Còn chiếc Zuikaku thì mất hầu hết số máy bay của mình.
Zuikaiku
Bị tấn công
Những chiến đấu cơ Zero và máy bay phóng ngư lôi của Nhật liên tục công kích chiếc Lexington. Nó đã không gặp may trong ngày hôm nay. Ban đầu, khi đang cất cánh 1 trong 4 tiêm kích cơ được chỉnh định để bảo vệ máy bay ném bom đã đâm vào đuôi một chiếc máy bay khác. Thêm 3 tiêm kích cơ nữa bị hạ. Còn phi đội máy bay phóng lôi thì phí thời gian vô ích khi không thể tìm ra mục tiêu. Cuối cùng, số tiêm kích cơ ít ỏi còn lại cạn nhiên liệu và đối mặt với 20 chiếc Zero. Những chiếc Zero đã hạ họ, từng chiếc một. Còn chiếc Yorktown thì bị hư hại nhẹ, mặc dù hứng chịu khá nhiều đòn đánh. Sau này, người ta chỉ mất có 3 ngày để sữa chữa nó ở Trân Châu Cảng thay vì 6 tháng, và nó kịp tham gia trận Midway.
Trận hải chiến trong biển San hô hoàn toàn diễn ra trên và từ không trung. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một trận hải chiến diễn ra mà không tàu của bên nào nhìn thấy nhau. Những ước tính của người Mỹ tỏ ra thận trọng. Họ cho rằng 1 trong 2 tàu sân bay của Nhật đã bị hư hỏng, nhưng vẫn có thể chiến đấu được. Tuy vậy, người Nhật thì cho rằng họ đã thắng. Họ báo cáo rằng cả 2 tàu sân bay Mỹ đã bị đánh chìm. Trong trận hải chiến tàu sân bay lớn đầu tiên trong lịch sử, người Nhật có vẻ thắng thế.
2h47 chiều, một trong số những ngư lôi đánh trúng Lexington đã làm vỡ một số thùng nhiên liệu của con tàu này. Hơi xăng đang toả ra. Cả phòng điện năng đang là một quả bom nổ chậm. Và khi nó nổ, tất cả thông tin liên lạc bị ngắt. Ban hàng không của con tàu vẫn cho phép các máy bay hạ cánh. Còn bộ phận kiểm soát thiệt hại thì cố gắng ngăn chặn ngọn lửa khi mà nhiệt độ đã lên đến 150 độ C.
Two destroyers approaching the Lexington on the afternoon of May 8. This was likely taken from the cruiser U.S.S. Minneapolis.
4h chiều, Lexington đề nghị Yorktown cho hạ cánh 14 chiếc máy bay còn lại của mình. Tất cả thủy thủ đoàn được chuyển về phía cuối tàu. 4h30, tất cả các vị trí được bỏ ngỏ, con tàu mất hoàn toàn năng lượng. Nó đã thật sự bị chết. 4h35, 3 khu trục hạm Anderson, Hammann, Morris chạy vòng quanh chiếc Lexington. Tuần dương hạm Minneapolis và New Orleans cũng dừng lại để chờ giúp đỡ. 5h07 chiều, đô đốc Fitch ra lệnh từ trên đài chỉ huy, “Hãy đưa tất cả mọi người ra ngoài”, đó là mệnh lệnh bỏ tàu. Đến 6h tối, hầu hết trong số 2700 thủy thủ và sĩ quan đã rời Lexington và lên boong những khu trục hạm. Ngay cả chú chó của Fitch, được bọc trong áo phao, cũng được một con tàu gần đó vớt lên.
Rời tàu
Số phận cuối cùng của con tàu
6h10 tối, mệnh lệnh chấm dứt sự tồn tại của Lexington được đưa ra. Phó đô đốc Thomas C.Kinkaid ra lệnh “Biệt phái một tàu khu trục đánh đắm Lexington bằng ngư lôi, rồi gia nhập lại đội hình ngay lập tức. Lexington là tổn thất chính của nước Mỹ trong trận chiến. Tin chắc rằng hạm đội Thái Bình Dương đã giành được thắng lợi cuối cùng, những người Mỹ buồn bã nhìn chiếc Lexington từ từ chìm vào lòng biển trong giờ phút chiến thắng.
