Thấy tôi vào cô gật đầu chào theo cách thân mật duyên dáng chỉ có ở những người phụ nữ Pháp rồi giơ tay cho tôi, cô để tôi ngồi xuống bên cạnh cô như ngày hôm qua.
- Thế đấy – cô nói – tôi đang lo liệu công việc của ông.
- Ồ - tôi trả lời với một thái độ làm cô bật cười – đừng nói về tôi mà hãy nói về cô.
- Sao? Về tôi à? Phải chăng việc này là của tôi? Phải chăng tôi mong có một chức danh thầy dạy đánh kiếm trong một trung đoàn của Hoàng đế? Về tôi ư? Vậy ông có gì nói về tôi?
- Tôi muốn nói với cô là từ hôm qua cô đã làm tôi trở thành người hạnh phúc nhất trong những người đàn ông, rằng từ hôm qua tôi chỉ nghĩ về cô và chỉ thấy có cô, tôi không ngủ được và tưởng chừng như giờ chúng ta gặp lại nhau không bao giờ đến.
- Những lời ông nói với tôi là lời thổ lộ trong khuôn khổ đấy.
- Theo tôi, cô cho là thế nào cũng được – tôi nói – không chỉ điều tôi nghĩ mà còn là điều tôi cảm nhận.
- Một lời nói đùa.
- Không, trên danh dự đấy.
- Ông nói nghiêm túc à?
- Vâng, rất nghiêm túc.
- Thế đấy! Như việc gì cũng có thể và sự thú nhận quá sớm có lẽ không kém thành thực, nhiệm vụ của tôi là không để cho ông đi xa hơn.
- Sao lại thế?
- Ông đồng hương thân mến, giữa chúng ta chỉ có tuyệt đối có thể là tình bạn rất tốt, thẳng thắn và trong sáng.
- Tại sao?
- Vì tôi đã có người yêu và ông đã biết qua em gái tôi, sự trung thành là một lề thói gia đình.
- Phải chăng tôi thật bất hạnh!
- Không, ông không bất hạnh. Nếu tôi để cảm tình đối với tôi như ông nói cắm rễ sâu hơn, thay vì dứt ra khỏi đầu ông trước khi nó đủ thì giờ đi vào con tim thì ông có thể trở thành bất hạnh. Nhưng ơn Trời…- Louise mỉm cười nói thêm – thật kịp thời và tôi hy vọng đã kịp ngăn chặn trước khi tiến triển nhiều.
- Được rồi, chúng ta đừng nói đến nữa.
- Ngược lại, chúng ta cứ nói vì ông sẽ gặp ở đây người mà tôi yêu, việc ông biết tôi đã yêu đến mức nào rất quan trọng.
- Xin cám ơn cô đã tin tưởng đến thế.
- Ông tự ái như thế là sai lầm đấy. Nào đưa tay cho tôi như đối với cô bạn tốt.
Tôi nắm lấy tay Louise và về các mặt tôi không có quyền gì oán hận cô. Tôi nói:
- Cô thật trung thực.
- Phải vậy thôi.
- Chắc là ông hoàng nào đấy chứ?
- Không, tôi không đòi hỏi đến thế, chỉ là một bá tước.
- Chà! Rose! Rose! – tôi kêu lên – nếu cô đến Saint-Peterbourg cô sẽ quên ngay ông Auguste.
- Ông kết tội tôi trước khi nghe tôi nói và thế là ông sai. – Louise trả lời tôi – Vì vậy tôi sẽ nói với ông tất cả. Nhưng nếu không phán xét như thế thì ông không phải là người Pháp.
- May mà việc cô ưa chuộng người Nga làm cho tôi nghĩ cô ít nhiều có bất công với người đồng hương của cô.
- Tôi không bất công với bất cứ ai, thưa ông, tôi chỉ so sánh. Mỗi dân tộc có những khiếm khuyết, bản thân họ không nhận thấy nhưng lộ rõ trước mắt những dân tộc khác. Sai sót chính của chúng ta là sự nhẹ dạ. Một người Nga vừa tiếp một người Pháp đến thăm không bao giờ nói với một người Nga khác "Một người Pháp vừa ra khỏi đây". Anh ta sẽ nói "Có một kẻ điên đến chơi". Và kẻ điên ấy không cần nói là từ đâu đến, người ta biết ngay đó là một người Pháp.
- Thế người Nga không có sai sót gì sao?
- Tất nhiên không phải thế. Nhưng không phải người kẻ đến xin trú ngụ nhìn vào đấy.
- Cám ơn về bài học.
- Lạy Chúa! Không phải bài học mà là một lời khuyên. Ông đến đây có ý định ở lại, đúng không? Vậy thì nên kết bạn chứ không nên có kẻ thù.
- Cô bao giờ cũng có lý.
- Cũng đã như ông ,tôi thề không bao giờ để một trong hững ông lớn ấy, rất phục tùng Hoàng đế Nga và rất thô bạo với những người dưới mình, sẽ là người yêu của tôi. Thế nhưng tôi đã sai lời thề, vậy ông đừng làm gì giống như thế nếu không sẽ trái lời thề như tôi.
- Theo tính cách của cô, tuy tôi mới gặp cô hôm qua, tôi nghĩ cuộc đấu tranh đã rất lâu dài.
- Vâng, lâu dài, thậm chí đã suýt nữa thành bi kịch.
- Cô hy vọng ở tôi sự tò mò sẽ lấn át tính ghen tuông?
- Không hy vọng gì cả, tôi chỉ muốn ông biết sự thật, thế thôi.
- Vậy cô nói đi, tôi xin nghe.
- Như địa chỉ bức thư của Rose đã cho ông biết , tôi ở nhà bà Xavier, cửa hiệu mốt thời trang nổi tiếng nhất Saint-Peterbourg. Lúc ấy cả giới quý tộc đều mua sắm ở đấy. Nhờ cái người ta gọi là sắc đẹp và tính chất của phụ nữ Pháp, tôi không thiếu những lời khen ngợi và ngỏ lời. Tuy thế, xin thề với ông, tuy những lời ngỏ và ca tụng ấy nhiều lần kèm theo những lời hứa hẹn tốt đẹp nhất, không có trường hợp nào tác động được đến tôi. Mười tám tháng đã trôi qua như vậy.
Gần hai năm trước, một chiếc xe kéo bốn ngựa đã dừng lại trước cửa hiệu, hai cô gái, một sĩ quan trẻ và một người đàn bà khoảng bốn mươi lăm, năm mươi tuổi bước xuống. Chàng trai là trung uý cận vệ, do đó ở lại Saint-Peterbourg nhưng mẹ và hai cô em gái thì ở Moscou. Họ vừa đến nghỉ hè cùng người anh và con trai, việc đầu tiên là đến cửa hiệu bà Xavier, trung tâm lớn về thẩm mỹ, thời trang, một người phụ nữ lịch sự chỉ ra mắt công chúng dưới sự hướng dẫn của cửa hiệu này. Hai cô gái thật đẹp còn chàng trai tôi ít chú ý đến mặc dù trong thời gian ngắn ngủi ấy anh có vẻ quan tâm nhiều đến tôi. Mua bán xong thì bà mẹ cho địa chỉ: bà Bá tước Vaninkoff, trên kênh Fontalka.
Hôm sau chàng trai đến một mình, anh ta muốn biết chúng tôi đã làm đơn đặt hàng của mẹ và em gái anh ta chưa và đề nghị tôi cho thay đổi màu của một chiếc nơ ruy băng.
Buổi tối tôi nhận được một bức thư ký tên là Alexis Vaninkoff, một loại thư tỏ tình. Tuy thế một điều tôi lưu ý như một sự tế nhị, không một sự hứa hẹn gì, người ta mong muốn nhận được trái tim tôi chứ không mua nó.
Có những trường hợp không thể tỏ ra quá cứng rắn mà không kỳ cục. Nếu tôi là một cô gái thời thượng, tôi đã gởi trả lại bá tước Alexis Vaninkoff mà không mở ra đọc, tôi chỉ là một cô gái tầm thường khốn khổ, tôi mở ra đọc rồi đốt đi.
Hôm sau bá tước trở lại. Các cô em và bà mẹ muốn để anh chọn những chiếc mũ không vành cho họ. Khi anh bước vào, tôi tìm cớ lui vào trong phòng bà Xavier và chỉ bước ra cửa hiệu khi anh đã đi.
Buổi tối tôi nhận được bức thư thứ hai. Người viết nói còn chút hy vọng là tôi không nhận được bức thư đầu. Như lần trước, bức thư này tôi cũng không trả lời.
Ngày hôm sau tôi nhận được bức thư thứ ba. Lời lẽ của bức thư này khác hẳn hai bức thư đầu khiến cho tôi chú ý. Từ dòng đầu đến dòng cuối thấm đượm nỗi buồn của người đã mất hết hy vọng. Anh quyết định nếu tôi không trả lời bức thư này, anh sẽ xin Hoàng đế nghỉ phép bốn tháng, lên Moscou sống với mẹ và các cô em. Tôi im lặng để anh làm như anh đã dự tính. Sáu tuần lễ sau tôi nhận được một bức thư từ Moscou, chỉ có mấy hàng như sau:
"Tôi chuẩn bị một đợt đăng ký điên rồ nguy hiểm đến tính mạng, không chỉ hứa hẹn tương lai mà còn qua những ngày gian truân. Hãy viết cho tôi sau này có lẽ em sẽ yêu tôi để có một luồng hy vọng gắn bó tôi vào với cuộc sống mà tôi đã không gắn bó với ai".
Tôi nghĩ mảnh giấy viết để đe doạ tôi và như những lần trước, tôi vẫn không trả lời.
Sau bốn tháng, tôi nhận được bức thư này:
"Tôi đến ngay. Ý nghĩ trở về đầu tiên là về với em. Tôi yêu em như và có lẽ hơn lúc tôi ra đi. Bây giờ em không chỉ có cứu sống cuộc đời tôi nữa mà còn có thể làm cho tôi yêu cuộc sống".
Sự quyết tâm lâu dài, bí mật ẩn chứa trong hai bức thư sau, nỗi buồn trong đó xác định tôi phải trả lời thư anh, chắc không phải một bức thư như bá tước mong đợi nhưng ít nhất cũng là mấy lời an ủi, tuy vậy kết thúc tôi đã nói là tôi không yêu anh và sẽ không bao giờ yêu.
- Điều ấy ông thấy có vẻ lạ lùng – Louise ngắt lời – và tôi thấy ông mỉm cười. Đức tính như vậy hơi kỳ cục ở một cô gái khốn khổ. Ông yên tâm, không chỉ là đức tính mà còn là sự giáo dục. Bà mẹ tôi, vợ goá của một sĩ quan, không có một chút tài sản nào, đã nuôi dạy tôi và Rose như thế. Lên mười sáu tuổi chúng tôi mất mẹ, và mất cả khoản trợ cấp nhỏ nuôi sống chúng tôi. Em gái tôi trồng và bán hoa, tôi buôn bán thời trang. Em tôi yêu người bạn của ông, chiều theo người yêu, tôi không thấy là một tội lỗi. Tôi thấy người ta đơn giản cho bản thân mình khi đã cho đi con tim mình. Riêng tôi chưa gặp được người tôi phải yêu và như ông thấy đấy, tôi đã ở như vậy, khôn ngoan tuy không xứng đáng được như vậy lắm.
Trong lúc ấy năm mới đến. Với những người Nga, ông chưa biết nhưng rồi sẽ thấy, ngày đầu năm là một ngày hội lớn. Hôm ấy lãnh chúa và nông dân, bà hoàng và người bán thời trang, vị tướng và quân lính đều trở thành anh em. Hoàng đế Nga tiếp dân chúng: hai mươi lăm nghìn giấy mời có thể nói được tung ra bất kỳ trên đường phố Saint-Peterbourg. Chín giờ tối cung điện Mùa Đông mở cửa và hai mươi lăm nghìn người khách mời ken đầy các phòng khách của hoàng gia suốt năm chỉ mở cho gíới quý tộc. Đàn ông hoá trang mặc áo thụng có nón trùm đầu hoặc theo lối quần áo Venise, đàn bà ăn mặc như thường ngày.
Bà Xavier cho chúng tôi giấy mời nên chúng tôi quyết định cùng nhau đi đến cung điện. Cuộc tập hợp người rất đông nhưng đặc biệt không mất trật tự, không thô bạo cướp giật gì tuy không có một người lính nào canh phòng. Lòng tôn trọng Hoàng đế lan khắp mọi người và người thiếu nữ trong trắng nhất cũng an toàn ở đây như trong phòng ngủ với mẹ.
Chúng tôi đã đến gần nửa tiếng đồng hồ, trong phòng khách chen chúc đến nỗi chúng tôi nghĩ không thể thêm một người nào nữa thì bỗng ban nhạc của các phòng ra hiệu tấu vũ điệu Ba Lan. Cùng lúc đó tiếng hô "Hoàng đế! Hoàng đế!" vang lên. Nhà vua xuất hiện ở cửa ra vào, khởi sự vũ điệu với bà Đại sứ Anh, cả triều thần đi theo, ai nấy dồn lại, đám đông tách ra một khoảng trống khoảng mười bộ, những người khiêu vũ nhảy vào đấy, đi qua như một dòng thác kim cương, lông vũ, gấm vóc, hương thơm. Phía sau đoàn người ai cũng xô đẩy nhau, dồn nén nhau. Bị tách khỏi hai cô bạn, tôi muốn đến với họ nhưng không được, một lúc thấy họ như bị cuồng phong cuốn đi rồi không trông thấy họ đâu nữa. Tôi không xuyên qua được bức tường người ngăn cách họ và rồi một mình tôi lọt giữa hai mươi lăm nghìn người.
