Ba ngày sau, tôi gặp vị khách Quân sư phụ đã thu xếp cho tôi, Thẩm Tống Thị Tống Ngưng, phu nhân của Khương quốc tướng quân Thẩm Ngạn đồn trấn biên ải. Nói là “khách” cũng chưa thỏa đáng, bởi vì rút cục không biết cô mua một giấc mộng đẹp từ tôi, hay tôi mua một sinh mệnh từ cô.
Đó là một biệt viện ở ngoại thành, nghe đồn Thẩm Ngạn tướng quân bất hòa với phu nhân, hai năm trước, Tống Ngưng đã chuyển tới tĩnh dưỡng ở biệt viện này, sau không quay về phủ tướng quân nữa. Trong hai năm, đã xảy ra khá nhiều biến cố như, Thẩm Ngạn nạp thiếp, Tống Ngưng bị bệnh. Tóm lại, sức khỏe của Tống Ngưng càng tĩnh dưỡng lại càng suy yếu, bây giờ gần như sắp chết.
Lão bộc ra đón chúng tôi cho biết, phu nhân muốn gặp riêng tôi, ba người Tiểu Lam, Quân Vỹ và Chấp Túc được đưa về nghỉ ở nhà ngang. Tiểu Lam không ý kiến gì, Quân Vỹ rất không hài lòng, tôi hiểu, anh ta lo cho sự an toàn của tôi. Nhưng tôi không hiểu, với tình trạng một người đã chết như tôi, như thế nào là bảo đảm an toàn. Mọi người thảo luận rất lâu, quyết định để Tiểu Hoàng đi cùng tôi. Quân Vỹ xoa đầu Tiểu Hoàng, căn dặn: “Con trai, cố gắng bảo vệ mẹ nuôi thật tốt”.
Tôi cũng xoa đầu Tiểu Hoàng, vừa ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt của Tiểu Lam, không biết anh ta có ý gì, lại nhìn tôi cười: “Quân cô nương đi sớm về sớm”.
Lão bộc dẫn tôi qua hai dãy hành lang, qua những khu vườn hoa lá tốt tươi, vừa đi vừa giới thiệu, những loài cây, giống hoa này được chuyển từ đâu tới, có mùi kỳ hương thế nào nhưng tôi chẳng ngửi thấy gì. Vòng qua một hồ sen rộng, bước lên ngôi thủy tạ trên hồ sen đó, bốn bề có rèm chắn gió. Người phụ nữ nằm trên chiếc giường mây đọc sách ngẩng đầu nhìn tôi.
Tôi nhìn khuôn mặt của cô như được in ra từ bức họa. Mặc dù gắng tỏ ra vui vẻ nhưng vẫn trắng bợt, ủ rũ. Cho dù tôi không lấy đi tính mạng của cô, thì cô cũng chẳng sống được bao lâu. Điều này không có nghĩa là tôi biết xem tướng mà chỉ là vì trong chuyện này không ai có kinh nghiệm bằng tôi, đó là khuôn mặt của một người sắp chết.
Huống hồ, tôi đến đây là để lấy tính mạng của cô. Trong một thời gian ngắn, nếu cô không chết tự nhiên, tôi cũng phải làm cho cô chết bất ngờ.
Gió lay nhẹ bức rèm, bây giờ đã là tháng năm. Thẩm phu nhân đặt cuốn sách xuống, ho nhẹ, lặng lẽ nhìn Tiểu Hoàng đang nằm phục trên đất, một hồi lâu, nhẹ nhàng nói: “Một chú hổ thật hiền, lúc chưa xuất giá, ở quê nhà ta cũng nuôi một con sói nhỏ”. Cô giơ tay, “To bằng ngần này”. Ngón tay cô như bông hoa lan phác ra một hình trên không, dừng lại, khẽ lắc đầu mỉm cười, rồi nhìn tôi, ánh mắt kỳ dị: “Cô nương chính là Quân Phất? Người mà Quân sư phụ nói có thể giúp tôi thực hiện tâm nguyện bấy lâu?”.
Tôi trả lời: “Dạ phải”. Lúc trả lời như vậy, thực sự tôi chưa nhớ ra Quân Phất là ai. Điều đó chứng tỏ tôi không phải là người có mới nới cũ. Tôi đã là Diệp Trăn được mười bảy năm, tràn đầy tình cảm với cái tên đó, mặc dù đổi tên đã lâu, cũng không thể dễ dàng quên được.
Cô đặt tay lên mép giường mây, khe khẽ gật đầu, sắc mặt trắng xanh trầm lại dần dần ửng hồng, nhìn rõ lúm đồng tiền rất sâu trên má. Một lúc lâu sau, cô cười: “Quân Phất, tôi muốn có một giấc mơ, cô có biết tôi muốn có giấc mơ thế nào không?”. Tôi ngồi trên lưng Tiểu Hoàng, trang nghiêm nhìn cô: “Tôi không biết, nhưng phu nhân cần nói cho tôi biết”. Nghĩ một lát lại thêm: “Tuy vậy, không phải tôi tới giúp phu nhân, chỉ là đến làm một cuộc trao đổi. Tôi không cần núi vàng núi bạc, mấy ngày lưu ở Nhạc thành này chỉ xin phu nhân bữa cơm. Tôi có thể cho phu nhân một giấc mơ đẹp, phu nhân muốn một giấc mơ thế nào, tôi sẽ cho phu nhân giấc mơ như thế. Phu nhân có thể tự lựa chọn, ở lại trong giấc mơ đó, hay thoát ra ngoài”.
Cô tỏ ra rất ngạc nhiên: “Sao?”.
Tôi gật đầu: “Nếu phu nhân lựa chọn thoát ra khỏi giấc mơ, tôi không cần một xu tiền công, nhưng nếu phu nhân lựa chọn ở lại trong mơ…”.
Cô hơi nheo mắt: “Nếu tôi chọn ở lại trong mơ, Quân cô nương, cô sẽ thế nào?”.
Tôi nhìn vào mắt cô: “Nếu phu nhân lựa chọn ở lại trong giấc mơ, hãy trả thù lao cho tôi bằng tính mệnh của phu nhân trên trần thế, phu nhân thấy thế nào?”.
Hàng lông mày thanh tú khẽ nhướn, rồi ngoảnh nhìn bầu trời bên ngoài thủy đình, trầm ngâm hồi lâu, cô đột nhiên mỉm cười: “Được”.
Ngày hôm đó, tôi không đi sớm về sớm như lời dặn của Tiểu Lam, ngồi trong thủy đình rất lâu. Bởi vì Tống Ngưng kể chuyện cho tôi nghe, đó là tâm nguyện của cô. Cô muốn sửa lại câu chuyện đó, dẫu chỉ trong mơ. Đương nhiên chỉ là tự dối mình. Nhưng cô không hiểu điều đó, nên mới khao khát một giấc mơ như vậy.
Rèm ở bốn phía được kéo lên, phía xa là mặt hồ đầy nắng. Cô uống vài giọt máu của tôi pha với nước trà, huyết dịch kích thích sinh khí trong người tụ lại, hóa thành những nốt nhạc nhảy múa, xếp hàng trước mặt tôi. Tôi ghi nhớ từng nốt một, đó là Hoa Tư điệu của Tống Ngưng.
Trong ánh sáng từ mặt hồ hắt lên, cô dần dần nhớ lại. Còn tôi đã nhập tâm Hoa Tư điệu đang nhảy múa trước mặt, nhìn thấy từng cảnh, từng cảnh quá khứ của cô. Cô chậm rãi: “Quân cô nương chắc từng nghe nói, tuy tôi là phu nhân Khương quốc tướng quân, nhưng lại không phải là người nước Khương. Bảy năm trước, tôi mười bảy, cũng bằng cô bây giờ, được gả tới nước Khương, lòng tràn trề tình yêu mãn nguyện, thực là những ngày đẹp như hoa…”.
Trong những ngày đẹp như hoa đó, Tống Ngưng, em gái Tống Diễn đại tướng quân nước Lê tình cờ gặp Thẩm Ngạn trên chiến trường cuộc chiến giữa hai nước Khương, Lê. Lúc đó, Thẩm Ngạn tướng quân là viên tướng trẻ nhất nước Khương, có cặp mày uy nghiêm, tài năng trác việt, uy danh lẫy lừng bách chiến bách thắng.
Tống Ngưng xuất thân trong một gia đình võ tướng danh giá, từ nhỏ đã được dạy dỗ nghiêm khắc như một cậu con trai, lúc còn bé tí đã ngơ ngẩn ngắm nhìn thanh kiếm chuôi có dải lụa hồng, mười bốn tuổi đã theo huynh trưởng chinh chiến bốn phương.
Tuổi mười sáu, mười bảy, là lúc các khuê nữ bận rộn chuẩn bị đồ thêu cho ngày xuất giá, còn Tống Ngưng với cây kiếm mang dải lụa hồng lại lập công xuất sắc ngoài trận mạc. Nước Lê từ cổ nhiều nam ít nữ, các cô gái vô cùng đắt giá. Mùa xuân năm Lê Trang Công thứ mười bảy, những gia đình danh giá phàm có con gái đến tuổi cập kê, đều bị các đám dạm hỏi giẫm mòn bậu cửa. Nhưng phủ đệ đại tướng quân danh giá như vậy lại vắng vẻ đìu hiu, không vị công tử quý tộc nào dám lấy Tống Ngưng.
Mọi người đều sợ, cưới cô vợ như Tống Ngưng, nếu nạp thiếp, với dòng máu con nhà võ sẽ bị cô đánh chết. Lê Trang Công có thiện ý đích thân đứng ra làm mối gả Tống Ngưng cho nhị công tử ở phủ thừa tướng. Nhị công tử vừa nghe chuyện sợ đến nỗi ngã từ lưng ngựa xuống.
Tống Ngưng đang ở chiến trường nghe tin đó, đứng trầm ngâm rất lâu bên bờ suối. Tống Diễn tìm thấy cô, cau mày, nói: “Muội đừng lo, đó chỉ là những kẻ nhát gan, huynh sẽ có cách để hắn nhất định phải lấy muội”.
Tống Ngưng mỉm cười: “Huynh đừng giận, bọn chúng là những gã công tử ham chơi trói gà không chặt, chúng không thích muội, huynh tưởng muội thích chúng sao? Tống Ngưng nếu lấy chồng, cũng phải lấy anh hùng hào kiệt”.
Vốn tưởng nói vậy để chứng tỏ Tống Ngưng không bận tâm chuyện bị nhị công tử ruồng bỏ. Nhưng sau đó không lâu, quả nhiên gặp được vị anh hùng của đời mình. Chính vào mùa đông năm đó, vị anh hùng cưỡi con hắc mã, tay cầm thanh kiếm nặng bốn chục cân, họ Thẩm tên Ngạn, tự Bạc Đan.
Mùa đông năm Lê Trang Công thứ mười bảy, tiết trời giá lạnh khác thường, tuyết phủ trắng khắp nơi, ở biên giới hai nước Lê, Khương bỗng xuất hiện một đàn ngựa hoang, hai nước đều muốn nhận là của mình, không bên nào nhường bên nào, dẫn tới xích mích, hận thù, cuối cùng gây nên đại chiến. Tống Ngưng từ lâu đã nghe nói chiến công hiển hách của Thẩm Ngạn, nhưng thâm tâm không phục, luôn muốn tìm cơ hội so tài với chàng.
Cuối cùng vào một ngày, tuyết rơi dày đặc, hai nước giao tranh trước ải Ngọc Lang. Thời cơ hiếm hoi đã đến, Tống Ngưng, một người vốn điềm đạm cẩn trọng, lại bất chấp ánh mắt cảnh báo của đại huynh, quất ngựa xông lên, hét tên mình và gọi: “Tử Vi thương Tống Ngưng đến lĩnh giáo cao chiêu của Thẩm Ngạn Thẩm tướng quân”. Gió lạnh ù ù truyền tiếng nói như vỡ họng của Tống Ngưng tới trận địa quân Trần. Lá cờ bay phần phật, một vị tướng trẻ mình vận bạch bào cưỡi ngựa khoan thai đi tới. Khuôn mặt anh tuấn lạnh lùng, thanh kiếm lạnh như nước trong tay lóe sáng.
Trong trận thách đấu đơn phương đó, kiếm pháp của Tống Ngưng chưa bao giờ vụng về đến vậy, chưa đầy năm chiêu, cô đã bị ngã ngựa, suốt ngần ấy năm chinh chiến chưa bao giờ thất bại nhanh như vậy, thảm hại như vậy. Nhưng đối phương vẫn không đổi sắc mặt, chỉ khi dùng mũi kiếm hất mũ giáp trên đầu cô, mới ngạc nhiên thốt lên: “Thì ra là một tiểu thư”.
Tống Ngưng yêu Thẩm Ngạn vì chàng đánh bại cô. Đó cũng là nguyên nhân tục đấu võ kén chồng rất thịnh hành sau đó, các cô gái mạnh mẽ ngày càng nhiều, các cô gái mạnh mẽ khi lựa chọn lang quân đều mang một trái tim của Độc Cô Cầu Bại(*).
Muốn có được cô, trước hết phải đánh bại cô. Chỉ cần đánh bại cô, tất sẽ có được cô. Nếu đánh bại cô, lại không muốn có cô, sẽ bắt đầu một cuộc tình bi thảm.
Tóm lại, cây thương buộc dải lụa hồng bị thanh trường kiếm trong tay Thẩm Ngạn đánh bật ra cách đó hai trượng. Chàng ngồi trên lưng ngựa, hơi cúi xuống, mũi kiếm chớp mắt đã hất lên cây thương dài trên đất, tung lên rồi cắm phập bên cạnh Tống Ngưng, giọng dửng dưng: “Cây thương của tiểu thư”. Gió lạnh mang theo tuyết lồng lộn tung hoành, trong mắt chàng là ba vạn hùng binh phía sau cô, môi cô ẩn nụ cười, trong mắt cô có chỉ hình bóng chàng.
Thẩm Ngạn sừng sững uy nghiêm như trái núi trong lòng Tống Ngưng. Con chiến mã đen tuyền, bộ chiến bào lóng lánh như ánh trăng bạc, đường kiếm mau lẹ, chuẩn xác, quyết không chịu đớn hèn trong vòng tay đàn bà. Cô nghĩ, đó mới là vị anh hùng của lòng mình, đáng tiếc, đó lại là vị anh hùng của phía địch quân.
Nhưng anh hùng cũng có lúc thất bại, hơn nữa rồi sẽ thất bại. Các bậc hào kiệt trong lịch sử xứng danh hai chữ “danh tướng” đều như vậy, không phải đã thất bại, thì cũng sắp thất bại.
Thế là, Thẩm Ngạn gặp Tống Ngưng, từ đó chàng dần dần thất bại… Thực ra, thì cũng không nói như thế được, nói như vậy không đúng, nói như thế có vẻ Tống Ngưng quá ưu thế. Thẩm Ngạn bị thua trong trận chiến trên cánh đồng hoang Thương Lộc quả thật không liên quan đến cô, các nhà quân sự phân tích rất lâu, tìm ra lý do đáng tin cậy nhất có lẽ là sao chiếu mệnh của Thẩm Ngạn chỉ ra ngày hôm đó chàng không nên xuất hành.
Trong trận chiến trên cánh đồng hoang Thương Lộc, Thẩm Ngạn bị thua dưới tay đại tướng quân Lê quốc Tống Diễn, năm vạn tinh binh đi theo bị tiêu diệt, bản thân chàng cũng trúng mấy mũi tên, suýt mất mạng. Lúc trời vừa rạng, con chim ưng của Tống Diễn bay qua sa mạc, nghiêng cánh chao liệng, rồi đậu xuống tay Tống Ngưng. Tống Ngưng lấy ra ống tre nhỏ buộc ở chân chim, trong đựng mảnh thư lụa báo tin chiến thắng, tay run run, mảnh thư lụa nhỏ bằng bàn tay rơi xuống, con chữ nhập nhòa nghiêng ngả. Tống Ngưng không thể tin Thẩm Ngạn đã chết, bởi thâm tâm cô đã coi Thẩm Ngạn là vị anh hùng bất khả chiến bại. Chưa đầy ba ngày, vị anh hùng đã bại trận, cô không thể chấp nhận điều đó.
Tống Ngưng mang theo thuốc, phi ngựa ra khỏi quân doanh. Cô nghĩ, nếu Thẩm Ngạn chưa chết, bất luận thế nào cô cũng cứu sống chàng. Còn nếu Thẩm Ngạn đã chết, cô phải tìm được thi thể, tự tay chôn cất chàng. Thẩm Ngạn không thể trở thành bộ xương vô chủ.
Thẩm Ngạn là người đầu tiên khiến cô rung động, chàng là người đàn ông đích thực, khác hẳn những gã công tử nhà giàu tầm thường ở nước Lê. Kỳ thực làm sao cô biết chàng có phải là người đàn ông đích thực hay không. Cô cũng chưa từng thử, tất cả đều là tưởng tượng, và trong tưởng tượng cô lại càng yêu chàng.
Một ngày trời âm u, gió sa mạc sắc như dao, gió xoáy mang theo đá vụn quất vào mình ngựa, làm nó đau đớn hí vang, Tống Ngưng cúi rạp mình trên lưng ngựa, giữa sa mạc bao la, cô dùng dải sa trắng quấn ngang che mắt, cố bảo vệ số thuốc quấn trong người, nghiến răng phi ngược chiều gió, tay và mặt bị gió cát quất bỏng rát. Cô liếm vết thương trên tay, tiếp tục phi ngựa trong gió.
Cô thầm nghĩ, Thẩm Ngạn đang đợi cô ở phía trước. Niềm tin này giúp cô vượt qua quãng đường rất dài trong thời gian ngắn nhất, trên đường còn phải tránh đại quân của đại huynh thắng trận trở về quân doanh. Chung quy có lẽ chỉ mình cô nghĩ như vậy, thực ra, Thẩm Ngạn sao có thể đợi cô? Thậm chí chàng chưa hẳn còn nhớ cô.
Cánh đồng hoang Thương Lộc đã ở phía trước, những vũng máu bị gió cát phủ lấp quá nửa, giống như chiến trường bị bỏ quên lâu ngày, chỉ có mùi máu tanh vẫn nồng nặc trong không khí nhắc người ta cảnh địa ngục Tu La vừa mới diễn ra. Xác binh sĩ Khương quốc đen ngòm phủ kín cánh đồng Thương Lộc, vừa xuống ngựa đi vài bước, đã vấp phải xác người. Tống Ngưng tay không lật hơn hai ngàn xác chết. Điều đó có vẻ như cô và Thẩm Ngạn không có duyên với nhau. Nếu có duyên, thì xác đầu tiên lật thấy sẽ là Thẩm Ngạn. Nhưng cô vẫn kiên trì quyết không bỏ cuộc. Có lẽ quyết tâm của cô cuối cùng đã động đến trời xanh, khi lật đến xác thứ hai ngàn bảy trăm hai mươi tám, lau hết máu trên mặt một người, nhìn thấy đôi mắt vị anh hùng, cô ôm chặt chàng nghẹn ngào: “Thẩm Ngạn”.
Tống Ngưng đã không đoán nhầm, những bậc anh hùng thường cao số, Thẩm Ngạn vẫn còn sống. Cô ôm xác chàng nghe thấy tiếng rên vô thức của chàng khi bị chạm vào vết thương, lòng như trút được gánh nặng ngàn cân, nước mắt trào ra, chảy dài trên má: “Em biết mà, em phải đến”. Lúc này, chỉ có hai người giữa ngổn ngang xác chết, Thẩm Ngạn hoàn toàn không biết gì. Mặc dù giữa cảnh địa ngục, Tống Ngưng cũng nở nụ cười, cô ôm mặt khóc, nước mắt đầm đìa.
Tống Ngưng đã cứu sống Thẩm Ngạn. Thuở nhỏ, trong phủ cô đã từng học y, chỉ tiếc cô không có năng khiếu về mặt này, khi thành nghề cũng chỉ chữa được bệnh thương hàn nhẹ. Vết thương của Thẩm Ngạn lại rất nghiêm trọng, có lẽ ngay cả thần y Bách Lý Việt cũng chưa chắc chữa được. Trong tình hình thuốc thang thiếu thốn như vậy, Tống Ngưng lại không làm Thẩm Ngạn chết, ngược lại khiến chàng khá dần lên, chỉ có thể nói, tấm lòng cô một lần nữa thấu tận trời xanh.
Nhưng đôi mắt Thẩm Ngạn bị gió cát làm tổn thương, tạm thời chưa thể hồi phục. Chàng ngồi trong hang núi tuyết gần cánh đồng hoang Thương Lộc nhẹ nhàng vuốt thanh kiếm, lạnh lùng nói với Tống Ngưng: “Xin hỏi, ân nhân cứu mạng là một cô nương hay một vị công tử?”.
Nhưng cuối cùng Tống Ngưng không cho Thẩm Ngạn biết cô là ai. Đại quân nước Lê dẹp bằng cánh đồng Thương Lộc, tiêu diệt năm vạn tinh binh của Thẩm Ngạn, chắc chắn chàng căm hận người Lê đến tận xương tủy, cho nên sao cô có thể cho chàng biết mình là Tống Ngưng của nước Lê?
Nhưng ý trời khó đoán, đêm hôm đó, vết thương của Thẩm Ngạn phát tác, chàng sốt rất cao, rét run cầm cập, trong hang đốt bao nhiêu lửa cũng không đủ. Tống Ngưng lo lắng bồn chồn, trầm ngâm rất lâu, cuối cùng đành dùng một cách được ghi trong sách cổ, cô cởi bỏ xiêm y, ép người sát vào chàng, ôm chàng thật chặt.
Trong động bốn bề là lửa, nóng rừng rực, làm tan cả lớp băng trên vách động, nước theo kẽ nứt tí tách nhỏ giọt. Thẩm Ngạn bỗng bừng tỉnh, đẩy mạnh cô ra, cô lại ôm chàng chặt hơn, chàng bất lực nói: “Cô nương, không cần hủy hoại sự trong trắng vì tại hạ”.
Cô cười thầm, tay viết lên ngực chàng: “Lương tâm thầy thuốc mà, chớ bận lòng”. Kỳ thực, không phải lương tâm nào hết, chỉ là bởi vì đó là người cô yêu, là vị anh hùng của cô, dùng cách gì cứu được chàng cũng rất đáng, dẫu phải đổi mạng cũng cam lòng, huống hồ chỉ là sự đụng chạm da thịt. Thẩm Ngạn không cự tuyệt nữa, nhẹ nhàng đặt tay lên vai cô: “Nếu cô nương không chê, khi tại hạ khỏi bệnh, xin đến quý gia cầu hôn cô nương”. Tống Ngưng run rẩy, gục đầu vào ngực chàng.
Từ sau đêm đó, tình trạng của Thẩm Ngạn vẫn rất nguy kịch, đêm ngày mê man. Chỗ thuốc đem theo cuối cùng cũng hết, không còn cách nào khác, cô định cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết vào trong trấn tìm lang y. Việc này thực sự vô cùng nguy hiểm, đầu tiên phải nghĩ tới tình hình thời tiết giá lạnh trên núi, họ có thể bị chết cóng trên đường đi, tiếp nữa, có thể gặp tuyết lở, có thể bị tuyết vùi, cuối cùng là có thể bị chết đói do lạc đường trên núi. Tóm lại, thực sự rất gian nan. Nhưng Tống Ngưng nghĩ đi nghĩ lại, cô quyết định cứ đi. Mặc dù ra khỏi hang núi đồng nghĩa với tự tìm cái chết, nhưng ở mãi trong hang cũng là tự tìm cái chết, mạo hiểm để may ra còn tia hy vọng sống. Nhưng cô chưa từng nghĩ đến chuyện để lại Thẩm Ngạn, một mình trở về quân doanh.
Ba ngày liên tiếp không nghỉ, cô cõng Thẩm Ngạn vượt qua núi tuyết. Khi đến được một y quán trong thị trấn, cũng là lúc sức cùng lực kiệt, chân tay trầy xước rớm máu, đặt Thẩm Ngạn xuống rất lâu nhưng Tống Ngưng vẫn không thể nào đứng thẳng lên được.
Thẩm Ngạn vẫn mê man.
Gần mười ngày cô không trở về quân doanh, Tống Diễn vô cùng lo lắng, phái thuộc hạ đi tìm khắp nơi. Cô vừa tới thị trấn, liền nhìn thấy thuộc hạ của đại huynh, biết là không thể ở lại lâu hơn, liền đập miếng ngọc bội của mình thành hai mảnh. Một nửa dùng sợi tơ đỏ xuyên qua đeo lên cổ Thẩm Ngạn, một nửa mình giữ, coi đó là tín vật về sau. Cô gửi gắm Thẩm Ngạn cho hai ông cháu vị đại phu ở y quán, để lại năm lượng vàng, dặn dò: “Đây là Khương quốc tướng quân của các vị, hãy chữa khỏi cho chàng, nhất định sẽ được hậu thưởng xứng đáng”. Vị đại phu có tuổi quỳ sụp trước mặt cô, đứa cháu gái bị câm đứng bên đỡ lấy ông, giơ tay ra hiệu điều gì mà Tống Ngưng không hiểu.
Bàn tay cô vuốt nhẹ mắt Thẩm Ngạn, khuôn mặt chàng trắng bệch, vẫn hôn mê sâu, chàng không hay biết cô sắp phải rời đi.
Tống phu nhân kể cho tôi nghe câu chuyện đó, còn những chuyện không có trong ký ức của cô tôi lại nhìn thấy.
Ngày thứ ba sau khi Tống Ngưng rời đi, Thẩm Ngạn tỉnh lại trong một đêm mưa, đôi mắt chàng được rửa và tra thuốc, đã sáng trở lại. Đứa cháu gái bị câm của vị đại phu ngồi cạnh giường chàng. Chàng chăm chú nhìn cô, mỉm cười: “Thì ra trông cô như thế này, những ngày qua chắc lo cho tôi lắm? Bây giờ chúng ta đang ở đâu?”.
Khuôn mặt thanh tú của cô gái chợt ửng đỏ, cắn môi, không dám nhìn chàng.
Chàng nhìn quanh hỏi: “Đây là y quán ư? Cô ngồi lại gần đây”.
Cô gái câm nhích lại gần chàng. Chàng cau mày: “Cô không nói được ư?”.
Cô gái bẽn lẽn gật đầu. Chàng nắm lấy tay cô: “Chả trách trước giờ tôi chưa nghe thấy cô nói, thì ra cô không nói được”.
Cô gái khẽ ngước nhìn chàng, lại bối rối cúi đầu, tay vẫn để yên trong tay chàng.
Năm Lê Trang Công thứ mười tám, nước Khương thua trận, dâng hai thành ấp biên ải cầu hòa. Lê, Khương kết đồng minh. Đồng minh mới kết chưa lâu, Lê Trang Công nhận Tống Ngưng em gái Khương quốc đại tướng quân làm nghĩa muội, phong là Kính Võ công chúa, phái sứ giả tới nước Khương yết kiến Khương vương, ngỏ ý muốn tác thành hôn sự cho Tống Ngưng và Thẩm Ngạn để thắt chặt mối bang giao hữu hảo giữa hai nước.
Trước đây Tống Ngưng không để Thẩm Ngạn biết cô là ai, do mối quốc thù, cô sợ Thẩm Ngạn thà chết cũng không nhận ân nghĩa của người nước Lê, không chịu để cô cứu sống. Thực ra, chỉ là cô cả nghĩ, anh hùng không cần biết xuất xứ, nghĩa là khi nhận ơn huệ, anh hùng thường không hỏi xuất xứ của ân nhân.
Nhưng bây giờ cô sắp được gả sang nước Khương, gả cho người anh hùng của lòng mình. Cô còn nhớ, Thẩm Ngạn nói sẽ cầu hôn cô, không cần biết chàng có yêu cô không, cô muốn chàng thực hiện lời hứa. Đó chính là lý do đàn ông không thích hứa hẹn với phụ nữ. Bởi trí nhớ của phụ nữ quá tốt, hơn nữa họ luôn có cách buộc người hứa giữ lời. Tống Ngưng viết một bức thư dài, lại đính kèm nửa miếng ngọc bội ngày trước, đưa cho sứ giả nhờ chuyển riêng đến tay Thẩm Ngạn.
Mãi đến khi đoàn đưa dâu sắp khởi hành, Tống Ngưng vẫn không nhận được thư hồi âm của Thẩm Ngạn. Nhưng chuyện đó cũng không có gì quá thất lễ, cùng lắm chỉ là một lỗi nhỏ trong bản hòa ca mà thôi. Cuối cùng Thẩm Ngạn cũng đồng ý hôn sự Lê Trang Công đưa ra. Tống Ngưng thầm đoán, cảm thấy, thứ nhất, chính miệng Thẩm Ngạn nói sẽ lấy cô. Thứ hai, chàng cũng đồng ý lấy cô theo đề nghị của Khương vương, dù chủ động hay bị động, chàng đều bằng lòng, việc này hầu như đã hoàn toàn viên mãn, không thể sai sót.
Không ngờ cuối cùng lại xảy ra sai sót, âu cũng là ý trời. Đó là sự huyền bí, nhưng nếu không huyền bí sao có thể chứng tỏ sự vô tình của số mệnh, giống như với Tống Ngưng, giống như với tôi.
Đêm động phòng, vầng trăng tròn vành vạnh treo trên đầu ngọn cây, những áng mây lơ lửng trên trời, trong phòng ánh nến hỉ chập chùng in bóng hoa. Bao tình cảm ấp ủ trong lòng, Tống Ngưng hồi hộp chờ đợi Thẩm Ngạn lật khăn trùm đầu của cô, cô sẽ dành cho chàng nụ cười tươi thắm nhất. Cô rất xinh đẹp, các công tử quyền quý ở kinh đô nước Lê, mặc dù tất cả không muốn cưới cô làm vợ, nhưng tất thẩy đều công nhận nhan sắc mỹ lệ của cô, điều đó thật ra không dễ, nhưng ở một khía cạnh khác có thể thấy trình độ thẩm mỹ của họ rất cao, lại khá thống nhất với nhau. Vì đã là một trang tuyệt sắc, mà trang tuyệt sắc đó lại mỉm cười, tất khiến thành khuynh. Khi Thẩm Ngưng mở tấm khăn trùm đỏ thêu đôi chim uyên ương, nhìn thấy nụ cười khuynh thành đó, chàng bỗng sững người.
Tống Ngưng nghiêng đầu nhìn chàng, nụ cười tươi rạng như hoa. Nhưng thần sắc chàng lạnh lùng dửng dưng, là bộ dạng cô đã quen thuộc. Cô nghĩ, hạnh phúc đời mình chính là đây. Nhũ mẫu ở nhà đã dặn cô, trong đêm tân hôn phải nói những lời yêu thương, đại loại như: “Phu quân, em trao Tống Ngưng cho chàng, trao hết cho chàng, chàng hãy trân trọng, vân vân…”. Cô đang định nói những lời đó, nhưng còn đang đắn đo, chợt nghe thấy tiếng chàng lạnh lùng: “Chắc cô biết người ngồi trên chiếc giường này đêm nay vốn là ai chứ?”.
Cô không hiểu chàng nói gì, ngẩng đầu hỏi: “Sao?”.
Đôi mắt chàng vẫn lạnh băng: “Tôi nghe nói, đại huynh của cô thỉnh cầu Lê vương, muốn tôi cưới cô. Tại sao lại là tôi? Chỉ bởi một lần tôi từng thắng cô ở chiến trường ư? Tống Ngưng, lẽ nào trước đây cô chưa nghe nói, tôi đã có vị hôn thê?”.
Chàng cười lạnh lùng: “Rút cục tôi cũng chỉ là phận bề tôi, chủ lấy tính mạng ra để ép tôi. Sao tôi có thể không nghe. Có điều tôi không muốn được gì từ cô. Cũng phiền cô đừng yêu cầu gì ở tôi”.
Tống Ngưng ngước nhìn chàng: “Tôi không mong được gì từ chàng, chỉ là…”.
Chàng ngắt lời cô: “Vậy thì tốt”.
Chàng phảy tay áo bước khỏi phòng tân hôn, mặt đất trước giường đầy ánh trăng vỡ vụn. Cô nhìn theo bóng chàng, thầm nghĩ, tuyệt đối không thể như thế. Cô gọi chàng: “Thẩm Ngạn” giống như khi trong địa ngục Tu La trên chiến trường Thương Lộc, cô ôm chàng nghẹn ngào, dịu dàng gọi tên chàng. Nhưng chàng không dừng bước, cô không khóc, lòng chỉ hoang mang.
Cả đời cô chỉ khóc một lần duy nhất. Đó là lúc tìm thấy chàng trên cánh đồng hoang Thương Lộc, phát hiện chàng vẫn sống. Cô cởi áo đỏ đại hỉ, gấp gọn gàng, nằm ngay ngắn trên giường, hai mắt mở to nhìn đôi nến long phượng đã cháy gần hết, ngoài cửa sổ ánh trăng buồn vẫn lặng lẽ buông.
Ngày hôm sau, Tống Ngưng tới thỉnh an phu nhân lão tướng quân, nghe các hầu gái xì xào, tối qua tướng quân ngủ ở Hòa Phong viện. Hà Phong viện là nơi ở của Liễu Thê Thê, Thê Thê cô nương. Tống Ngưng thầm nghĩ, Thê Thê vừa xanh tươi vừa tràn trề sinh khí, một cái tên hay.
Tống Ngưng nghe nói chiếc áo Thê Thê khâu cho tướng quân đường kim rất khéo, thêu hình cây trúc rất đẹp, sinh động như nghiêng trong gió. Lại nghe nói canh phù dung hạt sen Thê Thê hầm cho tướng quân là loại sen thượng hạng, món canh hầm tỏa hương thơm phức.
