Lý Hạo đang gục đầu trên bàn mơ màng ngủ, chợt nghe tiếng the thé vọng đến: “Hoàng thượng, Hoàng thượng, đã đến giờ Mão rồi, hoàng thượng mau dậy đi ạ.”
Lý Hạo nghiêng đầu sang một bên, nhắm mắt ngủ tiếp, đồng thời chửi bới với giọng tức giận: “Giờ Mão?! Giờ Mão là cái quỷ gì? Đêm qua, tôi thức khuya, để tôi ngủ nữa.”
Tiếng the thé ở ngoài cửa lại cất lên với âm thanh khẩn khoản cầu xin: “Ai ui, Hoàng thượng dậy đi thôi, sắp đến giờ lên triều rồi.”
Lý Hạo hậm hực lẩm bẩm: “Cái gì mà hoàng thượng, cái gì mà lên triều! Hả, khốn kiếp.” Giờ đây, Lý Hạo mới nhận ra bản thân không còn là lão đại ca về hưu, trùm xã hội đen ở Sài Gòn nữa, mà hắn đang phải đóng vai ông Hoàng ở thời cổ đại mất rồi.
Lý Hạo đứng dậy, phủi phủi quần áo mấy cái, đồng thời suy nghĩ cẩn thận vấn đề đối phó đã dự liệu cả tối qua, sau đó ra ngoài thản nhiên nói: “Thật cực khổ cho Lê công công quá. Đi, đi lên triều thôi,”
Thì ra người đang đứng bên ngoài gọi cửa nãy giờ chính là lão thái giám Lê Việt Tiến. Lão là người trung thành nhất mực với Lý Sảm. Lão luôn chăm sóc kề cận Lý Sảm từ bé đến lớn, kể cả khi chạy loạn đến giờ, lão vẫn không rời khỏi bên người Lý Sảm nửa bước. Đến khi Lý Sảm đăng cơ, vẫn nhớ đến công ơn của Lê Việt Tiến, nên phong cho lão làm Thượng Phẩm Phụng Ngự, đây là chức quan lớn của hoạn quan, được phép hầu cận bên Vua trong nội cung, cũng như khi vua có dịp xuất hành.
Lê Việt Tiến thấy Lý Hạo đòi lên thẳng triều với y phục thế này thì hoảng hốt can ngăn: “Hoàng thượng ơi hoàng thượng, ngài làm sao mà lên triều với bộ long phục này được, phải thay bộ long phục khác mới có thể lên triều.”
Lý Hạo ngẩn người dang hai tay, nhìn tới lui bộ quần áo này thì mới nhớ ra đây là bộ quần áo để mặc của vua khi nghỉ ngơi. Hắn lắc đầu ngán ngẩm, quả thực vẫn chưa thể quen được lối sống mới thay đổi nhanh như thế. Hắn cố gắng suy nghĩ thật chu đáo phải làm gì tiếp theo, để lão già ở bên cạnh không đoán bậy đoán bạ về những hành vi của mình gần đây nữa. Hắn ngước đầu, phất tay che dấu sự xấu hổ, nói: “Về Long An cung, nhanh chóng thay long phục cho trẫm, kẻo lên triều trễ mất.”
Long An cung là hành cung mà Lý Sảm thường ở, nhưng từ khi Lý Sảm đăng cơ, lại rất ít khi ở đó. Mỗi khi tan triều thì hắn lại đến ở luôn trong hành cung của Nguyên phi Trần Thị Dung, những phi tần khác kể cả hoàng hậu, Lý Sảm cũng chưa từng chạm tới, đủ để thấy Lý Sảm say mê Nguyên phi Trần Thị Dung đến cỡ nào.
Lão thái giám Lê Việt Tiến dẫn Lý Hạo quay về hành cung, rồi sai hai cung nữ mau mắn thay long phục để Lý Hạo lên triều. Lý Hạo cảm thấy làm Vua thật quá sướng. Khi thay quần áo, chỉ cần dang hai tay ra, là có hai người đẹp đứng xung quanh cởi áo, mặc áo luôn cho hắn.
Sau đó, Lý Hạo được dẫn đường rời cung, có chiếc kiệu gỗ thiếp vàng đợi sẵn, ở trên có che lọng màu vàng thêu hình rồng uốn lượn. Lúc hắn ngồi vững vàng trên kiệu, được bốn tên thái giám khiêng lên, thẳng hướng cung điện mà đi. Lý Hạo cảm giác một loại hưởng thụ vô cùng, ngồi trên kiệu cho người khác khiêng đi, tuy nghiêng qua nghiêng lại, còn xóc nẩy liên tục, không thể bằng ngồi xe hơi ở kiếp trước, nhưng tạo cho người ta một cảm giác hãnh diện, tự kiêu.
Đi được một lát, Lý Hạo nhìn thấy tòa cung điện rộng lớn ở phía trước, hắn còn loáng thoáng nghe được tiếng ồn ào của rất nhiều người nói chuyện truyền tới. Tòa cung điện uy phong, hoành tráng này tên là điện Thiên An.
Phía trước điện Thiên An có chiếc sân to và thềm bậc xây bằng đá xanh tạo thành ba lối vào. Phía nam nền điện còn có hàng lan can cao khoảng 100 cm. Mặt trước, hướng chính nam của điện Thiên An là thềm điện xây bằng những phiến đá hộp lớn, gồm mười bậc, có bốn rồng đá, chia thành ba lối lên đều nhau tạo thành Long Trì.