Khi màn đêm buông xuống, đô đốc Fletcher lưỡng lự không biết có nên tiếp tục phát động một đợt tấn công mới nhằm vào quân Nhật không. Câu trả lời của đô đốc Nimitz từ Trân Châu Cảng là yêu cầu Fletcher rút khỏi biển San hô. Hạm đội quay về hướng nam mà không ý thức rằng họ đang ở gần xác tàu Neosho cùng những người sống sót đang chờ đợt tuyệt vọng.
Đô đốc Inouye từ Rabaul ra lệnh hoãn cuộc tấn công vào Moresby vô thời hạn. Mất chiếc Shoho, cùng với việc Shokaku bị hỏng nặng, ông ta không muốn liều lĩnh. Khi đô đốc Yamamoto, tổng tư lệnh hạm đội liên hợp biết quyết định đó, ông ta gần như nổi điên. Ông yêu cầu đô đốc Takagi quay lại vùng biển San hô và quét sạch lực lượng Mỹ ra khỏi đó ngay lập tức.
Đô đốc Fletcher vẫn sẵn sàng tiếp tục chiến đấu. Tờ “New York Times” gọi đây là một thắng lợi vĩ đại của Mỹ và cho rằng 17 trong số 22 chiến hạm Nhật bị chìm. Còn ước tính của Fletcher về thiệt hại của đối phương là 2 khu trục hạm, 3 tàu vận tải, 4 thuyền chiến, 1 tuần dương hạm, một tàu sân bay hạng nhẹ, cùng một tuần dương hạm hạng nhẹ khác bị mắc cạn. Số máy bay Nhật bị rơi là khoảng 144, tổng số thương vong là 5100. Tổn thất về phía Mỹ là 1 tàu sân bay, một khu trục hạm và một tàu chở dầu, 66 máy bay và 543 người thiệt mạng.
Thiệt hại chi tiết do quân Mỹ thống kê có thể xem ở dưới đây
Thiệt hại của người Nhật
Ships sunk: Date
1 carrier--Shoho May 7
1 light cruiser May 7
2 destroyers May 4
1 cargo ship or transport May 4
4 gunboats May 4
9 units
Ships damaged:
1 carrier--Shokaku May 8
1 aircraft tender May 4
2
Aircraft destroyed:
33 fighters May 7 and 8
3 4 engined patrol bombers May 5, 7, and 8
5 floatplanes May 7 and 8
17 torpedo planes May 7 and 8
30 planes aboard Shoho
104
Thiệt hại của quân Mỹ
Ships sunk:
1 carrier--Lexington May 8
1 oiler--Neosho May 7
1 destroyer--Sims May 7
3
Ships damaged:
1 carrier-Yorktown May 8
1
Aircraft destroyed:
15 Lexington planes in combat May 7 and 8
35 Lexington planes with ship May 8
16 Yorktown planes in combat May 4, 7, and 8
66
Our personnel losses were estimated at 543; the enemy's at anywhere from 2,000 to more than 5,000.
Vào nửa đêm, khu trục hạm Mỹ USS Henley hướng về phía chiếc Neosho mà không biết. Những người sống sót đã đấu tranh và chống chọi trong 2 đêm liền. Khi chiếc Henley cách Neosho 15 hải lý, nó nhận được báo cáo rằng phía trước đang có tàu sân bay địch và quay trở lui.
Ngày 10/5/1942
12h30, chiếc Neosho đang chìm dần. Đúng lúc đó một chiếc Hudson của Australia bay ngang qua, những con người khốn khổ cầu nguyện rằng nó sẽ thấy họ. Khi đêm xuống, những người sống sót tiếp tục tuyệt vọng. Họ không biết liệu con tàu có thể chịu được hết đêm nay. Những người trên bè cứu sinh đang chết dần, từng người một.
Ngày 11/5/1942
Cuối cùng thì chiếc USS Henley cũng tới được chỗ chiếc Neosho, 109 người trên Neosho và 14 người trên chiếc Sims được đưa lên tàu. 21 người thiệt mạng. Chiếc Neosho bị Henley đánh chìm vào lúc 2h28 chiều.
