Tôi cứ thế đảo qua đảo lại, hết nhìn Cha Dominic đến con ma. Cuối cùng tôi đành mở miệng: “Cha có thể nhìn thấy cô ta sao?”
Ông gật đầu. “Đúng vậy. Ta đã nghi ngờ từ khi nghe mẹ con kể về con – và cả… những rắc rối của con ở trường cũ – rằng con có thể là một người trong số chúng ta, Susannah ạ. Nhưng ta chưa dám chắc, nên tất nhiên là không nói gì hết. Cái tên Simon, ta chắc con có biết, là một từ tiếng Do thái, nghĩa là “người biết lắng nghe”, là một người giao tiếp với người chết thì dĩ nhiên con có phẩm chất đó…”
Tôi hầu như chẳng nghe gì cả. Tôi không thể chấp nhận cái thực tế là rốt cuộc, sau ngần ấy năm, tôi cũng gặp được một người khác nữa cũng có khả năng nói chuyện với người chết.
“Thì ra chính vì thế mà không có hồn ma của một người thổ dân nào lảng vảng quanh đây hết?” Tôi gào lên. “Chính Cha đã trông nom bọn họ. Giời, thế mà con đã thắc mắc họ biến đâu rồi. Con tưởng phải thấy hàng trăm ấy chứ -”
Cha Dominic nhã nhặn gật đầu và nói: “À, cũng không hẳn là hàng trăm, nhưng khi ta mới đến đây thì cũng có một số. Nhưng đâu có gì, thật đấy. Ta chỉ đang thực hiện nghĩa vụ của mình, tận dụng khả năng kỳ diệu mà Chúa đã ban cho ta, thế thôi.”
Tôi nhăn mặt. “Có phải đấy là người chịu trách nhiệm cho việc này không ạ?”
“Nhưng tất nhiên chúng ta chính là một món quà của Chúa.” Cha Dominic liếc xuống tôi với cái kiểu đáng tiếc là món quà ấy được ban cho những chúng ta, những kẻ tội nghiệp, những sinh vật yếu đuối với những nghi kị. “Thế con nghĩ món quà ấy còn xuất phát từ đâu được nữa?”
“Con chả biết. Con luôn nghĩ mình muốn có đôi lời với cái kẻ nào phải chịu trách nhiệm cho nó, cha biết đấy. Bởi vì, nếu được lựa chọn, con chẳng thà mình đừng được ban cái món quà ấy còn hơn.”
Cha Dominic kinh ngạc. “Nhưng tại sao lại không hả Susannah?”
“Nó chỉ toàn dẫn con chui đầu vào rắc rối thôi. Cha có biết là con đã phải ngồi trong phòng bác sỹ tâm lý mất bao nhiêu tiếng đồng hồ không? Mẹ con còn tin con là một đứa tâm thần phân liệt nữa kìa.”
“Phải.” Cha Dominic gật gù vẻ trầm ngâm. “Phải. Ta có thể hiểu món quà kỳ diệu là những người như chúng ta đây có thể bị người thường coi là - hừm, lạ lùng.”
“Lạ lùng ấy ạ? Cha có đùa không đấy?”
“Chắc là ở Trường Truyền Giáo này ta được an toàn hơn,” Cha Dominic thừa nhận. “Ta chưa bao giờ gặp phải những chuyện cực kỳ khó khăn như những người ở… ờ… ngoài chiến tuyến như con, không được sự giúp đỡ của giáo hội – ”
“Những người như con?” Tôi nhướn mày. “Ý Cha là không chỉ có mỗi mình Cha và con ấy ạ?”
Trông Cha có vẻ ngạc nhiên. “Ờ, ta chỉ nghĩ là… chắc vậy. Chúng ta không phải là những người duy nhất có khả năng. Không, không, chắc chắn còn có những người khác nữa chứ.”
“Xin lỗi.” Con ma nhìn chúng tôi một cách hết sức chế nhạo. “Nhưng ông có thể nói cho tôi biết chuyện gì đang diễn ra ở đây không hả? Con quỷ cái này là ai? Có phải nó sẽ thay vào chỗ của tôi không đấy?”
“Này! Ăn nói cho tử tế.” Tôi khinh bỉ lườm cô ta. “Đây là một linh mục, cô biết đấy.”
Cô ta chế nhạo tôi. “Xì, tôi biết ông ta là linh mục. Suốt tuần nay ông ta chỉ kiếm cớ tống cổ tôi đi.”
Tôi nhìn Cha Dominic ngạc nhiên, và ông bối rối nói: “À, con thấy đấy, Heather hơi khó bảo – ”
“Nếu ông nghĩ,” Heather nói giọng khinh khỉnh, “rằng tôi sẽ chỉ đứng đó mà nhìn ông chuyển ngăn tủ của tôi cho con khốn này –”
“Cứ thử gọi tôi là con khốn lần nữa xem,” tôi nói, “rồi tôi sẽ cho cô dành cả phần còn lại của vĩnh hằng ngay trong ngăn tủ của chính cô đấy.”
Heather nhìn tôi không chút dấu hiệu nào của sợ hãi. “Con khốn,” cô ta nói, kéo dài giọng.
Tôi đánh cô ta nhanh đến nỗi cô ta không kịp thấy cú đấm của tôi. Tôi đánh mạnh, thật mạnh cho cô ta choáng váng đập người vào hàng tủ, để lại một vết lõm dài mang dáng người. Cô ta ngã mạnh xuống sàn đá, nhưng một giây sau đứng ngay dậy. Tôi tưởng cô ta sẽ đánh lại tôi, nhưng thay vào đó, Heather đứng dậy và với một tiếng rên rỉ, hết sức bình sinh chuồn thẳng theo hành lang.
“Hừ,” tôi nói, cho mình nghe là chính, “đúng là đồ gà(*).”
Tất nhiên cô ta sẽ trở lại. Tôi mới chỉ làm cô ta hoảng thôi. Rồi cô ta sẽ quay lại. Nhưng lần sau tôi mà còn gặp lại cô ta, mong rằng cô ta sẽ biết lễ độ hơn tí chút.
***
Chú thích nhỏ tí xíu:
Ở đây, nguyên bản là: "Huh," I said, mostly to myself. "Chicken."
"Chicken" là tiếng lóng, chỉ kẻ hèn nhát, nhưng nếu để: "Đồ hèn." thì không hay lắm, nên mình dịch là "gà", theo mình như thế hợp hơn, và... đúng bản chất của Suze hơn, hì.
Heather biến rồi, tôi thổi nhẹ những đốt ngón tay. Bọn ma có hàm toàn xương với xẩu.
“Sao,” tôi nói, “Cha đang nói gì thế ạ?”
Cha Dominic vẫn nhìn chằm chằm vào cái chỗ mà Heather đã đứng, nhận xét hơi khô khan đối với một vị linh mục: “Ngày nay người ta dạy những phương pháp để giao tiếp với ma thật thú vị làm sao.”
“Thưa Cha,” tôi nói. “Không có ai gọi con như thế mà ra đi dễ dàng đâu. Con chả cần biết trước kia anh ta đã phải sống khổ sở thế nào, hay là cô ta đi nữa.”
“Ta nghĩ là,” Cha Dominic trầm ngâm nói, “có vài điều chúng ta cần trao đổi, giữa ta và con.”
Rồi ông đặt một ngón tay lên môi. Cánh cửa bên cạnh chúng tôi mở ra, và một người đàn ông râu ria xồm xoàm xuất hiện, nhìn theo phía hành lang, hẳn là nghe thấy tiếng động của cái phần hồn của Heather đập vào dãy tủ để đồ - thật buồn cười là người chết có thể nặng đến thế.
“Mọi việc ổn chứ, Dom?” ông ta hỏi khi nhìn thấy Cha Dominic.
“Ổn cả, Carl ạ.” Cha Dominic đáp. “Ổn cả. Và xem tôi mang đến cho thầy điều gì này.” Cha Dominic đặt bàn tay lên vai tôi. “Học sinh mới của thầy, Susannah Simon. Susannah, đây là thầy chủ nhiệm của con, Carl Walden.”
“Chào em, Simon.” Tay tôi lọt thỏm trong bàn tay vĩ đại của thầy Walden. Tôi trông ông không giống một giáo viên cho lắm, giống một tiều phu thì đúng hơn. Trên thực tế, thầy ấy đã phải ép sát người vào tường để lấy lối đi cho tôi vào lớp. “Thầy rất vui được chào đón em,” thầy nói bằng giọng âm vang. “Cảm ơn Dom đã dẫn cô bé đến đây.”
“Có gì đâu,” Cha Dominic nói. “Chúng tôi chỉ có vấn đề nhỏ xíu với cái tủ đồ của cô bé thôi mà. Có lẽ thầy đã nghe thấy rồi, hi vọng thầy không phiền. Tôi sẽ cho người trông coi nó. Giờ, Susannah, ta chờ con ở phòng làm việc lúc 3 giờ để… ờ… hoàn tất các thủ tục giấy tờ.”
Tôi mỉm cười thân thiện. “Ôi không được đâu ạ. Anh con sẽ đến đón lúc 3 giờ.”
Cha Dominic cau mày. “Thế thì ta sẽ gửi cho con vậy. Khoảng 2 giờ.”
“Vâng,” tôi nói, vẫy những ngón tay về phía ông. “Tạm biệt.”
Tôi chắc là ở West Coast này chả ai lại nói tạm biệt hay vẫy tay với hiệu trưởng cả, bởi vì lúc tôi quay lại phía đám bạn mới cùng lớp, tất tần tật chúng đều nhìn tôi miệng há hốc.
Chắc là tại bộ quần áo. Tôi lo lắng nên đã mặc nhiều màu đen hơn bình thường một tẹo. Tôi luôn nói, khi nào không chắc chắn, cứ mặc màu đen. Chẳng bao giờ gặp rắc rối khi mặc màu đen hết.
Hay là có nhỉ. Bởi vì lúc tôi lướt qua những gương mặt há hốc, tôi chả thấy một mảnh vải đen nào hết. Rất nhiều màu trắng, vài màu nâu, cả đống đồ kaki, nhưng chả có tí màu đen nào.
Ối.
Thầy Walden có vẻ không nhận thấy sự lúng túng của tôi. Thầy giới thiệu tôi với cả lớp, và bảo tôi kể về nơi trước đây tôi ở. Tôi nói, và tất thảy bọn bạn đều nhìn tôi vô cảm. Tôi bắt đầu cảm thấy mồ hôi rịn ra phía sau gáy. Phải nói thật với bạn là đôi khi tôi khoái cái bè lũ âm phủ hơn là một đống bạn bè đồng trang lứa. Những đứa 16 tuổi có thể cực kỳ đáng sợ.
Nhưng thầy Walden thật tốt bụng. Thầy chỉ bắt tôi đứng đó khoảng 1 phút trước tất cả những cái nhìn chằm chằm, rồi thầy bảo tôi ngồi.
Điều này nghe có vẻ dễ, đúng không? Chỉ việc đi đến chỗ và ngồi xuống thôi mà. Nhưng bạn biết không, có tận 2 chỗ trống. Một chỗ ở cạnh đứa con gái rất xinh xắn có làn da rám nắng, mái tóc xoăn màu vàng mật ong. Chỗ kia là ở phía sau, sau đứa con gái có mái tóc cực trắng và làn da cực hồng, chắc chắn là một đứa bị bệnh bạch tạng.
Không đùa tí nào hết. Một đứa bạch tạng.
Có 2 điều ảnh hưởng đến quyết định của tôi. Một là khi nhìn thấy cái chỗ phía sau, tôi cũng trông thấy ngay sau chỗ ngồi ấy là cửa sổ nhìn ra bãi đỗ xe của trường.
Mà thôi, có thể bạn cho rằng cảnh ấy chẳng thú vị lắm, nhưng phía xa xa ở bãi đỗ xe là biển.
Không đùa đâu. Ngôi trường này, ngôi trường mới của tôi, có cảnh biển Thái Bình Dương thậm chí còn đẹp hơn cả cảnh nhìn từ phòng riêng của tôi, bởi vì trường ở gần bãi biển hơn nhiều. Từ cửa sổ phòng học thậm chí có thể thấy cả những con sóng cơ đấy. Tôi muốn ngồi càng gần cửa sổ càng tốt.
Lý do thứ 2 tôi ngồi đấy thật đơn giản: Tôi không muốn ngồi cạnh đứa con gái da ngăm ngăm kia để cho đứa con gái bạch tạng ấy không nghĩ là tôi không thích ngồi cạnh một đứa trông kỳ quái như nó. Thật ngớ ngẩn đúng không? Cứ làm như là nó quan tâm đến điều tôi nghĩ lắm ấy. Nhưng tôi chẳng suy nghĩ lâu la. Tôi trông thấy biển, tôi trông thấy đứa bạch tạng, và cứ thế đến ngồi.
Khi ngồi xuống, một đứa con gái ngồi cách tôi mấy chỗ cười khí khí và nói, dù chỉ thầm thì nhưng nghe rất rõ: “Trời, ngồi cạnh đứa quái đản, sao lại không chứ?”
Tôi nhìn nó. Nó có mái tóc quăn cực đẹp và đôi mắt trang điểm cũng hoàn hảo. Tôi nói, chẳng thèm thầm thì gì hết: “Xin lỗi, cậu có bị Tourette không?”
Thầy Walden quay lưng viết gì đó trên bảng, nhưng nghe tiếng tôi nên dừng lại. Mọi người xung quanh đều nhìn tôi, kể cả đứa con gái vừa nói. Nó giật mình chớp mắt nhìn tôi: “Cái gì?”
“Hội chứng Tourette ấy mà,” tôi đáp. “Đấy là một chứng rối loạn thần kinh làm cho người ta nói ra những điều họ không thực sự cố ý. Cậu có mắc chứng đó không vậy?”
Mặt đứa con gái từ từ chuyển sang đỏ: “Không.”
“Ồ, thế thì cậu cố tình nói năng hơi bị bất nhã rồi đấy.” Tôi nói.
“Tôi đâu có bảo cậu là kẻ quái đản ,” đứa con gái nói nhanh.
“Tôi biết, chính vì thế tôi sẽ chỉ bẻ gãy đúng một ngón tay cậu sau giờ học mà thôi, thay vì bẻ tất.” Tôi đáp.
Nó quay lại thật nhanh để đối diện với cả lớp. Tôi ngồi lại vào chỗ. Tôi không biết mọi người bắt đầu bàn tán gì sau đó, nhưng thấy lớp da trên đầu đứa con gái bạch tạng - vốn trông rõ mồn một phía dưới mái tóc trắng toát - chuyển sang màu đỏ vì bối rối. Thầy Walden phải yêu cầu cả lớp trật tự, và khi học trò cứ lờ thầy đi, thầy bèn dộng nắm tay xuống bàn và nói với chúng tôi rằng nếu có lắm chuyện muốn bàn đến thế thì có thể bàn trong bài luận 1000 từ về trận đánh ở Bladensburg trong cuộc chiến năm 1812 ấy, hai mặt giấy, nộp lên bàn cho thầy vào sáng hôm sau.
Ờ, thật tốt là tôi đến trường không phải để kết bạn.
Tôi chẳng thèm cố gắng, thậm chí còn chẳng muốn tí nào hết. Tôi muốn nói là, tôi đã có đủ bạn bè ở Brooklyn rồi. Tôi có Gina, người bạn tốt nhất mà một người có thể có. Tôi chẳng cần thêm người bạn nào khác nữa.