Lại nghe nói, mặc dù Thê Thê không nói được, nhưng luôn làm cho tướng quân vui lòng.
Tống Ngưng thầm nghĩ, Liễu Thê Thê nên là vợ của Thẩm Ngạn, mình xen vào nhân duyên của họ, tất trở thành người thừa, quả thật không nên so đo với cô ta. Sau ngày thành hôn, ngoài lần giáp mặt đêm tân hôn, Thẩm Ngạn hầu như không xuất hiện trước mặt cô. Có thể thấy chàng là người rất mực chung tình, quả đáng khâm phục. Cô nghĩ, mình yêu chàng, nhưng sự thể đã vậy, đành biến tình yêu thành niềm ngưỡng mộ mà thôi. Bởi chỉ có ngưỡng mộ mới không thấy tủi thân, chỉ có ngưỡng mộ mới không còn tham vọng.
Cô thường nghe nói Liễu Thê Thê thế này, Liễu Thê Thê thế kia.
Mặc dù đã suy nghĩ thông suốt, cố gắng tự an ủi “mình yêu chàng, chẳng liên quan đến chàng” nhưng thâm tâm vẫn muốn gặp mặt Liễu Thê Thê. Tuy nhiên, có những việc không phải cứ muốn là được. Ngay đến hoàng đế cũng không thể muốn có con trai là lập tức có ngay.
Sinh con trai, con gái hay sinh ra một kẻ ngu đần, dường như đã là số mệnh. Bao gồm cả Tống Ngưng chưa bao giờ có thói quen tản bộ vào mỗi buổi chiều, đột nhiên một chiều nọ lại ra tản bộ sau hoa viên. Thế là hôm đó trong hoa viên có chim hót, hoa nở, có liễu rủ ven hồ, thế là bất ngờ gặp Liễu Thê Thê như lời gia nhân đồn đại.
Mọi sự đều có nguyên do, khi Tống Ngưng nhặt được miếng ngọc bội trong hoa viên, miếng ngọc bội được viền vàng, rất hoàn hảo, ở giữa còn có một vết nứt khá rõ. Cô nhặt miếng ngọc bội, soi rất lâu dưới ánh mặt trời. Nhận ra đó chính là miếng ngọc bội cô đã bẻ đôi đưa cho Tống Ngưng vào dịp đông hàn năm ngoái, hai nửa đó đã được ghép lại, được viền bằng vàng. Bỗng một cô gái vội vã đi tới, một tay chỉ miếng ngọc bội, một tay chỉ vào ngực mình. Tống Ngưng ngẩng đầu, sau khi nhìn rõ mặt Tống Ngưng, sắc mặt cô gái đột nhiên trắng bệch. Tống Ngưng thầm nghĩ, mình đã từng gặp cô ta ở đâu. Trong làn gió nhẹ thoảng mùi thuốc thơm dịu, mùi thuốc này khiến cô chợt nhớ tới y quán nhỏ phía sau núi tuyết. Tống Ngưng cầm miếng ngọc bội, mỉm cười hỏi cô gái: “Cô cũng ở đây ư? Quả nhiên Thẩm Ngạn không phải là người vong ân bội nghĩa, ông cô đâu rồi?”.
Cô gái run lập cập, quay người định bỏ đi. Tống Ngưng chau mày, nắm tay kéo cô lại: “Tôi đáng sợ lắm ư? Tại sao cô lại sợ như vậy?”.
Cô gái cố vùng ra, lùi lại phía sau, đột nhiên sau lưng có tiếng Thẩm Ngạn: “Thê Thê”.
Thê Thê. Cô kinh ngạc, cô gái trong tay cô đã bị Thẩm Ngạn giằng mất. Chàng đứng chắn trước cô ta, như một cây cổ thụ cao ngất che chở cho thân leo yếu ớt bên cạnh, nét mặt cúi xuống dịu dàng, vẻ âu yếm. Nhưng khi ngẩng đầu nhìn Tống Ngưng, khuôn mặt lại như băng giá, chàng hỏi sẵng: “Cô làm gì ở đây?”.
Cô không trả lời câu hỏi của chàng, nhìn cô gái Thẩm Ngạn ôm trong lòng: “Thê Thê, cô chính là Thê Thê?”. Cô gái không dám ngẩng đầu.
Thẩm Ngạn cau mày, ánh mắt dừng lại trên tay Tống Ngưng, lát sau lạnh lùng hỏi: “Miếng ngọc bội của Thê Thê, tại sao cô lại có?”.
Cô sững người, kinh ngạc nhìn chàng: “Của Thê Thê? Cái gì của Thê Thê? Sao lại của Thê Thê?”. Cô bước lên, chìa miếng ngọc bội trước mặt chàng: “Chàng không đọc lá thư tôi gửi ư? Chàng đã quên đó là tín vật tôi trao cho chàng sao? Chàng đã quên ở trong hang núi gần cánh đồng Thương Lộc, chúng ta đã…”.
Cô đang định nói tiếp, Liễu Thê Thê bất chợt nắm tay áo chàng lắc đầu. Mắt chàng đột nhiên lóe sáng, ngắt lời Tống Ngưng: “Trận chiến ở cánh đồng hoang Thương Lộc, năm vạn quân Khương đã phải bỏ mạng dưới lưỡi đao của quân Lê các người, mặc dù hai nước Khương, Lê đã có hòa ước, nhưng mối thù đó, ta mãi mãi không quên”.
Chàng cười khẩy: “Trong hang núi tuyết gần Thương Lộc nếu không phải Thê Thê đã cứu ta thì Thẩm Ngạn hôm nay chỉ còn là một hồn ma lang thang trên chiến trường, sao có thể lấy công chúa Tống Ngưng của nước Lê các người?”.
Liễu Thê Thê vẫn lắc đầu, nắm tay Thẩm Ngạn, nước mắt tuôn như suối, ướt đầm hai má, làm loang lớp phấn hồng trên mặt.
Tống Ngưng không tin vào tai mình, cô hét to: “Sao có thể là cô ta cứu chàng? Người cứu chàng… rõ ràng là tôi”. Cô tưởng mình nói rõ ràng, chàng sẽ hiểu ra, thực ra cô đã đánh giá quá cao khả năng lí giải của chàng. Vì lẽ đời thường không như vậy, không phải cứ nói là người khác sẽ nghe ra.
Thẩm Ngạn nhìn vào mắt Tống Ngưng, giọng giễu cợt: “Cô nói vớ vẩn gì thế? Cô đã cứu tôi? Tống Ngưng, tôi chưa từng nghe nói là cô am hiểu y thuật, người cứu tôi có y thuật rất cao, cô ấy không biết nói, đó chính là Thê Thê. Cô tưởng rằng Thê Thê không nói được là tôi sẽ tin những lời bịa đặt của cô, giá họa cho cô ấy ư?”.
Tống Ngưng không biết làm gì để chứng minh, bởi vì ban đầu khi cô cứu được chàng hoàn toàn là do ông trời đoái thương. Vậy mà hôm nay, rõ ràng ông trời đã đổi ý, chuyển sang thương Liễu Thê Thê.
Cô nghĩ, chàng chưa đọc lá thư đó, lá thư thực ra được đưa tới đâu, cô đã biết, bây giờ nhắc lại chuyện này cũng chẳng ích gì, chỉ thấy tủi thân, cho dù Thẩm Ngạn không yêu cô, nhưng chuyện này, cô vẫn phải nói rõ với chàng, khổ nỗi bây giờ cô nói gì chàng cũng không tin, cô đã rất cố gắng nhưng Thẩm Ngạn không cho cô cơ hội. Đúng là một người cố chấp, cố chấp đến bực mình.
Cô không giải thích thêm nữa. Ánh mắt chàng nhìn cô hoàn toàn băng giá. Lúc đầu Tống Ngưng rất buồn, nhưng không khóc được, đêm đêm cô thường ôm chăn, ngồi đến sáng. Trong những đêm dài, cô thường hồi nhớ lúc chàng đặt tay lên vai cô, dịu dàng nói: “Nếu cô nương không chê, đợi tại hạ khỏi bệnh, sẽ đến quý gia cầu hôn cô nương”. Đó là hồi ức đẹp đẽ duy nhất. Bề ngoài cô có vẻ cương nghị, nhưng chung quy vẫn là nữ nhi, nữ nhi càng cương nghị càng muốn được trân trọng, quá cương dễ gẫy chính là như vậy.
Chỉ không ngờ, thành hôn chưa được ba tháng, Thẩm Ngạn đã nạp thiếp.
Chuyện này cũng không có gì lạ, một phong tục hết sức bình thường, thậm chí đàn ông không nạp nhiều thiếp còn bị coi thường, cũng như các đế vương, quan lại đều thê thiếp bầy đàn. Người này lấy, người kia cũng phải lấy, không lấy không được. Quân Vỹ thích nghiên cứu chuyện hậu cung các hoàng đế đã phân tích như vậy, cho rằng hoàng đế lấy thêm thiếp chủ yếu vì hoàng hậu là quốc mẫu, mẫu nghi thiên hạ, là hóa thân của vạn vạn thần dân.
Thử nghĩ, khi chăn gối cùng quốc mẫu, nhìn khuôn mặt từ bi của bà, lòng rối loạn, ngay cả lúc trên giường cũng gợi nhớ chính sự, làm sao chịu nổi, đành phải nạp thiếp.
Nhưng rút cục thế nào, làm sao chúng ta biết được, có lẽ là do đàn ông ham nữ sắc nên mới không ngừng nạp thiếp.
Có điều Thẩm Ngạn nạp người thiếp này là vì cái gọi là tình yêu, hơn nữa lại là chuyện duy nhất khiến người ta không thể chịu được. Người đầu tiên không thể chịu được chính là Tống Ngưng.
Tống Ngưng nhờ một vị thân vương của Lê Trang Công ngăn chặn chuyện này. Cô ngồi trong một ngôi thủy đình giữa hồ sen, đầy gió và nắng, ven hồ có những cây to không rõ tên, một màu xanh mát quen thuộc, như trong tranh. Thẩm Ngạn đứng trước mặt cô, đó là lần gặp mặt thứ ba sau hôn lễ, chàng cau mày cúi nhìn Tống Ngưng hỏi: “Cố tình phá hôn sự của tôi với Thê Thê, rốt cuộc cô muốn gì?”.
Cô đặt cuốn sách trên tay xuống, ngước nhìn chàng, một Tống Ngưng từng luôn mỉm cười trên sa trường ác liệt, giọng nói trầm trầm, hai má ẩn hiện lúm đồng tiền mê hồn: “Tôi muốn gì ư? Câu hỏi khéo thật, tôi chẳng muốn gì hết, chỉ là có một vài thứ Liễu Thê Thê không xứng đáng có”.
Chàng lạnh lùng: “Cô không chịu nổi Thê Thê, còn tôi không chịu nổi cô”.
Lúm đồng tiền trên má Tống Ngưng càng sâu: “Thẩm Ngạn, chàng không thể không chấp nhận tôi, bởi hôn ước của chúng ta là minh ước giữa hai nước Lê, Khương”.
Mặt chàng lộ vẻ phẫn nộ cố nén: “Đêm tân hôn chúng ta đã giao ước, tôi và cô không liên quan đến nhau”.
Cô nhìn bàn tay mình, giọng nói dửng dưng: “Thực ra vốn cũng chẳng có gì, chỉ là thấy hai người ân ái như vậy, mà tôi được gả tới đây, cô đơn một mình, nên rất chạnh lòng”.
Chàng phẩy tay áo cười khẩy: “Tống Ngưng, cô còn nhớ ban đầu ai đề nghị hôn sự này không?”.
Bóng chàng biến mất ở chỗ rẽ, một lúc sau, cô cúi đầu giở cuốn sách trên tay, gió lại thổi, những giọt nước mắt rơi trên sách, ướt nhòe con chữ. Cô giơ tay áo lau nước mắt, lại cúi đầu đọc tiếp, như không có chuyện gì.
Không lâu sau, ở nước Hạ cách Khương một con sông, quốc vương băng hà, công tử Trang Nghi lên ngôi. Hai tháng sau, Hạ Trang Nghi tân đế nước Hạ xuất binh chinh phạt nước Khương. Khương vương lệnh cho Thẩm Ngạn xuất chiến.
Tháng tư, cỏ héo hoa tàn, trên bầu trời một vầng trăng hoang lạnh, Tống Ngưng ngồi tựa bên song, lặng ngắm vầng trăng lùi dần phía cuối trời. Rút cục cô không thể để Thẩm Ngạn ra đi bỏ mạng ở chiến trường, chàng không phải là đấng phu quân như ý, nhưng nửa năm trước vừa gặp, cô đã thầm yêu chàng, chàng là vị anh hùng của lòng cô. Có những người chưa từng trải, lãng mạn, yêu một lần là nhớ suốt trăm năm, đó chính là Tống Ngưng.
Giờ Dần, cô lục trong hòm lấy ra bộ chiến giáp mang theo khi xuất giá, tháo tấm bảo vệ trước ngực, váy lê quét đất, một mình băng qua hoa viên đến thẳng Chỉ Lan Viện, nơi ở của Thẩm Ngạn. Đám hầu nữ của Chỉ Lan Viện ấp úng hồi lâu, nói: “Tướng quân, tướng quân… không ở trong phòng”.
Sắc mặt Tống Ngưng nhợt nhạt: “Ở Hà Phong Viện ư?”.
Đám người hầu cúi gằm không dám trả lời. Cô nhét tấm giáp bọc trong mảnh lụa vào tay một hầu nữ, nói: “Chàng không có ở đây, vật này nhờ cô…”.
Chưa nói xong, đám người hầu đột nhiên ngẩng đầu vui sướng: “Tướng quân!”.
Thẩm Ngạn bước vào cửa viện, trời còn chưa sáng, những chiếc đèn lồng trong sân lờ mờ tỏa sáng, ánh sáng vàng vọt bao trùm bóng chàng. Cô nghe thấy tiếng chàng, ở ngay sau lưng, cứng nhắc: “Cô làm gì ở đây?”.
Cô quay lại, đứng sững ra đó, nhìn chàng một hồi từ đầu đến chân, mỉm cười. Nụ cười chưa hiện lên mắt, đó chỉ là thói quen của cô.
Cô đưa cho chàng bọc lụa trong tay: “Không có gì, nghe nói chàng sắp xuất chinh, tôi đến đưa chàng tấm giáp bảo vệ bằng đá Thanh Tùng, chắc chắn hơn nhiều so với tấm giáp thông thường, nó đã không ít lần cứu tôi thoát chết. Bây giờ tôi không ra trận nữa, phiền chàng mang theo ra chiến trường dùng khi cần thiết”.
Chàng khẽ nhíu mày, nhìn cô, lúc sau nói: “Nghe nói, tấm giáp này là báu vật huynh trưởng tặng cô”.
Cô ngước mắt, nụ cười thoáng hiện: “Ồ, chàng cũng biết? Nói là báu vật bởi vì nó có thể bảo vệ được tính mạng, không bảo vệ được cũng chẳng là gì. Cho chàng mượn không phải có ý để chàng nợ nần gì tôi. Chàng nói đúng, chúng ta vốn chẳng liên quan đến nhau, nhưng danh phận đã định, nếu chàng chết nơi chiến trường, đại gia đình trong Thẩm phủ này sẽ do tôi gánh vác, thực là vất vả, trách nhiệm của ai do người đó gánh, chàng thấy có đúng không?”.
Chàng ngắm kỹ tấm giáp màu ngọc bích trong tay, giống như màu xanh của thảm lá sen đang trải trước mắt. Cô gật đầu định đi, chàng kéo lại: “Cô có thể tái giá”.
Cô nhìn bàn tay nắm ống tay áo mình, ánh mắt nhích lên, dừng lại ở hình cây trúc thêu sống động như nghiêng trong gió trên vạt áo chàng, cười tươi như hoa: “Sao cơ?”.
Chàng buông tay áo cô nói: “Nếu tôi chết cô có thể tái giá”.
Cô cúi đầu, trầm tư, lúc sau nói: “À, đúng”.
Cô ngẩng đầu, hai lúm đồng tiền mê hồn lại hiện trên má: “Vậy chàng nên chết ngoài chiến trường, đừng trở về nữa, mãi mãi không nên trở về nữa”.
Đám người hầu đứng bên sợ run, nhưng cô lại mỉm cười, ánh mắt lạnh lùng. Đúng là không thể đoán được tâm tư đàn bà, đoán già đoán non, cuối cùng cũng không đoán ra.
Trên đời có kiểu đàn bà không câu nói nào khiến người khác bận tâm, cũng có kiểu đàn bà mỗi câu nói đều khiến người ta không thể không suy nghĩ.
Cô đi vội vã, cuối cùng để lại cho chàng một hình bóng đoan trang, duyên dáng, cũng đầy ngạo mạn thách thức. Chàng nắm chặt tấm giáp màu ngọc, nhìn mãi về phía bóng người vừa khuất, ánh mắt thâm trầm.
Thẩm Ngưng ra đi đã hai tháng.
Tháng tám, hương quế ngào ngạt, tin vui từ Hà Phong Viện truyền ra, Thê Thê cô nương đã có thai, lão tướng quân và phu nhân vui mừng khôn xiết. Liễu Thê Thê có thể coi là khách của Thẩm phủ, khách trong nhà có thai, cũng là hạt giống nhà mình, điều này cũng phải thôi, nhưng khách lại có thai ngay trước mặt con dâu danh chín ngôn thuận, thực tình cũng khiến lão tướng quân và phu nhân khó xử. Lúc Tống Ngưng đến thỉnh an, lão phu nhân mới ướm một câu: “Rút cục để cho cốt nhục họ Thẩm lưu lạc bên ngoài cũng không hay gì”. Tống Ngưng mỉm cười gật đầu: “Mẹ nói phải”.
Cuối tháng, hoa quế nở tràn lan trên núi Cù ở ngoại thành, Tống Ngưng nhìn về ngọn núi phía xa, nói với người hầu đem theo khi rời cố quốc: “Hãy mời Thê Thê cô nương ngày mai lên núi Cù thưởng ngoạn hoa quế”. Người hầu gửi thiệp tới Hà Phong Viện, Liễu Thê Thê nhận lời.
Ngày hôm sau, Tống Ngưng hành lý đơn giản, chỉ mang theo một người hầu. Người hầu một tay xách chiếc làn đựng ít đồ điểm tâm, một tay khoác bọc hành lý. Trái với Tống Ngưng, Liễu Thê Thê long trọng hơn nhiều, ngồi trên kiệu bốn người khiêng, lại thêm hai vú già, bốn hầu nữ.
Tống Ngưng cười: “Đi ngắm hoa lại mang theo nhiều người như vậy, thật mất hứng”.
Vú già cười nói: “Có lẽ phu nhân không biết, tướng quân vừa rồi có thư về, dặn dò chúng nô tỳ chăm sóc chu đáo Thê Thê cô nương, giờ Thê Thê cô nương đã mang cốt nhục của tướng quân, chúng nô tỳ không dám sơ suất”.
Tống Ngưng phe phẩy chiếc quạt, không nói gì. Người hầu của cô cười khẩy: “Nghe vú già nói vậy, không được sơ suất đối với Thê Thê cô nương, nghĩa là có thể sơ suất đối với công chúa của chúng tôi ư. Nói câu này hơi khó nghe, nhưng ở nước Lê chúng tôi, khi công chúa đứng thì kẻ dưới không dám ngồi, khi công chúa ngồi, kẻ dưới nếu chưa được công chúa cho phép vẫn phải quỳ. Đến nước Khương các vị thì ngược lại. Công chúa bộ hành lên núi ngắm hoa, vậy mà cô nương nhà các ngươi lại ngồi kiệu, phải chăng lễ nghĩa của nước Khương là như vậy?”.
Vú già nghe thế, quỳ sụp xuống đất, tự tát vào mặt mình.
Rèm kiệu vén lên, Liễu Thê Thê bước xuống đỡ vú già, đôi tay có mùi thuốc thoang thoảng giơ lên làm những động tác rất duyên dáng, đẹp mắt, vú già lo lắng giải thích: “Cô nương nói cô không ngồi kiệu nữa, vừa rồi là cô không hiểu lễ nghĩa, cô ấy sẽ đi bộ theo hầu phu nhân”.
Ngọn núi Cù cao sừng sững, đi suốt một ngày vất vả, một người mang thai đâu dễ kham nổi. Đêm đó về phủ, Liễu Thê Thê liên tục ra máu. Sáng hôm sau, có tin nói Liễu Thê Thê bị sảy thai. Người hầu của Tống Ngưng lo lắng: “Nếu tướng quân nổi giận thì làm thế nào”. Tống Ngưng ngồi đọc sách bên cửa sổ, hoa quế trong vườn nở rộ, hương quế ngào ngạt trong gió. Liễu Thê Thê bị sảy thai, suy cho cùng là do Tống Ngưng, nhưng đứa trẻ đó không danh chính ngôn thuận nên lão tướng quân và phu nhân mặc dù có thương xót cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ có thể bù đắp vật chất cho Thê Thê, nhân sâm, yến sào, hạt sen… mọi thứ quý bổ đều sai người mang tới Hà Phong viện.
Chỉ có Liễu Thê Thê vẫn khóc ròng, không ăn uống gì. Để khỏi lãng phí đành phải để vú già, người hầu ăn giúp, kết quả là trong thời gian ngắn, ngoài Liễu Thê Thê vẫn giữ được thân hình thon thả, tất cả kẻ ăn người ở của Hà Phong viện đều béo tốt trông thấy, ngay cả hai con chim sẻ làm tổ trên hốc cửa đình viện cũng béo mẫm vì được hưởng lộc thừa.
Thời gian này, Tống Ngưng cáo bệnh, chỉ ở trong phòng rất ít ra ngoài, không gặp gỡ ai.
Cuối cùng có một người cô không thể không gặp. Đó là chòm sao ma quỷ trong số mệnh của cô. Cô đã vì chàng cởi bỏ chiến giáp, cài hoa, khoác áo đỏ tân nương, trái tim dịu dàng ăm ắp yêu thương vượt đường trường vạn dặm theo chàng, vậy mà chàng không để mắt đến cô.
Tháng chín, tin thắng trận truyền về kinh đô, Thẩm Ngạn khải hoàn dẫn quân trở về triều.
Tống Ngưng ngồi bên hồ thả mồi cho cá, nghĩ ngợi một hồi, ngẩng đầu hỏi hầu nữ: “Chàng đã trở về, ngươi nói xem, liệu chàng có giết ta?”.
Cốc trà trên tay hầu nữ rơi xuống đất.
Tống Ngưng cười: “Thân thủ của ta không bằng chàng, nhưng cũng không dễ để chàng lấy mạng, cùng lắm đánh một trận, ngươi khỏi lo”.
Hầu nữ quỳ trước mặt: “Ở đây công chúa sống chẳng vui vẻ gì, nô tỳ cũng thấy người không vui. Sao chúng ta không trở về nước Lê? Công chúa, chúng ta về nước thôi”.
Tống Ngưng nhìn đàn cá đớp mồi dưới hồ sen, nói: “Đây là hôn sự giữa hai nước, ngươi tưởng muốn đi là đi được hay sao?”.
Mọi sự không thể cứu vãn đều bắt đầu từ đêm đó. Tôi nói như vậy là bởi vì tôi nhìn thấy tất cả, nhìn thấy tính mạng Tống Ngưng bắt đầu từ đêm đó nhích dần đến cái chết. Đẩy cô tới cõi chết chính là tình yêu của cô và bàn tay Thẩm Ngạn. Chàng lao đến như mang theo mưa gió, trên mình vẫn mặc bộ chiến bào màu bạc, giống như lần đầu họ gặp nhau, nhưng trong mắt chàng bừng bừng lửa giận, như một vị Tu La đến từ địa ngục.
Cuối cùng, cô không địch được chàng, chưa đầy hai chiêu, kiếm của chàng đã chẹn dưới họng cô. Cô vội vàng dùng tay nắm thanh kiếm, lưỡi kiếm vừa nhích, lướt qua năm ngón tay cô, sâu tới tận xương. Chắc chắn rất đau nhưng cô không để ý, chỉ nhìn xuống tay mình: “Chàng thực sự muốn giết tôi ư?”.
Giọng chàng lạnh lùng: “Tống Ngưng, cái thứ dính trên tay cô là tính mệnh con trai tôi. Cô ép Thê Thê lên núi, cô không nghĩ sẽ giết chết nó?”.
Cô ngẩng phắt đầu, lông mày giãn ra, tiếng rất nhỏ nhẹ: “Đó không phải là lỗi của tôi, tôi chưa từng sinh con làm sao biết được người có thai lại có thể xảy ra chuyện đó, leo núi là có thể bị sẩy thai. Chàng không có duyên với đứa bé đó lại đổ lỗi lên đầu tôi, Thẩm Ngạn, chàng làm vậy có phải quá vô lý không?”.
Cô nói ra những lời đó không phải là lời lòng cô muốn nói, chỉ là do bị chàng kích nộ. Cô nhìn khuôn mặt rắn đanh của chàng cảm thấy buồn cười, liền bật cười thành tiếng: “Thẩm Ngạn, chàng biết đấy, ngoài tôi ra, không ai đủ tư cách sinh đích tôn cho nhà họ Thẩm”. Cô nghĩ, tình yêu của mình gần như sắp chết, ngày trước cô nhìn Thẩm Ngạn, chỉ mong mọi việc với chàng đều suôn sẻ. Bây giờ, lúc nào cũng muốn chàng không vui. Nhưng chàng không vui, cô cũng không thấy vui, giống như con dao hai lưỡi, làm tổn thương người khác, cũng làm tổn thương chính mình.
Câu nói vui của cô lại khiến chàng kích động. Cô nhìn thấy cơn sóng phẫn nộ trong mắt chàng. Cô cảm thấy thanh kiếm của chàng sắp xuyên qua tay đâm vào họng mình. Nhưng phán đoán của cô đã sai. Thanh kiếm của Thẩm Ngạn không tiến thêm một phân nào nữa, mà rút khỏi tay cô, dính một vệt máu tươi, đầu thanh kiếm áp vào ngực áo cô, khẽ hất, những chiếc khuy đứt tung.
Phu quân của cô đang đứng trước mặt cô, dùng một thanh kiếm nhuốm máu hất toạc áo ngoài của cô, sóng hận trong mắt biến thành nụ cười khẩy lạnh lùng trên môi, giọng nói giễu cợt ghê người: “Tống Ngưng, tôi chưa gặp người đàn bà nào độc ác như cô”.
Lần động phòng chậm đúng chín tháng.
Cô vùng vẫy giãy giụa, nếu đối phương là một nho sinh, cô không những có thể vùng ra được mà còn đánh cho gã một trận. Nhưng đây lại là một tướng quân, võ nghệ vào bậc nhất nước Lê, lại có sở trường đánh giáp lá cà, cô đành bó tay.
Bức bình phong trước giường vẽ một đầm nước, trên có vầng trăng lạnh dưới có mấy con vịt trời giỡn nước. Cô lạnh run người, hai tay ôm chặt lưng Thẩm Ngạn. Máu rỉ ra từ vết thương trên ngón tay, nhuộm đỏ một vùng da màu kiều mạch trên lưng chàng, giống như đóa hoa hồng nở trên kẽ đá trên cánh đồng hoang. Cuối cùng cô không thể giả bộ cười được nữa, nước mắt chảy dài xuống má. Tiếng cô bên tai chàng giống như tiếng rên của con thú nhỏ.
Từ nhỏ cô đã mồ côi cha mẹ, lớn lên nơi chiến trường, đại huynh cũng không có thời gian chăm sóc cô, ngã thì tự đứng dậy, đau quá thì dùng bàn tay nhỏ tự xoa vết thương, Tống Ngưng trên chiến trường luôn mỉm cười, bởi vì cô hiểu, không nên để đại huynh lo lắng, lâu dần thành quen, không biết khóc bao giờ.
Trong cuộc đời, đó là lần đầu tiên cô bật khóc, bản thân cô cảm thấy hoảng loạn bởi cô thực sự thấy đau, đau đến tận tim, mà không giống như hồi bé, xoa vài cái là hết. Cô nặng nề thở dốc, mũi đỏ ửng, không còn vẻ oai phong như trước, cũng không thể can trường như trước.
Cô mới mười bảy tuổi. Giọng cô suy sụp, van nài: “Thẩm Ngạn, chàng ghét tôi như vậy, chàng ghét tôi như vậy. Thẩm Ngạn, buông tôi ra, xin chàng buông tôi ra”.
Nhưng tiếng chàng vẫn ở bên tai cô: “Nỗi đau của cô có bằng nỗi đau mất cốt nhục của tôi không? Tống Ngưng cô muốn gì, tôi sẽ cho cô, chỉ cần chúng ta từ nay rõ ràng, cô có biết rõ ràng là thế nào không?”.
Trong không khí toàn mùi máu, tôi không ngửi thấy, nhưng có thể nhìn thấy.
Móng tay cô ấn sâu vào lưng chàng, cô không khóc được nữa, giọng nói tắc nghẹn bay lên không, thê lương như lá mùa thu: “Thẩm Ngạn, chàng đối với tôi như vậy, chàng là kẻ vô tâm”.
Bàn tay phải Tống Ngưng trở nên tàn phế trong đêm đó, vốn là bàn tay cầm thương, tung ra bảy bảy bốn mươi chín chiêu thương pháp, duyên dáng đẹp như múa, khiến thiên hạ trầm trồ. Thanh kiếm đã làm bàn tay ấy bị thương, làm trái tim cô bị thương, đã hủy diệt tất cả nhiệt thành của cô đối với Thẩm Ngạn.
Cô tỉnh dậy, Thẩm Ngạn nằm bên cạnh cô, mắt cô lờ mờ nhận ra khuôn mặt tuấn tú, cặp lông mày hơi chau. Cô nghĩ đó là người cô từng yêu, trong mênh mông biển người cô lại chọn đúng chàng. Thanh kiếm của chàng rơi dưới đất, bàn tay phải của cô cũng không cầm lên được, cô nghiêng người, dùng tay trái lần tìm thanh đoản kiếm nặng gần bốn chục cân, làm kinh động chàng, ngay lúc chàng vừa mở mắt, cô nắm chắc chuôi kiếm đâm mạnh vào sườn chàng một nhát. Chàng rên một tiếng, nhìn thấy một giọt nước trào ra từ khóe mắt cô, lăn xuống, để lại một vệt dài trên má.
Ngày trước, cô đã tìm chàng giữa hàng ngàn thi thể, cô đã cõng chàng vượt qua núi tuyết đi tìm lang y. Cô thức trắng ba ngày ba đêm, nhưng đều là quá khứ. Đã là quá khứ thì không nên nhắc lại. Cô nghiêng đầu nhìn chàng, cuối cùng hiện ra vẻ thơ ngây thiếu nữ, mặt đầy ngấn nước, nhưng môi lại nhếch lên nói ra những câu tuyệt tình: “Thẩm Ngạn, tại sao chàng còn trở về, sao chàng không chết ở chiến trường?”.
Chàng nắm chặt bàn tay trái cầm kiếm của cô, đột nhiên kéo mạnh cô vào lòng, thanh đoản kiếm sắc đâm càng sâu. Máu trào ra từ miệng, tiếng chàng lạnh lùng lại vang bên tai: “Đây chính là điều cô muốn? Cô muốn tôi phải chết?”.
Tống Ngưng kể lại với tôi chuyện đêm hôm đó, đã nhiều năm, trên cặp mày nhàn nhạt dường như vẫn hằn nỗi đau khổ, dường như không thể nhớ lại. Cô không biết, thực ra tôi đã nhìn thấy tất cả, đó nhất định là một đêm ma mộng. Mặc dù thực ra tôi không hiểu lắm ma mộng là gì, đó là một từ thường thấy trong tiểu thuyết của Quân Vỹ. Đại khái là từ viết tắt của giấc mộng ma quái gì đó.
Khung cảnh cuối cùng của hôm đó là một đêm tối mịt mùng, mưa thu tí tách, hoa nguyệt quế lặng lẽ tỏa hương trong mưa.
Thẩm Ngạn không chết, nhát kiếm đó mặc dù đâm khá sâu, đáng tiếc là không trúng chỗ hiểm, đại phu nói chỉ cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, chưa đầy ba tháng sẽ bình phục như thường.
Nhưng hai tháng sau, Tống Ngưng có tin vui. Liễu Thê Thê thu dọn quần áo, nửa đêm lặng lẽ rời Thẩm phủ. Ngày hôm sau hay tin, Thẩm Ngạn dù thân đang mang vết thương nặng cũng đi tìm khắp nơi, sau khi tìm được, đưa Liễu Thê Thê đến sống ở một biệt viện, bản thân chàng cũng rời khỏi Thẩm phủ, chuyển đến biệt viện sống cùng Liễu Thê Thê, không coi Thẩm phủ là nhà nữa.
Tháng sáu năm sau, Tống Ngưng sinh hạ một bé trai.
Chàng nhìn bức bình phong trước giường: “Tôi tưởng cô không muốn sinh nó ra”.
Tống Ngưng nằm sau bức bình phong, cơ thể rất yếu, vẫn hít một hơi dài, khẽ cười: “Sao lại không sinh, đó là đích tôn nhà họ Thẩm. Sau này khi chàng chết đi, nó sẽ nối nghiệp nhà họ Thẩm”.
Trong mắt chàng lóe ra tia lạnh, trao đứa bé cho vú già bên cạnh, phảy tay áo bỏ đi. Đứa bé oa oa khóc sau lưng, chàng dừng lại ở cửa nói: “Tống Ngưng, thiên hạ có người đàn bà nào một lòng mong chồng chết ở chiến trường?”.
