn thành xuất sắc công việc ấy.
Chính trong giáo đường dựng trên đồi nơi Rémi từng kết hôn ông đã tự tay làm lễ rửa tội cho đứa con đầu lòng của mình, có lẽ việc giữ lời hứa đã mang lại hạnh phúc cho ông, hai năm sau, hai cậu con trai khác lần lượt ra đời với cái tên Jules và Bernard.
Ba năm sau nữa là cô con gái đến lượt mình mang tên Adda.
Đồng thời mảnh đất tiếp tục được khai hoang, hơn một dặm đất đã được trồng trọt. Số người phục vụ và số nô lệ trong nhà đã lên đến mười tám người, chưa kể hơn một chục trẻ lai đủ độ tuổi, đứa bé nhất còn chưa đầy năm, suốt ngày chơi cùng bày chó con, mèo con hay chạy theo lũ gà.
Cậu con trưởng của ông Rémi chuyên về trồng trọt, đánh cá và săn bắn. Cậu thứ hai, Bernard học tại nhà ông thầy làm khoá còn cậu thứ ba, Jules, học thợ nề.
Có lẽ không cần phải tiếp tục kể về mảnh đất không ngừng sinh sôi này, tuy vậy còn một điều đáng nói đó là những túp lều ấy đã trở thành quá bé nhỏ nên ông Rémi quyết định thay bằng việc xây một ngôi nhà lớn sau này sẽ là nhà của ngài tử tước, xung quanh đó là những ngôi nhà nhỏ hơn sẽ là nhà của ông Rémi và tất cả các nhân công, đày tớ trong nhà.
Ông Rémi vẽ sơ đồ ngôi nhà của ngài tử tước và như thế đó là người mọi người mong chờ nhất nên ai cũng bắt tay tham gia xây dựng: hai cậu con trai của ông Rémi đã đủ khéo léo để làm việc cùng như người thợ nề và thợ cơ khí ông Rémi cũng trổ tài dựng cột, xà, những trạm khắc xà, mái hiên. Rồi trong khi Ève dệt những tấm thảm trang trí nội thất bằng sợi mua từ Prome, Pégou và thậm chí ở Calcutta thì mọi người lo xây nốt phần làng còn lại gồm không dưới mười tám ngôi nhà.
Phải mất hai năm mới hoàn thành công việc, nhưng vì trang trại luôn phát triển nên người ta thu về từ 15 đến 18 nghìn talks tương đương với 60 nghìn phăng. Bằng số tiền ấy, công việc tiến triển nhanh hơn mức mọi người mong đợi.
Ba người con lớn của ông Rémi đã trở thành những chàng trai trẻ đẹp cường tráng, cả ba đều là những thiện xạ. Hai lần mảnh đất khai hoang của họ bị bọn cướp tấn công nhưng nhờ bốn lô cốt bốn góc làng nên bọn cướp đành ra về với bàn tay trắng.
Đặc biệt Justin trở thành mối kinh hoàng cho bọn cướp và cả các loài ác thú nữa. Nếu nghe nói ở hai ba dặm quanh đó có một con hổ hay báo là y như rằng Justin vác súng lên vai, dắt chiếc rìu của cho lên đường và chỉ trở về khi con hổ hay con báo ấy đã chết.
Khi anh bước vào phòng ăn với tấm da hổ trên đầu và vai, gặp những người mà anh chờ rất lâu đó là con hổ thứ 11 bị anh hạ.
Một năm trước, đã có sự bất hạnh lớn đổ xuống ngôi nhà xinh đẹp, một mất mát cho tất cả người làm và nô lệ trong trang trại, đó là vợ của ông Rémi, mẹ của ba chàng trai trẻ đẹp và cô gái xinh xắn đã qua đời.
Bây giờ chúng ta đã biết điền sản của tử tước Sainte-Hermine đã sinh sôi, phát triển như thế nào trên Đất Trầu, chúng ta có thể quay trở lại với câu chuyện hiện tại.
Có lẽ tôi không cần giải thích với các bạn độc giả tác động đến hai cô gái trẻ người Pháp, ngài James Asplay và René về một gia đình phục quyền đã thay đổi những phong tục của người A Rập từ thời Kinh thánh hồi đầu thế kỷ XX như thế nào.