Trong lúc hốt hoảng tôi đã sẵn sàng cầu cứu người đàn ông đầu tiên sẽ gặp thì một người đội mũ mặc áo choàng dài rộng đến bên cạnh. Tôi nhận ra Alexis.
- Thế nào, cô có một mình ở đây ư? – anh hỏi.
- Ồ, ông đấy à, bá tước? – tôi kêu lên và bám vào tay anh, rất sợ đơn độc giữa đám người này – Đề nghị ông giúp đưa tôi ra khỏi nơi này và đến gần một chiếc xe để tôi có thể ra về.
- Cô cho phép tôi đưa về, và tôi rất cám ơn sự tình cờ đã cho tôi nhiều may mắn hơn mọi khẩn khoản của tôi.
- Không, xin cám ơn ông, một chiếc xe thuê…
- Không thể tìm được một chiếc xe thuê vào giờ này, mọi người đang đến và không có ai ra đi. Cô ở lại đây độ một giờ nữa.
- Không, tôi muốn ra về.
- Vậy cô chấp nhận đi chiếc xe ngựa của tôi. Tôi sẽ bảo người đưa cô về vì cô không muốn trông thấy tôi. Thế đấy! Cô sẽ không trông thấy tôi.
- Lạy Chúa! Tôi những muốn…
- Nào, chỉ có một trong hai cách, hoặc ở lại, hoặc đi xe ngựa của tôi. Ti cho rằng cô không nghĩ đến việc đi bộ một mình và giữa cơn rét lạnh này.
- Nếu thế, thưa ông Bá tước, ông đưa tôi lại xe của ông.
Alexis làm theo ngay, tuy vậy vì quá đông người chúng tôi mất gần cả tiếng đồng hồ để ra đến cửa ở quảng trường Amirauté. Bá tước gọi người của mình và lát sau một chiếc xe lịch sự hai chồ ngồi khép kín dừng lại trước cửa. Tôi bước lên và cho địa chỉ của bà Xavier. Bá tước cầm tay tôi hôn, đóng cửa xe, nói mấy câu tiếng Nga căn dặn thêm và xe đi như bay.
Sau một lúc ngựa hình như chạy tăng tốc độ gấp đôi và tôi cảm thấy người đánh xe cố sức cũng không kìm giữ được. Tôi muốn kêu lên nhưng tiếng kêu bị tiếng người đánh xe lấn át mất. Muốn mở cửa xe nhưng sau tấm gương có một tấm ngăn. Cố gắng vô ích. Tôi mệt mỏi ngã người về phía cuối xe, cho rằng những con ngựa có lẽ đã nổi khùng và chúng tôi sẽ tan tành ở một góc phố nào đó.
Thế nhưng sau mười lăm phút, xe dừng lại, cửa mở, tôi hốt hoảng lao ra khỏi xe, nhưng đôi chân tê dại. Trong lúc ấy người ta trùm một tấm màn mỏng vào đầu tôi và sau đó tôi cảm thấy mình được đặt xuống một chiếc đi văng. Tôi thấy mình đang ở trong một căn phòng xa lạ và bá tước Alexis đang ngồi sát đầu gối tôi.
- Ồ - tôi kêu lên – ông đã lừa tôi, thật ghê tởm, thưa Bá tước.
- Rất tiếc, xin cô tha lỗi cho – ông nói – dịp này mất đi thì có bao giờ tôi tìm lại được? ít nhất một lần trong đời tôi có thể trình bày với cô…
- Ông sẽ không được nói một lời, thưa Bá tước, - tôi to tiếng và đứng dậy – ngay lúc này ông ra lệnh cho người ta đưa tôi về hoặc tôi coi ông là một kẻ bất lương.
- Nhưng chỉ một giờ thôi! Nhân danh Trời Đất! Hãy để tôi nói, để tôi nhìn em! Đã từ lâu tôi không gặp em, không nói được với em!
- Không một lúc, một phút nào, ngay lúc này, ông nghe rõ không, ngay lúc này hãy để tôi ra đi.
- Như vậy cả lòng kính trọng, tình yêu, những lời khẩn cầu của tôi cũng không…
- Không gì hết, thưa Bá tước, không gì hết.
- Nếu vậy, em lắng nghe đây – ông nói – Tôi thấy em không yêu tôi, sẽ không bao giờ yêu. Thư của em đưa lại cho tôi chút hy vọng, bức thư đã lừa dối tôi. Được rồi em kết tội tôi. Tôi chấp nhận. Tôi chỉ xin em năm phút: trong năm phút nếu em buộc tôi phải để em tự do, em sẽ được như ý.
- Ông thề với tôi sau năm phút tôi được tự do?
- Tôi thề.
- Ông nói đi.
- Tôi giàu có, Louise, tôi quý phái, có một bà mẹ nuông chiều, hai cô em gái thương yêu tôi! Ngay từ thời còn bé, tôi được nhiều người hầu hạ vây quanh, hối hả nghe lời tôi. Tuy thế tôi mắc căn bệnh của phần lớn những người đồng hương, cảm thấy già lúc hai mươi tuổi. Tôi chán tất cả, mệt mỏi vì tất cả. Tôi u buồn.
Không vũ hội, mơ ước, ngày lễ, thú vui nào tách ra được tấm màn xám, tẻ nhạt trải rộng giữa mọi người và tôi. Có lẽ chiến tranh với những mê say, nguy hiểm, mệt nhọc của nó có thể tác động gì đó đến tâm trí tôi, nhưng toàn bộ châu Âu ngủ trong một nền hoà bình vững chắc và không còn Napoléon để làm đảo lộn mọi thứ lên.
Tôi đã mệt mỏi với tất cả và đã thử đi du lịch thì gặp em. Lúc đầu tôi thể hiện với em, phải thú nhận là trong một lúc thất thường. Tôi viết thư cho em, nghĩ rằng em sẽ xiêu lòng. Trái với chờ đợi, em không trả lời, tôi khẩn khoản vì tự ái. Tôi nghĩ chỉ là một lúc ngông cuồng thoáng qua nhưng rồi bỗng nhận ra ý ngông cuồng ấy trở thành một tình yêu thật sự và sâu sắc. Tôi không cố giành cho được vì mọi đấu tranh với bản thân làm cho tôi mệt mỏi và ngã quỵ. Tôi viết cho em tôi sẽ đi và tôi đi ngay.
Đến Moscou tôi gặp những người bạn cũ. Họ thấy tôi u ám, lo lắng, buồn rầu. Họ đáng giá cao tâm hồn. Tôi nghĩ những mơ mộng của tôi là những suy ngẫm về lòng nhân ái. Họ nghiên cứu lâu những lời nói, sự im lặng của tôi, cho rằng thấy được điều gì đó giấu kín trong nỗi buồn, họ ngộ nhận đó là tình yêu tự do và mời tôi vào một âm mưu chống lại Hoàng đế.
- Lạy Chúa! – tôi kêu lên – Tôi hy vọng là ông từ chối!
- Tôi đã viết cho em, quyết định của tôi phụ thuộc vào thử thách cuối cùng này, nếu em yêu tôi, cuộc đời tôi đã thuộc vào em, tôi không có quyền chi phối nó. Nếu em không trả lời thì có nghĩa là em không yêu thì việc gì có thể đến với tôi không đáng kể. Cuộc âm mưu là một cuộc giải trí. Dĩ nhiên sẽ lên máy chém nếu chúng tôi bị lộ, nhưng ý nghĩ tự sát đã hơn một lần đến với tôi, tôi nghĩ máy chém giúp tôi không phải tự giêt mình.
- Lạy Chúa! Lạy Chúa! Có thể nào đấy là những điều ông đã nghĩ?
- Tôi nói sự thật với em, Louise, và đây là một bằng chứng. Em cầm lấy – anh ấy đứng lại gần một chiếc bàn nhỏ lấy một chiếc hộp niêm phong đưa cho tôi – tôi không đoán được hôm nay sẽ gặp lại em, không hy vọng thấy em nữa. Em hãy đọc đi.
- Bản di chúc của ông ư?
- Làm ở Moscou ngay sau ngày tôi vào hội kín.
- Chúa ơi, ông lại để cho tôi ba mươi nghìn rúp lợi tức!
- Nếu em không yêu tôi trong khi sống, tôi muốn ít nhất em có được một số kỷ niệm tốt về tôi sau khi tôi chết.
- Nhưng những kế hoạch về âm mưu, cái chết ấy, việc tự sát, ông từ bỏ tất cả rồi chứ?
- Louise, em tự do ra đi, năm phút đã trôi qua. Nhưng em là hy vọng cuối cùng của tôi, điều duy nhất gắn tôi vào cuộc sống. Vì một khi đã ra khỏi đây, em sẽ bao giờ quay trở lại nữa, tôi lấy danh dự báo với em khi cánh cửa khép lại, là lúc tôi bắn vào đầu mình.
- Ồ! Ông điên rồi!
- Không, tôi đau buồn.
- Ông sẽ không bao giờ làm một việc như thế!
- Em cứ thử xem.
- Ông Bá tước, nhân danh Trời đất!
- Louise, em nghe đây, tôi đã đấu tranh đến cùng, hôm qua tôi đã quyết định kết thúc đi, hôm nay gặp lại em, tôi muốn mạo hiểm lần cuối cùng hy vọng thắng. Tôi đưa mạng sống ra giành lấy hạnh phúc, thất bại thì tôi sẽ trả giá.
Nếu Alexis nói những điều ấy trong cơn mê sảng thì tôi đã không tin, nhưng anh ấy nói với giọng bình thường, với thái độ bình tĩnh thường có, với giọng điệu vui vẻ hơn là u buồn. Tóm lại người ta cảm thấy trong những gì anh nói với tôi có tính chất chân thật cho nên đến lượt tôi không thể ra đi được nữa. Tôi nhìn chàng trai đẹp đẽ sống đầy đủ và chỉ cần có tôi là sẽ có đầy đủ hạnh phúc. Tôi nhớ lại bà mẹ có vẻ yêu thương anh đến thế, hai cô em gái khuôn mặt tươi vui. Tôi nhìn thấy anh đẫm máu và biến dạng, họ thì rũ rượi than khóc và tự hỏi mình có quyền gì làm tan vỡ cuộc sống vàng son ấy, những niềm hy vọng cao cả ấy. Rồi, có cần nói ra với ông không, một sự đeo đuổi lâu dài như vậy đã bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Tôi cũng thế, trong những đêm tĩnh lặng và tấm lòng trống trải, đôi khi tôi cũng nghĩ đến người đàn ông vốn bao giờ cũng nghĩ đến tôi. Trong lúc sắp chia tay vĩnh viễn với anh, tôi nhìn vào trong tâm hồn tôi rõ hơn. Tôi nhận thấy mình đã yêu anh…và tôi ở lại.
Alexis nói với tôi rất thật. Điều thiếu vắng trong cuộc sống của anh là tình yêu. Đã hai năm yêu tôi, anh rất hạnh phúc hoặc tỏ ra thế, từ bỏ âm mưu điên rồ mà anh tham gia vì chán đời. Phiền phức về những cuộc gặp gỡ trong lúc tôi ở nhà bà Xavier, anh lặng lẽ thuê cho tôi cửa hiệu này. Mười tám tháng nay tôi sống một cuộc đời khác, giữa những hiểu biết tôi thiếu hụt thời niên thiếu và anh, người có tiếng tăm, cần có người đàn bà mình yêu. Do đó ông thấy có sự thay đổi trong bản thân tôi so với vị trí của tôi. Như vậy ông hẳn thấy tôi làm đúng khi ngăn ông lại, tôi không thể yêu ông vì tôi đã yêu anh ấy.
- Đúng và tôi cũng hiểu cô dựa vào sự giúp đỡ nào để hy vọng yêu cầu của tôi có thể đạt được.
- Tôi đã nói chuyện với anh ấy về điều dó.
- Rất tốt nhưng tôi xin từ chối.
- Có thể, nhưng tôi là thế.
- Cô có muốn chúng ta rối ren vì nhau và chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau nữa?
- Ồ, như vậy sẽ rất độc ác vì tôi chỉ biết có ông ở đây. Hãy coi tôi như một cô em gái và để tôi làm.
- Cô muốn như thế à?
- Tôi đòi hỏi như thế.
Lúc ấy cửa phòng khách mở ra và Bá tước Alexis xuất hiện ở ngưỡng cửa.
Bá tước Alexis Vaninkoff là một người trẻ đẹp, khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, tóc vàng, dong dỏng cao, nửa Tacta, nửa Thổ, đã là trung uý cận vệ. Đội quân được ưu đãi này từ lâu chịu sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng thân Constatin, em của Nga hoàng và thời ký ấy là Phó vương Ba Lan. Theo thói quen, người Nga không bao giờ rời bộ quân phục, Alexis mặc quần áo sĩ quan, trước ngực gắn huân chương Saint Vladimir và Alexandre Nevski, ở cổ đeo huy chương Stanislas-Auguste hạng ba. Thấy ông, Louise tươi cười đứng dậy.
- Thưa ngài, - cô nói – xin hoan nghênh, chúng tôi đã nói về ngài, tôi xin giới thiệu ông bạn đồng hương mà tôi đã nói chuyện với ngài và nhờ ngài bảo trợ.