Thấm thoát đã bốn năm, thời gian không quay trở lại, hai nước Khương, Lê lại gây chiến, chiến tranh liên miên. Nhưng chuyện đó chẳng có gì quan trọng đối với vụ trao đổi của tôi, quan trọng là Liễu Thê Thê lại sinh cho họ Thẩm một sinh mạng mới, một bé gái. Chuyện này khiến cả biệt viện buồn bã trong một thời gian dài.
Vì tôi đứng về phía Tống Ngưng, bất giác nghĩ Liễu Thê Thê buồn bã như vậy là do chỉ sinh được con gái, tài sản được chia sẽ không nhiều. Nhưng cũng chỉ đoán vậy thôi, rất có thể người ta buồn tiếc vì không sinh được con trai cho Thẩm Ngạn.
Vú già trong biệt viện lại động viên Liễu Thê Thê, rằng đối với Thẩm Ngạn chỉ cần cô sinh hạ bé gái, mẹ tròn con vuông là tốt rồi, vả lại không dễ dàng có được đứa bé này, động viên mãi cô mới nguôi nguôi, đồng thời sự yêu chiều của Thẩm Ngạn đối với đứa bé cũng kịp thời bù đắp an ủi cho cô.
Tôi bất giác lại nghĩ, Liễu Thê Thê có thể nhanh chóng chuyển buồn thành vui như vậy, có lẽ là do Thẩm Ngạn đã lặng lẽ chia lại tài sản, cho cô ta số tiền lớn. Nếu Quân Vỹ có ở đây thấy tôi nghĩ vậy, nhất định sẽ bảo tôi có tâm hồn đen tối, suy diễn sự việc theo hướng xấu. Nhưng tôi nghĩ, nếu chuyện đó xảy ra thật mà tôi vẫn còn suy nghĩ theo hướng trong sáng, thì e là tôi đã trở thành thánh mẫu rồi.
Con trai Tống Ngưng càng lớn càng giống mẹ, được đặt tên là Thẩm Lạc.
Thẩm Lạc hai má cũng có lúm đồng tiền mờ mờ, ba tuổi đã học thuộc những câu rất cao thâm trong sách. Nếu gặp chữ khó, không đọc được cũng nhất định không muốn người khác nhắc, chỉ ngồi yên, chống hai bàn tay bụ bẫm dưới cằm, trầm ngâm cố nhớ lại.
Mùa đông, mặc áo bông dày, cử động khó khăn, nhưng tính bướng bỉnh, nó nhất định không chịu thay đổi tạo hình, cố chống tay vào cằm, nhưng được cái nọ lại mất cái kia, mấy lần ngã nhào từ trên ghế, đau cũng không khóc, chỉ lấy tay xoa xoa, lại đứng dậy. Điểm này giống hệt Tống Ngưng.
Thẩm Lạc thông minh lanh lợi, nhưng lại không nhận ra cha ruột, mỗi lần nhìn thấy Thẩm Ngạn, nó đều gọi bằng chú, không gọi cha. Chứng tỏ nó rất ít cơ hội gặp Thẩm Ngạn, nghĩa là mẹ nó và Thẩm Ngạn cũng rất ít gặp nhau. Nhưng một đứa trẻ thông minh, mới hai tuổi đã biết đọc những chữ rất phức tạp, thật sự không thể biết nó không nhận ra Thẩm Ngạn hay chỉ tỏ ra như thế. Nhưng một đứa trẻ đáng yêu như vậy không ngờ lại chết yểu.
Chuyện xảy ra rất sớm, vào một ngày đông lúc Thẩm Lạc bốn tuổi.
Hôm đó, Thẩm Ngạn đưa đứa con gái đến Thẩm phủ thăm lão tướng quân và lão phu nhân, cô con gái nhỏ trốn người hầu, một mình vào chơi ở hoa viên thì gặp Thẩm Lạc. Hai đứa trẻ không biết tại sao cãi nhau, giằng co, cả hai không may ngã xuống hồ sen. Lúc cứu lên bờ, cũng chưa việc gì, nhưng vì Thẩm Lạc đang mắc thương hàn, bị nhiễm nước lạnh, khiến bệnh lại càng nặng, sốt cao mấy ngày liền, đến ngày thứ ba, trời còn chưa sáng, đôi mắt to khép lại trên khuôn mặt đỏ ửng vì sốt, phút chốc Thẩm Lạc đã ra đi.
Sự việc khiến Tống Ngưng gục hẳn.
Tôi nhìn thấy một vầng mặt trời mùa đông từ từ nhô lên phía cuối Nhạc thành, thân thể bé nhỏ của Thẩm Lạc nằm trong lòng Tống Ngưng, sắc mặt vẫn hồng hào như đang ngủ. Cô ôm con ngồi trên bậc cửa hoa đình, rèm bốn phía cuốn cao, ánh mặt trời vàng vọt chiếu lên người Thẩm Lạc. Cô nâng thằng bé lên cao gọi: “Con trai, mặt trời lên rồi, chẳng phải con đã nói nửa tháng nay không thấy mặt trời, cái chăn của con đã sắp mốc rồi sao? Hôm nay, cuối cùng đã có mặt trời, mau nào, mang chăn của con ra phơi đi”.
Nhưng Thẩm Lạc không tỉnh dậy được nữa. Nước mắt giàn giụa chảy trên má Tống Ngưng, rơi xuống đôi mắt nhắm nghiền của đứa con, giống như nó đang còn sống, nhìn thấy mẹ đau khổ, nó cũng trào nước mắt.
Thẩm Ngạn cùng tùy tùng xuất hiện trong hoa viên, Tống Ngưng tay nắm thanh kiếm đi ra khỏi hoa đình, thanh kiếm sắc sáng loáng càng tôn chiếc váy dài màu bạc lóng lánh, khuôn mặt vẫn giữ nụ cười không biểu cảm, như đóa sen hồng nở trên nền tuyết lạnh. Một cô gái đẹp như vậy!
Thanh kiếm lao vút về phía Thẩm Ngạn, tiếng xé gió làm rung cả cánh hoa. Cô đoán được vị trí chàng sẽ né tránh. Nhát kiếm này vung lên sẽ kết thúc mọi ân oán tình thù giữa hai người, chỉ có điều, không ngờ chàng vẫn đứng yên, mắt trừng trừng nhìn thanh kiếm lao tới.
Thanh kiếm bất lực, đành đâm chệch sang bên, chàng loạng choạng hai bước rồi đứng lại, nắm bàn tay cầm kiếm của cô: “A Ngưng”.
Cô ngẩng đầu nhìn chàng, như không hề quen biết: “Tại sao con trai tôi chết rồi, mà các người vẫn còn sống được, chàng và Liễu Thê Thê lại vẫn sống được”.
Suốt cả đời, tôi chưa từng nghe một giọng nào bi thương đến vậy.
Thanh kiếm sượt qua ống tay áo Thẩm Ngạn, thấm ra một vệt máu. Cô nhìn vết thương của chàng, muốn rút tay khỏi tay chàng, nhưng không được, cuối cùng, máu ứ đọng bấy lâu trong tim cô phun ra nhuộm đỏ chiếc áo trắng muốt của chàng. Chàng ôm chặt cô, còn cô khụy xuống trong vòng tay chàng.
Từ đó Tống Ngưng đổ bệnh.
Mọi chuyện về sau diễn ra như đã biết.
Câu chuyện là như vậy. Tống Ngưng hôm nay ngồi trên chiếc giường mây trong thủy đình, sắc diện dửng dưng, dường như mọi thứ trong mắt cô đều nhạt nhòa. Cô dùng một câu tổng kết mọi chuyện trong bảy năm qua. “Quân Phất, yêu một người dễ dàng như vậy, hận một người cũng dễ dàng như vậy”.
Tôi không dám dễ dàng đồng lòng với cô, giống như tôi yêu Mộ Ngôn. Tôi yêu chàng quả thực không dễ dàng. Nếu chàng không hai lần cứu mạng tôi, chúng tôi chỉ như khách qua đường. Khoan nói tôi chủ động yêu chàng, dù chàng chủ động yêu tôi, tôi cũng không cho chàng cơ hội.
Mà cho dù tôi yêu chàng, cuộc đời này cũng không thể cho chàng cơ hội để chàng làm tổn thương tôi, để tôi hận chàng. Đương nhiên, tất cả chuyện đó có thể xảy ra khi tôi là một người sống. Mà đời này tôi đã chết, bây giờ đã là người chết, ý nghĩ dù kiên định cũng chỉ là ý nghĩ mà thôi, lúc rỗi rãi nghĩ ngợi một chút, tự an ủi mình…
Thực ra, tôi thấy tất cả bi kịch đều do Thẩm Ngạn quá chung tình. Nếu chàng không chung tình như vậy thì hoàn toàn có thể có được sự hòa hợp viên mãn giữa ba người. Kết cục khiến người sống, kẻ chết, thật tang thương.
Lúc sắp chia tay, Tống Ngưng mệt mỏi nói: “Bây giờ nghĩ lại, từ đầu đến cuối, người tôi yêu e rằng chỉ là một ảo ảnh trong lòng”.
Tôi gật đầu đồng tình.
Cô nhẹ nhàng nói: “Quân Phất, cô có thể giúp tôi sống lại ảo ảnh đó không, trong mơ thôi?”.
Mặt trời lặn dần về tây, dư quang ánh lên mặt hồ sen. Tôi gật đầu: “Cho tôi thời gian hai ngày, phu nhân xem liệu có đủ để phu nhân lo liệu những việc còn lại trên trần thế. Hai ngày sau, chúng ta vẫn hẹn gặp trên hồ này, tôi sẽ dệt cho phu nhân một giấc mộng”.
Hai ngày sau, mọi người đang ngồi ăn sáng. Không khí thoáng đãng, muỗi cũng ít. Tôi nhắc tới chuyện hôm nay phải đi vào giấc mộng của Tống Ngưng, sửa lại những điều tiếc nuối, xem Tiểu Lam có thể đi cùng tôi.
Vì đường đến nước Khương quá thuận lợi, nên anh ta không có cơ hội thể hiện bản lĩnh, thật đáng tiếc cho tấm lòng thành như vậy. Lần này cùng tôi vào giấc mộng ắt xảy ra rất nhiều chuyện khó lường, anh ta sẽ có cơ hội cứu tôi khỏi nước sôi lửa bỏng, vừa có thể bù đắp những điều đáng tiếc anh ta chưa làm được đối với chúng tôi, cũng thực hiện lời anh ta hứa với tôi cách đây mười sáu ngày bốn canh giờ ba khắc.
Tôi nói xong câu đó, ba người đang ăn nhất loạt đánh rơi đũa, chỉ có Tiểu Lam phản ứng khá nhanh, đôi đũa mới rơi lưng chừng đã nhanh tay chộp lại, còn Quân Vỹ và Chấp Túc đành phải gọi người hầu lấy cho đôi đũa khác. Quân Vỹ ngạc nhiên là bởi thay vì để anh ta cùng tôi đi vào giấc mộng, tôi lại mời Tiểu Lam, trong khi Quân Vỹ mới là người Quân sư phụ ủy thác bảo vệ tôi.
Nhưng sự lựa chọn của tôi quả thực cũng có nỗi khổ riêng. Bởi Quân Vỹ mặc dù được gọi là kiếm khách, nhưng thực chất vẫn là một tiểu thuyết gia, thường hay nảy sinh cảm hứng trong lúc đối phó với sự cố trên đường, những lúc đó, anh ta thường quyết định kết thúc cuộc đấu, tìm một nơi yên tĩnh để viết tiểu thuyết, bỏ quên bạn đường trong trận địa.
Đó là nguyên do tại sao Tiểu Hoàng vốn là con hổ đã được thuần dưỡng, có lúc còn hung hãn hơn hổ hoang dã. Tiểu Hoàng cũng không nhớ đã bao lần Quân Vỹ do cảm hứng phát tác đã bỏ quên tôi trong làn mưa tên bão giáo.
Có thể thấy, nếu mệnh không lớn, tìm một người hộ vệ như Quân Vỹ rủi ro cũng vô cùng lớn, bởi vì… cảm hứng khó nắm bắt như vậy, tai nạn… cũng khó nắm bắt như vậy, nếu lựa chọn, ngay Tiểu Hoàng cũng không lựa chọn Quân Vỹ, huống hồ tôi, một người thân thủ rất bình thường.
Mặc dù trong lòng nghĩ vậy nhưng tôi không thể làm tổn thương lòng tự trọng của Quân Vỹ, suy nghĩ một lát, tôi nói với anh ta: “Chủ yếu là huynh phải ở lại để bảo vệ cây đàn của muội. Huynh xem, nếu như mọi người đều đi vào giấc mộng của Tống Ngưng, ai đó thừa cơ đến phá đàn của muội thì làm thế nào?”.
Quân Vỹ nghe xong mặt sa sầm, suy nghĩ một lát, ngoái đầu dặn Tiểu Lam: “Tuy chuyến đi lần này mục đích là để A Phất dệt giấc mộng cho Tống Ngưng. Nhưng cảnh trong mộng, anh và A Phất gặp phải lại là cảnh thật, bị thương là bị thương thật, chết cũng là chết thật. Mọi sự phải nhất nhất cẩn trọng, anh chết không sao, nhưng nhất thiết phải bảo vệ A Phất”.
Tiểu Lam không nói gì, đang dùng đũa gắp chiếc bánh chẻo nhân tôm bóng mỡ cuối cùng trong lồng hấp, tôi nhìn cái bánh nuốt nước bọt. Đôi đũa dừng lại giữa chừng, đôi mắt đẹp của anh ta liếc về phía tôi, nửa cười nửa không: “Quân cô nương thích món này?”.
Tôi nhìn theo miếng bánh trên đũa của anh ta, lắc đầu tiếc nuối. Đôi đũa chuyển hướng, trong nháy mắt chiếc bánh rơi trúng đĩa của tôi, màu xanh của đôi đũa tre lẫn với màu vỏ bánh xanh bóng. Cách cầm đũa của anh ta sao mà duyên dáng, nho nhã như một công tử quý tộc được giáo dưỡng nghiêm cẩn.
Tôi thực sự chẳng thèm thuồng gì cái bánh đó, chỉ là sở thích ngày trước, bây giờ nhìn thấy không khỏi lưu luyến, nhưng vì không có vị giác nên có ăn cũng như nhai nến mà thôi, đã vậy không nên lãng phí, thế là tôi gắp trả vào đĩa anh ta. Lúc đôi đũa của tôi đang ở phía trên bát canh, Quân Vỹ hét lên: “Các người làm gì vậy, không nghe thấy lời tôi nói sao?”.
Tôi giật bắn người, chiếc bánh rơi tõm vào bát canh, Tiểu Lam nhanh tay kéo tôi về phía sau. Chỉ thấy “bụp” một tiếng, nước canh bắn tung tóe. Quân Vỹ giận dữ nhìn tôi, chiếc áo trắng muốt của anh ta bắn đầy nước canh.
Tiểu Lam cũng nhìn Quân Vỹ, nói giọng nghiêm túc: “Lời người anh em dặn dò, tại hạ xin ghi nhớ, tại hạ có chết cũng không hề gì, nhất định phải bảo vệ Quân cô nương”.
Quân Vỹ nghiến răng: “Không cần bảo vệ cô ta, bây giờ anh giết chết cô ta cũng được”.
Tôi nói: “Ấy, như thế không hay…”.
Tiểu Lam nhìn tôi nửa cười nửa không, đang định nói thì Chấp Túc nãy giờ im lặng chợt lên tiếng: “Cô nương lại biết mật la ảo thuật, đã lâu đông lục chưa có ai…”.
Chưa nói hết đã bị Quân Vỹ giận dữ ngắt lời: “Cô ấy gia cảnh bần hàn, học được chút ảo thuật để kiếm sống, có gì đáng lạ?”.
Tôi nhìn Quân Vỹ, xem xét vẻ mặt của anh ta, cảm thấy không nên phủ định những gì anh ta xây dựng về tôi, gật đầu: “Đúng…”.
Chấp Túc: “…”.
Tiểu Lam: “…”.
Ăn sáng xong, Quân Vỹ về phòng thay quần áo, Chấp Túc không biết chạy đi có việc gì, chỉ còn tôi và Tiểu Lam ngồi đợi. Tôi ngồi trên chiếc ghế gỗ tử đàn hương, suy nghĩ, làm thế nào để dệt giấc mộng Thẩm Ngạn yêu Tống Ngưng. Giấc mộng do Hoa Tư điệu dệt ra gọi là Hoa Tư mộng, Hoa Tư mộng chỉ là tái hiện quá khứ. Một Thẩm Ngạn trong tưởng tượng mà Tống Ngưng nói kỳ thực không tạo ra được.
Tôi và Tiểu Lam nhập vào Hoa Tư mộng của Tống Ngưng là để thay đổi quá khứ của cô, để ngăn những chuyện đau khổ xảy ra trong quá khứ, khiến trong giấc mộng cô được sung sướng hạnh phúc, không còn phiền muộn, có điều vui vẻ thế nào, không phiền muộn ra sao, nếu trong lòng vẫn còn tham vọng thì đó chính là nguồn gốc khổ đau.
Tôi nghĩ, có lẽ chúng tôi có thể bắt cóc Tống Ngưng trên chiến trận ở cánh đồng hoang Thương Lộc, không để cô ta đi cứu Thẩm Ngạn, Thẩm Ngạn lúc đó sẽ chết. Nhưng nếu vậy quá khác so với kỳ vọng của Tống Ngưng, tôi lại nghĩ, hay là đánh cược một phen?
Đúng lúc đang suy nghĩ miên man thì Tiểu Lam xen vào, cắt ngang luồng suy nghĩ của tôi. Anh ta ngắm nghía cây đàn thất huyền của tôi, một lúc lâu sau, nói: “Quân cô nương nói, có phải nếu cây đàn này bị hỏng sẽ phiền toái lớn?”.
Tôi trả lời: “Phải”.
Anh ta ngạc nhiên: “Thế nào là phiền toái lớn? Nếu cây đàn này hỏng nghĩa là Hoa Tư mộng tan vỡ?”.
Tôi lặng người một lúc, không hiểu tại sao anh ta lại có ý nghĩ đáng sợ như vậy, tôi lắc đầu: “Không phải, chỉ là nếu cây đàn bị hỏng thì tôi phải bỏ ra hai thù vàng(*) để mua cây đàn mới mà thôi”.
Anh ta nhìn tôi không nói gì.
Tôi cũng nhìn anh ta.
Không gian bỗng nhiên tĩnh lặng.
Đột nhiên đôi mắt đẹp của anh ta dâng lên nụ cười, nụ cười đẹp đến nỗi khiến lòng tôi đau nhói.
Anh ta cười: “Nhìn Quân cô nương thế này rất giống một người tôi từng quen”.
Tôi nghe nói vậy thực ra trong lòng không vui. Giống như hồi tôi ở Thanh Ngôn tông, nghe nói một người họ Lưu sống ở chân núi muốn vợ vui lòng, mới khen cô ta giống cô đào nổi tiếng Trương Bạch Chi, kết quả là bị vợ vác xẻng đuổi đánh bảy dặm đường. Mặc dù Trương Bạch Chi đẹp khuynh quốc khuynh thành, trong khi Lưu phu nhân chỉ cao thước mốt, nặng gần sáu chục ký.
Thực ra lòng dạ nữ nhi trong thiên hạ phần lớn đều như nhau, họ thích độc nhất vô nhị không thích khuynh quốc khuynh thành. Tôi nghĩ, nếu phu quân tương lai của tôi cũng nói một câu như Tiểu Lam nói hôm nay, tôi nhất định bắt anh ta quỳ rách đầu gối. Nghĩ chán, tôi lại thấy ý nghĩ đó đúng là thừa, giả sử sau này tôi cũng có đấng phu quân, người đó chỉ có thể là Quân Vỹ, nhưng con người Quân Vỹ dù có quỳ rách đầu gối cũng không thể có trí nhớ tốt hơn.
Giờ Thìn, cả đoàn bốn người, cộng thêm tiểu hổ cùng đi đến thủy đình trên hồ như đã hẹn.
Khí sắc Tống Ngưng đã khá hơn nhiều so với hai hôm trước. Mái tóc vấn cao, một dải lụa trắng buộc ngang trán ở giữa gắn mảnh ngọc bích hình trăng khuyết. Tôi mơ hồ cảm thấy đã gặp cô ở đâu đó, nghĩ mãi, cuối cùng nhớ ra, hai hôm trước qua Hoa Tư điệu tôi đã nhìn thấy cô như vậy trong đêm tân hôn, hôm nay cô cũng trang điểm như thế, chỉ khác là hồi đó cô mặc đại hỉ bào đỏ chói, còn hôm nay chỉ là chiếc váy dài trắng muốt giản dị, toàn thân không hề đeo trang sức.
Tôi nói: “Phu nhân như thế này…”.
Cô ta cười: “Nên sửa sang một chút mới đi gặp chàng”.
Tôi biết chàng mà cô nhắc tới là ai. Chỉ có thể là Thẩm Ngạn, người cô yêu. Năm Lê Trang Công thứ mười bảy, một ngày đông hàn có băng tuyết, trước cửa khẩu Ngọc Lang, Thẩm Ngạn chỉ cần năm chiêu đã khiến cô ngã ngựa. Trên núi tuyết cạnh cánh đồng hoang Thương Lộc, Thẩm Ngạn nói với cô: “Nếu cô nương không chê, đợi tại hạ lành vết thương, xin đến quý gia cầu hôn cô nương”.
Sai lầm lớn nhất trong cuộc đời Tống Ngưng là chỉ yêu duy nhất một người đàn ông là Thẩm Ngạn. Vì thế một khi mất chàng ta dường như mất tất cả, đến chết cũng không thể nguôi ngoai. Nhưng nếu cô có nhiều đàn ông cùng lúc theo đuổi, mất chàng ta bất quá cũng chỉ là giảm bớt gánh nặng. Lý trí kịp thời không cho phép tôi tiếp tục suy nghĩ lan man, cứ nghĩ tiếp thì câu chuyện này sẽ biến thành truyện nữ tôn(*) mất.
Tống Ngưng nói với tôi: “Quân Phất, nếu có thể được, tôi còn mong được đoàn viên với Lạc Nhi, có phải vậy là quá tham lam, nếu Lạc Nhi còn sống, tháng sau là sinh nhật tròn sáu tuổi, tôi không biết nếu còn sống đến giờ Lạc Nhi sẽ thế nào, ngày xưa nó đáng yêu vô cùng”.
Tôi liền giở cây đàn ra, an ủi cô: “Tôi đến đây là để giúp phu nhân thực hiện ước nguyện, tôi sẽ cho mẹ con phu nhân được đoàn viên. Chúng tôi đi đã, phu nhân hãy ngủ một giấc, khi phu nhân ngủ say, tôi sẽ trở lại dệt mộng cho phu nhân”.
Tống Ngưng nhắm mắt. Những lời nói cuối cùng của Tống Ngưng đã củng cố niềm tin cho tôi. Tôi nghĩ, tôi vẫn muốn đánh cược một lần.
Hồ sen bạt ngàn một màu lá xanh biếc, điểm xuyết vài bông sen mới hé, người hầu kê giá đàn ven hồ. Tôi thử dây đàn, nhìn thấy Quân Vỹ đang bịt tai, anh ta không biết tôi không còn như ngày xưa nữa, ngón đàn của tôi giờ đã khác.
Ngày trước tôi không thích chơi đàn vì không biết chơi cho ai nghe. Sư phụ đã có tuổi, mỗi lần nghe tôi đàn thường ngủ gật. Quân Vỹ mỗi lần thấy tôi đàn cũng mang đàn ra gẩy, còn tôi mỗi khi nhìn thấy những ngón tay anh ta bấm dây đàn lại không ngăn nổi ý nghĩ muốn đập đàn vào đầu anh ta.
Sau này, Mộ Ngôn xuất hiện, dù tôi không biết hình dáng, không nhớ giọng nói của chàng, nhưng dáng chàng cúi đầu ôm cây đàn dưới ánh trăng tôi chưa bao giờ quên, cả những âm điệu du dương tôi chưa từng nghe. Nhớ đến câu thơ “gửi lòng vào tiếng đàn”, sau này tôi chăm chỉ học đàn, chỉ là mong được gảy cho chàng nghe.
Giờ Mão hai khắc, mặt trời ló khỏi đám mây, trải đầy ánh vàng trên mặt đất. Tôi gảy Hoa Tư điệu của Tống Ngưng. Vốn tưởng cô tính cách can trường như vậy, lại cưỡi ngựa chinh chiến mấy năm, Hoa Tư điệu của cô tất sẽ như tiếng sắt tiếng vàng tiếng vó ngựa chen nhau, nhưng âm thanh tuôn ra dưới dây tơ lại âm thầm như nước chảy, đìu hiu thê lương xé gan xé ruột.
Hoa Tư điệu là hiện thân của cõi lòng, giai điệu là tính mệnh, từng tiếng đàn như huyết lệ khóc than, không biết trái tim Tống Ngưng đã tan nát thế nào. Dù can trường đến mấy, cô vẫn là nữ nhi, không chết ở chiến trường, lại chết trong tình yêu.
Gảy thanh âm cuối cùng, trên mặt hồ sen đã có sương mù bay lên, làn sương khói nhuốm hồng mê ly mờ ảo như ẩn như hiện, chỉ có người mang viên giao châu trong cơ thể mới có thể nhìn thấy cảnh tượng kỳ ảo đó.
Tiểu Lam trầm ngâm nhìn về dãy núi xa, không biết đang nghĩ gì. Tôi rời cây đàn đứng lên, bước tới kéo tay anh ta. Anh ta ngạc nhiên nhìn tôi.
Tôi đang định giải thích, Quân Vỹ đã cao giọng: “Nam nữ thụ thụ bất thân…”.
Tôi nói: “Thụ thụ bất thân cái gì, không kéo anh ta, làm sao đưa anh ta vào giấc mộng của Tống Ngưng?”.
Tiểu Lam không nói gì.
Tôi vẫn nắm tay anh ta.
Vì tôi không còn là người trần thế nên nam hay nữ đối với tôi không còn ý nghĩa gì. Nhưng bị Quân Vỹ nhắc nhở nên cũng không thể không để ý đến suy nghĩ của Tiểu Lam và suy nghĩ của Chấp Túc, nữ hộ vệ của anh ta. Nhưng ngoài kéo anh ta, không có cách nào khác đưa anh ta vào Hoa Tư mộng của Tống Ngưng.
Mặt Chấp Túc lộ vẻ kinh ngạc, miệng đang há ra, rồi dần khép lại. Thấy Tiểu Lam không có ý phản đối, tôi thấy hay là hỏi thẳng anh ta, cân nhắc một hồi tôi nói: “Tôi kéo tay huynh một lúc, huynh không để tâm chứ?”.
Anh ta thản nhiên ngẩng đầu nhìn tôi, cặp lông mày khẽ nhướn: “Nếu tôi để tâm thì sao?”.
Tôi cũng thản nhiên nhìn trả: “Vậy đành đợi khi chúng ta thoát khỏi giấc mộng của Tống Ngưng, huynh chỉ việc chặt phăng bàn tay huynh đi là xong”.
Quân Vỹ nói: “Nếu vậy thì tốt, thế mới là trang nam tử hảo hán”.
Tôi nói: “Tốt cái đầu huynh ấy”.
Tiểu Lam nhếch mép cười: “Nói đùa vậy thôi, Quân cô nương không để tâm, sao tôi lại để tâm?”.
Nụ cười nhếch mép của anh ta đột nhiên khiến tôi hơi ngơ ngẩn. Nhưng lúc này đang làm đại sự, không được nghĩ lung tung. Tôi kéo anh ta cùng nhảy vào quầng sáng màu vàng sương khói mịt mùng trên hồ sen. Nếu có người đi qua, nhất định sẽ nghĩ chúng tôi nắm tay nhau tự vẫn vì tình, lại có Quân Vỹ, Chấp Túc, Tiểu Hoàng đứng trên bờ vẫy tay, chẳng khác gì tiễn biệt, thực không hiểu người ngoài nhìn thấy sẽ nghĩ gì.
Phía sau quầng sáng chính là Hoa Tư mộng của Tống Ngưng. Đây là cảnh một thị trấn phồn hoa, trên không là vầng mặt trời mùa đông bạc màu. Xa hơn nữa có thể nhìn thấy đỉnh núi tuyết, tuyết đọng long lanh in hình trời xanh, giống như những hồ sữa dài trập trùng. Gió lạnh buốt xuyên qua chiếc váy mỏng lạnh thấu xương.
Viên giao châu có tính hàn, tôi vốn đã sợ lạnh, lại gặp gió buốt nên hắt hơi liên tục. Mọi việc đã chuẩn bị chu đáo, nhưng lại quên một điều bây giờ đang là tháng năm đầu mùa hạ, mà trong Hoa Tư mộng lại là mùa đông tháng chạp. Tôi run lập cập hỏi Tiểu Lam: “Huynh có mang tiền không, chúng ta đến hiệu quần áo đã”. Chưa nói xong đã thấy hai chiếc áo khoác chìa ra. Tôi không tin vào mắt mình, ngước nhìn Tiểu Lam. Anh ta dúi chiếc áo màu hồng vào tay tôi, còn mình mặc chiếc áo màu trắng. Thấy tôi tròn mắt anh ta nói: “Lúc ăn sáng thấy Quân cô nương nói, khi Thẩm phu nhân cứu Thẩm tướng quân là mùa đông tôi liền sai Chấp Túc đi chuẩn bị hai chiếc áo khoác, không ngờ lại đắc dụng”. Tôi ôm chiếc áo, không ngớt lời khen: “Tiểu Lam, huynh chu đáo quá”.
Anh ta đứng bên, dửng dưng nhìn tôi: “Chu đáo vừa thôi”. Lát sau lại nói: “Mặc ngược rồi”.
Mặc áo xong, tôi nói với Tiểu Lam ý nghĩ của mình. Khi chúng tôi tới đây vừa đúng lúc Tống Ngưng tìm thấy Thẩm Ngạn trên chiến trường đầy xác chết và đã đưa chàng vào hang núi tuyết. Thực ra tất cả đều do Thẩm Ngạn nhận nhầm người. Mặc dù không dám đảm bảo, sau khi tỉnh dậy, ánh mắt đầu tiên chàng ta nhìn thấy là Tống Ngưng chứ không phải là Liễu Thê Thê, liệu chàng có lập tức si mê Tống Ngưng như đã si mê Liễu Thê Thê. Nhưng phải thử thôi. Tôi phân tích: Thứ nhất, phải khiến thuộc hạ của đại huynh Tống Ngưng phái đi tìm cô rời khỏi thị trấn, Tống Ngưng mới yên tâm ở lại chăm sóc Thẩm Ngạn trong y quán. Thứ hai, phải khiến Thẩm Ngạn không gặp được cô gái câm Liễu Thê Thê trong y quán, mới loại bỏ được khả năng hai người đó đến với nhau.
Tiểu Lam cho rằng làm như thế rất đúng, giết chết thuộc hạ của đại huynh Tống Ngưng và Liễu Thê Thê là mọi việc sẽ thuận lợi. Nói ra ý nghĩ ác độc đó trên mặt anh ta vẫn thản nhiên như không, dường như giết người dễ dàng như giết kiến.
Thực ra tôi cũng thấy như vậy rất giản tiện. Chỉ có điều giấc mộng do viên giao châu dệt nên, pháp lực của viên giao châu được tu luyện dựa vào hấp thụ giấc mộng đẹp của con người. Giấc mộng phải đẹp mới có thể cám dỗ con người, nhưng quá trình cám dỗ đó nếu tùy tiện gây ra cảnh chết chóc lại bất lợi cho việc tu luyện của viên giao châu. Nói cách khác, giết Liễu Thê Thê và những người khác trong giấc mộng, sinh mệnh tôi lấy được của Tống Ngưng có thể giúp tôi sống thêm một năm rưỡi nữa, nhưng nếu không giết bọn họ, sinh mệnh tôi lấy được của Tống Ngưng có thể giúp tôi sống thêm ba năm. Vì thế tôi cảm thấy, chưa bất đắc dĩ, không giết người vẫn hơn.
Có thể trong ảo mộng đó, để thực hiện lời hứa với Tống Ngưng, cuối cùng tôi vẫn phải giết một người nào đó. Nhưng cuộc trao đổi nào chẳng phải trả giá, chỉ là vạn bất đắc dĩ mà thôi.
Tôi nói với Tiểu Lam: “Hay là chúng ta đừng chọn giải pháp tàn khốc như vậy, cứ dùng biện pháp mềm dẻo trước đã. Có thể giải quyết sự việc bằng thương lượng vẫn hơn phải động gươm đao”.
Tiểu Lam trầm tư: “Cô hành sự như vậy, không sợ lỡ việc sao?”.
Tiểu Lam bỏ mặc tôi, đi thẳng vào tửu quán bên cạnh. Tôi hỏi người đi đường, biết đó là tửu quán lớn nhất thị trấn.
Bước lên tầng hai, chỉ có cái bàn cạnh cửa sổ còn trống bèn ngồi xuống.
Xưa nay tôi luôn thích những cái bàn cạnh cửa sổ trong tửu quán, bởi vì trong truyền thuyết, khách lựa chọn ngồi ở vị trí đó thường là những nhân vật khác thường. Nếu là truyền thuyết tình yêu, khách ngồi ở đó không hoàng đế cũng vương gia, nếu là truyền thuyết giang hồ, khách ngồi ở đó không minh sư cũng giáo chủ.
Những nhân vật huyền bí đó đến tửu lầu dùng bữa hầu như chỉ ngồi bên cửa sổ, những ngón tay thanh tú nâng chung rượu trắng, để lại cho bàn dân thiên hạ xung quanh nửa khuôn mặt nhìn nghiêng, để họ tha hồ bàn tán suy diễn.
