Lúc chúng tôi đến nơi thì người đầy tớ gái cho biết bác sĩ đã xuống chơi với nhà quý tộc Trelawney và ngủ đêm ở đấy. Bác sĩ và ông Trelawney là hai người bạn thân tình. Theo lời bác sĩ thì ông Trelawney là một người hào hiệp, giàu lòng bác ái, hay cứu khốn phò nguy. Ông ta chỉ thích đi săn và làm việc nghĩa. Đã có lần ông cho gọi tôi đến, hỏi han về sự học hành và xoa đầu tôi, bảo :
- Cháu là đứa trẻ thông minh. Cháu nên gắng học để sau này thành người có ích cho nước nhà.
Tôi còn nhớ lần ấy ông bảo mang lên cho tôi một đĩa thịt chim và bắt tôi ăn cho kỳ hết mới nghe.
Tuy đối với ông, tôi không thân bằng bác sĩ Livesey, nhưng lòng tôi vẫn kính phục ông hết sức.
Khi chúng tôi đến thì thấy hai ông đang ngồi hút thuốc lá cạnh lò sưởi. Lần này tôi mới nhìn được ông Trelawney rõ hơn. Ông người cao lớn, nét mặt hiền từ nhưng cương nghị, lông mày đen sẫm, khi giương lên, khi cau lại, tỏ ra người nhanh trí và hơi kiêu kỳ. Ông ngồi nghe viên thanh tra thương chính thuật chuyện một cách thích thú. Thỉnh thoảng ông lại nhìn tôi, nửa như khen ngợi, nửa như khuyến khích. Khi viên thanh tra ra về, bác sĩ Livesey đứng dậy hỏi tôi :
- Cậu Jim, cái vật chúng muốn tìm là cái gì?
- Thưa ông, đây...
Tôi vừa nói vừa đưa cái gói bọc vải sơn dầu cho bác sĩ. Bác sĩ ngắm nghía, hình như muốn mở nhưng lại thôi.
Ông Trelawney hỏi tôi :
- Chắc cậu đói lắm, phải không?
Không đợi tôi trả lời, ông đã gọi mang thức ăn ra. Lần này cũng lại một đĩa thịt chim ướp. Tôi đang đói bụng, ăn rất ngon lành.
Bác sĩ Livesey đương ngồi trầm ngâm, tay mân mê cái gói vải sơn dầu, bỗng ông hỏi ông Trelawney :
- Này, chắc ngài đã nghe nói đến tên Flint?
Ông Trelawney đáp thực to :
- Lão Flint là tay trùm cướp khét tiếng, ai mà không biết!
Bác sĩ Livesey lại hỏi :
- Thế lão ấy có nhiều tiền của không?
Ông Trelawney lại nói to :
- Làm giặc, chả giết người kiếm tiền thì còn kiếm gì? Số tiền lão kiếm được suốt một đời làm giặc cũng đủ cất một kho của lớn.
Dừng một lát, bác sĩ Livesey lại hỏi :
- Giá thử trong cái gói này đây có đủ giấy má để tìm nơi lão Flint giấu của, thì ngài định liệu thế nào?
- Thì chúng ta sẽ sửa soạn một chiếc tàu, đi lấy về thôi.
Bác sĩ nói :
- Thôi được! Xin mời cậu Jim lại đây!
Khi tôi đến gần, bác sĩ đặt cái gói lên bàn rồi trịnh trọng nói :
- Cậu là người có công lấy được vật này. Nếu cậu ưng thuận, chúng ta sẽ cùng mở ra xem.
Không nói thì các bạn cũng biết, tôi đã vui vẻ gật đầu. Trong gói có hai thứ: một quyển sổ của tên Pew ghi tiền cướp được, và một phong bì niêm kín, có dấu đóng.