Thánh Abraham có lẽ cũng không sùng đạo hơn Rémi, Rébécca có lẽ cũng không đẹp hơn Adda, thánh David và Jonathan có lẽ cũng không tự hào hơn Bernard và Jules, cuối cùng Samson, người xé con hổ bằng cách cầm hai hàm của nó e cũng không gan dạ và dũng cảm hơn Justin.
Khi hai cô gái trở lại phòng mình, hai chàng trai trẻ về phòng của họ, tất cả đều ngạc nhiên trước những gì họ thấy và đều nghiêng mình trước sự vĩ đại khiêm nhường ấy.
Ngày hôm sau, khi Adda đến hỏi hai cô ngủ có thoải mái không và liệu họ có cho phép cha cô đến gặp hai cô chủ trẻ không thì các cô đều trả lời đồng ý. Ông già bước những bước chậm rãi, chắc chắn vào phòng hai cô, tay cầm một cuốn sổ nhỏ để báo cáo.
- Thưa hai tiểu thư, - ông nói - Việc đầu tiên phải làm giữa chủ nợ và người nợ sau hai mươi năm không gặp, đó là người nợ đến nộp tiền nợ của mình.
Hai cô gái ngạc nhiên nhìn nhau.
- Cha chúng tôi chưa bao giờ nhắc đến chuyện này - Hélène nói - Nếu có thì bác là chủ nợ chứ không phải cha tôi, trong trường hợp ấy, việc chúng tôi phải làm là bán chỗ ở này và chia đôi với bác.
Ông Rémi bật cười.
- Tôi không thể chấp nhận điều kiện như thế thưa tiểu thư, như thế là bán sự phục vụ thấp kém của tôi cho ông chủ với giá cắt cổ rồi. Không, thưa tiểu thư, nếu các cô không mệt, hãy đi cùng tôi để tận mắt nhìn chỗ của cải của mình. Nếu các cô cho là sự hiện diện của hai người kia cần thiết tôi sẽ rất vui lòng báo cáo trước càng đông nhân chứng càng tốt.
Hai chị em nhìn nhau và đồng ý là chuyện này chỉ nên biết giữa họ.
- Chúng tôi sẽ đi một mình. - Hélène đáp - Xin bác hãy dẫn đường.
Ông già tiến lên trước họ vài bước, mở một cánh cửa nhỏ và ra hiệu cho hai cô gái bước vào. Đây là căn phòng nhỏ duy nhất trong nhà được xây bằng đá có thanh chấn sỏng bằng sắt ngoài của sổ. Đồ đạc bên trong chỉ có hai chiếc thùng sắt, một cái cao một bộ, một cái cao ba bộ, mỗi thùng được gắn vào tường bằng hai cái xích sắt bao bằng đầu người dựa trên hai thanh sắt gắn vào tường bằng hai vòng tròn sắt.
Ông già rút chìa mở một khoá cho phép mở nắp thùng. Chiếc nắp mở ra trước con mắt kinh ngạc của Hélène và cô em gái với một lượng vô số những thoi vàng nhỏ bằng ngón tay út. Hai chị em ôm nhau vừa nhìn nhau ngạc nhiên.
- Thưa các cô ông già nói - Trong thùng này phải có hơn một triệu.
Hai cô gái rùng mình.
- Nhưng chúng là của ai? Không thể là của chúng tôi được - Hélène nói.
- Tuy nhiên đây hoàn toàn là sự thật - ông già đáp - Gần hai mươi năm qua tôi đã điều hành số tài sản này cho nó sinh lời, đến 50 hay 55 nghìn phăng thì tôi không đếm nữa, lẽ ra phải cân đong đo đếm cẩn thận nhưng trừ những chi phí ăn ở chắc phải còn gần 900 nghìn phăng.
Hai cô thiếu nữ lại nhìn nhau.
Ông già rút chìa thứ hai trong túi mở một chiếc thùng nhỏ hơn được cất giữ không kém phần chắc chắn so với chiếc thùng trước. Chiếc thùng này đựng một nửa đầy đá rubi, hồng ngọc, saphia, ngọc bích, vàng thoi, đá quý, những thứ dùng làm tiền tệ ở Miến Điện. Ông già thọc tay đến đáy hòm rồi thò xuống một dòng vàng bạc sáng lấp loá.
- Đây là cái gì? - Hélène hỏi - Bác tìm thấy kho báu của Haroun Al-Rachid à?
- Không - ông già đáp - Nhưng tôi nghĩ rằng vàng có giá trị khắp nơi chỉ dựa vào trọng lượng của nó trong khi số đá quý này dù thế nào cũng đắt gấp đôi nếu bán ở Pháp. Ở đây, chỗ này giá gần 300 nghìn phăng.