Tôi nhìn trước nhìn sau, hỏi Tiểu Lam, “Một tửu lầu lớn thế, sao chỉ có chỗ chúng ta còn trống?”.
Anh ta vừa rót trà vừa hất hất cằm.
Tôi không hiểu ý anh ta, thử đoán, “Lẽ nào đúng là vị trí trong truyền thuyết chỉ có thể để nhân vật trong truyền thuyết ngồi, mọi người đa số cảm thấy mình không phải là nhân vật đó, nên mới chủ động để lại vị trí? Ha, thiên hạ đúng là quá tự giác”. Nói xong tôi hắt hơi.
Tiểu Lam giơ tay chỉ cửa sổ bên cạnh, “Cánh cửa hỏng, không đóng được”.
Tôi không tin, nhìn anh ta, “Hả?” rồi lại hắt hơi lần nữa.
Anh ta trao cho tôi chén trà bốc hơi nghi ngút, chậm rãi nói, “Bên ngoài gió rất to, nếu còn chỗ khác tôi cũng không muốn ngồi ở chỗ đầu gió thế này”.
Tôi nói, “Cái này…” vừa nói đến đó, lại hắt hơi lần nữa.
Tiểu nhị nhanh chóng mang thức ăn đến, Tiểu Lam gọi một hũ rượu hâm nóng, thêm mấy món gì đó tôi cũng không để ý, chỉ vô tình nghe thấy bánh chẻo nhân tôm vỏ phỉ thúy. Tôi vừa ngẫm nghĩ vừa xen lời: “Sáng đã ăn bánh chẻo nhân tôm phỉ thúy rồi, đổi món khác đi”.
Tiểu Lam nói: “Chẳng phải cô rất thích món này sao?”.
Tôi nói: “Tôi ăn gì cũng được, cái chính là huynh thôi, huynh thích gì cứ gọi”. Đằng nào tôi ăn gì cũng chỉ có một vị, đó là chẳng có vị nào hết.
Tiểu Lam ngẩng đầu nhìn tôi, tiểu nhị dẻo miệng chen vào: “Cô nương đúng là rất tâm lý”.
Tôi gật đầu tán đồng, tiếp tục suy nghĩ. Suy nghĩ làm sao dụ được thuộc hạ của Tống Diễn đi mà không cần đổ máu, hơn nữa trong chuyện này việc đầu tiên cần làm là tìm ra thuộc hạ của Tống Diễn trong trị trấn đông đúc này.
Mặc dù nhờ Hoa Tư điệu của Tống Ngưng tôi có thể thấp thoáng nhìn thấy bóng họ, chỉ có thể nhận ra mấy người đàn ông to khỏe vâm váp, lưng hổ tay gấu, nhưng trong thị trấn này đàn ông như vậy rất nhiều, tôi không thể đến hỏi từng người, “Đại ca, đại ca có phải là binh sĩ nước Lê, mẹ đại ca gọi đại ca về ăn cơm”.
Làm như vậy đến bao giờ mới tìm được họ.
Rượu được nhanh chóng mang ra, Tiểu Lam đưa cho tôi, đang định đón lấy ủ tay cho ấm. Anh ta lại cầm chung rượu, vẫn không buông ra, tôi giơ tay lấy, mắt anh ta như đầm sâu tĩnh lặng: “Tôi chỉ đường cho cô gái kia, cô giận gì chứ?”.
Tôi ngớ ra, không hiểu: “Sao?”.
Anh ta cau mày lạnh lùng: “Lại giả bộ rồi, tôi ghét nhất cô giả bộ với tôi”.
Tôi chỉ vào mũi mình: “Huynh đang nói với tôi đấy à, huynh nói cô gái nào…”.
Anh ta ngắt lời tôi: “Cô gái cầm cây thương vừa rồi, dáng cao cao, áo tím. Từ lúc tôi khen cây thương của cô ta, giọng nói của cô với tôi bắt đầu lạnh nhạt, còn không thừa nhận mình đang giận, cô giận gì vậy?”.
Tôi không hiểu, “Giận ư? Tôi đâu có giận”.
Mấy người đàn ông ngồi cách đó vài cái bàn đột nhiên cười rộ, cùng nói: “Chai dấm ở đâu đổ rồi, người anh em, cô ấy đang ghen đấy, ai bảo anh lại khen cô gái khác trước mặt cô ấy, ha ha ha…”.
Tôi vẫn không hiểu đầu đuôi thế nào, nhưng bị họ nói to như vậy, bao nhiêu thực khách trong tửu lầu đều dồn mắt về phía này.
Tôi lẩm bẩm: “Cô nương áo tím, dáng cao cao, cầm cây thương?”.
Anh ta không để ý đến lời tôi, chộp cánh tay tôi, ánh mắt vừa rồi còn lạnh lùng đột nhiên vui như đang cười: “Ghen thật sao?”.
Mặt tôi vẫn dửng dưng, giật tay về: “Quả thực tôi không ghen”.
Tiểu Lam buông tay tôi. Bởi vì bàn ăn bên cạnh không biết từ đâu xuất hiện một toán người. Toán người đó vận trang phục theo kiểu người Khương, nhưng giọng nói lại là khẩu âm vùng biên giới nước Lê, vừa nghe đã biết là trá hình. Một người có vẻ là toán trưởng hướng về phía Tiểu Lam: “Tiểu huynh đệ nói vừa gặp một cô gái áo tím, tay cầm cây thương, lại còn chỉ đường cho cô ấy, xin hỏi cô gái đó đi về hướng nào?”.
Kỳ thực, từ lúc phát hiện ra toán người này, tôi đã lập tức hiểu ý đồ của Tiểu Lam. Cô gái áo tím mà anh ta nói rất nổi bật. Chỉ cần có duyên gặp một lần, tôi không thể không nhận ra cô ta chính là Tống Ngưng.
Nếu Tiểu Lam có thể đánh lừa được toán người đi tìm Tống Ngưng, điệu họ rời khỏi thị trấn thì tốt. Đang nghĩ như vậy, quan sát biểu hiện của Tiểu Lam tôi hết sức ngạc nhiên. Lúc này mặt anh ta đầy cảnh giác, hỏi mấy người kia: “Cô gái áo tím đó có quan hệ thế nào với các vị? Các vị định làm gì?”. Giống như anh ta quả đã từng gặp cô gái áo tím đó, tuy chỉ thoáng qua, nhưng vô cùng ngưỡng mộ cô, sợ những người đó có ý đồ gì với cô nên muốn bảo vệ cô.
Toán người nhìn nhau, toán trưởng nói vẻ bối rối: “Quả thật không dám giấu, cô nương áo tím mà tiểu huynh đệ đã gặp chính là tiểu thư nhà chúng tôi bỏ nhà đi. Tiểu thư bỏ đi, thiếu gia chúng tôi rất lo lắng, phái mấy huynh đệ bọn tôi đi tìm. Tiểu thư đi về hướng nào, rất mong tiểu huynh đệ chỉ giúp”.
Lòng tôi thầm giục, nói đi, nói đi, nói, chỉ bừa một hướng nào đó để họ rời đi, nhưng mặt Tiểu Lam lộ vẻ phân vân. Nghĩ một lát, tôi lập tức hiểu ra, thâm tâm anh ta chắc cũng đang muốn nói một địa chỉ nào đó để bọn họ rời khỏi thị trấn, nhưng vẫn cố nén để họ khỏi nghi ngờ, để họ tin là anh ta nói thật. Kinh nghiệm ở đời cho thấy, bộ dạng càng thật thà càng dễ đánh lừa người khác.
Đối phương quả nhiên tin lời, trịnh trọng nói: “Mấy huynh đệ chúng tôi đến đây chỉ là để tìm tiểu thư, tiểu huynh đệ yên tâm, nếu cô nương áo tím đó không phải là tiểu thư nhà chúng tôi, chúng tôi cũng không làm khó cô ấy, nếu không giữ lời, chúng tôi sẽ bị sét đánh chết”.
Tiểu Lam nhìn người đó vẻ đắn đo, mãi sau mới nói: “Đã vậy, nếu cản trở các vị đi tìm người nhà, tại hạ cũng có lỗi… Một canh giờ trước, chúng tôi có gặp một cô nương áo tím ở chân núi Thạch Môn, cô ấy hỏi thăm một kiếm khách họ Kinh trên núi Thang, nói là cần đến thăm kiếm khách đó, hỏi đường lên núi Thang đi thế nào”.
Chỉ một câu ngắn ngủi nhưng đã bao hàm bao nội dung, phản ánh sự giằng co trong lòng, sự đắn đo giữa nói và không nói, trong đó có nỗi hoang mang bởi cuối cùng đã nói ra, còn cả sự bất lực khi nói ra không biết hậu quả sẽ thế nào. Anh ta thực hiện hoàn hảo vai diễn của mình, không được xem thật đáng tiếc.
Anh ta vừa nói xong, toán trưởng rên lên: “Đích thực là tác phong của tiểu thư”. Anh ta chắp tay cúi chào chúng tôi, cả toán người tức thì mất hút ở cửa tầng hai tửu lầu.
Nhìn bóng họ xa dần, Tiểu Lam ngồi lặng rất lâu, trong vẻ băn khoăn dường như phảng phất nỗi buồn, mãi đến khi qua khung cửa sổ thấy họ đã biến mất ở phía chân trời. Tôi quay đầu, nhìn Tiểu Lam thần sắc đã trở lại bình thường, đang ung dung rót rượu ra chung.
Tôi cảm thấy mình có rất nhiều điều muốn hỏi, Tiểu Lam trước mặt khiến tôi hình như nhìn thấy một khuôn mặt khác của anh ta, tuyệt đối không phải là con người suy sụp chán chường nằm liệt hai ngày sau khi bị cô gái đâm trọng thương. Sự thay đổi của anh ta giống như trồng cây nho kết quả lại kết ra bưởi đào.
Tuy nhiên ngẫm nghĩ về con người anh ta lại cảm thấy mặc dù hơi ngạc nhiên, nhưng cũng chẳng có gì không thỏa đáng, giống như cây nho kia kết ra bưởi đào chứ không phải là sầu riêng hoặc thanh long. Tôi ngồi đối diện với anh ta, giả vờ hỏi: “Núi Thạch Môn, núi Thang, hình như huynh rất thuộc địa hình ở đây?”. Tiểu nhị bưng lên món gà rưới nước gừng, anh ta vừa quan sát nước gừng chuyển màu vừa nói: “Bảy năm trước tôi có nghe nói về trận chiến Thương Lộc, nhân lúc rảnh rỗi đến đó tham quan, cũng tìm hiểu tình hình xung quanh”. Tôi nói: “Vậy sao huynh biết thuộc hạ của Tống Diễn nhất định ở tửu lầu?”. Anh ta nhấc chung rượu ung dung nói: “Họ đến đây làm việc công, lộ phí dùng bạc công, đúng vào bữa trưa, tất nhiên là sẽ đến tửu lầu nổi tiếng nhất thị trấn. Cô đã thấy ai đi làm việc công lại tiết kiệm tiền cho ngân khố triều đình chưa?”.
Tôi ngẫm nghĩ, đúng là như vậy.
Lúc tôi là công chúa nước Vệ, được phụ vương phong hiệu là Văn Xương, theo lời đồn đã trở thành người thông minh nhất trong Vệ vương thất. Mặc dù lời đồn đa phần không có thật, nhưng trong vương cung, so với mọi người tôi cũng có phần tự hào về trí thông minh của mình. Nhưng hôm nay so với Tiểu Lam, lập tức cảm thấy kém hơn nhiều, lẽ nào chứng tỏ nước Vệ diệt vong không phải là do thiên tai địch họa, tất cả đều do vương thất kém người tài?
Tiểu Lam nói: “Vẻ mặt thế này, cô đang nghĩ gì vậy?”.
Tôi nói: “Đang nghĩ rất nhiều truyền thuyết thực ra không phải như vậy mà chỉ là do người ta đồn thổi, truyền khẩu rồi thành mà thôi. Truyền thuyết hoàn toàn không xảy ra trong hiện tại, chỉ xảy ra trong quá khứ hoặc tương lai, dưới dạng hư cấu, thực ra không có ý nghĩa, tất cả đều là giá trị ước đoán sai lầm. Nhưng càng sai lầm dường như giá trị càng lớn, mà thực tế giá trị quả nhiên càng lớn…”.
Tiểu Lam như không hiểu.
Tôi nói: “Thực ra là…”.
Anh ta ngắt lời tôi: “Ăn bánh chẻo đi đã, ăn rồi hãy nói”.
Thế là chúng tôi bắt đầu ăn bánh chẻo.
Nhưng ăn xong thì tôi lại quên mất định nói gì tiếp.
Gió mùa đông chuyển thành mưa, mưa như trút nước. Trời đất như hòa làm một, chỉ thấy đỉnh núi tuyết lờ mờ phía xa. Tuy tôi và Tiểu Lam không hiểu tại sao mùa đông lại có mưa to sấm chớp, nhưng ngoài mua hai chiếc ô, chúng tôi cũng chẳng biết làm thế nào.
Nửa canh giờ trước, chuyện trò với bà chủ quán bánh rán, chúng tôi cũng thăm dò được tình hình của Liễu Thê Thê, được biết lúc này cô ta đang lên núi tuyết hái một loại tuyết liên tử có thể làm thuốc. Theo bà chủ quán nói, Liễu Thê Thê là cháu gái duy nhất của thần y Liễu Thời Nghĩa, tính dịu hiền, hay giúp đỡ mọi người, y thuật cao minh, người cũng xinh đẹp, chỉ có điều không may bị câm.
Nhưng tôi và Tiểu Lam lại chưa từng nghe danh thần y Liễu Thời Nghĩa, chỉ nghe nói có một xướng ca nước ngoài tên dịch âm sang là Liễu Thời Nguyên.
Chỉ có một đường độc đạo lên núi tuyết, bà chủ quán chỉ cho chúng tôi con đường đó. Để cám ơn, tôi bảo Tiểu Lam mua cho bà mười cái bánh rán làm lương thực đi đường. Nhưng núi tuyết phía trước quả rất gần, hoàn toàn không phải dùng đến chỗ lương thực đó. Vứt đi thì phí, vậy là chúng tôi vừa đi vừa ăn, để cho đỡ phải mang theo.
Đi được nửa đường, mưa nhỏ dần, tôi hỏi Tiểu Lam: “Sao huynh không hỏi tôi, sau khi tìm được Liễu Thê Thê sẽ làm gì?”. Anh ta không ngoái lại, thản nhiên nói: “Lẽ nào không phải là trói cô ta lại, cho đến khi vợ chồng Thẩm Ngạn rời khỏi đây mới thả ra?”.
Tôi gật đầu: “Lúc đầu thực sự tôi cũng nghĩ vậy, nhưng số mệnh thường rất oái oăm, tôi vẫn lo, nhỡ ra một ngày nào đó Liễu Thê Thê gặp được Thẩm Ngạn, yêu anh ta, tình hình còn phức tạp hơn thì làm thế nào? Nếu vậy chuyến đi này của tôi chẳng phải uổng công sao”.
Giọng anh ta lơ đãng: “Thế à?”.
Tôi bước hai bước đuổi kịp Tiểu Lam, đi cạnh anh ta, nói: “Thực ra huynh nghĩ xem, nếu trước khi Liễu Thê Thê gặp Thẩm Ngạn trong lòng cô ta đã có người khác, hơn nữa tình cảm lại sâu đậm, cho dù sau này cuối cùng có ngày gặp Thẩm Ngạn thì giữa họ cũng khó xảy ra chuyện gì. Bất luận giữa Thẩm Ngạn và Tống Ngưng kết cục thế nào, cũng coi như giấc mộng của Tống Ngưng đã thành công một nửa, công việc của tôi cũng thành công một nửa”.
Cuối cùng anh ta cũng dừng bước, giơ cao chiếc ô, vẫn giọng lơ đãng: “Cho nên?”.
Chính trong thời khắc đó, trong mưa thoảng mùi hương mai, như thấm đẫm vạt áo, chứa đầy tay áo, có lẽ là ảo giác khó phai mờ trong ký ức.
Bởi vì hồi đó, trời cũng mưa thế này, những hạt mưa như hạt ngọc từ trên trời rơi xuống. Lúc sinh mệnh của tôi sắp trôi đi, tôi đã kịp nhìn thấy chàng trai trẻ cầm chiếc ô sáu mươi tư nan bước về phía tôi trong màn mưa nước Vệ. Chàng giơ cao ô, mắt tôi nhập nhòe nước mưa lẫn máu, nhìn không rõ mặt chàng. Tôi vẫn nghĩ đó là ảo giác của tôi trước lúc lìa đời, cho đến nay vẫn không biết đó có phải cảnh thực hay không.
Tôi trịnh trọng nói: “Tiểu Lam, tôi đã nghĩ ra một kế sách hết sức vẹn toàn, hãy làm cho Liễu Thê Thê nảy sinh tình cảm sâu đậm với huynh, huynh đồng ý giúp tôi không? Ấy, đương nhiên chuyện này là do huynh tự nguyện, nếu huynh không thích thì thôi”.
Anh ta nói: “Ồ, cho dù…”.
Hoa tuyết lẫn hạt mưa đọng trên mặt đất, đẹp như thơ. Tôi nói: “Đó mưa tuyết đấy, thời tiết này thật là! À, nghe nói thân thủ của huynh rất cừ, vậy không cần tôi dẫn cũng có thể thoát khỏi Hoa Tư mộng, đúng không? Thực ra không thoát ra được cũng không sao, nơi này huynh xem, cũng rất tuyệt. Trở lại chuyện vừa rồi, lúc trước huynh định nói gì?”.
Anh ta nhìn tôi rất lâu, tôi thản nhiên lấy ra chiếc bánh tiếp tục ăn.
Một hồi lâu sau, anh ta bình thản nói: “Tôi định nói, một việc nhỏ như vậy chẳng là gì hết, Quân cô nương đã có kế sách vẹn toàn thì cứ làm theo kế đó đi”.
Tôi gật đầu: “Được”.
Anh ta bổ sung: “Chỉ có điều…”.
Tôi tò mò hỏi: “Có điều gì…”.
Anh ta cười: “Tôi thì không sao, tôi và Liễu Thê Thê chung quy cũng chỉ là ảo mộng, chỉ có điều, cho dù Liễu Thê Thê yêu tôi, cũng khó đảm bảo khi gặp Thẩm Ngạn cô ta không thay lòng”.
Tôi đưa cho anh ta chiếc gương: “Nào, tự tin một chút về dung mạo của mình đi”.
“…”.
Đi vào núi tuyết, mưa tạnh, gió ngừng. Chúng tôi đi trên con đường Liễu Thê Thê chắc chắn đã đi qua. Không lâu, quả nhiên phía xa xuất hiện một bóng người loạng choạng. Tôi vội giục: “Làm theo kế hoạch”. Chúng tôi ra khỏi mô tuyết cao, chạy đến chỗ người đó. Khi nhìn rõ mặt, bỗng sững người. Cô gái đó mái tóc xõa tung, xiêm y mỏng manh, trên lưng cõng một người đàn ông to cao bọc trong tấm nhung bào, cả người cô oằn xuống, hình như tất cả chỉ dựa vào cây thương chống trong tay mới không ngã khụy.
Tôi nhận ra cô, chính là Tống Ngưng bảy năm trước. Mặc dù dung nhan tuyệt sắc dính đầy đất và tuyết, hầu như không còn nhận ra chút tuyệt sắc nào hết. Gặp nhau ở đây thực ra cũng là duyên phận, chỉ có điều cô không phải là người chúng tôi cần tìm. Tôi kìm chế nỗi kinh ngạc, giả làm người đi đường, tôi lướt qua cô như không nhìn thấy. Tay cô vẫn nắm chặt cây thương, tôi liếc thấy những ngón tay trắng bợt của cô, giọng nói khản đặc, khó nghe lại vang lên trong tầng không mênh mông tuyết: “Cô nương xin dừng bước, có phải cô nương sống trên núi này không? Nếu đúng xin cô chỉ cho làm thế nào ra khỏi núi tuyết, làm thế nào tìm được y quán, tôi… tính mệnh phu quân đang nguy cấp, ở lại núi này, e rằng…”.
Tôi nhìn trước ngó sau rồi ngắt lời cô: “Phía sau có người đàn ông mặc áo trắng lông chồn. Cô đi hỏi anh ta, tôi không thạo thông thổ vùng này”. Nói xong tôi chạy vụt về phía sau cô, nháy mắt đã biến mất. Thực ra không phải tôi không muốn giúp cô, mà đúng là đã quên mất đường, chạy nhanh như vậy là có lý do riêng, bởi vì vừa rồi phóng tầm mắt ra xa, phía cuối tầm mắt đã xuất hiện người tôi cần tìm, Liễu Thê Thê.
Đúng lúc Tống Ngưng đang nói tình trạng phu quân cô ta, thì Liễu Thê Thê từ một chỗ rẽ đi ra, từ phía sau nhìn thấy chiếc áo khoác dài màu trắng, to sụ, lưng khoác một cái gùi đựng thuốc. Tôi vừa đuổi theo cô ta vừa suy nghĩ miên man. So với cô ta thực ra Tống Ngưng ở gần cửa núi tuyết hơn, bảy năm trước sở dĩ sau khi Liễu Thê Thê đã trở về y quán Tống Ngưng mới cõng Thẩm Ngạn tìm thấy y quán có lẽ là do lúc ra cửa núi không để ý nên bị lạc đường.
Chỉ còn cách Liễu Thê Thê vài trượng, tôi suy nghĩ, cảm thấy đã có thể hành động, liền vừa rút dao găm ở thắt lưng, vừa thét to: “Cây này do ta trồng, núi này do ta mở, ai muốn qua đây phải đưa lộ phí”, vừa xông ra trước mặt Liễu Thê Thê mảnh mai như cây cỏ.
Tôi đã bàn tính với Tiểu Lam, anh ta sẽ làm một anh hùng cứu mỹ nhân, khi tôi chưa kịp lao đến trước Liễu Thê Thê, anh ta sẽ đột nhiên vọt ra từ chỗ nào đó, một tay gạt tôi sang một bên, một tay đỡ Liễu Thê Thê lúc này chắc chắn đang run lẩy bẩy ngã trên đất, mỉm cười dịu dàng: “Cô nương không sao chứ?”. Như vậy Liễu Thê Thê sẽ vô cùng cảm kích, bởi vì ngày trước tôi cũng cảm kích rồi yêu Mộ Ngôn như vậy. Tuy tôi đã suy tính kỹ, mọi chi tiết, từ lúc bắt đầu, quá trình diễn ra, ngay cả những tình huống có thể nảy sinh cũng đều liệu trước, chỉ có một điều tôi chưa tính tới, đó là con đường mòn này ở ngay sát bờ vực, tuyết dày, đường trơn, trong lúc chạy tôi làm văng một chiếc bánh rán, khi lao đến lại giẫm đúng vào nó, người tôi trượt đến hai trượng, kéo theo một đám tuyết lở, chính đám tuyết đó đã đẩy Liễu Thê Thê xuống vực, trong khi tôi vẫn bị mắc lại phía trên.
Tôi hốt hoảng đứng trên miệng vực nhìn xuống, Tiểu Lam xuất hiện từ lúc nào, cũng cúi nhìn, nhưng phía dưới chỉ thấy mờ mịt tuyết trắng, hôm nay Liễu Thê Thê lại mặc chiếc áo khoác trắng, lẫn vào tuyết, chúng tôi chẳng nhìn thấy gì hết.
Tôi hoảng hốt suýt khóc: “Sao huynh không xuất hiện sớm một chút? Huynh xem, tôi đã làm chết Liễu Thê Thê, vụ này không xong rồi, cô ấy không cần phải chết, tội nghiệp, cô ấy chết còn không kịp kêu một tiếng…”.
Tiểu Lam kéo tôi đứng lên, nhẹ nhàng nói: “Chẳng phải quá tốt sao, bây giờ vậy là ổn rồi, chúng ta có thể về nhà ngủ một giấc”.
Tôi cuống quýt: “Không được, vừa rồi tôi không nghe thấy tiếng “uỵch” nhỡ Liễu Thê Thê vướng phải cây chưa chết thì sao? Đừng ngăn tôi, tôi phải đi xem thế nào”. Nói xong tôi định nhảy xuống.
Không ngờ, Tiểu Lam lại buông tay, vốn tưởng anh ta sẽ sống chết giữ tôi lại, nhưng anh ta lại buông tay, vào lúc tôi không đề phòng nhất. Thực ra cũng không thể nói như vậy, nói vậy có thể oan cho anh ta, thực tế chỉ là tôi chưa chuẩn bị tốt, còn anh ta dường như lại nhanh tay hơn tôi.
Kết quả anh ta vừa buông tay, cả người tôi đã bay xuống vực như con chim yến, chỉ nghe thấy tiếng anh ta hét lên A Phất. Tôi nhớ tới kiến thức ngày trước Quân sư phụ đã dạy tôi và Quân Vỹ, một quả cầu sắt năm cân và một quả cầu sắt năm lạng nếu đồng thời rơi ở cùng một độ cao, hai quả cầu đó cũng sẽ đồng thời chạm đất.
Tôi nhìn Tiểu Lam nhảy xuống ngay sau đó, cảm thấy quả là đáng buồn, theo định luật quả cầu sắt, làm sao anh ta có thể đuổi kịp tôi để kéo tôi lại?
Thực ra, chỉ cần viên giao châu trong ngực tôi không bị vỡ, tôi sẽ không chết, hoặc là có chết cũng chẳng chết thêm được nữa, cho nên tôi ngã xuống vực cũng chẳng sao. Nhưng Tiểu Lam là người phàm bằng xương bằng thịt, lại dám nhảy xuống vực sâu vạn trượng, quả thật không hiểu nổi, có lẽ chỉ có người điên mới làm vậy, như vậy chẳng phải tự tìm cái chết sao?
Nghĩ đến đây, chỗ đặt viên giao châu đột nhiên lay động, tôi bất ngờ hoảng sợ. Tôi há miệng định hét, nhưng giọng dường như bị nuốt mất, không thể bật ra tiếng, trước mắt chỉ có một màu tuyết trắng xóa bao la, màu trắng đó lọt vào mắt tôi, lọt vào ngực tôi. Cơ thể bị giữ lại trên không, thanh kiếm văng ra đập vào vách đá đóng băng, phát ra âm thanh chói tai, tay phải Tiểu Lam cầm chuôi kiếm, tay trái ôm chặt tôi, đầu nghiêng một bên, má áp vào trán tôi.
Trong chớp mắt, chúng tôi treo lơ lửng giữa lưng chừng vách đá, người cứng đờ, giọng anh ta từ trên đầu tôi vọng xuống: “Quân cô nương quả to gan, lúc tính mạng ngàn cân treo sợi tóc vẫn có thể bình tĩnh như vậy, nếu là tiểu thư khác đã sợ nhũn người rồi!”.
Tôi nói: “Tôi cũng run, nhưng âm thầm run trong lòng”. Để tăng độ tin cậy, tôi vòng hai tay ôm cổ anh ta. Ngay sau đó tôi nghe thấy tiếng mũi kiếm va vào lớp băng trên vách đá, Tiểu Lam đạp chân vào vách đá, dụng lực, vận công tung người, tay vẫn ôm chặt tôi như ôm con khỉ, mấy lần như thế, tôi chỉ thấy tiếng gió ù ù bên tai, tay áo trắng của anh ta lướt qua mặt tôi như áng mây cuối trời vào ngày nắng đẹp.
Tôi vẫn chưa phản ứng được thì đã thấy mình trở lại mặt đất, bị anh ta ôm bay lộn mấy vòng, choáng váng, tôi ngồi bên bờ vực bóp đầu, nhưng anh ta vẫn bình thường như không, giơ tay kéo tôi ra xa bờ vực, không biết nghĩ đến điều gì, anh ta ôm trán, nói: “Cô đã biết đây là ảo mộng, trong ảo mộng giết nhầm một người, định lấy mạng mình đền mạng hay sao, không biết cô quá ngốc hay là quá thật thà”.
Tôi biết đây là sự hiểu lầm tuyệt vời, nhưng cũng không tiện giải thích, bởi vì bí mật về viên giao châu duy trì mạng sống cho tôi không thể để người ngoài biết, vậy nên cứ để sự hiểu lầm tuyệt vời đó tiếp tục tuyệt vời.
Tôi vẫn bóp đầu.
Anh ta cúi xuống hỏi: “Sao thế?”.
Tôi không tiện nói vừa bị anh ta quay đảo nên choáng váng, đành nói: “Không sao, sợ quá bụng hơi đói thôi”.
Anh ta nói, “Còn bánh rán không? Ăn một chút đi”.
Tôi đột nhiên nghĩ ra một chuyện quan trọng, vội kéo áo anh ta: “Huynh làm thế nào phá vỡ định luật quả cầu sắt để cứu tôi?”.
Chàng ngẩng đầu: “Đó là cái gì?”.
Tôi nói: “Nói ra dài lắm, thực ra là… ”.
Anh ta ngắt lời tôi: “Ăn đi đã, ăn xong hãy nói”.
Vậy là chúng tôi bắt đầu ăn bánh.
Nhưng ăn xong tôi lại không nhớ vừa rồi định nói gì.
Chúng tôi ở lại hai ngày trong núi, bởi vì Tiểu Lam cho đây là thời cơ hiếm hoi, bình thường đâu dễ đến biên giới hai nước Khương, Lê du ngoạn, đã đến ít nhất cũng nên tìm hiểu địa hình mới không uổng công, đó là tư duy của một nhà quân sự.
Nếu lần này đi cùng Quân Vỹ, anh ta chắc chắc bảo tôi lập tức rời khỏi núi, tìm một quán trọ ở hai ngày để anh ta viết tiểu thuyết. Đó là tư duy của một tiểu thuyết gia. Tôi cùng Tiểu Lam thăm dò địa hình, có những chỗ địa hình vô cùng phức tạp, dù đi mấy lần cũng vẫn cảm thấy rối ren nhức đầu, vậy mà anh ta có thể lập tức vẽ lại sơ đồ mà không hề nhầm lẫn. Tôi nhìn anh ta, cảm thấy có vẻ như không có việc gì trên đời anh ta không biết, nhưng lại xua ngay ý nghĩ đó, bởi vì có một điều chắc chắn anh ta không làm được, anh ta sao có thể mang thai sinh con.
Hai ngày sau, trời vừa nắng đẹp lại đổ mưa, chọn đúng giờ Thìn đêm Thẩm Ngạn tỉnh lại, tôi và Tiểu Lam che ô, thong thả tìm đến y quán. Lần này đi chỉ để nhìn xem khi Thẩm Ngạn tỉnh lại Tống Ngưng sẽ phản ứng thế nào. Thực ra trong lòng tôi không khỏi băn khoăn, không biết lần tự cá cược với chính mình này, rút cục tôi thắng hay thua.
Duyên phận hai người đó ngăn cách bởi nợ nước thù nhà, không biết Thẩm Ngạn liệu có như tôi, nợ nước, tình riêng phân định rõ ràng.
Đêm khuya vắng vẻ, chúng tôi nhón chân áp sát cửa sổ gỗ chạm hoa văn của y quán, khẽ vạch lớp rèm mỏng, quan sát cảnh bên trong. Tiểu Lam đẩy tôi sang bên, kéo đến chỗ vắng: “Cô thế này là nhìn trộm đấy!”.
Tôi vùng khỏi tay anh ta: “Sao lại nhìn trộm, huynh không nên nói tôi xấu như vậy, chỉ là nhìn lén một chút thôi”.
Tiểu Lam buông tay nhìn tôi.
Tôi xoa mũi: “Huynh có muốn nhìn không, nhìn lén một mình không thích lắm, ta cùng nhìn đi?”.
Tiểu Lam bất lực xoa trán: “Một mình cô nhìn thôi, cẩn thận, hai người trong phòng thân thủ cao cường, làm kinh động họ là cô xúi quẩy”.
Vậy là tôi vui vẻ quay lại nhìn lén.
Tay khẽ vạch rèm cửa sổ nhìn vào, trong phòng chỉ có một ngọn đèn nhỏ, tất cả đều là tái hiện quá khứ, chỉ có điều nhân vật nữ vốn là Liễu Thê Thê đã không may bị tôi đẩy xuống vực, người ở bên cạnh Thẩm Ngạn lúc này là Tống Ngưng.
Cô đăm đăm nhìn khuôn mặt Thẩm Ngạn trong giấc ngủ, cúi rất thấp, sống mũi cao cơ hồ chạm vào đôi môi mím chặt của chàng. Tôi nghĩ, nếu là tôi, tôi sẽ hôn chàng, vừa nghĩ vậy, quả nhiên đã thấy Tống Ngưng hôn vào môi chàng. Do nghiêng mặt, thị lực lại rất tốt, tôi nhìn rất rõ, Tống Ngưng nhắm mắt hàng mi rung nhẹ, khuôn mặt trắng đẹp như men sứ ửng hồng, đúng lúc đó Thẩm Ngạn mở mắt.
Mưa tí tách. Chàng giơ tay, ôm lấy lưng cô. Cô giật mình vùng ra nhưng bị chàng ôm chặt. Chàng lặng lẽ nhìn kỹ cô, ánh mắt lướt từ mái tóc đen buông xõa, qua cặp mày, đôi mắt cô, khuôn mặt tuấn lãng nhợt nhạt của chàng bất chợt hiện ra nụ cười, chàng nói: “Ta đã nhận ra nàng, Tống Ngưng”.