Thấy quyển sổ không có gì quan trọng, bác sĩ Livesey liền mở đến phong bì. Trong đó có bản đồ một cái đảo, có chia cả kinh tuyến, vĩ tuyến, các chỗ sâu, chỗ nông, tên núi, tên bến, tên lạch và nơi đỗ tàu chắc chắn. Cái đảo chiều dài chín dặm, ngang năm dặm, trông hình dáng như con rồng uốn. Đảo có hai bến rất kín, ở giữa có cái gò tên là Vọng Viễn, có ghi nhiều dấu, có dấu mới ghi thêm. Tính ra thì có ba dấu chữ thập đỏ, hai ở phía bắc đảo và một về phía tây nam. Gần dấu này có mấy chữ viết mực đỏ rất rõ: “Phần chính kho của là ở nơi này”.
Đằng sau, có chú thêm, chữ cùng do một người viết :
Cây to. Đồi con, gò Vọng Viễn, mũi đất về phía B.B.Đ.
Đảo Hình Người Đ.Đ.N.
Mười mét...
Rồi một số dòng chữ chú thích nữa, dưới ký: “P.”
Tuy vắn tắt và khó hiểu như vậy, nhưng trông mặt hai ông rạng rỡ vui mừng. Bác sĩ kêu lên :
- Một kho của lớn sắp về tay chúng ta.
Từ lúc xem xong bản đồ, nét mặt ông Trelawney vốn trầm lặng bỗng giờ đây mắt sáng long lanh, ông đứng lên nói một cách say sưa :
- Tôi thì tôi nghĩ một kho của phi nghĩa sắp trở thành một kho của có ý nghĩa. Một kho vàng nằm im vô dụng, giờ đây sắp được đem lên để làm sáng bao nhiêu khuôn mặt khổ nghèo.
Bác sĩ Livesey gật gật đầu ra vẻ đồng tình, rồi vừa cười vừa nói :
- Thôi tha hồ ngài được toại nguyện bình sinh. Ngài có thể cứu tế cho trẻ mồ côi ba quận, chứ đừng nói một quận nhỏ bé này.
Ông Trelawney tiếp lời ngay :
- Còn ông, ông cũng tha hồ mở nhiều nhà thương làm phúc...
Chợt bác sĩ quay lại phía tôi :
- Còn cậu Jim! Cậu là người có công đầu trong việc này, ý cậu thế nào? Cậu có đi với chúng tôi không?
Tôi lúng túng một lúc lâu rồi ấp úng trả lời :
- Tôi xin đi theo...
Bác sĩ Livesey lại quay sang nói với ông Trelawney :
- Việc này rất hệ trọng, có thể nguy hiểm đến tính mạng như chơi, vì giấy tờ này không phải chỉ riêng chúng ta biết...
Ông Trelawney khảng khái đáp :
- Dù có phải nguy hiểm đến tính mạng tôi cũng không ân hận gì vì chúng ta đang làm một việc nghĩa...
Bác sĩ ngắt lời :
- Vì thế, tôi chỉ lo một người có thể làm lộ công việc.
Ông Trelawney nói to :
- Kẻ ấy là ai, ông thử nói tên nó ra?
Bác sĩ đáp :
- Chính ngài chứ ai nữa! Vì ngài hay bộp chộp.
Ông Trelawney im lặng rồi nói khẽ :
- Ngài nói chí lý. Tôi xin giữ kín việc này.
Cuộc chuẩn bị vẫn kéo dài. Bác sĩ Livesey và ông Trelawney đều đi lo công việc. Chỉ còn tôi ở lại nhà với lão Redruth. Suốt ngày, tôi ngồi tưởng tượng đến tương lai với lòng chứa chan những ước mơ đẹp đẽ. Khi thì tôi nghĩ đến những nhà thương đồ sộ mà bất kể nghèo giàu, hễ ai vào đấy là đều được săn sóc chu đáo, không phải trả một đồng xu nhỏ. Cái cảnh vì thiếu tiền thuốc mà phải chết dần chết mòn như cha tôi sẽ không còn nữa. Khi thì tôi tưởng tượng đến sự mừng rỡ của những đứa trẻ mồ côi nghèo đói được nuôi dưỡng ăn học như con nhà giàu. Có những cảnh làm tôi xúc động đến rớm nước mắt. Có lúc tôi lại say sưa mơ tưởng về biển: nào phong cảnh tuyệt vời của đảo, nào những thứ hoa thơm cỏ lạ, nào những chuyện phiêu lưu thần kỳ. Tôi ngồi hình dung lại bản đồ, nhớ các chỗ từng ly từng tí.