- Bác định đưa chuyện này đến đâu? - Hélène mỉm cười hỏi.
- Tôi muốn thông báo cho các cô chủ yêu mến của mình rằng không những mảnh đất này, những con người này, súc vật, mùa màng thuộc về các cô mà ngay cả số vàng và đá quý này cũng thuộc về các cô.
- Người bạn tốt của tôi - Hélène nói - Tôi có nghe nói đến thoả thuận giữa bác và cha tôi: "Rémi vì anh muốn ở lại đây, tôi sẽ để anh ở lại, hãy xây dựng một nơi chốn để giữ liên lạc giữa điều kiện ít ỏi tôi có thể để cho anh, chừng nào tôi hay ai đó trong gia đình trở lại đây, anh sẽ chia đôi anh và tôi". Tôi thật bất hạnh là người thừa kế đến nhân danh cha để đòi phần chia ấy với bác, bác Rémi yêu quý ạ: một nửa của tất cả những gì của bác sẽ là của tôi và em Jane nhưng nửa kia sẽ phải là của bác.
Những giọt nước mắt lăn dài trên má ông già.
- Không! - ông nói - Không, có thể ý ông chủ không nói như thế hoặc khi nói như thế với tôi, ông không nghĩ mảnh đất này lại thịnh vượng như vậy. Hãy nghĩ chúng tôi chỉ là những trang phục nghèo khó, quá sung sướng khi được các cô giữ lại tiếp tục cho kiếp sống và phục vụ mọi người nếu các cô đảm bảo cho con cháu tôi cũng được như cha ông chúng.
Hélène nhìn thẳng vào ông Rémi bằng ánh mắt nghiêm nghị.
- Bác Rémi, bác quên là mình đã quá rộng rãi với chúng tôi và tỏ ra bất công với con của mình hay sao. Các con bác đã làm việc như bác, thành quả chưa lâu bằng bác nhưng đã làm hết sức vì số tài sản chung của chúng ta, như vậy tôi phải là người chịu trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn quyền của họ chứ!
Ông Rémi định nài nỉ nữa nhưng lúc đó đã có báo hiệu đến giờ ăn trưa, đó là ba tiếng kẻng Trung Quốc thông báo bàn ăn đã dọn sẵn.
Hélène đưa Jane ra trước rồi khoác tay ông Rémi. Ông Rémi khoá cửa lại và cả ba đi xuống.
Chưa bao giờ bàn ăn của bậc vua chúa cũng được thịnh soạn hơn thế: nào là những con công Ấn Độ, những con gà lôi vàng Trung Quốc hay những con gà Miến Điện bày la liệt trên bàn. Về món tráng miệng, mọi loại quả ngon nhất đều có: Xoài, ổi, chuối ngự, dứa, sầu riêng, mít. Đồ uống thì không có gì khác ngoài vang đỏ và rượu bưởi. Những thức uống này được chôn rất sâu trong lòng đất nên tươi và mát như đồ uống có đá vậy.
Vì trong khu dân cư không có vườn cây ăn quả nên tối hôm trước ba anh em đã đi hái quả ven vùng đất hoang. Justin đi ngược dòng sông đến hai dặm để tìm vải, thứ chỉ mọc ở ven sông và nhận ra trong rừng rậm bên bờ dòng Sittang có dấu vết của nhiều hổ.
Tin tức này làm năm chàng trai hưng phấn lên, họ quyết định vài ngày tới sẽ tổ chức một cuộc đi săn cùng với để các cô gái cũng có thể đi cùng các thợ săn.
Chính Jane là người đưa ra đề xuất ấy và được đa số ủng hộ. Chỉ duy Hélène nhìn em buồn bã lầm bẩm:
- Tội nghiệp em gái.
Thật ra Jane đâu có bạo gan đến thế, nhưng không có gì đáng sợ hơn là để René đi một mình trong chuyến săn khủng khiếp ấy giữa những rình rập đáng sợ ba bốn ngày không gặp anh.
René cố gắng thuyết phục cô những anh chỉ làm cô gái thêm buồn mà không thay đổi được. Thế là Hélène quyết định rời cuộc đi săn ấy vào một thời điểm khác. Mọi người đang từng ngày chờ thi thể của tử tước và tang lễ phải được cờ hành trước khi người nào nghĩ đến chuyện vui chơi.