Ánh mắt Tống Ngưng thoáng sợ hãi nhưng lập tức trấn tĩnh, cô mỉm cười ngẩng đầu, không nói, chỉ cố nhích khỏi chàng, có lẽ đó là sự e thẹn của một cô gái. Tôi hiểu, cô vừa muốn Thẩm Ngạn biết cô là Tống Ngưng, vừa sợ Thẩm Ngạn biết cô chính là Tống Ngưng. Bởi vì Tống Ngưng không chỉ là Tống Ngưng mà còn là tiểu muội của đại tướng quân Lê quốc Tống Diễn.
Thẩm Ngạn vẫn ôm chặt cô: “Tống Ngưng, tại sao lại cứu ta?”. Giọng nói không có sự vui mừng, nét mặt chàng hoàn toàn không có vẻ dịu dàng khoan dung khi nhìn Liễu Thê Thê năm xưa.
Lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh, nghĩa là tôi đã thua cuộc, quả nhiên số phận đã định, đời này Thẩm Ngạn không thể yêu Tống Ngưng, cho dù trong ảo mộng.
Tống Ngưng muốn vùng ra: “Chàng đừng lầm tưởng tôi muốn cứu chàng, chỉ vì bị chàng đánh bại, tôi không cam lòng, trước khi tôi đánh bại chàng, chàng không thể chết, tôi tuyệt đối không để chàng chết, chỉ là tôi không cam lòng mà thôi”.
Tôi không muốn nhìn tiếp, dựa vào tính cách của Thẩm Ngạn có thể đoán biết cảnh tiếp theo sẽ là gì. Tôi đang định chạy đi bàn với Tiểu Lam, đột nhiên thấy ánh nến chao đảo. Khi ngọn lửa đứng yên, trên giường đã biến thành cảnh Thẩm Ngạn nằm trên Tống Ngưng nằm dưới. Tôi ôm chặt lấy cằm không để nó rơi xuống, nhìn dáng Thẩm Ngạn ép chặt Tống Ngưng trên giường chẳng có vẻ là người bị trọng thương vừa hồi phục. Chàng mỉm cười: “Vậy vừa rồi nàng đã làm gì, Tống Ngưng? Nàng dùng đôi môi của mình bắt muỗi cho ta ư?”.
Mặt Tống Ngưng đỏ ửng, không nói được gì.
Chàng giơ tay vén tóc mai xõa trên mặt cô, vuốt ve tóc mái của cô, giọng dịu dàng: “Ta vẫn luôn nghĩ, cô gái cứu ta không biết dung mạo thế nào, thì ra là thế này. Tại sao nàng không nói, tại sao không nói với ta nàng là Tống Ngưng từng gặp ta trước ải Ngọc Lang?”.
Mắt Tống Ngưng ứa lệ, cô ôm chàng bật khóc: “Tại sao em phải nói với chàng, nhất định chàng không muốn em cứu, nhất định chàng ghét em, chàng không muốn gặp mặt em. Chàng tỉnh rồi, tỉnh rồi thì tốt, em sẽ trở về nước Lê, chàng nói chàng muốn lấy em, coi như chàng nói đùa, đằng nào em cũng chưa bao giờ coi đó là thật”.
Chàng nhìn cô, dở khóc dở cười, khẽ vỗ lưng cô: “Nàng tưởng nàng cứu ta dễ dàng sao? Nàng tưởng ta dễ dàng động lòng hay sao?”.
Cô càng khóc dữ hơn: “Chàng nói dối, vừa rồi chàng nhìn thấy em mới biết là em”.
Chàng hôn mắt cô, như khích lệ cô cứ khóc cho vơi nỗi lòng: “Nàng nói đúng, vừa rồi nhìn thấy nàng, ta mới biết đó là nàng, ta yêu người con gái cứu ta, nhưng không biết dung mạo cô ấy thế nào”.
Tống Ngưng bảy năm sau dường như luôn cố gắng kìm nén tâm trạng, vốn tưởng là bản tính như vậy, hôm nay mới hiểu, thì ra là do người đàn ông mà cô muốn được yêu chiều, nũng nịu đó trong bảy năm trời chưa bao giờ để ý đến cô.
Cô cũng có lúc vui có lúc buồn, nhưng cô chỉ muốn ý trung nhân của mình nhìn thấy mình trong dáng điệu nũng nịu như vậy, đây mới là một Tống Ngưng thơ ngây đích thực.
Tôi rời cửa sổ, Tiểu Lam cầm ô đứng trong sân, đang ngắm một cây tiên khách lai sắc hoa nhàn nhạt. Loại hoa này vốn không nên trồng ở vùng núi tuyết, nó sống được đã là hiếm hoi, lại còn ra hoa, thật là điềm lành trời báo.
Tôi vòng qua Tiểu Lam, vòng qua hàng giậu. Anh ta thong thả đi đến, giương ô che cho tôi: “Hai người đó thế nào?”.
Tôi nhoẻn cười: “Tôi thắng rồi”.
Mưa rơi trên ô, phát ra những tiếng lộp bộp vui tai. Tiểu Lam liếc tôi: “Nhưng trông cô không được vui lắm”.
Tôi nói: “Thực ra không phải tôi không vui. Chỉ là hôm nay nhìn thấy chuyện xảy ra trong mộng, mới hiểu bảy năm trước nếu không có sự hiểu lầm đó, Tống Ngưng và Thẩm Ngạn đã có thể sống rất hạnh phúc, không xảy ra cảnh ngộ như bây giờ, chỉ cảm thấy đáng tiếc mà thôi”.
“Cảm giác đó cũng giống như huynh đến thanh lâu tìm một cô gái, nhưng cô gái hình như không muốn tiếp huynh, huynh cứ tưởng dung mạo mình khó coi, khiến cô gái không thích, mấy năm sau đột nhiên hiểu ra, thì ra không phải cô gái đó không thích mình, thực ra cô ấy thấy dung mạo huynh rất tuấn tú, rất muốn chia sẻ chăn gối với huynh, chỉ tiếc là huynh xúi quẩy, hôm đó cô ta thấy tháng, không tiện gặp huynh”.
Anh ta nhìn tôi, nửa cười nửa không: “Quân cô nương…”.
Tôi ngắt lời anh ta: “Có phải huynh định nói, tôi nói năng sống sượng quá chứ gì? Thực ra thâm tâm tôi là người bảo thủ, bây giờ tôi có thể nói toạc ra chẳng e dè như vậy, chỉ là do mười bảy năm qua tôi quá cẩn trọng ý tứ. Bây giờ tôi chỉ có một mình, tự nhiên thích nói gì là cứ nói thẳng ra, chẳng có lý do gì nín nhịn khiến mình không vui”.
Anh ta trầm ngâm hồi lâu: “Tối nay Quân cô nương hình như có gì bất thường”.
Tôi nhìn bầu trời đen kịt phía xa, hỏi anh ta: “Tiểu Lam, huynh nói xem, ở đời cái gì là giả, cái gì là thật? Cảnh trong ảo mộng này xem ra vô cùng viên mãn, nhưng hiện thực lại hết sức thảm khốc. Tôi cảm thấy, tất cả chỉ là suy nghĩ trong lòng. Nếu không cho đó là ảo mộng, thì nó không phải là ảo mộng, trong thế giới ảo mộng tôi dệt cho họ, họ đều rất thật, khóc thật, tình thật, nghĩa thật, sự vô thường bất trắc cũng là thật, thay lòng đổi dạ cũng là thật. Hoa Tư mộng hiện thân của ước nguyện mặc dù hướng về cái tốt đẹp, nhưng bản thân con người lại vô tình, nếu không có một trái tim kiên cường, bất luận là hiện thực hay mộng ảo, đều không thể có niềm vui mãi mãi, nếu có trái tim kiên cường, hoàn toàn có thể sống tốt trong thế giới hiện thực, hà tất phải sống trong ảo mộng”.
Những lời đó xem ra rất có lý, rất logic, thực ra nói mãi, quay lại, tôi hoàn toàn không biết mình đang nói gì.
Tiểu Lam trầm ngâm hồi lâu, hỏi tôi: “Vậy điều cô muốn nói là…”.
Tôi nói: “Tôi không muốn làm vụ này nữa, Thẩm Ngạn và Tống Ngưng cuối cùng vẫn không thể sống bên nhau không phải là ý trời muốn vậy, nếu cô ấy muốn, cô ấy có thể đấu tranh giành hạnh phúc cho mình, chết trong ảo mộng như vậy thực không đáng, thực xót xa”.
Thâm tâm tôi cũng giằng co không ít, bởi vì đưa ra quyết định như vậy là giúp Tống Ngưng nhìn thấu ảo mộng, như thế chuyến đi này của chúng tôi coi như uổng công. Nhưng lại nghĩ, cảm thấy cuộc sống còn dài, có viên giao châu giúp, ít nhất tôi cũng sống được ba năm, ba năm, hơn một ngàn ngày, thời gian vẫn còn dài, biết đâu còn vụ khác hay hơn.
Tiểu Lam nhìn tôi hồi lâu không nói, lát sau hỏi, “Cô định thế nào?”.
Lòng đã quyết, tôi ngẩng đầu: “Tôi đang chờ đợi một trận đại chiến, một trận chiến đẫm máu, một trận chiến xương chất đầy đồng”.
Anh ta nhìn tôi vẻ suy tư, tôi thản nhiên nhìn lại, đột nhiên nghĩ ra một chuyện nên nói sớm với anh ta, “À phải rồi, ngày hôm nay cứ quên không nói, huynh xem, chiếc áo của tôi chỗ này hơi chật, huynh nhìn này, ở vai có một đoạn tuột chỉ, huynh vạn năng như vậy chắc cũng biết nữ công, huynh khâu giúp tôi được không?”.
Anh ta kéo áo tôi nhìn kỹ, ngẩng đầu thản nhiên nói: “Tôi rất vạn năng nhưng không biết nữ công, không thể khâu vá”.
“…”.
Tôi vừa nói với Tiểu Lam tôi đang chờ một cuộc đại chiến, điều này tôi không nói chơi, tôi đã nghĩ mình nên làm thế nào. Hoa Tư mộng là thế giới hư không, mỗi thanh âm của Hoa Tư điệu ứng với một thời điểm trong thế giới hư không. Chủ nhân của viên giao châu chỉ cần tấu lên Hoa Tư điệu là có thể đi đến một thời điểm bất kỳ trong Hoa Tư mộng, chỗ đi đến chính là chỗ ứng với thanh âm cuối cùng của khúc điệu đã tấu.
Khúc nhạc mãi mãi chỉ có thể tấu về quá khứ, nếu đi về tương lai, là không thể quay về quá khứ. Vì vậy tôi suy nghĩ rất lâu, tôi sẽ hoàn thành một việc cuối cùng để lương tâm khỏi áy náy, nhưng không biết rút cục tôi sẽ rơi vào thời điểm một năm trước hay ba năm trước. Tôi hỏi Tiểu Lam: “Theo kinh nghiệm của huynh, một đôi tình nhân yêu đương nồng nàn lưu luyến, có với nhau bao hồi ức đẹp, nhìn chung cần cho họ bao nhiêu thời gian?”.
Mưa đã tạnh, anh ta thu ô lại, thong thả nói: “Nửa năm”.
Ngày hôm sau, chúng tôi mượn một cây đàn ở hiệu bán đàn trong thị trấn, trong ánh sáng thời gian, ngón tay rơi xuống thanh âm cuối cùng, gió nhẹ dần, mây tan dần, cây khô héo đã đâm chồi nảy lộc, đám hoa lau bên sông nghiêng mình trong gió, đó là quãng thời gian hơn nửa năm sau, chính là lúc quân đội nước Khương chiến thắng đang chuẩn bị hồi triều. Là thời điểm bảy năm trước, lúc Thẩm Ngạn và Tống Ngưng thành thân được chín tháng, nước Hạ động binh chinh phạt nước Khương, Tống Ngưng đã tặng Thẩm Ngạn bộ giáp quý bằng thạch ngọc, trước khi chàng ta cầm quân ra trận.
Một mình tôi lọt vào bãi lau, lấy ra chiếc mặt nạ da người giấu trong ống tay áo, lột nửa mặt nạ trên mặt, ngồi bên bờ sông, soi xuống nước, cẩn thận dán mặt nạ lên mặt. Quân sư phụ là thợ làm mặt nạ giỏi nhất nước, cách dán mặt nạ sao cho tự nhiên nhất, trông như mặt thật, tôi đều học được từ sư phụ, hôm nay nhìn dung mạo Tống Ngưng chập chờn in bóng dưới nước, tôi đột nhiên có cảm giác, mình còn làm tốt hơn cả sư phụ…
Giọng Tiểu Lam vọng vào đám lau, “Quân cô nương, cô còn sống không?”.
Tôi vạch đám lau, giơ tay vẫy: “Tôi ở đây”.
Anh ta ngắm nghía tôi qua đầu ngọn lau, “Cô hóa trang thế này, định làm gì?”.
Tôi nói: “Đi tìm Thẩm Ngạn, có một việc tôi nhất thiết phải làm, huynh đợi ở đây, xong việc tôi sẽ quay lại”.
Anh ta nhìn tôi một hồi, nói: “Mọi việc đều phải hết sức thận trọng!”.
Ánh nắng thu rạng rỡ, mây bay, gió thoảng. Tôi dùng khăn bịt mặt, vì tuyệt đối không thể để ai phát hiện Tống Ngưng xuất hiện ở đây. Một người lính gác trước cổng quân doanh cầm thư của tôi đi tìm Thẩm Ngạn. Trong thư Tống Ngưng hẹn gặp Thẩm Ngạn ở gò đất cao mọc đầy hoa cúc quỳ trên bờ sông Xích Độ.
Chàng ta nhất định sẽ đến.
Trên gò đất cao nở đầy hoa cúc quỳ, dịu mềm viên mãn, gió thu nhẹ làm mặt sông dấy lên những gợn sóng đuổi nhau xa tít. Trước đó mặc dù chưa đến đây, nhưng tôi đã nghe nhiều truyền thuyết về gò đất này. Truyền thuyết kể rằng, gò đất này là nơi chôn cất rất nhiều nghĩa sĩ của triều đại trước, hoa cúc quỳ ở đây tươi tốt, lan tràn là bởi vì đã tắm máu bao nghĩa sĩ, nhổ một bông hoa có thể nghe thấy tiếng thở dài của tử sĩ. Tôi nghĩ, tôi đã tìm cho Thẩm Ngạn một chỗ rất tốt.
Có tiếng lá khô bị giẫm nát sau lưng, tiếng bước chân lại gần. Tôi quay người mỉm cười nhìn chàng ta, con người mà Tống Ngưng yêu đau đớn, yêu suốt cuộc đời, đến tận lúc chết. Đôi ủng đen lướt trên đám cúc quỳ dịu mềm, chàng ta ôm lấy tôi, ôm rất chặt, giọng nhỏ nhẹ, vang bên tai tôi như tiếng thở dài: “A Ngưng, ta nhớ nàng”. Trong gió có mùi máu, mùi máu mỗi lúc mỗi đậm, tôi rút con dao găm khỏi lưng chàng ta, khẽ nói vào tai chàng ta: “Em cũng nhớ chàng!”.
Mùa thu năm Lê Trang Công thứ mười tám, ngày mùng bốn tháng chín, nước Khương mặc dù thắng trận, binh soái đã hồi triều, nhưng kinh đô không thấy vang khúc khải hoàn, bởi vì chủ tướng bị hành thích, lương tướng qua đời, cả nước đau thương.
Phủ tướng quân vang lên tiếng khóc bi ai, tôi và Tiểu Lam đứng lẫn vào đám người đến viếng, nhìn thấy trong linh đường, trên hương án cao đặt bài vị của Thẩm Ngạn, trong bình thủy tinh bên cạnh cắm đầy hoa lạ.
Dưới ngọn nến trắng, chiếc quan tài bằng gỗ mun đổ bóng thê lương trên mặt đất, Tống Ngưng đứng cạnh quan tài, đôi mắt đen trống rỗng, kiên cường, nhìn chằm chằm người nằm trong đó. Thỉnh thoảng có khách viếng đến an ủi, cô không hề có phản ứng.
Tiểu Lam hỏi tôi: “Đây chính là giấc mộng đẹp cô dệt cho cô ta?”.
Tôi nói, “Huynh thấy đó là giấc mộng đẹp sao? Là ác mộng thì có!”.
Tôi phá giấc mộng đẹp để Tống Ngưng nhìn rõ hiện thực. Trên đời có một kiểu đẹp có thể lấy tính mạng con người, đại đa số người ta đều nghĩ ngay đến phụ nữ, nhưng phụ nữ sao phải làm khó chính mình, điều tôi nói không phải là phụ nữ, mà chính là Hoa Tư mộng.
Tôi vốn định giải thích với Tiểu Lam, nhưng anh ta nhanh chóng chuyển chủ đề, “Hôm đó cô giết nhầm Liễu Thê Thê, buồn phiền mãi, tôi thật không nghĩ cô có thể có gan tự tay giết một người”.
Tôi nói: “Bởi vì tôi đã khác rồi, huynh nên nhìn tôi bằng con mắt khác”.
Đêm buông xuống, khách viếng đã ra về, trên trời, một vầng trăng cô lẻ chơi vơi, thời khắc lựa chọn đã đến. Linh đường rộng lớn chỉ còn vợ chồng họ, một người sống, một người chết, âm dương cách biệt. Khuôn mặt tái nhợt của Tống Ngưng kề sát quan tài, giọng thầm thì tản trong gió đêm vang vọng trong linh đường, thấm vào ánh nến: “Cuối cùng chỉ còn hai ta”.
Ngón tay thon mảnh của cô vuốt ve mặt quan tài gỗ mun, giọng thầm thì như trong chốn khuê phòng: “Em vốn định đợi chàng khải hoàn trở về, sẽ đích thân báo với chàng tin đó, mọi người muốn viết thư, em đều ngăn lại, em chỉ muốn thấy chàng vui sướng thế nào. Chàng biết không, em chờ ngày này đã lâu, em muốn gặp chàng, em rất mong gặp chàng”.
Bên ngoài, một con chim trên cây đột nhiên kêu một tiếng, trong phòng ngọn nến chao đảo, cô dùng tay che mắt, giọng nghẹn ngào: “Thẩm Ngạn, chúng ta đã có con”. Nhưng cô không khóc, giọng dịu dàng, vô cùng dịu dàng, ngân nga trong linh đường, giống một lời thổ lộ êm ái. Cô nói với chàng, nhưng chàng đã không còn nghe được nữa.
Đúng lúc đó tôi bước vào linh đường, những lá phướn trắng bay bay trên cao, cô ngẩng phắt lên: “Thẩm Ngạn?”.
Tôi đi ra từ phía sau cờ phướn, bước ra chỗ ánh nến để cô nhìn rõ.
Đôi mắt như nước mùa thu của cô chiếu vào y phục màu đỏ của tôi, ánh sáng chợt lóe lên trong đó, rồi lập tức tắt lịm, nét mặt âm thầm, trống rỗng.
Gió trong phòng phất qua chân váy, tôi nhìn cô: “Tôi không phải là Thẩm Ngạn. Tống Ngưng, tôi đến để đưa cô ra khỏi ảo mộng”.
Mặt cô lộ vẻ hoang mang: “Ảo mộng?”. Nhưng chỉ một khắc lại tỉnh táo trở lại, “Tôi đã nhớ ra cô, trong núi tuyết bên cánh đồng hoang Thương Lộc tôi đã gặp cô, cô là…”.
Tôi bước đến gần cô hơn, cười nói: “Lần đầu tiên cô nhìn thấy tôi, không phải ở trên núi tuyết. Tống Ngưng, tất cả, tất cả chỉ là ảo mộng tôi dệt cho cô mà thôi”.
Tiểu Lam xuất hiện bên tôi không biết từ lúc nào, đang thong thả nhìn ngắm linh đường.
Tôi lại tiến đến gần cô hơn: “Trong ảo mộng phu quân của cô đã chết, tang lễ lớn như vậy nhưng trong thế giới hiện thực, chàng ta vẫn sống rất tốt, chàng ta đã phụ cô, thành thân với người đàn bà khác, đã sinh con. Cô đã dùng tính mệnh của mình trao đổi với tôi, để tôi giúp cô dệt giấc ảo mộng hai người yêu nhau đến bạc đầu. Cô xem, trong ảo mộng tôi dệt cho cô, quả nhiên chàng ta đã yêu cô. Nhưng tất cả chỉ là ước mơ của cô, thực ra đều là giả”.
Tôi nói ra những lời đó, nhìn thấy khuôn mặt trắng nhợt của cô xám dần, ánh mắt lộ vẻ sợ hãi, đây không phải là Tống Ngưng mà tôi quen bảy năm sau. Cô loạng choạng lùi mấy bước, làm đổ chiếc bình thủy tinh sau lưng, chiếc bình vỡ choang, người gục xuống, mảnh thủy tinh cứa vào những ngón tay xinh đẹp của cô.
Tôi hỏi: “Tống ngưng, cô không tin tôi sao?”.
Thời gian dừng lại, tôi đã nói trắng ra tất cả, cái chết của Thẩm Ngạn khiến Tống Ngưng đau lòng như vậy, cô sẽ không đồng ý ở lại trong ảo mộng vô vọng này. Không có gì đáng sợ hơn mất đi người yêu dấu, trải qua đau khổ như vậy, không có được tình yêu của Thẩm Ngạn trong hiện thực có là gì, bệnh của Tống Ngưng là tâm bệnh, chỉ cần cô nghĩ thoáng, rời khỏi giấc mộng này nhất định cô sẽ nhanh chóng bình phục.
Cô vội vàng nhặt những mảnh vỡ trên nền đất, tôi cúi xuống định nhặt giúp cô, bị Tiểu Lam ngăn lại, cô âm thầm nhặt những bông hoa rơi trên đất, cầm lên ngắm nhìn những bông hoa mùa thu bạc màu: “Cô có biết, bấy lâu nay tôi vẫn mơ một giấc mơ, một giấc mơ đáng sợ, mỗi lần tỉnh lại, tôi đều sợ run người, thì ra chính là giấc mơ đó, tất cả những cảnh đó”. Cô từ từ, rất từ từ ngẩng đầu, “Tất cả những cảnh đó đều là thật”.
Hai giọt nước mắt lăn ra từ khóe mắt, cô hỏi tôi: “Hiện thực mà cô không nói ra, có phải là còn có… con trai tôi. Tôi có một đứa con, tên là Thẩm Lạc, nó đã chết trong một trận cảm thương hàn?”.
Tôi không trả lời, cô đăm đăm nhìn tôi, trong đôi mắt ướt hiện ra nụ cười, cô nói: “Tôi muốn ở lại đây”. Trong đầu tôi “ù” một tiếng.
Cô cúi đầu nhìn ngón tay mình, nước mắt chảy xuống bàn tay, rất lâu sau lại quay đầu ngước nhìn linh vị Thẩm Ngạn: “Cô nói đây là ảo mộng cô dệt cho tôi, không phải sự thật, những gì tôi nhìn thấy trong mơ mới là thật, nhưng sự thực đó e là quá đau lòng. Hiện thực mà cô nói và ảo mộng tôi đang ở, rút cục chỗ nào đau khổ hơn? Hiện thực đó, tôi chỉ thấy trong mơ cũng đã run lên, không thể chịu nổi, càng khỏi nói đích thân trải qua, nếu đúng như cô nói, thật sự có bảy năm đó tôi làm sao chịu nổi? Nghĩ đến điều đó, tôi cảm thấy trong ảo mộng, Thẩm Ngạn dù đã ra đi, tôi cũng không khó chịu đựng như vậy, chúng tôi ít nhất cũng có hồi ức đẹp, tôi sẽ sinh con cho chàng, tôi nghĩ tôi còn có thể sống tiếp, phải rồi, tôi còn có thể sống tiếp, chàng cũng muốn tôi sống tiếp. Nhưng cô để tôi cùng cô quay về cái gọi là hiện thực, một hiện thực bi đát như vậy, Thẩm Ngạn trong thế giới đó không hề yêu tôi, chàng không muốn tôi sống, vậy tôi còn sống làm gì?”.
Những lời đó của Tống Ngưng tôi không biết đối lại thế nào. Chỉ thấy gió ngoài linh đường thổi càng mạnh, lá cây bay rào rào.
Tôi muốn cứu cô, nhưng không cứu nổi.
Cô bíu vào quan tài đứng lên, đem chỗ hoa trong tay cắm ngay ngắn vào một bình hoa khác, quay lưng lại phía tôi, nên tôi không nhìn thấy sắc mặt cô lúc đó, chỉ nghe thấy tiếng nói hững hờ: “Nghe cô nương nói, tôi dùng tính mạng đổi lấy ảo mộng này, trong thế giới hiện thực đó có phải tôi đã chết? Nếu như vậy, phiền cô hãy hỏa thiêu xác tôi, sau đó mang tro của tôi… mang tro của tôi về nước Lê, trao cho đại huynh tôi”.
Tôi há miệng, hồi lâu sau mới phát ra một tiếng: “Được”.
Năm ngày sau tôi và Tiểu Lam rời khỏi Hoa Tư mộng của Tống Ngưng, trong thời gian đó chúng tôi lại qua núi tuyết cạnh cánh đồng hoang Thương Lộc một lần nữa, chỉ do thời gian quá gấp, Tiểu Lam vẫn còn hai nơi chưa thăm dò hết, vô tình được biết Liễu Thê Thê quả nhiên chưa chết, nghe nói bị ngã xuống vực, mắc vào một cây tùng bên vách núi, được một người đi săn cứu sống, để trả ơn cứu mạng, Liễu Thê Thê hứa lấy anh ta, cuối cùng hai người thành thân.
Ngay Liễu Thê Thê cũng có một mái ấm rất yên ổn.
Tôi nói với Tiểu Lam: “Thực ra không nên giết Thẩm Ngạn, chỉ không ngờ mặc dù như vậy, Tống Ngưng cũng không muốn thoát khỏi ảo mộng. Tôi muốn cứu cô ấy nên mới giết Thẩm Ngạn, nhưng lại thành ra hại cô ấy”.
Tiểu Lam nhìn tôi hồi lâu, trầm ngâm, “Đó mới là giấc mộng đẹp thật sự, Thẩm phu nhân khao khát một người yêu mình suốt đời, Thẩm tướng quân chết đi trong lúc yêu cô ấy nhất, cô ấy muốn sống tiếp với tình yêu chung thủy của anh ta, chỉ cần vượt qua những ngày đau buồn đó chính là sự yên lành vô lo mà cô ấy mưu cầu suốt đời. Nếu không giết Thẩm Ngạn tướng quân, hậu họa sẽ khôn lường, cô sao có thể đảm bảo, trong ảo mộng này, anh ta có thể suốt đời chung thủy với Tống Ngưng?”.
Tôi tỏ vẻ kinh ngạc: “Huynh lại nói với tôi một đạo lý lớn như vậy, đàn ông các người chẳng phải không thích nói những chuyện tình ái tầm thường hay sao?”.
Anh ta nhìn tôi, “Có chuyện đó ư? Nếu đúng là vậy, thanh lâu trên đất nước này đã phải đóng cửa từ lâu”.
Tôi nghĩ, câu trả lời đó thật quá thẳng thắn.
Tôi nắm tay Tiểu Lam rời khỏi ảo mộng, anh ta lại nắm tay tôi, thản nhiên nói: “Ảo mộng là ảo mộng, cô đừng so sánh ảo mộng với hiện thực”.
Khi anh ta nói câu đó, có một đôi vân nhạn bay ngang trời.
Thời gian nửa năm trong Hoa Tư mộng chỉ ứng với một ngày ngắn ngủi trên trần thế.
Thoát khỏi mộng cảnh, một dòng nhiệt lưu đi thẳng vào ngực chỗ có viên giao châu, huyết dịch toàn thân tôi vụt nóng bừng. Đó là do giao châu đã hút tính mệnh của Tống Ngưng. Tống Ngưng đã chết, trong một chiều hoàng hôn đượm buồn, nhưng trong thế giới hiện thực không ai biết.
Gia nhân trong biệt viện vẫn ngay ngắn đứng hầu bên ngôi thủy đình, Quân Vỹ và Tiểu Hoàng ngủ gật cạnh cây đàn, ánh mặt trời nhàn nhạt tỏa xuống, tất cả vẫn bình yên tĩnh mịch, như không có chuyện gì xảy ra. Chấp Túc nhìn thấy Tiểu Lam, sung sướng reo lên: “Công tử!” khiến Tiểu Hoàng và Quân Vỹ giật mình tỉnh dậy, một người, một hổ vội chạy ra đón tôi. Chính trong lúc đó, từ ngôi thủy đình phía xa một ngọn lửa bùng lên, chớp mắt đã bốc cao cả trượng.
Quân Vỹ sững người: “Tống Ngưng vẫn còn trong đó?” rồi lập tức lao đi cứu, bị tôi ngăn lại.
Tiểu Lam nói nhỏ: “Hình như Thẩm phu nhân đã tiên liệu kết cục cuối cùng”.
Tôi nói với Quân Vỹ đầu đuôi sự việc, nhìn những bức rèm xung quanh ngôi thủy đình lộ ra hình thù kỳ dị trong ngọn lửa, sực nhớ tới lời Tống Ngưng trong mộng, nhờ tôi thiêu xác cô.
Tống Ngưng đến chết vẫn là người chu đáo, không phiền tôi động tay, trước khi vào ảo mộng, cô đã thu xếp hậu sự đâu vào đấy. Cách nửa hồ sen, mấy nô bộc trung thành kinh sợ gào khóc, trùm những tấm chăn dày nhúng nước xông vào thủy đình, đều bị ngọn lửa rừng rực ngăn lại. Tống Ngưng quả nhiên đã thu xếp chu toàn, mỗi phân đất trong thủy đình đều bị lưỡi lửa liếm sạch, cô muốn thân xác mình thiêu thành tro, đựng trong một bình gốm đẹp, trở về cố quốc sau bảy năm xa cách.
Lửa được gió càng cháy mạnh, bốc cao, chiếu rực nửa bầu trời, chiếc xà ngang từ trên cao rơi xuống hồ sen bốc khói ngùn ngụt, bốn chiếc cột lớn ở bốn góc thủy đình từ từ sụp đổ, có thể nhìn thấy chiếc giường mây bị cháy, trong đó Tống Ngưng đã yên nghỉ, đang chìm trong ánh lửa mênh mông.
Trong truyền thuyết dân gian, một câu chuyện như vậy trong giờ phút đó luôn có một trận mưa lớn trút xuống đúng lúc, nhưng ngôi thủy đình cháy trụi đến khi không còn gì để cháy, ông trời cũng không đổ một giọt mưa, gió muộn đã mang hơi lạnh, ánh mặt trời tàn đỏ như máu. Ánh mặt trời tàn đỏ như máu phủ lên đống hoang phế trên hồ sen, phía trước đống hoang phế đó, một đám gia nhân vẫn quỳ sụp, không ai dám vào chuyển di cốt của Tống Ngưng.
Tôi nói với Tiểu Lam: “Đi thôi, chúng ta lượm xác cô ấy”.
Anh ta nhìn về phía sau lưng tôi, thong thả nói: “Không cần chúng ta, người lượm cô ấy đã đến”.
Tôi hiếu kỳ ngoái đầu, nhìn thấy dưới bóng cây liễu già bên con đường lát sỏi, người đến lượm di thể Tống Ngưng mà Tiểu Lam nói, người đã dồn Tống Ngưng vào chỗ chết.
Thẩm Ngạn, phu quân của Tống Ngưng.
Chàng ta vận áo chùng gấm trắng toát, vạt áo và cổ tay điểm những hoa văn chìm màu tối, trông như một chiếc áo tang sang trọng, bộ xiêm y thực là hợp cảnh. Chàng ta đi thẳng đến trước mặt chúng tôi, chiếc áo chùng gấm làm nổi bật gương mặt trắng bệch của chàng ta, nét mặt vẫn vẻ lạnh lùng đã thấy, giọng nói lại run run: “Cô ấy đâu, cô ấy ở đâu?”.
Tôi chỉ đống hoang phế trên hồ sen: “Ngài nghe tin, đến để lượm xác cô ấy phải không? Tống Ngưng nói với tôi, cô ấy chỉ cần một bình đựng tro, một chiếc bình gốm màu xanh đế trắng, ngài có mang đến không?”.
Chàng ta há mồm không nói, quay người bước vội đến chỗ tôi vừa chỉ, người loạng choạng chực ngã. Đám gia nhân quỳ trước thủy đình vội nhường đường. Tôi ôm cây đàn đuổi theo, nhìn thấy người chàng ta lảo đảo, sụp xuống bên đống hoang tàn, ánh mặt trời phía sau kéo bóng chàng ta đổ dài trên đó.
Qua vai chàng ta có thể nhìn thấy di hài Tống Ngưng, sáng nay khi gặp tôi, cô còn vấn tóc cao, trên má thoa phấn hồng, xinh đẹp rạng rỡ.
Sáng còn là hồng nhan, chiều đã là nắm xương tàn.
Ánh sáng và thời gian ngừng lại, tôi nhìn thấy Thẩm Ngạn lặng lẽ quỳ trong vầng sáng im lìm đó.
Một khúc gỗ đang cháy nổ bốp một tiếng, như đột nhiên sực tỉnh, chàng ta ôm chầm di hài cô, động tác mạnh đến nỗi đầu ngón tay trắng nhợt, giọng nói lại hết sức nhẹ nhàng: “Chẳng phải em đã nói, dù chết em cũng phải nhìn thấy ta tắt thở trước mặt em sao? Chẳng phải em nói, ta có lỗi với em, em phải nhìn thấy ông trời trừng phạt ta thế nào sao? Em hận ta như thế, ta còn chưa chết, sao em lại chết trước ta?”. Không có ai trả lời chàng ta.
Chàng ta ôm chặt cô, thận trọng như ôm báu vật, khuôn mặt trắng bệch dán vào mái đầu xưa là mái tóc dài óng ả, giờ đã cháy đen của cô, như thầm thì với người yêu: “A Ngưng, em nói đi”.