Và thực sự tôi không cho rằng mọi người ở đây rồi sẽ mến tôi – sau khi bị bắt viết một bài luận 1000 từ vì cái chuyện xảy ra khi tôi vừa mới ngồi xuống như thế. Nhất là sau chuyện khác nữa xảy ra khi chúng tôi được thông báo là đến tiết thứ hai rồi – ở Trường Truyền Giáo không có hệ thống chuông báo giờ học, cứ mỗi 1 tiếng chúng tôi lại đổi lớp học, và có 5 phút để đến lớp khác. Khi thầy Walden vừa cho tan lớp, đứa con gái bạch tạng quay người lại và nói, đôi mắt màu tía ánh lên giận giữ phía sau cặp kính đổi màu: “Chắc tôi phải biết ơn cậu hay gì đó vì những gì cậu đã nói với Debbie đấy nhỉ?”
“Cậu,” tôi đứng dậy, nói, “chẳng cần phải thế nào cả.”
Cô ta cũng đứng dậy. “Nhưng chẳng phải cậu đã làm thế vì cái lý do này hay sao? Bênh vực một đứa bạch tạng? Vì cậu thấy thương hại tôi chứ gì?”
“Tôi làm thế,” tôi nói, vắt chiếc áo khoác qua cánh tay, “bởi vì Debbie là một con quái vật.”
Tôi thấy khoé môi đứa con gái giật giật. Debbie quơ hết sách vở và chuồn ra khỏi lớp gần như ngay khi thầy Walden cho lớp giải tán. Cùng với cả lố con gái, kể cả đứa da ngăm ngăm xinh xắn ngồi cạnh cái ghế trống, nó thì thào và lườm tôi khinh bỉ qua những cái vai mặc áo len Ralph Lauren.
Dám nói là đứa con gái bạch tạng muốn bật cười khi tôi gọi Debbie là con quái vật, nhưng lại không cười. Cô ta dữ dằn nói: “Tôi tự thân vận động trong cuộc đấu tranh của mình được rồi. Tôi không cần cậu giúp, New York ạ.”
Tôi nhún vai. “Tốt thôi, Carmel.” Cô ta không thể không mỉm cười. Khi cười, cô ta để lộ hàm răng niềng lấp lánh như mặt biển ngoài kia.
“Cee Cee,” cô ta nói.
“Cee Cee là gì?”
“Tên mình. Mình là Cee Cee.” Cô nàng rút bàn tay trắng muốt ra, móng tay sơn màu cam rực rỡ. “Chào mừng đến Trường Truyền Giáo.”
“Có thật là…” một đứa con gái mặt giống mặt ngựa khao khát hỏi, “nó… nó…” Cô ta suy nghĩ lung lắm khi tìm từ để hỏi. “Nó… xứng danh như người ta đồn không?”
Có lẽ chẳng cần nói thêm, những đứa con gái ấy không phải là những đứa đẹp xinh cho lắm trong lớp. Tôi thấy ngay lập tức nếu xét theo tiêu chuẩn của đứa da ngăm và đứa tôi doạ bẻ gãy hết ngón tay sau giờ học, cái bọn sành điệu với áo len và váy kaki. Ôi, không hề. Những đứa con gái theo gót tôi là một tập hợp nhốn nháo, đứa thì mặt mụn, đứa thì béo quá, đứa lại gầy nhom. Tôi còn hết hồn khi thấy một đứa đi giày hở mũi cùng với tất chân dày. Tất màu be, còn giày màu trắng. Vào tháng Giêng!
Tôi có thể thấy là mình sắp gặp vấn đề khó khăn rồi đây.
Cee Cee có vẻ như là thủ lĩnh. Là chủ bút tờ báo của trường, tờ Tin Tức Trường Truyền Giáo mà cô nàng gọi là “giống mục bình luận văn học hơn là một tờ báo thực sự”, Cee Cee hẳn đã nghiêm túc khi nói với tôi rằng cô ấy không cần tôi chiến đấu thay cô ấy. Cô nàng có hàng đống đạn dược cho riêng mình rồi, gồm có một kho chứa thuốc súng là những nhận xét bằng lời, và những nguyên tắc làm việc cực kỳ nghiêm túc. Điều đầu tiên mà cô nàng nói với tôi – sau khi hết giận tôi – là hỏi xem tôi có hứng thú viết một bài cho tờ báo không.
“Không có gì ghê gớm đâu,” cô ấy nhẹ nhàng nói. “Có khi chỉ là một bài so sánh giữa văn hóa teen vùng East Coast và West Coast thôi mà. Mình chắc là cậu thấy những điều khác biệt giữa bọn mình và các bạn cũ của cậu ở New York. Cậu thấy thế nào? Độc giả của mình sẽ rất thích thú – đặc biệt là với những đứa như Kelly và Debbie. Hay cậu có thể nguệch ngoạc về chuyện ở East Coast, có làn da ngăm là một điều đáng hổ thẹn như thế nào cũng được.”
Rồi cô nàng cười, không phải kiểu độc ác nhưng cũng không hoàn toàn trong sáng. Nhưng đó mới là Cee Cee, tôi nhanh chóng nhận ra điều đó, những nụ cười bừng sáng – sáng chói hơn nữa nhờ bộ niềng răng khá đẹp – và tính tình vui tươi. Cô ấy nổi tiếng vì những trò đùa tinh nghịch cũng như kiểu cười ầm như ngựa vỡ oà khi không thể nhịn được, cười vang với những niềm vui chẳng cần che giấu, và luôn bị suỵt bởi những vị tu sĩ khó tính giám sát hành lang, ngăn không cho chúng tôi làm phiền khách du lịch, những người muốn chụp ảnh của Junipero Serra được những người phụ nữ da đỏ đáng thương quây quần xung quanh.
Trường Truyền Giáo là một ngôi trường nhỏ. Chỉ có 70 đứa học sinh năm thứ 2 trung học. Tôi vô cùng biết ơn cái việc lịch học của tôi và Ngu Ngơ trái ngược nhau, cái tiết duy nhất mà hai đứa ngồi chung là vào giờ ăn trưa. Bữa trưa được sắp xếp ở ngoài sân bên cạnh bãi đỗ xe là một cái sân chơi rất rộng cỏ mọc đầy, nhìn ra biển, có học sinh năm cuối ngồi ghế dài giống như bọn lớp 2, và có bọn chim mòng biển đổ dồn về phía kẻ ngốc nào đó dám dại dột vứt một con cá nhỏ ra. Tôi biết vì chính tôi đã thử mà. Thế là xơ Ernestine – cái người mà Adam, hóa ra học cùng lớp xã hội học với tôi, dám gọi là mụ ấy – liền tới và yêu cầu tôi không bao giờ được lặp lại cái trò đó một lần nữa. Cứ làm như tôi chưa tởn cái cảnh đồng loạt 50 con mòng biển to tướng quang quác đổ ụp từ trên trời xuống vây quanh tôi không bằng, cái kiểu mà bọn chim bồ câu ở Công Viên Quảng Trường Washington hay làm nếu bạn ngu ngốc vứt cho chúng một mẩu bánh quy xoắn ấy mà.
Ngái Ngủ và Tiến Sỹ cũng ăn trưa cùng lúc. Đó là lúc duy nhất tôi thấy những đứa con nhà Ackerman khi ở trường. Quan sát họ trong môi trường tự nhiên của chính họ cũng hay. Thật khoái khi thấy những nhận xét của tôi trước đây về con người bọn họ là chả sai tí nào. Tiến Sỹ tụ tập cùng với một nhóm trẻ con trông cực kỳ quái, phần lớn đều 4 mắt và có laptop đặt trên đùi, cái điều mà tôi chưa từng nghĩ tới lại hoàn toàn đang xảy ra. Ngu Ngơ thì lê la với mấy đứa dân thể thao được vây quanh – như kiểu bọn mòng biển vây lấy tôi lúc trước ấy – bởi những đứa con gái da nâu trong lớp tôi, trong đó có cái đứa mà tôi tránh không ngồi cạnh. Chúng có vẻ như đang nói về chuyện đã làm gì vào Giáng Sinh, đây là ngày đầu tiên trở lại trường sau kỳ nghỉ đông, và đứa nào gãy chân nhiều nhất khi trượt tuyết ở Tahoe.
Ngái Ngủ có lẽ là đứa hay ho nhất. Không phải chuyện anh ta đang tỉnh đâu, cho tôi xin. Anh ta ngồi ở một trong những chiếc bàn nhỏ, mắt nhắm tịt, mặt hứng nắng. Đây vẫn chưa phải điều thú vị, vì ở nhà lúc nào tôi chả thấy thế rồi. Cái làm tôi thấy hay ho là chuyện xảy ra bên cạnh anh ta kìa. Đó là một anh chàng đẹp trai kinh khủng, không làm gì khác ngoài việc nhìn đăm đăm về phía trước, khuôn mặt anh ta hiện lên một nỗi buồn đau ghê gớm. Thỉnh thoảng bọn con gái đi qua – thì con gái lúc nào chả thế khi có một anh chàng đẹp trai gần đó – và chào anh ta, anh ta bèn rời mắt khỏi mặt biển đang nhìn và đáp, “Ồ, chào bạn” trước khi lại hướng ánh mắt về phía những con sóng như có sức thôi miên ấy.
Lúc đó tôi chợt nghĩ Ngái Ngủ và bạn anh ta rất có thể bị nghiện. Điều đó giải thích được rất nhiều điều về Ngái Ngủ.
Nhưng khi tôi hỏi Cee Cee xem cô ấy có biết anh chàng đó là ai không, và anh ta có nghiện nghiếc gì không, thì cô ấy đáp: “À, đó là Bryce Martinson. Không, anh ta có nghiện đâu. Anh ta chỉ buồn thôi, bởi bạn gái anh ta đã chết trong kỳ nghỉ.”
“Thế à?” Tôi cố nhai món ngô. Đồ ăn ở Trường Truyền Giáo này không thể mê nổi. Chả trách mà bọn trẻ con toàn mang đồ ăn từ nhà đi. Món khai vị hôm nay là món xúc xích. Không đùa đâu. Xúc xích thật đấy. “Cô ta chết thế nào?”
“Tự bắn vào đầu mình.” Adam, tên con trai ở văn phòng hiệu trưởng, nói xen vào. Cậu ta đang ăn món Cheetos trong cái túi to đùng lôi ra từ cái ba lô da. Ba lô hiệu Louis Vuitton hẳn hoi. “Phần phía sau đầu bay luôn.”
Một trong những đứa con gái trông như ngựa ngoái lại, hẳn nghe lỏm được, và nói: “Chúa ơi, Adam. Sao cậu có thể nhẫn tâm đến thế được nhỉ?”
Adam nhún vai. “Này. Tớ đâu có quý mến gì cô ta khi cô ả còn sống chứ. Nhưng tớ không nói là giờ tớ mến cô ta vì cô ta chết rồi đâu đấy. Mà thật ra, tớ còn ghét cô ta hơn nữa kìa. Nghe nói tất cả học sinh sẽ phải đến buổi cầu siêu cho cô ta vào ngày thứ Tư.”
“Phải.” Trông Cee Cee có vẻ ghê tởm. “Chúng ta phải cầu nguyện cho linh hồn bất tử của cô ta bởi vì cô ta tự tử và giờ vĩnh viễn bị thiêu ở dưới địa ngục kia kìa.”
Adam trầm tư. “Thế à? Tớ tưởng những kẻ tự tử thì phải đến nơi mà linh hồn bị trừng phạt để gột sạch tội lỗi và được lên thiên đàng chứ.”
“Không đâu, đồ ngốc ạ. Cậu nghĩ vì sao mà Monsignor Constantine không cho phép Kelly tổ chức lễ truy điệu chứ? Tự sát là một trọng tội. Monsignor Constantine sẽ không cho cái kẻ tự sát được truy điệu trong nhà thờ của ông ấy đâu. Ông ta thậm chí còn không cho phép cha mẹ Heather chôn cô ta trên đất thánh đâu.” Cee Cee đảo tròn đôi mắt màu tím. “Tớ chưa bao giờ quý mến Heather cả, nhưng thậm chí còn ghét Monsignor Constantine và mấy cái luật lệ ngu ngốc của ông ta hơn nhiều. Tớ đang suy nghĩ về việc viết một bài về chuyện này, đặt tên là Cha, Con và Kẻ đạo đức giả Thần thánh.”
Những đứa con gái khác cười khúc khích có vẻ lo lắng. Chờ bọn họ xong xuôi, tôi hỏi: “Sao cô ta lại tự sát?”
Adam trông có vẻ phát chán lên: “Dĩ nhiên là vì Bryce rồi. Hắn chia tay cô ta.”
Đứa con gái da màu xinh xắn tên Bernadette, người cao nhất trong bọn tôi – 1m80 – cúi xuống thì thào: “Tớ nghe nói anh ta đã làm thế ở trung tâm mua sắm. Các cậu tin nổi không?”
Một đứa con gái khác nói: “Đúng thế, vào đêm Noel. Bọn họ đi sắm sửa cho lễ Giáng Sinh, cô ta chỉ vào cái nhẫn kim cương bày trong cửa sổ tiệm Bergdorf, và nói như kiểu: ‘Em muốn có chiếc nhẫn.’ Tớ đoán là anh ta đã phát hoảng lên – các cậu biết đấy, rõ ràng đấy là nhẫn đính hôn – và chia tay với cô ta ngay tại trận.”
“Và thế là cô ta về nhà tự bắn vào đầu à?” Tôi thấy câu chuyện này cực kỳ ngớ ngẩn. Tôi từng hỏi Cee Cee xem chúng tôi sẽ ăn trưa ở đâu nếu (lạy trời đừng) đổ mưa, cô ấy bảo rằng mọi người sẽ ngồi ăn ở phòng điểm danh, và các nữ tu mang đến những trò chơi kiểu như Parcheesi (dùng xúc xắc và những miếng nhựa đủ màu để di chuyển từ ngoài vào trung tâm tấm bảng theo luật) cho mọi người cùng chơi. Tôi băn khoăn không biết câu chuyện đó – cũng như chuyện ăn trưa vào hôm trời mưa – có phải là chuyện bịa không. Cee Cee đúng là kiểu con gái thích cái chuyện lừa mị một ma mới – không phải có ác ý gì, chỉ để lấy đó làm chuyện giải trí cho chính mình thôi.
“Chưa đâu,” Cee Cee đáp. “Cô ả cố quay lại với anh ta. Cứ mười phút cô ta lại gọi điện, cho đến khi mẹ anh ta bảo đừng có gọi nữa. Thế là cô ta bắt đầu gửi những lá thư, bảo rằng cô ta sẽ làm việc đó – cậu biết đấy, tự tử nếu anh ta không quay lại. Khi anh ta không trả lời, cô ta lấy khẩu 44 của bố, lái xe đến nhà Bryce và nhấn chuông.”
Adam tiếp tục kể từ điểm đó, và tôi biết bắt đầu dính đến máu me rồi đây. “Ờ,” cậu ta nói, đứng hẳn dậy để diễn đạt, dùng món Cheeto làm súng. “Gia đình Martinson đang mở tiệc đón Năm mới – đó là đêm Giao thừa mà – thế nên họ đều có nhà. Họ ra mở cửa, thấy đứa con gái điên rồ đó trên ngưỡng cửa với khẩu súng dí vào đầu. Cô ta nói nếu họ không gọi Bryce ra, cô ta sẽ bóp cò. Nhưng làm sao họ gọi Bryce được chứ, vì họ đã gửi hắn đến Antigua từ trước rồi – ”
“ – Hi vọng ánh nắng và trò lướt sóng sẽ xoa dịu tinh thần rệu rã của anh ta,” Cee Cee chêm vào, “vì cậu biết đấy, chuyện đăng ký học đại học cũng đã làm cho anh ta lo lắng đủ rồi. Anh ta đâu cần phải chịu thêm áp lực từ cái kẻ cứ bám riết đó nữa.”