Khi rời bàn, Hélène gọi ngài James và René đến, kể cho họ nghe chuyện gì vừa xảy ra giữa họ và ông già và mặc dù ông già nài nỉ nhưng cô vẫn yêu cầu điều kiện giữa ông và cha cô phải được thực hiện ra sao. Cả hai cùng đồng tình với quyết định của cô gái trẻ.
- Như vậy - Hélène tươi cười nói - bây giờ nhân lúc em tôi không nghe được chúng ta nói gì, vậy là Jane cũng trở thành người thừa kế thì dù ở nơi vắng vẻ này cô ấy cũng không khó tìm được một đấng phu quân.
- Nhưng cô ấy cũng cần thận trọng như nàng, Hélène yêu quý của tôi. - James nói - và nên dẫn cho cô ấy một anh chàng người châu Âu.
Những con mắt đổ dồn về René nhưng chàng trai trẻ không lay động, chỉ một nụ cười buồn thoáng hiện trên môi.
Đúng lúc đó, sự chú ý của họ bị cuốn đi bởi một công việc do ba anh em con ông Rémi thực hiện: Dưới bóng một cây bao báp tuyệt đẹp, họ đào một chiếc bể với ý định sẽ dẫn nước từ sông vào. Dòng nước cuộn lại trong bể sâu sẽ làm thành một phòng tắm tuyệt vời cho các cô gái. Họ chỉ cần đi ra khỏi nhà một trăm bước là có thể đến bồn tắm. Vậy là mọi công việc của gia đình đều vì mục đích tốt đẹp cho những vị khách của họ.
Lúc trở lại ngôi nhà, ba chàng trai bắt gặp Jane đang ngồi bên bậc cửa mắt lơ đãng nhìn Adda chải lông cho hai con ngựa nòi Miến Điện. Chúng được dành cho Hélène và Jane đi dạo.
Ở Pégou có hai giống ngựa rất khác nhau. Ngựa ở miền hạ lưu Pégou, sinh ra trong miền đất ngập nước và sình lầy trải dài từ Arakan đến tận Tenassenm. Chừng nào người ta còn ở miền châu thổ này chừng đó người ta chỉ thấy những con ngựa nhỏ thô kệch và yếu nhưng khi lên miền đất khô Henzad, người ta sẽ thấy nòi ngựa nhỏ nhưng dáng đẹp và dai sức.
Vả lại ở Miến Điện, ngựa là phương tiện di chuyển của các bậc chức cao vọng trọng, xe có lọng che là loại dùng cho quãng đường ngắn do trâu hoặc bò kéo. Do đó, ngựa trở thành thứ đồ xa xỉ ở khu dân này có năm hay sáu con ngựa thuộc nòi này nhưng chỉ những chàng trai và Adda con ông Rémi mới trèo lên chúng, không người nào khác được phép sử dụng hay nói đúng hơn là không ai dám trèo lên chúng.
Adda như có trong mình một dòng máu hoang dã không hề nghĩ đến chuyện thắng yên như các cô gái châu Âu, cô trèo lên lưng ngựa như cách của đàn ông, chiếc váy của cô bó và xẻ ra hai bên, cô còn mặc một chiếc quần chẽn dài đến mắt cá chân. Cơ thể mềm mại không mặc áo lót ngả người theo cử động của con ngựa mái tóc cô lượn theo gió, nhìn cô như gợi lại những người phụ nữ Tét xa ly của Hy Lạp mà Phèdre đã nói tới.
Hai chị em Hélène thừa nhận vẻ duyên dáng của cô gái chủ nhà song họ không bao giờ lên ngựa theo cách đó.
Adda cho rằng chuyện ấy không ngại, chỉ cần René hay James vẽ bộ yên kiểu Pháp là anh trai làm thợ sắt của cô sẽ chế tạo được ngay.
Nhưng khi ấy người ra nhìn thấy một đoàn người bao gồm một con voi, bốn con ngựa và hơn chục người đi ra khỏi rừng. Con voi phủ một tấm vải đen.
Nghe tin ấy và nhất là khi trèo lên chòi gác cao hơn mái nhà, hai cô gái không nghi ngờ gì nữa, đó chính là thi thể của cha họ đã đến.
Người ta khua chiêng để tập hợp mọi người rồi mở cổng chờ đoàn đưa linh cữu ấy. Khi con voi mang cỗ quan vào trong sân, hai chị em Hélène quỳ gối xuống và tất cả đều làm theo.