Đống hoang phế đỏ rực trong ánh hoàng hôn, mịt mờ một bầu không khí ma quái, mặt đất cũng bị đốt nóng ran.
Tôi đứng nhìn tất cả cảnh tượng đó, đột nhiên cảm thấy sự mong manh của sinh mạng, mệt mỏi hỏi chàng ta: “Ngài muốn cô ấy nói gì? Bây giờ cô ấy không nói gì được nữa, cho dù ngài muốn nghe, cô ấy cũng không thể nói được nữa. Cô ấy đã bảo tôi đêm tân hôn cô ấy muốn nói những lời ngọt ngào với ngài. Cô ấy vừa được gả đến nước Khương, lạ cảnh lạ nhà, cô ấy thực lòng muốn thổ lộ với ngài, “Phu quân, em đã trao Tống Ngưng cho chàng, trao hết cho chàng, chàng nhất định phải trân trọng”, nhưng đáng tiếc ngài không cho cô ấy nói”.
Chàng ta ngẩng phắt đầu lên.
Tôi ngồi xuống nhìn vào mắt chàng ta, “Ngài nói Tống Ngưng hận ngài, thực ra chưa bao giờ cô ấy hận ngài, trên đời này chưa một cô gái nào yêu ngài như cô ấy”.
Chàng ta nhìn tôi đăm đăm, như bị vật gì đánh trúng, khuôn mặt trắng bệch không còn sắc máu, rất lâu sau lại phát ra tiếng cười nhỏ khô khan, nói dằn từng chữ từng chữ: “Cô ấy yêu tôi? Sao cô dám nói thế. Cô ấy không hề yêu tôi. Cô ấy còn hận sao tôi không chết ở chiến trường”.
Tôi tìm một chỗ ngồi xuống, để cây đàn lên đầu gối: “Cô ấy nói trái lòng mình”.
Tôi ngẩng đầu nhìn chàng ta: “Thẩm tướng quân, nghe nói suốt hai năm qua ngài không hề gặp Tống Ngưng một lần nào, ngài còn nhớ hình bóng cô ấy không? Tôi cho ngài nhìn thấy hình bóng Tống Ngưng năm xưa, được chứ?”.
Không đợi chàng ta trả lời, tôi đã đánh thanh âm cuối cùng trên phím đàn. Đánh ngược Hoa Tư điệu để cho ảo mộng đã dệt cho Tống Ngưng có thể hiển hiện trên thế giới hiện thực. Tôi không đợi chàng ta trả lời, bất luận chàng ta có muốn hay không, có một số điều tôi cần cho chàng ta biết.
Trong cảnh hoàng hôn thê lương, trên đống hoang phế mịt mờ khói trắng, từng cảnh của quá khứ lướt trên không trung, in hình xuống mặt nước hồ sen.
Trên sa mạc hoang vắng, bao la tuyết, Tống Ngưng rạp mình trên lưng ngựa, vượt qua sa mạc lổn nhổn đá, gió mang theo cát và đá vụn táp vào mặt, vào cánh tay để lại những vết sây sát loang lổ, cô ôm cổ ngựa thúc giục con ngựa chiến đã gần kiệt sức: “Chạy nhanh hơn nữa đi, xin mày đấy chạy nhanh lên, Thẩm Ngạn không đợi được nữa rồi”.
Trên địa ngục cánh đồng hoang Thương Lộc, cô xuống ngựa, loạng choạng lao vào chiến trận đầy xác chết, cánh tay và mặt bị gió táp thâm tím vết thương, y phục dính đầy máu, môi mím chặt, người cứng đờ đi lật từng xác chết, từ lúc bình minh đến đêm khuya, cuối cùng tìm được người cần tìm. Cô dùng tay áo lau máu trên mặt người đó, ôm chặt chàng: “Thẩm Ngạn, em biết mà, em cần đến đây”. Nói xong ôm mặt, lệ tuôn như mưa.
Trong hang núi tuyết gần chiến trường, chàng nằm bất động, trên người đắp tấm nhung bào, cô ngậm từng ngụm nước mớm cho chàng, kiên trì ép chàng uống từng ngụm. Bên ngoài, trên trời sao còn chưa mọc, gió lạnh buốt rít ù ù, cô co người run rẩy phục trên ngực chàng: “Bao giờ chàng tỉnh lại, có phải chàng không bao giờ tỉnh lại không? Thẩm Ngạn, em sợ lắm”.
Cô ép sát vào người chàng, ôm thật chặt. Suốt ba ngày cô cõng chàng, mấy lần ngã lăn trên dốc núi, cô đứng không vững nhưng vẫn cố gượng dậy, hôn mắt chàng, ôm mặt chàng: “Em sẽ cứu chàng, cho dù phải chết, em cũng cứu chàng”.
Hoa Tư điệu đột ngột dừng lại, tôi hỏi chàng ta: “Ngài đã từng nhìn thấy một Tống Ngưng như vậy chưa?”.
Lời chưa dứt, chàng ta đã cắt ngang: “Không phải, tôi không tin”. Thẩm Ngạn một tay ôm ngực, trán toát mồ hôi, người run lẩy bẩy, nhưng lại nhìn tôi nói ra những lời tàn nhẫn, “Những cái đó không đúng, tôi không tin!”.
Tôi cảm thấy buồn cười, bật cười thành tiếng: “Thẩm tướng quân, rút cục là giả hay thật, trong lòng ngài rõ nhất. Tống Ngưng luôn muốn nói với ngài tất cả câu chuyện đó, nhưng ngài chưa bao giờ cho cô ấy cơ hội”.
Tôi nói: “Thẩm tướng quân, ngài có biết Tống Ngưng chết thế nào không? Chết trong ảo mộng. Cô ấy chìm đắm trong ảo mộng, từ bỏ tính mạng của mình. Bởi vì trong ảo mộng đó, cuối cùng ngài đã yêu cô ấy, hai người thề sống bên nhau trọn đời. Tống Ngưng chìm đắm trong ảo mộng hư không đó. Nhưng về sau ngài chết ngoài chiến trường, mặc dù ngài đã chết, cô ấy cũng không muốn ra khỏi ảo mộng đó. Cô ấy nghĩ đến nỗi đau ngài đã gây ra cho cô ấy trong cuộc sống hiện thực, còn đau đớn gấp vạn lần nỗi đau vĩnh viễn mất ngài trong ảo mộng. Tống Ngưng đã lệnh cho gia nhân thiêu di hài cô ấy, không muốn lưu lại cho ngài bất cứ thứ gì. Thẩm tướng quân, ngài không hề biết, cô ấy đã yêu ngài, luôn yêu ngài suốt bảy năm qua”.
Tôi nói xong những lời đó, nhìn thấy ngón tay run run của chàng ta vuốt ve chiếc vòng ngọc ở chỗ xương cổ tay cô, rồi nắm chặt lấy, các khớp ngón tay trắng bệch, toàn thân đột nhiên đổ về phía trước, thổ ra máu, máu tươi vẩy trên di hài Tống Ngưng, trong ánh hoàng hôn ánh lên một màu yêu ma quái dị. Chàng ta thét gọi một cái tên, như đau đớn không sao chịu nổi, miệng há ra mấy lần, vẫn không thốt lên lời: “A Ngưng”. Nhưng cô đã không thể trả lời.
Tôi ôm đàn đứng dậy: “Tống Ngưng bảo tôi đem tro của cô ấy mang về Lê quốc, từ nay về sau hai người không còn bất cứ quan hệ gì nữa, Thẩm tướng quân, sau ba ngày nữa tôi đến lấy tro của Tống Ngưng”.
Chàng ta không để ý lời tôi, ôm di thể Tống Ngưng, từng bước ra khỏi thủy đình, bước chân xiêu vẹo.
Gia nhân phục trên đất khóc thảm thiết.
Tôi ngây người, nói: “Vậy cũng được, phiền Thẩm tướng quân hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của cô ấy, để cô ấy vào một bình gốm xanh đế trắng đưa đến nước Lê trao tận tay đại huynh cô ấy”.
Lặng lẽ, lạnh như một thanh kiếm sắc, giọng chàng ta thảng thốt vọng lên từ trong tiếng khóc than của đám gia nhân, “Trước khi chết cô ấy có gì muốn nói với tôi không?”.
Tôi nhìn theo bóng chàng ta: “Không, không một lời nào hết, cô ấy đã không còn mong muốn điều gì ở ngài nữa”.
Không lâu sau khi câu chuyện này trôi qua, nghe nói hai nước Khương, Lê lại xảy ra chiến tranh, quân đội nước Lê do đại tướng quân Tống Diễn chỉ huy, quân đội nước Khương do tướng quân trấn ải Thẩm Ngạn thống lĩnh. Lúc này, chúng tôi đang du sơn ngoạn thủy ở biên giới hai nước.
Trong mưa đêm ngày mùng bảy tháng năm, Tiểu Lam mang đến một tin, Thẩm Ngạn đã chết trên chiến trường Thương Lộc, trận này vốn dĩ chàng ta chiếm ưu thế, lẽ ra có thể toàn thắng, nhưng không hiểu sao lại bại trận thân vong. Nghe nói trước khi chết chàng ta dặn thuộc hạ chôn chàng ta ở cánh đồng hoang Thương Lộc, lúc hạ táng, họ phát hiện bên người chàng ta có một bình gốm xanh đế trắng, bên trong bình đựng đầy tro xương của ai đó.
Thê thất của chàng ta ở phủ nghe tin chàng ta tử trận, tối đó tất cả thắt cổ tự vẫn trong hoa đình.
Tiểu Lam hỏi tôi nghĩ gì, tôi cười nói với anh ta: “Nếu Kính Võ công chúa Tống Ngưng còn sống trên đời, có lẽ Thẩm Ngạn sẽ không chết, trên đời chỉ có một người không tiếc tính mạng yêu chàng ta, cứu chàng ta, đáng tiếc người đó đã chết quá sớm”.
Tiểu Lam trầm ngâm hồi lâu, nói: “Có phải bởi Tống Ngưng đã chết, nên chàng ta không muốn sống?”.
Tôi nói: “Thế ư?”.
Anh ta không nói gì.
Tôi nhìn màn mưa rả rích bên ngoài, lơ đãng nói: “Tôi không tin”. Cúi đầu hỏi Tiểu Hoàng: “Mày có tin không?”. Tiểu Hoàng đang lẳng lặng gặm nửa con gà nướng, nghe tôi gọi liền ngẩng đầu băn khoăn nhìn tôi một lát rồi lại cúi đầu gặm tiếp.
Hai chúng tôi ngồi đối diện, yên lặng rất lâu, tôi hỏi Tiểu Lam: “Sao dạo này không thấy huynh mặc màu lam?”.
Anh ta cười: “Tại sao tôi nhất định phải mặc màu lam?”.
Tôi đáp: “Bởi vì tôi gọi huynh là Tiểu Lam”.
Anh ta nhướn cặp lông mày đẹp như nét vẽ: “Tôi cũng thấy lạ, tại sao chưa bao giờ cô hỏi tên tôi, Tiểu Lam chẳng phải là…”.
Anh ta làm ra vẻ suy nghĩ, giống như đang tìm một từ phù hợp, hoa đèn bất chợt nổ “bép” một tiếng, Tiểu Lam nhìn tôi, nét mặt êm đềm như mặt nước thu, “ … chẳng phải là tên thân mật cô đặt cho tôi sao?”.
Tôi nghĩ lại toàn bộ câu chuyện, nhận ra quả nhiên như vậy, vội cầm ấm trà rót thêm vào cốc: “À, huynh vốn cũng có một cái tên nào đó, chẳng qua tôi thấy tên cũng chỉ là một ký hiệu, gọi Tiểu Lam quen rồi, thành ra lại quên hỏi tên huynh, vậy huynh tên gì?”.
Anh ta nhẹ giọng: “Mộ Ngôn, Mộ trong nhớ nhung ngưỡng mộ, Ngôn trong không còn lời nào để nói, đó là tên tôi”.
Nhìn bóng cô khuất dần dưới ánh trăng, chàng muốn gọi tên cô, Oanh Ca, cái tên đó đã vang lên trong lòng cả trăm lần, chỉ là chưa bao giờ chàng thốt ra với cô, “Oanh Ca”, chàng thì thầm. Nhưng cô đã đi xa.
Hôm đó trời nắng đẹp, chúng tôi rời nước Khương, vượt qua dãy núi Thương Lan vào biên giới nước Trịnh.
Mộ Ngôn định hôm sau sẽ đi, chàng nói nhà có việc gấp gọi về, ân tình nợ tôi ngày sau chàng sẽ trả.
Thực ra, Mộ Ngôn không nợ nần gì tôi, nếu còn nhớ, chàng sẽ hiểu ra món nợ giữa chúng tôi là như thế này: Tôi nợ chàng trước, nợ hai tính mạng, vừa rồi cứu mạng chàng một lần, coi như đã đền được một tính mạng, vẫn còn nợ chàng một mạng nữa, là tôi phải trả chàng, chứ không phải chàng phải trả tôi, nhưng rõ ràng chàng không nhớ. Thực ra điều đó cũng chẳng có gì, nữ nhi mười tám biến, tôi hôm nay khác hẳn ba năm trước, lại luôn đeo mặt nạ, chàng không nhận ra cũng là chuyện thường.
Tôi nghĩ, tôi yêu chàng ba năm, không ngờ đời này lại được gặp chàng lần nữa, ông trời đã cho chúng tôi cơ hội trùng phùng, nhưng lại ở hai đầu sinh tử, thật quá đau lòng. Nhưng như thế cũng tốt, đối với chàng coi như không có chuyện gì xảy ra, cũng không có gì kết thúc, đối với tôi, tất cả đã xảy ra, tất cả đã kết thúc. Chút tình giữ trong lòng hôm nay chẳng qua là hoài niệm của vong hồn, không phải là thứ hiện hữu trên đời, lưu luyến mấy cũng chẳng ý nghĩa gì.
Chỉ có điều vẫn không thể nào quên, vừa nhắm mắt lại hiện ra trong đầu, chỉ toàn hình ảnh chàng cúi đầu ôm cây đàn trong hang núi Nhạn Hồi, mặt nạ màu bạc, áo dài đen, tay bấm dây tơ, tiếng đàn tuôn chảy dưới ánh trăng, nhặt khoan như tiếng suối lúc êm đềm lặng trôi, lúc ào ạt trút đổ.
Tôi nghĩ, tôi phải để chàng lưu lại gì đó cho tôi, gì cũng được, coi như là kỷ niệm.
Mùa hè ngày dài, mãi mới vào đêm. Tôi cầm một bình rượu, bồi hồi đi tìm chàng giả bộ chẳng có gì suy nghĩ vẩn vơ, đi tìm chàng là do muốn uống rượu ngắm trăng, còn chàng được lựa chọn, thuần túy là vì có lẽ đêm nay chúng tôi tương đối có duyên.
Chàng ngồi hóng mát trong sân quán trọ, trên ghế đá có bình rượu, tự rót uống một mình. Tôi đi đến, để bình rượu trong tay sang một bên, nhìn chàng: “Uống một mình thật vô vị”.
Chàng ngẩng đầu: “Cô muốn uống cùng tôi?”.
Tôi nhìn chung rượu bằng gốm trắng trong tay chàng: “Mộ Ngôn, trước khi chia tay, huynh gảy một khúc đàn cho tôi nghe đi”.
Chàng ngạc nhiên nhìn tôi, không nói gì, để chung rượu xuống hỏi: “Muốn nghe khúc gì?”.
Tôi nghĩ một lát: “Cũng không có khúc nào đặc biệt muốn nghe”.
Chàng giơ tay vẫy Chấp Túc đứng phía xa, ngoái đầu nói với tôi: “Vậy thì…”.
Chấp Túc nhanh chóng mang đàn đến, để trong đình hóng mát.
Xung quanh đình, bà chủ quán trọ trồng đầy hoa thiên ngưu, từng đám lớn tắm ánh trăng, từ màu trắng chuyển sang hồng, lan tràn như mây trắng nhuốm ánh hồng. Tôi cúi nhìn Mộ Ngôn, chàng ngồi giữa áng mây hồng đó, khuôn mặt không đeo mặt nạ đẹp như thiên thần, ngón tay dài mảnh, nhàn tản đặt trên dây đàn, đầu hơi ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười: “Nếu chơi hết các khúc tôi biết, e là đêm nay cô không ngủ được”.
Tôi không nói gì, lòng thầm nghĩ, em có thể suốt đời ngồi nghe chàng đàn.
Tiếng đàn vang lên, là một khúc tôi chưa từng nghe, tôi gục đầu trên chiếc bàn tròn ba chân bên cạnh, tay chống cằm hỏi: “Mộ Ngôn, huynh chưa lập gia thất chứ?”.
Tôi nói: “Huynh có muốn lấy một người đã chết làm vợ không?”.
Chàng dừng tay đàn, ánh trăng mờ tỏ chiếu lên khuôn mặt thiên thần, đẹp đến sững sờ.
Tôi lấy hết can đảm nói với chàng: “Cô gái đó cũng khá đẹp, tính tình cũng được, các vị trưởng bối đều thích cô ấy, cưới về nhà tuyệt đối không có chuyện bất hòa mẹ chồng nàng dâu, hơn nữa, cầm kỳ thi họa cũng biết ít nhiều, tuyệt đối không để huynh mất thể diện trước thiên hạ. Ngoài ra, nấu ăn tuy không giỏi lắm nhưng cũng biết làm vài món, chỉ có điều… chỉ có điều… đã chết…”.
Tôi tự khoe mình một hồi, thầm nghĩ sao mình có thể mặt dày như vậy, càng tự khen càng thấy không ổn, chàng chống cằm nhẫn nại ngồi nghe, một hồi lâu sau, dở khóc dở cười hỏi: “Cô định nói tới âm hôn(*) sao?”.
Tôi không biết, giả sử tôi và chàng thành hôn liệu có gọi là âm hôn, nhưng cũng không có định nghĩa nào chính xác hơn, đành ậm ừ gật đầu.
Chàng nhẫn nại nhìn tôi một lát, giơ tay đàn tiếp, lắc đầu nói: “Không hiểu cô nghĩ gì, không phải cô định mai mối tôi cho một cô gái đã chết nào đó chứ?”.
Tôi sáng mắt nói: “Chính là thế!”.
Dây tơ đàn phát ra thanh âm run run, chàng cười: “Đúng là giống chuyện cô thường làm, nhưng Mộ gia chúng tôi không thể tuyệt hậu, cảm ơn thịnh tình của cô”.
Tôi lại gục trên bàn, nhắm mắt lại, gió đêm ấm áp là vậy, lại cảm thấy toàn thân lạnh toát. Mặc dù rất hiểu sinh tử khác nhau, âm dương cách biệt, hôn nhân là không thể, nhưng bất chợt có lúc không tránh khỏi hy vọng mong manh vào may mắn ngẫu nhiên nào đó, muốn thử một lần, biết đâu sẽ khác, nhưng cuối cùng chỉ khiến mình càng thêm thất vọng.
Tôi rất muốn nói với chàng, cô gái đeo mặt nạ chàng đi theo để trả ơn chính là cô bé suýt bị rắn độc cắn chết ở núi Nhạn Hồi năm xưa, bây giờ đã lớn thế này, luôn ước ao muốn lấy chàng, trên trời dưới đất tìm chàng, tìm suốt ba năm. Nhưng sao có thể nói ra, cô gái đeo mặt nạ này quả thực là đã chết.
Đêm đó tôi gục trên chiếc bàn ba chân, ngủ thiếp từ lúc nào trong tiếng đàn của Mộ Ngôn. Nghe Quân Vỹ nói, lúc canh tư, Mộ Ngôn bế tôi vào phòng. Nhưng khi tôi tỉnh dậy, chàng đã rời đi. Giống như cái đêm ở núi Nhạn Hồi ba năm trước, chúng tôi luôn chia tay trong lặng lẽ, bất ngờ. Nhưng cũng không có tình cảm đặc biệt gì, chỉ có nơi đặt viên giao châu dường như trở nên trống rỗng.
Nơi tôi định đến là thành Tứ Phương, quốc đô nước Trịnh.
Thoạt nghe tên đó, cứ nghĩ thành này có lẽ được xây dựng theo nguyên lý hình học không gian tinh thâm. Thực ra không phải tên thành là Tứ Phương, chỉ là do dân chúng trong thành đa phần rất thích chơi mạt chược. Bầu đoàn ba thành viên, tôi, Quân Vỹ và Tiểu Hoàng hân hoan nhằm thành Tứ Phương thẳng tiến, bởi vì Quân sư phụ cho chim đưa thư báo, đã tìm được một vụ làm ăn cho tôi ở trong thành, khách lần này nhân thân tương đối đặc biệt, là một quý phụ sống trong vương cung Trịnh quốc.
Nội địa Trịnh quốc nhiều sông nhiều núi, có nghĩa phần lớn hành trình chúng tôi đều đi bằng thuyền, nhưng sự có mặt của Tiểu Hoàng khiến chúng tôi gặp rất nhiều rắc rối, ngày càng ít chủ đò đồng ý chở chúng tôi, họa hoằn mới tìm được một chủ đò hám tiền, nhưng thường đòi tiền công rất cao mới được bước lên con thuyền rách của họ. Nghĩ đến chuyện không thể làm thịt Tiểu Hoàng nướng ăn như đối với con ngựa, đành nghiến răng không còn cách nào khác.
Nhưng tiền mang theo mỗi ngày cạn một nhanh, như thế này khó lòng đến được thành Tứ Phương theo dự kiến. Vạn bất đắc dĩ, tôi và Quân Vỹ đành phải ép chủ đò: “Tiền không có, nhưng mạng thì có, nếu ông không chở, chúng tôi sẽ thả con hổ, nó sẽ cắn ông chết tươi”.
Không ngờ biện pháp đó lại rất hiệu quả. Chúng tôi đi hoàn toàn thuận lợi, chỉ có điều, lúc gần đến thành có người báo quan, bị quan phủ địa phương phạt món tiền lớn, đó lại là khoản tiền lộ phí cuối cùng của chúng tôi.
Lúc này còn cách thành Tứ Phương năm mươi dặm, nhanh nhất cũng phải ba ngày mới tới, nhưng trong người chúng tôi đã không còn một cắc bạc. Quân Vỹ nói trên đường đi vừa rồi anh ta đã sáng tác xong một cuốn tiểu thuyết mới, nói về sự bạc tình đang rất ăn khách, có lẽ sẽ bán chạy, có thể thử bán cuốn tiểu thuyết này lấy ít tiền lộ phí. Tôi và Tiểu Hoàng đều rất vui, cảm thấy hết mưa là nắng, phấn khởi bày sách bên đường rao bán, lòng đầy hy vọng.
Kết quả không bán được.
Về sau phân tích mới thấy, nguyên nhân chính là trong sách không có những chỗ mô tả chuyện gối chăn. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa nhận ra điều ấy, chỉ thấy rất bế tắc. Suy nghĩ rất lung, cảm thấy biện pháp duy nhất… chỉ có để Tiểu Hoàng biểu diễn tài ăn cỏ, trái với bản tính của loài hổ.
Chính trong quá trình ép Tiểu Hoàng biểu diễn tài ăn cỏ, chúng tôi gặp được Bách Lý Tấn lên núi hái thuốc trở về, đây là nhân vật vô cùng quan trọng, mà lúc đó và rất lâu về sau, chúng tôi đều không biết anh ta thực ra xuất thân từ một gia tộc thánh dược, là cháu ngoại duy nhất của thánh dược Bách Lý Việt. Đương nhiên cũng có nguyên do, bởi vì anh ta xuất hiện với bộ dạng hoàn toàn không xứng với họ tộc trứ danh của mình, trên tay không phe phảy chiếc quạt quý, thắt lưng cũng không đeo kiếm báu, chiếc áo dài trắng mặc trên người lại loang lổ chỗ đen chỗ trắng, lưng lại khoác chiếc gùi cũ, không hề có dáng một công tử thế gia, khiến người ta vừa nhìn đã nhận ra là bậc cao nhân, hoặc là hậu duệ của bậc cao nhân.
Cảnh đó diễn ra vào đúng lúc mặt trời lặn, chim đang về tổ. Chúng tôi chuẩn bị địa bàn mãi nghệ, hái một bó lớn rau dại và cỏ để bên đường, Tiểu Hoàng đã được ý tứ buộc chặt vào chiếc cọc tre.
Nông dân đang lục tục vác nông cụ về nhà, đi qua nhìn thấy cảnh đó tò mò đứng lại, chẳng mấy chốc đã quây kín một vòng.
Mọi người chứng kiến Tiểu Hoàng dáng điệu khổ sở lép bép nhai một củ cà rốt, nông dân chặc lưỡi khen lạ.
Lúc đó Bách Lý Tấn vất vả chen vào trong, cúi xuống rất tự nhiên lấy một củ cải trắng to đùng trong đống rau cỏ, ngẩng đầu nhìn Quân Vỹ: “Này, củ cải bán thế nào?”.
Quân Vỹ ngây người.
Bách Lý Tấn ngắm nghía một hồi, không biết lý giải thế nào biểu hiện đó của Quân Vỹ, lại cúi đầu lựa chọn một hồi, lấy ra một củ cà rốt: “Này, tôi mua hai củ cải, anh có thể tặng thêm một củ cà rốt không?”.
Tôi giương mắt nhìn Quân Vỹ nhướn mày hai cái, sau đó thản nhiên chỉ vào Tiểu Hoàng đang gặm cà rốt bên cạnh, tỏ ý chúng tôi đang biểu diễn, không phải bán củ cải.
Bách Lý Tấn nhìn Tiểu Hoàng, nhảy dựng lên: “Chao, mua củ cải còn được tặng hổ ư?”.
Tôi giương mắt nhìn Quân Vỹ lại nhướn mày hai cái, nhếch mép: “Không tặng hổ, không tặng hổ”.
Bách Lý Tấn hiểu ý giơ củ cà rốt ở tay phải, “Ồ, không sao, không tặng hổ thì tặng tôi một củ cà rốt vậy”.
Quân Vỹ lại nhếch mép: “Cà rốt cũng không tặng!”.
Bách Lý Tấn ngạc nhiên giơ củ cải ở tay trái: “Tôi không để anh cho không đâu, tôi trả tiền, tôi mua nhiều không phải để anh kiếm tiền, mà là muốn anh cho thêm một củ cà rốt nhỏ…”.
Tôi đoán Quân Vỹ sắp không chịu nổi rồi, còn chưa nghĩ xong thì đã thấy một bóng trắng xám xám bay ra khỏi vòng người, Quân Vỹ nghiêm nghị nhìn Bách Lý Tấn vừa bị ném đi, phủi tay vài cái rồi lau lên áo tôi.
Đó là cuộc gặp đầu tiên của chúng tôi với người cháu trẻ nhất trong gia tộc Bách Lý, Quân Vỹ lần đầu tiên thể hiện rõ nhất dũng khí nam nhi.
Hai ngày sau, chúng tôi tích đủ lộ phí đến thành Tứ Phương, tạm đủ tiền ăn ở dè sẻn. Tôi nghĩ, lúc này bất đắc dĩ phải kiếm ít tiền còn được, không nên để Tiểu Hoàng mệt mỏi quá, chỉ cần đến thành phố là chỗ nào cũng đầy cơ hội kiếm tiền, chẳng hạn có thể để Quân Vỹ bán thân, nhưng lại một nữa bị báo quan.
Quan phủ sau khi tra xét thấy đúng, bởi chúng tôi hoàn toàn chẳng làm gì trái pháp luật, nên không thể ra tay, nhưng họ cũng không chịu tay trắng ra về, cuối cùng phạt tiền chúng tôi với tội danh bắt hổ mãi nghệ, ngược đãi động vật, số tiền phạt coi như vẫn còn nhân tính, vẫn để lại cho chúng tôi một ít bạc lẻ làm lộ phí.
Quân Vỹ nói: “Đây nhất định là việc hay ho do gã tiểu tử nói giọng đàn bà đó làm”. Anh ta đang nói tới Bách Lý Tấn, nhưng tôi thấy chuyện này chẳng liên quan tới anh chàng đó, bởi tôi thật sự cho rằng, thực ra anh chàng đó có thể cũng không biết hổ là loài thú hoang ăn thịt hay ăn cỏ, chưa biết chừng anh ta lại tưởng thiên tính của hổ là ăn củ cải.
Vốn tưởng Bách Lý Tấn chẳng qua là người qua đường, tôi và Quân Vỹ đều không chú ý, ai ngờ chập tối ngày thứ tư lại gặp nhau trong một quán trọ duy nhất ở ngoại ô thành Tứ Phương, hơn nữa Quân Vỹ lại nằm cùng giường với anh ta.
Có duyên như vậy kể cũng hiếm, bởi vì quán trọ đó quả thật rất nhỏ, khi chúng tôi đến chỉ còn một phòng trống duy nhất. Vì thanh danh của tôi, đương nhiên tôi và Quân Vỹ không thể ở cùng phòng, nhưng để anh ta nằm trong kho củi hoặc dưới gốc liễu bên ngoài cũng thật tàn nhẫn.
Nghĩ đến nếu hủy hoại danh dự của tôi nhất định sẽ bị Quân sư phụ đánh chết, Quân Vỹ mặc dù lòng vô cùng ấm ức cũng đành ôm chăn chiếu xuống kho củi ngủ tạm một đêm. Tôi và Tiểu Hoàng nhìn anh ta với con mắt cảm thông. Không ngờ vừa ôm chiếu đi qua cầu thang, một cái bóng trắng đột nhiên sấn đến: “Này? Cô không phải là người bán củ cải mấy hôm trước ư? Các người sao vậy?”. Chúng tôi nhìn kỹ, thì ra là Bách Lý Tấn.
Chủ quán trọ nép vào một góc tủ quầy, vừa chú ý động tĩnh của Tiểu Hoàng vừa giải thích với anh ta. Bách Lý Tấn ngoái nhìn kỹ một hồi, vòng qua Quân Vỹ đến trước mặt tôi: “Thì ra là thiếu phòng? Phòng của tôi rất rộng, hay là cô ở tạm cùng tôi một đêm, tiền phòng chúng ta chia đôi, hi hi hi”. Tôi không kịp cười, Quân Vỹ không biết dùng thân pháp gì, đã lặng lẽ đứng chen giữa chúng tôi, hiền hậu mỉm cười với Bách Lý Tấn đang nhăn nhở: “Được, chúng ta chung phòng”.
Bách Lý Tấn thôi nhăn nhở.
Mọi người cùng ăn chung bữa cơm, vậy là quen nhau.
Ăn xong từng đôi về phòng.
Trước lúc ngủ, mí mắt tôi nháy liên tục, cảm thấy sẽ xảy ra chuyện gì. Từ nhỏ đến giờ linh cảm của tôi luôn rất hiệu nghiệm, nếu dự cảm có chuyện xấu xảy ra, bất luận thế nào cũng xảy ra chuyện gì đó thật.
Lòng tôi thấp thỏm, không thể ngủ được, mắt trừng trừng thức đến tận bình minh ngày hôm sau, nhưng cả đêm yên tĩnh, không hề xảy ra bất cứ chuyện gì đặc biệt, chỉ là khi dẫn Tiểu Hoàng xuống lầu ăn sáng, nhìn thấy Quân Vỹ và Bách Lý Tấn ngồi bên cửa sổ, cảm giác thần thái hai người hơi kỳ quái. Bách Lý tiểu đệ húp một miếng cháo ngẩng đầu nhìn Quân Vỹ mỉm cười, húp miếng nữa lại ngẩng đầu nhìn Quân Vỹ mỉm cười, còn Quân Vỹ ngoài sắc mặt hơi trầm, không có biểu hiện gì khác lạ.
Tiểu Hoàng vẫy đuôi quanh quẩn dưới chân tôi, ngẩn mặt nhìn nửa bát cháo trước mặt, lát sau chớp chớp mắt nhìn Quân Vỹ vẻ tội nghiệp.
Quân Vỹ sốt ruột: “Hôm nay không có gà nướng cho mày ăn đâu, chúng ta chẳng còn mấy đồng nữa”.
Tiểu Hoàng ngoẹo đầu không tin. Bách Lý Tấn cười hề hề ghé lại gần tôi: “Cô có biết A Trăn là ai không?”.
Đôi đũa đang gắp dưa muối trong tay Quân Vỹ dừng lại, quay về phía Bách Lý Tấn, hất hàm với Tiểu Hoàng: “Con trai, nếu quả thực con muốn ăn thịt, ở đây đã có sẵn rồi đấy”.
Tiểu Hoàng đứng dậy liếm nanh thật, Bách Lý Tấn kêu thét một tiếng nhảy lên bàn, run cầm cập, tay chỉ Quân Vỹ: “Một đêm vợ chồng, trăm năm ân nghĩa, Quân Vỹ huynh là kẻ vong ân bội nghĩa”.
Miếng cháo trong miệng tôi bắn đầy ra bàn, đôi đũa trong tay Quân Vỹ rắc một tiếng bị bẻ làm đôi.
Tôi nói: “Hai người…”.
Quân Vỹ thu đôi đũa gẫy, lườm Bách Lý Tấn, nghiến răng nói “Không có gì, đừng nghe hắn nói bậy”.
Bách Lý Tấn chặc chặc lưỡi, lắc đầu, ngồi xổm trên bàn, vẻ mặt mờ ám ghé lại gần, tôi hứng thú ghé sát lại.
Anh ta ghé gần tai tôi, “Cô không biết, người này tối qua nằm mơ, trong mơ huynh ấy…”. Lời chưa dứt bị một miếng bánh bao chay nhét vào miệng.