Adam trừng mắt nhìn cô nàng, và tiếp tục câu chuyện, dí Cheeto vào một bên đầu. “Ờ, đó là sai lầm vĩ đại của gia đình Martinson. Khi nghe tin Bryce đã ra nước ngoài, cô ta bèn bóp cò, thổi bay phía sau đầu, tí não và của khỉ gì đó dính lên cả đèn trang trí Giáng Sinh của nhà Martinson.”
Tất cả mọi người trừ tôi đều rên lên khi nghe chi tiết đó. Tuy nhiên, tôi đang nghĩ về những thứ khác. “Cái ghế trống ở phòng điểm danh. Cái ở cạnh đứa-tên-gì-ấy-nhỉ, à Kelly. Đấy là chỗ ngồi của đứa con gái tàn đời, đúng không?”
Bernadette gật đầu. “Ừ. Chính vì thế mà bọn tớ đã nghĩ thật kỳ lạ là cậu lại bỏ qua chỗ ấy. Cứ như thể là cậu biết Heather từng ngồi đó vậy. Bọn tớ đều nghĩ có khi cậu là đứa có khả năng đặc biệt hay gì đó – ”
Tôi chẳng muốn nói cho bọn họ biết cái lý do tôi không chọn chỗ của Heather chả liên quan gì đến khả năng đặc biệt hết. Tôi không nói gì cả. Tôi nghĩ: mẹ thật tuyệt vời khi nói với tôi vì sao đột nhiên lại có một suất cho tôi, trước khi cái trường này lại quá đông và không thể nhận thêm đứa học sinh mới nào nữa.
Tôi nhìn Bryce chăm chăm. Chuyến đi đến Antigua đã mang lại cho anh ta làn da rám nắng. Anh ta ngồi bên chiếc bàn nhỏ, chân gác lên ghế, cánh tay đặt trên đầu gối, nhìn chằm chằm ra biển. Một làn gió nhẹ thổi bay một vài sợi tóc vàng nâu.
Anh ta chẳng biết gì, tôi thầm nghĩ. Anh ta chẳng biết gì hết. Anh ta cứ nghĩ cuộc sống của mình giờ đây thật tồi tệ? Cứ đợi đấy.
Anh ta không phải đợi lâu. Cô ả đến tìm anh ta ngay sau bữa trưa. Tất nhiên là anh ta chả bao giờ biết. Tôi liếc thấy cô ta trong đám đông ngay lập tức, khi mọi người tiến về phía dãy tủ để đồ. Bọn ma toả ra một vầng sáng để phân biệt với người bình thường – ơn Chúa, nếu không tôi đã chẳng thấy được sự khác biệt.
Cô ả nhìn anh ta đầy căm giận như thể cô ta là một trong những đứa trẻ tóc vàng trốn ra từ Ngôi làng bị Nguyền rủa vậy. Mọi người không biết cô ta đứng đó, cứ thế thẳng tiến xuyên qua cô ả. Tôi hơi ghen tị với họ. Ước gì đối với tôi bọn ma cũng vô hình như chúng vô hình với tất cả những người khác. Tôi biết điều đó có nghĩa là tôi không thể thích thú trò truyện với bố như trong những năm qua, nhưng mà này, thế cũng có nghĩa là tôi không phải đứng đó và biết rằng Heather sắp làm một điều khủng khiếp.
Nhưng thế không phải tôi biết cô ta sắp làm gì anh ta đâu nhé. Bọn ma đôi khi có thể trở nên cực kỳ hung ác. Cái trò mà Jesse đã làm với tấm gương chưa là cái gì đâu, thật đấy. Bọn chúng từng ném đồ vật vào người tôi mạnh đến nỗi nếu không cúi người để tránh thì chắc chắn tôi cũng đồng hội với cái bọn ấy rồi. Tôi bị những cơn chấn động và gãy hàng đống xương. Mẹ chỉ nghĩ tôi là đứa suốt ngày gặp tai nạn. Phải rồi mẹ à. Đúng vậy đấy. Tôi ngã xuống cầu thang và gãy cổ tay. Chà, còn cái lý do tôi ngã xuống cầu thang là hồn ma 300 tuổi của một tên người Tây Ban Nha đi xâm chiếm Nam Mỹ đã đẩy tôi.
Tuy thế, cái giây phút trông thấy Heather, tôi biết cô ta sắp làm chuyện xấu xa. Tôi không đoán điều đó dựa trên lần gặp trước kia với cô ta đâu nhé. Không đâu. Tôi nhìn theo hướng Heather nhìn và thấy cô ta hoàn toàn không nhắm vào Bryce. Một trong những thanh xà phía bên trên lối mà Bryce đang đi mới chính là cái thu hút sự chú ý của cô ta. Khi đứng đó, tôi thấy khúc gỗ bắt đầu rung lắc. Không phải tất cả những thanh xà trên lối đi. Ồ không. Chỉ một thanh duy nhất, nặng. Cái thanh ngay phía trên đầu Bryce.
Tôi hành động mà không suy nghĩ gì hết. Tôi tung người mạnh hết sức bình sinh về phía Bryce. Cả hai bọn tôi đều văng ra. Thế cũng may, bởi vì lúc bọn tôi đều đang lăn tròn thì tôi nghe thấy một tiếng nổ inh tai. Tôi cúi đầu để bảo vệ đôi mắt nên không thực sự nhìn thấy khúc gỗ phát nổ, nhưng tôi nghe thấy, và cũng cảm nhận thấy điều đó. Những mẩu gỗ nhỏ xíu trút xuống khiến tôi đau đớn. Thật may là tôi mặc chiếc quần bằng vải len.
Bryce nằm không động đậy bên dưới tôi đến nỗi tôi nghĩ rằng có lẽ một mẩu gỗ đã đập trúng vào giữa đầu anh ta hay sao đó. Nhưng khi tôi ngẩng mặt lên thì thấy anh ta không sao hết, chỉ nhìn chằm chằm đầy kinh hoàng về phía khúc gỗ dày 25 phân, dài gần 60 phân nằm lăn lóc cách bọn tôi không xa. Quanh bọn tôi vương vãi những mẩu gỗ văng ra từ thanh xà chính. Tôi đoán Bryce nhận ra rằng nếu khúc gỗ đó mà làm anh ta vỡ đầu thì những phần của Bryce cũng đã tung toé trên cái sàn đá đó rồi.
“Xin lỗi, xin lỗi – ” Tôi nghe thấy giọng nói lo âu của Cha Dominic và nhìn thấy ông đang dẹp đám đông những kẻ đang sững sờ để tiến tới. Ông đứng chết trân khi trông thấy khúc gỗ, nhưng khi thấy tôi và Bryce, ông trở lại như bình thường.
“Lạy Chúa nhân từ,” ông kêu lên, chạy ào đến chỗ hai đứa. “Các con có sao không? Susannah, con có bị thương không? Còn Bryce nữa?”
Tôi từ từ đứng dậy. Tôi hay phải kiểm tra xem có cái xương gãy nào không, và qua ngần ấy năm, tôi thấy rằng khi đứng lên càng chậm rãi bao nhiêu, càng dễ nhận ra phần xương gãy và càng ít có nguy cơ đè lên nó bấy nhiêu.
Nhưng trong trường hợp này hình như không có cái xương nào gãy cả. Tôi đã đứng được trên đôi chân mình.
“Trời, con chắc là con không sao đấy chứ?” Cha Dominic hỏi.
“Con không sao mà,” tôi đáp, phủi quần áo. Khắp người tôi dính đầy gỗ vụn, và đây lại là cái áo khoác hiệu Donna Karan đẹp nhất chứ. Tôi nhìn quanh tìm Heather - thề là nếu ngay lúc đó tôi mà thấy bóng dáng cô ta, nhất định tôi sẽ giết cô ta, nhất định thế… trừ khi… mà tất nhiên… cô ta đã chết sẵn rồi. Nhưng cô ả đã chuồn mất.
“Chúa ơi,” Bryce nói, tiến về phía tôi. Trông anh ta không bị thương, chỉ hơi bị chấn động một tẹo. Mà thật ra để khiến cho một tên con trai cao lớn như anh ta bị thương thì cũng khó. Anh ta cao đến 1m80 và có đôi vai rộng, một anh chàng mang dáng dấp Baldwin thực sự.
Và anh ta đang nói với tôi. Với tôi đấy!
“Lạy Chúa, em không sao chứ?” anh ta hỏi. “Cảm ơn em. Chúa ơi. Em vừa mới cứu mạng anh đấy.”
“À,” tôi đáp. “Không có gì đâu, thật đấy.” Tôi không thể cưỡng lại việc đưa tay ra gỡ một mẩu gỗ khỏi chiếc áo len anh ta đang mặc. Vải len cashmere. Đúng như tôi đoán.
“Chuyện gì xảy ra ở đây thế này?” Một người đàn ông khoác rất nhiều lớp áo thụng và đội chiếc mũ len đỏ đang dẹp đám đông tiến tới. Khi trông thấy khúc gỗ và ngước lên để xem nó rơi từ chỗ nào xuống, ông ta quay lại phía Cha Dom và nói: “Thấy chưa? Thấy chưa hả Dominic? Ông để cho những con chim quý hoá của ông làm tổ bất cứ nơi nào chúng muốn, việc này đều từ đấy mà mà ra cả đấy! Anh Ackerman đã nhắc nhở là chuyện này có thể xảy ra, giờ thì trông đấy! Anh ta đã đúng! May mà không có ai thiệt mạng!”
Vậy ra đây là Monsignor Constantine.
“Tôi thành thực xin lỗi, Monsignor,” Cha Dom nói. “Tôi không dám nghĩ lại xảy ra chuyện như thế này. Ơn Chúa không có ai bị thương.” Ông quay về phía Bryce và tôi. “Hai con đều không làm sao chứ? Tôi thấy trò Simon trông hơi nhợt nhạt. Tôi sẽ đưa trò ấy đến phòng y tế, nếu trò không phiền, Susannah. Còn các con, tất cả về lớp đi. Mọi người đều không sao cả. Chỉ là một chuyện không may thôi. Tất cả đi ngay đi.”
Thật bất ngờ, tất cả mọi người đều nghe lời Cha. Cha Dominic có khả năng như vậy đấy. Bạn sẽ nghe theo những điều ông bảo bạn làm. Ơn Chúa là khả năng ấy của ông được sử dụng vào những việc tốt chứ không phải việc xấu!
Tôi ước gì điều đó cũng đúng trong trường hợp của monsignor. Ông ta đứng ở hành lang đột ngột trở nên vắng lặng, nhìn chằm chằm vào khúc gỗ. Chỉ cần nhìn qua cũng biết nó không phải là khúc gỗ còn nguyên vẹn nhất. Khúc gỗ ấy đã cũ, nhưng nó hoàn toàn khô ráo.
“Tôi sẽ cho người vứt những cái tổ chim ấy đi, Dominic ạ,” ông ta nói một cách chua chát. “Tất cả. Chúng ta không thể nào để những nguy cơ tiềm tàng như thế được. Nếu mà chẳng may có một du khách đứng ở đây thì sao? Hoặc là tổng giám mục. Tháng sau ông ấy sẽ đến đây, ông biết rồi đấy. Nếu như Giám mục Rivera có lỡ đứng chỗ này và cái khúc gỗ ấy rơi xuống, thì sẽ thế nào hả Dominic?”
Những bà xơ đã đến từ lâu, nghe thấy tất cả những tiếng nói om sòm, nhìn Cha Dominic đáng thương đầy trách cứ đến nỗi tôi phải nói một điều gì đó. Tôi mở miệng định nói thì Cha Dominic nắm chặt lấy cánh tay tôi và bắt đầu kéo tôi đi. Ông nói: “Tất nhiên, ông hoàn toàn có lý. Tôi sẽ nhờ ban giám sát xử lý chuyện này ngay, thưa Monsignor. Chúng ta không thể để cho giám mục bị thương được. Hoàn toàn không.”
“Chúa ơi, người gì mà như cái ung nhọt!” Tôi nói, ngay sau khi chúng tôi được an toàn sau cánh cửa phòng hiệu trưởng. “Ông ta có nói đùa không vậy? Ông ta cho rằng một vài con chim có thể làm ra cái chuyện này chắc?”
Cha Dominic đi thẳng đến một chiếc tủ nhỏ có đầy những giải thưởng – sau này tôi biết được thì ra đấy là những phần thưởng trong quá trình dạy học. Trước khi được giáo khu cử giữ chức quản lý, Cha Dominic từng là một thầy giáo dạy môn sinh học khá nổi tiếng và được học sinh rất yêu mến. Ông tìm kiếm phía đằng sau của một trong những giải thưởng ấy và lôi ra một bao thuốc.
“Ta không cho rằng gọi một monsignor của nhà thờ Công giáo là cái nhọt là một việc không hề phạm thượng tí nào, Susannah,” ông nói, liếc xuống bao thuốc màu trắng pha đỏ.
“Thật may phước là con không theo Công giáo,” tôi nói. “Và Cha có thể hút một điếu nếu Cha muốn,” tôi gật đầu về phía bao thuốc trong tay ông. “Con sẽ không nói gì hết đâu.”
Ông nhìn xuống bao thuốc trong khoảng 1 phút, rồi thở dài thật sâu và cất nó về chỗ cũ. “Không,” ông nói. “Cảm ơn con, nhưng ta không nên.”
Giời. Thật tốt là tôi chưa từng thực sự dính vào cái vụ hút thuốc.
Tôi nghĩ mình nên đổi chủ đề, và tôi cúi xuống xem xét một vài phần thưởng. “Năm 1964,” tôi nói. “Cha dạy học lâu vậy.”
“Ừ.” Cha Dominic ngồi xuống phía sau chiếc bàn. “Chuyện khỉ gió gì đã xảy ra ngoài đó vậy Susannah?”
“À,” tôi nhún vai. “Là Heather đấy ạ. Con nghĩ ta đều biết lý do cô ta quanh quẩn ở đó. Cô ta muốn giết Bryce Martinson.”
Cha Dominic lắc đầu. “Chuyện này thật kinh khủng. Thật sự. Ta chưa từng thấy một… một linh hồn nào lại có cách cư xử hung bạo đến thế. Chưa bao giờ trong suốt từng ấy năm là một người liên hệ với người chết.”
“Thế ạ?” Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ. Phòng hiệu trưởng không nhìn ra biển mà trông ra ngọn đồi nơi tôi ở. “A,” tôi nói. “Ở đây Cha có thể trông thấy nhà của con đấy!”
“Con bé từng luôn luôn là một đứa ngoan ngoãn. Heather Chambers chưa từng một lần vi phạm kỷ luật trong suốt những năm học ở Trường Truyền Giáo. Điều gì lại có thể làm cho con bé căm ghét người nó từng yêu đến như thế được nhỉ?”
Tôi ngoái đầu lại nhìn ông. “Cha không đùa chứ ạ?”