Vị Shabunder ở Pégou vốn muốn lo mọi việc mai táng đã nảy ra ý định gửi hai cha cố đi nhờ theo đoàn người này qua miền đất rừng hiểm nguy đầy thú dữ. Đổi lại hai cha cố sẽ đọc lời cầu nguyện trên linh cữu của tử tước Sainte-Hermine.
Cỗ quan tài được chuyển đến tiểu giáo đường. Vì không có nến, những đoạn gỗ nhựa đã cháy suốt hai mươi bốn tiếng cho thật giống nơi quàn quan tài. Rồi những bài kinh cầu siêu cho người chết vang lên long trọng nhất. Cuối cùng, thi thể của tử tước được đặt trong hầm mộ gần thi thể của Ève.
Trong suốt vài ngày, toàn bộ trang trại đều đau buồn do nhớ lại những kỷ niệm về cái chết bất ngờ và tàn khốc ấy. Cũng trong suốt vài ngày ấy, Jane có thể khóc thoải mái mà không ai hỏi cô lý do tại sao.
Ngày hôm sau nữa, hai vị linh mục tiếp tục con đường của họ sang Trung Quốc.
Trong những ngày mới xong lễ tang của tử tước Sainte-Hermine, đám thanh niên tỏ lòng thành kính nên không ai nghĩ ra trò giải trí mới hay nhắc lại kế hoạch đã bàn trước đó. Kế hoạch ấy, như ta cũng biết là cuộc săn hổ bên dòng sông Sittang, ở một nơi mà Justin phát hiện có nhiều vết chân khi anh đi tìm vải, nhưng để thực hiện chuyến đi có sự tham gia của mấy con voi, họ phải có những chuẩn bị thiết yếu.
Vậy là anh chàng thợ mộc Jules phải làm cái khung nôi bằng gỗ cao một mét để có thể mang được bốn đến năm người còn anh chàng thợ sắt Bernard đã chế ra năm, sáu cây giáo, loại mà ở Belgale người ta dùng để săn lợn rừng.
Còn René, anh lúc nào cũng giữ quan hệ tốt với lũ voi. Ngày nào anh cũng tự mình đi đến chuồng của Omar và Ali - đó là cái tên người ta đặt cho hai con vật da dày ấy. Anh đến bên chúng để chúng dùng vòi cuộn mình lên, ra lệnh cho chúng quỳ gối nhờ đó leo lên cái lưng đồ sộ của chúng sau đó lại để chúng đưa anh xuống đất. Khi anh gọi tên con nào, con ấy đến ngay. Cuối cùng, anh chọc tức chúng hoặc xoa dịu chúng bằng cách tấn công hay vờ chịu thua và không con nào làm sai mệnh lệnh anh đưa ra.
Tám ngày sau, cái khung gỗ đã sẵn sàng, những ngọn giáo cũng đã làm xong. Họ vẫn chờ vài ngày nữa.
Cuối cùng, Jane là người đầu tiên nhắc đến chuyện ấy.
- Ngài René, việc săn hổ sao rồi?
René nghiêng người trước Jane và nói:
- Chuyện này chỉ còn tuỳ thuộc vào các quý bà ra lệnh.
Thế là họ ấn định ngày chủ nhật tiếp đó. Để đến chỗ săn phải mất gần hai giờ đi đường, như vậy chủ có thể xuất phát từ bốn giờ sáng mới đến nơi lúc trời sáng rõ.
Bốn giờ sáng chủ nhật tiếp đó, tất cả mọi người đã sẵn sàng.
Người ta bắt đầu bằng việc lắp khung gỗ bằng những dây xích chắc chắn như người ta vẫn làm nhiều lần trên lưng voi và bụng voi. Người ta còn buộc quanh những khung ấy các túi đựng đạn, lương thực và các túi da đựng nước. Sau đó, họ chuyển sang việc chuẩn bị vũ khí.
Justin và các em trai của anh chỉ có súng hoả mai gắn lưỡi lê. René bèn đưa cho Justin khẩu cạc bin một viên của mình. Mọi người chia ra như sau: Justin đi ngựa, James, Jules, Hélène lên lưng con voi Omar, Jane, Bemanl và René lên lưng con voi Ali. Ngoài ra trên mỗi khung gỗ còn có một người che lọng, James cũng cho Jules mượn một trong hai khẩu súng dài Mantor của mình.