Thoạt nhìn, thì trận hải chiến trên vùng biển San hô có vẻ là một thắng lợi cho người Nhật. Họ chỉ mất một tàu sân bay hạng nhẹ và đã đánh chìm chiếc Lexington. Nhưng nếu như nó là một thắng lợi chiến thuật của người Nhật thì lại đồng thời là thắng lợi chiến lược cho Đồng minh. Nó chấm dứt sự bành trướng xuống phía nam của Nhật, chặn đứng đà tiến công vũ bão của họ, ngăn chặn nguy cơ Australia và New Zealand bị cô lập. Cùng với chiến thắng ở Midway không lâu sau đó, người Mỹ đã chấm dứt ưu thế thống trị trên mặt biển của người Nhật.
Kế hoạch chiến tranh của Hải quân Nhật Đô đốc Isoruku Yamamoto, tổng tư lệnh hạm đội liên hợp Nhật, đã bị choáng váng bởi cuộc tập kích đường không ngày 18/4/1942 của 18 chiếc máy bay ném bom hạng trung B-25 do trung tá Doolittle chỉ huy. Những máy bay này cất cánh từ trên boong của tàu sân bay Hornet, được hỗ trợ bởi tàu sân bay Enterprise, cách Nhật Bản khoảng 650 hải lý. Những máy bay này tấn công Tokyo, Yokosuka, và một số vị trí khác. Chúng không gây nhiều thiệt hại về vật chất, nhưng ảnh hưởng mạnh đến tinh thần người Nhật, vốn đang rất hưng phấn sau vụ tập kích Trân Châu Cảng. Bởi nếu máy bay Mỹ có thể tấn công Tokyo, nó cũng có thể ném bom Hoàng cung, và có thể làm hại Nhật Hoàng. Đối với Yamamoto, hành động này phải được cứu vãn, đồng nghĩa với một trận chiến quyết định. Ngay từ tháng 3, Yamamoto đã tập trung thuyết phục bộ tổng tham mưu hải quân Nhật rằng kế hoạch tấn công các đảo Samoa và Fiji phải bị huỷ bỏ để tập trung vào đảo Midway ở trung tâm Thái Bình Dương. Kế hoạch cho trận đánh được Yamamoto cùng bộ tham mưu của mình lập ra.
Chiến trường Thái Bình Dương
Tương tự như nhiều kế hoạch hải quân của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, kế hoạch trận đánh của Đô đốc Isoroku Yamamoto rất phức tạp và khó hiểu. Tin rằng người Mỹ đã mất tinh thần vì phải chịu nhiều thất bại trước người Nhật trong vòng sáu tháng trước đó, Yamamoto cảm thấy rằng mánh khóe cần thiết phải nhử được những phần chính của của hạm đội Hoa Kỳ vào trong một tình huống đặc biệt nguy hiểm. Hiểu theo nghĩa thường, ông chia các lực lượng của mình theo kiểu ở quy mô rộng nhất khiến cho chúng không bị người Mỹ phát hiện trước trận đánh có tính chất quyết định. Vì vậy, Yamamoto dàn các lực lượng tàu chiến và tuần dương hạm của mình và lực lượng tàu sân bay tấn công của Phó đô đốc Chuichi Nagumo thành một vệt dài hàng trăm dặm; kiểu này nhằm để đối đầu với các lực lượng bất kỳ nào của hạm đội Mỹ có ý định tới cứu trợ cho Midway, một khi các tàu sân bay của Nagumo đã tấn công làm cho chúng bị yếu đi. Không may cho người Nhật, vì nhấn mạnh tới yếu tố bí mật và việc phân chia lực lượng của họ đồng nghĩa với việc không một lực lượng nào trong hạm đội của họ có thể giúp đỡ được nhau, và nó đã dẫn tới sự chôn vùi lực lượng tàu sân bay của Nagumo trong cuộc chiến.