Tôi nghiêng mình. Bá tước đáp lại với một lối chào duyên dáng, giọng nói trong trẻo hơi kiểu cách.
- Ồ Louise thân yêu – anh vừa nói vừa hôn tay cô – việc bảo trợ của tôi chẳng to tát gì nhưng tôi có thể chỉ dẫn với những lời khuyên: tôi đi du lịch, hoc được cách nhận biết mặt tốt mặt xâu của những người đồng hương với tôi và tôi có thể trao đổi với em bảo trợ. Vả lại tôi có thể bắt đầu làm khách hàng của ông bằng cách trao cho ông hai người học trò, một người anh em với tôi và tôi.
- Đã đáng kể rồi, nhưng chưa đủ. Ngài có nói đến chức vụ thầy dạy đánh kiếm trong một trung đoàn nào đó không?
- Có, nhưng hôm qua tôi mới được tin, đã có hai thầy dạy đánh kiếm ở Saint-Peterbourg, một người Pháp và một người Nga. Người đồng hương của ông, thưa ông, - Vanintoff quay lại phía tôi nói thêm – tên là Valville, biết làm hài lòng Hoàng đế, được phong tiểu đoàn trưởng với nhiều huân và huy chương, là thầy dạy toàn đội bảo vệ hoàng gia. Người đồng hương của tôi, một người tốt bụng và xuất sắc, theo chúng tôi chỉ có khiếm khuyết là người Nga, trước người này đã dạy cho Hoàng đế, được phong là đại tá và huân chương Saint-Vladimir hạng ba. Ông không muốn bắt đầu bằng cách trở thành địch thủ của người này hoặc người kia, đúng thế chứ?
- Chắc chắn là không – tôi đáp.
- Vậy thì đừng tỏ ra là cạnh tranh với ai cả. Tổ chức một cuộc đấu, chứng tỏ ông biết làm gì, khi thanh danh của ông nổi lên, tôi sẽ giới thiệu rất khiêm tốn với hoàng thân Constatin, ông vừa trở về Strelua hôm kia và tôi hy vọng ngài sẽ chiếu cố kiến nghị ông với Hoàng đế.
- Vậy là công việc tiến triển tốt đẹp – Louise phấn khởi vì lòng tốt của Bá tước đối với tôi, bảo tôi – Ông thấy tôi không nói dối ông chứ?
- Không. Bá tước là người ân cần nhất trong những người bảo trợ cũng như cô là người tuyệt vời nhât trong giới phụ nữ. Tôi sẽ làm theo ý kiến của bá tước, ngay tối nay tôi sẽ dự thảo chương trình.
- Nên như thế - Bá tước nói.
- Bây giờ thưa Bá tước, tôi xin lỗi nhưng tôi cần biết rõ. Tôi không tổ chức cuộc đấu này để kiếm tiền mà để ra mắt. Tôi nên gởi giấy mời như một cuộc dạ hội hay thu tiền như xem một vở diễn?
- Ỗ! Cứ thu tiền, ông thân mến, nếu không ông chẳng có ai tới dự. Ông làm vé mười rúp, một trăm vé, tôi sẽ phân phối cho.
Khó có thể có ai nhiệt tình hơn nên không còn hận thù gì nữa. Tôi chào và ra về.
Ngày hôm sau tôi đặt thông báo và tám ngày sau tôi tổ chức cuộc đấu, Valville, Siverbruck đều không tham gia mà chỉ có những người không chuyên nghiệp Ba Lan, Nga, Pháp tranh tài.
Tôi không có ý định kể lên đây những ngón tài năng và những đòn đánh hoặc tiếp nhận. Nhưng tôi phải nói rằng ngay trong buổi đầu, Bá tước De la Ferronnays, đại sứ của nước Pháp, đã mời tôi dạy cho Tử tước Charles, con trai ông. Hôm sau, tôi nhận được những bức thư khích lệ nhất của nhiều người trong đó có quận công Wurtemberg mời tôi làm giáo viên cho các con trai và Bá tước Bobrunski mời làm thầy cho chính mình.
Vì thế, lúc tôi gặp lại Bá tước Vaninkoff, ông bảo:
- Thế đấy! Tất cả đều tuyệt vời! Ông đã có danh tiếng, phải có một chứng chỉ của nhà vua củng cố nó. Đây là một bức thư của người tuỳ tùng của Hoàng thân. Ngài đã nghe nói về ông. Hãy táo bạo xin gặp ngài đề nghị có kiến nghị lên Hoàng đế. Tán dương lòng tự hào quân sự của ngài và xin ngài nhận xét giới thiệu cho.
- Nhưng thưa Bá tước – tôi dè dặt hỏi – ngài có nghĩ rằng ông ấy sẽ tiếp đón tôi tử tế không?
- Ông gọi thế nào là đón tiếp tử tế?
- Rốt cuộc có đúng mức không?
- Ông thân mến – bá tước Vaninkoff vừa cười vừa nói – ông quá tôn vinh chúng tôi. Ông xem chúng tôi là những người văn minh trong lúc chúng tôi chỉ là những kẻ hoang dã . Đây là bức thư, tôi mở cửa cho ông nhưng không dám chắc ra sao, mọi việc tuỳ thuộc vào tính cách vui buồn của hoàng thân. Tuỳ ông chọn lúc thích hợp. Ông là người Pháp và cũng là người dũng cảm. Đây là một cuộc đấu để đứng vững, một chiến thắng để giành giật.
- Vâng, nhưng là một cuộc đấu ở tiền sảnh, chiến thắng triều thần. xin thú nhận với ngài, tôi thích một cuộc đấu tay đôi thật sự hơn.
- Jean-Bart không quen thuộc những sàn nhà đánh bóng và quần áo triều thần hơn ông. Ông ta làm thế nào mà tranh thủ được khi đến Versailles?
- Bằng những nắm đấm, thưa ngài.
- Thế thì ông cứ làm như ông ta. Nhân tiện tôi được uỷ nhiệm nói với ông thay mặt Nariskine, anh em họ của Hoàng đế và Bá tước Zernitcheff. Đại tá Mouravieff, họ muốn ông dạy cho họ
- Vậy là ngài định chồng chất ân huệ cho tôi?
- Không, ông chẳng nợ gì tôi cả. Tôi làm đầy đủ việc nhờ cậy, thế thôi.
- Nhưng hình như việc ấy tiến hành không tồi – Louise nói với tôi.
- Nhờ có cô, tôi xin cám ơn cô. Được rồi, tôi sẽ làm theo ý kiến của Bá tước, từ ngày mai tôi sẽ mạo hiểm.
- Ông làm đi và chúc may mắn.
Cuối cùng không có gì hơn sự khuyến khích ấy, tôi đến gặp Hoàng thân vì công việc và phải thú nhận tôi những muốn vào tấn công con gấu Ukraine trong hang ổ còn hơn đến xin ân huệ của Hoàng thân Nga, con người tổng hợp những đức tính, những say mê dữ dội, và những phong cách điên rồ.
Đại quận công Constantin, em trai Hoàng đế Alexandre và anh trai Đại quận công Nicolas, không có sự lễ độ đáng mến của ông anh cũng như không có phẩm cách lạnh lùng, bình tĩnh của ông em, có vẻ thừa hưởng hoàn toàn những đức tính và những tính chất lạ lùng của bố, còn hai anh em kia tiếp thu của mẹ là nữ hoàng Catherine, Alexandre về tấm lòng, Nicolas về đầu óc, cả hai thể hiện sự lớn lao vương giả mà tổ mẫu của họ lập nên.
Catherine trông nom cả lớp hậu duệ đẹp đẽ và đông đúc ấy. Từ đầu bà đã chú ý đến hai người anh và theo tên thánh của họ, đặt tên một người là Alexandre, người kia là Constantin, hình như bà đã phân chia thế giới cho họ. Ý nghĩ của bà sâu sắc đến mức bà đã cho vẽ cả ảnh của họ lúc còn rất bé. Một người tàn nhẫn chấm dứt cuộc khủng hoảng tình hình, người kia giơ cao cờ lệnh. Thêm vào đó bà tự đặt kế hoạch dậy dỗ họ nhằm thực hiện những ý tưởng lớn ấy. Do đó Constantin được dành cho vương quốc phương Đông chỉ có những vú nuôi và thầy dạy người Hy lạp, Alexandre dành cho vương quốc phía Tây, xung quanh mình là người Anh. Thầy giáo chung của hai anh em là một người Thuỵ sĩ tên là Laharpe, anh em họ của vị tướng dũng cảm Laharpe phục vụ mặt trận Ý theo lệnh của Bonaparte. Nhưng những bài học của ông thầy đáng kính ấy không được hai học trò tiếp thu thoải mái như nhau và tuy việc gieo hạt là một nhưng sản sinh ra hoa quả khác nhau, vì một bên rơi vào mảnh đất chuẩn bị tốt và khoáng đãng, còn bên kia rơi trên mảnh đất hoang dã. Trong khi Alexandre, mười hai tuổi, trả lời Graft, ông thầy dạy môn Lý thực nghiệm rằng ánh sáng là sự tóat ra liên tục của mặt trời "Điều ấy không thể được vì mặt trời như thế sẽ càng ngày càng bé đi", thì Constantin trả lời Saken, khi người giám thị riêng mời tập đọc "Tôi không muốn tập đọc vì tôi thấy bao giờ ông cũng đọc nhưng càng ngày ông càng đần độn hơn".
Tính tình và trí óc của hai cậu bé nằm hoàn toàn trong hai câu trả lời ấy.
Bù lại, Constantin càng ghét những môn khoa học lại càng thích những buổi tập quân sự. Làm vũ khí, cưỡi ngựa, tổ chức những buổi hành quân, đối với cậu là những hiểu biết có ích cho một hoàng tử hơn môn vẽ, thực vật học, khí tượng học. Cậu say mê môn quân sự đến mức trong đêm tân hôn cậu dậy lúc năm giờ sáng để bố trí diễn tập một tiểu đội lính gác cho dinh thự của mình.
Việc nước Nga cắt đứt liên hệ với nước Pháp tạo điều kiện cho sở thích của Constantin. Được gởi sang nước Ý dưới sự chỉ huy của thống chế Sourovov nhằm hoàn chỉnh việc học tập quân sự, cậu tham gia vào những chiến thắng của ông ở Mexio và trận thất bại trong núi Alpes. Một người thầy như vậy, ít nhất cũng nổi tiếng về những kỳ cục cũng như lòng can đảm, đã được chọn sai để cải tạo những đặc tính tự nhiên của Constantin. Kết quả là những đặc tính ấy thay vì mất đi, đã phát triển thêm một cách kỳ lạ và hơn một lần người ta tự hỏi tại sao Đại quận công trẻ giống bố đến nỗi giống như ông, cũng hơi bị điên rồ.
Sau chiến dịch nước Pháp và hiệp ước Vienne, Constantin được phong làm Phó vương Ba Lan. Đứng đầu một dân tộc chinh chiến, sở thích quân sự tăng lên gấp đôi, và không còn những trận đánh thật sự, đẫm máu ông vừa tham gia, thì những cuộc thao diễn quân sự, duyệt binh, những hình thức chiến trận ấy là giải trí duy nhất của ông. Mùa đông cũng như mùa hè, dù ở lâu đài Buhle gần công viên Saxe, hay ở lâu đài Belvedère, ba giờ sáng ông đã dậy, mặc quân phục vào và không một người hầu nào giúp ông tắm rửa bao giờ. Ngồi vào một chiếc bàn đầy những danh mục các trung đoàn và mệnh lệnh quân sự, trong một gian phòng mỗi bức tranh vẽ một bộ quần áo của trung đoàn, ông đọc lại các báo cáo của Đại tá Axamilovski hoặc cảnh sát trưởng Lubovidski đưa tới hôm trước, xác nhận hoặc phản bác, nhưng luôn thêm vào vài lời nhận xét. Công việc ấy kéo dài đến chín giờ sáng. Ông ăn vội bữa sáng nhhư một người lính rồi bước xuống quảng trường Saxe. Ở đây thường có hai trung đoàn bộ binh hoặc một đội kỵ binh chờ ông. Khi ông xuất hiện, quân nhạc tấu chào bằng bài quân hành ca Chúa Trời hãy cúu nhà vua, do Kurpinski sáng tác. Cuộc diễu binh bắt đầu ngay. Các tiểu đội diễu hành khoảng cách đều đặn, chính xác. Họ thường mặc quân phục màu xanh như những người đi săn. Trong khi hoàng tử Nga đội chiếc mũ cắm lông gà, một bên cong xuống cầu vai trái, còn bên kia chĩa lên trời. Dưới vầng trán hẹp có những vết nhăn sâu chứng tỏ ông là người luôn luôn bận bịu, đôi lông mày dài rậm không để lộ cặp mắt xanh. Tầm nhìn đặc biệt nhanh nhẹn với chiếc mũi nhỏ, làn môi dưới nhô ra phác hoạ điều gì đó rất hoang dã, ở đầu trên chiếc cổ rất ngắn, chúi về phía trước như dựa vào đôi cầu vai. Nghe thấy tiếng nhạc, nhìn thấy những người mình đào tạo bước đều đặn, tất cả đều tác động đến ông, như một loại cơn sốt làm ông đỏ bừng mặt. Đôi tay co lại, ép chặt vào người và bàn tay nắm chặt doãng ra trong lúc đôi chân luôn hoạt động đập nhịp và với giọng nói yết hầu nhấn mạnh mệnh lệnh, thỉnh thoảng phát ra những tiếng khàn khàn, đứt quãng, không thuộc về tiếng người những khi tỏ ra thoả mãn nếu mọi việc tiến triển tốt đẹp như ý muốn, hoặc trong lúc giận dữ nếu có gì trái với kỷ luật. Trường hợp sau bao giờ cũng bị trừng phạt ghê gớm. Lỗi nhỏ nhất cũng đưa người lính vào tù và sĩ quan bị mất chức. Thái độ nghiêm khắc ấy không hạn chế đối với người mà mở rộng cho tất cả, thậm chí cho cả động vật nữa. Một hôm ông cho treo cổ một con khỉ trong chuồng vì làm ồn ào, một con ngựa bước sai vì có lúc ông thả dây cương phải nhận đến hàng nghìn gậy và cuối cùng một con chó sủa to làm ông tỉnh dậy trong đêm và bị bắn chết.