“Ừ, hừm, ta biết bọn chúng đã chia tay, nhưng những cảm xúc quá khích như thế – cái việc con bé cứ muốn giết chóc. Chắc chắn như thế là rất bất thường –”
Tôi lắc đầu. “Con xin lỗi, con biết Cha đã có lời thề sống độc thân và gì đó nữa, nhưng chả lẽ Cha chưa từng yêu bao giờ? Cha không biết việc đó như thế nào ạ? Tên đó đã dội một gáo nước lạnh vào cô ấy. Cô ấy nghĩ họ sẽ làm đám cưới. Con biết là điều đó thật điền rồ, nhất là khi cô ấy mới có… ơ… 16 tuổi phải không ạ? Nhưng dù sao đi nữa anh ta đã làm vậy. Nếu như điều đó còn chưa đủ khiến một đứa con gái nổi máu giết chóc, thì con không biết liệu đó là điều gì nữa đây.”
Cha nhìn tôi trầm ngâm. “Con nói điều đó từ kinh nghiệm bản thân.”
“Ai cơ? Con ấy ạ? Không hẳn thế. Ý con muốn nói là, con cũng từng thích bọn con trai, và vân vân, nhưng chả có tên nào đáp lại.” Thật cay đắng. “Tuy vậy con có thể hình dung Heather cảm thấy thế nào khi anh ta chia tay cô ấy.”
“Như tự sát ấy à,” Cha Dominic nói. “Đúng thế. Nhưng hoá ra việc tự sát vẫn còn chưa đủ. Con bé sẽ chưa thoả mãn đâu, cho đến khi nó kéo được cậu ta đi cùng.”
“Chuyện này thật kinh khủng,” Cha Dominic nói. “Thật sự, thật sự kinh khủng. Ta đã nói chuyện với nó đến rát cổ bỏng họng, mà nó vẫn không nghe. Và rồi vào đúng ngày đầu tiên đi học lại thì chuyện này xảy ra. Ta sẽ phải bảo cậu ta ở nhà cho đến khi chúng ta giải quyết xong chuyện này mới được.”
Tôi cười. “Cha sẽ làm việc đó thế nào? Nói rằng cô bạn gái đã chết của anh ta đang cố giết anh ta ấy ạ? Ồ vâng, thế thì chuyện này sẽ khiến monsignor vui đây.”
“Không hề.” Cha Dominic mở một ngăn kéo và bắt đầu lục lọi. “Bằng một ít tài khéo léo, trò Martinson sẽ nghỉ học trong một hay hai tuần.”
“Ôi, không!” Tôi cảm thấy tái cả mặt. “Cha định đầu độc cậu ta ạ? Con tưởng cha là một linh mục chứ! Việc đó chẳng phải đã bị cấm hay sao?”
“Đầu độc á? Không, không đâu Susannah ơi. Ta định cho cậu ta một ít chấy rận thôi mà. Bà y tá kiểm tra mỗi học kỳ một lần. Ta biết rồi cậu trẻ Martinson sẽ gặp rắc rối đây –”
“Ôi trời!” Tôi ré lên. “Kinh quá! Cha không thể cho chấy lên đầu cậu ấy được!”
Cha Dominic ngẩng lên khỏi ngăn kéo. “Sao lại không chứ? Việc đó phục vụ cho mục đích của chúng ta mà. Giữ cậu ta tránh xa khỏi nguy hiểm đủ lâu để ta và con nói chuyện phải quấy với trò Chambers, và – ”
“Cha không thể cho chấy lên đầu cậu ta được đâu,” tôi nhắc lại, một cách mạnh mẽ hơn cần thiết, có lẽ vậy. Tôi không hiểu sao mình lại phản đối ý kiến đó đến như thế, trừ cái việc… hừm… cậu ta có mái tóc rất đẹp. Tôi có cơ hội được nhìn mái tóc ấy gần hơn khi cả hai bọn tôi lăn lộn trên đất. Một mái tóc xoăn trông mềm mại, tôi có thể tưởng tượng ngón tay mình lùa qua mái tóc ấy. Cái ý nghĩ về những con bọ bò lổm ngổm trên mái tóc ấy làm tôi kinh cả người. Bài hát của bọn trẻ con thế nào ấy nhỉ?
Anh nhìn sâu vào đôi mắt em
Em biết làm gì đây nếu không kéo dài khoảnh khắc ấy
Em đưa tay vuốt mái tóc êm
Và một con bọ cắn ngón tay em.
“Eo, kinh,” tôi nói, ngồi lên bàn. “Cha cứ từ từ vụ chấy rận được không ạ? Để con đối phó với Heather. Cha bảo là Cha đã nói chuyện với cô ta trong bao lâu cơ? Một tuần ạ?”
“Từ đầu năm mới này,” Cha Dominic nói. “Phải. Đó là lần đầu con bé xuất hiện ở đây. Giờ ta hiểu là nó chỉ đợi có Bryce thôi.”
“Vâng. Được rồi, Cha cứ để con lo chuyện này. Có lẽ cô ta cần người tâm sự chuyện con gái với nhau.”
“Ta không biết nữa.” Cha Dominic trông tôi có vẻ nghi ngờ. “Ta thật sự thấy là con hơi có thiên hướng đối với… ờ… đối với việc sử dụng vũ lực. Vai trò của một người thương thuyết với hồn ma không cho phép dính dáng đến bạo lực, Susannah ạ. Con phải là người giúp đỡ những linh hồn gặp chuyện không may, chứ không phải làm tổn thương họ.”
“Sao ạ? Lúc nãy Cha có ở đó không vậy? Cha nghĩ là con chỉ cần phải đứng nói với khúc gỗ đó là đừng có làm vỡ sọ anh ta thôi là đủ ấy ạ?”
“Dĩ nhiên là không. Ta chỉ nói là nếu con có động lòng trắc ẩn một tí thì –”
“Thưa Cha, con có thừa lòng trắc ẩn ấy chứ. Con rất đau lòng thay cho cô gái đó, thật đấy ạ. Nhưng đây là trường của con. Cha hiểu chứ? Của con. Không còn là của cô ta nữa. Cô ta đã có sự lựa chọn cho chính mình, giờ thì cô ta lại quanh quẩn ở đây. Và con sẽ không để cho cô ta kéo theo Bryce – hay bất cứ ai khác – theo cô ta đâu.”
“Ờ.” Cha Dominic trông có vẻ hoài nghi. “Ờ… nếu con chắc vậy…”
“Ôi, con chắc mà.” Tôi nhảy khỏi chiếc bàn. “Cha cứ để con lo, được chứ ạ?”
Cha Dominic nói: “Được rồi.” Nhưng ông nói có vẻ hơi nhỏ, tôi nhận thấy thế. Tôi phải nhờ ông viết cho một cái giấy cho phép để về lớp mà không gặp rắc rối bởi một trong số những bà xơ nào đó. Tôi đang chờ cho đến lúc một trong số họ – cái người có mặt cứ nhăn nhăn nhó nhó – xong cái việc nghiên cứu kỹ lưỡng tờ giấy phép ấy trước khi để cho tôi đi tiếp, thì một cánh cửa đề PHÒNG Y TÁ mở ra, và Bryce cũng bước ra với một tờ giấy phép.
“Này,” tôi không thể không hỏi. “Chuyện gì vậy ạ? Có phải cô ta – à, em muốn nói là, có phải lại có chuyện gì đó không ạ? Anh có bị thương không?”
Anh ta cười hơi ngượng ngùng. “Không đâu. Nếu không tính cái dằm tồi tệ găm dưới ngón tay cái. Anh cố phủi hết những vụn gỗ trên người, em biết đấy, và một mảnh găm vào dưới này, rồi – ” Anh ta giơ bàn tay phải lên. Ngón tay cái của anh ta được cuốn bằng một dải băng, to đùng.
“Í ẹ,” tôi nói.
“Anh biết.” Trông anh ta có vẻ ảm đạm. “Bà ấy còn bôi cả thuốc đỏ nữa. Anh ghét cái thứ đó.”
“Trời ạ,” tôi nói. “Anh có một ngày thật thảm hại.”
“Cũng không hẳn đâu,” anh ta nói, hạ ngón tay xuống. “Hay ít nhất thì cũng không tệ bằng việc nếu em không ở đây hôm nay. Nếu không nhờ có em thì anh đã chết rồi.” Anh ta thấy tôi đi ra từ cánh cửa đề PHÒNG HIỆU TRƯỞNG, và hỏi: “Em không gặp rắc rối gì chứ?”
“Không,” tôi đáp. “Cha Dominic chỉ muốn em điền vào một số giấy tờ thôi mà. Em là học sinh mới, anh biết đấy.”
“Và là một học sinh mới,” bà xơ nghiêm khắc nói, “em cũng phải biết rằng không được phép la cà ở hành lang. Cả hai em nên về lớp đi.”
Tôi nói xin lỗi và lấy lại tờ giấy. Bryce hào hiệp chỉ cho tôi lớp học vào tiết sau, và bà xơ bỏ đi có vẻ hài lòng. Ngay khi bà ta đi khỏi tầm nghe, Bryce nói: “Em tên là Suze phải không? Jake đã kể cho anh nghe về em. Em là em gái mới của cậu ta, chuyển đến từ New York.”
“Vâng, đúng vậy,” tôi nói. “Còn anh là Bryce Martinson.”
“Ơ, Jake cũng kể về anh rồi à?”
Tôi suýt nữa thì cười ầm lên với cái ý tưởng Ngái Ngủ lại đi kể lể một chuyện gì đó. Tôi nói: “Không ạ, không phải Jake.”
Anh ta nói “Oh,” bằng một giọng buồn đến nỗi tôi gần như cảm thấy thương cho anh ta. “Chắc là mọi người cũng bàn tán về anh đúng không?”
“Có tí chút.” Tôi nói liều. “Em rất tiếc về chuyện xảy ra với bạn gái anh.”
“Anh cũng vậy, thật đấy.” Nếu anh ta nổi cáu vì tôi lôi cái chuyện đó ra nói thì cũng chưa biết thế nào được. “Anh thậm chí còn chẳng muốn quay về nơi này sau khi… em biết đấy. Anh cố xin chuyển đến trường RLS, nhưng hết chỗ mất rồi. Ngay cả trường công lập cũng chẳng muốn nhận anh. Chẳng dễ dàng gì để chuyển đi khi mà còn học có mỗi một học kỳ nữa thôi. Anh chẳng hề muốn quay lại học, chỉ trừ… em biết đấy. Các trường đại học muốn em phải tốt nghiệp phổ thông trước khi nhận em vào học.”
Tôi cười. “Em có biết.”
“Dù sao đi nữa.” Bryce thấy tôi đang cầm áo khoác – tôi cứ phải lê la nó theo suốt vì không thể sử dụng được tủ đồ, cánh cửa đã bị lõm vào vĩnh viễn, không mở được khi tôi đánh Heather va vào nó – và nói: “Có cần anh cầm giúp không?”
Quá choáng trước cử chỉ lịch sự này đến nỗi chả cần suy nghĩ, tôi nói luôn: “Vâng,” và đưa áo cho anh ta. Anh ta vắt nó qua cánh tay và nói: “Vậy là, anh đoán mọi người hẳn phải đổ lỗi cho anh về chuyện đã xảy ra. Với Heather, ý anh là vậy.”
“Em không nghĩ vậy,” tôi đáp. “Nếu có thì mọi người đổ lỗi cho Heather vì chuyện xảy ra với Heather chứ.”
“Ừ,” Bryce nói, “nhưng anh muốn nói là, anh đã đẩy cô ấy đến chỗ phải làm thế, em biết mà. Đấy mới là vấn đề. Giá như anh đừng có chia tay cô ấy –”
“Anh đánh giá mình hơi bị quá cao đấy nhỉ?”
Anh ta có vẻ sững lại. “Gì cơ?”
“Thế này nhé, anh cho rằng cô ta tự sát là vì anh chia tay cô ta. Em thì nghĩ đấy hoàn toàn chẳng phải là lý do để cô ta tự sát. Cô ta tự sát vì cô ta là một kẻ bệnh hoạn. Anh chẳng có dính dáng gì tới việc khiến cho cô ta làm thế cả. Việc chia tay có khi chỉ là chất xúc tác cho việc cô ta suy sụp lần cuối thôi, nhưng cũng có thể do những cuộc khủng hoảng khác trong cuộc sống của cô ta – cha mẹ cô ta ly hôn, cô ta không vào được đội cổ vũ, con mèo của cô ta chết. Bất cứ việc gì đi chăng nữa. Vì thế đừng quá khắt khe với bản thân.” Chúng tôi đến cửa lớp – dạy môn hình học, tôi đoán thế, giáo viên là xơ Mary Catherine. Tôi quay qua anh ta và lấy lại chiếc áo khoác.
“Đến lớp em rồi. Cảm ơn anh đã đi cùng.”
Anh ta nắm lấy một ống tay áo khoác. “Này em,” anh ta nói, nhìn tôi. Thật khó để nhìn thấy đôi mắt anh ta – bên dưới lối đi khá tối do sấp bóng mặt trời. Nhưng tôi nhớ khi chúng tôi ngã xuống thì tôi thấy mắt anh ta màu xanh biển. Một màu xanh rất đẹp. “Nghe này,” anh ta nói. “Tối nay để anh mời em đi chơi nhé. Để cảm ơn em đã cứu anh, và nhiều nữa.”
“Cảm ơn anh,” tôi đáp, kéo lại chiếc áo. “Nhưng em có việc mất rồi.” Tôi không nói thêm là những việc của tôi có liên quan đến anh ta theo một cách nhã nhặn nhất.
“Thế thì tối mai nhé,” anh ta nói, vẫn nắm lấy áo khoác của tôi.
“Anh nghe này,” tôi nói. “Em không được đi chơi vào buổi tối những ngày thường.”
Tất nhiên điều này không đúng. Trừ cái thực tế là có vài lần cảnh sát dẫn độ tôi về nhà, còn lại thì mẹ hoàn toàn tin tưởng tôi. Nếu tôi muốn đi chơi với một anh chàng vào buổi tối những ngày thường, mẹ sẽ cho phép. Vấn đề là, chuyện này chưa từng xảy ra, chưa có một anh chàng nào mời tôi đi chơi hết, kể cả vào ngày thường hay bất kỳ ngày nào khác.
Tôi đâu phải là đứa không ra gì. Ý tôi là, tôi không phải Cindy Crawford, nhưng cũng không phải đứa hạ dân. Tôi nghĩ vấn đề thực sự là ở chỗ, ở trường cũ, tôi toàn bị coi là một đứa quái đản. Đứa con gái toàn mất thời gian nói chuyện với chính mình và gặp rắc rối với cảnh sát.
Đừng giận nếu tôi nói thế này. Thỉnh thoảng khi có mấy tên con trai mới chuyển đến, chúng có vẻ để ý đến tôi… nhưng chỉ đến khi có ai đó quen tôi làm cho chúng mở mắt ra thôi. Rồi chúng sẽ tránh tôi như tránh một thứ bệnh dịch hay gì đó.
Bọn con trai ở East Coast. Chúng thì biết gì chứ?
Nhưng giờ tôi có cơ hội bắt đầu lại từ đầu, với những đứa con trai chẳng biết gì về những chuyện trong quá khứ của tôi - hừm, trừ có Ngái Ngủ và Ngu Ngơ, và tôi không tin là họ sẽ nói ra, bởi chẳng ai trong 2 người đó là người mà bạn có thể nói là… biết sử dụng từ ngữ cả.
Hiển nhiên là chẳng ai trong số 2 người đó đã nói cho Bryce, vì những từ cuối cùng anh ta nói ra là: “Vậy cuối tuần này nhé. Em định làm gì vào tối thứ Bảy?”