Kế hoạch của Yamamoto cũng xác nhận thông tin tình báo cho rằng chiếc Enterprise và Hornet, thuộc Lực lượng tấn công 16 là những chiếc tàu duy nhất đang hoạt động thuộc các lực lượng Thái bình dương của Mỹ ở thời điểm đó. Lexington đã bị đánh chìm và Yorktown bị hư hỏng nặng (và họ tin rằng nó đã chìm) tại Trận biển Coral chỉ một tháng trước, và người Nhật tin rằng chiếc Saratoga đang được sửa chữa ở bờ biển phía tây (West Coat) sau khi bị dính ngư lôi làm hư hại.
Toàn bộ lực lượng của Hạm đội liên hợp sẽ được phái đến để giao chiến với Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ quanh Midway. Việc tấn công và chiếm Midway chỉ là mục tiêu phụ, mục tiêu quan trọng nhất là tiêu diệt toàn bộ lực lượng tàu sân bay của hải quân Mỹ, khi chúng được phái đến để tăng viện cho Midway.. Việc triệt tiêu lực lượng tàu sân bay Mỹ đồng nghĩa với việc loại luôn Hải quân Mỹ khỏi cuộc chiến vì sau khi hầu như toàn bộ số thiết giáp hạm của Mỹ bị tiêu diệt ở Trân Châu Cảng, tàu sân bay là chỗ dựa cuối cùng cho hải quân Hoa Kỳ. Lực lượng của hạm đội liên hợp gồm 7 thiết giáp hạm, 10 tàu sân bay, 24 tuần dương hạm, và hơn 70 khu trục hạm, được phân chia ra thành khoảng 6 hạm đội. Đô đốc Yamamoto sẽ chỉ huy Thành phần chính, gồm các thiết giáp hạm Yamato, Nagato, Mutsu, những thiết giáp hạm mạnh nhất của hải quân Nhật. Ngoài ra, còn có tàu sân bay hạng nhẹ Hosho, với 8 máy bay chống tàu ngầm và nhiều khu trục hạm.
Hạm đội hàng không thứ nhất do phó đô đốc Nagumo Chuichi chỉ huy. Hạt nhân sức mạnh là 6 tàu sân bay hạng nặng. 2 thiết giáp hạm, 2 tuần dương hạm hạng nặng và một hải đội khu trục hạm sẽ tạo thành vành đai bảo vệ lực lượng tàu sân bay. Đây sẽ là lực lượng chính thực hiện kế hoạch của Yamamoto. Kỳ hạm của Nagumo là tàu sân bay hạng nặng Akagi.
Akagi
127mm AA guns 1941
Lực lượng đột kích Aleutians, do phó đô đốc Hosogaya chỉ huy. Lực lượng của nó gồm tàu sân bay hạng nhẹ, Ryujo, và chiếc Junyo, một tàu chở khách được biến đổi thành tàu sân bay. 4 thiết giáp hạm, Ise, Hyuga, Fuso, Yamashiro cùng mội đội tuần dương hạm và thiết giáp hạm.
Đô đốc Kondo Nobutake sẽ chỉ huy hạm đội 2, gồm các thiết giáp hạm Kongo, Haruna, tàu sân bay hạng nhẹ Zuiho. Nhiệm vụ của ông ta là bảo vệ cho lực lượng đổ bộ dưới quyền chuẩn đô đốc Tanaka Raizo.
Đầu tiên, Hosogaya sẽ tấn công các cơ sở của hải quân Mỹ ở cảng Dutch, quần đảo Aleutian (tây nam bang Alaska) để nhử tàu sân bay Mỹ quay về bảo vệ Alaska. Tiếp theo là một đợt không kích từ những tàu sân bay của Nagumo vào Midway. Sau đó, Nagumo sẽ ở tại chỗ và đợi hải quân Mỹ đến. Lực lượng Nhật cũng sẽ chiếm một số đảo ở quần đảo Aleutian, và đảo Midway. Rồi Thành phần chính cùng với lực lượng hỗ trợ của Kondo sẽ đánh đắm bất cứ tàu chiến nào của Mỹ. Ngoài ra, Yamamoto hy vọng sẽ có thể giảm được quy mô của lực lượng Mỹ bằng cách thiết lập một vành đai tàu ngầm được triển khai phía tây bắc quần đảo Hawaii vào khoảng
1/6/1942. Kế hoạch này được trình lên Bộ tổng tham mưu hải quân và được chấp nhận. Tuy vậy, lục quân muốn theo đuổi kế hoạch riêng của mình: chiến dịch MO.