Khi vui vẻ ông cũng không kém phần dã man như trong lúc nổi giận. Ông cúi người vui vẻ phá lên cười, xoa tay và hai chân lần lượt dẫm mạnh xuống đất. Trong lúc đó, gặp đứa trẻ nào, ông cũng xoay đi xoay lại nó về các phía, bảo nó ôm hôn mình, véo tai, véo mũi, cuối cùng bỏ vào tay nó một đồng vàng và đuổi đi. Ông cũng có những giờ không vui, không nổi giận mà hoàn toàn là những giờ mệt mỏi và buồn chán. Lúc ấy, yếu đuối như một người đàn bà, ông rên rỉ, nằm còng queo trên đi văng hoặc trên sàn nhà. Chẳng ai dám lại gần ông. Những khi đó, người ta mở cửa sổ và cửa ra vào phòng ông, một người đàn bà tóc vàng, hơi xanh, người thon thả, thường mặc một chiếc áo dài trắng và thắt lưng xanh đi qua như chợt xuất hiện. Thấy bà, Hoàng thân như gặp một tác động ma thuật, tâm trí hưng phấn, khóc nức nở. Cơn thần kinh qua đi, người đàn bà lại ngồi bên cạnh, ông gối đầu lên đùi bà, thiếp ngủ và tỉnh dậy là khỏi hẳn. Người đàn bà ấy là Jeannette Grudzenska, thần hộ mệnh của Ba Lan.
Một hôm khi còn rất bé, trong lúc cầu nguyện ở nhà thờ chính quốc trước hình ảnh Đức Bà, một vòng hoa những người bất tử đặt dưới bức tranh rơi xuống đầu bà, người Cô dắc Ukraine già được xem như nhà tiên tri qua sự kiện ấy đã nói với bố bà, vòng hoa thánh ấy rơi từ trời xuống, là điềm báo dành cho bà trên mặt đất. Ông bố và con gái đều đã quên lời tiên đoán hay đúng hơn chỉ nhớ đến như một giấc mộng cho đến lúc Jeannette gặp Constantin.
Con người nửa hoang dã, với những niềm say mê cháy bỏng bỗng trở nên dè dặt như một đứa trẻ. Người mà không gì chống lại được mà chỉ một tiếng nói chi phối mạng sống những người bố và danh dự những đứa con gái, đến rụt rè hỏi xin ông già cho cưới Jeannette, khẩn cầu ông đừng từ chối một điều lành mà không có nó mình không còn hạnh phúc trên đời này. Ông già chợt nhớ lại lời tiên đoán của người Cô dắc, thấy yêu cầu của Constantin là việc thực hiện ý Trời và cho rằng mình không có quyền chống đối. Đại quận công vậy là được sự đồng ý của ông và con gái ông, chỉ còn sự thoả thuận của Hoàng đế, được mua bằng nhượng địa.
Con người kỳ lạ ấy, con người không ai đoán nổi, giống như thần Jupiter oai nghiêm làm rung động cả một dân tộc khi chau mày, vì con tim một cô gái trẻ, đã cho ông anh cả phương Đông và phương Tây, nghĩa là một vương quốc bao gồm một phần bảy trái đất với năm mươi ba triệu dân và sáu biển vây quanh.
Đổi lại Jeannette Grudzenska được Alexandre phong cho làm quận chúa Lovicz.
Đây là con người tôi sắp đối mặt. Người ta nói ông vừa ngấm ngầm đến Saint-Peterbourg vì phát hiện ở Varsovie những đường dây một cuộc mưu phản trên toàn nước Nga, nhưng những đường dây ấy tự bẻ gãy trong tay ông vì sự im lặng ngoan cố của hai thành viên ông đã cho bắt giữ. Hoàn cảnh đó rất ít thuận lợi cho việc đi nêu ra một lời cầu xin phù phiếm như của tôi.
Tôi vẫn quyết định chạy theo cơ may được tiếp kiến mặc dù có vẻ không ít kỳ cục. Sáng hôm sau tôi thuê một chiếc xe ngựa đi Strelna, cầm bức thư gởi tướng Rodna, tuỳ tùng của Hoàng thân và đơn thỉnh cầu Hoàng đế. Sau hai giờ đi trên một con đường rất đẹp, bên trái là những ngôi nhà nông thôn, bên phải những cánh đồng trải dài đến vịnh Phần Lan, chúng tôi đến tu viện Saint Serge, đất thánh được tôn kính nhất của Alexandre Nevski và mười phút sau vào tới làng. Đoạn giữa Đường Lớn và gần trạm, chúng tôi quay sang phải, mấy giâu sau thì tôi đứng trước lâu đài. Lính gác ngăn tôi lại, tôi đưa ra bức thư chuyển cho ông De Rodna và người ta để cho tôi đi qua.
Tôi bước lên tam cấp, vào tiền sảnh. Ông De Rodna đang làm việc với Hoàng thân. Người ta bảo tôi chờ ở phòng khách, cửa phòng nhìn ra những khu vườn đẹp có con kênh chạy thẳng ra biển, trong lúc một sĩ quan cầm bức thư của tôi đi, một lát sau viên sĩ quan ấy trở lại và bảo tôi vào.
Hoàng thân đứng tựa vào lò sưởi và tuy mới cuối tháng chín nhưng thời tiết bắt đầu lạnh, ông đang đọc cho xong bức công điện cho ông De Rodna ngồi viết. Tôi không ngờ được đưa vào nhanh thế nên dừng lại ở ngưỡng cửa, ngạc nhiên không ngờ được gặp mặt ông quá nhanh. Cánh cửa vừa khép lại, ông đưa đầu ra phía trước, không một cử động thân hình và đôi mắt xoi mói nhìn vào tôi.
- Người nước nào? – ông hỏi.
- Nước Pháp, thưa điện hạ.
- Anh bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi sáu.
- Tên gì?
- G…
- Chính anh muốn nhận được một chứng chỉ thầy dạy đánh kiếm trong một trung đoàn của Hoàng đế anh tôi?
- Đấy là mục đích toàn bộ tham vọng của tôi.
- Anh bảo anh là người có sức mạnh hàng đầu?
- Tôi xin Điện hạ thứ lỗi về điều đó, tôi không nói như thế vì không phải tôi nói điều ấy.
- Không, nhưng anh nghĩ thế.
- Điện hạ biết tính tự phụ là tật xấu nổi trội của loài người khốn khổ; vả lại tôi có tổ chức một cuộc đấu. Xin Điện hạ hãy hỏi xem.
- Tôi biết việc gì đã xảy ra, nhưng anh chỉ đấu với kẻ không chuyên với sức lực loại hai.
- Vì thế tôi đã gượng nhẹ đôi với họ.
- A! Anh đã gượng nhẹ, nếu không gượng nhẹ họ thì sẽ ra sao nhỉ?
- Tôi sẽ đâm trúng họ mười lần trong khi họ chỉ đâm nổi tôi hai lần.
- A! A!...Như vậy, thí dụ với tôi anh sẽ đâm mười lần chống với hai lần?
- Cái đó cũng còn tuỳ.
- Thế nào? Cũng tuỳ?
- Vâng, tuỳ theo Điện hạ muốn tôi đối xử ra sao. Nếu Điện hạ bắt tôi đối xử với tư cách Hoàng thân, chính Ngài đâm trúng tôi mười lần và tôi chỉ đâm trúng ngài có hai lần; nếu Điện hạ cho phép tôi đối xử như mọi người, lúc ấy chắc tôi chỉ bị đâm hai lần và ngài sẽ bị mười lần.
- Lubenski – Hoàng thân xoa tay kêu lên – Lubenski, đưa kiếm cho tôi. A! A! Ông khoác lác, chúng ta xem nào!
- Điện hạ cho phép thế nào?
- Điện hạ tôi không cho phép, Điện hạ tôi muốn anh đâm trúng mười lần, anh không lùi bước chứ?
- Khi tôi đến lâu đài Strlna thì là để phục vụ Điện hạ. Xin ngài ra lệnh.
- Thế thì cầm cây kiếm, đeo mặt nạ này, chúng ta thử xem.
- Đấy là do Điện hạ buộc tôi.
- Đúng! Trăm lần, nghìn lần, triệu lần đúng!
- Tôi sẵn sàng.
- Phải đâm trúng tôi mười lần, anh nghe rõ chứ? – hoàng thân nói và bắt đầu tấn công tôi – mười lần, không thiếu một. Tôi không nhân nhượng anh một lần nào đâu. Ha! Ha!
Mặc dù Hoàng thân nói thế, tôi chỉ đỡ gạt, thậm chí không đánh lại lần nào.
- Thế nào? – ông nóng nảy kêu lên – tôi nghĩ anh gượng nhẹ đôi với tôi. Coi chừng. Coi chừng. Ha! Ha!
Qua tấm mặt nạ tôi thấy mặt ông đỏ lên, đôi mắt vằn tia máu.
- Sao? Những mười cú ấy đâu?
- Thưa Điện hạ, việc tôn kính…
- Vứt cái tôn kính ấy đi và cứ đâm, đâm!
Tôi sử dụng ngay sự cho phép, đâm trúng ông ba lần liền.
- Tốt đấy! Tốt! – ông kêu lên – Đến lượt tôi. Này, Ha! Trúng, trúng…
- Đúng thế, tôi nghĩ Điện hạ không gượng nhẹ tôi và tôi phải thanh toán với ngài.
- Thanh toán đi. Ha! Ha!
Tôi đâm trúng ông bốn lần nữa và trong lúc đánh trả ông cũng đâm trúng tôi.
- Trúng! Trúng! – ông vui mừng kêu lên và nói với ông Rodna – anh thấy tôi đâm trúng anh ta hai lần trên bảy.
- Hai lần trên mười, thưa Điện hạ - tôi nói và tấn công ông – Tám…chín…mười…Thế là chúng ta xong nợ.
- Tốt! Tốt! – Hoàng thân kêu lên – tốt nhưng học đánh kiếm không chưa đủ, anh nghĩ kỵ binh của tôi sử dụng nó làm việc gì? Phải dùng gươm. Anh đánh gươm được chứ?
- Cũng gần như đánh kiếm ạ.
- Thế à? Anh có dùng gươm, đứng dưới đất chống nổi một người cưỡi ngựa sử dụng một ngọn giáo không?
- Tôi nghĩ được, thưa Điện hạ.
- Anh nghĩ, anh không chắc chắn…A! A! Không chắc chắn?
- Vậy thì thưa Điện hạ, tôi chắc chắn.
- A! Anh chắc chắn tự bảo vệ được?
- Vâng, thưa Điện hạ.
- Anh gạt đỡ được một cú đâm bằng giáo?
- Tôi gạt được.
- Chống lại một người cưỡi ngựa?
- Chống lại một người cưỡi ngựa.
- Lubenski! Lubenski! – Hoàng thân lại gọi
Viên sĩ quan lại có mặt.
- Đem lại cho tôi một con ngựa, một ngọn giáo, anh nghe rõ chứ? Nhanh lên! Nhanh lên!
- Nhưng thưa Điện hạ….
- A! Anh lùi bước! A! A!
- Tôi không lùi, thưa Điện hạ, và chống lại bất kỳ người nào khác ngoại trừ Điện hạ, mọi thử thách chỉ là một trò chơi.
- Thế chống lại tôi thì sao?
- Chống lại Điện hạ tôi sợ cả thắng và bại, tôi sợ nếu tôi thắng, ngài có thể quên chính ngài đã ra lệnh….
- Tôi không quên gì cả, vả lại có Rodna đây, tôi ra lệnh cho anh trước mặt ông ta và ra lệnh cho anh xử sự với tôi cũng như xử sự với ông ấy.
- Cũng xin lưu ý với Điện hạ tôi không được thoải mái lắm vì tôi xử sự với Điện hạ vẫn rất tôn kính.
- Nịnh bợ! Kẻ nịnh bợ tồi. Anh tưởng lấy được lòng tôi là tốt, nhưng không ai gây ảnh hưởng với tôi được, tôi tự phán xét, anh nghe rõ chứ? Anh đã thắng lần đầu, chúng ta sẽ xem anh có kết quả tốt ở lần thứ hai không.
Trong lúc ấy viên sĩ quan xuất hiện trước cửa sổ, dắt một con ngựa, tay cầm một ngọn giáo.