Theo kí ức của Lý Sảm thì Lý Hạo biết được, rồng đá điện Thiên An là một di sản kiến trúc nghệ thuật tuyệt tác, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc thời cổ. Được chạm trổ bằng đá xanh, rồng đá có đầu nhô cao, đầu to, mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra sau. Thân rồng uốn lượn mềm mại thành nhiều vòng cung, nhỏ dần về phía nền điện, trên lưng có đường vây dài nhấp nhô như vân mây, tia lửa.
Lý Hạo nghiêng đầu nhìn về phía bắc của nền điện Thiên An, lại thấy một thềm bảy bậc lên xuống nhỏ hơn so với bậc thềm chính ở phía nam. Hai bên bậc thềm có hai rồng đá có dáng dấp của triều đại trước, rồng dài hơn ba mét, uốn bảy khúc, thân có vẩy, lưng như hàng vây cá, chân rồng năm móng… Hai bên lan can trang trí hoa sen, sóng nước, đao, lửa, vân mây…
Lý Hạo yêu cầu dừng lại một hồi trước sân điện, để thưởng thức những thành quả vĩ đại này. Trước mặt hắn là tòa cung điện Thiên An nguy nga, cao bốn tầng, những cây cột to cao sơn phết đỏ tươi, chạm rồng phượng, thần tiên, cực kỳ tráng lệ.
Lý Hạo đứng trên Long Trì phóng tầm mắt nhìn bốn phía xung quanh, tự nhiên trong lòng hắn xuất hiện loại cảm giác cao cao tại thượng, bao quát chúng sinh. Hắn thấy ở phía xa xa các tòa kiến trúc hùng vĩ khác, bên trái là điện Tuyên Đức, bên phải là điện Diên Phúc. Hướng đông Long Trì đặt điện Văn Minh, hướng tây là điện Giảng Võ. Hai bên trái phải thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng, ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông. Nhìn đến đây, thì hắn lại bật cười ác độc nghĩ: “Không biết lão vua cha Lý Cao Tông phá quốc chi quân kia, có giải được vụ án oan nào hay chưa?”
Bốn chung quanh Long Trì đều có hành lang giải vũ để các quan hội họp và 6 quân Túc vệ. Phía trước làm điện Phụng Thiên, trên điện dựng Lâu Chính Dương làm nơi giữ giờ khắc. Nhìn đến lầu giữ giờ khắc, Lý Hạo mới nhớ ra giờ khắc thời xưa tính như thế nào thì hắn từng đọc qua, nhưng bây giờ thì hắn hoàn toàn quên mất. Lý Hạo tự nhủ: “Lát nữa ra về, phải vào phòng sách tìm hiểu lại một chút kiến thức thời đại này mới được.”
Phía sau Long Trì dựng điện Trường Xuân, trên điện dựng Các Long Đỗ làm nơi nghỉ ngơi nhìn ngắm. Bên ngoài đắp một lần tường thành bao quanh gọi là Long thành. Càng quan sát, Lý Hạo càng bội phục sự tài giỏi của người thời cổ đại. Tuy rằng trước đây họ còn khiếm khuyết nhiều mặt, nhưng trí tưởng tượng và tài điêu khắc của cha ông ta đã vô cùng phong phú. Lý Hạo thở dài tiếc nuối, về sau tất cả mọi thứ ở đây sẽ tan thành mây khói bởi thời gian và chiến loạn.
Đã có 5 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của heocons
Lão thái giám dẫn đường mời Lý Hạo vào điện chầu. Khi Lý Hạo bước vào điện, thì thái giám Lê Việt Tiến cất tiếng the thé hô vang: “Hoàng thượng giá lâm.”
Lý Hạo chậm rãi đi từng bước đến ngai vàng, tuy rằng đầu luôn thẳng, nhưng đôi mắt không ngừng đảo liên hồi, nhằm đánh giá cảnh vật phía trong điện. Và hắn thấy một đám người quỳ xuống, cúi đầu tung hô: “Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.”
Lý Hạo khoan thai ngồi lên ngai vàng. Hai bên có hai tên thái giám trẻ tuổi cầm hai cây quạt chầm chậm phe phẩy, thổi vào lưng hắn từng đợt gió mát hiu hiu. Lý Hạo mỉm cười quan sát các quan đại thần đã đứng thành hàng ngũ chỉnh tề.
Tràng diện đối mặt với hàng trăm người như thế này không phải là hắn chưa từng trải qua bao giờ, nên biểu hiện tự tin như thế cũng là bình thường. Kiếp trước Lý Hạo trải qua bao lằn ranh sinh tử, chém giết liên miên, có tình cảnh nào mà hắn chưa được trải nghiệm cơ chứ. Hắn nhếch mép, cất tiếng: “Các vị cứ tự nhiên, kiếm chỗ ngồi xuống đi!”
Lão thái giám Lê Việt Tiến hóa đá, các binh lính đứng xung quanh hóa đá, toàn bộ quan viên đang quỳ bên dưới điện cũng đồng loạt hóa đá. Lý Hạo chợt cảm thấy có gì đó không đúng, mới nhớ lại câu nói vừa rồi của mình. Thực ra đó chính là câu nói cửa miệng của hắn, khi bắt đầu cuộc họp hội nghị với đám đàn em dưới trướng. Đây chỉ là phản xạ có điều kiện, hắn nhất thời buột miệng mà thôi, không thể trách hắn được. Hắn đến thời đại này bao lâu cơ chứ? Mới chỉ có mười mấy tiếng đồng hồ là cùng. Bắt hắn phải thích ứng ngay ư? Buồn cười, đến cả thần tiên cũng không được.