Chiến dịch MO, chiếm đảo Tulagi và cảng Moresby trong vùng biển San hô, được sự hỗ trợ của 2 tàu sân bay hạng nặng Shokaku và Zuikaku. Đây là một sự phân chia nghiêm trọng lực lượng của Nagamo, 2 tàu sân bay này là 1/3 sức mạnh của Hạm đội hàng không số 1.
Sở dĩ đô đốc Yamamoto cho phép những tàu sân bay này tham gia MO vì ông tin rằng hải quân Mỹ đã hoàn toàn bị đánh bại và không thể phát động những chiến dịch lớn nữa. Nhưng ông đã lầm, trong trận hải chiến trên vùng biển San hô (8/5/1942), cả 2 chiếc tàu sân bay trên, cùng tàu sân bay hạng nhẹ Shoho, đã bị loại khỏi vòng chiến. (xem thêm trong bài Trận chiến biển San hô).
Trò chơi mật mã
Tình báo hải quân Hoa Kỳ (hợp tác với tình báo Anh và Hà Lan) đã biết được một số phần trong hệ thống bộ giải mã liên lạc gốc của Hải quân đế quốc Nhật (JN-25), và đã rất gắng sức nhằm có được những phiên bản về sau này, nó chỉ được tung ra ngay trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Việc thu thập được nhiều thông tin tình báo qua radio của hải quân Nhật từ lực lượng tấn công Doolittle Raid càng làm JN-25 mất giá trị.
Vì vậy, tới tháng 5, 1942 người Mỹ đã biết rằng người Nhật đang chuẩn bị tung ra một cuộc tấn công lớn nhằm vào một mục tiêu (được gọi là "AF" từ đầu tháng 6), và có thể hy vọng phục kích trước cuộc tấn công này. Mặc dù những phân tích về các dữ kiện đó, "Hypo," đơn vị mật mã của Nimiz tại Trân Châu Cảng, đã tin rằng "AF" chính là Midway. Mặt khác, cấp trên của Nimiz tại Washington, Đô đốc Ernest King, và đơn vị mật mã của riêng ông – OP-20-G – tin rằng AF thuộc Quần đảo Aleutian
Midway
Joseph Rochefort là chỉ huy của Văn phòng tình báo tác chiến. Đứng đầu một đội gồm những chuyên gia về toán, truyền thông, và mã hoá, Rochefort đã phá được mật mã của hải quân Nhật từ trước khi cuộc chiến bắt đầu và có thể đọc được ít nhất 10% nội dụng từ các bức điện của quân Nhật.
Trên lý thuyết, 10% là một con số nhỏ, nhưng với một người thông minh như Rochefort, chúng vẫn có thể có ích. Vào cuối tháng 4/1942, một số tín hiệu radio bị chặn lại và giải mã, nó cho thấy quân Nhật đang chuẩn bị cho một chiến dịch trong vùng biển San hô. Đô đốc Nimitz, tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương đã dựa vào những thông tin đó để chuẩn bị kế hoạch đối phó. Trong khi mà lực lượng Nhật và Mỹ vẫn còn đang giao chiến với nhau ở biển San hô, các nhân viên của Rochefort nhận thấy một sự tăng vọt các tín hiệu radio của phía Nhật. Họ khám phá ra rằng một chiến dịch mới đang hình thành, và sẽ bao gồm tất cả các đơn vị hạm đội mà người Nhật có thể có. Trong các thông điệp của phía Nhật, có nhắc đến địa danh “AF”, mặc dù không có chứng cứ cụ thể, nhưng Phòng tình báo cho rằng, AF ám chỉ Midway. Tuy vậy, những sĩ quan cấp cao tin rằng, nếu ở Thái Bình Dương có một nơi nào đó đáng để tập trung một lực lượng lớn đến vậy thì đó chỉ có thể là Midway.