Tôi không chắc đấy là ý hay khi hẹn hò với một tên con trai có cô bạn gái đã chết đang nhăm nhăm cố sát hại anh ta. Tôi muốn nói là, nếu cô ta phát hiện ra và xử tôi về tội đó thì sao nhỉ? Tôi chắc chắn rằng Cha Dominic sẽ nghĩ là chuyện này không ổn cho lắm, việc tôi đi chơi với Bryce ấy mà.
Nhưng mà này, một đứa con gái như tôi đây được một anh chàng cực kỳ nổi như Bryce Martinson mời đi chơi, chuyện này có phải thường xuyên xảy ra đâu nhỉ?
“Vâng,” tôi nói. “Vậy thì thứ Bảy. Đón em lúc 7 giờ nhé?”
Anh ta cười. Anh ta có hàm răng thật đẹp, trắng và đều tăm tắp. “7 giờ,” anh ta nói và buông áo khoác của tôi ra. “Hẹn gặp em vào hôm đó. Nếu như không phải sớm hơn.”
“Tạm biệt.” Tôi vẫn đứng đó, tay đặt trên cửa lớp học hình học của xơ Mary Catherine. “À, Bryce này.”
Anh ta bắt đầu đi về phía lớp học. “Ừ?”
“Cẩn thận nhé.”
Tôi nghĩ là anh ta nháy mắt với tôi, nhưng trong bóng tối thì cũng khó nói chắc cho lắm.
Khi tôi leo lên chiếc Rambler vào cuối ngày, Tiến Sỹ tấn công tôi. "Mọi người đều đang bàn tán về chuyện đấy!" nó gào lên, nhảy loi choi trên ghế. "Ai ai cũng thấy hết! Chị đã cứu mạng anh ấy! Chị đã cứu Bryce Martinson!"
"Chị chẳng cứu sống anh ta," tôi nói, bình thản xoay lại chiếc gương bên để ngắm lại mái tóc. Hoàn hảo. Những ngọn gió mang mùi muối chắc chắn cũng phải đồng tình.
"Chị đã làm vậy. Em trông thấy khúc gỗ to đùng đấy mà. Nếu nó mà rơi trúng đầu anh ấy thì anh ấy đã chết rồi! Chị đã cứu anh ấy! Đúng vậy đấy."
"Ờ." Tôi thoa chút son bóng lên môi. "Chắc vậy."
"Chúa ơi, chị mới đến trường Truyền Giáo được có một ngày, thế mà ngay lập tức trở thành người nổi nhất trường rồi cơ đấy!"
Tiến Sỹ hoàn toàn chẳng giữ được bản thân nữa. Đôi lúc tôi nghĩ chẳng biết có phải là do chất Ritalin không. Không phải tôi không thích thằng nhóc. Thực ra, tôi khoái nó nhất trong số mấy tên con trai của dượng Andy, điều đó cũng chẳng nói lên được gì nhiều nhặn lắm, nhưng đối với tôi thì tất cả mới chỉ có vậy. Đêm hôm trước, chính thằng nhóc mò sang phòng tôi trong khi tôi đang băn khoăn xem ngày mai mình mặc bộ quần áo nào đến trường, gương mặt thằng nhóc trông nhợt nhạt và nó hỏi tôi xem tôi có muốn đổi phòng với nó không.
Tôi nhìn nó cứ như thể nó không bình thường vậy. Tiến Sỹ có một căn phòng khá đẹp, nhưng chỉ có thế thôi, cho tôi xin đi. Từ bỏ phòng tắm riêng và cảnh biển ấy à? Không đời nào nhé. Không, kể cả khi điều đó cũng có nghĩa là tôi thoát khỏi tên cùng phòng bất đắc dĩ, Jesse ấy, cái kẻ mà tôi không còn thấy bóng dáng đâu kể từ khi bị tôi đuổi cổ ra ngoài.
"Lý do quái gì mà em nghĩ là chị lại muốn đổi phòng chứ hả?" Tôi hỏi.
Tiến Sỹ nhún vai. "Chỉ là… ờ…căn phòng này có vẻ kỳ quái, chị có thấy thế không?"
Tôi nhìn nó chằm chằm. Bạn phải trông thấy phòng tôi lúc ấy cơ. Chiếc đèn bên cạnh giường đang bật, toả ánh sáng hồng lên khắp mọi nơi, chiếc CD player đang phát nhạc của Janet Jackson - đủ lớn để khiến mẹ phải gào lên đến 2 lần, bắt tôi vặn nhỏ xuống - thế mà có người lại dám gọi phòng tôi là kỳ quái cơ đấy. "Kỳ quái ấy hả?" tôi gào lên, nhìn khắp phòng. Không có dấu hiệu nào của Jesse. Không có dấu hiệu nào của bất kỳ con ma nào hết. Chắc chắn là mọi thứ hoàn toàn bình thường. "Kỳ quái chỗ nào cơ chứ?"
Tiên Sỹ cắn môi. "Đừng nói với bố em nhé," nó nói, "nhưng em đã tìm hiểu rất nhiều về ngôi nhà này, và đi đến một kết luận – khá chắc chắn – là nó đã bị ma ám."
Tôi chớp mắt nhìn gương mặt nhỏ nhắn đầy tàn nhang, nhận ra rằng thằng nhóc đang nói nghiêm chỉnh. Rất nghiêm chỉnh, lời tiếp theo của nó chứng tỏ điều đó.
"Mặc dù các nhà khoa học hiện đại đã khám phá được phần lớn những cái được gọi là hiện tượng siêu nhiên trên đất nước này, còn có rất nhiều những bằng chứng chứng tỏ rằng trên đời vẫn còn tồn tại những hiện tượng ma quái. Nghiên cứu của riêng em về ngôi nhà cho đến nay chưa đầy đủ để chứng tỏ rằng có sự tồn tại của linh hồn, ví dụ như cái gọi là vùng lạnh lẽo (*). Nhưng dù gì đi chăng nữa, thì chắc chắn là có sự thay đổi bất thường nhiệt độ trong căn phòng này, chị Suze ạ, và nó khiến cho em tin rằng nơi này có lẽ chịu ít nhất là một phạm vi ảnh hưởng của bạo lực dã man – thậm chí có thể còn là một vụ giết người nữa – và rằng những tàn dư của nạn nhân – hay chị gọi là linh hồn cũng được - vẫn còn lảng vảng ở đấy, có lẽ đang chờ mong trong vô vọng để tìm lại công lý cho cái chết yểu của mình."
Tôi phải dựa hẳn vào một cái cột giường, nếu không thì chẳng lăn đùng ra mất thôi. "Giời," tôi nói, cố gắng giữ cho giọng mình bình thường. "Cách hay để làm cho con gái thấy thoải mái đấy nhỉ?"
(cont.)
***
Chú thích tí teo: Vùng lạnh lẽo (Cold spot): những nơi có nhiệt độ thấp hay giảm đột ngột mà không giải thích được, thường được cho là do những hiện tượng siêu tự nhiên gây nên.
Tiến Sỹ trông có vẻ bối rối. "Em xin lỗi," nó nói, tai bắt đầu chuyển sang đỏ. "Lẽ ra em không nên nói gì hết thì hơn. Em có kể với Jake và Brad, họ bảo em bị thần kinh. Có lẽ đúng thế thật." Nó thở dài đầy can đảm. "Nhưng em nghĩ, là một người đàn ông, em có trách nhiệm đề nghị đổi phòng cho chị. Chị thấy đấy, em chả sợ gì hết."
Tôi mỉm cười với thằng bé, cơn sốc vừa qua bỗng chốc trào dâng thành một tình cảm yêu thương vô bờ bến. Thằng bé thực sự làm cho tôi xúc động. Bạn có thể thấy nó đã phải lấy hết can đảm để đưa ra lời đề nghị đó. Nó thực sự, thực sự tin rằng căn phòng của tôi bị ma ám, bất chấp tất cả những hiểu biết về khoa học nó có, thằng bé sẵn sàng chấp nhận hi sinh bản thân mình vì tôi, hơn cả một tấm lòng hào hiệp bẩm sinh. Bạn cũng sẽ yêu quý thằng bé cho mà xem. Chắc chắn là như vậy.
"Được rồi, Tiến Sỹ à," tôi nói, một cơn sóng uỷ mị trào dâng khiến tôi quên mất, gọi béng thằng bé bằng cái tên riêng tôi tự đặt cho nó. "Chắc là chị cũng xử lý tốt bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào diễn ra quanh đây thôi."
Nó có vẻ không bận tâm lắm đến cái tên đó. Nó nói, rõ ràng là nhẹ nhõm hẳn: "Vâng, nếu chị thực sự không thấy có vấn đề gì – "
"Không, không sao đâu mà. Nhưng chị muốn hỏi em một câu," tôi hạ giọng xuống, đề phòng trường hợp Jesse còn lảng vảng đâu đó. "Trong khi tìm hiểu, em đã khám phá được tên của cái kẻ đáng thương mà hồn của hắn đang ở chung phòng với chị chưa?"
Tiến Sỹ lắc đầu. "Thật ra, chắc chắn là em có thể tìm được để nói cho chị biết nếu chị thực sự muốn. Em có thể lục lọi trong thư viện. Ở đó người ta giữ tất cả báo chí trong vùng kể từ khi xuất bản tờ đầu tiên, không lâu sau khi ngôi nhà này được xây. Chúng ở dạng phim, nhưng chắc chắn nếu em có thời gian tìm thì –"
Có vẻ hơi buồn cười khi một đứa trẻ con dành toàn bộ thời gian lục lọi trong cái tầng hầm thư viện tối mù để tìm những tấm phim chụp, thế mà chỉ cách đó có 1, 2 toà nhà thôi lại là một bãi biển tuyệt đẹp. Nhưng mà này, nó tự chọn đấy chứ.
Thế nhưng "Tuyệt cú mèo," tôi lại đáp vậy đấy.
Giờ tôi có thể thấy rằng việc Tiến Sỹ yêu mến tôi có nguy cơ trở nên quá đà. Trước tiên tôi tình chuyện ở trong một căn phòng bị đồn là ma ám, rồi tôi đến trường và cứu mạng Bryce Martinson. Tiếp theo là gì nữa đây?
"Nghe này," tôi nói trong khi Ngái Ngủ đang vật lộn với cái khoá xe mà rõ ràng là không có vẻ gì là hoạt động sau lần thử đầu tiên. "Chị chỉ làm cái điều mà ai cũng làm nếu có đứng gần đó thôi mà."
"Anh Brad cũng đứng ngay gần đó," Tiến Sỹ nói, "nhưng anh ấy có làm gì đâu?"
Ngu Ngơ nói: "Vì Chúa, anh không trông thấy cái khúc gỗ ngu ngốc đó, được chưa? Nếu nhìn thấy thì anh cũng đã đẩy anh ta ra rồi. Khỉ ạ!"
"Ờ phải, nhưng mà anh có thấy đâu nào. Chắc là anh đang quá bận ngắm Kelly Prescott chứ gì?"
Câu này làm cho Tiến Sỹ ăn một cú vào cánh tay. "Im ngay, David," Ngu Ngơ nói. "Em thì biết cóc gì."
"Tất cả tụi bây im đi thì có," Ngái Ngủ nói, gắt gỏng bất thường. "Nếu tụi bây không làm cho tao mất tập trung nãy giờ thì cái xe chết tiệt này đã khởi động được rồi. Brad, thôi đánh David đi, David, đừng có hét vào tai anh nữa, còn Suze, nếu em không bỏ cái đầu vĩ đại ra khỏi cái gương thì anh sẽ không nhìn thấy ta đang đi đến cái chỗ quái nào hết đâu. Chết tiệt, không thể đợi đến khi mua con Camaro nữa!"
Điện thoại reng sau bữa tối. Mẹ phải gào to lên tận cầu thang tôi mới nghe thấy vì lúc đấy tôi đang đeo headphone. Dù là ngày đầu tiên của học kỳ mới nhưng tôi đã có hàng đống bài tập về nhà, nhất là môn Hình học. Ở trường cũ tôi mới học đến chương 12. Bọn học sinh năm thứ 2 trung học ở Trường Truyền Giáo thì đã học chương 12 rồi. Tôi biết nếu không cố mà theo thì toi đời là cái chắc.
Khi tôi xuống nghe điện, mẹ đã cực kỳ cáu tiết vì tội tôi bắt mẹ phải gào lên - mẹ phải giữ giọng để làm việc - đến nỗi mẹ chẳng thèm nói tôi biết ai đang đợi. Tôi nhấc ống nghe và nói: "Alô?"
Im lặng, rồi giọng Cha Dominic vang lên. "Alô, Susannah đấy à? Có phải con không? Ta xin lỗi vì làm phiền con ở nhà, nhưng ta đã suy nghĩ kỹ rồi và ta thực sự cho là – đúng thế, ta thực sự cho là chúng ta phải hành động ngay. Ta không thể không nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra với Bryce tội nghiệp nếu con không có ở đó."
Tôi liếc ra đằng sau. Ngu Ngơ đang chơi Coolboarders với bố - người duy nhất trong nhà nhường cậu ta phần thắng - mẹ tôi đang làm việc với máy tính, Ngái Ngủ thì đi làm thay cho người giao pizza nào đó mới gọi điện báo bị ốm, còn Tiến Sỹ thì đang ngôi trong phòng ăn nghiên cứu đề tài khoa học nộp vào tận tháng Tư.
"À," tôi nói. "Thưa Cha, con không thể nói chuyện ngay lúc này được."
"Ta biết," Cha Dom nói. "Đừng lo – ta đã nhờ một bà xơ bảo rằng muốn nói chuyện với con. Mẹ con nghĩ chỉ là một người bạn mới ở trường thôi. Nhưng cái quan trọng là, Susannah à, chúng ta phải làm một điều gì đó thôi, và ta nghĩ là nên làm vào tối nay – "
"Cha này," tôi nói. "Cha đừng lo chuyện đó. Con thu xếp xong xuôi hết rồi."
Giọng Cha Dom đầy ngạc nhiên. "Thế à? Thật thế à? Cách nào? Con làm cách nào để mọi thứ ổn thoả?"
"Cha đừng bận tâm. Nhưng con lo xong rồi. Mọi thứ rồi sẽ ổn cả thôi. Con hứa đấy."
"Ờ, phải, thật tốt khi hứa mọi chuyện sẽ ổn thôi, nhưng ta thấy con hành động thế nào rồi, Susannah ạ, và ta không thể nói là ta rất ấn tượng với cách con làm được đâu. Tháng nữa là Giám mục đến rồi, ta không thể -"
Cuộc gọi chờ đột ngột reo. Tôi nói, "Cha chờ một tí. Con có một cuộc gọi khác nữa." Tôi chuyển máy và nói: "Gia đình Ackerman và Simon đây."
"Suze đấy à?" Giọng con trai mà tôi chẳng nhận ra.
"Vâng…"
"A, chào em. Anh Bryce đây. Thế nào. Mọi chuyện sao rồi?"
Tôi nhìn mẹ. Mẹ đang cau mày trước câu chuyện đang đọc. "À," tôi nói. "Không có gì nhiều nhặn đâu. Anh chờ một lát được không Bryce? Em đang nói chuyện với một người nữa ở đường dây khác."
"Không sao," Bryce đáp.