Lý Hạo hậm hực, văng tục trong lòng : “Mấy cái quy củ chó chết thời xưa, làm mình mất mặt liên tục, con bà tụi nó, sau này mình sẽ xóa sạch hết.” Nhưng ngoài mặt lại cười vang ha hả: “Ha ha ha, hôm nay trẫm cao hứng, nói đùa mấy câu thôi. Được rồi. Các ái khanh, bình thân!”
Tới bây giờ, đám quan lại trong triều mới lục tục đứng dậy, hai hàng cánh chuồn trên mũ lung lay theo nhịp đứng dậy của họ. Từ thời vua Lý Thánh Tông đã bắt đầu áp dụng kiểu mẫu triều phục cho các quan. Vua cấp cho trăm quan mũ cánh chuồn, đương thời gọi là mũ phốc đầu, quy định triều phục vào chầu là đội mũ cánh chuồn và đi hia. Các triều đại sau tiếp tục áp dụng những đồ dùng đó làm triều phục.
Tất cả đều nghiêm chỉnh đứng thẳng, cúi đầu, hơi nghiêng mình về phía trước, tức thì trong đại điện im phăng phắc, không nghe cả tiếng kim rơi. Lý Hạo hơi bất ngờ về tác phong của quan viên thời xưa, quy định trong triều cũng có cái hay của nó. Nào có giống với thời Lý Hạo sống ở kiếp trước, khi họp đại biểu Quốc Hội, có cả những đại biểu ngủ gật, hoặc là hai người quay ngang sang nói chuyện với nhau trong giờ họp nữa. Tiếp theo, lão thái giám ho khan một tiếng, lớn giọng nói: “Ai có việc thì tấu, không việc, bãi triều.”
Lúc này một người đứng ra khỏi hàng ngũ, cất tiếng: “Khải bẩm hoàng thượng, thần có chuyện cần tấu.”
Lý Hạo nhận ra đó là Trung thư thị lang Cao Quang Viễn, hắn hơi nhíu mày nhìn nhìn vị đại thần này, thầm nghĩ: “Hôm nay là ngày đầu tiên ta lên triều, tên này ăn no rửng mỡ lại còn chạy ra tấu, muốn bêu xấu ta chắc. Nhưng không sao, thằng đần Lý Huệ Tông cũng có biết cái gì đâu, mỗi lần lên triều chỉ biết nghe và phán lung tung một hồi sau đó cho bãi triều. Như vậy lại may cho mình vào thời điểm này, có giả ngu cũng không ai biết.”
Thấy hắn im lặng hồi lâu, khiến Trung thư thị lang Cao Quang Viễn bất giác đổ mồ hôi lạnh sống lưng, tưởng bản thân phạm phải sai lầm gì để cho long nhan đổi sắc. Chốc lát sau, Lý Hạo mới phun ra được hai chữ: “Chuẩn tấu.”
Cao thị lang bắt đầu nói giống hệt như tiếng học trò đang tập đọc tứ thư ngũ kinh, nhưng giọng nói pha chút run rẩy, bị vua nhìn chòng chọc như vậy thì ai mà không sợ hãi cơ chứ, chỉ nghe hắn nói: “Khải bẩm hoàng thượng, hiện nay các vùng trong cả nước đang chịu cảnh thiên tai khắp nơi, dân tình ai oán, đang cần triều đình trợ giúp rất nhiều. Cụ thể là các vùng đang chịu thiên tai nặng nhất như lộ Diễn Châu đang chịu cảnh hạn hán, đồng ruộng khô héo. Lộ Long Hưng thì bị vỡ đê, nước tràn khắp nơi, dân chúng kêu than không ngừng. Lộ Thiên Trường lại đang chịu sự tàn phá của mưa bão, úng ngập ruộng đồng. Ngoài ra ở các châu, lộ khác đang gặp phải các tình cảnh thiên tai cũng không khá gì hơn.”
Trung thư thị lang Cao Quang Viễn vừa chấm dứt bài tấu chương, vội vã rút lui về vị trí đứng. Hiện tại, hắn mới phát giác, toàn bộ lưng áo đã ướt sũng. Không phải đây là lần đầu tiên hắn khải tấu, trước đây hắn cũng từng đứng trước bá quan văn võ và Lý Huệ Tông bẩm tấu vài lần. Nhưng chưa có lần nào hắn có cảm giác sợ hãi như lần này. Hắn cảm thấy hôm nay khí chất của vị vua đang ngồi trên ngai vàng kia, phảng phất sự âm trầm, khủng bố.
Khí chất của một người nào phải tự nhiên mà có, nó chính là được rèn giũa theo thời gian, năm tháng và trải nghiệm của mỗi người. Hạo Chín Ngón đạp lên biết bao mạng người để leo lên đỉnh, thì khí chất hung tàn, khát máu đã bám rễ chặt chẽ với linh hồn của hắn. Thế nên, Cao Quang Viễn bị Lý Hạo chiếu tướng mà không run rẩy mới là chuyện lạ. Tuy nhiên, chuyện này cũng chỉ Cao Quang Viễn là cảm nhận được, các đại thần khác đều không hề hay biết, kể cả những quan viên đứng đầu. Bởi vì, triều luật nghiêm khắc, nên không có ai ngẩng đầu lên trông thấy vua, quan hai người bọn họ đấu khí thế với nhau cả.