Để chứng minh, Rochefort sử dụng một mẹo nhỏ. Ông yêu cầu Midway gửi đi một thông điệp, qua sóng vô tuyến không mã hoá, rằng máy lọc nước biển gặp trục trặc. Và ngay sau đó, các nhân viên của Rochefort bắt được một bức điện có nội dung “AF gặp vấn đề với máy khử muối của mình”.
Những gì mà Phòng tình báo cung cấp cho Nimitz thật vô giá. Đầu tiên, ông biết rằng mục tiêu của Yamamoto là Midway. Thêm nữa, ông cũng biết về vành đai tàu ngầm mà Yamamoto sắp thiết lập, cho phép ông triển khai lực lượng một cách an toàn. Cuối cùng, ông có thể yên tâm tập trung tất cả lực lượng quanh Midway.
Đô đốc Isoroku Yamamoto Tổng chỉ huy, kỳ hạm là thiết giáp hạm Yamato
Tham mưu trưởng Chuẩn đô đốc Matome Ugaki
Hải đội tầu ngầm số 3
I-168
I-169
1-171
I-174
I-175
Hải đội tầu ngầm số 5
I-156
I-157
I-158
I-159
I-162
I-164 ( bị tầu USS Triton đánh đắm ngoài khơi đảo Kyushu,17/5/1942).
I-165
I-166
Phân đội tầu ngầm số 13
I-121
I-122
I-123
Tiếp vận nhiên liệu từ Đảo Lisianski đến bãi ngầm French Frigate
Lực lượng cơ động số 1 ( lực lượng hàng không mẫu hạm xung kích)
Phó đô đốc Chuichi Nagumo chỉ huy phân đội HKMH số 1, kỳ hạm là chiếc Akagi
Tham mưu trưởng, đề đốc Ryunosuke Kusaka
Đô đốc Nagamo
Akaji
Year Completed 1927
Displacement 41,300 tons
Dimensions 855'3" x 102'9" x 28'7"
Speed 31 knots
Armament
10 (later 8) x 8"/50 Type I
12 x 4.7"/45
28 x 25mm/60
91 aircraft
Crew 2000
Akagi Air Group (số máy bay trên tầu )
21 Mitsubishi tiêm kích (Zeke)
21 Aichi Type 99 máy bay ném bom (Vals)
21 Nakajima Type 97 máy bay phóng ngư lôi (Kate)
[img]http://www.voodoo.cz/ww2car/pics/new3/kaga003.jpg/[img]
Kaga
Year Completed 1928
Displacement 42,541 tons
Dimensions 812'6" x 106'8" x 31'1"
Speed 28 knots
Armament
10 x 8"/50 Type I
16 x 5"/40
22 x 25mm/60
90 aircraft Crew 2016
Kaga Air Group (số máy bay trên tầu )
30 Mitsubishi tiêm kích (Zeke)
23 Aichi Type 99 máy bay ném bom (Vals)
30 Nakajima Type 97 máy bay phóng ngư lôi (Kate)
Đội hàng không mẫu hạm số 2
Chỉ huy đề đốc Tamon Yamaguchi
Đề đốc T.Yamaguchi
Hiryu
Hiryu Air Group (số máy bay trên tầu )
21 Mitsubishi tiêm kích (Zeke)
21 Aichi Type 99 máy bay ném bom (Vals)
21 Nakajima Type 97 máy bay phóng ngư lôi (Kate)
Soryu
Soryu Air Group (số máy bay trên tầu )
21 Mitsubishi tiêm kích (Zeke)
21 Aichi Type 99 máy bay ném bom (Vals)
21 Nakajima Type 97 máy bay phóng ngư lôi (Kate)
Phân đội tàu tuần dương số 8
Chỉ huy đề đốc Hiroaki Abe
Tone
Chikuma
Phân đội thiết giáp hạm số 3
Haruna
Kirishima
Lực lượng yểm hộ