Tôi giật mình, vội nhìn sang Quân Vỹ, “Huynh và Bách Lý tiểu đệ… không phải thấy người ta dung mạo đẹp như hoa mùa xuân, tối qua trăng lặn sao thưa, mới vô tình…”. Lời chưa dứt cũng bị miếng bánh bao nhét vào miệng. Quân Vỹ tức tối bảo Tiểu Hoàng: “Con trai, hai thứ giẻ rách này thuộc về con, bữa sáng của con đó”.
Đúng lúc mâu thuẫn nội bộ sắp gia tăng, thì từ vị trí cách chúng tôi mấy chiếc bàn vang lên tiếng cười khe khẽ, và một giọng không biết nói với ai: “Vị công tử phẩm tính hiền đức mà các người nói chính là Trần thế tử Tô Dự, Tô Tử Khác, người đã chém sạch những trung thần cuối cùng của Vệ vương thất, sau khi Vệ quốc diệt vong ư?”.
Thấy nhắc đến Vệ quốc, tôi và Quân Vỹ bất giác đều cùng ngoái đầu lại, phát hiện cách đó mấy bàn có mấy vị khách dậy sớm đang châu đầu bàn luận quốc sự, người vừa nói là một văn sĩ trung niên.
Văn sĩ vẫn muốn nói tiếp, bị một thanh niên áo trắng cùng bàn ngắt lời: “Lời huynh thậm sai, người chém đại thần nước Vệ không phải là thế tử Dự. Khi nước Vệ bị diệt, thế tử được lệnh Trần vương thống lĩnh Trần quân giám hộ Vệ quốc, không may nhiễm bệnh, đành trở về Hạo thành dưỡng bệnh. Là tể tướng Doãn Từ đã tiến cử diên uý Công Dương Hạ làm thích sử, thay thế tử giám quốc. Công Dương Hạ vốn hiểm độc, muốn nhanh chóng lập công với Trần vương, vừa đến đất Vệ đã giết những cựu thần cuối cùng của Vệ vương thất có khả năng phản kháng, giết gà dọa khỉ, lại đuổi dân chúng ở Lịch thành và Yến thành ngay gần kinh đô, đưa dân nước Trần đến ở, khiến dân chúng hai thành lâm vào cảnh ly tán không nhà không cửa. Lại cho xây thích sử phủ nguy nga, thế tử lúc đó đang bệnh nặng, hoàn toàn không hay biết. Đến khi bình phục, thế tử chỉnh đốn quốc sự, chẳng phải đã lập tức phi ngựa đến Vệ quốc, ra lệnh chém Công Dương Hạ trước thích sử phủ còn chưa kịp hoàn tất, bêu đầu trước môn thành kinh đô nước Vệ, lấy đó để tạ tội với dân chúng hay sao? Bây giờ dân chúng nước Vệ đều coi thế tử như phụ mẫu tái sinh, nước Vệ diệt vong chưa quá nửa năm, dân chúng đã cam tâm tình nguyện quy thuận nước Trần, hai chữ hiền đức, chẳng lẽ thế tử không xứng?”.
Văn sĩ kia nói: “Chẳng qua là mượn dao giết người, đầu tiên là mượn tay Công Dương Hạ, làm hết việc mình muốn nhưng không thể làm, sau đó trở mặt giết người ta mà thiên hạ vẫn phải cảm ơn đại ân đại đức, quả nhiên là thế tử hiền đức!”.
Mấy người cùng bàn với chàng trai trẻ đập bàn đứng dậy, “Ông…”. Chủ quán thấy tình hình không ổn, vội vàng chạy đến can: “Xin đừng bàn quốc sự, xin đừng bàn quốc sự”.
Quân Vỹ gắp dưa muối vào bát tôi: “Nói suy nghĩ của muội xem?”.
Tôi nghĩ một hồi, cảm thấy chẳng có suy nghĩ gì, chỉ là thấy lạ về chuyện trong Vệ vương thất vẫn còn những người gọi là trung thần.
Quân Vỹ nhìn Bách Lý Tấn ngồi xổm trên ghế, mở miệng định nói, có lẽ cảm thấy một số chuyện không nên nói ra trước mặt người ngoài. Đắn đo một hồi, cuối cùng cúi đầu tiếp tục húp cháo. Tôi đoán Quân Vỹ lo lắng tôi vẫn nhớ mình là công chúa nước Vệ, sẽ để bụng, coi Tô Dự là kẻ thù, định hành thích báo thù.
Nhưng quả thật tôi không có ý nghĩ đó, cảm thấy để Quân Vỹ yên lòng, tôi vừa khều một sợi củ cải trong dưa muối, vừa thong thả nói: “Nếu là Tô Dự, chắc muội cũng làm như vậy, minh quân thánh chủ thời loạn phải là người xảo quyệt hung bạo như hổ, hiền đức chỉ để cho thiên hạ xem, chỗ nào cần hiền đức thì tỏ ra hiền đức để thiên hạ nhìn thấy là được rồi”.
Bách Lý Tấn không biết từ lúc nào đã buông chân xuống, ngồi ngay ngắn trên ghế góp chuyện: “Theo cô nói, Tô Dự làm nhiều việc như vậy chỉ là để tạo một hình ảnh hiền đức với thiên hạ?”.
Tôi lắc đầu: “Nếu đúng vậy, anh ta không phải là hiền đức, mà là rỗi việc. Chẳng phải Công Dương Hạ đã giết hết cựu thần của Vệ vương thất rồi sao? Sau đó nước Vệ đã không còn hy vọng phục quốc nữa, thật đáng chúc mừng. Công Dương Hạ đã di chuyển một bộ phận dân chúng nước Trần sang sinh sống ở hai thành Lịch, Yến ngay gần kinh đô nước Vệ. Những người đó bình thường làm ruộng sinh sống, khi nước Vệ xảy ra binh biến có thể trở thành lực lượng tại chỗ rất hữu hiệu, khỏi phải tốn kém điều binh từ nước Trần đến…”.
Bách Lý Tấn tỏ ra ngạc nhiên. Tôi nghĩ phải lấy ví dụ chứng minh để anh ta dễ hiểu, nghĩ một lát nói tiếp: “Cũng giống như các vị đến nước khác mở lầu xanh, mang rất nhiều cô gái đến, nhưng luật nước đó lại quy định chỉ vào dịp lễ tết mới được kinh doanh lầu xanh, như vậy các vị hàng ngày phải bỏ tiền nuôi các cô gái đó rất tốn kém, nếu chia cho họ ít ruộng, để họ tự trồng cấy, nuôi thân, vậy chẳng phải các vị sẽ giảm rất nhiều chi phí sao?”.
Bách Lý Tấn vò đầu: “Nhưng nếu nước đó chỉ cho phép vào dịp lễ tết mới được được kinh doanh lầu xanh, vậy chúng tôi tại sao phải đến một nước xa xôi như vậy để mở lầu xanh?”.
Tôi cảm thấy bất lực, không thể nào chia sẻ với anh ta được.
Mà lúc đó, văn sĩ trung niên kia hình như đã được chủ quán đưa ra chỗ khác khuyên giải, bàn bên đó đột nhiên vang lên tiếng nói, không biết bắt đầu từ lúc nào, tôi chỉ nghe thấy câu sau: “… Nước Vệ diệt vong đúng là chuyện nực cười, chỉ tiếc cho công chúa Văn Xương tuẫn tiết, nghe nói công chúa từ nhỏ đã theo học thánh nhân Huệ Nhất tiên sinh, là nữ đệ tử duy nhất của Huệ Nhất tiên sinh, tài mạo song toàn, nhan sắc khuynh quốc, nguyệt thẹn hoa hờn, lại thông tuệ tuyệt đỉnh, mười sáu tuổi đã có bao nhiêu công tử các nước chư hầu đến cầu hôn…”.
Tiếng người khác lại tiếp: “Tại hạ từng nghe, vào sinh nhật lần thứ hai mươi hai thế tử Tô Dự được nhìn thấy một bức họa của công chúa Văn Xương, nhìn xong lại nói một câu rất lạ “Ồ, đây là Diệp Trăn à, đã trở thành thiếu nữ rồi”. Chuyện bí mật lưu truyền trong cung đình không biết có đáng tin hay không, nhưng theo lời đồn công chúa Văn Xương phẩm hạnh đoan trang, chim sa cá lặn, cầm kỳ thi họa đều tinh thông, thế tử…”.
Quân Vỹ hỏi tôi: “Sao muội run thế?”.
Tôi lẩm bẩm: “Không biết tại sao khắp người nổi da gà… không sao đâu, ăn đi ăn đi”.
Quân Vỹ ra hiệu bảo tôi im lặng: “Chuyện phong nguyệt họ nói hết rồi, bây giờ bắt đầu nói chuyện chư hầu phân tranh, muội yên lặng, để huynh nghe tiếp”.
Tôi ngạc nhiên: “Sao?”.
Quân Vỹ đáp: “Nói thế nào nhỉ, lúc thiên hạ đại loạn, thân là nam nhi nên có trách nhiệm”.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta: “Đâu phải huynh làm cho nó loạn, can hệ gì đến huynh? Thế sự loạn đến đâu chỉ liên quan đến hoàng đế và các vương hầu, một người ra sức không để nó loạn, một người ra sức muốn cho nó loạn. À, phải rồi, còn có một tông giáo không rõ có mục đích gì, họ chỉ mong thế sự đại loạn, nhưng đó thuộc phạm trù tôn giáo, thuộc về ý thức thần bí, chúng ta không cần quan tâm”.
Quân Vỹ lẩm bẩm: “Huynh quan tâm đến chính trị…”.
Tôi vỗ vai anh ta: “Người chính trực không làm chính trị được đâu, nghề đó không hợp với huynh, huynh quan tâm vũ trụ, viết tiểu thuyết vẫn hợp hơn. Nào, ăn đi, ăn đi”.
Bách Lý Tấn ghé lại gần tôi hỏi: “Tại sao người chính trực không thể làm chính trị?”.
Tôi giải thích: “Anh thấy đấy, trong thế giới đại loạn, bản thân chính trị là một sự lệch lạc, nếu anh không lệch lạc, anh không thể làm gì được nó, trái lại bị nó quật lại”.
Bách Lý Tấn hiểu ra: “Có nghĩa là nói con người ta nếu không lệch lạc không thể làm chính trị?”.
Tôi nói: “Cũng không phải thế, nhưng không thể quá lệch, phải vừa lệch vừa thẳng”. Nghĩ một lát, tôi tiếp: “Giống như Tô Dự…”.
Bách Lý Tấn đăm đăm nhìn tôi rất lâu vẻ suy tư, sau đó trịnh trọng nói: “Đã có ai nói với cô rằng, cô sinh ra là phận nữ nhi thật đáng tiếc?”.
Quân Vỹ lạnh nhạt nói: “Chẳng có gì đáng tiếc, chẳng qua là được thầy giỏi truyền dạy mà thôi”.
Tôi chỉ vào Quân Vỹ nói với Bách Lý Tấn: “Có nhận ra tôi và huynh ấy đều do một thầy dạy không? Không nhận ra chứ gì? Hai chúng tôi khác biệt như bây giờ, chẳng liên quan gì tới nỗ lực cá nhân, hoàn toàn là do vấn đề tư chất”.
Quân Vỹ nhìn tôi vẻ tức tối, hình như đang âm thầm giở trò gì.
Tôi ngạc nhiên: “Huynh làm gì vậy?”.
Anh ta cũng ngạc nhiên: “Đạp chân muội, huynh đang đạp thật lực vào chân muội dưới gầm bàn, muội không thấy sao?”.
Trên đời chẳng có bữa tiệc nào không tàn, khi mặt trời lên được ba con sào, chúng tôi dùng xong bữa trà, thu xếp hành lý chia tay với Bách Lý Tấn. Bức tường thành màu vàng phía xa xa đã là kinh đô nước Trịnh, bức tường thành cao sừng sững lấp lánh dưới nắng hạ. Tôi nghĩ, nếu nó bằng vàng có phải tốt không, dỡ một hòn gạch là phát tài to, cái chính là không cần buộc Quân Vỹ bán thân kiếm tiền.
Bước năm bước khỏi quán trọ, Quân Vỹ đã liên tục ngoái đầu, tôi cũng ngoái lại liếc thấy Bách Lý Tấn khoác một cái bọc trên lưng đang đứng trước cửa quán trọ, liền thăm dò Quân Vỹ: “Bách Lý tiểu đệ đến là kháu trai”.
Quân Vỹ lạnh lùng nhìn tôi .
Tôi tiếp tục: “Tối qua huynh và Bách Lý tiểu đệ có phải đúng là đã…”.
Anh ta không trả lời, lại liếc tôi lần nữa, liếc xong, lại ngoái đầu .
Nhìn phản ứng đó của anh ta, tôi giật mình, che miệng khẽ hỏi: “Huynh thích người ta thật hả? Huynh lưu luyến người ta phải không?”.
Quân Vỹ không nghe rõ: “Cái gì?”.
Tôi nói to hơn: “Huynh thích người ta à? Huynh lưu luyến người ta phải không?”.
Quân Vỹ vẫn chưa nghe rõ: “Gió to quá, muội nói to lên!”.
Tôi đành nói to: “Có phải huynh thích anh chàng Bách Lý Tấn kia ~ ~ ~. Huynh liên tục ngoái lại như thế là lưu luyến, không muốn xa anh ta ~ ~ ~”. Nói xong vẫn giữ cao độ đó nhắc nhở anh ta, “Nếu huynh làm bậy, Quân sư phụ sẽ cho huynh nhừ đòn”.
Xung quanh đột nhiên yên lặng, người qua lại đều dồn mắt nhìn chúng tôi, mặt Quân Vỹ hết xanh lại trắng, lúc sau nghiến răng nói từng chữ: “Quân Phất, muội đang ngứa da phải không?”.
Tôi theo phản xạ lùi về sau.
Bách Lý Tấn ở cách đó năm bước, sung sướng chạy lại, nheo mắt nhìn tôi và Quân Vỹ: “Hai người lưu luyến tôi ư? Không sao không sao, nhà tôi ở ngay cái sân lớn nhất trong ngõ Tâm Thủy thành Tứ Phương, lúc nào xong việc mời hai người ghé chơi”.
Tôi vui vẻ nói: “Nhất định, nhất định sẽ đến!”.
Quân Vỹ ôm trán không nói lời nào.
Nói xong mấy câu xã giao với tôi, Bách Lý Tấn quay sang buồn bã nhìn Quân Vỹ, tay bối rối vò nhàu vạt áo: “Không phải huynh thích tôi thật đấy chứ? Rõ ràng trong giấc mơ, huynh đã…”.
Quân Vỹ nghiến răng: “Câm mồm, ông không thích mi”.
Bách Lý Tấn kinh ngạc: “Vừa rồi huynh liên tục ngoái đầu nhìn tôi”.
Thái Dương Quân Vỹ nổi gân xanh: “Ông không ngoái nhìn mi, ông ngoái nhìn con trai Tiểu Hoàng, nó vào bếp ăn trộm gà rán, chưa thấy quay ra”.
Bách Lý Tấn lạ lùng nhìn anh ta: “Tiểu Hoàng đang đi bên cạnh Quân cô nương đấy thôi!”.
Quân Vỹ ngoái đầu, bắt gặp đôi mắt to long lanh như nước của Tiểu Hoàng.
Dưới cái nhìn nghiêm khắc của Quân Vỹ, Tiểu Hoàng vừa ngấu nghiến xong một suất gà rán, vội dùng vuốt chân hất xương đầu gà về phía sau, xong xuôi ngượng nghịu khẽ liếc Quân Vỹ một cái, thấy anh ta vẫn nhìn chằm chằm, hơi hoảng lùi về phía sau.
Quân Vỹ ngây ra nhìn Tiểu Hoàng một lát, hỏi tôi: “Nó về lúc nào?”.
Tôi mới vỡ lẽ, thì ra tất cả là hiểu lầm, đang định nói với anh ta Tiểu Hoàng vừa chui ra từ bụi cây ven đường, Bách Lý Tấn bên cạnh lại lên tiếng: “Muốn kiếm cớ cũng nên kiếm cái cớ hay một chút, không cần giải thích, cũng không cần giấu giếm, huynh thích tôi…”.
Quân Vỹ im lặng hồi lâu, nhìn tôi, không biết nói sao.
Tôi hiểu cái nhìn ngầm cầu giúp đỡ của anh ta, lập tức xen lời: “Ha ha, Bách Lý Tấn, chuyện này chúng ta tạm thời không nói, tôi hỏi anh một chuyện”. Thực ra tôi cũng không biết muốn hỏi anh ta chuyện gì, chỉ là để chuyển chủ đề, nghĩ một lát, không nghĩ ra chuyện gì có thể nói với anh ta, đành lấy vụ làm ăn ở thành Tứ Phương Quân sư phụ giao cho tôi để chống chế: “Vậy, anh, anh là người nước Trịnh, anh có nghe nói đến Thập Tam Nguyệt, phu nhân của Trịnh Bình vương?”.
Bách Lý Tấn đang yên lặng, ngẩng phắt đầu, trợn mắt nghĩ một lúc, nói: “Cô định nói là Nguyệt phu nhân?”.
Nghĩ một lát lại tiếp: “Phu nhân đã quy thiên rồi”.
Tôi ngớ ra: “Không thể, sư phụ tôi nói, mấy ngày trước còn nhận được thư của phu nhân…”.
Bách Lý Tấn nhíu mày suy nghĩ, lát sau nói: “À, người cô nói là Nguyệt phu nhân của Bình hầu Dung Tầm, tôi lại tưởng cô nói…”. Chưa hết câu, lại đổi ý: “… nhưng vừa rồi cô nói Thập Tam Nguyệt?”.
Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi phân vân: “Nguyệt phu nhân mà cô nói đó không phải là Thập Tam Nguyệt, người đó và phu quân cô ta đều là giặc, Thập Tam Nguyệt thật sự…”. Anh ta dừng lại: “… Đã chết rồi”.
Bảy ngày trôi nhanh, đêm hai mươi lăm tháng năm trăng sáng sao thưa, tôi, Quân Vỹ và Tiểu Hoàng trốn khỏi thành Tứ Phương.
Cho đến hôm nay, tôi đã làm hai vụ, chưa tổng kết, nhưng không nén nổi khái quát một câu, trong sứ mệnh dệt ảo mộng của tôi có lẽ chẳng bao giờ thoải mái nhẹ nhàng như chuyến đi nước Trịnh lần này, chỉ cần đánh một khúc đàn, gửi một bức thư là xong, lại còn được cả một tính mạng. Đương nhiên đó là mặt tốt.
Mặt không tốt là Nguyệt phu nhân, vị khách trong vụ trao đổi này là người ăn chay. Chuyện này cũng chẳng sao, chỉ có điều không chỉ một mình ăn chay, phu nhân còn thích động viên mọi người cùng ăn, là khách của phu nhân, chúng tôi không thể chối từ, khiến Quân Vỹ và Tiểu Hoàng khổ sở một phen.
Vốn định trốn ra ngoài cung vào tửu quán chén một bữa đã miệng, nhưng vương cung, biểu tượng quyền lực thực ra cũng chẳng khác gì kỹ viện, sòng bạc, đều là muốn vào phải chi tiền, muốn ra còn phải chi nhiều tiền hơn, chúng tôi mặc dù đã từng là người có tiền, nhưng bị quan địa phương bắt phạt mấy lần, tiền đã cạn, đây cũng là nỗi khổ chung của những người có tiền ở đất nước này.
Do quá thèm thịt, sau khi kết thúc vụ việc với Nguyệt phu nhân, ra khỏi Trịnh vương cung, mọi người đều phấn khởi. Để thể hiện niềm vui, Tiểu Hoàng mặt gầy hõm sau mấy ngày không được ăn thịt còn lăn mấy vòng trên đất, kết quả lăn quá đà, mãi không đứng lên được.
Tôi vỗ vai Quân Vỹ: “Ra đỡ con trai huynh dậy đi”.
Quân Vỹ tức giận: “Ai sinh ra thì đi mà đỡ!”.
Tôi nói: “Chẳng phải huynh và Bách Lý Tấn sinh ra nó hay sao?”.
Quân Vỹ quay đầu, ngó sát mặt tôi: “Muội là đồ chết giẫm”.
Trăng lơ lửng giữa trời, tôi và Quân Vỹ quyết định tách làm hai ngả, anh ta cùng Tiểu Hoàng đi về hướng đông, tôi đi về hướng tây. Hai bên hẹn gặp ở hướng bắc.
Có nghĩa là chúng tôi nhất thiết phải chạy trốn theo lộ trình hình tam giác, cuối cùng gặp nhau ở giao điểm đường trung bình của tam giác đó, Quân Vỹ học toán không tốt, tôi đã có thể tưởng tượng kế hoạch này nhất định sẽ thất bại, cuối cùng anh ta sẽ lạc đường, sau đó bị người ta bắt được, đem bán cho hý viện, cả đời dùng thanh sắc phục vụ người ta, nếu may mắn sẽ gặp được một huyện lệnh nào đó chuộc về làm thiếp. Nghĩ đến đó tôi bất giác rùng mình, cảm thấy trao Tiểu Hoàng cho anh ta đúng là hành động sáng suốt.
Bởi vì nếu gặp phải nguy hiểm, ít nhất cũng có Tiểu Hoàng bảo vệ. Mặc dù mục đích ban đầu vạch ra lộ trình chạy trốn đó là do Tiểu Hoàng quá gây chú ý, Trịnh hầu vương truy đuổi chúng tôi chắc chắn sẽ lấy đó làm mục tiêu, quả thật Tiểu Hoàng đi với ai cũng dở.
Chúng tôi đoán Trịnh vương Dung Tầm nhất định sẽ cho quân truy đuổi gắt gao chúng tôi, bởi vì một canh giờ trước, chúng tôi đã kết thúc tính mạng Thập Tam Nguyệt, Nguyệt phu nhân, mỹ nhân ông ta sủng ái nhất vương cung, vị phu nhân mà thiên hạ vẫn đồn đại. Quan trọng hơn là trước khi bỏ chạy chúng tôi còn nhân thể mang đi bộ trang sức bằng vàng cài trên tóc của phu nhân.
Trước đây tôi có đọc một cuốn sách viết về một phụ nữ sống bằng nghề bói toán, biết một ảo thuật đặc biệt, những người được gặp bà không ai có thể nhớ được dung mạo bà. Thập Tam Nguyệt, Nguyệt phu nhân chúng tôi gặp trong Trịnh cung có cảm giác giống như người phụ nữ trong cuốn sách đó, khiến người gặp chỉ cần quay đi là quên.
Chúng tôi từng suy nghĩ rất nhiều về chuyện này, cảm thấy nhất định có bí ẩn nào đó, cô nhất định có một tố chất đặc biệt về dung mạo, không phải là cô không đẹp, không nổi bật, chỉ là đường nét gương mặt quá nhạt, giống như vài nét vẽ trong tranh thủy mặc, không có cảm giác là người thật.
Thập Tam Nguyệt là một người kỳ lạ, uống vài giọt máu của tôi pha với trà, khiến tôi nhìn thấy Hoa Tư điệu của cô, nhưng lại không nói với tôi cô muốn gì, chỉ để vào tay tôi một bức thư, giọng nhẹ nhàng: “Quân sư phụ nói cô có thể tái hiện quá khứ trong ảo mộng, giúp tôi viên tròn ước nguyện. Có điều trong ảo mộng đó tôi sẽ không nhớ mọi chuyện trong hiện thực, vậy phiền cô nương dệt ảo mộng tái hiện quá khứ cho tôi, sau đó chuyển bức thư này tới tôi trong quá khứ đó”. Ngay giọng nói của cô cũng nhàn nhạt.
Tôi nắm chặt bức thư nhẹ tênh trong tay, hỏi cô: “Không cần tôi làm gì cho phu nhân sao? Phu nhân có biết trong vụ trao đổi này, phu nhân phải trả một giá thế nào không?”.
Cô ngẩng đầu: “Cái giá đó tôi cầu không được”.
Tất cả diễn ra như cô mong muốn, ba ngày sau, tôi tấu Hoa Tư điệu, chuyển bức thư niêm phong cẩn mật trao tận tay Thập Tam Nguyệt của quá khứ, bởi không được biết chuyện của cô, khi vào Hoa Tư mộng rất khó nhận biết thời gian, chỉ thấy trong ảo mộng nét mặt cô rất buồn phiền, tôi đoán quá khứ này thực ra không hoàn toàn là quá khứ, bởi trong vụ này từ hiện thực đến mộng ảo đều mang màu sắc kỳ lạ, hơn nữa đương sự hình như cố ý làm cho nó thêm thần bí, khiến tôi tò mò muốn tìm hiểu. Quả nhiên, sau khi đưa thư đến, tôi chưa rời đi, quyết định nằm phục trên xà ngang trong tư phòng Thập Tam Nguyệt cố chờ xem kết quả, tôi rất muốn biết ước nguyện của cô rút cục là gì.
Nằm phục hai ngày trên xà ngang tư phòng của Thập Tam Nguyệt, cuối cùng tôi cũng được chứng kiến một cảnh tượng bi thống hơn bao giờ hết.
Những tia nắng sớm mỏng manh vừa hiện ra, ngoài cửa gió kèm bụi tuyết lùa vào tán lê, những cánh hoa lê trắng tan tác trong gió, phủ một lớp mỏng trong hoa viên. Người đàn ông tóc đen mướt, áo dài tím như mang theo hơi lạnh bước vào tẩm thất của Thập Tam Nguyệt, đó là một khuôn mặt anh tú sáng sủa.
Tôi nín thở, sợ bị phát hiện, nín thở hồi lâu mới sực nhớ mình vốn không có hơi thở, lại mặc toàn đồ đen lẫn vào bóng đêm, hoàn toàn không cần lo lắng.
Chính trong lúc tôi ngây người nhìn người đàn ông đó, người đó đã bước đến trước tấm gương đồng, ánh sáng của tấm gương hắt lên mái tóc đen mướt của anh ta, khuôn mặt trang nghiêm ẩn nụ cười: “Vừa rồi ngang qua hoa viên, vướng vào cành lê làm sổ búi tóc, Nguyệt nương, lại đây buộc giúp ta”.
Thập Tam Nguyệt thong thả đi đến, từ chỗ nấp phía trên, tôi nhìn rất rõ con dao găm trong tay cô, vẻ mặt chất chứa u buồn, người run run. Người đàn ông không để ý, nhìn vào gương gỡ dải lụa màu tím cùng màu áo trên búi tóc sổ tung, tự búi rồi buộc lại. Mặc dù người đàn ông không nhận ra và đương nhiên không hề cảnh giác, nhưng theo tưởng tượng của tôi, tư thế của Thập Tam Nguyệt lúc này, muốn hành thích anh ta cũng rất khó thành, rất có thể khi ra tay, tay cô run như vậy, sẽ bị anh ta phát hiện giữ chặt lấy. Người đàn ông nói: “Nàng định giết ta?”. Thập Tam Nguyệt lắc đầu không nói, hai giọt nước mắt như hai hạt đậu lớn từ khóe mắt lăn xuống, sau đó hai người ôm nhau khóc. Tôi đang ngẩn ngơ suy nghĩ, đột nhiên nghe thấy người đàn ông khẽ rên một tiếng, định thần nhìn kỹ, con dao trong tay Thập Tam Nguyệt đã thuận thế đâm xuống, xuyên từ lưng vào trúng tim anh ta, nhát dao vừa chuẩn xác vừa hung bạo.
Tôi đoán đúng kết quả, nhưng không đoán đúng quá trình. Thập Tam Nguyệt quả nhiên nước mắt lã chã, tiếp tục ấn con dao sâu hơn nữa.
Người đàn ông cúi đầu, nhìn mũi dao nhọn đâm xuyên từ lưng nhô ra trước ngực, chầm chậm ngẩng đầu, trong gương hiện lên khuôn mặt nhìn nghiêng không biểu cảm của anh ta, máu đỏ tươi từ khóe mép chảy xuống,
Anh ta nghiêng đầu hỏi: “Tại sao?”.
Từ góc độ đó, anh ta không nhìn thấy khuôn mặt đẫm nước mắt của cô.
Còn cô bám vào chiếc ghế đàn hương chân cao từ từ sụp xuống, như thể cú đâm đó đã lấy hết sức lực trong người.
Cô vùi đầu vào cánh tay anh ta, bật khóc: “Chị thiếp đã chết rồi, chị đã bị chàng hại chết, không, cả thiếp nữa, chị ấy đã bị chúng ta hại chết, rõ ràng thiếp phải hận chàng, nhưng tại sao… tại sao…”. Cô túm chặt ống tay áo anh ta, như túm lấy sợi dây cứu mạng, “Dung Tầm, tại sao thiếp lại yêu chàng!”.
Tôi bất ngờ đến nỗi suýt tuột tay rơi xuống. Dung Tầm, quân vương Trịnh quốc, Trịnh Bình hầu.
Lúc đó mới nhớ ra cử chỉ của người đàn ông quả nhiên là phong độ quý tộc vương thất quen thuộc.
Gió lạnh thổi tung bức rèm hoa trên cửa, làm bay giấy tờ trên án thư, Dung Tầm cơ hồ không trụ được nữa, cả người dựa vào chiếc tràng kỷ rộng, nhắm mắt lại, nhẹ giọng, nói: “Cẩm Tước”.
Bờ vai gầy của Thập Tam Nguyệt run run, đột nhiên cô bật khóc, “Dung Tầm, chúng ta có lỗi với chị ấy, có lỗi với Thập Tam Nguyệt…”. Nói xong tay run run rút con dao khỏi ngực anh ta ra, trở mũi dao đâm vào ngực mình, khuôn mặt nhợt nhạt đẫm nước mắt, môi mím chặt, lại hơi hé mở, cuối cùng mỉm cười thở một hơi dài.
Máu tuôn ướt đẫm lớp lớp áo trắng, tôi nhắm mắt.
Thật không ngờ ước nguyện của Thập Tam Nguyệt lại như vậy.
Mặc dù không xem bức thư cô trao cho tôi, nhưng đã có thể hiểu nội dung thư, cô đã hiểu tất cả, viết ra tất cả những gì đã biết giao cho chính con người cô còn u mê trong quá khứ, bức thư đó là một mật lệnh hạ sát cô giao cho chính mình.
Điều đó chứng tỏ, cô vốn đã định tự vẫn, nhưng không muốn tất cả kết thúc như vậy, trước khi chết, muốn kéo Dung Tầm cùng đi, nhưng lòng lại không đành, vậy là tìm đến tôi từ vạn dặm xa xôi, kéo Dung Tầm cùng chết với mình trong ảo mộng.
Chung quy vẫn chỉ bởi cô yêu anh ta, muốn giết anh ta, nhưng lại không nỡ, đành giết anh ta trong tưởng tượng cho hả lòng.
Việc làm đó thật không thể tưởng tượng.
Đến khi đi ra khỏi ảo mộng của Thập Tam Nguyệt, tôi vẫn trầm ngâm băn khoăn về nguyên nhân cô lựa chọn hủy diệt như vậy. Suy nghĩ rất lâu, cuối cùng cảm thấy có ba khả năng: Một là, chị gái cô yêu Dung Tầm, cô cũng yêu anh ta, chị gái cảm thấy không cạnh tranh được với cô, vậy là tự sát, cô thấy có lỗi với chị, liền mời Dung Tầm đến giết anh ta, rồi tự vẫn. Hai là, người chị gái rất yêu cô, nhưng cô lại yêu Dung Tầm, chị gái thấy không cạnh tranh được với Dung Tầm, vậy là tự sát, cô thấy có lỗi với chị, kết quả cũng như trên. Ba là, lúc nhỏ cô đã được mẹ dạy dỗ, con gái phải biết trân trọng bản thân mình, nhưng cô lại nghe nhầm thành con gái phải tàn nhẫn với bản thân, cho nên cuối cùng đã tàn nhẫn với bản thân.
Tôi nói với Quân Vỹ ba giả thiết đó, anh ta bảo, khả năng suy luận của tôi đã có tiến bộ lớn, chỉ có một điều, tại sao trong các giả thiết đó, Dung Tầm lại dường như là người vô tội. Tôi không muốn trả lời anh ta, đấu đá tranh giành trong cung vốn là chuyện của đàn bà với nhau, người đàn ông trong bối cảnh đó thực ra là đối tượng giành giật, để tiết kiệm giấy mực, không bàn chuyện đó.
Sau đó là chạy trốn.
Chia tay Quân Vỹ và Tiểu Hoàng, một mình một đường thật buồn tẻ.
Nhưng đó không phải là vấn đề chủ yếu nhất, vấn đề chủ yếu nhất là Quân Vỹ lúc đi quên không chia cho tôi một nửa số trang sức mang theo, khiến tôi không một xu dính túi, tài sản đáng tiền nhất trong tay là chiếc nhẫn ngọc Mộ Ngôn gán cho. Tôi lấy giấy cẩn thận bọc chiếc nhẫn để vào ngực, chỗ gần tim nhất, có lẽ đời này không gặp lại nữa, mà đó là vật duy nhất chàng trao tôi, tôi nhất định giữ gìn thật kỹ, cho dù kẻ cướp cầm dao kề cổ, tôi cũng không đem nó ra cầm cố.
Tôi rất nhớ chàng.
Nhưng không có cách nào khác.
Trăng sáng vằng vặc, tôi để chiếc nhẫn vào ngực áo, tay khẽ vỗ lên đó. Nhớ nhung, nhưng biết làm sao.
Chạy theo đúng lộ trình hình tam giác đã định, mười ngày sau đến biên giới nước Trần. Thực ra, ban đầu tôi không biết đây chính là đường về nhà, cuối cùng vẫn quay về Bích sơn, có thể thấy đó là định mệnh. Một tháng trước, tôi gặp lại Mộ Ngôn ở đây.