Mãi một hôm, có phong thư của ông Trelawney gửi về báo tin công việc đã sắp đặt xong, bảo lão Redruth và tôi thu xếp đến ngay và nhắn cả bác sĩ Livesey tới gấp. Trong thư có nói rõ là ông đã tìm được một viên thuyền trưởng rất thạo nghề, chỉ phải cái hay bẳn tính, và một thủy thủ cụt một chân tên là Silver rất vừa ý. Người thủy thủ cụt chân này sẽ giữ chân đầu bếp dưới tàu.
Sáng hôm sau, lão Redruth và tôi lên đường đi Bristol. Tôi ghé lại nhà, từ biệt mẹ tôi. Nhà cửa đã được ông Trelawney cho sửa sang lại và thuê cho một người phụ việc, nên ra đi, tôi cũng yên lòng.
Chiều hôm ấy chúng tôi lên xe ngựa. Sáng hôm sau, khi choàng mắt dậy đã thấy đến Bristol. Chúng tôi phải đi bộ đến quán trọ đầu bến tàu, nơi ông Trelawney ở tạm. Khi đi qua bến, tôi được nhìn tận mắt rất nhiều tàu, đủ các cỡ, đủ các kiểu, thuộc đủ các nước. Trên tàu, thủy thủ vừa làm vừa hát. Trên một chiếc khác, nhiều người đánh đu trên ngọn cột buồm cao tít, bám vào sợi dây trông nhỏ như mạng nhện. Tôi sống suốt đời gần biển mà chưa bao giờ có cái cảm giác được gần biển như lần này. Tôi thấy nhiều tay thủy thủ già đeo khuyên ở tai, râu mép xoắn tít, đuôi tóc sơn thõng xuống như đuôi cá. Tất cả đối với tôi đều mới lạ, cả đến cái mùi nước mặn và mùi hắc ín. Thế mà tôi lại sắp sửa được đánh bạn với họ, đi tìm một kho của ở một hòn đảo xa lạ, đem về giúp đỡ cho bà con nghèo.
Đương nghĩ lan man thì tôi đã thấy ông Trelawney đứng ở cửa. Trông thấy tôi, ông bảo :
- Kìa cậu! Bác sĩ Livesey cũng đã tới rồi. Thế là đủ mặt. Ngày mai ta nhổ neo.
Nói xong, ông bảo tôi đưa thư đến cho Silver ở quán rượu của hắn. Khi tôi đến nơi thì cửa hàng đương đông nghịt khách, phần nhiều là thủy thủ. Tôi còn đứng phân vân thì một người ở nhà trong đi ra. Thoạt trông, tôi cũng biết ngay là Silver. Chân trái hắn cụt đến gần háng, hắn phải cặp nạng mà đi lại, nhanh thoăn thoắt như con thoi. Hắn to lớn, lực lưỡng, nước da xám xịt, mặt mũi xấu xí nhưng trông tươi và linh lợi. Hắn tỏ ra vui tính. Hắn đi hết bàn nọ đến bàn kia, miệng huýt sáo, thỉnh thoảng lại vỗ vai và bông đùa vài câu với những người khách thân.
Thú thực với các bạn, từ lúc đọc bức thư của ông Trelawney, tôi vẫn chột dạ, chỉ lo tên cụt chân ấy lại chính là tên thủy thủ tôi đã rình ở quán cơm nhà. Nhưng nhìn qua anh chủ quán đứng đắn và dễ có cảm tình này, tôi đủ yên bụng.
Khi thấy tôi chìa bức thư của ông Trelawney ra, hình như hắn hơi giật mình.
- Chao ôi! Cậu là bạn đi tàu của tôi mà. Được biết cậu thật là mừng.
Nói xong, hắn bắt chặt tay tôi.
Ngay lúc ấy, một người khách ngồi ở góc phòng thốt đứng dậy, bỏ ra. Thoáng nhìn, tôi đã nhận ra tên giặc cụt hai ngón tay. Tôi vội kêu to :
- Hắc Cẩu! Bắt lấy nó!
Silver cũng quát to :
- Hắn chưa giả tiền... Harry, tóm lấy nó!