Đề đốc Susumu Kimura chỉ huy liên đội khu trục hạm số 10
Kỳ hạm là chiếc tuần dương hạm hạng nhẹ Nagarain
Hải đội khu trục hạm số 10
Kazagumo
Yugumo
Makigumo
Akigumo , nhiệm vụ hộ tống cho các tầu tiếp liệu 6/1942
Hải đội khu trục hạm số 17
Isokaze
Urakaze
Hamakaze
Tanikaze
Hải đội khu trục hạm số 4
Arashi
Nowake
Hagikaze
Maikaze
Đơn vị tầu tiếp liệu, tầu chở dầu
Kyokuto Maru
Shinkoku Maru
Toho Maru
Nippon Maru
Kokuyo Maru
Lực lượng tấn công Midway
Phó đô đốc Nobutake Kondo Chỉ huy trưởng hạm đội số 2
Tham m ưu trưởng Đ ề đốc Kazutaka Shiraishi
Lực lượng yểm trợ
Phó đô đốc Kondo
Hải đội tuần dương hạm số 4
Atago
Chokai
Hải đội tuần dương hạm số 5
Phó đô đốc Takeo Takagi
Myoko
Haguro
Hải đội thiết giáp hạm s ố 3
Đề đốc Gunichi Mikawa
Kongo
Hiei
Yểm hộ
Liên đội khu trục hạm số 4
Đề đốc Shoji Nishimura, kỳ hạm Yura (Light Cruiser)
Liên đội khu trục hạm số 2
Murasame
Harusame
Yudachi
Samidare
Liên đội khu trục hạm số 9
Asagumo
Minegumo
Natsugumo
Lực lượng hậu cần
Tầu chở dầu
Genyo Maru
Kenyo Maru
Sata
Tsurumi
Tầu sửa chữa
Akashi
HKMH hạng nhẹ
Zuiho
12 Mitsubishi tiêm kích (Zeke)
11 Aichi Type 99 máy bay ném bom (Vals)
Khu trục hạm
Mirazuki
Lực lượng bảo vệ hậu quân
Đề đốc Takeo Kurita, Chỉ huy tuần dương hạm số 7
Hải đội tuần dương hạm số 7
Suzuya
Kumano
Mogami.
Mikuma.
Hải đội tuần dương hạm số 8
Asashio.
Arashio
.
Tầu dầu
Nichiei Maru
Đội tầu vận tải
Đề đốc Raizo Tanaka, Chỉ huy liên đội khu trục hạm số 2
Gồm 12 tầu vận tải với khoảng 5000 binh lính và sĩ quan
.
Tầu dầu
Akebono Maru
Hộ tống
Liên đội khu trục hạm số 2
Kuroshio
Oyashio
Hatsukaze
Yukikaze
Amatsukaze
Tokitsukaze
Kasumi
Arare
Kagero
Shiranuhi
Biên đội thủy phi cơ
Đề đốc Ruitaro Fujita
Các tầu chở thủy phi cơ
Chitose - 20 thủy phi cơ trinh sát
Kamikawa Maru 8 thủy phi cơ trinh sát
Lực lượng chính ( Hạm đội số 1 )
Đô đốc Yamamoto
Hải đội thiết giáp hạm số 1
Yamato
Mutsu
Nagato
Hàng không mẫu hạm hạng nhẹ
Hosho
8 Nakajima Type 97 máy bay phóng ngư lôi (Kate)
Khu trục hạm
Yukaze
Tầu chở thủy phi cơ
Chiyoda
Nisshin – mang theo 2 xuồng phóng ngư lôi v à 6 tầu ngầm bỏ túi
Yểm hộ
Liên đội khu trục hạm số 3
Đề đốc Shintaro Hashimoto
Hải đội khu trục hạm số 11
Fubuki
Shirayuki
Hatsuyuki
Murakumo
Hải đội khu trục hạm số 19
Isonami
Uranami
Shikinami
Ayanami
Hải đội khu trục hạm số 20
Amagiri
Asagiri
Yugiri
Shirakumo
Biệt đội trực thuộc lực lượng chính
Phó đô đốc Shiro Takasu
Hải đội thiết giáp h ạm số 2
Ise
Hyuga
Fuso
Yamashiro
Hải đội tuần dương hạm hạng nhẹ số 9
Đề đốc Fukuhara Kishi
Kitagami
Oi