Jane, René và Bernard ngồi vào vị trí, dắt hai ngọn giáo vào thành của khung gỗ. Ngoài ra, René còn dắt hai khẩu súng ngắn 2 viên ở thắt lưng. Anh muốn cho Bernard mượn một khẩu nhưng anh chàng này chưa từng sử dụng nó bao giờ.
Những người quản tượng, ở Pháp gọi là "cornac" và ở Ấn Độ gọi là "mahout", ngồi lên đầu voi, dùng tai chúng làm lá chắn.
Người ta đưa cho họ không phải chiếc búa sắt mà họ quen sử dụng để điều khiển con vật mà lần này là một cây giáo không chỉ dùng cho việc trên mà còn để tự vệ nữa.
Mười hai người chăn thả súc vật mà người ta không muốn chỉ định vì sợ tai nạn song chính họ lại tự nguyện tham gia do François chỉ huy. Anh này không muốn thứ vũ khí nào khác ngoài khẩu súng dài có gắn lưỡi lê và thanh gươm trứ danh từng một phát chặt đôi con trăn.
Một đoàn hơn chục con chó chờ sẵn ngoài hàng rào tự do chạy theo ngài James từng nhiều lần tham gia các cuộc đi săn như vậy ở Calcutta nên được phong làm trưởng đoàn.
Họ đã đi hai dặm đường mà chưa thấy gì. Cuối cùng, người ta cũng đến cánh rừng già nơi Justin phát hiện dấu vết của hổ.
Những con chó tỏ ra căng thẳng, những con voi bước đi với cái vòi dựng cao, con ngựa của Justin đi chậm để thăm dò, tai dựng đứng mũi ngửi ngửi không khí. François động viên người của mình nhưng họ lại ngập ngừng vào rừng rậm dù anh ta đã nêu gương đi trước. Anh ra gọi lũ chó hùng dũng xông lên.
- Chú ý! - James hét lên - con hổ không ở xa đâu.
Anh chưa dứt lời, một con chó đã kêu lên thất đảm.
Ngay lập tức có tiếng gầm quàu quạu và vang xa cất lên. Những ai chưa được nghe ở gần tiếng sư tử và tiếng hổ gầm tức là chưa được nghe những âm thanh đáng sợ nhất của tự nhiên. Đó là một thứ tiếng động thâm nhập vào cơ thể ta không phải qua cơ quan thính âm mà qua tất cả các lỗ chân lông trên da.
Lập tức hai, ba tiếng gầm khác từ những vị trí khác vang lên chứng tỏ con hổ không phải chỉ có một mình.
Người ta đã nghe thấy tiếng nạp đạn lách cách rồi tiếng sủa của tất cả bầy chó như thể chúng không chỉ ngửi thấy mà còn nhìn thấy con hổ rồi vậy.
- Con hổ của các vị kìa - François hét.
Tức thì người ta thấy lao từ rừng rậm ra nhanh như một tên lửa, một con hổ chúa tuyệt đẹp đã to hết tầm của nó. Ngay cú nhảy đầu tiên, nó đã vượt qua một quãng đường hai mươi mét và rơi ra khỏi rừng bảy hoặc tám bộ, nhưng như thể nó chỉ cần chạm đất để lấy đà nên ngay khi chạm xuống nó lại nhảy lên và trở lại chỗ cây rậm rạp che kín.
Tất cả các con vật đều sợ hãi ra mặt, chỉ duy con ngựa của Justin là tỏ ra tức giận hơn là sợ. Nó rướn cái mũi phì phò và ném cái nhìn sáng quắc về phía con hổ. Có thể nói nếu không bị ghìm cương, nó đã lăn xả vào cuộc chiến rồi.
Ngoài ra, quả không gì đẹp như kỵ sĩ lên ngựa không cần bàn đạp, yên cương hay tấm nệm lót này, con ngựa tuân lệnh theo giọng nói, theo đầu gối của chủ nó hơn là dây cương.
Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Justin, chàng trai đầu trần, ngực phanh ra một nửa, tay áo sắn cao đến khuỷu, một tay cầm cương ngựa tay kia nắm cây giáo, nhìn anh giống như một kỹ sĩ xứ Numide vậy.