Tôi chuyển sang đường dây nói chuyện với Cha Dominic. "Xin chào," tôi nói, cẩn thận không nói tên. "Con phải cúp máy. Mẹ có một vị khách rất quan trọng đang chờ nói chuyện. Một Thượng nghị sĩ. Thượng nghị sỹ quốc gia." Chắc tôi phải xuống địa ngục vì nói thế - nếu quả thực có cái nơi đó – nhưng tôi cũng không thể nói với Cha Dominic một sự thật: tôi đang hẹn hò với bạn trai cũ của con ma.
"Ờ, không sao," Cha Dominic nói. "Ta - ờ, nếu con đã có kế hoạch rồi – "
"Con có mà. Cha đừng lo. Không có chuyện gì phá hỏng cuộc viếng thăm của giám mục được đâu. Chào Cha." Tôi tắt và chuyển sang đường dây với Bryce. "À, chào anh. Em xin lỗi bắt anh đợi. Có việc gì thế ạ?"
"À, không có gì đâu. Anh chỉ nghĩ về em thôi mà. Em muốn làm gì vào thứ 7? Anh muốn hỏi là, em muốn đi ăn tối hay xem phim, hay là cả hai?"
Lại có một cuộc gọi khác. Tôi nói, "Bryce, em rất xin lỗi, nhiều người gọi quá, anh chờ một lát nhé. Cảm ơn anh. Alô?"
Một giọng con gái tôi chưa từng nghe bao giờ. "Xin chào, có phải Suze đấy không?"
"Tôi đây."
"A, chào Suze. Mình là Kelly đây. Kelly Prescott cùng lớp điểm danh ấy mà. Này, mình muốn nói với cậu là - việc cậu làm hôm nay với Bryce thật có nghĩa khí. Ý mình muốn nói là, trong đời mình chưa từng thấy hành động nào dũng cảm đến thế. Lẽ ra người ta phải đưa tin về cậu rồi chứ. Nhân tiện, thứ 7 này mình có một vụ tụ tập nho nhỏ - không có gì nhiều nhặn đâu, chỉ là tiệc ở bể bơi thôi mà, bố mẹ mình sẽ đi vắng, nhà mình lại có bể bơi nước nóng - thế nên nếu cậu muốn thì cậu ghé qua chơi nhé."
Tôi đứng như trời trồng ở đó, tay cầm điện thoại. Kelly Prescott, đứa con gái giàu nhất, xinh nhất trong số bọn năm 2 mời tôi đến bữa tiệc bể bơi vào buổi tối cái ngày tôi đi chơi cùng với anh chàng hấp dẫn nhất trường, người tình cờ cũng đang ở một đường dây khác.
"Ừ, chắc chắn rồi Kelly à," tôi nói. "Mình thích lắm. Mà Brad có biết chỗ không nhỉ?"
"Brad nào?" Kelly hỏi. Rồi sau đó: "À, Brad. Phải rồi, cậu ta là anh em con dượng của cậu hay gì đó, phải không nhỉ? Ờ, được, cứ rủ cậu ta. Nghe này – "
"Mình muốn nói chuyện lắm, Kelly ạ, nhưng có người đang chờ ở đường dây khác. Ngày mai mình nói chuyện với cậu ở trường nhé?"
"Ồ, được chứ. Bye."
Tôi chuyển về Brad, bảo anh ta chờ thêm một tí, lấy tay che ống nói và hét lên: "Này Brad, thứ 7 này tiệc bể bơi nhà Kelly nhá. Có đi thì đi."
Ngu Ngơ đánh rơi luôn cái điều khiển. "Không phải thế chứ!" cậu ta hét lên sung sướng. "Không thể có chuyện quái đó chứ!"
"Này!" dượng Andy cốc đầu cậu ta. "Ăn nói cẩn thận."
Tôi quay lại với Bryce. "Đi ăn tối cũng tuyệt," tôi nói. "Gì cũng được trừ thực phẩm tự nhiên."
Bryce nói: "Hay quá! Anh cũng ghét đồ ăn tự nhiên. Chả có cái gọi là thịt ngon, em biết đấy, với một ít khoai tây, một ít nước thịt – "
"Ờ, phải. Bryce này, em lại có cuộc gọi chờ, em rất xin lỗi nhưng em không thể nói chuyện được. Mai em sẽ nói chuyện với anh ở trường."
"Ờ, được thôi." Bryce có vẻ hơi sững sờ. Tôi đoán mình là đứa con gái đầu tiên trả lời các cuộc gọi chờ trong khi đang nói chuyện với anh ta. "Tạm biệt Suze. Và, ờ, cảm ơn em một lần nữa."
"Không có gì đâu ạ." Tôi ấn nút nhận cuộc gọi.
"Alô?"
"Suze! Cee Cee đây!"
Và tôi nghe thấy tiếng Adam hét kèm: "Cả tớ nữa!"
"Này bồ tèo," Cee Cee nói, "bọn mình sắp đến Clutch. Muốn bọn này đón không? Adam có bằng lái rồi đấy."
"Mình có quyền hợp pháp rồi!" Adam hét vào cái điện thoại.
"Clutch ấy à?"
"Ừ, quán café Clutch, trên phố ấy mà. Cậu uống được café, đúng không? Ý mình là, cậu là dân New York đúng không?"
Tôi phải nghĩ cái đã. "À, ờ. Vấn đề là – mình có việc mất rồi."
"Ôi, thôi đi mà. Cậu định làm gì chứ? Giặt quần áo chắc? Mình muốn nói là, cậu là người hùng vĩ đại và có lẽ chẳng có thời gian đâu cho lũ thảo dân như bọn mình - nhưng mà -"
"Mình vừa mới viết xong bài luận cả ngàn từ về trận chiến Bladensburg cho thầy Walden," tôi đáp. "Mà mình còn có cả đống bài toán Hình phải làm nếu muốn theo kịp lũ thiên tài các cậu đấy."
"Ôi, giời ạ," Cee Cee nói. "Được rồi. Nhưng phải hứa trưa mai cậu ngồi ăn cùng với bọn này đấy nhé. Bọn này muốn nghe cậu kể chuyện cậu áp sát vào người Bryce ra sao, cậu cảm thấy thế nào, tất tần tật."
"Mình không muốn nghe đâu đấy!" Adam tuyên bố, có vẻ kinh hoàng.
Tôi xoa dịu cô nàng và nói rằng tôi sẽ không hé răng gì hết và cúp máy. Rồi tôi liếc xuống cái máy điện thoại. Nó không kêu nữa, thật nhẹ cả người. Tôi vẫn không thể tin nổi. Chưa bao giờ trong đời tôi lại nổi tiếng đến thế. Thật là quái dị.
Tất nhiên là tôi nói dối về đống bài tập. Bài luận tôi xong rồi, mà tôi cũng đã xem xong hai chương của môn Hình - tất cả xong trong một tối. Sự thật là, tôi có một việc nhỏ cần làm, và tôi đã chuẩn bị được tí chút rồi.
Làm một người giao tiếp với hồn ma thì cũng chẳng cần nhiều đồ cho lắm. Ý tôi là mấy thứ kiểu như thánh giá hay nước thánh thì chắc là cũng cần phải có để giết một con ma cà rồng - và có thể nói ngay với bạn là chưa bao giờ trong đời tôi gặp một con ma cà rồng nào hết, thế mà tôi từng dành vô khối thời gian lang thang trong nghĩa địa đấy - nhưng đối với bọn ma thì phải tuỳ cơ mà ứng biến thôi.
Đôi khi, để công việc được suôn sẻ, bạn phải biết đập phá và đột nhập nữa kìa. Thế thì sẽ cần vài dụng cụ. Tôi thực lòng khuyên bạn nên dùng những thứ có sẵn ngay tại trận để khỏi phải mang vác lỉnh kỉnh. Nhưng tôi cũng phải có cái đai dụng cụ để dắt lưng sẵn đèn pin, vài cái tuốc nơ vít, vài cái kìm, và mấy thứ khác nữa, cái đai ấy tôi đeo ngoài quần legging đen. Lúc đấy khoảng nửa đêm, tôi đang thắt chặt cái đai quanh mình, yên chí là mọi người trong nhà đã ngủ hết, kể cả Ngái Ngủ - từ quán pizza trở về nhà khoảng lúc 10 giờ - khoác lên mình chiếc áo da đen thì có một chuyến viếng thăm của người quen cũ - bạn-biết-là-kẻ-nào-đấy.
"Giời ạ," tôi nói khi liếc thấy hình ảnh anh ta phía sau tôi phản chiếu trong cái gương tôi đang soi để sửa soạn. Xin thề, dù tôi đã gặp ma được nhiều năm rồi nhưng mỗi khi có một con hiện ra ngay trước mặt, tôi vẫn cứ thấy hoảng như thường. Tôi quay lại, bực mình không phải vì chuyện anh ta dám ở trong phòng mà vì anh ta bất thình lình hiện ra khi tôi đang không đề phòng. "Sao anh còn lảng vảng quanh đây? Tôi tưởng là bảo anh biến đi chỗ khác rồi chứ?"
Jesse đang đứng dựa vào cột giường của tôi một cách hết sức thoải mái. Đôi mắt đen sẫm của anh ta soi tôi từ đầu đến chân. "Cô không thấy là bây giờ hơi muộn cho một cuộc dạo chơi sao, Susannah?" anh ta hỏi một cách tự nhiên như thể chúng tôi đang nói dở dang cái chuyện... oh, tôi cũng chẳng biết nữa, về Luật Nô lệ Bỏ trốn, cái luật có hiệu lực vào khoảng thời gian anh ta chết chẳng hạn.
"Ờ," tôi đáp, kéo mũ áo xuống. "Nghe này, không có ý xúc phạm đâu Jesse, nhưng đây là phòng tôi. Sao anh không biến đi? Và đừng có dí mũi vào việc của tôi nữa, được không?"
Jesse không động đậy. "Mẹ cô sẽ không thích chuyện cô đi tối thế này đâu."
"Mẹ của tôi." Tôi lườm anh ta. Chính xác hơn là ngước lên lườm anh ta. Anh ta rõ ràng là quá cao đối với một người đã chết. "Anh thì biết gì về mẹ tôi chứ?"
"Tôi rất quý mẹ cô," Jesse bình thản nói. "Bà ấy là người phụ nữ tốt. Cô thật may mắn có một người mẹ yêu thương mình đến thế. Bà sẽ buồn lo lắm nếu biết cô tự dấn thân vào chỗ nguy hiểm."
Chốn nguy hiểm. Phải! "Ờ, thế này nhé, tin nhanh cho anh nè Jesse. Chuyện tôi lẻn ra ngoài vào buổi tối có từ lâu lắm rồi, và mẹ tôi chưa từng nói một câu nào hết. Mẹ biết tôi có thể tự lo cho bản thân được rồi."
Thôi được, nói dối đấy, nhưng mà này, anh ta biết làm sao được cơ chứ?
"Cô có thể tự lo cho bản thân?" Jesse nhướn một bên chân mày đen, nghi hoặc. Tôi không thể không trông thấy có một vết sẹo vắt ngang qua bên lông mày ấy, như thể từng có người dùng dao rạch một đường lên mặt Jesse vậy. Tôi khá hiểu cảm giác đó. Nhất là khi anh ta bật ra tiếng cười khúc khích và nói: "Tôi không nghĩ thế đâu, bé cưng ạ. Không phải trong trường hợp này."
Tôi giơ cả hai tay lên. "Được rồi. Một: đừng có gọi tôi bằng tiếng Tây Ban Nha. Hai: anh đâu biết tôi sắp đi đâu, thế nên tránh đường ra."
"Thế mà tôi lại biết cô sắp đi đâu đấy, Susannah ạ. Cô sắp đến trường để nói chuyện phải trái với đứa con gái đang cố giết anh chàng đó, cái anh mà cô có vẻ... thinh thích ấy. Nhưng phải nói cho cô hay, bé cưng ạ, mình cô không đấu lại được với cô ta đâu. Nếu nhất định muốn đi, cô nên nhờ ông linh mục đi cùng."
Tôi trừng mắt nhìn anh ta. Tôi có cảm giác mắt mình sắp lồi cả ra ngoài, nhưng tôi thực sự không thể tin nổi cái điều này. "Cái gì cơ?"Tôi lắp bắp. "Làm thế nào anh biết những chuyện đó? Anh đang... đang do thám tôi đấy hả?"
***
Chú thích tí teo: "bé cưng" ở đây là Jesse nói bằng tiếng Tây Ban Nha, anh chàng này trêu rõ tức cả mình!!!
Thấy vẻ mặt tôi thì chắc anh ta nhận ra là mình đã nói nhầm điều không nên nói, vì anh ta đứng hẳn dậy và nói: "Tôi chẳng biết cái từ đó nghĩa là gì, do thám ấy. Tất cả những gì tôi biết là cô đang dấn thân vào chỗ nguy hiểm đấy."
"Anh đã theo dõi tôi," tôi nói, chọc ngón tay vào anh ta như kết tội. "Đúng thế không? Chúa ơi, Jesse, tôi vừa mới có một ông anh rồi, cảm ơn anh cả đống luôn. Tôi không cần anh cứ loanh quanh theo dõi đâu -"
"Ồ phải," Jesse đáp, đầy mỉa mai. "Anh cô quan tâm đến cô nhiều lắm đấy. Gần đến mức nhiều như quan tâm đến giấc ngủ của anh ta vậy."
"Này!" tôi nói, thật kì quái, tôi đang bênh Ngái Ngủ cơ đấy. "Anh ấy đi làm buổi tối, thế được chưa? Anh ấy đang để dành tiền mua chiếc Camaro."
Jesse làm một cử chỉ mà tôi dám chắc rằng đó là một cử chỉ thô thỗ vào những năm 1850. "Cô," anh ta nói, "sẽ không đi đâu hết."
"Ô, thế à?" Tôi quay gót và vù ra cửa. "Cứ thử ngăn tôi xem nào, cái đồ chết rồi kia."
Anh ta làm được đấy. Cái chốt bật ngay vào vị trí lúc tay tôi đặt trên nắm đấm cửa. Trước đó tôi còn chẳng biết là cửa phòng tôi có ổ khoá - chắc chắn là cái ổ khoá này xưa lắm rồi. Có Chúa mới biết, chìa khoá hẳn bị mất từ lâu rồi.
Tôi đứng đó khoảng nửa phút, cứ nhìn chằm chằm vào bàn tay đang kéo cái nắm đấm cửa một cách vô ích. Rồi tôi hít một hơi dài, theo cách mà bác sỹ trị liệu của mẹ tôi đã khuyên. Bà ấy hẳn không có ý bảo tôi làm như vậy khi phải đương đầu với một con ma đi theo dõi, mà là nói chung khi nào tôi cảm thấy stress.
Nhưng việc này có tác dụng. Thực sự có tác dụng.
"Thôi được rồi," tôi nói, quay lại. "Jesse. Như thế này không ổn."
Jesse trông có vẻ khá khó chịu. Khi nhìn anh ta, tôi biết ngay rằng anh ta không thích cái việc mình vừa làm cho lắm. Cho dù trước đây anh ta bị giết thì cũng không phải bởi anh ta vốn là người tàn ác bẩm sinh, hay thích thú cái việc làm tổn thương người khác. Anh ta là người tốt. Hay ít nhất thì anh ta đang cố làm một người tốt.
"Tôi không thể," anh ta nói. "Susannah. Đừng đi. Người đàn bà đó – cô gái đó, Heather ấy mà. Cô ta không giống với bất kỳ linh hồn nào cô từng gặp trước đây đâu. Lòng cô ta tràn ngập hận thù. Cô ta sẽ giết cô nếu có thể."