Lúc mười ba tuổi, sau khi bị rắn độc cắn, sư phụ đã dặn dò mỏi miệng, rằng cách sống ở vùng rừng núi hoang dã là nhất định không được ra khỏi nhà…
Do không có tiền ở nhà trọ, ban đêm tôi buộc phải ở bên ngoài, trong mười ngày chạy trốn đó, đêm nào tôi cũng tìm một cái cây cao, ngồi trên đó ít nhất cũng tránh được tầm mắt của dã thú tìm mồi.
Nhưng đêm nay tôi muốn đi dạo, muốn nhìn lại rừng hoa trên Bích sơn nơi tôi gặp lại Mộ Ngôn, thực ra việc này để ngày mai cũng được, chỉ là vừa nảy ra ý nghĩ đã không thể chờ đợi, hình như muốn đi gặp chính bản thân Mộ Ngôn. Rồi bất chợt lại nghĩ, biết đâu Mộ Ngôn quả thực đang chờ tôi ở đó, lòng thấy vui vui, rồi lại nghĩ ngộ nhỡ chàng chờ cô gái khác, lòng lại thấy buồn, cuối cùng không biết mình mong hay không mong chàng chờ ở đó.
Suốt dọc đường tôi cứ vấn vương ý nghĩ như vậy, lúc vui lúc buồn, hoàn toàn không biết có mối nguy hiểm rình rập phía sau. Đang đi đột nhiên sau lưng có tiếng “hự”, hoảng hốt giật nảy mình, đang định ngoái nhìn thì bị kéo giật lại, cả người ngã bổ chửng về sau, thầm nghĩ hỏng rồi, vậy là ngày mai phải giặt bộ váy trắng này rồi, đúng lúc đó eo lại bị một bàn tay ôm chặt.
Lưng đập vào một vật cứng nào đó, không thể cảm nhận độ ấm của nó, chỉ biết đó là một bộ ngực rộng.
Tôi sững người, cổ họng như thít lại.
Trên đầu vang lên giọng nói giễu cợt quen thuộc: “Nửa đêm ra đường, sao không cẩn thận một chút?”.
Tôi há miệng mấy lần, đều không nói ra được, Mộ Ngôn, rõ ràng cái tên đã thầm gọi cả ngàn lần trong lòng. Tôi sợ phát khóc, lần đầu trong đời cảm thấy buồn nẫu ruột vì không làm được điều mong muốn, vốn định nói một câu thật hay, gây cho chàng ấn tượng sâu sắc, nhưng ngay tên chàng lúc này cũng không gọi ra được.
Chàng buông bàn tay giữ eo tôi, để tôi đứng ngay ngắn, nhìn lướt từ trên xuống dưới, ánh mắt cười cười: “Một tháng không gặp, Quân cô nương không nhận ra tại hạ chăng?”. Nụ cười đó thờ ơ như muốn chọc tức tôi. Tôi rất vui, muốn vui hơn nữa, nhưng lại không biết nói thế nào, nhẫn nhịn một lát mới nói: “Hai nhăm ngày”. Lại tiếp: “A Phất”.
Dưới ánh trăng, khuôn mặt chàng vẫn thế, toàn thân áo chùng đen, tay cầm thanh nhuyễn kiếm, mũi kiếm dính máu đỏ, miếng ngọc bội đeo ở thắt lưng lóng lánh ánh lên màu xanh lam dịu dàng.
Tôi nhìn chàng, chàng công tử mã thượng, người của lòng tôi.
Một khắc trước bồn chồn muốn gặp lại chàng, một khắc sau quả nhiên gặp lại, tôi vui lắm, nhưng cúi đầu nhìn đôi giày đen lấm đất và chiếc váy trắng đầy bụi lem nhem, lập tức lại muốn tỏ ra không quen biết.
Chàng nhướn mày: “Hai nhăm ngày, A Phất?”.
Tôi co chân giấu vào trong váy, trả lời: “Ý tôi là, chúng ta đã quen thuộc thế rồi, huynh không cần luôn mồm cô nương, cô nương. Gọi tôi là A Phất, còn nữa, chúng ta chia tay chưa đầy một tháng, mới có hai nhăm ngày”. Một lúc không thấy trả lời, tôi hơi ngẩng đầu liếc chàng, không thấy chàng có biểu cảm gì đặc biệt, đoán là có lẽ chàng không tin, nghĩ một lát tôi xòe tay tính, “Huynh đi ngày mười tháng năm, hôm nay mồng năm tháng sáu, huynh xem, chẳng hai nhăm ngày là gì…”.
Chàng lại ngắt lời tôi: “A Phất”.
Tôi nói: “Sao?”.
Chàng cười: “Có phải cô muốn tôi gọi cô như vậy?”.
Trên núi vô cùng yên ắng, chỉ có tiếng chàng, thỉnh thoảng có tiếng côn trùng, nhưng tôi bỏ qua tiếng côn trùng. Thầm nghĩ mặt mình nhất định rất đỏ, may có mặt nạ che. Nhưng lại nghĩ, có mặt nạ lại dở, bởi vì nếu không có mặt nạ, biết đâu chàng có thể đoán ra tâm tư của tôi. Mặc dù đã biết tình cảm của mình không có kết quả gì, nhưng nếu có cơ may để chàng biết cũng không hẳn không hay.
Chàng cúi đầu nhìn tôi, hình như chờ tôi trả lời, tôi ậm ừ bối rối nhìn về sau, đang định nói “phải”, nhưng mắt vừa ngước đã sợ nhũn người suýt ngã lăn ra đất.
Trên con đường núi tối hun hút, xác một con sói nằm chềnh ềnh sau lưng tôi, đôi mắt đen sì mở trừng trừng, đã không còn ánh sáng, máu từ cổ tuôn ra thành vũng.
Nhìn sắc mặt tôi, Mộ Ngôn nửa cười nửa không: “Chắc cô không phát hiện sau lưng có con sói đi theo?”.
Tôi gật đầu xác nhận, đồng thời hai chân bắt đầu run, như thế này tôi hoàn toàn không tự nhúc nhích được. Chàng kéo xác con sói lùi ra một chút: “Vậy cô cũng không nghe thấy khi tôi đâm vào cổ con sói, nó gầm lên ngay sát tai cô?”.
Tôi tưởng tượng có một con sói nuốt nước bọt đi theo tôi rất lâu, nếu không có Mộ Ngôn ra tay, bây giờ tôi đã nằm trong bụng sói, bất chợt người bủn nhủn, mắt đỏ hoe, hốt hoảng: “Tiếng to như vậy chắc chắn tôi nghe thấy, lúc ấy tôi đang định ngoái lại xem là con gì đang kêu…”.
Chàng vỗ vai tôi: “Đừng sợ, chẳng phải đã giết con sói rồi sao, cô sợ gì nữa?”. Nói đoạn cau mày, “Quân huynh đệ và con hổ đó đâu? Sao không đi cùng cô, sao để mình cô lang thang trên núi vào lúc muộn thế này?”.
Tôi lau nước mắt: “Họ bỏ trốn vì tình rồi”.
Mộ Ngôn: “…”.
Tôi gặp lại Mộ Ngôn như thế, dù trong lòng tràn đầy tình cảm lãng mạn, nhưng thực ra cũng hiểu, chàng xuất hiện trong thời khắc thần kỳ, ở một địa điểm khó hiểu như vậy tuyệt đối không thể lý giải bằng cơ duyên trời định kiểu như “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”.
Tôi có rất nhiều điều muốn hỏi chàng, nhân lúc chàng cúi nhìn con sói trong đầu đã chuẩn bị xong, đang định mở miệng đột nhiên thấy từ những bụi cây đen sì phía trước, mấy con chim bay vụt lên, kêu loạn xạ.
Bảy người áo đen xuất hiện trước mắt chúng tôi như từ dưới đất chui lên.
Tôi nghĩ có lẽ lịch sử lặp lại, chắc họ lại đến truy sát Mộ Ngôn, đang lẳng lặng lùi sau một bước, rồi lại lùi bước nữa, một bước nữa. Còn chưa kịp trốn sau lưng Mộ Ngôn, đám người áo đen phía trước đã soàn soạt chống kiếm xuống đất quỳ một chân trước mặt chúng tôi: “Thuộc hạ đến muộn…”. Giọng nói đều răm rắp, hình như đã được tập dượt nhiều lần, đồng thời nét mặt ai nấy đều ngượng nghịu bối rối.
Tôi quay đầu nhìn Mộ Ngôn, chàng thu kiếm trong tay, vẻ hờ hững, không quan tâm đến bọn người đó, lại hỏi tôi: “Có tự đi được không?”.
Tôi băn khoăn nhìn chàng.
Chàng nhếch mép cười: “Chẳng phải cô đã sợ nhũn chân rồi ư?”.
Tôi lập tức phản bác: “Chân tôi chưa nhũn”.
Chàng lắc đầu: “Nói dối”.
Tôi cãi: “Tôi không nói dối”.
Chàng nhìn tôi có vẻ thú vị: “Vậy cô chạy hai bước thử xem”.
“…”.
Mộ Ngôn nói đúng, tôi đang nói dối.
Quả thật tôi đã sợ nhũn cả chân, mấy bước lùi lúc nguy cấp vừa rồi chỉ là khả năng tiềm ẩn được bất chợt phát huy. Ai cũng có điểm yếu, điểm yếu của tôi là chó sói và rắn. Chỉ là bị Mộ Ngôn nói thẳng ra như vậy, tôi thấy hơi ngượng.
Bởi vì chân nhũn ra không đi nổi chứng tỏ sự yếu đuối, mà tôi lại không muốn để chàng thấy tôi yếu đuối, nếu Quân Vỹ hỏi như vậy, tôi nhất định bướng bỉnh đốp lại anh ta: “Lão nương sợ nhũn chân thì sao, nhà ngươi định làm gì ta?”.
Nhưng với Mộ Ngôn thì khác, tôi chỉ muốn cho chàng nhìn thấy mặt tốt nhất của mình. Đạo lý này cũng đơn giản như không muốn để ý trung nhân biết thực ra mình cũng cần đi vệ sinh. Có điều, thú thực tôi quả thật không cần đi vệ sinh.
Đang mải suy tính, đắn đo, hai tiếng “mạo phạm” vang ngay bên tai, người đột nhiên nhẹ bẫng, bị Mộ Ngôn bế bổng lên. Tôi không biết bị ai rút mất lưỡi, không nói được gì, bốn bề tĩnh mịch, lưỡi tôi rõ ràng đã bị rút mất, ngẩng đầu chỉ nhìn thấy ánh trăng hòa với màu trời mênh mang. Mặc dù bế tôi đi như vậy, hình như chàng chẳng khó nhọc tí nào, vẫn nhàn tản bước, chỉ lúc đi qua bọn người đang quỳ dưới đất thì hơi dừng lại.
Mọi người lập tức cúi thấp hơn, giọng Mộ Ngôn vẳng trong không trung giữa triền núi: “Có biết thế nào là hộ vệ không? Kiếm của các ngươi phải rút ra trước ta thế mới là hộ vệ của ta”.
Giọng nói bình thường nhưng lại khiến đám người áo đen càng cúi thấp đầu hơn nữa. Đó là cái uy của người ở ngôi cao trong chốn cung đình nhiều năm, sở dĩ tôi không ngạc nhiên là bởi vì trong Vệ vương cung cũng thường xuyên chứng kiến, như phụ vương tôi, mặc dù không có tài trị quốc, nhưng có thể dùng cái uy đó để dọa mấy bà phu nhân của ông…
Đang mải nghĩ, bất chợt ngẩng đầu phát hiện một người áo đen quỳ ở giữa đứng bật dậy, đưa tay lần theo đường viền chân tóc ở trán. Tôi đã trấn tĩnh trở lại, không biết là động thái gì, ngây người hỏi Mộ Ngôn: “Anh ta đang làm gì vậy?”.
Mộ Ngôn nhìn tôi: “Cô nói xem!”.
Tôi tự trả lời: “Hình như đang lột mặt nạ?”.
Chính lúc tôi nói câu đó, người áo đen quả nhiên lột ra chiếc mặt nạ da người mỏng dính, thở hai hơi: “Nóng chết được”. Tôi nhìn kỹ anh ta, kinh ngạc phát hiện, khuôn mặt vừa lột đó là mặt con gái, một khuôn mặt vô cùng xinh đẹp.
Mộ Ngôn nhướn mày, giọng hờ hững: “Ta đang nghĩ dạo này bọn họ chẳng ra gì, đã bí mật đến lại còn làm kinh động bầy chim, thì ra họ vì muội mà bị liên lụy”.
Cô ta làm ngơ, nhoẻn miệng cười ghé lại gần Mộ Ngôn: “Thực ra cũng không thể trách bọn muội được, phải rút kiếm trước huynh mới có tư cách bảo vệ huynh, đòi hỏi như vậy thiên hạ làm gì có ai làm được hộ vệ của huynh. Ồ, cho muội xem tay huynh ôm gì vậy. Muội tưởng huynh vẫn si mê Tần Tử Yên, người này là chị dâu tương lai của muội sao, cuối cùng huynh đã chịu buông Tử Yên rồi? Ồ, chị dâu? Tỷ là chị dâu tôi ư? Tôi là Mộ Nghi, tỷ tên là gì…”.
Tôi giật mình, mím môi, Mộ Ngôn cúi đầu ngắt lời cô ta: “A Phất vẫn còn nhỏ”.
Mộ Nghi ngượng nghịu: “Vậy còn Tử Yên, huynh với cô ấy…”.
Nghe họ nói với nhau nhu vậy, lòng tôi như chìm xuống, nhưng người tôi ép sát Mộ Ngôn, khi nhắc tới Tử Yên không thấy chàng có phản ứng nào đặc biệt, nhưng cũng có thể người ta có phản ứng mà tôi không nhận ra, suy cho cùng, sống nhờ viên giao châu, cảm giác của tôi đa phần đã mất, những gì còn lại quả thật không đủ nhạy cảm.
Mộ Ngôn không trả lời, chỉ liếc qua đám người áo đen quỳ dưới đất, nói: “Về bản doanh trước đi”.
Chàng bế tôi đi phía trước, những người khác theo sau. Được chàng bế suốt dọc đường như vậy, lẽ ra tôi thấy vui mới phải, nhưng lòng vẫn không kìm được nỗi buồn, cô gái tên Tử Yên đó tôi vẫn còn nhớ. Bỗng thấy tiếc nuối, sao mình không gặp Mộ Ngôn sớm hơn.
Ánh trăng xuyên qua kẽ lá, chiếu khắp mặt đất, tạo những vệt sáng bạc gọn gàng như kéo cắt. Tôi im lặng hồi lâu, cảm thấy khóe mắt nóng lên, nhưng âm thanh phát ra chỉ như tiếng muỗi vo ve, tôi nói: “Cô gái đó không tốt, cô ấy muốn giết huynh, huynh không nên thích cô ấy”.
Mộ Ngôn hơi cúi đầu: “Cái gì?”.
Tôi hít một hơi, không có can đảm nói lại lần nữa, ngẩng nhìn trời: “Không có gì, huynh xem, đêm nay sao rất tròn”.
Lúc lâu sau, Mộ Ngôn đáp: “Cái cô nói… hình như là trăng…”.
Chim ngủ yên trong tổ, đêm lạnh như nước, tất cả vật sống đều biến mất, đi trên đường núi vắng nếu không nói chuyện thì vô cùng buồn tẻ. Sau khi chia tay với Mộ Ngôn, những chuyện xảy ra sau đó kỳ thực cũng không có gì đáng nói, đáng nói nhất chỉ có chuyện của Thập Tam Nguyệt tương đối bí ẩn, ly kỳ, có thể coi là mới mẻ, cuốn hút. Trên đường núi khúc khuỷu, tôi thong thả kể cho chàng nghe. Thực ra đến giờ tôi vẫn không hiểu, tại sao Thập Tam Nguyệt tự vẫn, hơn nữa càng tìm hiểu càng thấy ly kỳ, kể ra chuyện đó kết thúc có phần vội vàng, nhưng sự quan tâm của Mộ Ngôn rõ ràng không phải ở phần kết câu chuyện.
“Ý cô nói, chỉ cần chủ nhân lưu lại trong Hoa Tư mộng mà cô dệt cho họ, bất luận trong ảo mộng họ sống hay chết, trong hiện thực họ đều không thoát khỏi cái chết?”. Chàng hơi cúi đầu về phía tôi, do đi ngược ánh trăng, nhìn không rõ vẻ mặt chàng, chỉ có những sợi tóc đen quệt qua má tôi, ngưa ngứa nhồn nhột như quệt vào lá liễu.
Doanh trại mà Mộ Ngôn nói đóng trên một con đèo rộng, đoạn đường đến đó cũng khá dài, nhưng tôi lại thấy nó quá ngắn, vậy là một lần nữa nghiệm chứng thuyết tương đối không phải nói bừa, thử hình dung nếu đi cùng Quân Vỹ tôi nhất định cảm thấy đoạn đường rất xa, hơn nữa tôi sẽ vừa đi vừa ngủ gật.
Đêm nay, tôi ngủ cùng trướng với Mộ Nghi, nhưng nhất thiết phải đợi cô ta ngủ say mới dám vào, bởi vì lo sợ bị cô ta phát hiện người nằm bên là một người chết. Nhưng Mộ Nghi không hiểu nỗi khổ của tôi, lại nhiệt tình cùng tôi ra ngồi trước trướng ngắm sao.
Nói chuyện với cô ta tôi mới càng hiểu, tối nay có thể may mắn gặp Mộ Ngôn ở đây quả nhiên không phải là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, chỉ là chàng xử lý xong một số việc trong gia tộc, vòng qua Bích sơn trở về phủ đệ riêng cách nhà cả vạn dặm mà thôi. Tôi nghĩ, cảm thấy có chút an ủi, xem ra chàng không sống cùng cha mẹ, nếu cưới chồng mà không phải hầu hạ cha mẹ chồng thì sung sướng biết mấy. Nhưng lại thấy nực cười, mình đúng là hay suy nghĩ lung tung
Tôi do dự nhìn Mộ Nghi đang vui vẻ ngắm trăng, hỏi một câu xưa nay rất muốn hỏi nhưng không có ai giải đáp: “Đại ca của cô năm nay bao nhiêu tuổi? Đã lập gia thất chưa?”.
Cô ta uống một ngụm trà, vẫn tươi cười nhìn tôi: “Chuyện này…”.
Tôi sốt ruột muốn bóp chết cô ta.
Trong thời gian đó cô ta lại uống hai ngụm trà nữa, chép miệng, lại uống tiếp hai ngụm, mới thong thả nói: “Chưa”.
Tôi lặng lẽ kìm chế nanh vuốt của mình, nhưng cô ta lại vẫn tươi cười, nhích lại gần tôi: “Tỷ hỏi chuyện đó để làm gì?”.
Tôi hắng giọng hai tiếng, ngồi lui về sau một chút: “Không có gì, tôi có một tiểu muội, định mai mối cho đại ca cô”.
Cô ta sáng mắt nhìn tôi.
Tôi che miệng hắng giọng: “Thật đấy”.
Cô ta chống cằm, nheo mắt nhìn tôi: “Huynh tôi rất thích tỷ, ở nước Trần chúng tôi, các cô gái đẹp si mê huynh ấy nếu nắm tay nhau đứng thành vòng có lẽ sẽ quây kín một vòng quanh Hạo thành, nhưng huynh ấy chưa bao giờ để mắt đến họ, hôm nay chân tỷ đau, huynh ấy lại chủ động giúp tỷ, nếu bị các cô gái tương tư Mộ Ngôn biết được, tỷ sẽ bị họ đánh chết”.
Tôi không tỏ ra yếu thế, thản nhiên nói: “Trước đây người tương tư tôi cũng rất nhiều, nếu họ xếp hàng từ đầu đường trước cửa nhà tôi có thể sẽ kéo dài đến tận cuối đường”. Đương nhiên, những người đó một nửa là vì tiền, còn nửa kia là vì quyền, chuyện đó khỏi cần nói.
Mộ Nghi chớp mắt: “Ôi, vậy tỷ và đại ca tôi quá tương xứng rồi”.
Nghe cô ta nói vậy, thâm tâm tôi rất vui nhưng vẫn tỏ vẻ thản nhiên: “Đừng nói bừa, đại ca cô chẳng phải đã có ý trung nhân rồi sao, cô Tử Yên gì đó…”.
Nhưng Mộ Nghi đã lắc đầu, xua tay ngắt lời: “Cô ta không được, dạo trước cô ta dám hành thích đại ca tôi, đời này cô ta không có phúc làm chị dâu tôi rồi”.
Tôi nghi ngờ: “Chẳng lẽ họ bí mật hẹn hò”.
Mộ Nghi cười khúc khích, “Tỷ đừng đùa, nói thật nhé, đã xảy ra chuyện như vậy, phụ thân tôi nhất định không cho Mộ Ngôn lấy Tử Yên, hơn nữa, đối với những chuyện phong nguyệt, huynh ấy…”.
Chưa nói hết, Mộ Nghi như nhớ ra điều gì, “À, A Phất, nếu tỷ thật lòng với đại ca, có một cô gái tỷ phải cảnh giác hơn so với Tử Yên”.
Mộ Nghi thôi cười, nhìn tôi: “Có một người con gái duy nhất mà đại ca kính trọng ở đời, chắc tỷ cũng từng nghe tên, cô gái lừng danh thiên hạ tuẫn tiết theo nước Vệ, Văn Xương công chúa Diệp Trăn.
Chuyện Mộ Nghi nói chỉ mới xảy ra nửa năm trước, nhưng có cảm giác đã cách cả một cuộc đời, dưới ánh trăng ngập tràn, Mộ Nghi cầm cốc trà trên tay, nét mặt đăm chiêu, nhớ lại: “Tôi không chứng kiến cảnh đó, chỉ nghe nói nước Vệ đã lâu không có mưa, khi Diệp Trăn tuẫn tiết trời lại đổ mưa ầm ầm, mọi người đều nói, đó là ông trời nhỏ lệ thương khóc Văn Xương công chúa. Họ nói bức tường thành cao trăm trượng, Diệp Trăn không do dự nhảy từ trên thành xuống, ngay các tướng sĩ nước Trần cũng cảm phục lòng can trường của công chúa. Chính đại ca tôi từng nói Diệp Trăn là độc nhất vô nhị, huynh ấy nói đại lục rộng lớn này bao đời hết hợp lại ly, chỉ có duy nhất một vị công chúa xả thân vì xã tắc như thế, còn nói nếu không phải sinh ra là phận nữ nhi, lại không nhỏ tuổi như vậy, có lẽ công chúa sẽ làm nên nghiệp lớn. Tôi cũng cảm thấy đáng tiếc, người ta đồn Diệp Trăn rất đẹp, lại có học vấn, lẽ ra có thể lưu danh sử xanh, vậy mà đã sớm qua đời, thật đáng tiếc, sinh ra trong hoàng tộc vương thất…”.
Tôi nói: “Cô nói nhiều như vậy, thực ra định nói…”.
Cô ta để cốc trà xuống, gãi đầu: “À, phải… vừa rồi tôi định nói gì nhỉ?”.
Tôi ôm ngực mình, không cảm thấy tiếng tim đập, lát sau nói: “Sinh trong hoàng tộc vương thất là thế, từ nhỏ đã được hưởng biết bao đặc ân, đặc quyền, tất cũng phải gánh vác trọng trách, Diệp Trăn chết cũng đáng, với thân phận của cô ấy đương nhiên cần làm một việc gì đó cho phải đạo, đúng với bổn phận địa vị của mình. Khi cô ấy được muôn dân thiên hạ phụng dưỡng thì không hận mình sinh ra trong hoàng tộc vương thất, rồi khi cần gánh vác trách nhiệm với muôn dân xã tắc lại oán hận mình sinh ra trong hoàng tộc vương thất, nếu vậy quả thực đáng buồn”.
Nói xong, cảm thấy câu chuyện đang phát triển theo hướng luận đàm cao thâm, vội vàng hạ mã.
Tôi hỏi: “Chúng ta nói đến đâu rồi?”.
Mộ Nghi ngẩn người nhìn tôi hồi lâu: “Tôi cũng không biết…”.
Thực ra tôi có thể không ngủ, cũng giống như có thể không ăn, không uống, không đi vệ sinh, không mặc y phục, ồ mà y phục vẫn nên mặc. Sống được đến lúc này, tôi đã coi những cái đó là niềm vui, thấy vui là tìm cái gì ăn, là ngủ, là đi vệ sinh, mặc dù chắc chắn chẳng đi ra được.
Đằng nào chỉ cần có viên giao châu, tất cả đều bị tịnh hóa, bao gồm cả lúc này vốn nên buồn ngủ, bao gồm quả cà chua có vẻ rất chua nửa khắc trước do nể mặt Mộ Nghi mới ăn. Tóm lại, có viên giao châu, tất cả đều tiện lợi rất nhiều.
Hai chúng tôi ngồi mãi, cuối cùng Mộ Nghi thua trước, ngáp dài, vén rèm đi vào trong trướng. Tôi ôm ngực, vẫn không thấy có gì động đậy, nhưng cảm giác trong lòng rất ngọt ngào.
Mộ Nghi nói đại ca cô rất kính trọng tôi, những lời như vậy tôi nghe cũng đã nhiều, chỉ là từ trước tới giờ luôn cho rằng những người khâm phục hành động nhảy từ tường thành xuống của tôi quả là hồ đồ. Bởi vì việc đó đâu có gì là anh hùng, anh hùng thật sự phải là những người ngồi trên lưng ngựa xông pha ngoài trận mạc, lập đại công, danh lưu thiên thu. Trong thời loạn lạc, thắng làm vua, thua làm giặc, tôi chẳng qua là một kẻ thất bại, lấy cái chết để tạ tội với xã tắc, lòng không khỏi oán hận mình không đủ tài để vùng vẫy một phen, chung quy tâm có dư mà sức không đủ. Đương nhiên những huynh, tỷ của tôi, những hoàng tử công chúa của Vệ vương thất không tuẫn tiết vẫn sống đàng hoàng lại càng bất tài, nhưng nhìn ra xung quanh ai cũng thế, mọi người đều bất tài, cũng đủ tủi hổ, đâu có gì hay để đem ra cười nhạo nhau.
Núi trập trùng liên miên, không gian khoáng đạt, tôi đứng dậy vận động gân cốt, ngoái đầu lại nhìn thấy Mộ Ngôn đang ngồi trước một ngôi trướng phía xa, cúi đầu chăm chú làm gì đó, trước mặt là một đống lửa nhỏ, xung quanh màn đêm mênh mông, trong ánh lửa chập chờn mờ tỏ, cái đầu cúi xuống vô cùng chăm chú, hình như không hề buồn ngủ.
Tôi thầm nghĩ, đây là lúc rất thích hợp để hai chúng tôi ngồi riêng với nhau, mình có nên chạy ra đó không nhỉ?
Còn đang nghĩ như vậy chân đã bước nhanh tới đó. Việc này xem ra có phần xấu hổ. Quân Vỹ từng kể với tôi những chuyện như vậy, trong câu chuyện của anh ta những thiếu nữ sống nơi lầu son gác tía gặp đàn ông đều “bẽn lẽn thẹn thùng”, như vậy mới đáng yêu, nhưng tôi quả thực không thể lĩnh hội được cái gọi là “bẽn lẽn thẹn thùng” đó, hơn nữa chỉ cần gặp Mộ Ngôn, chân tay tôi luôn nhanh hơn đầu óc một bước.
Tôi sán lại hỏi: “Huynh làm gì vậy?”.
Con dao nhọn trong tay chàng dừng lại, “Tạc một đồ chơi, giết thời gian”. Nói xong ngẩng đầu nhìn tôi, cau mày: “Chưa ngủ sao? Muộn thế này?”.
Tôi vốn không buồn ngủ, nhìn thấy Mộ Ngôn càng không buồn ngủ, nhưng lại không thể nói thẳng ra như vậy, đành ậm ừ qua loa, ngồi xổm một bên, nhìn những ngón tay thanh mảnh rất đẹp của chàng cầm con dao nhọn tạc từng đường lên một thỏi ngọc.
Lát sau, Mộ Ngôn đột nhiên nói: “À, chiếc nhẫn ngọc của tôi vẫn còn ở chỗ cô chứ?”.
Tôi lắc đầu: “Đem đi cầm rồi?”.
Chàng dừng tay, “Cầm?”.
Tôi cúi đầu giả bộ chăm chú quan sát động tác của chàng, giọng nhỏ như tiếng muỗi, “Đúng”.
Chàng không nói, tiếp tục chăm chú vào thỏi ngọc đã định hình dưới mũi dao, một lúc lâu sau, một con hổ nhỏ xinh xắn, rất sinh động đã ở trong tay.
Tôi trầm trồ khen: “Đẹp quá!”.
Chàng xoay xoay con hổ: “Thật à? Vốn định dùng cái này để đổi chiếc nhẫn ngọc lần trước”.
Tôi nghĩ một lát, lặng lẽ lấy trong ngực áo chiếc nhẫn ngọc xâu bằng sợi chỉ đỏ để vào tay chàng, lại lặng lẽ cầm lên con hổ ngọc vừa tạc xong.
Thực ra không phải thế, chỉ là tôi cảm thấy chiếc nhẫn đó là vật chết, nhưng con hổ này là do Mộ Ngôn tự tay tạc nên, mặc dù không phải chủ ý làm cho tôi, nhưng cả đại lục này chỉ có một, tôi coi như chàng tự tay làm để tặng tôi, sau này nghĩ đến sẽ thấy ấm lòng. Nhưng vẫn có chút không cam tâm, rụt rè ghé lại gần Mộ Ngôn, “Huynh, huynh có thể sửa lại một chút không, sửa con hổ này một chút?”.
Chàng ngắm nghía con hổ tôi chìa ra: “Ồ, cần sửa chỗ nào? Mắt hay tai?”.
Tôi ngồi ngay ngắn trước mặt chàng: “Huynh xem, huynh có thể sửa nó sao cho trông giống tôi không?”.
Mộ Ngôn: “…”.
Chung quy bởi vì chàng có đôi tay khéo, không chỉ giỏi đàn, tạc khắc cũng làm rất tốt, xung quanh chỗ chúng tôi ngồi, rất nhiều hoa bán chi liên đang nở rộ, dưới ánh lửa hồng trông càng thắm sắc. Chàng ngước mi, khi ánh mắt chạm vào tôi, tôi cảm thấy một khoảng không êm đềm, có hoa mai trắng ngập tràn trên núi, nhưng tiếc là tôi lại không cảm nhận được hương mai đó.
Mộ Ngôn cười, “Muốn khắc giống cô, phiền cô bỏ mặt nạ ra, nếu không làm sao tôi khắc giống được”.
Lòng run run, cổ nghèn nghẹn, tôi lắc đầu.
Chàng nhẹ giọng: “Tại sao?”.
Tôi sờ lên mặt nạ, hơi lùi lại phía sau: “Tại vì… tại vì… mặt tôi rất xấu”.
Lần đầu gặp Mộ Ngôn, tôi mới mười bốn tuổi, trên mặt vẫn còn nét trẻ con, lúc mười bảy là tuổi đẹp nhất lại không gặp được nhau để chàng nhìn thấy một lần. Bây giờ, trên đầu có một vết sẹo lớn như vậy, bất luận thế nào cũng không thể để chàng nhìn thấy. Tôi cúi nhìn những ngón tay mình, lần đầu tiên buồn bã vì nhan sắc bị hủy hoại. Tôi muốn Mộ Ngôn nhìn thấy tôi trong dáng hình đẹp nhất, nhưng dáng hình đẹp nhất đó đã chết. Nước mắt âm thầm chảy dưới mặt nạ, tôi cúi đầu, khẽ hít, cũng may Mộ Ngôn không nhìn thấy.
Đêm đó tôi ôm con hổ ngọc Mộ Ngôn tạc cho, ngủ rất say. Mãi đến nửa đêm, không biết ai đó làm tôi thức giấc. Mơ hồ mở mắt, giơ tay dụi mắt, lại dụi tiếp.
Như hoa nở dưới trăng tàn, người tặng tôi con hổ ngọc mỉm cười dưới trăng: “Đừng dụi nữa”.
Mộ Ngôn giơ tay kéo tôi, ống tay áo rộng, trùm lên tay tôi, “Nào, chúng ta tranh thủ thời gian rời khỏi đây”.
Tôi nheo mắt nhìn chàng, giống như nhìn một thiên thần đột nhiên xuất hiện, nhìn kỹ, thấy cả nụ cười lấp lánh trong mắt chàng, tôi hỏi: “Đi đâu?”.
Chàng liếc nhìn Mộ Nghi nằm cạnh tôi, giọng ung dung: “Chẳng phải cô nói đến giờ vẫn mơ hồ câu chuyện của Nguyệt phu nhân sao? Chúng ta đến nước Trịnh tìm lời giải, chưa biết chừng dọc đường lại gặp Quân Vỹ và Tiểu Hoàng”. Dùng một lát, lại tiếp, “Yên tâm, toán hộ vệ của tôi một canh giờ rưỡi nữa vẫn chưa tỉnh đâu, để bọn họ đi theo rất phiền, chúng ta lén đi đêm, bỏ lại bọn họ nhẹ nhàng bao nhiêu”.
Tôi chìa tay cho chàng, nghĩ một lát nói: “Nhưng vẫn nên lưu lại bức thư, để họ khỏi lo lắng”.
Mộ Ngôn kéo tay tôi: “Không sao đâu, từ năm mười hai tuổi tôi đã thường xuyên một mình ra khỏi nhà, họ quen rồi”.
Tôi chỉnh lại váy trên người, lại hơi lo lắng: “Nhưng, tôi theo huynh thế này liệu có phải là trốn đi với nhau?”.