Xét cho cùng thì cũng tội nghiệp cho Cao Quang Viễn, hắn cứ tưởng hắn phạm tội gì đó bị vua biết được. Thực ra là hắn có tật giật mình, hôm qua hắn mới nhận tiền đút lót của lão phú ông gần nhà để chạy tội cho lão. Hắn khổ sở nghĩ chẳng lẽ hoàng thượng đã nghe ai mật tấu về chuyện đó. Nhưng hắn đâu ngờ, nguyên nhân Lý Hạo bực bội hắn đơn giản là vì hắn đứng ra tấu quá nhiều chuyện, yêu cầu Lý Hạo giải quyết.
Mặc dù định lực của Lý Hạo rất cao, nhưng lúc này hắn vẫn phải tức giận nhìn Cao Quang Viễn thao thao bất tuyệt nói một tràng dài về những vùng đang bị thiên tai cần cứu trợ. Những vấn đề này mà kêu hắn đi giải quyết sao? Một đại ca xã hội đen mới chuyển thế như hắn, thì một chút hiểu biết về những vấn đề này cũng không có nữa là. Lý Hạo đang ngầm bới móc mười tám đời tổ tông nhà Cao Quang Viễn ra mà nguyền rủa. Ngày đầu tiên hắn lên triều, đã đem củ khoai lang nóng bỏng ném vào trong tay hắn.
Lý Hạo rất dứt khoát học theo bộ dáng của Lý Sảm mà phán: “Chư vị ái khanh có cao kiến gì, hãy đưa ra để cùng nhau bàn bạc.” Phán xong, hắn liếc mắt nhìn đến những quan viên đang chầu, vẻ mặt đầy chờ mong.
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của heocons
Lý Hạo quét mắt nhìn hồi lâu, thấy quần thần phía dưới vẫn im phăng phắc, không ai mảy may động đậy. Lý Hạo ngầm tức giận, chẳng lẽ mấy tên ôn thần đồng loạt cấm khẩu, cố ý muốn làm xấu mặt mình.
Lát sau, một người có vóc dáng thấp bé đứng ra khỏi hàng, người đó là bộ thị lang Đào Thưởng đứng ra lên tiếng: “Vi thần xin có ý kiến.”
Lý Hạo lộ ra vẻ mặt ngây ngô, ngoác miệng nói: “Chuẩn tấu.”
Bộ thị lang bộ hộ Đào Thưởng chắp hai tay cung kính, mà rằng: “Theo ý kiến của hạ thần, đầu tiên triều đình sẽ trợ giúp từng lộ một, giải quyết đến lộ nào, thì dứt điểm lộ ấy, mới có thể tiếp tục trợ giúp tới lộ khác. Theo như vi thần thấy, lộ Diễn Châu gần kinh thành hơn cả và hứng chịu hậu quả của thiên tai nặng nề nhất, ta nên chú trọng đầu tiên vào lộ này, rồi sau đó mới đến các lộ tiếp theo.”
Ngự sử đại phu Lý An Khang, nghe bộ thị lang hộ hộ Đào Thưởng nói như thế, có điều phật ý, liền xin phép Lý Hạo, rồi buông lời can gián: “Thần trộm nghĩ, việc các vùng không cần phân chia trước sau, cần cứu tế tai dân cùng một lúc để tránh cho nạn dân ở các nơi còn lại phải chịu cảnh chờ đợi, sống trong khổ sở, làm ảnh hưởng đến vấn đề dân sinh.”
Rồi bộ thị lang bộ binh Đỗ Nguyên lại đứng ra xin tâu, người này hình dáng cao to, mày rậm, mắt sâu, nhưng đôi môi lại mỏng, gây cho người đối diện cảm giác áp bức khó dò, hắn nói: “Thần thiết nghĩ, cảnh thiên tai, năm nào chẳng có, việc đó cần để sau. Việc trước mắt bây giờ là giặc cướp nổi lên như ong, hầu như châu, lộ nào cũng xuất hiện vài đám tặc tử, từ bọn mã tặc, đến sơn tặc, và cường đạo nơi nơi xuất hiện, ngày đêm cướp bóc, khiến cho thương nhân kêu khóc thấu trời. Điều cần thiết nhất bây giờ là phải cử quân triều đình đi dẹp loạn đám cường đạo đó, để tạo phúc cho lê dân bá tánh, dương oai triều ta.”
Lý Hạo gật gù, ra chiều đắc ý lắm, vỗ mạnh lên tay ngai vui vẻ mà phán: “Các khanh tâu đều có lý cả, không biết còn vị đại thần nào khác có cao kiến gì hay chăng?”
Giờ đây, thái úy Đỗ Kính Tu mới từ từ ra khỏi hàng cúi đầu xin nói, lão là cựu thần hai triều, đức cao vọng trọng, lời lão nói luôn được sự ủng hộ của cựu thần triều trước, lão chậm rãi tấu rằng: “Theo ý của lão thần, triều ta nên vì bách tính mà giải họa thiên tai, cần kiểm tra vùng nào bị nặng nhất thì đi cứu trợ vùng đó trước, các vùng chịu sự tàn phá nhẹ hơn thì để sau.”