- Tốt! – Constantin tiếp tục nói và lao ra ngoài – Ra đây! Còn anh, Lubenski, đưa cho anh ta một thanh gươm tốt, vừa tay, một thanh gươm kỵ sĩ. A! A! Xem nào! Vào tư thế sẵn sàng đi, ông thầy dạy đánh kiếm. Tôi chỉ gọi anh như thế hoặc tống đi như những tay bât tài trong quân đội Rodna đấy, là người cuối cùng, đã sống ba ngày với một vết thương xuyên người.
Nói rồi Constantin nhảy lên lưng ngựa, một đứa con hoang dã của đồng cỏ, bờm và đuôi quét đất. Ông quần ngựa, múa giáo với sự thành thạo nổi bật. Trong lúc đó người ta mang lại cho tôi ba bốn thanh gươm mời chọn. Tôi giơ tay lấy một thanh bất kỳ.
- Được đấy! Anh sẵn sàng chưa? – Hoàng thân kêu lên.
- Rồi, thưa Điện hạ.
Ông bèn phi ngựa nước đại tới đầu kia con đường. Tôi hỏi ông Rodna:
- Chắc là một trò đùa chứ?
- Ngược lại, không có gì nghiêm túc hơn – ông ta trả lời – đây là mạng sống hoặc vị trí của ông. Ông hãy đề phòng như trong một trận đánh, tôi chỉ có điều ấy để nói với ông.
Sự việc trở thành nghiêm túc hơn tôi nghĩ, nếu chỉ để tự vệ và đánh trả, tôi có thể gặp may, nhưng ở đây khác hẳn. Với cuộc đấu gươm và giáo sắc, trò đùa trở thành nghiêm trọng. Dù sao, tôi đã nhúng tay vào, không lùi được nữa! Tôi dựa vào thành thạo, dũng cảm, đối mặt với vị Hoàng thân ngỗ ngược.
Ông đã đến đầu đường và quay ngựa lại. Dù đã nghe lời ông De Rodna nói thế, tôi vẫn hy vọng đây chỉ là một trò chơi thì nghe thấy ông gọi một lần cuối "Anh đã sẵn sàng chưa?" và giơ ngọn giáo ra phía sau, phi ngựa nước đại. Chỉ lúc ấy tôi mới xác định phải bảo vệ mạng sống của mình và thủ thế.
Con ngựa lao vút trên đường, Hoàng thân nằm trên lưng ngựa, khuất sau bờm ngựa đang phất phơ theo gió, tôi chỉ thấy đầu ông giữa hai tai con vật. Đến chỗ tôi, ông cố đâm ngọn giáo vào giữa ngực tôi nhưng tôi gặt băng với ngón đỡ quãng ba và nhảy sang bên cạnh để con ngựa và người kỵ sĩ theo đà chạy, đi qua luôn không làm hại đến tôi. Thấy cú đâm hụt, Hoàng thân dừng ngay ngựa lại một cách khéo léo tuyệt vời.
- Tốt lắm! Tốt lắm! Chúng ta làm lại.
Và không để thì giờ cho tôi nhận xét gì, ông cho quay ngựa lại trên chân sau, vượt tới và vừa hỏi tôi đã sẵn sàng chưa vừa trở lại, quyết liệt hơn lần đầu. Cũng như lần trước, tôi chăm chú nhìn, không bỏ sót một cử động nào của ông. Nắm thời cơ, tôi gạt ngọn giáo theo ngón quãng bốn và nhảy một bước sang phải, người và ngựa lại lướt qua bên cạnh tôi không có hiệu quả như lần trước.
Hoàng thân gầm lên một tiếng. Ông xem cuộc đấu sức này như một trận đánh nhau thật, muốn kết thúc với vinh quang cho mình. Vì vậy lúc tôi tưởng đã xong thì tôi thấy ông chuẩn bị cho cuộc tấn công thứ ba. Lần này thấy chuyện đùa đã kéo quá dài, tôi quyết định sẽ là đòn cuối cùng.
Thật vậy, lúc thấy ông sắp đâm, thay vì gạt đi, tôi chém mạnh vào ngọn giáo gãy đôi làm cho Hoàng thân không còn vũ khí và giật dây cương, lần này đến lượt tôi kìm mạnh đến nỗi con ngựa khuỵu xuống chân sau, đồng thời tôi đưa lưỡi gươm vào ngực Hoàng thân. Tướng Rodna thét lên một tiếng khủng khiếp, nghĩ tôi sẽ giết chết ông ta. Constantin chắc cũng tưởng thế vì tôi thấy ông ta tái mặt. Nhưng tôi nhảy lùi một bước và cúi mình trước mặt Đại Quận công:
- Thế đấy thưa Điện hạ, tôi có thể chứng tỏ với quân lính của ngài như vậy nếu như ngài thấy tôi xứng đáng là thầydạy của họ.
- Đúng! Nghìn lần quái quỷ! Anh xứng đáng và anh sẽ có một trung đoàn làm mất tên tuổi tôi…Lubenski! Lubenski! – ông tiếp tục vừa gọi vừa nhảy xuống ngựa – Dẫn ngựa về chuồng. Còn anh, vào đây tôi sẽ nhận xét vào đơn thỉnh cầu của anh.
Tôi theo Đại Quận công vào phòng khách. Tại đây ông lấy bút ghi vào dưới lá đơn của tôi:
"Tôi xin kính cẩn giới thiệu với Hoàng đế người có tên này, vì nghĩ rằng anh ta hoàn toàn xứng đáng được gia ân như lời khẩn cứu".
- Và bây giờ - ông bảo tôi – cầm lá đơn này đưa trực tiếp cho Hoàng đế. Nếu anh trực tiếp trình bày thì cũng rất có thể vào tù đấy; nhưng theo tôi không mạo hiểm thì chẳng có gì. Vĩnh biệt, nếu có lúc nào đến Varsovie thì ghé thăm tôi.
Tôi nghiêng mình, vui sướng vì đã đạt được kết quả như thế và trở lại trên xe về Saint-Peterbourg mang theo lời nhận xét đầy quyền lực.
Buổi tối tôi đến cám ơn Bá tước Alexis về lời khuyên của ông tuy suýt làm tôi phải trả giá đắt. Tôi kể lại những gì xảy ra làm Louise rất sợ hãi và mười giờ sáng hôm sau tôi đi Tsarskoï Selo, nơi ở của Hoàng đế, định đi dạo chơi trong những khu vườn của ngài cho đến khi gặp Người, và có nguy cơ bị cầm tù, điều mọi người trình bày thỉnh cầu đều có thể trải qua.
Hoàng cung Tsarskoï Selo chỉ cách Saint-Peterbourg ba bốn dặm nhưng đường đi khác hẳn con đường tôi tới Strelna hôm trước. Không còn những biệt thự xinh đẹp và những mảng rộng trông ra vịnh Phần Lan nữa, đây là những cánh đồng màu mỡ và những đồng cỏ xanh tươi tốt mới cách đây mấy năm còn là những đám dương xỉ to rậm phát triển từ khi khai thiên lập địa.
Sau một giờ đi đường, vượt qua khu kiều dân Đức, tôi đi ngang qua một dãy đồi, và trên đỉnh một ngọn đồi, tôi bắt đầu nhận thấy cây cối, những cột tháp và vòm dát vàng của ngôi nhà nguyện báo hiệu đã đến chỗ ở của nhà vua.
Hoàng cung Starskoï Selo được xây dựng ngay chỗ trước đây là mái nhà tranh của một bà già người Hà Lan tên là Sara, nơi trước đây Pierre Đệ Nhất có thói quen đến uống sữa. Bà nông dân khốn khổ chết và Pierre thích ngôi nhà vì từ cửa sổ trông ra chân trời rất đẹp, ông tặng cho Catherine ngôi nhà và vùng đất bao quanh làm trang trại. Catherine gọi một kiến trúc sư làm thay đổi hoàn toàn khung cảnh, nghĩa là xây ở đó một lâu đài.
Mặc dù chỗ ở đó đã khá xa so với nguồn gốc trước đây thì dưới con mắt của Elisabeth nó vẫn không lớn lao và hài hoà với quyền lực của một Nữ hoàng Nga, bà cho phá huỷ lâu đài của bố và theo hình vẽ của Bá tước Rastreti, xây dựng một lâu đài thật đẹp. Nhà kiến trúc sư quý tộc nghe nói Versailles là một công trình tráng lệ, ông muốn xây dựng một lâu đài vượt trội hơn. Và khi nghe được tin đồn rằng bên trong lâu đài của một nhà vua vĩ đại, mọi thứ phải dát vàng, ông làm quá lên, cho tắm vàng lên nền tảng bên ngoài của Tsarskoï Selo, những đường rãnh, đường viền, tượng, cho đến mái nhà. Công trình hoàn thành, Elisabeth chọn một ngày lành mời triều thần cùng đại sứ những nước lớn đến khánh thành trạm nghỉ chân chóang lộn của bà. Thấy công trình đẹp đẽ, dù bố trí kỳ cục, ai cũng ca ngợi, cho nó là kỳ quan thứ tám của thế giới, trừ Hầu tước La Chetardie, đại sứ nước Pháp, không nói một tiếng, chỉ nhìn ngó xung quanh mình. Hơi tự ái về sự lơ đãng ấy, Nữ hoàng hỏi ông tìm kiếm gì.
- Tôi tìm, thưa Bà – vị đại sứ lạnh lùng trả lời – tôi đang tìm chiếc hộp đựng món đồ chơi đẹp đẽ này.
Thời kỳ ấy người ta vào Viện hàn lâm với một bài thơ bốn câu và bất tử về một lời nói đúng. Vì vậy ông De La Chetardie tồn tại mãi ở Saint-Peterbourg.
Không may, kiến trúc sư xây dựng cho mùa hè mà quên mất mùa đông. Mùa xuân tiếp theo phải sửa chữa những vật tắm vàng ấy và do mùa đông nào cũng hư hỏng, mùa xuân nào cũng phải sửa chữa, Catherine II quyết định thay kim loại bằng một loại vec ni màu vàng bình thường, mái nhà được sơn màu xanh dịu theo phong tục của Saint-Peterbourg. Tiếng đồn về sự thay đổi ấy vừa lan ra thì một tay đầu cơ đến gặp Catherine xin trả giá hai trăm bốn mươi nghìn livres cho tất cả những tấm vàng ấy. Catherine trả lời cám ơn, không bán những vật dụng cũ.
Giữa những chiến thắng, tình yêu, hành trình, Catherine không ngừng chăm sóc dinh cơ ưa thích của mình. Bà xây dựng cho người cháu trưởng lâu đài nhỏ Alexandre cách hoàng cung một trăm bước chân, cho kiến sư Bush vẽ nhiều khu vườn rộng chỉ thiếu nước. Ông Bush cho xây dựng không ít kênh, mương, thác và hồ, và tin chắc khi đã là Catherine vĩ đại, khi muốn có nước là nước sẽ đến. Thật vậy, người kế nhiệm, ông Bauer, phát hiện thấy ông Demindoff gần đấy có một cánh đồng rất đẹp, thừa nước mà nhà vua không đủ dùng. Ông trình bày nạn khô hạn của những khu vườn hoàng cung và ông Demindoff, nhân danh thần dân tận tuỵ, đã chuyển phần nước thừa ngay sang cho Catherine. Ngay lập tức, mặc dù có những trở ngại, người ta thấy nước chảy đến từ các phía, tràn ra khỏi hồ, phun lên thành tia, đổ xuống thành thác. Việc ấy làm cho Nữ Hoàng Elizabeth phải nói:
- Chúng ta làm náo loạn cả châu Âu nhưng đừng gây gỗ với ông Demindoff.
Thật vậy, trong một lúc khó tính, ông có thể làm cho cả triều đình chết khát.
Được nuôi dậy ở Tsarskoï Selo, Alexandre thừa hưởng của bà nội tình cảm đối với tư dinh. Mọi kỷ niệm thời thơ ấu, nghĩa là quá khứ vàng son của cuộc đời ông gắn chặt với tư dinh này. Chính trên những bãi cỏ của lâu đài, ông đã đi những bước đầu tiên, những con đường ông tập lên ngựa, những chiếc hồ ông học làm thuỷ thủ. Vì vậy mới bắt đầu thời tiết tốt, ông chạy ngay đến Tsarskoï Selo, và chỉ rời khỏi nơi này khi tuyết bắt đầu rơi.
Chính tại Tsarskoï Selo tôi tới để đi theo ông, tự hứa phải gặp ông cho kỳ được.
Vì vậy sau một bữa sáng đơn sơ ăn vội ở khách sạn Phục Hưng, tôi vào trong công viên, tuy có lính gác nhưng ai cũng có thể vào đấy đi dạo. Trời bắt đầu lạnh nên công viên vắng người. Cũng có thể người ta hạn chế vào đây vì tôn trọng không muốn quấy rầy nhà vua. Tôi đã biết đôi khi ông đi dạo cả ngày ở đây, trên những con đường âm u nhất. Vì vậy tôi đi may rủi, bước lên phía trước và gần như tin chắc sau khi dò hỏi, sẽ gặp được ông. Vả lại tôi cho rằng dù không may thì tôi cũng không thiếu những thứ để giải trí và thoả trí tò mò.