Một người ngồi gần cửa đứng phắt dậy đuổi theo. Silver lại nói :
- Ngay đến ông hoàng vào đây uống rượu cũng phải giả tiền! Hắn là ai thế cậu?
- Thưa ông, hắn là một tên giặc biển.
- Thế à? Morgan! Lại đây, anh vừa chén với nó phải không!
Một tên thủy thủ già, tóc hoa râm, ngượng ngập bước đến. Silver hỏi tiếp, giọng khắc nghiệt :
- Này Morgan! Trước kia, anh chưa gặp hắn lần nào đấy chứ?
- Thưa ông, không!
Silver nói to :
- Phúc đời nhà anh đó! Nếu anh đã chơi với hạng người như thế thì anh đừng vác mặt đến quán tôi nữa! - Xong hắn quay lại nói riêng với tôi, bộ thân mật, làm tôi đến thích - Lão này thật thà như đếm. Chỉ phải cái tội hơi ngốc. - Rồi hắn lại nói to - Hắc Cẩu! Chịu! Ờ, ờ! Hình như tôi có gặp đâu một lần, hắn đi với một lão mù thì phải?
Tôi nói :
- Chính phải rồi, lão mù tên là Pew...
- Phải, phải, Pew! - Hắn nói coi bộ hớn hở - Ờ! Bộ nó trông rõ ra thằng đại bợm! Được! Lần này tóm được là tôi sẽ dìm nó xuống bến cho nó cạch đến già!
Vừa nói hắn vừa đấm bàn, nét mặt giận dữ, làm ai cũng phải tin là thật.
Lúc đầu thấy thằng Hắc Cẩu ở đây, tôi đã đâm nghi Silver, nhưng khi thấy tên đuổi theo hổn hển trở về tay không, hắn chửi mắng vung lên, tôi lại cho hắn là người ngay thẳng. Hắn nói với tôi :
- Cậu xem đó, việc này tôi thật là bứt rứt. Rồi đây tôi biết ăn nói thế nào với ông Trelawney? Thôi, nhờ cậu nói rõ cho ông ấy biết... Cậu ít tuổi, nhưng cậu là người thông minh, tất cậu đã hiểu cho tôi. Giá không vướng cái nạng này, tôi đã chạy bay tóm cổ nó về. Bây giờ thì...
Nói đến đây, mắt hắn rầu rầu.
- Nhưng thôi, chúng ta cứ đến ông Trelawney trình cho ông biết.
Nói xong, hắn kéo tôi đi. Vừa đi, hắn vừa vui vẻ giảng giải cho tôi nghe về tàu bè, về đồ phụ tùng, về trọng tải, về tàu nước nọ nước kia. Thấy thế tôi cho hắn là một người bạn đi biển rất tốt.
Khi chúng tôi đến nhà thì thấy bác sĩ Livesey và ông Trelawney đương ngồi uống bia. Hắn kể lại chuyện vừa xảy ra từ đầu đến cuối, không thêm bớt một chút nào. Thỉnh thoảng hắn lại hỏi: “Có phải thế không, cậu Jim?”. Tôi cũng chỉ đành gật đầu. Nói xong hắn xin phép ra về. Ông Livesey nhìn theo hắn, bảo :
- Tôi rất thích tên đầu bếp này.
Ông Trelawney bảo :
- Tôi được một người giúp việc tận tâm như thế kể cũng may phúc. Chính hắn đã mộ cho tôi gần hết những thủy thủ trên tàu.
Nói xong, ông rủ bác sĩ và tôi cùng đi xuống xem tàu.
Khi ba chúng tôi đến nơi thì viên phó thuyền ra đón. Xem ý ông Trelawney thì hình như ông đối với hắn thân hơn với viên thuyền trưởng. Ông này trông tướng người nghiêm khắc. Hình như trước mọi việc xếp đặt trên, ông đều nhăn nhó không hài lòng. Khi chúng tôi vừa bước vào phòng, ông nói ngay :
- Thưa ngài, dù có mếch lòng ngài, tôi nghĩ cũng nên nói thẳng là hơn. Tôi không yên tâm đối với cuộc đi này, tôi không ưa bọn thủy thủ ở đây, cả viên phó thuyền nữa.