Thái úy Đỗ Kính Tu vẫn còn đang có lời muốn nói thì đột nhiên một người đứng hàng trên cùng, từ đầu đến cuối một mực không để ý ai, chỉ lo nhắm mắt, chăm chú dưỡng thần, lại chen ngang nói không màng phép tắc, người ấy là thái úy phụ chính Tô Trung Từ, giọng hắn oang oang cất tiếng như giữa chốn không người: “Ý của thần chính hợp ý của Đỗ thái úy đại nhân, thần đã tìm hiểu và biết được lộ Long Hưng là chịu thiên tai nhiều nhất, nên cứu trợ ở đây trước tiên.”
Đỗ Kính Tu thấy Tô Trung Từ ngắt lời mình, lão cả giận phản đối: “Sao Tô thái úy biết rõ ở đó là chịu thiên tai nặng nhất.”
Tô Trung Từ điềm nhiên đáp: “Bổn quan đã điều tra rõ rồi, không cần Đỗ thái úy bận tâm.”
Lúc Tô Trung Từ nói đến lời này, hắn không biết được trong mắt Lý Hạo xẹt qua một tia lạnh lẽo.
Tô Trung Từ có bộ dạng to cao, vạm vỡ, đường đường chính chính, khí thế ngút trời, mặt đen râu dài, có dáng dấp của người miền biển. Khoảng thời gian trước khi xảy ra loạn Quách Bốc, hắn làm chức quan nhỏ trong triều, có quen biết với thái tử Lý Sảm. Về sau, nhờ Tô Trung Từ và Trần Lý phò trợ đánh dẹp Quách Bốc giúp, nên Lý Sảm mới có cơ hội bước lên đỉnh vương vị như vậy.
Hiện tại chương thành hầu Trần Tự Khánh cũng ra góp lời: “Bẩm hoàng thượng, chuyện lộ Long Hưng bị thiên tai tàn phá trầm trọng nhất là xác thực, vi thần cũng đã cho người điều tra cặn kẽ.”
Kế tiếp thái bảo Trần Thừa cũng ra góp vui ứng tiếng: “Các châu lộ khác đều là hồi tai nạn nho nhỏ, đâu bằng một góc thiên tai của lộ Long Hưng, tiếng ai oán vang vọng, người người đều biết. Chuyện này đã rõ, thiết nghĩ bệ hạ nên quyết định luôn, không cần phải bàn lui nữa.”
Rồi một đám quan lại thân tín bên gia tộc họ Trần nhao nhao phát biểu, dị khẩu đồng thanh, xưng lời của Tô Trung Từ đại nhân là chí phải. Lý Hạo cười cười đưa ra quyết định: “Nếu như chư vị bá quan văn võ đều đã cho rằng như thế, thì trẫm xuống chỉ, trợ giúp lộ Long Hưng đầu tiên, sau đó sẽ đến các lộ khác thì bàn sau, mọi chuyện giao cho trung thư thị lang Cao Quang Viễn toàn quyền xử lý.”
Tuy rằng Lý Hạo biểu hiện ra ngoài như vậy nhưng trong lòng không ngừng cười lạnh, hắn biết rõ gia tộc họ Trần đánh chủ ý giúp đỡ cho vùng quê của bọn chúng mà thôi. Tô Trung Từ, Trần Tự Khánh, Trần Thừa đều là người một nhà cả. Ba người đều làm quan to trong triều, ngoài ra còn nhiều người nữa của gia tộc họ Trần đều đang đứng trong điện Thiên An. Tô Trung Từ là cậu của hai anh em Trần Tự Khánh và Trần Thừa. Nguyên phi Trần Thị Dung cũng là em gái của hai người họ.
Hay cho một gia tộc họ Trần, anh em trong nhà vô cùng đoàn kết, thao túng triều đình như nắm vững trong lòng bàn tay. Có thể hiểu gia tộc họ Trần sau này đoạt được thiên hạ cũng là lẽ đương nhiên.
Nghĩ đến đây, bất giác Lý Hạo siết chặt nắm tay trái, hắn cười khẩy trong lòng: “Ông Trời đã cho Hạo Chín Ngón vào vai diễn này, thì tất nhiên Hạo ta phải diễn cho tốt, hươu chết về tay ai, còn chưa rõ.”
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của heocons
Lý Hạo quay sang hỏi thái úy Đàm Dĩ Mông: “Vậy Đàm thái úy có cao kiến gì về việc giặc cướp hay không?” Đàm Dĩ Mông quản lý hoàn toàn việc binh, nên hỏi hắn cũng không sai.
Thái úy Đàm Dĩ Mông có bộ dạng mập mạp, khuôn mặt trắng trẻo nung núc thịt, hai má phệ xuống, cộng với đôi mắt thâm quầng chứng tỏ là người tửu sắc quá độ, không có hình dáng gì của một võ tướng, đứng ra ngượng ngập hồi đáp: “Mấy tên giặc cỏ này, không cần quan tâm nhiều làm gì, chỉ là một đám ô hợp, sao có thể chọi được với quân lính chính quy triều đình, thần chỉ cần phái vài đạo quân đi, là có thể tiễu trừ hòan toàn nạn cường đạo này.”
Tô Trung Từ nghe thấy lời Đàm Dĩ Mông vừa nói, cảm thấy giống như đang xem hài kịch, buông lời chế giễu: “Lời này của Đàm thái úy, hình như bổn quan đã nghe nhiều rồi, nhưng nạn giặc cỏ vẫn không hề thuyên giảm thì phải?”
Đàm Dĩ Mông tím mặt hồi lâu mới đứng ra đáp: “Sao có thể có chuyện đó, bẩm hoàng thượng, quả thực là vi thần đã xóa sạch nạn cường đạo trước đây, nhưng đám điêu dân lại ham ăn biếng làm, chỉ lo cướp bóc để hưởng thụ, nên mới xảy ra chuyện như thế.”