Thật vậy, chẳng mấy chốc, tôi đụng phải một thị trấn Trung Hoa, một nhóm xinh xắn gồm mười lăm ngôi nhà, mỗi nhà có cửa ra vào, máy ướp lạnh và khu vườn dùng làm chỗ ở cho tuỳ tùng của Hoàng Đế. Ở giữa thị trấn là một ngôi nhà theo hình ngôi sao dùng làm nơi khiêu vũ và hoà nhạc, một căn phòng đầy cây xanh dùng làm văn phòng, bốn góc căn phòng ấy là bốn bức tượng quan lại to bằng người thật đang hút ống điếu. Một hôm vào ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ năm mươi tám của mình, Catherine dạo chơi trong vườn cùng triều thần, bước vào gian phòng ấy, ngạc nhiên thấy khói từ ống điếu toả ra, bốn viên quan lại duyên dáng quay đầu, liếc mắt nhìn bà. Catherine lại gần hơn để nhìn rõ hiện tượng ấy. Lúc ấy bốn viên quan lại bước xuống khỏi bệ, lại gần và quỳ xuống theo đúng nghi lễ Trung hoa, đọc những vần thơ ca tụng. Bốn quan lại ấy là Hoàng thân Ligne, ông De Ségur, ông De Conbenzl và ông Potemkine.
Tôi đã liên tiếp thăm đài tưởng niệm Grégoire Orloff, ngọn tháp người chiến thắng Schesma và động Pausilipe. Đã bốn tiếng đồng hồ lang thang trong khu vườn có những ao hồ, đồng bằng và rừng cây, tôi bắt đầu thất vọng vì không gặp được người mình đến tìm, thì lúc đi qua một con đường lớn, thì bỗng thấy một viên sĩ quan mặc áo choàng có đuôi chào tôi rồi tiếp tục đi trên một con đường nhánh. Phía sau tôi có một chàng trai làm vườn đang dãy cỏ; tôi hỏi anh viên sĩ quan nào mà lễ độ như vậy, anh ta trả lời "Hoàng đế đấy".
Tôi vội lao ngay vào một con đường cắt ngang con đường nhà vua đang đi dạo, vừa được tám mươi bước, tôi lại thấy Người và không còn đủ sức để đi thêm nữa.
Nhà vua dừng lại một lúc, thấy tôi vì tôn trọng không đến gần Người, bèn tiếp tục đi về phía tôi. Tôi đứng bên lề đường, tay cầm mũ chờ và trong lúc Người tiến bước, chân hơi khập khiễng vì một vết thương lúc đi du lịch trên sông Đông vừa kịp khép miệng, tôi nhận ra Người đã thay đổi rất nhiều kể từ lần tôi gặp ở Paris cách đây chín năm. Khuôn mặt Người trước kia cởi mở, vui vẻ đến thế, đã u ám vì một nỗi buồn bệnh hoạn, rõ ràng có thể nói một nỗi buồn sâu sắc đang giày vò Nhà vua. Tuy vậy nét mặt vẫn thể hiện sự khoan dung nên gần như tôi vững tâm trở lại và lúc Người đi qua, tôi bước lên một bước và nói:
- Tâu Bệ hạ.
- Ông đội mũ vào – Người bảo – Trời rất lạnh, không nên để đầu trần.
- Xin Bệ hạ cho phép…
- Đội mũ vào, ông đội mũ vào.
Và như thấy lòng tôn trọng ngăn cản tôi chấp hành lệnh ấy, một tay Người cầm chiếc mũ đội lên đầu tôi, tay kia nắm chắc tay tôi buộc tôi cứ giữ nguyên như thế. Sau khi thấy tôi không cưỡng lại, Người nói với tôi:
- Bây giờ ông cần gì ở ta?
- Tâu Bệ hạ, tôi mong Ngài nhận đơn thỉnh cầu này.
Tôi rút lá đơn trong túi ra, ngay lúc đó nét mặt Hoàng đế sa sầm.
- Ông theo đuổi ta ở đây, ông có biết ta rời Saint-Peterbourg là để tránh những đơn thỉnh cầu không?
- Có, thưa Bệ hạ - tôi trả lời – tôi không che giấu nỗi táo tợn trong việc làm này nhưng lá đơn này có lẽ hơn mọi đơn khác sẽ được Bệ hạ bao dung, lá đơn có lời nhận xét đề nghị.
- Do ai? – Hoàng đế ngắt lời ngay.
- Do người em cao cả của Bệ hạ, Đại Quận công Constantin.
- À! – Hoàng đế nói, đưa tay định cầm nhưng liền rụt lại.
- Vì thế - tôi nói – tôi hy vọng Bệ hạ châm chước thói quen, chiếu cố nhận lấy lá đơn này.
- Không, tôi không nhận đâu vì ngày mai người ta sẽ đưa tới hàng nghìn và ta buộc phải tránh khu vườn này vì không còn được ở một mình nữa.
Nhưng thấy nét mặt thất vọng của tôi, Người chỉ tay về phía nhà thờ Saint Sophie:
- Ông bỏ lá đơn của ông và hộp thư kia, ngày hôm nay ta sẽ xem và ba ngày sau ông sẽ được trả lời.
- Tâu Bệ hạ, xin đội ơn Bệ hạ.
- Ông có muốn chứng minh điều đó không?
- Ồ, Bệ hạ lại hỏi tôi điều ấy sao?
- Thế thì đừng nói với ai ông đã trình ta một lá đơn thỉnh cầu mà không bị trừng phạt. Chào ông.
Hoàng đế bước đi, để lại tôi sửng sốt vì lòng nhân hậu hơi buồn của Người. Tôi theo lời khuyên, bỏ lá đơn vào hộp thư. Ba ngày sau, như Người đã hứa, tôi được trả lời.
Đấy là chứng chỉ thầy dạy đánh kiếm của tôi trong đội công binh hoàng gia, với cấp bậc đại uý.
Kể từ thời điểm này, khi đã có vị trí tương đối ổn định, tôi quyết định rời khỏi khách sạn Londres và thuê nhà riêng. Kết quả là tôi chạy khắp thành phố. Trong những chuyến đi thăm dò này, tôi thật sự biết Saint-Peterbourg và dân cư ở đây.
Bá tước Alexis đã giữ lời hứa. Nhờ ông giúp ngay từ đầu tôi đã có được một câu lạc bộ học viên mà nếu không có giới thiệu của ông thì cả một năm quảng cáo tôi cũng không có nổi. Đấy là ông Narinski, người anh em họ của Hoàng Đế, ông Paul de Robrinski, cháu thừa nhận của Grégoire Orloff và Đại Nữ Hoàng, ông hoàng Traubetskoï , Đại tá trung đoàn Prébouvjenskoï , ông De Gorgoli, người đứng đầu ngành cảnh sát, nhiều quý tộc khác của các gia đình bậc nhất ở Saint-Peterbourg và cuối cùng là hai ba sĩ quan Ba Lan phục vụ quân đội Hoàng đế.
Một trong những điều làm tôi chú ý là quý tộc Nga lớn tiếp đãi tôi trong gia đình họ rất lễ độ, đức tính đầu tiên của dân tộc còn hiếm hoi tồn tại trong văn hóa của họ. Đúng là Hoàng đế Alexandre, ngài học theo cách của vua Louis XIV tặng cho sáu thầy dạy đánh kiếm lâu năm nhất ở Paris những giấy chứng nhận có giá trị truyền đời, xem việc đánh kiếm là một nghệ thuật chứ không phải là một nghề. Ngài đã chú ý đề cao nghề nghiệp của chúng tôi thông qua việc bổ nhiệm cho chúng tôi những cấp bậc khá cao trong quân đội. Ngoài ra tôi phải thừa nhận không ở nước nào tôi có thể tìm được như ở Saint-Peterbourg tình thân mật quý phái như vậy.
Việc người Nga tiếp đón thân mật làm tăng thêm niềm vui cho những người nước ngoài. Đặc biệt là những ngày sinh nhật và lễ hội trong năm, thêm vào đó là những buổi tiệc tùng vào mỗi dịp đặc biệt trong gia đình. Vì vậy, dù với một số người quen hạn chế, hiếm ngày mà tôi không dự hai ba bữa tiệc hoặc chừng ấy buổi khiêu vũ.
Ở Nga còn có một thuận lợi khác cho các thầy dạy: họ trở thành những người đồng bàn và như một thành viên trong gia đình. Một người thày sẽ có một vị trí giữa người bạn và người bà con, vị trí này chỉ mất đi nếu phạm phải lỗi lầm.
Đấy cũng là tình cảm mà một số học trò muốn đem đến cho tôi, trong số đó có người đứng đầu ngành cảnh sát, ông De Gorgoli. Ông là một trong số người quý phái nhất và có tấm lòng tốt nhất mà tôi được biết. Ông có nguồn gốc Hy lạp, đẹp, cao lớn, cân đối, thành thạo về mọi thao tác. Chắc chắn cùng với Bá tước Alexis Orloff và ông De Bobrinski, họ là những mẫu người quý tộc thực sự. Trong một thành phố như Saint-Peterbourg, nghĩa là trong Venise của chế độ quân chủ này không một tiếng đồn nào có thể vang xa. Những con kênh của la Moika và Catherine làm cho những cái chết không gây tai tiếng. Lính canh ở mỗi góc đường đôi khi gây kinh hoàng cho người qua lại nhiều hơn là dẹp đi nỗi lo sợ cho họ. Sĩ quan cao cấp Gorgoli là người thực sự bảo vệ an ninh cho cả thành phố. Thấy ông không ngừng đi lại trên một chiếc xe nhẹ bốn ngựa chạy nhanh như hươu nai và mỗi ngày thay thế bốn lần, qua mười hai khu trong thành phố, các chợ và cửa hàng, người dân nào cũng bình tĩnh đóng cửa về đêm, tin chắc vị cứu tinh ấy của mình vẫn mở mắt trong bóng tối. Tôi chỉ đưa ra một minh chứng cho sự cảnh giác liên tục ấy, đã mười hai năm là người đứng đầu ngành cảnh sát, ông De Gorgoli không rời xa Saint-Peterbourg một ngày nào.
Sau mấy ngày tìm kiếm, tôi tìm được trên bờ kênh Catherine, nghĩa là ở trung tâm thành phố, một căn nhà khá tốt, nội thất đầy đủ, chỉ còn cần bổ sung chăn đệm, một giường nằm cho những ông chủ lớn.
Phấn khởi về chỗ ở mới tìm được, tôi đi từ kênh Catherine trở lại Amirauté và bỗng muốn vào tắm hơi, không nghĩ ra đó là ngày chủ nhật. Ở Pháp đã nghe nói nhiều về loại tắm kiểu này nên đi qua một nhà tắm hơi tôi liền ghé vào. Tôi đứng chen chúc trước cửa, phải trả hai rúp rưỡi, tương đương với năm mươi xu của Pháp. Người ta đưa cho tôi một vé vào cửa và dẫn lại phòng đầu tiên để thay quần áo. Phòng này giữ ở nhiệt độ bình thường.
Trong lúc tôi cởi quần áo với khoảng một chục người khác, một cậu con trai đến hỏi tôi có mang theo người hầu không và khi nghe trả lời là không, cậu hỏi tôi muốn người kỳ cọ vào độ tuổi nào, trả giá bao nhiêu, và giới tính nào. Tôi không hiểu những luật lệ ở đây nên yêu cầu cho biết rõ hơn. Chàng trai giải thích đàn ông, trẻ em thuộc cơ sở này lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ, còn đàn bà thì phải gọi ở một nhà gần đấy.
Dù người được chọn lựa là ai, cũng phải cởi trần truồng như người tắm, cùng vào trong phòng thứ hai để được đốt nóng. Tôi ngẩn người ngạc nhiên một lúc rồi tò mò e thẹn, tôi chọn luôn cậu con trai đã hỏi tôi. Vừa nói xong, cậu ta đi lấy một nắm que treo trên chiếc đinh và chỉ trong chốc lát cũng trần truồng như tôi.
Cậu mở ngay một cánh cửa và đẩy tôi vào căn phòng thứ hai.
Hãy tưởng tượng ba trăm con người hoàn toàn trần truồng, đủ mọi lứa tuổi, giới tính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, người già. Một nửa quất roi vào người kia, với những tiếng kêu, tiếng cười, những vặn vẹo kỳ lạ, không một ý nghĩ thẹn thùng. Ở nước Nga thời ấy dân chúng bị khinh rẻ đến mức người ta xem thói quen của họ như của loài vật và cảnh sát xem quan hệ tình dục có lợi cho dân số và cho đó là của cải của tầng lớp quý tộc.
Sau mười phút, chịu nóng không nổi, tôi trở lại phòng đầu, mặc lại quần áo và đưa cho cậu bé hai rúp, ra khỏi nhà tắm. Phản ứng như vậy có vẻ rất bình thường nên không ai chú ý đến tôi.
Tôi đi theo con đường Phục Hưng, tâm trí đang băn khoăn về điều vừa chứng kiến thì đụng phải một đám đông chen chúc đi vào sân một ngôi nhà rất đẹp. Tò mò, tôi xếp hàng đi vào theo thì thấy người ta đang chuẩn bị trừng phạt một nô lệ bằng roi da. Tôi chuẩn bị rút lui vì cảm thấy không đủ sức nhìn một cảnh như thế thì một cửa sổ mở ra, hai cô gái đem đặt ở ban công một chiếc ghế phô tơi và một tấm đệm gấm. Phía sau hai cô gái xuất hiện một người đàn bà mà chân tay có vẻ yếu ớt như sợ đụng chạm với đá nhưng đôi mắt thì không sợ trông thấy máu. Tiếng thì thầm lan khắp đám đông "La Gossudarina! La Gossudarina!" khẽ được nhắc đi nhắc lại.