Ông Trelawney đáp lại ra vẻ phật ý :
- Sao ông không nói không ưa luôn cả chiếc tàu này và cả chủ nó?
Đến đây, bác sĩ Livesey nói chen vào :
- Ấy khoan! Đừng nói thế, chẳng ích gì đâu! Bây giờ tôi xin ông thuyền trưởng hãy nói rõ lý do vì sao ông không ưa cuộc đi này?
- Tôi đã nhận lời một cách bí mật, đảm nhiệm đưa chiếc tàu này đến nơi ngài định. Nhưng bây giờ tôi xét thấy mọi người trên tàu đều biết rõ chuyện ấy hơn tôi. Theo ý tôi, như thế là không xong!
- Ý tôi cũng vậy, như thế là không ổn. - Bác sĩ nói.
- Sau nữa, tôi nghe người ta nói chúng ta đi tìm của. Mà ai nói? Chính miệng những người trên tàu nói! Đi tìm của là một việc rất nguy hiểm. Đó là một vấn đề sinh tử.
- Điều ông nói, tôi xin nhận là đúng. Còn việc ông bảo ông không ưa bọn họ tí nào...
- Giá để tôi chọn, có lẽ lại hơn.
- Ông nói có lý. Nhưng vì lẽ gì ông không ưa cả viên phó thuyền?
- Vì hắn ta tính lè nhè, hay đánh chén với bọn thủy thủ. Hắn không thể làm một viên phó thuyền đứng đắn được.
- Thế ông muốn thế nào, ông cứ nói thẳng đi.
- Bây giờ tôi muốn các ông xét lại việc này. Họ để khí giới và thuốc súng ở đầu mũi. Các ông có phòng kín đáo ở trong tàu, sao không để vào đấy? Đó là việc thứ nhất. Các ông có đem theo bốn gia nhân thân tín, sao họ sắp xếp ở đằng mũi xa tít mà không để ở cạnh các ông? Đó là việc thứ hai. Còn một việc này: họ nói rằng các ông có một bản đồ chỉ nơi giấu của.
Rồi ông nói về những dấu chữ thập trên bản đồ, cả các đường kinh tuyến, vĩ tuyến...
Bác sĩ Livesey mỉm cười bảo :
- Cũng nên lo! Nhưng đừng nên lo quá xa. Đừng để con chuột đẻ ra quả núi. Có nguy hiểm một tí cũng không sao, phải cứng rắn lên mới hay.
Lúc này ông Trelawney mới lên tiếng một cách miễn cưỡng :
- Thôi được, chúng tôi xin chiều theo ý ông, tùy ông bố trí xếp đặt lại trên tàu.
Khi viên thuyền trưởng cáo từ lui ra, bác sĩ bảo :
- Ông Trelawney này! Bây giờ tôi đã thấy là ông có được hai người giúp việc trung thành: lão này và gã Silver đấy.
- Silver thì được chứ thằng cha này thì chưa chắc!
Bác sĩ nói :
- Để xem rồi mới biết.
Khi chúng tôi lên boong thì các thủy thủ đương khuân khí giới và thuốc súng theo sự chỉ dẫn của thuyền trưởng. Thật là một sự thay đổi lớn trên tàu. Cách xếp đặt lại này rất hợp ý tôi. Giữa lúc ấy, gã Silver đáp thuyền đến. Hắn trèo lên tàu nhanh nhẹn như vượn. Khi hắn thấy khuân dọn, hắn kêu to :
- ạ kìa! Làm gì thế người anh em?
Một người nói :
- Chúng tôi phải khuân cả vũ khí đi nơi khác đây.
Hắn lại kêu to :
- Rõ khổ! Đến nhỡ mất con nước buổi sáng thôi.
Viên thuyền trưởng lạnh lùng bảo :
- Đó là lệnh của tôi. Anh cứ xuống bếp mà làm việc.
- Vâng, vâng! Tôi đi đây!
Tên đầu bếp vừa nói vừa chào qua loa rồi biến mất vào trong.