Tô Trung Từ nhếch mép cười: “Thì ra là vậy, bổn quan lắm lời rồi.” Tô Trung Từ quyền khuynh thiên hạ. Một lời của hắn còn nặng hơn lời vua, giữa chốn triều đình chỉ người nọ, mắng người kia đã dưỡng thành thói quen, nhưng không một ai dám làm gì hắn cả.
Lý Hạo thầm cảm thán, Lý Sảm lên làm vua như vậy có khác gì bù nhìn. Người ta ở trước mặt hắn vung tay vung chân, mà không dám hé răng chỉ trích nửa lời. Đứng ở ngôi cửu ngũ chí tôn mà nhục nhã như thế, đến nửa đời sau không phát điên mới là quái sự.
Còn Đàm Dĩ Mông ư? Hắn rõ ràng là một kẻ vô dụng, nhu nhược và nói nhẹ là thiếu học thức, còn bảo nặng chính là ngu ngốc. Con người này mà trông cậy vào thì có khác gì bắt mèo đi canh cổng, bắt chó đi cày. Đàm Dĩ Mông là em trai của Đám thái hậu. Đàm thái hậu lại chính là mẫu hậu của thân xác mà Lý Hạo đang trú thân. Từ đó suy ra, Đàm Dĩ Mông leo lên chức thái úy, hơn phân nửa cậy nhờ vào thân phận của người chị gái vậy.
Lý Hạo còn căm ghét Đàm Dĩ Mông ở bản chất bội tín bội nghĩa. Trước đây, để lấy lòng Lý Cao Tông mà Đàm Dĩ Mông đã bán đứng quan đồng liêu, dâng lên bản danh sách gồm hai mươi tám người, từng được Lý Sảm sắc phong thời Lý Sảm tự xưng Vương. Lúc quyền thế thì hắn coi rẻ tình đồng liêu, khi sa cơ thì nghĩa vua tôi chẳng kể, đến hồi hoạn nạn thì phản bạn mà lo thân. Con người Đàm Dĩ Mông phải nói là thủ đoạn khó lường, chỉ kẻ tiểu nhân mới có tâm địa ấy.
Vốn dĩ, Lý Hạo còn muốn chiêu lãm Đàm Dĩ Mông dưới trướng, nhưng hôm nay Lý Hạo thấy biểu hiện của Đàm Dĩ Mông yếu đuối, hèn nhát như thế, Lý Hạo quyết định đá hắn ra khỏi vòng tròn, để tránh về sau bị đâm một đao lúc nào không biết.
Kế tiếp, các đại thần trong triều lần lượt dâng sớ tâu về nhiều vấn đề khác cần giải quyết, chẳng hạn như xây cầu, thông đường, đắp đê, đào mương, … rồi các vấn đề về nông nghiệp, thương nghiệp, ngoại giao, …
Có thể thấy rõ, tới bất cứ vấn đề nào đi nữa, đám quan lại trong điện chầu cũng cãi nhau ỏm tỏi liên hồi. Nhìn bề ngoài tưởng rằng họ đau đáu, khổ sở vì nước vì dân lắm lắm. Nhưng thực ra là đang tranh giành quyền lợi về bên phe phái của mình. Một phe cựu thần triều cũ do Đỗ Kính Tu dẫn đầu, một bên là bè đảng của gia tộc họ Trần do Tô Trung Từ lãnh đạo. Kết cuộc, đa số là phe Tô Trung Từ chủ yếu chiếm phần hơn.
Lý Hạo ngó lại những quan viên mang họ Lý, lại rặt một phường giá áo túi cơm, ngậm miệng ăn tiền. Có một số kẻ chỉ cúi gằm mặt xuống từ lúc bắt đầu đến lúc tan chầu, có một số tên thì mắt lơ đãng nhìn quanh như muốn thể hiện rằng không liên quan đến ta, đừng tìm ta gây phiền toái. Có một số người cũng đứng ra lên tiếng, lúc đó Lý Hạo mừng quýnh, tưởng đã tìm được hiền tài. Nhưng ai ngờ, chỉ cần Tô Trung Từ đứng ra chặn họng mấy câu, đã run lẩy bẩy như gặp hung thần, há mồm mãi vẫn không thốt nên được lời nào. Lý Hạo chỉ còn biết ngửa đầu than thở: “Trời diệt nhà Lý ta.”
Ban đầu, Lý Hạo còn chăm chú lắng nghe, ra chiều hứng thú, đến dần về sau cảm giác đầu váng mắt hoa, sao bay đầy trước mặt. Vừa nhập vào thân xác vua, chưa cho hắn hưởng thú vui, hoan lạc của việc làm vua, đã bắt hắn chịu loại cực hình tra tấn nặng nề đến độ này. Thực khiến hắn muốn đâm đầu vào cột để tự sát cho xong.
Trước đây, hắn những tưởng làm vua phải cực kỳ sung sướng. Chỉ cần ngồi một chỗ giơ tay năm ngón, tất cả muôn dân trăm họ đều vâng vâng dạ dạ, răm rắp lắng nghe. Vung tay đằng đông, không ai dám đi đằng tây. Oai vua như sấm, giận dữ thì máu chảy thành sông, vui vẻ thì ban ân khắp chốn. Thế mà bây giờ hắn không dám mở miệng mắng chửi một lời, chỉ có thể chịu nhục đóng kịch trước mặt trăm quan, ai nói cái gì cũng phải gật đầu lia lịa như gà mổ thóc.