Thật thế, tôi nhận ra giữa đám lông thú đầy mình, người đẹp Machinka của vị bộ trưởng. Một trong những bạn cũ của cô vô lễ và người ta nói cô đòi hỏi một hình phạt để làm gương cho những người khác để họ không mắc lỗi tương tự. Người ta tưởng sự trả thù chỉ có thế, nhưng đã lầm. Cô còn muốn xem kẻ phạm tội bị trừng phạt. Tuy Louise đã nói về tính tình độc ác của cô, tôi hy vọng cô chứng kiến để làm duyên hoặc ít nhất làm dịu đi sự hành hạ nên tôi bèn ở lại xem.
La Gossudarina đã nghe tiếng thì thầm khi bước ra nhưng thay vì sợ hãi hay hổ thẹn, cô đưa mắt nhìn đám đông, thái độ kiêu kỳ và láo xược đến mức một bà hoàng cũng không dám làm hơn thế. Ngồi dựa trên chiếc phô tơi, tì cùi chỏ vào tay ghế, cô để đầu lên một bàn tay còn tay kia vuốt ve một con chó săn thỏ con nằm dài trên đùi cô.
Hình như người ta chỉ chờ cô có mặt để bắt đầu cuộc trừng phạt vì người đẹp vừa ra ban công thì một cánh cửa dưới thấp mở, người phạm tội bước giữa hai nông dân mỗi người nắm một dây trói quanh cổ tay. Tiếp theo là hai người thừa hành khác mỗi người cầm một chiếc roi da. Nạn nhân là chàng trai có bộ râu vàng, khuôn mặt vô cảm với những nét kiên nghị. Trong đám đông nổi lên một tiếng xì xào lạ; một số người nói chàng là trưởng nhóm công nhân làm vườn của vị bộ trưởng. Khi còn là nô lệ, Machinka đã yêu anh, sắp cưới nhau thì vị bộ trưởng để mắt tới cô, chọn cô làm nhân tình. Từ lúc ấy với một sự quay ngoắt lạnh lùng, La Gossudarina căm thù chàng trai và đã hơn một lần anh phải chịu hậu quả của sự thay đổi ấy. Hình như cô sợ ông chủ nghi ngờ cô còn giữ một số tình cảm với người tình cũ. Hôm trước cô gặp anh trên đường đi trong khu vườn, nghe anh nói vài tiếng gì đó rồi cô hét lên, và anh đã chửi rủa cô. Khi ông bộ trưởng về đến nhà, cô đòi ông phải trừng phạt kẻ phạm tội.
Những chuẩn bị cho việc hành hạ đã được sắp đặt trước. Một tấm ván đặt thoai thoải với một vòng xích bó cổ nạn nhân, hai cọc dựng hai bên để trói tay, còn chiếc roi da có cán dài khoảng hai bộ, nối với một sợi dây da dài gấp hai lần tay cầm, phần cuối là một vòng sắt gắn một sợi dây da khác dài bằng nửa sợi dây đầu, rộng bằng hai ngón tay ở phần đầu, nhỏ dần và kết thúc nhọn đầu. Người ta nhúng phần này vào trong sữa, phơi khô cho cứng lại, nhọn như mũi dao nhíp. Thường cứ đánh được sáu lần thì người ta thay phần dây da vì da đã bị mềm đi, nhưng trong trường hợp này thì không cần thay. Người bị kết tội phải chịu mười hai roi mà đã có hai người đánh. Những người thực này không ai khác là những người đánh xe của vị bộ trưởng, họ đã thành thạo quất roi, không phải vì không có tình cảm với bạn mà đơn giản chỉ vì họ phải nghe lời chủ, thế thôi. Vả lại thường thường những người đánh còn trở thành người bị đánh. Thời gian ở Nga, tôi đã hơn một lần chứng kiến những ông chủ lớn trong lúc giận dữ người hầu và trong tay không có gì để đánh họ, đã ra lệnh người này năm tóc đấm vào mũi người kia. Lúc đầu họ có dè dặt, ngần ngại làm theo lệnh, nhưng rồi bị đánh đau quá người nào cũng hăng lên, đấm nhau thật lực, còn ông chủ không ngớt kêu lên "Đánh mạnh vào! Đồ vô lại! Đánh mạnh nữa vào!" Cuối cùng khi thấy đã trừng phạt đủ, ông ta chỉ nói "Thôi!" Cuộc đánh đấm chấm dứt như có phù phép, các đối thủ đi rửa mặt đầy máu ở cùng một giếng nước và trở về khoác tay nhau thân mật như không có gì xảy ra giữa họ.
Lần này người bị kết tội không được nương tay, nhưng cung cách hành hạ cũng đủ làm cho tôi xúc động sâu sắc, tự cảm thấy mình bị chôn chân tại chỗ trước sự mê muội của con người; vả lại tôi muốn xem người đàn bà này tàn ác tới đâu.
Hai người hành tội lại gần chàng trai, lột áo đến tận thắt lưng, bắt nằm dài trên tấm ván, khoá cổ vào vòng sắt, trói tay vào hai cột hai bên. Một người làm một vòng tròn tách đám đông ra, dành cho người xem cảnh rùng rợn này một khoảng hình vòng cung để không vướng mắc gì. Người kia lấy đà, nhón chân, quất mạnh xuống, làm sợi dây da quấn hai vòng quanh thân nạn nhân, để lại một vệt xanh sẫm. Dù đau đớn mức nào, con người khốn khổ ấy vẫn không kêu một tiếng.
Đến cú đánh thứ hai, làn da ứa máu.
Cú đánh thứ ba, máu tóe ra.
Từ lúc này ngọn roi quất hẳn vào thịt, người đánh phải bóp vào roi da để máu chảy bớt ra.
Sau sáu roi đầu, người đánh khác thay chỗ với một ngọn roi mới. Từ ngọn roi thứ năm cho đến thứ mười hai, người bị đánh chỉ thể hiện cảm nhận qua bàn tay nắm chặt, không một cử động thân thể, người ta có thể nghĩ anh đã chết.
Hành hạ xong, người ta mở trói cho nạn nhân, anh gần ngất đi, hầu như không đứng vững, thế nhưng anh không kêu rên. Tôi không hiểu vì sao anh vô cảm và can đảm đến như thế được.
Hai người nông dân dìu anh, đưa anh trở lại cánh cửa nơi từ đó anh đã đi ra. Lúc vào, anh quay lại nhìn Machinka lẩm bẩm mấy câu tiếng Nga tôi không hiểu được. Chắc đây là lời chửi rủa hoặc đe doạ vì mấy anh bạn đẩy anh vào trong rất nhanh. Đáp lại, La Gossidarina chỉ cười nhạt khinh miệt và rút một chiếc hộp từ trong túi, mở ra lấy mấy chiếc kẹo cho con chó yêu. Gọi các nô lệ đến dựa vào vai họ rời khỏi chỗ ngồi.
Cánh cửa sổ khép lại và đám đông thấy mọi việc đã xong cũng lặng lẽ giải tán. Một số người lắc đầu như muốn nói một hành vi vô nhân đạo như thế ở một người trẻ đẹp sớm muộn sẽ bị Chúa phạt.
Catherine đã nói ở Saint-Peterbourg không có một mùa đông một mùa hè, mà có hai mùa đông, một mùa đông trắng, một mùa đông xanh.
Sắp tới mùa đông trắng và tôi không khỏi tò mò chờ đợi hiện tượng này. Hoàng thân Constantin đã trở lại Varsovie, vì không phát hiện được gì về âm mưu đã khiến ông phải về Saint-Peterbourg, và Hoàng đế Alexandre cảm thấy chung quanh mình có một âm mưu lớn, nên đã chia tay với những rừng cây đẹp ở Tsarskoï Selo, bây giờ lá rụng phủ đầy mặt đất. Những ngày đầy nắng và những đêm trăng mờ đã biến mất, không còn màu xanh da trời, không còn ngọn lam cuộn trôi cùng những làn sóng trên sông Neva, không còn những điệu nhạc thoang thoảng trong gió, những chiếc thuyền chở đầy phụ nữ và hoa. Tôi những muốn thăm lại một lần nữa những hòn đảo đẹp khi mới đến tôi thấy phủ đầy cây lạ, lá dày, hoa nở rộng, nhưng cây đã được đưa vào nhà kính trong tám tháng. Tôi tới tìm những lâu đài, miếu mạo, những công viên tươi đẹp, chỉ thấy những ngôi nhà sương mù bao bọc, chung quanh là những cây sồi đã rụng hết lá và những cây thông giơ những cánh tay mang viền tang tóc, mà cư dân là những loài chim đã nhảy nhót suốt mùa hè đã bay khỏi Saint-Peterbourg đi ẩn náu.
Tôi đã làm theo lời khuyên của ông bạn Lyon gặp ở bàn ăn khi vừa đến là cuộn đầy quần áo lông thú mua ở chỗ ông này, chỉ còn chạy từ đầu đến cuối phố dạy những bài học đánh kiếm mà cuối cùng hầu như đều chuyển thành trò chuyện thay vì những bài trình diễn hoặc tấn công. Nhất là ông Gorgoli, sau mười ba năm đứng đầu ngành cảnh sát, đã xin từ chức vì một cuộc tranh cãi với tướng Miladorovitch, thị trưởng thành phố, và trở về đời thường, cảm thấy cần nghỉ ngơi sau một thời gian dài hoạt động. Ông Gorgoli đôi lúc yêu cầu tôi để nhiều giờ liền kể cho ông nghe về nước Pháp và những công việc của tôi như với một người bạn. Sau ông, ông De Bobrinski tỏ ra mến tôi nhất và trong những thứ quà cáp cho tôi, ông đã tặng tôi một thanh gươm Thổ Nhĩ Kỳ rất đẹp. Còn Bá tước Alexis, luôn là người bảo trợ nhiệt tình tuy hiếm khi gặp được ông, do ông luôn bận rộn với những cuộc họp mặt bạn bè ở Saint-Peterbourg và cả ở Moscou. Hai thủ đô này cách nhau hai trăm dặm nhưng ông không ngừng di chuyển trên con đường này vì con người Nga này là một tổng hợp lạ lùng về sự mâu thuẫn và tính tình mềm yếu, dễ lao vào hoạt động sốt sắng vì buồn phiền!
Chỉ thỉnh thoảng tôi mới gặp ông ở nhà Louise. Tôi thấy cô đồng hương có một nỗi buồn sâu sắc trông càng ngày càng trở nên rầu rĩ. Khi gặp một mình cô, tôi hỏi cô nguyên nhân về nỗi buồn ấy, cho rằng vì ghen tuông đàn bà. Khi tôi đề cập đến vấn đề ấy, cô lắc đầu và nói rất tin tưởng ở Bá tước Alexis, làm cho tôi bắt đầu nghĩ đây là do ông tham gia tích cực vào một âm mưu bí mật mà người ta đang nói tới, cũng không biết gồm những ai và chống lại ai. Còn ông, có thể đại diện cho một thái độ đáng tôn vinh của những người Nga mưu phản, tôi nhớ không một lần thấy có sự thay đổi nhỏ nào trong nét mặt, tính tình.
Ngày 9 tháng 11 năm 1824, sương mù dày đặc bao phủ thành phố và đã ba ngày làn gió tây nam lạnh và ẩm ướt thổi mạnh từ vịnh Phần Lan, sông Neva cuộn sóng như mặt biển. Nhiều đám đông tập trung trên bến cảng, mặc gió rét thổi rát mặt, lo lắng theo dõi con sông lồng lộn và tính đếm những vòng chỉ mực nước dâng lên, gắn xen kẽ nhau dọc theo bức tường đá granit. Một số người đứng cầu nguyên dưới chân tượng Đức Bà trước đây suýt làm Pierre Đại Đê từ bỏ ý định xây dựng thành phố hoàng gia, đã tính mức sông lên đến tầng hai các ngôi nhà. Trong thành phố ai cũng sợ hãi khi thấy nước giếng chảy mạnh, các giòng nước xuất hiện cuồn cuộn như bị một sức mạnh lạ dồn ép trong những kênh ngầm. Cuối cùng có một cái gì đó u tối tràn khắp thành phố, chỉ rõ một tai họa lớn sắp đến gần.
Chiều đến những trạm báo hiệu được bố trí gấp đôi ở khắp nơi.
Ban đêm một cơn giông tố dữ dội nổi lên. Người ta ra lệnh nâng hẳn những chiếc cầu để tàu bè vào tránh bão ở trung tâm thành phố. Cả đêm tàu ngược dòng Neva vào thả neo trước pháo đài giống như những con ma trắng.
Tôi ở nhà Louise đến nửa đêm. Cô càng lo sợ vì Bá tước Alexis được lệnh tập trung ở trại kỵ binh cận vệ. Việc phòng thủ bố trí y như khi thành phố ở trong tình trạng chiến tranh. Rời nhà cô, tôi đi một lúc trên bến cảng. Sông Neva bị khuấy động mạnh nhưng nước chưa dâng cao rõ rệt, thỉnh thoảng về phía bỉên có những tiếng lạ, như tiếng rên rỉ kéo dài.
Tôi trở về nhà. Trong nhà chưa ai ngủ. Một con lạch chảy trong sân, từ lâu nước đã tràn vào tầng trệt. Người ta bảo ở những chỗ khác nước toé ra, nâng cả những viên gạch. Thực vậy, đi trên đường tôi cảm thấy như nước đang chảy ngầm giữa những tảng đá nhưng không nghĩ đến nạn lụt vì chưa bao giờ tôi biết đến nó. Tôi lên căn hộ ở tầng ba rất yên ổn. Tuy nhiên ít lâu sau tôi nhận thấy những người khác bị náo động hơn bản thân tôi nên không ngủ được. Nhưng rồi quá mệt mỏi, tôi thiếp đi theo nhịp ầm ì của cơn dông bão.