Cả đêm bận rộn thu dọn, tôi mệt lả. Nhưng khi gần sáng, lúc sắp nhổ neo, tôi vẫn cố đứng trên boong. Điều gì với tôi cũng mới lạ: từ tiếng còi rúc, tiếng lệnh truyền, đến những chấm đèn ló chạy đi chạy lại.
Một thủy thủ bảo :
- Bác bếp hát cho nghe một bài nào!
Một tên khác nhắc :
- Bài hát cổ ấy!
- Được, được! Không phải nhắc!
Gã Silver nói xong, cất giọng hát cái bài hát man rợ mà tôi nghe đã chán ngấy:
Mười lăm thằng trên hòm người chết,
Ỳ a, ỳ a...
Đến tiếng “ỳ a” cuối cùng, cả bọn đều xô nhau đẩy trục. Trước cảnh ấy, tôi bồi hồi nhớ đến quán cơm nhà. Tôi tưởng như viên chúa tàu khi xưa đang hét vang.
Khi chiếc neo ướt đẫm đã treo lủng lẳng đằng trước mũi, tàu bắt đầu giương buồm. Hai bên bến lùi dần, tàu bắt đầu ra khơi đi tìm hòn đảo giấu vàng. Chuyến đi bình yên vô sự. Tàu tốt, thủy thủ thạo nghề, viên thuyền trưởng tỏ ra một tay cừ. Nhưng trước khi đến đảo, đã xảy ra vài chuyện đáng kể.
Trước tiên là viên phó thuyền tỏ ra rất bậy bạ. Ông ta không có một chút uy tín trong đám thủy thủ. Tàu chạy được vài ngày, ông trèo lên boong, rượu say bí tỉ. Chúng tôi không hiểu ông mò đâu ra rượu. Đó là điều bí mật. Và đã xảy ra việc này... Một đêm sóng to gió lớn, ông ta đã biến mất xuống biển. Chẳng ai lạ mà cũng chẳng ai thương tiếc. Trên tàu thành ra thiếu một viên phó thuyền. Phải thăng chức phó thuyền cho một thủy thủ giỏi hơn cả tên là Anderson. Thêm có ông Trelawney đã từng đi biển nên cũng phụ vào. Lại còn một lão thủy thủ già tên là Hands, một người mưu trí mà lịch lãm, có thể trông cậy được. Hands là bạn thân của gã Silver. Còn gã Silver thì vẫn chống đầu nạng vào nách, theo nhịp tàu lắc lư, đứng nấu ăn như đứng trên đất bằng. Hắn chỉ dùng cái băng choàng qua cổ, đưa nạng qua lại đi thoăn thoắt như người thường.
Tất cả thủy thủ đều kính trọng hắn. Hắn đối xử với mỗi người một cách và tỏ ra rất tốt bụng. Hắn giữ bếp rất sạch, đĩa treo bóng nhoáng. Con vẹt trong lồng để vào một xó. Đối với tôi, hắn hết sức tử tế.
Thấy mặt tôi, hắn đã đon đả :
- Cậu Jim, lại đây! Chuyện gẫu với nhau một chút nào. Ngồi xuống đây. Tôi gọi con vẹt của tôi là Flint, tên cái lão hải tặc lừng tiếng ấy. Cậu xem Flint sắp nói chuyện với ta đấy!
Gã vừa dứt lời, con vẹt liền nói liến thoắng :
- Đồng ăn tám! Đồng ăn tám!
- Thôi im đi! - Gã vừa nói vừa lấy đường trong túi cho chim ăn.
- Cậu ạ, con chim này nó thấy vô khối chuyện lạ. Nó học được câu ấy trong lúc người ta chia tiền.
Con vẹt vừa ăn đường vừa mổ vào lồng, vừa thề vừa rủa rất đanh ác. Gã lại bảo :
- Con chim già vô tội này cứ nguyền rủa như người vô đạo. Lạy Chúa!
Nói xong, gã đưa tay ra như làm dấu, khiến tôi tưởng gã là một người đạo đức không ai bằng.