Đột nhiên, do những tiếng kêu của những người chăn thú, tiếng sừng trâu, tiếng chó sủa, con hổ thứ hai ra mặt khỏi rừng. Nó không nhảy chồm chồm như con đầu tiên mà nhẹ nhàng trườn sát cái bụng xuống đất như một con vật đang chạy chốn. Ra khỏi rừng mươi bước, nó đứng đối diện với lũ voi và theo thói quen của loài hổ khi muốn lấy đà nó nằm sát sạt xuống đất Hai cô gái hốt hoảng kêu lên: "Hổ! Hổ!". Lũ voi đứng vào tư thế tự vệ, các tay thợ săn định nổ súng thì họ thấy Justin và ngựa của anh vụt qua như một tia chớp. Đến cách con hổ hai bước, tất cả đều lặng người, Justin hét lớn một tiếng, cho ngựa chồm lên cao bốn bộ vượt lên trên đầu con thú dữ, dùng hết sức phóng cây giáo ghìm nó xuống đất. Rồi dừng ngựa lại sau ba bốn bước và nói:
- Phần các vị những con hổ khác đấy, tôi đã có một con rồi, với tôi thế là đủ.
Và anh cho ngựa đi vòng ra sau lũ voi.
Con hổ gầm lên một tiếng rùng rợn, dùng hết sức đứng dậy trên bốn cái chân của nó nhưng ngọn giáo đã phập xuống như trời giáng không chỉ xuyên từ phía này xuống phía kia mà còn cắm sâu vào đất năm, sáu tấc đến nỗi nó đứng trên chân của mình với phần cán gỗ cũng xuyên vào thịt. Thế là nó rú lên điên dại, quay tròn quanh mình, dùng răng ngoạm vào cán ngọn giáo và bẻ gãy cán. Tuy nhiên, đó là cố gắng cuối cùng, nó thở một hơi dài, máu tràn khỏi miệng thở hắt ra. Tiếng rên rú cuối cùng của nó như thể là một lời kêu gọi nếu không trả thù thì cũng kêu gọi những con khác chiến đấu, thế là con hổ ban đầu xuất hiện cách đó khoảng sáu chục bước, nó chỉ cần nhảy lần thứ ba là tới chỗ lũ voi. Tuy nhiên, nó không có thời gian để làm như thế. Vừa chạm đất sau cú nhảy thứ hai, hai phát đạn đã đồng loạt vang lên. Con hổ lăn ra. Ngài James ở vị trí nghiêng bắn sượt qua vai còn René đối diện đã bắn giữa trán nó. Con hổ nằm chết thẳng cẳng.
Cùng lúc, như thể bị cuốn hút bởi những âm thanh vừa rồi, ba con hổ khác lại lao từ rừng ra, phát ra những tiếng gầm gào khủng khiếp. Nhưng như thể chúng đã chứng kiến chuyện vừa xảy ra nên chúng sợ nếu dừng lại một giây, các thợ săn sẽ nhân cơ hội ấy để nã đạn vào chúng nên chúng sắp đối đầu.
Các thợ săn đủ kinh nghiệm để không nhả đạn khi đó. Họ chờ cho bọn hổ dừng trò lượn lờ ấy đã. Sau vài giây, một trong hai con lao vào con voi của René, lập tức voi ta dù chậm chạp cũng né sang một bên để tránh bị tấn công. Trong khi đó René rút súng ngắn nhả đạn nhưng viên đạn chỉ găm vào đùi con hổ gây ra một vết thương nhẹ càng khiến nó tức điên. Với ánh mắt rừng rực, cái miệng đỏ lòm, nó xoải móng vượt lên sườn voi định trèo lên tận khung gỗ. Nhưng bằng động tác đột ngột, con voi hất nó văng ra xa vài bước, nhân đà đó, René bắn phát súng ngắn thứ hai trúng cổ. Chú voi tiến về phía con hổ, dùng vòi vần nó định dùng cái chân khổng lồ đè bẹp nó nhưng con hổ đã tránh được nguy hiểm bằng cách lao vào ngực voi. Bernard đứng ở cạnh đối diện nên dù cố gắng vẫn không nhìn thấy gì. Jane lo sợ cho sự nguy hiểm của René hơn cả của mình nên ló ra ngoài khung gỗ. May thay đúng lúc con hổ ở vị trí khuất tầm nhìn của các thợ săn, người quản tượng phóng ngọn giáo vào giữa ngực nó. Con hổ rời tay bám và ngã xuống. Nó vừa chạm đất thì chú voi đã dẫm chân đè nát nó.