Tôi mỉm cười khích lệ. "Thế thì chỉ tôi mới có thể giải quyết được cô ta, đúng không? Thôi nào, mở cửa đi."
Anh ta do dự. Trong một giây, tôi nghĩ anh ta sẽ mở. Nhưng cuối cùng thì lại không mở. Anh ta cứ đứng đó, có vẻ khó chịu… nhưng cương quyết.
"Mặc kệ anh," tôi nói, vòng qua anh ta, thẳng hướng về phía chiếc cửa sổ. Tôi đặt 1 chân lên chiếc ghế dượng Andy đã làm cho tôi, dễ dàng nhấc cánh cửa giữa lên. Còn 1 chân nữa chưa qua thì tôi cảm thấy bàn tay anh ta nắm lấy cổ tay tôi.
Tôi quay lại nhìn anh ta. Tôi không thể thấy gương mặt anh ta vì sấp bóng ánh đèn, nhưng có thể nghe tiếng anh ta đủ rõ, tiếng nói nhỏ nhẹ.
"Susannah," anh ta nói.
Vậy đấy. Chỉ mỗi tên tôi.
Tôi không nói gì cả. Có lẽ là không thể. Ý tôi là – không phải có cái gì đó đang làm họng tôi nghẹn lại. Chỉ là tôi… tôi cũng chẳng rõ nữa.
Thay vì vậy, tôi liếc xuống bàn tay anh ta, bàn tay rất lớn, nâu, ngay cả khi trái ngược với màu áo da đen của tôi. Cái nắm tay của anh ta quá chặt đối với một người đã chết. Hay ngay cả với một người còn sống nhăn. Anh ta thấy tôi liếc xuống và nhìn về hướng tôi nhìn, thấy bàn tay mình đang nắm chặt lấy cổ tay tôi.
Anh ta buông tay tôi ra như thể da tôi đột nhiên bắt đầu phồng rộp lên hay gì đó. Tôi trèo ra ngoài cửa sổ xong. Khi leo hết mái hiên và nhảy xuống đất, tôi quay lại ngước lên phía cửa sổ phòng mình.
Đó là một đêm mát mẻ, trời trong. Trăng tròn vành vạnh. Đứng trong sân trước, tôi thấy trăng lơ lửng phía trên mặt biển như một chiếc bóng đèn – không phải là loại bóng đến cả trăm oát như mặt trời, mà có lẽ chỉ là cái bóng đèn trong chiếc đèn bàn bình thường. Nhìn từ xa, mặt biển Thái Bình Dương phẳng lặng mang một màu đen duy nhất, trừ một dải ánh sáng phản chiếu từ mặt trăng.
Dưới ánh trăng tôi cũng có thể trông thấy mái vòm màu đỏ của nhà thờ Trường Truyền Giáo. Nhưng trông thấy Trường không có nghĩa là nó ở gần đó. Ngôi trường cách nơi này phải đến 2 dặm. Chìa khoá của chiếc Rambler đang nằm trong túi tôi, tôi đã thó được nửa giờ trước. Nhiệt độ cơ thể tôi khiến cho thanh kim loại ấy cũng ấm lên. Ban ngày chiếc Rambler vốn màu lam thì giờ đây lại mang một sắc xám dưới bóng râm của đường đi.
Này, tôi biết là tôi chưa có bằng lái chứ. Nhưng nếu Ngu Ngơ làm được thì…
Thôi được rồi. Tôi hơi bị kém tắm. Có nên lái không nhỉ? Ý tôi muốn nói là, không phải tôi không biết lái. Tất nhiên tôi biết lái chứ. Chỉ là không luyện tập nhiều cho lắm, vì trước giờ tôi toàn sống trong thủ đô của thế giới toàn sử dụng phương tiện giao thông công cộng mà.
Ôi, thôi kệ. Tôi quay lại, hướng về phía gara. Thế nào mà chẳng có một chiếc xe đạp đâu đó quanh đây. Những 3 đứa con trai cơ mà, đúng không nào? Thế nào cũng có thôi.
Tôi tìm thấy 1 cái. Tất nhiên là xe con trai, cái thanh chắn ngu si, và cái yên xe bé tẹo, cứng quèo. Nhưng có vẻ nó vẫn dùng được. Ít nhất thì 2 bánh xe cũng không xẹp lép.
Rồi tôi tự nhủ, Ôkê, đứa con gái mặc đồ đen, cưỡi xe đạp nhong nhong trên đường sau nửa đêm, mình còn cần gì nữa nhỉ?
Chắc tôi không kiếm băng dính phản quang đâu, nhưng tôi nghĩ một chiếc mũ bảo hiểm xe đạp có thể giải quyết xong xuôi. Có một cái treo toòng teng trên cái móc phía tường bên của gara. Tôi hạ mũ áo xuống, đội mũ bảo hiểm lên. Ờ, phải rồi. Sành điệu và an toàn, tôi đây chứ ai.
Và thế là tôi thượng lộ, dọc theo đường đi – lái xe đạp trên sỏi thì đúng là chả dễ dàng gì, nhất là lại xuống dốc nữa chứ. Rồi toàn bộ con đường hoá ra lại thành dốc, vì ngôi nhà nhìn ra vịnh được xây dựng trên sườn dốc như núi vậy. Xuống dốc chắc chắn là dễ hơn lên dốc – không đời nào tôi có thể đạp xe ngược dốc; tôi biết khá chắc là lúc về nhà rồi tôi sẽ phải đẩy thôi – về nhà thì chắc chắn là phải leo dốc, nhưng xuống dốc thì cũng khá đau thương. Ngọn đồi thì rõ là dốc, đường thì ngoằn ngoèo, không khí ban đêm thì lạnh, đến nỗi suốt thời gian lái xe mà tim cứ thót lên tận cổ, nước mắt thì ràn rụa xuống má vì gió. Lại còn lắm ổ gà chứ –
Chúa ơi. Lao phải một cái ổ gà, cái yên ngu si làm tôi đau điếng.
Nhưng ngọn đồi chưa phải là điều tệ nhất đâu. Khi xuống đến hết đồi thì tôi gặp phải đường giao nhau. Điều này còn kinh khủng hơn cả cái đồi bởi vì cho dù là quá nửa đêm đi nữa thì vẫn có ôtô. Một cái nhè tôi mà bấm còi. Nhưng có phải lỗi của tôi đâu. Tôi đang lao quá nhanh, vì ngọn đồi thì dốc, đến nỗi mà nếu dừng lại thì có lẽ tôi bay ra khỏi tay lái mất rồi. Thế là tôi cứ đạp tiếp, tránh vừa kịp lúc một cái xe tải không mui phía sau, và sau đó, chẳng biết làm sao, tôi đang hướng đến bãi đỗ xe của trường rồi.
Trường Truyền Giáo vào ban đêm trông rất khác so với ban ngày. Một là, ban ngày thì bãi đỗ xe luôn luôn kín chỗ, đầy nhóc ôtô của giáo viên, học sinh và của du khách đến tham quan nhà thờ. Giờ đây bãi đất trống, không có một cái xe nào hết, và yên ắng đến nỗi bạn có thể nghe thấy tiếng sóng vỗ bờ ở bãi biển Camel vọng lại từ xa xa.
Điều thứ 2, tôi đoán là để dành cho khách du lịch, người ta đã dựng những đèn chiếu mạnh để chiếu sang những vị trí nhất định của toà nhà, ví dụ như mái vòm – sáng rõ luôn – và sân trước nhà thờ có lối vào rộng rãi. Phía sau toà nhà, nơi tôi dừng xe, thì lại khá tối. Điều này thực ra lại hợp với tôi. Tôi giấu chiếc xe phía sau cái thùng phế liệu, để lại chiếc mũ bảo hiểm còn đang toòng teng trên một bên tay xe và tiến đến bên một cái cửa sổ. Trường Truyền Giáo trông như thể được xây từ cả triệu năm rồi vậy, từ cái thời chưa có máy điều hoà hay máy sưởi cơ, để làm mát vào mùa hè và giữ ấm vào mùa đông, người ta xây những bức tường nhà rất dày. Điều đó có nghĩa là tất cả cửa sổ của Trường được xây thụt vào trong đến cả 30 phân.
Tôi trèo lên trên một cái ghế cạnh cửa sổ có sẵn, nhìn quanh để chắc chắn không ai trông thấy. Nhưng không có một ai ngoại trừ vài con gấu đang bám rễ quanh cái thùng phế liệu kiếm tí đồ ăn thừa buổi trưa. Rồi tôi khum tay che mặt để tránh ánh trăng và lẻn vào.
Đó là lớp học của thầy Walden. Ánh trăng rọi vào giúp tôi nhìn thấy những nét chữ của thầy trên bảng, và cái poster to oành của Bob Dylan – người thầy yêu thích – dán trên tường.
Tôi chỉ mất có một giây để đấm vỡ kính trên một trong những khung cửa sổ bằng sắt lỗi thời, thò vào, mở chốt cửa. Cái khó trong việc phá cửa sổ không phải là ở chỗ đập kính hay thậm chí thò tay vào, mà chính là lúc rút tay ra luôn luôn bị kính cứa vào. Tôi đi đôi găng chuyên-trị-ma tốt nhất, đôi găng dày với những khớp bọc cao su, tôi đã từng xắn tay áo lên để rồi cả cánh tay đầy vết xước.
Nhưng lần này thì không như vậy. Hơn nữa, cửa sổ này mở ra phía ngoài thay vì mở lên trên, đung đưa về phía trước đủ để một đứa con gái cỡ tôi chui vào. Đôi lúc tôi phá những chỗ hoá ra lại được lắp chuông báo động rồi – hậu quả là tôi có một chuyến du hành về nhà không lấy gì làm dễ chịu phía sau của một trong những cái xe ôtô tốt nhất New York – nhưng hệ thống an ninh Trường Truyền Giáo lại chưa đến độ công nghệ cao thế đâu. Trên thực tế, hệ thống an ninh của họ chỉ có mỗi việc khoá cửa sổ và cửa ra vào, mong rằng không có chuyện gì xảy ra mà thôi.
Điều này làm tôi cực kỳ hài lòng.
Khi vào được lớp học của thầy Walden, tôi đóng cánh cửa sổ phía sau lưng lại. Đâu có dại gì tiết lộ cho bất cứ người nào tình cờ kiểm tra bên ngoài - nếu có. Dò dẫm giữa các dãy bàn chẳng khó khăn gì vì ánh trăng rất sáng. Khi tôi mở cửa ra vào và bước ra ngoài lối đi, tôi thấy mình cũng không cần phải dùng đèn pin nữa. Khoảnh sân tràn ngập ánh sáng. Tôi đoán Trường Truyền Giáo mở cửa cho khách tham quan đến tận khuya, vì vẫn còn những chiếc đèn pha lớn màu vàng ẩn dưới mái hiên trên lối đi, rọi sáng nhiều thứ: cây cọ cao nhất, cái cây mà phía dưới trồng bụi hoa dâm bụt lớn nhất; đài phun nước vẫn bật dù nơi này đã đóng cửa, và dĩ nhiên là cả bức tượng Cha Serra nữa, một ngọn đèn chiếu sáng đặt ở một bên đầu, những cái khác đặt trên đầu những phụ nữ da đỏ quỳ dưới chân ông ta.
Giời. Thật may là Cha Serra là một người tốt và ông ta chết rồi. Tôi có cảm giác bức tượng đó chắc chắn sẽ khiến ông ta phải xấu hổ.
Lối đi vắng lặng, trong sân cũng vậy. Không một bóng người. Tôi chỉ nghe thấy tiếng nước róc rách ở đài phun nước và tiếng dế rả rích đâu đó trong vườn. Nơi này thật sự là một chốn yên bình đến không ngờ. Tôi muốn nói là, tất cả những ngôi trường tôi từng học đều chưa bao giờ khiến tôi cảm thấy yên bình thế này cả. Hay ít nhất là có nơi này, cho đến khi giọng nói cứng rắn vang lên phía sau tôi: "Cô đang làm gì ở đây thế hả?"
Tôi quay lại, cô ta kia rồi. Chỉ đứng dựa vào ngăn tủ để đồ của cô ta – xin lỗi, phải là tủ để đồ của tôi chứ - và nhìn tôi trừng trừng, tay khoanh trước ngực. Cô ta mặc chiếc quần màu đen - đẹp đấy – và áo len cashmere màu xám. Cổ cô ta đeo dây chuyền ngọc trai cộng-thêm – cô ta được tặng mỗi viên ngọc vào mỗi dịp Giáng sinh và Sinh nhật hồi còn sống, chắc hẳn là ông bà cưng cô cháu lắm đây. Chân cô ta đi đôi giày da đen bóng. Mái tóc, óng ánh như chính đôi giày dưới ánh sáng vàng của những ngọn đèn, mượt mà và vàng óng. Cô ta quả thực là xinh đẹp.
Thật tiếc là cô ta lại tự bắn vào đầu mình cơ đấy.
"Heather," tôi nói, kéo chiếc mũ áo xuống. "Chào. Xin lỗi đã làm phiền cô – " Mở đầu lịch sự dù sao cũng tốt hơn. "- nhưng tôi thực sự nghĩ là chúng ta cần phải nói chuyện, giữa cô và tôi."
Heather không động đậy. À, cũng không phải như thế. Đôi mắt cô ta nheo lại. Đôi mắt ấy có màu nhạt, chắc là màu xám, mặc dù cũng khó nói chắc cho lắm, kể cả khi có đèn đi nữa. Hàng mi dài - chải mascara đen – khá hợp với đường kẻ mắt cũng màu đen.
"Nói chuyện ấy à?" Heather kêu lên. "Ờ, phải. Cứ làm như tôi muốn nói chuyện với cô lắm đấy. Tôi biết cô rồi, Suzie ạ."
Tôi chớp mắt một cái, không đừng được. "Là Suze," tôi đáp.
"Sao cũng được. Tôi biết cô đang làm gì ở đây."
"À, tốt thôi," tôi nói. "Thế thì tôi không cần giải thích gì nữa. Cô có muốn ngồi xuống không, để ta nói chuyện?"
"Nói chuyện? Sao tôi lại muốn nói chuyện với cô chứ? Cô coi tôi là đứa thế nào hả đồ ngốc kia? Trời, cô nghĩ là mình quái lắm hay sao? Cô nghĩ cô có thể thế vào dễ dàng lắm, phải không?"
Tôi chớp mắt nhìn cô ta. "Cô nói gì tôi không hiểu?"
"Thế vào chỗ của tôi ấy." Cô ta đứng thẳng dậy, rời khỏi chỗ ngăn tủ, tiến về phía chiếc đài phun nước như thể thích thú với nó lắm vậy. "Cô," cô ta nói, quay lại lườm tôi. "Đứa con gái mới chuyển đến. Đứa con gái mới chuyển đến mà dám nghĩ mình có thể thay thế vừa khít vào cái chỗ mà tôi bỏ lại. Cô có ngăn tủ của tôi rồi, lại còn tiếp tục lấy đi cả người bạn thân nhất của tôi nữa. Tôi biết Kelly đã gọi điện mời cô đến dự bữa tiệc ngu ngốc của cô ta. Và giờ đây cô nghĩ cô có thể đánh cắp bạn trai của tôi nữa cơ đấy."
Tôi chống nạnh. "Anh ta không còn là bạn trai của cô nữa Heather ạ, còn nhớ không đấy? Anh ta đã chia tay cô rồi. Vì thế cô mới chết chứ. Cô bắn tung đầu mình ngay trước mặt người mẹ của anh ta còn gì."