Trong khi đi đường, viên thuyền trưởng và ông Trelawney vẫn không ưa nhau ra mặt. Ông Trelawney rất chiều chuộng thủy thủ. Hễ có cuộc vui gì là cả bọn đều được uống nước chanh pha rượu mạnh. Có khi ông cho họ uống cả “rum”. Biết được ngày sinh nhật một người nào đó, ông liền mở ngay một thùng trái lê ở hầm tàu, ai ăn bao nhiêu tùy thích. Thấy thế, viên thuyền trưởng bảo bác sĩ :
- Làm như vậy chẳng hay ho gì, chỉ tổ làm cho họ hư!
Nhưng cái thùng lê này rất được việc cho chúng tôi. Các bạn sẽ thấy có lẽ nhờ nó mà chúng tôi thoát chết.
Số là ngày ấy tàu đã gần tới đích. Chậm lắm là sáng hôm sau đã trông thấy được đảo. Chiều hôm ấy, làm xong việc, tôi bỗng thấy thèm ăn lê. Tôi chạy lên boong. Mọi người đều đứng đằng mũi ngóng về phía đảo. Chung quanh không một tiếng động ngoài tiếng sóng vỗ mạn tàu và tiếng anh chàng bẻ lái đương huýt sáo. Tôi chui tọt vào thùng lê, nhưng sờ mãi không còn một quả. Ngồi trong thùng tối om, tàu đưa lúc lắc, tôi thấy thu thú. Chợt có người ngồi phịch xuống cạnh thùng. Chiếc thùng lay chuyển, hình như có người tựa vào. Tôi định bò ra thì liền nghe tiếng hắn nói với một người nào đó. Tôi nhận ngay ra tiếng của gã Silver. Mới nghe vài ba câu đầu, tôi đã nhận thấy ngay không phải câu chuyện thường...
Tôi nằm thu mình trong thùng lắng nghe, phần sợ chúng biết, phần tò mò kích thích. Vì chỉ qua vài ba câu đầu ấy tôi đã hiểu rằng giờ đây tất cả số phận của những người lương thiện trên tàu, tất cả hoài bão của chúng tôi đều trông vào tôi cả.
Chương 10 Những điều tôi nghe được khi nấp trong
thùng lê
Tiếng gã Silver nói :
- Tôi mất cái chân này là khi tôi làm đầu mục cho lão Flint. Người cưa chân cho tôi là một tay mổ xẻ rất giỏi. Hắn học rộng, biết nhiều chữ la- tinh. Nhưng rút cục rồi cũng phải phơi thây hắn ra ngoài nắng. Trước kia tôi đi với Flint, bây giờ thì tôi đi riêng cho tôi. Thủ hạ cũ của Flint phần nhiều hiện ở trên tàu này. Làm nghề này được tiền nhiều nhưng phải biết dành dụm. Cứ trông cái gương lão Pew. Hắn ăn tiêu như phá đến nỗi phải đi ăn xin rồi phải chết dưới gầm cầu.
- Phải! Tiền ấy rút cục cũng chẳng dùng được việc gì.
Một tiếng nói khác, nghe ra tiếng gã thủy thủ trẻ nhất trên tàu. Tiếng Silver nói to :
- Chỉ thằng ngốc mới không được việc gì. Anh còn trẻ người nhưng anh rất thông minh, tôi vẫn coi anh như người già dặn nên mới ngỏ lời với anh...
Các bạn thừa biết khi tôi nghe cái thằng giặc già đểu cáng ấy nói với kẻ khác cũng dùng những giọng lưỡi như đã nói với tôi thì tôi tức giận đến thế nào.
Hắn lại nói tiếp :
- Anh xem đó, bọn giang hồ mình phải gian nan nhiều, nhưng tiền cũng lắm. Khắp các nhà “băng” tôi đều có tiền gửi. Bây giờ tôi cũng đã năm mươi tuổi đầu rồi chớ ít ỏi gì. Tôi định đi chuyến này về là tìm nơi an cư lạc nghiệp, tận hưởng giàu sang. Nhưng lúc đầu thì tôi cũng chỉ là tên thủy thủ thường như anh thôi!
Giọng tên kia có vẻ thán phục :
- Anh thật là một tay cừ khôi. Thế xong việc thì làm thế nào anh về được Brít-tôn?