Đến tám giờ sáng thì tôi thức dậy vì một tiếng súng ca nông. Tôi quàng chiếc áo mặc trong phòng và chạy lại cửa sổ. Đường phố xôn xao khác thường. Tôi vôi mặc quần áo và chạy xuống.
- Tiếng súng ca nông ấy là thế nào? – tôi hỏi một người đang mang chăn đệm lên tầng hai.
- Nước đang lên, thưa ông.
Ông ta trả lời rồi tiếp tục đi lên. Tôi xuống đến tầng trệt, nước lên đến mắt cá tuy sàn nhà vốn cao hơn mặt đường ba bậc thềm. Tôi chạy ra ngưỡng cửa ra vào, phần giữa con đường bị ngập, xe đi lại làm dồn sóng lên mặt hè đường.
Tôi thấy một chiếc xe ngựa liền gọi lại nhưng người đánh xe từ chối chở đi vì muốn nhanh chóng trở về trạm. Tôi đưa một tờ giấy bạc hai mươi rúp làm anh ta quyết định chở tôi đi. Tôi nhảy lên xe, chỉ hướng nhà Louise, đại lộ Nevski. Nước lên đến khoeo chân ngựa và cứ năm phút người ta lại bắn ca nông và bắn từng phát. Những người tôi gặp đều nói "Nước đang lên!"
Tôi đến nhà Louise. Một người lính đi ngựa đang dừng lại trước cửa. Anh được Bá tước Alexis cử phi nước đại đến nói cho cô hãy dọn lên tầng cao nhất của toà nhà để tránh hốt hoảng. Gió vừa trở hướng tây dồn nước vào sông Neva, trông như biển đang tranh chấp với sông. Người lính làm xong nhiệm vụ khi tôi bước vào nhà, anh phi ngựa về trại lính, bụng ép xuống mình ngựa, làm tung toé nước quanh mình. Súng ca nông vẫn bắn.
Tôi đến vừa đúng lúc. Louise đang sợ chết khiếp. Có lẽ sợ cho mình ít hơn cho Bá tước Alexis, vì trại lính trong khu Narva sẽ là nơi bị lụt đầu tiên. Tin tức những lính vừa đưa tới cũng làm cô yên tâm được đôi chút. Chúng tôi cùng nhau lên tầng thượng, nơi cao nhất trong nhà, bao quát được thành phố. Trong những ngày đẹp trời, ở đấy nhìn thấy biển, nhưng lúc này sương mù dày đặc, chân trời rất gần và chỉ thấy một đại dương hơi nước.
Ca nông bỗng bắn gấp gáp, ở quảng trường Amirauté chúng tôi thấy những chiếc xe chở thuê tuôn ra trên các đường phố từ mọi hướng. Những người đánh xe thấy nước ngầm tràn ra khắp nơi thì nghĩ đây là một dịp đầu cơ tốt, tập trung ở những bến đỗ thường ngày. Họ kêu lên "Nước lên! Nước lên!" thúc giục mọi người chạy lụt. Và như thế, phía sau những chiếc xe như để đuổi theo, một đợt sóng cao nhô làn nước xanh lên quá bến cảng, đập vào góc cầu Isaac,tung bọt đến tận chân tượng đài Pierre Đại Đế.
Người ta nghe một tiếng kêu sợ hãi như cả thành phố đều trông thấy làn sóng ấy. Nước sông Neva tràn bờ.
Qua tiếng kêu, tầng thượng cung điện Mùa Đông tràn đầy quân phục. Hoàng đế, Ban tham mưu lên để chỉ huy vì tai nạn mỗi ngày một cấp bách. Người ta thấy nước đã lên quá nửa tượng đài liền nghĩ ngay đến những người tù khổ sở bị giam trong các hầm song sắt trước mặt bờ sông. Chủ một chiếc thuyền được lệnh nhân danh Hoàng đế đến báo với quản trị trưởng đưa họ ra khỏi nhà tù, đến nơi an toàn hơn. Chiếc thuyền đến quá chậm, trong lúc lộn xộn người ta đã bỏ quên họ. Họ bị chết hết.
Trong lúc đó chúng tôi thấy phía trên cung điện Mùa Đông chiếc du thuyền Hoàng gia tiến lại gần để nếu cần có thể chở Hoàng đế và gia đình. Nước lúc ấy phải ngang mức lan can bến cảng. Chúng tôi thấy một người đánh xe vùng vẫy với con ngựa kéo, và hiểu rằng trên đường phố không đi lại được nữa. Người đánh xe nhảy xuống bơi lại phía một cửa sổ và được kéo lên ban công tầng hai.
Mải chứng kiến cảnh ấy, chúng tôi không nhìn về phía sông Neva. Lúc quay lại, chúng tôi thấy hai chiếc thuyền lớn trên quảng trường Amirauté. Nước lên cao đến mức thuyền đi qua những dãy lan can, Hoàng đế cho thuyền đến cứu những người sắp chết đuối. Ba chiếc khác cùng đi đến tiếp theo. Chúng tôi máy móc nhìn lại chỗ chiếc xe và con ngựa. Mái xe còn nổi nhưng con ngựa đã chìm. Vậy là mực nước trên đường phố phải cao đến sáu bộ. Súng ca nông đã ngừng bắn được một lúc, chứng tỏ lụt đã lên tới tường thành.
Lúc ấy người ta bắt đầu thấy bập bềnh những mảng nhà do sóng đưa từ ngoại ô tới. Đấy là những ngôi nhà gỗ khốn khổ của khu Narva, không trụ vững được trước cơn cuồng phong, bị bốc đi cùng với những người ở trong đó.
Một chiếc thuyền đi qua Đại lộ vớt được một người đàn ông, nhưng đã chết. Khó nói được cảm xúc của chúng tôi trước nạn nhân đầu tiên ấy.
Nước tiếp tục dâng nhanh một cách đáng sợ, ba con kênh bao quanh thành phố đổ ra đường những chiếc thuyền chở đá, cỏ khô và gỗ. Thỉnh thoảng thấy có người cố bám vào những hòn đảo nổi ấy, trèo lên chỏm ra hiệu cho thuyền đến cứu. một việc làm thật khó khăn vì sóng nước trên đường phố hoặc trong kênh đang lồng lộn dữ dội, đến nỗi trước khi thuyền cấp cứu đến nơi thì nạn nhân đã bị một làn nước cuốn đi hoặc trông thấy những người xem là cứu tinh cũng bị nhấn chìm.
Chúng tôi cảm thấy ngôi nhà mình đứng đang rung lên dưới những đợt sóng đã mấp mé tầng hai, tôi nghĩ ngôi nhà sẽ rạn nứt và những tầng trên đổ sụp xuống bất cứ lúc nào. Thế nhưng giữa cảnh ồn ào ấy Louise chỉ có một câu nói đầu miệng "Alexis! Ô! Lạy Chúa! Alexis!"
Hoàng đế tỏ vẻ thất vọng , Bá tước Miladonovitch, thị trưởng Saint-Peterbourg, ở bên cạnh Người, nhận và truyền đạt mệnh lệnh, tuy nguy hiểm đến mấy cũng được thực hiện tận tuỵ đến thần kỳ. Thế nhưng tin tức đưa lại mỗi lúc một thảm hại. Trong một trại lính của thành phố, cả một trung đoàn lên tránh lụt trên mái nhưng ngôi nhà sụp đổ và tất cả những người khốn khổ ấy đều biến mất. Trong lúc người ta báo cáo việc ấy với Hoàng đế, một người lính bị làn sóng kéo ra khỏi trạm gác, thấy Hoàng đế trên tầng thượng, anh đứng ngay dậy, bồng súng chào. Khi ấy một đợt sóng lật nhào, cuốn anh đi. Hoàng đế thét lên, ra lệnh thuyền đến cứu. May mắn, anh lính biết bơi, trụ được một lúc dưới nước, chiếc thuyền đến kịp đưa anh vào lâu đài.
Tất cả cuối cùng là một cảnh hỗn độn. Những chiếc thuyền đụng vào nhau vỡ toác ra, các mảnh vụn trôi giữa những mảng nhà, đồ đạc bồng bềnh, và xác người, xác súc vật. Những chiếc quan tài bị bốc lên từ các phần mộ bung ra cả những bộ xương người, một chiếc thập tự từ nghĩa trang bị cuốn qua một cửa sổ hoàng cung và được tìm thấy như một dự báo tang tóc trong phòng Nhà vua!
Nước biển dâng lên như thế trong mười hai tiếng đồng hồ. Khắp các nhà, tầng hai bị ngập và trong một khu phố nước lên đến tầng ba, nghĩa là phía trên tượng Đức Bà sáu bộ. rồi nước bắt đầu xuống vì nhờ Chúa, gió chuyển từ tây bắc sang hướng bắc và sông Neva có thể tiếp tục chảy ra biển, chỉ thêm mười hai tiếng nữa thôi thì Saint-Peterbourg và cư dân sẽ bị biến khỏi mặt đất như những thành phố cổ xưa trong ngày Đại hồng thuỷ.
Suốt thời gian ấy, Hoàng đế, Đại Quận công Nicolas, Đại Quận công Michel và thị trưởng thành phố, bá tước Milarodovitch, không hề rời khỏi tầng thượng cung điện Mùa Đông, còn Hoàng hậu thì đứng ở cửa sổ phòng mình, ném tiền vàng cho những người chèo thuyền đi cứu người.
Dến chiều, một chiếc thuyền bơi tới tầng ba nhà chúng tôi. Trước đó Louise trao đổi tín hiệu vui với người lính trên thuyền mà cô nhận ra từ bộ quân phục. Thật vậy, anh mang tin của Bá tước Alexis tới và hỏi tin tức chúng tôi. Louise viết mấy hàng bằng bút chì để Bá tước yên tâm, tôi cũng thêm vào đấy một lời nhận xét và hứa sẽ không rời cô.
Nước biển tiếp tục xuống, gió ổn định từ phương bắc. Chúng tôi từ tầng thượng xuống tầng ba và qua đêm ở đây vì không có khả năng vào tầng hai, nước đã rút đi nhưng mọi thứ đều vấy bẩn và mất mát. Những cánh cửa bị gãy, sàn nhà đầy rác rưởi.
Đây là lần thứ ba từ một thế kỷ nay Saint-Peterbourg với những lâu đài bằng gạch và những cột thạch cao bị nước đe doạ, tương xứng lạ lùng với Naples ở đầu bên kia thế giới, khi châu Âu bị hoả hoạn đe doạ.
Sáng hôm sau trên đường phố mức nước chỉ còn hai, ba bộ. Nhìn những mảnh vụn và xác người đầy rẫy, người ta có thể đánh giá được thảm hoạ. Xác những chiếc tàu được tấp lên cao bằng chiều cao nhà thờ Kazan và ở Kronstad, một chiếc thuyền với hàng trăm súng ca nông bị đẩy lên giữa quảng trường, và trước khi đến đó đã làm lật nhào hai ngôi nhà như va vào đá tảng.
Giữa cơn thù hận của Chúa, con người cũng có một sự báo thù ghê gớm.
Vào mười một giờ đêm vị bộ trưởng được Hoàng đế gọi, để cô tình nhân ở nhà, dặn khi có dấu hiệu nguy hiểm thì lên những tầng nhà trên, nước không tới được. Việc dễ dàng thôi vì nhà của bộ trưởng là một trong những ngôi nhà đẹp nhất trên đường Phục Hưng, có bốn tầng lầu.
La Gossudarina vậy là ở nhà một mình với những người nô lệ. Vị bộ trưởng tới cung điện Mùa Đông bên cạnh Hoàng đế cho đến hôm sau, nghĩa là suốt thời gian ngập lụt. Được tự do, ông trở về nhà ngay, thấy các cửa bị phá vỡ, nước lên cao mười bảy bộ, nhà hoàn toàn bỏ vắng.
Lo ngại cho cô tình nhân đẹp, bộ trưởng vào ngay phòng ngủ của cô. Cửa ra vào đóng kín, cánh cửa duy nhất trụ vững được với sóng nước, hầu hết những cửa khác đều bị bật và cuốn đi. Trước hoàn cảnh lạ lùng ấy, ông đập cửa và gọi, tất cả đều vắng lặng, càng lo sợ hơn và sau những cố gắng lạ thường, ông phá được cánh cửa.
Xác La Gossudarina nằm ngay giữa phòng, nhưng cảnh tượng ghê gớm không chỉ do lụt, bằng chứng là thân không còn đầu.
Bộ trưởng suýt điên lên vì đau đớn, chạy ra kêu cứu ngay ở ban công mà trước đây Machnka ngồi xem hành hạ người yêu cũ của mình. Mấy người chạy đến thì thấy ông quỳ gối gần cái thân cụt đầu.
Người ta tìm trong phòng, thấy chiếc đầu bị sóng cuốn lên trên giường, gần đầu là đôi kéo to người ta dùng cắt rào vườn và dĩ nhiên là dụng cụ giết người.
Tất cả nô lệ của bộ trưởng trông thấy cảnh nguy hiểm, đều đã bỏ chạy mỗi người một phía, và đều trở về lại ngay tối hôm ấy hoặc ngày hôm sau.
Chỉ có người làm vườn không quay trở lại.