Vào tối hôm qua, Lý Hạo còn bừng bừng khí thế, suy nghĩ cả đêm về đối sách dẹp loạn yên dân. Hắn còn định bụng sẽ làm ra một loạt chính sách canh tân đổi mới, giúp cho lê dân bá tánh ca ngợi tung hô, được đời đời truyền lại, lưu danh hậu thế. Hắn những tưởng mọi chuyện sẽ đơn giản như lông gà vỏ tỏi, chỉ cần một đạo thánh chỉ là giải quyết được hết vấn đề. Hắn là ai chứ? Là vua một nước, vua nắm mọi quyền hành sinh sát trong tay, kẻ nào dám chống, tru di cửu tộc, giết sạch không tha.
Nhưng, đúng vậy, phải dùng chữ nhưng. Bởi vì hắn đang ở trong một hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm, như ngàn cân treo sợi tóc. Nếu như Lý Hạo dám mở miệng hô câu đó với Tô Trung Từ, người chết đầu tiên không phải ai khác, lại chính là hắn.
Một sự thực hiển nhiên, mọi quyền hành trong triều đã rơi vào tay gia tộc họ Trần. Những vị trí cốt cán, quan trọng đều là người của chúng, nếu không phải họ Trần, cũng là họ Tô. Bộ lại đứng đầu là ai? Là thượng thư bộ lại Nguyễn Ma La, là con rể của Tô Trung Từ. Bộ binh đứng đầu là ai? Là thượng thư bộ binh Trần An Quốc, là em họ của Trần Tự Khánh. Còn nhiều chức vụ khác nữa, mà Lý Hạo không buồn nghĩ tới. Chưa hết, chúng còn nắm giữ quyền quản lý ba đội Túc vệ quân, nắm giữ quyền điều khiển khoảng một phần ba binh lính Thành vệ quân. Ngoài ra, hàng vạn binh lính của gia tộc họ Trần ở phương nam khí thế ngút trời, điên cuồng thao luyện ngày đêm, như hổ đói rình mồi, luôn đợi dịp xông thẳng tới kinh thành.
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của heocons
Gia tộc họ Trần vốn sinh sống quanh năm bằng nghề đánh bắt cá trên sông nước, họ thường làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý đã trở thành một thế gia vọng tộc, có thế lực cường đại bao trùm khắp vùng Hải Ấp.
Loạn Quách Bốc xảy ra, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Quy Hóa, Lý Sảm lúc bấy giờ còn làm thái tử, chạy về Hải Ấp, thuộc lộ Long Hưng, nương nhờ gia tộc Trần Lý. Ở đây, Lý Sảm gặp Trần Thị Dung, rồi đem lòng yêu mến. Từ khi ấy trở về sau, tình cảm của Lý Sảm đối với nàng đều trước sau như một, không hề thay đổi. Có thể cho rằng Lý Sảm không xứng là một vị vua tốt, nhưng chắc chắn một điều hắn là một người đàn ông chung thủy.
Thời gian sống ở Hải Ấp đối với Lý Sảm mà nói chính là thời gian hạnh phúc nhất. Hắn được mĩ nhân luôn ở bên cạnh yêu chiều, chăm sóc. Hắn thầm nghĩ cuộc sống thần tiên cũng chỉ đến thế mà thôi.
Nhưng mọi thông tin Lý Sảm nhận được khi thông qua đánh giá của Lý Hạo lại hoàn toàn trái ngược. Ba anh em Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung đều là con ruột của Trần Lý. Đoạn nhân duyên giữa Lý Sảm và Trần Thị Dung, đơn giản chính là cuộc hôn nhân chính trị mà Trần Lý tạo dựng nên. Trần Lý đã hy sinh con gái mình, để làm bước đệm đưa gia tộc họ Trần bước lên vũ đài lịch sử.
Không biết Trần Lý có lòng tạo phản hay không? Mà con cháu trong dòng họ, thanh niên trai tráng trong làng, ngày ngày đều thao luyện võ nghệ, học tập binh thư. Phải nói người trong gia tộc họ Trần, nhân tài lớp lớp, người thế hệ trước thì thâm sâu khó lường, kẻ thế hệ sau toàn là anh thư hào kiệt.
Hắn quan sát lúc tư quân trong nhà Trần Lý tập luyện, lại càng khiếp sợ. Quân kỷ binh lính nghiêm minh, tác phong quân đội như nhất. Cường độ huấn luyện nặng nề vô cùng mà không ai có một câu oán thán. Lúc gia tộc họ Trần hộ tống Lý Sảm về kinh, tấn công thành Thăng Long, thì quân đội Trần tộc đã bộc lộ hoàn toàn sức mạnh to lớn. Quách Bốc xua quân đánh kinh thành dễ như trở bàn tay, kiêu căng tự đại. Thế nhưng đụng độ với hai huynh đệ Trần Lý, Tô Trung Từ lại như gặp thiên địch. Quân đội nhà Trần nhất mạch công thành, thế như chẻ tre, toàn diệt Quách Bốc, trợ giúp Lý Sảm bước lên vương vị.