Mắt Heather trợn lên. "Im ngay," cô ta nói.
"Cô bắn tung đầu mình trước mặt mẹ anh ta bởi vì cô quá ngu ngốc đến nỗi không biết rằng không một tên con trai nào - kể cả có là Bryce Martinson đi nữa – đáng để cô chết vì hắn cả." Tôi đi qua chỗ cô ta, tiến về phía lối đi rải sỏi ở giữa khu vườn. Không muốn thú nhận, ngay cả với bản thân tôi, nhưng tôi bắt đầu hơi lo lo khi đứng dưới lối đi sau cái chuyện xảy ra với Bryce. "Trời ạ, hẳn là cô phải điên lắm khi nhận ra cái điều mà cô đã làm. Tự sát. Vì một điều ngu hết sức. Vì một tên con trai cơ đấy."
"Câm mồm!" Lần này cô ta không nói. Cô ta gào lên, to đến nỗi hai tay nắm lại hai bên, mắt nhắm nghiền, vai cúi xuống. Tiếng hét to đến nỗi hai tai tôi còn lùng bùng sau đó. Tôi trông thấy một vài ngọn đèn bật sáng nhưng không có ai chạy đến cả. Những con bồ câu đang gù gù trên mái hiên đều không dám ho he gì hết sau khi Heather xuất chiêu, và bọn dế thì cũng cắt luôn bản dạ khúc đang chơi.
Người ta không thể nghe thấy tiếng ma – hừm, hầu hết là như thế - nhưng điều đó không đúng với bọn động vật hay thậm chí cả côn trùng đi nữa. Chúng đều có khả năng siêu cảm đối với những hiện tượng siêu linh. Max, con chó nhà Ackerman, không dám bén mảng đến gần phòng tôi, nhờ công của Jesse đấy.
"Hét lên như thế thì được cái gì chứ," tôi nói. "Ngoài tôi ra có ai nghe thấy đâu nào."
"Tôi cứ hét nếu muốn đấy," cô ả ré lên. Rồi lại chuẩn bị tiếp.
Tôi ngáp dài, tiến đến ngồi xuống một trong những băng ghế gỗ cạnh bức tượng Cha Serra. Tôi nhìn thấy một tấm biển ở chân bức tượng. Dưới ánh trăng và ánh đèn, tôi có thể đọc được dễ dàng.
Cha Junipero Serra tôn kính, tấm biển viết, sinh năm 1713, mất năm 1784. Những cách cư xử ngay thẳng và sự hi sinh quên mình của ông là tấm gương cho những tất cả những người biết đến ông và được ông chỉ dạy.
Huh. Về nhà tôi phải tra nghĩa của cụm từ hi sinh quên mình trong từ điển mới được. Tôi chả biết có phải nó cũng đồng nghĩa với cụm từ tự xử bằng roi không nhỉ, ông Serra cũng được nổi tiếng vì điều đó mà.
"Cô có nghe tôi nói gì không hả?" Heather gào lên.
Tôi nhìn cô ta. "Cô có biết từ hi sinh nghĩa là gì không?" tôi hỏi.
Cô ta không hò hét nữa mà nhìn tôi trừng trừng. Rồi cô ta lướt tới, gương mặt tái đi vì một cơn thịnh nộ.
"Nghe đây, con khốn kia," cô ta nói, dừng lại khi đứng cách tôi vài chục phân. "Tôi muốn cô xéo đi, có hiểu không hả? Tôi muốn cô biến khỏi ngôi trường này. Kia là tủ của tôi. Kelly Prescott là bạn thân nhất của tôi. Và Bryce Martinson là bạn trai của tôi! Cô xéo ngay, xéo về cái chốn ban đầu cô ở ấy. Trước khi cô đến đây, mọi việc đều tốt đẹp – "
Tôi phải ngắt lời cô ta. "Xin lỗi nhé, Heather, nhưng trước khi tôi đến đây thì mọi thứ không hề tốt đẹp tí nào. Có biết tại sao tôi lại biết thế không? Bởi vì cô chết rồi. Đúng chưa? Cô chết rồi. Những kẻ chết rồi thì làm gì có tủ đồ, làm gì có bạn thân nhất, làm gì có bạn trai nữa. Biết tại sao lại thế không? Bởi vì bọn họ đều chết cả rồi."
Heather trông như thế lại sắp sửa gào lên lần nữa, nhưng tôi tiến đến. Tôi nói, nhẹ nhàng và thẳng thắn: "Giờ tôi biết rằng cô đã phạm phải một sai lầm. Cô đã phạm một sai lầm khủng khiếp – "
"Tôi không phải là đứa có lỗi." Heather thẳng thừng nói. "Chính Bryce mới có lỗi. Bryce mới là kẻ đã đá tôi."
Tôi nói: "Ờ, đó không phải là sai lầm mà tôi muốn nói đến. Ý tôi muốn nói về chuyện cô tự bắn chính mình vì một tên con trai ngu ngốc đã chia tay với – "
"Nếu cô nghĩ anh ta ngu ngốc," Heather nhếch môi khinh bỉ, "thế sao còn hẹn hò với anh ta vào thứ 7? Đúng thế. Tôi đã nghe thấy anh ta mời cô đi chơi. Đồ phản bội. Anh ta có lẽ chưa bao giờ chung thuỷ được nổi một ngày khi còn hẹn hò với tôi."
"Ờ," tôi nói. "Thế thì cũng tốt thôi. Thêm một lý do nữa để cô tự kết liễu bản thân vì anh ta đấy."
Những giọt nước mắt, long lanh như mấy viên kim cương giả bạn mua về đính vào móng tay ấy, đọng dưới hàng mi của cô ta. "Tôi yêu anh ấy," cô ta thì thào. "Nếu không có anh ấy, tôi chẳng muốn sống nữa."
"Và giờ thì cô chết rồi còn gì," tôi mệt mỏi nói, "cô mong đợi anh ta đoàn tụ với cô, phải thế không?"
"Tôi không thích nơi này," cô ta nói nhỏ. "Chẳng ai nhìn thấy tôi hết. Chỉ có cô và Ch-Cha Dominic thôi. Tôi cô đơn quá…"
"Đúng vậy. Điều đó dễ hiểu thôi. Nhưng Heather ạ, cho dù cô có cố giết anh ta thì anh ta cũng sẽ không thích cô vì điều đó đâu."
"Tôi có thể làm cho anh ấy thích tôi," Heather nói một cách tự tin. "Dù sao đi nữa, rồi cũng sẽ chỉ có tôi và anh ta mà thôi. Anh ta sẽ phải thích tôi."
Tôi lắc đầu. "Không đâu, Heather. Mọi việc sẽ không như thế đâu."
Cô ta trừng mắt nhìn tôi. "Ý cô là gì?"
"Nếu cô có giết Bryce đi chăng nữa thì cũng chả có gì đảm bảo là anh ta sẽ ở lại đây với cô cả. Chuyện xảy ra với mọi người sau khi chết – nói chung tôi không rõ lắm, nhưng tôi nghĩ là mỗi người mỗi khác. Nếu cô giết Bryce, anh ta sẽ đến nơi cần phải đến. Thiên đàng, địa ngục, hay kiếp sau – tôi không rõ. Nhưng tôi biết chắc chắn một điều là anh ta sẽ không ở lại đây với cô đâu. Mọi việc sẽ không như thế."
"Nhưng – " Heather trông nổi khùng lên. "Nhưng như thế không công bằng – "
"Có rất nhiều chuyện không công bằng, Heather ạ. Ví dụ như, việc cô phải khổ sở mãi mãi vì một sai lầm nhất thời cũng không công bằng. Tôi tin rằng nếu cô biết được chết là như thế nào thì chắc chắn không bao giờ cô lại đi tự sát cả. Nhưng Heather ạ, mọi việc đâu cần phải như thế này."
Cô ta nhìn tôi chằm chằm. Nước mắt đọng lại trông như những giọt nước đá nhỏ xíu.
"Không ư?"
"Không. Không cần."
"Ý cô là… ý cô là tôi có thể quay lại?"
Tôi gật đầu. "Cô có thể. Cô có thể bắt đầu lại từ đầu."
Cô ta sụt sịt. "Bằng cách nào?"
Tôi đáp: "Cô chỉ cần quyết tâm làm việc đó thôi."
Gương mặt xinh đẹp của cô ta cau lại. "Nhưng tôi đã quyết định rằng đấy là việc tôi muốn làm rồi. Việc duy nhất tôi muốn làm kể từ khi… từ khi chuyện này xảy ra… là lấy lại cuộc sống như trước kia."
Tôi lắc đầu. “Không phải, Heather ạ,” tôi nói. “Cô hiểu sai ý tôi rồi. Cô không bao giờ còn có thể có lại cuộc sống nữa - cuộc sống trước kia của cô ấy. Nhưng cô có thể bắt đầu một cuộc đời mới. Nó sẽ tốt hơn là cứ như thế này, tốt hơn là cứ một mình cô trơ trọi nơi đây mãi mãi, lê nỗi căm giận khắp nơi, làm tổn thương người khác – ”
Cô ta quát lên: “Cô bảo là tôi có thể lấy lại cuộc sống của mình cơ mà!”
Trong một khoảnh khắc, tôi nhận ra rằng tôi đã mất cơ hội với cô ta. “Tôi không có ý nói cuộc sống trước đây của cô. Ý tôi là cuộc đời – ”
Nhưng đã quá muộn mất rồi. Cô ta nổi điên lên.
Tôi hiểu vì sao bố mẹ Bryce lại đưa anh ta đến Antigua. Tôi ước gì mình cũng được ở đó – thật ra là ở bất cứ nơi nào, để có thể thoát khỏi cơn thịnh nộ của đứa con gái đó.
“Cô đã bảo,” Heather gào thét, “cô đã bảo rằng tôi có thể lấy lại cuộc sống của mình! Cô nói dối tôi!”
“Heather, tôi không nói dối. Tôi chỉ muốn nói là cuộc sống của cô… ơ… cuộc sống của cô đã hết rồi. Heather ạ, chính cô đã tự kết thúc nó đấy chứ. Tôi biết điều này thật khó tiêu, nhưng mà cô phải nghĩ đến nó trước khi – ”
Cô ta ngắt lời tôi với một tiếng thét – đáng sợ, dĩ nhiên. “Tôi sẽ không cho phép cô,” cô ta ré lên. “Tôi sẽ không để cô lấy đi cuộc sống của tôi đâu.”
“Heather, tôi đã bảo rồi, không mà. Tôi có cuộc sống của chính mình. Đâu cần cuộc sống của cô chứ – ”
Bọn dế và chim bồ câu im re khiến cho tiếng nước róc rách ở đài phun nước cách đó không xa là thành âm thanh duy nhất trong sân, trừ có tiếng gào thét của Heather. Nhưng đột ngột tiếng nước chảy ấy bỗng trở nên thật lạ lùng. Đó là tiếng lốp bốp nghe rất buồn cười. Tôi nhìn về phía đó và thấy hơi đang bốc lên trên mặt nước. Tôi vẫn không thấy có gì lạ lắm – bên ngoài trời lạnh, mà nhiệt độ của nước thì chắc là cao hơn nhiệt độ của không khí – nếu không thấy một cái bong bóng to tướng thình lình vỡ ra trên mặt nước.
Rồi tôi giật thót. Cô ta đang làm cho nước sôi lên. Cô ta dùng chính sức mạnh từ cơn thịnh nộ của mình để đun sôi nước.
“Heather,” tôi nói, từ chỗ ngồi của mình. “Heather, nghe tôi này. Cô phải bình tĩnh lại. Chúng ta không thẻ nào nói chuyện khi mà cô đang – ”
“Cô… đã… bảo…” tôi cảnh giác thấy đôi mắt Heather thụt vào trong hốc mắt. “Tôi… có… thể… bắt… đầu… lại!”
Được rồi. Đến lúc phải làm gì đó thôi. Tôi chẳng cần cái ghế đang ngồi khi nó bắt đầu rung lắc dữ dội đến nỗi tôi suýt bị hất văng đi. Tôi biết đến lúc đứng lên rồi đây.
Và tôi làm vậy, thật nhanh. Thật nhanh để không bị cái ghế đập vào. Thật nhanh để tiến tới chỗ Heather trước khi cô ta nhận ra, để hạ cô ta càng mạnh càng tốt bằng một cú ngay dưới cằm.
Tôi hoàn toàn ngạc nhiên, cô ta chẳng có vẻ gì cảm thấy điều đó cả. Cô ta đã thay đổi. Thay đổi thực sự. Đánh cô ta chẳng có một tác dụng gì ngoài việc làm cho những đốt ngón tay tôi đau điếng. Và dĩ nhiên, điều đó dường như làm cho cô ta càng điên tiết hơn; luôn luôn là tác dụng phụ của việc đương đầu với một con ma ương bướng độc ác.
“Mi,” Heather nói bằng một giọng trầm khác hẳn với giọng líu ríu thông thường, “sẽ phải hối hận.”
Nước trong đài phun đột ngột sôi đến cực điểm. Những đợt sóng khổng lồ bắt đầu đập vào bên thành. Những cột nước vốn chỉ phun cao được đến 1m2 đột ngột vút lên đến ba thậm chí sáu mét, chảy xuống cái vạc nước đang sôi sùng sục, bốc hơi nghi ngút. Bon chim chóc trên ngọn cây đồng loạt bay mất, trong một thoáng, sải cánh của chúng che lấp cả ánh trăng.
Tôi có một cảm giác buồn cười rằng Heather đang nói nghiêm chỉnh. Hơn thế nữa, tôi có cảm giác cô ta có thể làm được việc đó. Thậm chí không thèm nhấc một ngón tay.
Và tôi biết chắc điều đó khi cái đầu của Junipero Serra bất ngờ bay khỏi thân bức tượng. Phải rồi. Nó rơi ra dễ như thể được làm từ kẹo chứ không phải làm bằng đồng rắn chắc. Cô ta bẻ nó ra chẳng tốn sức. Cái đầu bay trên không trong khoảnh khắc, từ một góc nhìn kì lạ lúc lơ lửng phía trên đầu tôi, cái nhìn tràn ngập thương cảm chuyển thành cái nhếch môi hiểm ác. Khi tôi chết đứng ở đó, nhìn chằm chằm vào ánh đèn nhấp nháy với cái đầu kim loại, tôi thấy nó đột ngột hạ xuống…
Rồi quăng về phía tôi, lao nhanh đến nỗi chỉ là một vệt mờ nhạt trên bầu trời đêm, như thể một ngôi sao chổi, hay –
Tôi chẳng còn cơ hội nghĩ xem nó giống cái gì nữa khi một tích tắc sau có thứ gì đó đánh mạnh vào bụng tôi, khiến tôi lăn lộn trên đất, tôi nằm đó, ngước lên nhìn bầu trời đầy sao. Đẹp quá. Màn đêm đen sẫm, những ngôi sao lấp lánh, xa xôi, lạnh lẽo –
“Đứng dậy!” Một giọng nam khó nghe dội vào tai tôi. “Tôi tưởng cô giỏi việc này lắm cơ đấy!”
Có thứ gì đó vỡ tan trên đất cách mặt tôi đúng 3 phân. Tôi quay đầu lại và trông thấy cái đầu của Junipero Serra đang nhe răng cười tục tĩu.
Rồi sau đó Jesse dựng phắt tôi dậy và đẩy tôi về phía lối đi.