Gã Silver cười khà khà :
- Đợi anh phải hỏi! Hiện giờ thì vợ tôi đã lấy tiền ở nhà băng, đã bán sạch nhà cửa và đương trên đường đi theo tôi.
Rồi giọng gã nói có vẻ mơn trớn, ân cần :
- Chỗ bạn giang hồ với nhau, tôi nói thật! Khi tôi còn làm đầu mục dưới trướng lão Flint, thì trong bọn với nhau cũng chẳng tốt lành gì. Bây giờ dưới trướng tôi, anh có thể vững bụng được.
Tên thủy thủ trẻ nói :
- Tôi cũng thú thật, trước khi gặp anh, tôi chẳng ưa gì việc này, nhưng bây giờ anh có thể tin ở tôi được.
- Anh rõ là một gã thông minh có tâm huyết. Trong bọn tôi ít có người như anh.
Silver vừa nói vừa siết chặt tay tên kia làm rung chuyển cả thùng lê.
Bây giờ tôi mới hiểu là hắn đương quyến rũ một người thủy thủ lương thiện.
Hắn huýt khẽ một tiếng. Một người khác bước vào. Hắn lên tiếng :
- Dick khi nào cũng đúng hẹn.
Lại thêm một tiếng nói nữa, tôi nghe rõ giọng lão Hands :
- Anh Silver, tôi chán ngấy cái lão thuyền trưởng rồi. Lão không cho tôi lấy một hớp rượu. Anh còn đợi đến bao giờ mới hành sự?
Silver đáp :
- Đừng nóng mắt! Cứ làm theo lời tôi dặn. Bao giờ được thì tôi bảo.
Lão Hands vừa khạc nhổ vừa càu nhàu :
- Bao giờ mới được chứ?
Silver nói to :
- Hands! Cứ bao giờ, bao giờ mãi! Anh cũng thấy chứ? Lão quý tộc với lão thầy thuốc cất giấu giấy tờ kho vàng ở đâu, có ma nào biết! Còn thằng thuyền trưởng là tay đi biển thạo. Phải để cho bọn hắn lấy được của, tải hộ ta xuống tàu rồi mới khử chúng.
Dick hỏi :
- Dễ chừng chỉ có tên thuyền trưởng là đi biển thạo à?
Silver vội đáp :
- Ừ, các bố thạo cho tàu chạy, nhưng chạy về đường nào? Trong bọn ta ai là người thuộc đường? Các bố chắc chịu? Nếu làm theo ý tôi thì đợi lúc quay về, có gió nồm thì ta mới hạ thủ lão ấy. Tôi biết các bố bây giờ chỉ háu ăn. Chính mắt tôi trông thấy nhiều tay cừ khôi mà chết uổng mạng chỉ vì nóng ăn đấy.
Dick hỏi :
- Anh định khử họ như thế nào?
Lão Hands buột mồm :
- Chỉ có hai lối: một là bỏ họ lên đảo, hai là chặt họ ra từng khúc.
Tên bếp tàu nói :
- Tôi ấy à? Tôi chỉ muốn tóm lấy lão Trelawney, vặn trái cổ lão ấy ra sau. - Rồi hắn quay sang chuyện khác - Dick! Đi lại lấy một quả lê ăn cho đỡ khát.
Lúc ấy tôi chỉ muốn nhảy phóc một cái chạy nhoáng nhoàng ra ngoài, nhưng may sao lão Hands giữ hắn lại. Tiếng lão Hands nói :
- Thôi! Ăn lê làm quái gì! Lấy cốc “rum” cho nó đỡ nhạt mồm.
Tên Silver bảo :
- Dick! Cái chìa khóa đây. Anh đến chỗ thùng rượu mà lấy. Nhớ đừng quên khóa.
Tuy run sợ, nhưng tôi vẫn nhớ ngay đến viên thuyền phó. Ông ta đã bỏ mạng vì cái thìa khóa hầm rượu này.
Khi tên Dick mang rượu đến thì một tia sáng rọi vào thùng chỗ tôi ngồi. Tôi ngẩng lên: trăng đã mọc lấp loáng trên đầu cột buồm sau và chiếu trắng cánh buồm. Ngay lúc ấy, nguời gác chòi kêu to :
- Đất liền kia rồi!