Tiếc thay, trong trận chiến cuối cùng, Trần Lý kiêu hùng một đời lại bỏ mạng chốn sa trường. Đây cũng là cái giá mà Lý Sảm không bao giờ có thể trả nổi cho gia tộc họ Trần. Khiến hắn luôn hổ thẹn trong lòng dẫn đến một chuỗi sai lầm nối tiếp nhau. Vay tiền dễ trả, nhưng nợ mạng rồi sao có thể đền nổi đây? Đó cũng là một trong những lý do để gia tộc họ Trần chèn ép, thâu tóm hết thảy quyền hành vào tay.
Lý Hạo còn vượt hẳn thời đại biết trước một điều. Sức mạnh của quân đội nhà Trần đâu chỉ có thế. Lúc bấy giờ, trên vùng thảo nguyên bát ngát, ở phía bắc Đại Tống, xuất hiện một đội kỵ binh thần thánh, đội kỵ binh Mông Cổ. Đội kỵ binh này được mệnh danh là đội kỵ binh mạnh nhất thế giới thời kỳ chiến tranh lạnh. Họ chính là những kỵ binh khát máu, đông đảo và thành công nhất trong mọi thời đại. Những cuộc chiến đối với họ đồng nghĩa với sự tàn sát và phá hủy. Từ những bộ tộc nhỏ bé hẻo lánh đến kinh ngạc, họ đã phát triển thành một đế chế có đất đai rộng nhất trong lịch sử loài người. Giả sử, Thành Cát Tư Hãn sống đủ lâu. Giả sử, lực lượng quân lính Mông Cổ đủ đông. Có lẽ người Mông Cổ đã chinh phục toàn bộ châu lục trên trái đất.
Các hiệp sĩ khắp một dải Châu Âu, những kỵ binh của các vương quốc hồi giáo, chiến binh hùng mạnh của Nga , binh lính đông đảo của Trung Quốc … Không nơi nào chống đỡ được vó ngựa của dân Mông Cổ. Nhưng vó ngựa Mông Cổ đã phải dừng bước trước quân đội nhà Trần. Cả ba lần tiến công Đại Việt, thì cả ba lần kỵ binh Mông Cổ bị đánh cho thảm bại, người ngã ngựa đổ, hoảng hốt ôm đầu chạy trốn trở về. Sau ba trận đại thắng, người đời xưng tụng khí thế chiến đấu vô song của quân dân nhà Trần thời ấy là "Hào khí Đông A". Từ đó, nhà Trần đã tạo nên một thiên anh hùng ca, viết ra một lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt.
* * * * * * * * * * *
Trên điện chầu, tận mắt chứng kiến thế lực nhà Lý hủ bại, thế lực nhà Trần nổi lên như mặt trời giữa ngọ, Lý Hạo đã cảm thông cho Lý Sảm hơn rất nhiều. Bởi vì, dù có thông minh tuyệt đỉnh đến cỡ nào đi chăng nữa, khi rơi vào hoàn cảnh tồi tệ như vầy, cũng chỉ còn cách buông tay, cho xuôi theo dòng nước mà thôi.
Hiện tại, hắn đang cầu khấn được quay về kiếp trước, làm lão đại ca về hưu, an phận thủ thường, vui vẻ sống hết quãng đời còn lại. Làm lão đại ca, phải rồi, hắn là một đại ca, một ông trùm của thế giới ngầm trong kiếp trước. Hắn đã từng là một huyền thoại với hung danh vang dội, hắn đã từng sống trong những khốn cảnh tồi tệ vô cùng, vậy mà hắn vẫn đạp bước để đi tiếp, chẳng lẽ hắn lại có thể đầu hàng dễ dàng như thế sao.
Ý chí bất khuất là đức tính lớn nhất mà hắn có. Càng gặp chuyện khó khăn thì hắn càng kiên cường đối đầu với nó. Cổ nhân có câu “binh tới tướng ngăn, nước lên đắp đập”. Đúng là hiện giờ, hắn rất khó khăn, muốn làm gì cũng bó tay bó chân. Những tưởng muốn ngay tức thì chống lại thế lực hùng mạnh kia, đó là một suy nghĩ viển vông, hoàn toàn không thể. Hắn tự đề tỉnh chính mình, đường dài mới biết ngựa hay, hắn sẽ không bao giờ chùn bước trước cường quyền.
Lúc bạn làm một việc gì đó hứng thú, vui vẻ, bạn sẽ cảm thấy thời gian trôi qua rất nhanh. Ngược lại, khi bạn làm một công việc nhàm chán, thì ôi thôi, thời gian sẽ kéo lê từng bước chậm chạm đến kinh người. Tương tự như Lý Hạo lúc này, hắn đang thực hiện một công việc hết sức nhàm chán. Hắn uể oải, nghệt mặt ra xem các quan viên đương triều ganh đua miệng lưỡi của nhau.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, cuối cùng đã đến giờ kết thúc buổi chầu, Lý Hạo rất mau mải yêu cầu lão thái giám Lê Việt Tiến hô vang khẩu hiệu “bãi triều”, hắn cực kỳ mong muốn được thoát khỏi cái địa ngục trần gian này nhanh chừng nào hay chừng ấy.
Lý Hạo chán chường, chật vật vô cùng, nhưng kịch thì vẫn phải đóng. Hắn khoan thai, phất tay giống như đang đi dạo chơi ngắm cảnh, ung dung rời khỏi đại điện.Tiếp theo hắn được dẫn đến ngự thiện phòng, để lần đầu tiên trong đời được ăn bữa ăn hoàng tộc.
Đã có 6 Thành viên nói CÁM ƠN đến bài viết rất có ích của heocons