Cùng lúc đó, James, Hélène và Jules còn gặp một nguy hiểm lớn hơn nguy hiểm mà Jane, Bernard và René vừa trải qua. Trong khi một con hổ tấn công họ trực diện thì con khác lại vòng ra sau, nhảy lên mông voi để trèo lên. Khốn thay cho nó là René ở cạnh đó không xa phía bên trái. Anh ngắm bắn, bóp cò và viên đạn xuyên vào trúng tim. Con hổ bỏ cuộc, thẳng đơ người và rơi xuống.
Cái đầu con hổ phía trước chỉ cách cô gái lớn nhà tử tước một, hai bước chân thì James giương hai nòng súng không cần đưa lên vai và nhả đạn. Cả đạn và thuốc súng tạo thành hai vết thương. Con hổ choáng váng rơi bịch xuống.
Mọi người thở phào. Vậy là đã có năm con hổ bị giết.
François, đám người hầu và lũ chó cùng ra khỏi rừng. Trong số những người khua chiêng gõ mõ xua hổ ra có hai người bị hại: một người bị nát đầu, người kia bị rách ngực do lũ hổ vừa bị hạ gây ra. Số là họ đã bắt gặp chúng trên đường, trước khi chúng lao ra khỏi rừng. Cái chết đến quá nhanh và bất ngờ khiến họ không kêu lên được tiếng nào hoặc có chăng cũng bị át đi trong những tiếng kèn, chiêng trống, tiếng voi rú, tiếng chó sủa và tiếng la hét của những người xua hổ ra khác. Nhưng khi nhận thấy 5 con hổ nằm sõng soài trên mặt đất cách bốn năm chục bước thì họ quên hai người đã bị sát hại. Máu hăng săn hổ ở người Belgale và người Miến Điện cao đến mức họ thấy năm con hổ chết cũng an ủi được hai người của họ bị chết.
Cả hai con voi đều bị thương nhưng vết thương không nặng lắm. Người ta khiêng hai người xấu số lên cáng về nhà.
Trên con ngựa nòi Miến Điện của mình, Adda đến chỗ đoàn người rồi lại phóng về nhà để báo tin bốn người khách và các anh trai mình bình an vô sự. Hai chú voi lại có chủ mới: Nguyên do là Hélène bày tỏ ý muốn mua lại chúng, vốn thông minh như chúng, họ sẽ dùng chúng để canh giữ và bảo vệ ngôi nhà. René tuyên bố với hai chị em rằng kể từ lúc đó, các cô có thể giữ chúng lại làm tài sản cho mình. Anh sẽ nhờ ngài Shabunder làm trung gian thương lượng việc mua bán với ông chủ voi.
Tối hôm ấy, Jane lên cơn sốt. Người ta cho là cô bị mệt vì chuyến đi trong ngày. Chị cô ở bên cô còn René và James nói chuyện ở bên ngoài.
Họ nhờ Adda vào xem tình hình của Jane ra sao. Cô kể rằng khi lại gần phòng họ, cô nghe thấy có tiếng khóc, e là thiếu tế nhị nên cô không vào mà rút lui.
James nhận thấy René rất quan tâm đến tình cảm của hai cô gái, đặc biệt là của Jane vì Adda khẳng định là chỉ cô em khóc thôi nên anh ta hứa hôm sau sẽ không nói với René vì sao cô bé lại buồn như vậy.
Ở miền đất nóng như đổ lửa này, ban đêm rất mát. Chính vì thế hai anh chàng đi dạo rất muộn, đến tận một giờ sáng. Họ nhìn qua tấm rèm bằng vải mousseline thấy ánh nến vẫn run rẩy trong phòng Jane như một ánh sao lạc loài trong màn hơi sương.
René vốn từng học nhiều môn khoa học nên anh cũng có nhiều cơ hội hoặc sau các cuộc giao đấu hoặc ở hoàn cảnh đặc biệt bộc lộ khả năng y thuật của mình. Có lẽ vì vậy mà anh thấy buồn hơn là ngạc nhiên khi thấy ngày hôm sau James đến thay mặt Hélène cầu xin anh đến thăm Jane, cô bé ngày càng đau đớn.
Thâm tình bấy lâu giữa họ khiến anh thấy thật kỳ cục khi từ chối lời mời ấy. Có lẽ Jane đã muốn gặp riêng René vì khi René muốn Hélène đưa mình sang phòng cô em, Hélène bảo sự hiện diện của cô có khi làm hỏng sự ý tứ của cuộc nói chuyện.
Vậy là René vào phòng một mình, khẽ gõ cửa. Một giọng run run cất lên:
- Mời vào.